Những bông hoa trên “Cánh đồng thời gian”
“Cánh đồng thời
gian” (NXB Hội Nhà văn, 2015) là tập thơ thứ sáu của nhà thơ Bùi Quang Thanh, Cựu
chiến binh chống Mỹ cứu nước, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam-cây bút đã từng đoạt
giải thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội, Hội nhà văn Việt Nam, Hội VHNT
Hà Tĩnh cùng nhiều giải thưởng văn nghệ địa phương và trung ương…
Đọc tập thơ này, thấy
Bùi Quang Thanh vẫn đi nhiều, gặp nhiều khung cảnh, gặp nhiều số phận để chuyển
vào nhiều tứ thơ đa sắc, đa màu. Anh viết về vùng Thạch Hãn, về các chàng
trai Nam Yết, về hoàng hôn Ải Bắc, về hồ Trại Tiểu, về địa đạo Vĩnh Mốc, về đêm
Cao Bằng, rồi suối Hương Ngàn, mùa màng Mộc Châu, em gái Tiền Giang, mùa hoa trẩu
Phia Đén, về đền đài Angkovat, Angkothom… Vẫn một bút pháp truyền thống lấy
cảm hứng trữ tình làm chủ đạo, tác giả bày tỏ những suy cảm của mình với con
người, với thời cuộc. Bám sát đời sống, tập thơ trong niềm yêu thương quê
hương đồng bào, có cái nét mới là anh bày tỏ niềm thông cảm với những số phận
éo le, những nghịch lý trong đời sống người dân quê, những gợn u hoài nơi quê
kiểng. Đây là hình ảnh người dân trong thời buổi khó khăn, phần do thiên tai
bão lụt, phần bởi nhiều vấn nạn nhân sinh khiến bao người bỏ quê ra đi
tha phương cầu thực:
Hết Tết rồi bà con lại tha phương
Tay xách nách mang, xe Nam, tàu Bắc
Vạt ruộng sau những ngày giá buốt
Nhỏn mạ trắng đồng như tay vẫy run run..
Bài
“Về quê” là một khái quát tâm trạng của những người con xa quê lâu ngày trở về.
Một nỗi buồn miên man. Cái nên thơ đầy kỷ niệm thì đã mất, cái mới sinh thì nhạt
nhẽo rỗng tuếch. Nghèo cứ nghèo, khổ cứ khổ:
Làng tôi! Đò vẫn cắm sào
Mẹ già đầu thấp váy cao ruộng bùn
Một đời gan ruột rưng rưng
Những vần thơ có phần xót
xa trong “Cánh đồng thời gian”, ta không nghĩ tác giả bi quan hay “bôi
đen” cuộc sống đương đại mà ta cảm nhận được cái nhìn tỉnh táo đầy trách
nhiệm trước những mặt tối cuộc đời mà bây giờ nổi rõ không còn chìm khuất đâu
đó. Những vần thơ đầy tính phản biện, giàu cảm xúc nhưng cũng đầy suy tư.
Một mạch
thơ không kém phần sâu sắc trong “Cánh đồng thời gian” là mạch thơ
giàu xúc cảm của tâm hồn người lính, với cảm hứng lan tỏa nhiều
phía trong đời sống thường nhật. Bùi Quang Thanh có nhiều năm trong quân
ngũ, nếp nghĩ, tình cảm người lính được hòa nhập trong nhiều kỷ niệm. Gặp
một anh lính trẻ đồng hương “tuổi mới tròn đôi mươi, đã hai năm giữ đảo”
tác giả vô cùng xúc động: Gặp một nụ cười xứ biển/ Ngẩn ngơ răng bắp
trắng ngần/ Tô điểm biển trời Nam Yết... Kỷ niệm đời lính dù năm tháng
qua mau vẫn không nhạt phai trong ký ức đồng đội. Những gì được mất, cái chính
là quãng đời đẹp nhất, được tô đậm, bồi đắp bằng xương máu tuổi trẻ: Xắn
quần lội về quá khứ/ Lật từng hạt đất mẩu bùn/ Xới
lên niềm đau một thuở/ Máu mình máu bạn mà run? Viết về chiến
tranh về sự hy sinh mất mát, tác giả không lướt qua , không thiên về mặt hào
hùng, cũng như không bi lụy. Một cái nhìn tỉnh táo có nghĩ suy, một tình
cảm đằm thắm đầy trách nhiệm, nhắc nhở những ai hưởng kết quả của bao sự hy
sinh: Pháo hoa đỏ trời. Đèn trôi kín sông/ Thạch Hãn đêm nay
sóng vỗ nghẽn lòng/ Vạn đèn hoa, vạn bàn tay vẫy…
Cảm hứng về lịch sử
cũng là một nội dung khá nổi trội của tập thơ. Điều đáng ghi nhận là tác giả
luôn đặt lịch sử trong mối quan hệ với hôm nay, tự hào về quá khứ phải có
trách nhiệm với hiện tại. Từ nơi an nghỉ của vị Đại tướng Anh Cả của Quân đội
ta, tác giả suy nghĩ: Nghe quốc kêu da diết những năm trường/ Thấy nhà
nát của kiếp dài nô lệ/ Trang lịch sử xót dặm dài sông bể/ Giã mái trường Thầy
giáo hóa Tướng quân… Như thế, những người anh hùng của chúng ta trở
thành anh hùng trong đời thường, nếu không có chiến tranh thì Đại tướng vẫn chỉ
là Thầy giáo, cũng như: Nếu không vì họa giặc Ân/ Chắc chàng Gióng vẫn
nông dân suốt đời… Viết về những anh hùng trong quá khứ cũng như hiện đại,
tác giả luôn nói đến cái gốc rễ bền chặt của họ với nhân dân, từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân-dân tộc mà chiến đấu hy sinh không màng chút danh lợi. Như hình
ảnh dẹp tan giặc rồi Gióng về Trời, để lại Mẹ già cánh võng cô đơn/
Mắt mờ ngó đỉnh Trường Sơn lệ nhoà… và giờ đây nhớ Phù Đổng xưa, xóm làng với
những cô Mận cô Mơ cầu mong Gióng trở về cùng với: Bao tráng sĩ tuổi tràn
sức xuân/ Bỏ mình vì nước vì dân/ Họ tên còn khuyết mộ phần chưa xây... Lịch
sử và đương đại, tập thơ đã kết nối lòng yêu nước của nhân dân trong quá khứ và
hiện tại. Trong thời cuộc đầy biến động của hôm nay, lúc tình nghĩa bạn
thù đầy xáo động, thử thách, một vấn đề rất nhạy cảm, nhưng tác giả đã chọn
cho mình một chỗ đứng đầy thuyết phục để lên tiếng, đó là tấm lòng, là quan điểm
của nhân dân. “Hoàng hôn Ải Bắc” là một bài thơ như thế. Nhắc lại chuyện xưa,
tác giả nêu lên một tư tưởng đầy nhân văn mềm mại nhưng rất rắn rỏi, có ý
nghĩa thức tỉnh:
Hoàng hôn này bên bệ đá nàng Tô
Vẳng tiếng trẻ khóc cha từ bờ kia biên ải
Sương hóa lệ. Cánh dơi chiều chững lại
Mã Yên Sơn vẫn dáng ngựa tung bờm…
“Cánh
đồng thời gian” có một mảng thơ tình khá phong phú. Từ những tình cảm mơ màng
thoáng qua nhân một cơ may gặp gỡ nào đấy trên đường công tác, một dịp thăm viếng
bạn bè cho đến những kỷ niệm sâu sắc được gạn lọc qua thời gian đã để lại
những dòng thơ chân thật mà sâu lắng được diễn tả bằng ngôn ngữ mộc mạc,
chân thành. Vui làm sao: Bữa ấy nàng tiên trong áo tơi/ Nghiêng nghiêng
đuôi mắt ngó anh cười… nhưng cũng buồn da diết: Một mối tình vừa
ruồng rẫy ta đi…/ Không thể ngủ, ta thức cùng với biển… Tình cảm có nhiều
tình huống rất lạ, xáo trộn cả thời gian, trộn lẫn không gian. Những “nàng thơ”
mà tác giả gửi gắm tình cảm thật hồn nhiên, đằm thắm. Từ một cô gái sông quê, một
nàng Ni Na xứ bạn, đến một cô gái vùng cực Nam đất nước, họ đều mang hơi thở
quê kiểng, hài hòa trong phong cảnh cũng như tình người. Một cô gái Mỹ
Tho tác giả biết lần đầu nhờ chuyến thăm bạn Sông Tiền: Đêm men ủ. Trăng
và sông lóng lánh/ Sông Trăng ơi! Tình nghĩa tựa trăng rằm/ Tôi - con thuyền
buông neo về bến đợi/ Rồi mai ngày lại rong ruổi xa xăm.
Ở tập thơ này, Bùi
Quang Thanh tiếp tục sự tìm tòi đổi mới nghiêng nhiều về phía nội dung, đổi mới
vấn đề hơn là ở cách thức. Khuynh hướng độc đáo trong thơ anh là đưa
cách nói bỗ bã nhưng tinh tế của người dân xứ Nghệ gần với vè, giặm và những
câu chuyện trạng diễn ra hàng ngày. Tự nhiên mà trau chuốt, ưa hài hước và có
tính biểu tượng, ngụ ý. Một số bài thơ có tính truyện, có tứ lạ thể hiện bằng một
ngôn ngữ rất dân dã được người đọc nhớ lâu. Bài thơ “Người đàn bà truột mấn” kể
lại câu chuyện có thực thời Xô Viết Nghệ Tĩnh: Chị Trần Thị Hường đấu tranh chống
sự đàn áp của lính Pháp bằng cách hô hào chị em cởi (truột) mấn (váy) xông lên
và bọn lính từ ngơ ngác đến sợ hãi phải bỏ chạy: Những chiếc mấn nu của một
kiếp đói nghèo/ Được phất lên… và tất cả bọn Tây bỏ chạy… Có một cái gì
ngộ nghĩnh hài hước ở đây, nhưng một triết lý ẩn dưới ngôn ngữ bài thơ mà không
phải ai cũng nhận thấy: Tất cả có thể thành vũ khí, hãy vượt lên những mặc cảm
bình thường để đi vào trận đánh!
Bùi Quang
Thanh là một thi sĩ có nghề và… “đa năng”. Ngoài thơ anh còn viết báo và nhiếp ảnh,
từng đạt nhiều giải thưởng địa phương cũng như quốc gia. Tập thơ mới “Cánh đồng
thời gian” là thêm một cột mốc cho sự nghiệp sáng tác của anh, cũng góp phần
làm phong phú thêm nền văn học địa phương và đất nước, bằng “kiểu” đóng góp rất
riêng, rất… Nghệ!.
Hà Quảng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét