Quan niệm nhân sinh trong tác phẩm
Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp
Văn học thể hiện quan niệm
nhân sinh có nghĩa là văn học thể hiện một quan niệm về vũ trụ, xã hội và con
người trên cơ sở một thế giới quan nhất định. “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo,
gieo nhân nào gặp quả ấy” là những quan niệm nhân sinh phổ biến trong tác phẩm
Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp.
1. Khái quát về quan niệm
nhân sinh trong văn học
Văn học, với tư cách ý thức
xã hội, là sự phản ánh của tồn tại xã hội, điều đó không hề có nghĩa rằng văn học
phản ánh, sao chép giản đơn, thụ động hiện thực đời sống. Ngược lại, văn học
luôn chứng tỏ rằng con người dù trong điều kiện chưa hiểu rõ đời sống, với tư
duy hồn nhiên của mình, sáng tác của họ vẫn đưa ra những quan niệm về thế giới
và nhân sinh. Truyện Họ Hồng Bàng giải thích nguồn gốc của người Việt
Nam: sinh ra từ bọc trăm trứng, con người dù sống trên rừng hay dưới biển cũng
đều là anh em một nhà. Các dân tộc khác trên thế giới đều có cách hiểu, cách cắt
nghĩa và giải thích về nguồn gốc dân tộc, về quá trình hình thành vũ trụ, thiên
nhiên thông qua tác phẩm văn học của dân tộc mình.
Văn học thể hiện quan niệm
nhân sinh nghĩa là văn học thể hiện một quan niệm về vũ trụ, xã hội và con người
trên cơ sở một thế giới quan nhất định. Quan niệm nhân sinh được thể hiện khá
phong phú ở mọi nền văn học và ở mọi thời đại văn học. Văn học dân gian của nhiều
nước như: Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á... thường
đưa ra quan niệm: cái ác luôn hãm hại cái thiện nhưng cái thiện sẽ chiến
thắng, cái ác bị trừng trị. Các sáng tác thuộc phạm trù văn học hiện đại, quan
niệm nhân sinh thường không bộc lộ trực tiếp như trong sáng tác dân gian nhưng
người đọc vẫn cảm nhận rõ nét thông qua chi tiết, biến cố, sự kiện hay số phận
nhân vật. Cũng có không ít tác phẩm, nhà văn trực tiếp trình bày quan niệm nhân
sinh qua cách cắt nghĩa, lí giải đời sống của mình. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Mùa
lạc, Nguyễn Khải đã quan niệm về sự sống và cái chết, về hạnh phúc và đau
thương: Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ đau
thương, gian khổ. Ranh giới giữa các phạm trù này nhiều khi rất mong manh
nhưng trong cuộc đời con người cần phải biết vượt qua ranh giới ấy bởi vì ở đời
này không có con đường cùng mà chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải biết
vượt qua ranh giới đó.
Sự phản ánh đời sống trong
văn học bao giờ cũng thông qua trí tưởng tượng, lòng ước mơ, khả năng phán đoán
của con người để nêu lên quan niệm về cuộc sống, về xã hội... Việc thể hiện
quan niệm đã tạo thành tính khuynh hướng, tính tư tưởng của văn học.
Như vậy, quan niệm nhân sinh
trong văn học là vấn đề được các nhà lí luận quan tâm nghiên cứu. Đối với chúng
tôi, vấn đề này cũng được chú ý đặc biệt. Bởi lẽ hiểu rõ quan niệm nhân sinh
trong sáng tác của một nhà văn, chúng ta có thêm chìa khóa để khám phá giá trị
của tác phẩm. Với những lí do đó, chúng tôi đã chọn tìm hiểu vấn đề: Quan niệm
nhân sinh trong truyện ngắn Những ngọn gió Hua Tát của nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp.
2. Quan niệm nhân sinh trong
tác phẩm Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp
2.1. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp
và truyện ngắn Những ngọn gió Hua Tát
Nguyễn Huy Thiệp là một
trong những tác giả xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông thành công ở
nhiều thể loại: kịch, tiểu thuyết, phê bình văn học, tiểu luận,… đặc biệt là
truyện ngắn. Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả
năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Tác
phẩm của ông in dấu ấn khá đậm nét bóng dáng cuộc sống nông
thôn, miền núi và những người lao động bởi lẽ ông đã trải qua nhiều
công việc khác nhau trong chính cuộc sống mưu sinh của mình. Đặc biệt, Tây Bắc
đã khơi nguồn cảm hứng bất tận đối với văn nhân. Mảnh đất và con người nơi đây
đã để lại trong tâm tưởng tác giả những ấn tượng sâu sắc, khó quên: “Chúng tôi
cứ đi trên cái cầu vồng bảy sắc. Bạt ngàn là hoa ban trắng bên đường, màu trắng
đến là khắc khoải nao lòng. Này hoa ban, một nghìn năm sau thì mày có trắng thế
không?” (Những người thợ xẻ). Nhiều tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc của Nguyễn
Huy Thiệp đã tạo nên tiếng vang lớn trên văn đàn, được độc giả, giới lí luận, phê
bình quan tâm đánh giá từ nhiều chiều. Trong quá trình khám phá tác phẩm của
nhà văn này, chúng tôi nhận thấy: sức cuốn hút nằm ở cả hai phương diện nội
dung và hình thức nghệ thuật. Đặc biệt, quan niệm nhân sinh đậm chất dân gian
đã được Nguyễn Huy Thiệp gián tiếp phản ánh trong mỗi tác phẩm đã tạo nên ấn tượng
sâu sắc trong lòng độc giả.
Những ngọn gió Hua Tát là
truyện ngắn có kết cấu khá đặc biệt, ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trên báo Văn
nghệ năm 1989. Tác phẩm gồm mười truyện nhỏ, phản ánh cuộc sống của người dân bản
Hua Tát - một bản nhỏ người Thái đen nằm cách chân đèo Chiềng Đông chừng dặm đường.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm toát lên vẻ đẹp vừa hoang sơ, lãng mạn vừa
đậm màu sắc huyền thoại, được nhà văn giới thiệu ngay từ trang văn mở đầu: “Bản
Hua Tát nằm trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối
thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi
thu đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt… Thung lũng Hua Tát ít nắng. Ở
đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật thì
chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà thôi. Đây là thứ không khí huyền
thoại”. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm cũng mang màu sắc cổ tích, ở đó thời
hiện tại, quá khứ luôn hiện hữu, đan xen, tạo nên sự mê hoặc, hấp dẫn, khiến
người đọc không thể dửng dưng.
Nếu, trong một số truyện ngắn khác của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn đưa ra quan niệm
về những nghịch lí ở đời: Ở hiềnmà không gặp lành (Chảy đi sông ơi); đi tìm cái
đẹp thì gặp cái xấu xa (Con gái thủy thần); đi tìm điều thiện thì gặp điều
ác;những kẻ trí thức có học thì dâm ô, dối trá, bịp bợm (Tướng về hưu)… những
nghịch lí ấy là sự thật về cái phi lý của cuộc sống và con người thì
trong tác phẩm Những ngọn gió Hua Tát, tác giả lại không đi theo cái mạch
chung ấy mà triển khai kết cấu tác phẩm theo môtip của một câu chuyện kể dân
gian. Qua tác phẩm, độc giả nhận thức sâu sắc hơn những quan niệm đã được dân tộc
Việt Nam đúc kết từ ngàn đời nay, đó là: “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, “gieo
nhân nào gặp quả ấy”.
2.2. Những quan niệm
nhân sinh tiêu biểu trong tác phẩm
2.2.1. Quan niệm “ở hiền gặp
lành”
Quan niệm này được thể hiện
khá sinh động qua các truyện: Tiệc xòe vui nhất, Nàng Bua, Nàng Sinh.
Trong truyện Tiệc xòe vui nhất, Hặc - chàng trai mồ côi nghèo, người
thợ săn giỏi nhất bản Hua Tát đã ở hiền nên gặp lành. Sự trung thực, chân thành
của Hặc khiến trái tim nàng E, người phụ nữ xinh đẹp dịu dàng, niềm tự hào của
người dân Hua Tát thổn thức. Câu chuyện của Hặc khiến đất trời phải cảm động,
không chỉ se duyên, kết dây tơ hồng cho đôi trai tài, gái sắc mà còn ban phép
màu nhiệm cứu giúp người dân Hua Tát khỏi hạn hán, thiên tai: “Hãy
cầu Then đi! Một vị bô lão bảo Hặc. Trời đang hạn hán, tất cả mó nước đều đã cạn
khô. Nếu con trung thực, con hãy cầu Then mưa xuống!
Trưa hôm sau, dân bản Hua
Tát lập đàn cầu đảo, không khí oi nồng ngột ngạt. Hặc bước lên đàn, chàng ngước
đôi mắt trang nghiêm nhìn trời. Chàng nói: Con sống trung thực, dầu biết
trung thực bao giờ cũng chịu đau khổ thiệt thòi. Tuy nhiên, nếu lòng trung thực
chuộc được tội lỗi và mang tình yêu đến được cho thế gian này, xin trời mưa xuống... Trời
cao tĩnh lặng. Bỗng nhiên từ đâu đó xa xôi có một cơn gió mơ hồ thổi về. Tất cả
ngọn cây trên rừng xào xạc. Mặt đất bắt đầu xuất hiện những cơn lốc nhỏ. Buổi
chiều, bầu trời đầy mây vần vũ và khi đêm xuống thì mưa như trút. Lần ấy,
người ta đã xoè suốt một tuần trăng để mừng đám cưới của Hặc với con gái trưởng
bản”. Vì hiền lành, trung thực nên Hặc đã chiến thắng tất cả những kẻ quyền
quý, giàu có đến cầu hôn nàng E trước anh để bước lên đài vinh quang. Lòng
trung thực đó là đức tính quý nhất và hiếm có nhất trên thế gian này.
Nàng Bua trong tác phẩm cùng
tên, vốn là một người đàn bà nghèo khó, bị khinh rẻ. Rất nhiều người dân trong
bản Hua Tát đố kị với nàng, coi nàng là “Quỷ dữ”. Nhiều người mẹ dặn con, vợ dặn
chồng phải tránh xa nàng. Nàng Bua xinh đẹp, duyên dáng, thân hình lẳn chắc, bộ
ngực nở nang mềm mại. Nàng lúc nào cũng tươi cười, tràn trề thứ ánh sáng cuốn
hút lòng người. Nàng Bua dám làm, dám chịu và dám phá vỡ những quan niệm truyền
thống về gia đình đã được người dân bản Hua Tát tôn thờ bao đời nay. Dù cuộc đời
trải qua nhiều đau khổ nhưng nàng vẫn vui vẻ và chấp nhận cuộc sống. Bua không
hận thù, căm ghét những người đàn ông phụ bạc nàng và trốn tránh trách nhiệm
làm cha đối với các con nàng. Chính sự độ lượng ấy khiến cho những người đàn
ông kia phải cắn rứt lương tâm. Phải chăng nàng ở hiền nên đã gặp lành? Trong một
lần đi đào củ mài trên rừng, nàng Bua và lũ con đã đào được một cái hũ sành sứt
mẻ, nước da lươn đã xỉn vì năm tháng, trong hũ chứa đầy những thoi vàng, thoi bạc
lấp lánh. Từ một người đàn bà nghèo khó, bị khinh rẻ nàng Bua đã trở thành người
giàu có nhất bản, nhất mường.
Cho dù nàng Bua không được
hưởng trọn vẹn cuộc sống giàu sang, hạnh phúc bên người thợ săn hiền lành, người
duy nhất khiến Bua phải rơi lệ trong đêm hợp cẩn, bởi nàng đã chết trong lần
sinh thứ mười giữa đống mền chăn ấm áp. Nhưng mọi hiềm khích đố kị của người
dân Hua Tát đối với nàng không còn tồn tại, đó cũng là điều lành mà nàng có được
khi trở về với lòng đất mẹ yêu thương. Cuộc đời nàng Bua vẫn chứng minh quan niệm
nhân sinh sâu sắc “ở hiền gặp lành” giống như các câu chuyện kể khác trong tác
phẩm.
Trong truyện Nàng Sinh, số
phận nàng Sinh giống như số phận của nhiều nhân vật trong truyện cổ tích, là
minh chứng sống động cho quan niệm ở hiền thì sẽ gặp lành. Sinh là một thiếu nữ
mồ côi ở bản Hua Tát. Nàng gầy gò, bé nhỏ trông rất đáng thương. Nàng không bao
giờ được ăn miếng ngon, mặc váy áo đẹp. Nàng sống thui thủi như con chim cút.
Chính vì hiền lành, nhân hậu nên nàng đã cảm hóa được cả đất trời. Then đã ban
cho nàng phép màu nhiệm để nàng dễ dàng nhấc bổng hòn đá thần lên tay mà trước
đó biết bao trai tráng, già trẻ trong bản không một ai làm được. Phép màu nhiệm
đã giúp Sinh trở nên xinh đẹp lạ thường, khiến vị Hoàng đế cải trang vi hành
không khỏi xao xuyến, bâng khuâng. Ngài cảm động, vui mừng và đón nàng Sinh về
làm vợ. Từ đó nàng Sinh có một cuộc sống mới, rất sung sướng và hạnh phúc.
2.2.2. Quan niệm “ác giả
ác báo”, “gieo nhân nào gặp quả ấy”
Quan niệm này được phản
ánh trong những truyện: Con thú lớn nhất, Sói trả thù, Nạn dịch.
Trong truyện Con thú lớn
nhất, cái kết cục đau đớn dành cho cả hai vợ chồng lão thợ săn là cái kết
cục đã được dự báo. Cả cuộc đời lão thợ săn đã làm rất nhiều điều ác, biết bao
chim, thú đã chết dưới họng súng đen ngòm của lão, lão lấy cả xác vợ làm mồi
săn thú, cuối cùng phải trả giá bằng cái chết.
Lão thợ săn được ví như là
hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Lão không tha bất
cứ con vật nào trong tầm súng của mình Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, khiến
họ sống lầm lũi, âm thầm trên thế gian trong sự cô đơn, lạc lõng. Hành động bắn
chết một con công đang múa đã cho thấy bản tính ác trong con người lão. Tâm hồn
và trái tim của lão là của loài ác quỷ luôn vô cảm, thờ ơ trước vẻ đẹp của tạo
hóa: “Con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng
cung với đủ sắc màu, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân
khéo léo lượn vòng. Chỉ có tình yêu mới lượn vòng tinh tế như thế. Con
công đang múa – thế mà “Đùng”, khẩu súng trong tay lão già giật con công ngã gục,
cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm,
âm thầm nhặt con công vào cái lếp sau lưng”.
Đúng là gieo nhân nào thì gặp
quả ấy, tội ác của vợ chồng lão thợ săn khiến lòng người oán thán, trời đất phẫn
nộ. Sau ba tuần trăng, họng súng của lão thợ săn không thể phát huy tác dụng bởi
vì cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, trong rừng không có dấu chân một con
thú nào. Lão đã nổ súng bắn chết vợ mình trong một tình huống nhầm lẫn tai hại.
Đó là đỉnh điểm của tội ác mà lão gây ra. Cũng từ đây lão nhận ra rằng: con thú
lớn nhất mà cả đời đi săn lão mơ ước chinh phục không bao giờ xuất hiện nữa bởi
vì chính lão là con thú lớn nhất, con thú đã gieo bao nhiêu mầm ác trong cuộc đời
và con thú ấy phải trả giá bằng một vết đạn tự bắn xuyên qua trán mình.
Câu chuyện Sói trả thù cũng
khiến người đọc xót xa cho thân phận của một đứa trẻ lên mười, là bằng chứng
sinh động cho quan niệm “gieo nhân nào gặp quả ấy”. Người gây nên cái kết cục
nghiệt ngã cho đứa trẻ chính là cha của nó. Bỏ ngoài tai những lời khuyên của
các bô lão trong bản, ông Nhân quyết tâm thực hiện mục đích của mình: rèn luyện
con trai trở thành một thợ săn lão luyện. Vì thế mà mới chỉ năm tuổi San – con
trai ông, đã phải theo ông vào rừng. San có tài săn bắn: tám tuổi săn được gà
lôi, mười tuổi đã bắn được mười phát trúng bảy. Năm mười hai tuổi, cha con San
đã tiêu diệt được được cả bầy sói. Cái chết của sói mẹ, đàn sói con bị ép sống
trong môi trường vốn không thuộc về chúng là những tội ác mà cha con San gây
ra. Mạch truyện vẫn tuân theo quy luật nhân quả, quan niệm nhân sinh ác giả ác
báo và gieo nhân nào gặp quả ấy vẫn đang chi phối ở những sự kiện tiếp theo.
Người đọc không khó để đoán định cái kết của câu chuyện này. Song cái kết của
truyện lại khiến độc giả nhói lòng. San đã chết khi gia đình làm lễ cúng ma cho
cậu năm lên mười ba tuổi, cái tuổi mà theo lời bô lão mới nên bắt đầu vào rừng
săn bắn. San ngã từ trên sàn nhà xuống đất ngay nơi xích con sói - con đẹp nhất
trong đàn được San gỡ ra từ miệng sói mẹ trong lần đi săn cùng cha năm mười hai
tuổi. Vệt máu chảy từ miệng San đã đánh thức bản năng tự vệ và làm sống lại kí ức
về cái chết bi thảm của sói mẹ, khiến sói con trở thành mãnh thú lao vào cắn
xé, cướp đi sự sống của San trước sự bất lực của ông Nhân và cả gia đình. Cái
chết của San là một sự trừng phạt đau đớn dành cho người cha, người đã gây tội
ác chỉ vì ước mơ điên cuồng của mình.
Nói riêng về truyện Nạn
dịch, nếuđánh giá từphạm trù đạo đức thì nhân vật Lù trong truyện không phải
là nhân vật phản diện, làm nhiều điều ác giống như các nhân vật trong truyện Con
thú lớn nhất hay truyện Sói trả thù nhưng tác phẩm vẫn gián tiếp
bàn luận về vấn đề nhân sinh “ác giả, ác báo”. Lù mặc dù rất yêu vợ nhưng anh lại
làm điều “ác” với vợ và con khi không làm tròn trách nhiệm của một người chồng
và một người cha. Anh thờ ơ với vợ con. Anh bỏ quên gia đình để lao vào cờ
bạc, đỏ đen. Mặc dù những tình tiết cuối truyện có phần nào giảm bớt sự ác cảm
của người đọc đối với Lù bởi tình yêu thương muộn màng của anh dành cho người vợ
xấu số. Song, cái kết thúc của câu chuyện này vẫn đi theo mạch kết cấu của những
câu chuyện trước: vì Lù sống vô tâm nên anh đã mất đi người yêu thương nhất của
mình và cũng không thể giữ được mạng sống cho mình.
Như vậy, có thể thấy rằng: nếu giải mã tác phẩm Những ngọn gió Hua Tát theo
kết cấu “vì … nên” từ các sự kiện, biến cố, hành động, việc làm của nhân vật
chính, chúng ta thấy rất rõ mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa các sự kiện
trong từng truyện. Công thức này rất giống với kiểu truyện kể dân gian của người
Việt. Chính vì thế mà người đọc có ấn tượng sâu sắc với tác phẩm.
3.
Kết luận
Mỗi nhà văn có nhữngthế mạnh và quan niệm khác nhau để tạo nên phong cách
riêng. Với Nguyễn Huy Thiệp, cho dù ông viết bất cứ thể loại nào, về vấn đề gì,
cũng đều được thống nhất theo tư tưởng: Khi viết văn tôi luôn tìm lại những
giá trị truyền thống, tôi nghĩ một nhà văn phải bắt đầu từ những kinh nghiệm
nguyên thủy nhất của dân tộc mình. Vì thế, ta không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy
bóng dáng của những truyện kể dân gian được lồng ghép trong mỗi sáng tác của
nhà văn. Tác phẩmNhững ngọn gió Hua Tát đã sử dụng thành công yếu tố hoang
đường, kì ảo và những quan niệm nhân sinh sâu sắc “ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo”, gieo nhân nào gặp quả ấy”. Với tài năng đó, Nguyễn Huy Thiệp đã mang lại
cho sáng tác của mình sức sống lâu bền trong lòng độc giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Đình Sử (chủ biên)
(2003), Giáo trình lí luận văn học, tập 1, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[2] Lê Lưu Oanh, Triết
lí dân gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp - sự mở rộng những kinh nghiệm
nguyên thủy.
[3] Nguyễn Huy Thiệp
(1995), Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà Nội.
Phạm Thị Phương Huyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét