Thứ Ba, 6 tháng 9, 2016

Tiếng chuông ngân

Tiếng chuông ngân 
“... Nơi đó chỉ có những trái tim biết yêu thương và chia sẻ. Nơi không có lòng hận thù và đố kỵ.
Nơi chỉ có tiếng cười vỡ oà yêu thương, những ánh mắt trìu mến, những tấm lòng vị tha.
Một thiên đàng cho những người yêu nhau đến được với nhau.
Rồi một ngày Hải Đường sẽ bay lên, bay xa. Mãi mãi…
Khép lại một số phần nghiệt ngã của đời ngườì.”
Mồng tám Tết
Tiếng chim ríu ra ríu rít trên cây hoa vàng trước hiên nhà. Khoảng sân rộng chạy dài ra đến lề đường phủ một màu vàng rực rỡ, còn tươi thắm. Những cánh hoa nhỏ li ti chồng lên nhau, chỗ dày chỗ mỏng như tấm thảm chòng chành.
Chiếc xe khách đang giảm tốc độ, chậm lại bên kia đường. Nơi có một đoạn ổ gà không sâu nhưng rộng. Đám bụi khói đằng sau xe cuộn lên cao.
Không gian vắng vẻ. Qua rồi những ngày Tết đông vui người qua lại. Nơi vùng quê này nhà cửa thưa thớt. Thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe máy vụt qua.
Ngôi nhà Hải Đường nằm trên đoạn đường này, từ ngã ba vào khoảng năm cây số. Ở đây buồn hiu hắt. Nhắm mắt lại sẽ nghe được tiếng chim hót nơi xa xa, bên trong cánh đồng mía.
Hôm nay mồng tám Tết. Ngồi bó gối nhìn ra xa là cách chị thư giãn hằng ngày .
Không mấy khi Hải Đường được thả hồn theo những chiếc lá rơi. Một vài chiếc lá từ từ, lắc lư, lơi lả rơi xuống rồi lại cuốn ngược gió lên cao.
Chi nhớ lại ngày trước sân nhà Ba Mẹ cũng trồng một cây hoa vàng như vậy. Hoa rụng kín sân. Đó là thời gian chị còn trẻ, bước chân chưa e dè. Rồi trở thành một thiếu nữ duyên dáng xinh đẹp nhưng lại hay buồn.
Hải Đường nhìn theo chiếc lá cuốn ngược chị về quá khứ xa xôi rồi rơi trước thềm nhà.
Nắng chiều nhảy múa trên mặt sân bụi bặm. Ánh nắng cuối Thu xuyên qua tàn cây trứng cá, lắc lư theo cơn gió. Con đường quốc lộ xe cộ rủ nhau gầm rú trên mặt nhựa còn bốc mùi khen khét dầu mỡ. Mùi hăng hắc theo gió tạt vào tận căn nhà mái tôn thấp lè tè của mẹ con chị trú ngụ mấy năm qua. Thời tiết cuối Thu trên cao nguyên không mưa nhưng lạnh. Hơi lạnh cuốn theo sau những chiếc xe hòa lẫn với bụi bay thốc vào mũi một mùi khó chịu. Gió vẫn ràn rạt trên mái tôn, nhấp nhô như cánh buồm của chiếc thuyền mất lái.
Hải Đường đang vật lộn với đống bột nhão nhoẹt, hai tay dính chất bột dẽo mà lát nữa đây nó sẽ trở thành những chiếc bánh thơm ngon được trưng bày ở trước những cổng trường học. Chị đang làm những thứ bánh để đem bỏ mối khắp nơi.
Có tiếng chuông điện thoại đổ vang, liên hồi. Hải Đường ngần ngừ không muốn nghe bởi vì chị ít khi liên lạc với ai và cũng đã từ lâu lắm rồi chẳng còn ai nhớ về chị, gọi cho chị ngoài mấy đứa em thỉnh thoảng gọi hỏi thăm. Gần ba mươi năm sống khép kín, chôn vùi cả trái tim và tâm hồn trong sâu lắng. Đó là lý do Hải Đường không quan tâm đến tiếng chuông điện thoại lắm. Muốn nhấc cái ống nghe lên đối với chị khá công phu. Tay chị đang dính đầy chất bột dẻo.
Tiếng điện thoại reo vang lần nữa nhưng Hải Đường vẫn ngồi làm việc. Rồi tiếng chuông cũng tắt như đã mệt mỏi, chị vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, tiếp tục nhồi đống bột làm bánh.
Rửa tay để chuẩn bị đổ bột vào khuôn đặt lên lò nướng. Chuông điện thoại vang lên lần thứ ba. Hải Đường nghĩ thầm : “Lạ! Ai vậy? Hay là mấy đứa em ở xa có chuyện gì chăng? ” Chị chùi tay vào khăn khô bên cạnh rồi bước đến bên điện thoại. Tiếng chuông lại tắt.
Đến tối, khi chuẩn bị dọn dẹp bếp nướng bánh, tiếng chuông điện thoại vang lần nữa. Hải Đường đứng gần bên nên cầm ống nghe.
– A lô !

-A lô!
– “…Tôi ước ao được nói với kỷ niệm của ngày xưa cũ rằng. Ánh mắt thương yêu và những ý nghĩ trầm mặc đã đưa tôi vào cõi thần tiên. Để tôi lạc bước trên những đường mây rộng thênh thang…”
– Tôi xin lỗi, ai vậy?
Im lặng rồi cúp máy. Hải Đường bần thần suy nghĩ không hiểu ai đã đọc đoạn văn nghe thật quen nhưng chị vẫn không nhớ ra. Chị quên đi với bao nhiêu công việc.
Nhưng thật ra chị không quên. Mấy ngày sau cũng vậy. Có cái gì đó như thúc giục, như mời gọi. Thật lạ lùng! Giọng nói trong điện thoại và đoạn văn ngắn đó nó cứ âm âm, vang mãi trong đầu chị bất cứ lúc nào.
Đoạn văn nghe quen lắm, không biết chị đã đọc nó ở đâu rồi thì phải. Còn giọng nói…
Suốt những ngày sau, không hiểu sao đôi khi ký ức cứ hiện về dần dần, dần dần…
Nó mơ hồ, mỏng manh như màn sương. Thực thực, mơ mơ cái quá khứ một thời của mình.
Nó ám ảnh. Ký ức bắt đầu trở về hành hạ chị.
Mối Tình Đầu
Hải Đường giã từ chuyến tàu tuổi thơ để bước sang một chuyến tàu khác. Chuyến tàu có màu xanh của trời và của ước mơ. Nó chở theo mối tình đầu và một định mệnh khắc nghiệt. (Xem “Chuyến Tàu Tuổi Thơ” cùng tác giả).
Thời mà trái tim bắt đầu đập nhanh hơn. Đó là những rung động tuổi mười lăm khi chị gặp anh. “Cậu bé”, người đã đánh cắp trái tim mình.
Là con gái lớn trong gia đình có chín anh chị em. Hải Đường  thứ hai nhưng lại là chị đầu nên nhiều việc trong nhà phải gánh vác cùng với Mẹ.
Ba chị đặt tên cho quán cà phê thơ mộng trước sân nhà là Hải Đường. Tên chị và tên quán là một. Nó gắn kết để rồi từ nơi đó đẩy đưa thận phận một cô gái hiền dịu, xinh đẹp chịu bao nhiêu nỗi đau. Một số phận dành cho Hải Đường.
Chủ quán, Ba chị là một quân nhân, sỹ quan tâm lý chiến. Ông có tâm hồn nghệ sĩ nên bài trí không gian  tuy nhỏ hẹp nhưng thân thiện với mọi người. Khách đến quán uống cà phê đa phần là sĩ quan  đang làm việc tại các Trung Tâm huấn luyện. Những người có học thức và… đa tình. Họ đến để nghe nhạc và chắc chắn không ít người đến đây để ngắm chị. Cô nữ sinh  mảnh mai nói giọng Huế.
Hải Đuòng chỉ là cô học trò lớp chín, khuôn mặt dễ thương nên có nhiều đôi mắt dõi theo. Cô biết điều đó khi mỗi lần đi học về, bước vô quán để vào trong nhà. Những ánh mắt đã làm cho cô hoảng sợ và lo âu. Hải Đường không biết làm cách nào để trốn tránh nên  cứ cúi mặt bước đi thật nhanh. Và rồi những ai đã nhìn, Hải Đường chẳng hề biết, chẳng cần quan tâm, bởi vì cô lúc đó chỉ là một con bé vô tư, còn nhảy nhót bước chân chim với một tâm hồn nhẹ nhàng chưa vướng bận điều gì. Tâm hồn cô trong veo như hạt sương mai.
Đến trường cũng không thiếu những cái nhìn đáng ngại. Mấy anh học lớp trên hay mấy bạn cùng lứa thỉnh thoảng như vô tình “tặng” cô những ánh măt thân mến, những cái nhìn mà lúc đó cô cho là bất an. Vì vậy Hải Đường luôn khép nép bên bạn gái của mình để mong được che chở, trốn tránh những cái nhìn kỳ lạ đó.
Hải Đường chỉ là con bé chưa kịp lớn. Yếu đuối, nhút nhát và luôn cần được sự che chở của bạn bè. Cô hồn nhiên, vô tư và không vướng bận gì đến mọi thứ chung quanh.
 Mẹ cô là người phụ nữ sống khép kín với mọi người, với ngoài xã hội nhưng trong gia đình bà là người vợ, người Mẹ mạnh mẽ trong mọi quyết định. Có lẽ vùng đất sinh ra bà được trời phú cho người phụ nữ có bản lĩnh như vậy. Mẹ khắt khe với con cái, nhất là với con gái như cô. Mẹ không muốn con gái vướng vào chuyện tình cảm quá sớm nhưng lại lo cho tương lai của con, muốn cho con mình lấy chồng sớm, được một người chồng có một địa vị xã hội và giàu có.
Mùa Thu 1971.
Mùa khai giảng mới bắt đầu, Hải Đường mười lăm tuổi.
Gặp lại bạn bè sau ba tháng hè nghỉ ngơi thật là vui. Mọi người ai cũng cảm thấy mình lớn hơn một tí, Hải Đường cũng vậy. Những ngày đầu vào lớp rộn ràng tiếng cười nói ,Thầy cô và học trò đều vui mừng ngày hội ngộ, bắt đầu một năm học mới.
Nhập học gần nửa tháng, bất ngờ trong một giờ học buổi sáng xuất hiện trước cửa lớp một thư sinh nhỏ nhắn, rụt rè bước vào, hai tay cầm mảnh giấy trình cho cô giáo xin vào lớp. Anh chàng học trò nhập học trễ này nói giọng lai Huế hơi run, dáng vẻ rụt rè, nhìn cô giáo rồi lại nhìn xuống lớp. Cô giáo dạy Vạn Vật là giáo sư hướng dẫn lớp 9/2 chúng tôi lúc đó dẫn “cậu bé” xuống ngồi vào dãy bàn học của đám nữ sinh, ngay sau lưng Hải Đường.
Đó phải chăng là sự sắp đặt của định mệnh. Cậu bé,( Hải Đường hay nghĩ về anh lúc ấy như vậy) im lặng trong suốt buổi học đầu tiên. Mọi người trong lớp không biết cậu này từ đâu đến và vì sao đến sau nửa tháng nhập học. Có lẽ ai cũng tò mò muốn biết, nhưng không ai hỏi cậu ấy một lời nào. Ngày còn đi học bọn con gái  thường xem các bạn trai cùng lớp ”thấp” hơn mình một bậc.  Cậu bé này ngày đầu tiên  bước vào lớp học không dám ngước mắt lên nhìn, đi đứng khép nép trước mặt bọn con gái. Đâu ngờ rằng trong con người ấy là một tâm hồn lãng mạn, nóng bỏng và thích nổi loạn.
Khi yêu nhau, những bức thư Hải Đường gởi cho anh thỉnh thoảng gọi anh là “cậu bé”. Anh không giận mà trái lại còn tỏ ra thích thú khi được gọi như vậy.
Thời gian này Hải Đường  không còn vui vẻ, vô tư như trước nữa. Những suy tư, âu lo và những bất an luôn tra tấn Hải Đường mỗi khi bước chân về nhà. Không phải vì cậu bé mới vào nhập học đó mà là bắt đầu những chuỗi sự kiện xảy ra. Đó là những suy nghĩ, lo lắng mà cô đang đối diện. Mẹ đang có ý định tìm cho cô một người chồng.
Một tối đang ngồi học bài, Hải Đường nghe được câu chuyện giữa Ba và Mẹ. Bà nói: “Mười lăm tuổi rồi, mình cứ việc đồng ý. Vài năm nữa chờ con nó lớn rồi cho họ cưới cũng được. Con gái lớn có nơi như vậy còn mong gì nữa chứ?” Im lặng một lát, tôi nghe Ba trả lời Mẹ: “Không được, con nó còn nhỏ, để cho nó học”. Tai cô như vang một tiếng sét.  Lơ mơ  cũng hiểu được Mẹ muốn Ba nhận lời xin cưới  của một ai đó mà Hải Đường chưa hề biết mặt. Sau này khi Ba và cô trò chuyện với nhau mới biết được đó là một ông thiếu úy hai mươi hai tuổi người SaiGon, đang làm việc tại quân trường Biệt Động Quân, tên Quyết.
Nhờ có Ba yêu thương, che chở mà Hải Đường thoát được sắp đặt đầu tiên của Mẹ. Cô muốn được đi học, được đến trường với bạn bè, được hồn nhiên chạy nhảy, vui đùa. Hải Đường thật sự còn nhỏ bé, chỉ là một đứa trẻ con thôi mà.
Quán cà phê  luôn đông khách, đông nhất là các sĩ quan trẻ của các quân trường nơi thị trấn nóng hừng hực nhỏ bé này. Họ đến đây từ mọi miền. Với Hải Đường lúc đó họ là những người lớn, học thức, chững chạc và từng trải. Dù ngây thơ nhưng cô cũng nhận biết được tình cảm họ dành cho mình. Trong những người này, có không ít người Hải Đường rất ngại chạm mặt vì những lời tán tỉnh “thô bạo”, mất lịch sự.
Vô tình Hải Đường trở thành người lớn một cách bất đắc dĩ. Cô lạnh lùng, thờ ơ với tất cả những lời ong bướm, hờ hững với những ai gởi cho cô lá thư tỏ tình.
Cho đến một ngày cuối mùa đông
Sau đợt thi học kỳ I năm lớp chín, gần một tuần nữa là Tết âm lịch. Hải Đường ngồi học bài cạnh cửa sổ bên trong. Vừa học vừa trông quán giúp chị thu ngân ngồi quầy..
Bà mẹ bảo vậy chứ thật ra  có một ý khác. Muốn cho những ông khách đa tình thoải mái ngắm nhìn Hải Đường, nhờ vậy quán luôn được đông khách.
Vậy là hằng đêm, thay vì lên lầu ngồi học cho yên tĩnh, Hải Đường lại phải xuống “trình diễn” khuôn mặt mình bên khung cửa sổ cho mọi người ngắm nhìn. Chưa được mười sáu tuổi cô đã bị tra tấn bởi những cặp mắt đa tình và còn tệ hơn như vậy nữa.
Giữa nhà và quán có khoảng sân nhỏ. Một tối, bên gốc cây bông giấy cạnh cửa sổ cô ngồi học bài bỗng xuất hiện “cậu bé” đang ngồi uống cà phê cùng người bạn học chung lớp. “Cậu bé” ngồi quay lưng lại phía Hải Đường nhưng giọng nói thì không lẫn vào đâu được.
Lúc xong hết bài học định đứng dậy ra phụ chị ngồi quầy thu tiền của khách. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy “cậu bé” đang đứng đó thật bất ngờ nhìn cô không chớp mắt, tay phải vịn song cửa, tay trái cầm một tấm thiệp chúc Tết, lóng ngóng đưa qua cửa sổ:
– Tặng Hải Đường. Chúc mừng năm mới nhé!
Hải Đường nhìn cậu bé, ngạc nhiên bối rối. Sự xuất hiện của anh thật bất ngờ và tấm thiệp cũng bất ngờ. Cô chưa bao giờ nhận của ai một tấm thiệp chúc Tết nào trừ bạn gái chung lớp. Không hiểu sao Hải Đường lại đưa tay ra đón nhận nó như một phản ứng tự nhiên không sắp đặt. Phải chăng là một định mệnh. Cái định mệnh oan nghiệt ấy đã buộc cô nhìn vào đôi mắt “cậu bé” . Im lặng, không nói lời cám ơn và cũng không hề nhoẻn miệng cười. “Cậu bé” hơi xấu hổ vì cái nhìn lạnh lùng, vẫn cố nở nụ cười mĩm nhưng có phần xa lạ, bất cần. Hải Đường  nhận tấm thiệp và vô tình nhận luôn nụ cười và ánh mắt của “cậu bé”.
Nụ cười của Mona Lisa đã theo suốt cuộc đời cô.
Nụ cười ấy không phải Hải Đường mới gặp lần đầu. Cô đã nhìn thấy nó bao nhiêu lần rồi, trong sân trường, trong lớp học và ngay cả trong quán nhà cô, dưới giàn hoa giấy đỏ. Không hiểu “cậu bé” là ai mà lại có nụ cười lạ lùng như vậy. Hải Đường ghét lắm nụ cười trẻ con ấy. Nó như thách thức, như chiếm đoạt nhưng lại có vẻ thản nhiên. Nó hời hợt nhưng quyến rũ. Không hiểu tại sao tối nay cô lại đưa tay nhận tấm thiệp chúc Tết và nhận cả nụ cười kia. Nó ám ảnh cô suốt mấy ngày sau đó, ngay cả trong giấc ngủ, khiến cho cô mất thăng bằng trong những giờ học. Đến trường cô lại như hớt hãi dõi đôi mắt tìm nụ cười ấy.
Hải Đường mang theo nụ cười của anh trong buồn vui của cuộc đời.  Những lúc đớn đau nhất, cô hay suy nghĩ và nhớ về nó như liều thuốc vực cô đứng dậy, tiếp hơi thở cho cô.
Ngày ấy cô vừa tròn mười lăm tuổi, và anh, mười lăm tuổi tám tháng.
“Cậu bé” không phải là người đầu tiên tặng thiệp cho Hải Đường nhưng là tấm thiệp đầu đời cô nhận từ một người con trai. Bởi một điều đơn giản, dù chỉ là một cô gái mới lớn, học lớp chín thôi nhưng có rất nhiều chàng trai vây quanh, tán tỉnh. Hải Đường không nghĩ là mình đẹp. Cho đến bây giờ cũng vậy. Cô luôn sợ nghĩ mình đẹp. Nó là tai hoạ gắn liền với đời cô.
Xứ sở xa lạ, chật hẹp nóng bức này quá đông người. Đàn ông ở đây đông như lá trong rừng. Cô nghĩ bọn họ chỉ muốn chọc ghẹo cho vui, chọc cho Hải Đường cười vì cô quá nghiêm trang và lạnh lùng. Hải Đường ghét bọn họ. Nhà cô lại có quán cà phê khá đông khách. Đó là điều kiện cho mấy chàng sĩ quan lui tới vừa uống cà phê, nghe nhạc và với nhiều người còn có mục đích khác nữa.
Nhưng không hiểu sao cô đã nhận tấm thiệp chúc tết của “cậu bé”?
Tấm thiệp thật đẹp, nhỏ nhắn và nổi bật một đóa hồng bằng vải nhung. Cánh hoa óng ánh, cành lá xanh mượt trông như thật. Hải Đường chưa bao giờ nhìn thấy ở đâu có tấm thiệp đẹp như vậy.  Bên trong tấm thiệp có hai mảnh giấy pelure xanh và trắng. Mảnh  màu xanh ghi lời chúc. Mảnh giấy màu trắng ghi sáu câu thơ. Lời thơ như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Nó làm cô xao xuyến không phải vì “cậu bé” mà vì chính những câu thơ lạ lùng như mời gọi. Cô không hiểu hay không nhận ra, đó là lời thơ tỏ tình dễ thương của anh.
 Áo em vẫn trắng như lòng trắng
Hay đã bắt đầu thương nhớ chưa
Em đã bắt đầu thương nhớ chưa
Hỡi người con gái tóc mây đùa
Ru ta từng thoáng cơn đời mộng
Mai buổi em về ai đón đưa.
Mùa Hè năm 1972.
Hải Đường nhìn mọi thứ màu sắc hơn. Có gì đó đang dần thay đổi trong tâm hồn thơ dại của cô. Nó đến bất ngờ như cậu bé mỗi đêm ngồi dưới giàn hoa giấy. Hải Đường viết trong Đặc san Thềm Văn năm bảy hai : “Em ước ao được nói với những kỷ niệm thương yêu của ngày xưa cũ rằng. Ánh mắt và ý nghĩ trầm mặc đã đưa em vào cõi thần tiên. Để em lạc lối trên những đường mây rộng thênh thang..”( Lời Cho Kỷ Niệm)
Mùa hè thay đổi cuộc đời cô sau này.
Khách đến quán thường xuyên xuất hiện người đàn ông khoảng hai lăm tuổi. Một trung úy đang làm việc tại TTHL Lam Sơn. Đều đặn và chăm chỉ mỗi đêm, tiếp đó là cả thời gian sau giờ làm việc. Người đàn ông này nói giọng Bình Định rất khó nghe, hay chăm chú nhìn khi Hải Đường xuất hiện trong quán hay lúc đi học về. Đâu phải cô chưa chạm với những ánh mắt như vậy nhưng sao con người này có một cái nhìn rất khác. Nó vừa mãnh liệt lại vừa đáng sợ. Cái nhìn như nuốt chửng lấy con người cô, buộc Hải Đường cảnh giác với cái nhìn đó vì linh tính như có điều gì không hay đang đến.
Một thời gian sau, người đàn ông này bắt đầu lân la vào nhà nói chuyện với Ba Mẹ và cả anh của cô nữa. Số lần đến ngày càng nhiều và thời gian cũng cứ kéo dài thêm ra. Hải Đường có ý đề phòng ông ấy dù chưa rõ được ý đồ của ông ta lắm.
Cậu bé si tình cũng chăm chỉ đến uống cà phê. Ngồi dưới giàn hoa giấy vào khoảng thời gian từ bảy đến tám giờ mỗi đêm sau đó mới chịu về học bài, cũng là lúc Hải Đường ngồi học bên cửa sổ. Cô bắt đầu chú ý đến cậu bạn học cùng lớp kỳ lạ này vì tò mò pha lẫn chút khó chịu. Không như những người khác, cậu bé hay ngồi quay lưng lại phía cô. Đó là điều ngạc nhiên Hải Đường muốn biết. Sau này anh nói vì quá lo sợ cho cô trước những người lính mặc đủ loại quân phục này. Anh ví Hải Đường là con mèo con và anh cũng vậy. Anh đã nhiều lần nhìn cô phải chống chọi đơn độc trước những lời lẽ khiếm nhã của một số người. Đã trông thấy nhiều lần cô phải vụt chạy lên lầu trước hành động suồng sã của một vài người lính có học nhưng thiếu nhân cách. Cậu bé vẫn ngồi đó nhưng chỉ biết im lặng bất lực nhìn.
Rồi mùa hè đến, phải chia tay bạn bè, lớp học . Ba tháng này là khoảng thời gian buồn chán nhất. Hải Đường ngồi quầy ban đêm, còn ban ngày trông giữ mấy đứa em, giúp mẹ pha chế cà phê. Với cô, mỗi tối bốn tiếng đồng hồ là thời gian như bị đày đọa. Trừ những lúc phải tính tiền cho khách, cô luôn cúi đầu đọc sách hay tờ báo nào đó để tránh những cặp mắt nhìn, những lời chọc ghẹo.
Một hôm, Mẹ nói chuyện với Hải Đường:
– Quán cà phê mình bây giờ ngày mỗi đông khách, việc làm ăn đang thuận lợi. Thôi, con nghỉ học để giúp Ba Mẹ, rồi vài năm nữa lấy chồng, Mẹ đã chọn người cho con rồi.
Hải Đường choáng váng. Mọi thứ đổ sập trước mặt. Không nói được lời nào nhưng nước mắt cô tuôn dài. Mẹ! Mẹ nỡ đối xử với con như vậy sao? Hải Đường thảng thốt, nghẹn ngào.
Đêm đó vào phòng nằm úp mặt trong gối cô chỉ biết thổn thức khóc thầm. Từ bên ngoài, Hải Đường nghe tiếng Ba mẹ cãi nhau. Ba nói:
– Con nó còn nhỏ. Bà hãy để cho nó yên thân mà học hành.
– Nó không còn nhỏ nữa. Mười sáu tuổi rồi. Gia đình người ta giàu sang, có địa vị xã hội – Rồi sau này bầy em nó cũng được nhờ.
Tiếng Ba hét lớn rồi sau đó là tiếng ly tách vỡ. Hải Đường sợ hãi đóng kín cửa phòng ngồi khóc. Ba ơi! chỉ có ba yêu thương con gái thôi.
Hải Đường khóc suốt đêm, không hề chợp mắt. Đầu óc quay cuồng với hình ảnh bạn bè, trường lớp. Cô mất hết rồi sao? Chẳng lẽ niềm vui tuổi hồng đã nhường bước cho nỗi buồn tuổi trẻ, như lời anh viết trong bài “ Ngỡ ngàng” cuối năm học lớp 10 Đặc San Thềm Văn Hè 1973. Nửa khuya, Hải Đường bật dậy lấy tập vở ra viết vội nỗi lòng mình.
Bài viết “Cho mùa Hạ Cuối” cũng được đăng trong cuốn Đặc San năm đó.
Ba mẹ giận nhau cả tuần, hai người không nói với nhau một lời nào. Thỉnh thoảng ba đến bên cô an ủi:
– Con gái đừng lo nghĩ nhiều, Ba không để cho con nghỉ học đâu…
Niềm hy vọng được đến trường nhen nhúm. Trái tim bắt đầu vui trở lại nhưng Hải Đường không còn những ý nghĩ ngây ngô như trước nữa. Sau sự cố đó cô trầm lặng hơn, chỉ nói chuyện với Mẹ khi cần thiết.
Nghỉ hè một tuần không thấy “ Nửa Miệng” xuất hiện nơi cái bàn gần gốc cây bông giấy. Đầu óc Hai Đường phải đối phó với chuyện bị mẹ ép nghỉ học lấy chồng nên cô ít quan tâm đến mọi chuyện chung quanh. Dù vậy Hải Đường cũng cảm thấy thiếu thiếu điều gì đó ở góc sân nhà. À! Vậy là “Nửa Miệng” về quê nghỉ hè rồi. Hải Đường không biết năm học đến cậu ấy có còn vào nữa hay không? Và hơi thắc mắc, tại sao về quê lại không từ giã cô một lời nào. Tệ vậy sao?
Mỗi đêm ra ngồi quầy, bao cặp mắt nhìn ngắm nhưng cô vẫn thấy thiếu vắng một cái gì đó, nó mơ hồ, trong suốt, Hải Đường không nhận ra là cái gì. Dưới gốc cây hoa giấy đỏ, chiếc ghế ấy luôn có người ngồi nhưng không phải là dáng ngồi quen thuộc cô hay nhìn thấy. Dáng ngồi quay lưng về phía cô.
Giữa tháng tám năm bảy hai. Trong một tối ngồi quầy, Hải Đường vẫn thường cúi đầu để đọc sách. Bất ngờ cậu bé xuất hiện trước mặt, khẽ nói: “Hải Đường này! Quà quê mình ..”. Thoáng giật mình, cô ngước nhìn. Cũng bất ngờ với chính mình, Hải Đường nhoẻn miệng cười với anh.
– Khỏe chứ!
– Ừ, khỏe. Về quê có chi vui không?
– Vui lắm, gặp lại bạn học cũ, bọn nó dẫn đi suốt ngày… mà nhớ quá nên vào.
Hải Đường nhận gói kẹo gương :
– Cám ơn… nhé!
Cậu bé cười nửa miệng:
– Cám ơn… rứa thôi à? Mà thôi. Được trả lời, vui rồi. Cám ơn lại nhé.
Từ đó hai người gần nhau hơn, bắt đầu trò chuyện qua lại dù chỉ vài câu ngắn ngủi trong mỗi đêm cậu bé đến ngồi bên gốc cây bông giấy.
Thỉnh thoảng Hải Đường có cảm giác như ai đang vân vê mấy sợi tóc của mình từ phía sau. Thỉnh thoảng cô lại hay nghiêng mình nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi có nhánh sầu đông đơm hoa tím rung nhẹ trong gió.
Sự gần gũi thân mật của Hải Đường và anh không qua được cặp mắt của người mẹ. Cô không được ngồi quầy mỗi khi anh đến nữa. Bà nghiêm khắc không cho cô quan hệ với bất cứ người con trai nào, ngoại trừ một người. Người cha quyết liệt đấu tranh để cô được đi học trở lại, đó là niềm mơ ước và hy vọng nhất của cô. Bởi nơi đó cô còn có được bạn bè, còn được anh vô tình vuốt những sợi tóc cố tình để quên trên bàn học sau lưng. Bởi cô biết, chỉ cần quay lưng sẽ có nụ cười. Tuyệt tác của Leonardo Da Vinci.
Rồi năm học mới cũng đến, Hải Đường vui hót như chim sơn ca, líu lo với bạn bè. Điều này khác với tính dịu dàng, nhỏ nhẹ, trầm tư của cô học trò mười sáu tuổi khiến cho bạn bè ngạc nhiên. Nhưng tận trong sâu thẳm cô vẫn lo lắng về một ngày phải xa trường, may mắn điều đó bây giờ chưa xảy ra.
Hải Đường và cậu bé không còn học chung một lớp nữa. Dốt Toán nên cô chọn ban C. Còn anh học ban B. Học riêng hai lớp nhưng hằng ngày họ vẫn gặp nhau. Tình cảm chưa bộc lộ rõ ràng với nhau bằng lời nói nhưng mỗi lúc tan hoc mắt lại vội vã tìm mắt, gởi đi thông điệp dại khờ của tuổi học trò. Chàng trai luôn sôi nổi giữa đám đông, còn Hải Đường kín đáo, rụt rè giữa hai người bạn gái.
Sau này gặp lại nhau giữa tiệc cưới con trai Hải Đường, anh nói đùa với hai bạn của cô rằng ngày ấy anh ghét hai người lắm .
Người đàn ông vẫn xuất hiện thường xuyên bên trong quán cà phê. Có thể bất cứ giờ nào trong ngày. Hải Đường ghét con người này, nhất là cái nhìn đắc thắng, thách thức dành cho cô.
Một lần đang ngồi học bài, ông ấy đến sau lưng Hải Đường tự lúc nào, cúi đầu sát mái tóc cô. Nghe hơi thở nóng ran từ phía sau, Hải Đường giật mình quay lại và bắt gặp cái nhìn nóng bỏng trên khuôn mặt của ông ấy. Cô đứng phắt dậy, hét lên: “Anh làm cái trò gì vậy?”. Người mẹ xuất hiện đúng lúc giải cứu cho ông ta: “Giao! giúp cô cái này tí ”- Ông ta vội vã quay đi, còn tôi không còn tâm trí nào để học nữa.
Người đàn ông cứ luẩn quẩn trong nhà như bóng ma, khủng bố tinh thần khiến Hải Đường bắt đầu cảnh giác mỗi khi ông đến. Nhiều lần ông Giao lân la đến trò chuyện, nhưng cô tuyệt đối không nhìn, không trả lời. Cô ghét con người này và đôi lúc tỏ ra thái độ khó chịu, lẫn chút coi thường cho ông ta biết.
Không thuyết phục được Hải Đường, ông ấy càng ngày càng tìm cách thân mật với Ba Mẹ cô hơn. Mặc dù còn nhỏ nhưng cô cũng nhận ra được con người này đang tìm mọi cách để chiếm đoạt được mình. Ba cô càng ngày càng xuôi theo ý Mẹ. Vì ông là con người mềm mỏng, dù không muốn nhưng người mẹ quá cương quyết và cứng rắn nên cũng đành buông xuôi.
Anh vẫn thường đến uống cà phê mỗi đêm. Vẫn ngồi nơi cái bàn cũ dưới giàn hoa giấy và quay lưng lại phía Hải Đường ngồi học. Hiếm hoi lắm hai người mới nói được với nhau vài câu. Nhìn nhau, gửi cho nhau nụ cười.
Thời gian này Hải Đường nghe mọi người nói anh quen một cô nữ sinh tên Kim Anh học sau cô hai lớp. Cô hỏi điều này có đúng không nhưng chỉ nhận ở anh nụ cười.
Nụ cười đáng ghét! Nụ cười đểu, không còn thánh thiện nữa. Hải Đường giận anh.
Sau lần ấy, Hải Đường không nhìn anh, không nói câu nào dù mỗi đêm cô vẫn trông ngóng anh và anh vẫn đến ngồi bên gốc cây bông giấy.
Một buổi tối, vào khoảng tháng mười hai, sau giờ học bài Hải Đường đứng dậy nhìn ra không thấy anh ngồi đó nữa. Trên cửa sổ có bì thư nhỏ tự gấp, cô cầm lên và mở ra xem. Đó là bức thư đầu tiên anh gởi cho cô: “ Xin lỗi chuyện vừa qua. Không có điều gì xảy ra như Hải Đường nghĩ đâu. Chỉ mong rằng nếu Hải Đường là một loài hoa thì ta xin làm Xuân bốn mùa để hoa nở mãi”. Đọc thư, Hải Đường mỉm cười “ Bày đặt! Bốn mùa hoa nở mãi. Không tin!”
Có phải lá thư ngỏ lời của anh dành cho cô? Hải Đường cố suy nghĩ để tìm hiểu về ý nghĩa của lá thư anh viết. Phất phơ quá! Anh không đến quán trong mấy ngày sau đó. Hải Đường ghét, giận, hờn nhưng vẫn đợi chờ mỗi đêm bên cửa sổ nhìn ra. Hằng ngày đi học hai người vẫn gặp nhau nhưng cô cương quyết nén lòng không nhìn mặt anh lần nào, Hải Đường vẫn còn giận anh.
Một ngày, hai ngày, ba ngày rồi đến đêm thứ năm anh đến, vẫn ngồi quay lưng. Hải Đường xếp sách vở lại sớm hơn và đi ra quầy thu ngân, cố tình đi ngang qua chỗ anh ngồi nhưng giả vờ như không thấy. Anh gọi khẽ:
– Ơ!.. này!.
Cô vẫn không quay lại. Lát sau anh đứng dậy và ra quầy tính tiền để về. Hải Đường ngước mắt lên nhìn anh hỏi nhỏ:
– Đúng vậy không?
– Là sao?
– Chuyện hôm trước nói đó.
– Không đúng! Còn lá thư của họ thì sao? Giận dai rứa?
– Đọc rồi. Có gì đâu mà giận. Có giận ai đâu.
Hải Đường trả lời mà như không quan tâm đến câu hỏi.
– Vậy huề nhé. Mai lên trường gặp nghe. Mà nè! Suy nghĩ gì không?
Cô nhăn mặt khó chịu:
– Không thèm suy nghĩ. Có chi đâu bận tâm.
– Thiệt không?
– Sao lại không?
– Không mà sao lại giận? hơ..
Hải Đường nhìn sâu vào mắt anh:
.- Thôi, về đi. Mẹ gần ra rồi.
– A! Hết giận rồi. Nhớ vui nghe.
Anh nở nụ cười của Mona Lisa rồi quay lưng bước đi không thèm chúc cô ngủ ngon. Hải Đường tức lắm.
Trái tim cô gái mười sáu tuổi đang vui, hạnh phúc với tình yêu đầu đời vừa chớm nở. Hải Đường hay cười và nói chuyện nhiều hơn với bạn bè.
Năm học này cô tham gia văn nghệ của trường với nhiều tiết mục nên chuyện ảnh hưởng rất nhiều đến việc học. Có những buổi không đi học nhưng vẫn phải đến trường để tập dợt. Có lý do để thoát ra khỏi nhà, Hải Đường rất sung sướng vì thấy mình được thật sự tự do, được thoát khỏi đôi mắt theo dõi của Mẹ và nhất là tránh được con người mà cô ghét nhất, ông Giao.
Một hôm nghỉ học buổi chiều, đang quét dọn trong nhà thì ông Giao đến gần:
– Hải Đường cho phép anh ngồi nói chuyện chứ?
Cô nhìn thẳng vào mắt ông, mặt nghiêm nghị không cảm xúc:
– Được! Nhưng hình như anh đã nói hết với Ba Mẹ tôi rồi mà?
Ông Giao ngồi xuống ghế đối diện:
– Em ngồi đi. Em mới là người tôi cần nói.
Im lặng lúc lâu như để lấy can đảm, ông nhẹ nhàng từng tiếng:
– Tôi muốn lấy Hải Đường làm vợ. Em có cho tôi cơ hội không?
Cô trả lời ngay không do dự vì cũng đã đoán được câu hỏi của ông ta:
– Tôi chưa hề nghĩ đến chuyện lấy chồng.Tôi còn nhỏ và đang còn đi học. Anh nên suy nghĩ lại và để cho tôi yên lòng học hành.
Ông đứng lên nhìn cô rồi nói:
– Thôi được, anh sẽ chờ. Anh tin rằng một ngày nào đó em sẽ đồng ý.
Nói xong ông bước nhanh ra cửa, nổ máy xe và đi, không chào từ giã mẹ như thường lệ. Ông ấy đi rồi, ngực Hải Đường như khó thở, mặt cô tím tái vì giận con người lì lợm đó. Câu nói của ông ấy nhắc cho cô biết một điều là ông ta sẽ không bỏ cuộc. Ông ta sẽ dùng mọi thủ đoạn để chiếm cho bằng được Hải Đường.
Trời ơi! Cô chỉ là con bé mười sáu tuổi.
Đúng như suy nghĩ của Hải Đường. Hôm sau ông quay lại, không thèm chào hỏi gì cô. Mặc dù rất ghét nhưng điều đó cũng làm cho cô khó chịu. Hải Đường chuẩn bị đối đầu với con người đa mưu này. Đồng minh của ông là người mẹ và anh trai cô.
Người mẹ cũng dịu dàng với cô hơn, không cáu gắt như trước nữa. Tiếng “con” thay vì “mi” như thường dùng. Một tối, sau khi đóng quán, Mẹ vào phòng Hải Đường:
– Mấy hôm nay thấy con đi học cả ngày, Mẹ lo lắm.
Cô trả lời Mẹ:
– Dạ, con đi học rồi tập văn nghệ nữa, Ba biết mà Mẹ.
– Ba không nói cho Mẹ biết nên Mẹ nghĩ là con đi chơi. Thôi được, nhưng mà xong phải lo về nghe con.
– Dạ.
Mẹ cầm tay cô:
– Con nè! Mẹ thấy thằng Giao. nó cũng hiền, nhà nó giàu có, học thức.
Hải Đường im lặng:
– Nó xin mẹ rồi. Ba Mẹ đã đồng ý. Qua năm sau gia đình nó sẽ đến xin hỏi. Ráng nghe lời Mẹ, Mẹ chỉ muốn con được sung sướng. Hơn nữa, nó đã mua nhà riêng cho con ở Sài Gòn, sau này các em con cũng có chỗ để tá túc học hành.
Nước mắt Hải Đường lại chảy dài. Không! Cô không thể lấy ông ta. Cô ghét ông ta. Hải Đường sẽ đấu tranh đến cùng. Nhưng mà ai sẽ bảo vệ, giúp đỡ cô đây? Ba ư? Người đã bao lần bất lực nhìn cô khóc thầm thì làm sao có thể giúp được chứ?
Còn anh, anh chỉ là một cậu bé.
Người mẹ không nói gì nữa và đi ra cửa. Lời của bà như đóng đinh vào trái tim cô. Khóc suốt đêm, sáng hôm sau Hải Đường quyết định nghỉ buổi tập văn nghệ vì không thể nào nhấc người ra khỏi phòng được. Trưa cô ăn vội qua loa rồi ôm cặp đi học. Người cha nhìn theo. Cô nghe tiếng thở dài.
Chiều hôm đó đến trường Hải Đường trao vội vàng cho anh tập Tuổi Ngọc. Bên trong cuốn sách có mảnh giấy cô gởi anh: “Tối lên quán sớm nha. Đang có chuyện buồn.”
Anh đến sớm như cô dặn, bước thẳng vào quán, đến cửa sổ đặt lá thư xuống trên thành cửa sổ. Cô đang ngồi học bài, mỉm cười rồi len lén với lấy bức thư. Anh không quay lưng lại như thường lệ mà ngồi nhìn cô mở bức thư ra đọc: “Có chi buồn rứa? Họ chưa ăn chi hết, sốt ruột lắm” Hải Đường lấy phấn viết mấy chữ vào tấm bảng nhỏ đưa lên cho anh nhìn thấy: “ Mẹ bắt lấy chồng, buồn lắm”. Anh đến quầy xin vỏ gói thuốc, tháo tờ giấy bạc bên trong, hý hoáy viết rồi vo lại ném qua cửa sổ cho cô “Viết kể rõ mai gởi đọc nghe. Nhớ đừng buồn!”.
Anh xoay người, quay lưng lại, quán bây giờ đông khách nên cô không bút đàm với anh được nữa. Hải Đường ngạc nhiên khi thấy anh phả khói thuốc lá về phía trước mặt, điều mà cô chưa gặp bao giờ.
Ba mươi bốn năm, sau anh nói với Hải Đường đó là điếu thuốc đầu tiên trong đời anh hút.
Bốn ngày nữa là Tết. Năm nào cũng vậy, Tết ở đây rất buồn. Không như ngày còn bé gia đình ở Huế, những ngày sắp Tết đám trẻ như luôn cảm thấy niềm vui rạo rực, niềm hạnh phúc vô biên; không khí trong gia đình lúc nào cũng rộn ràng ấm cúng.
Tối hai bảy Tết anh đến quán, không ngại ngùng, sợ sệt bước thẳng vào nhà.. Hải Đường đang ngồi nói chuyện với Ba Mẹ, ánh mắt cô ngạc nhiên lẫn chút lo lắng. Anh gật đầu chào Ba Mẹ cô:
– Cháu chào hai bác.
Anh xoay về hướng cô chìa tấm thiệp chúc tết và nói:
– Gởi Hải Đường tấm thiệp chúc Tết.
Cô lí nhí:
– Cám ơn…
Hải Đường cũng có tấm thiệp chúc Tết định chờ anh lên để gởi tặng. Nhưng trong tình thế như vậy cô không thể vào lấy đem ra dưới con mắt giám sát của Mẹ, nên chỉ biết nhìn anh như một lời tạ tội mà thôi. Anh không nán lại để uống cà phê như mọi hôm mà đi về ngay.
Tối vào phòng ngủ Hải Đường mới mở tấm thiệp của anh ra. Cũng một tấm thiệp có đóa hồng nhung đỏ thắm rất đẹp, lớn hơn tấm thiệp năm ngoái. Bên trong kẹp hai mảnh giấy hồng và trắng. Bốn câu thơ ghi trên mẫu giấy trắng và lời chúc tết ghi ở giấy hồng:
Yêu em tôi hái trăng mơ
Lấy mây chắp nối làm thơ cho tình
Lấy sao làm chiếc độc bình
Cắm hoa hàm tiếu cho mình gần nhau.
Lá thư được đặt ở trong tấm thiệp, khi đó Hải Đường vẫn chưa nhìn thấy cho đến lúc đặt lại tấm thiệp vào lại bì. Anh viết: “Sớm mai họ về. Nhớ lắm, sẽ cố gắng vô sớm. Hãy đợi nhé!”
Ông Giao không về quê ăn Tết như Hải Đường mong đợi . Quanh quẩn suốt thời gian trước và những ngày Tết trong nhà cô. Trừ những lúc phải vào đơn vị ứng trực, còn không lúc nào vắng mặt khiến Hải Đường vô cùng khó chịu .Vì ngày Tết nên không thể tỏ thái độ khó chịu ra mặt được.
Hải Đường thường so sánh giữa anh và ông Giao, một trẻ con và một người lớn. Ông Giao có dáng người thấp đậm, dáng đi cứng cáp, cách nói mạnh mẽ, dứt khoát, môi luôn mím lại khi sắp diễn đạt một điều gì. Mẫu người như ông xứng đáng đại diện cho giới quân đội. Một sĩ quan nghiêm khắc, chững chạc. Anh, một thư sinh luôn có một nụ cười mỉm trên môi. Khi cười anh diễn đạt tình cảm bằng cả khuôn mặt. Từ mắt, môi cho đến hai gò má, hai cái lúm đồng tiền làm anh tươi hơn, trông như một đứa trẻ. Một cậu bé có tâm hồn của người lớn. Một tâm hồn lãng mạn mà anh đã biểu lộ qua cái nhìn, cách nói chuyện với bạn bè, cách đi đứng và cả những lúc đăm chiêu.
Người Hải Đường không yêu thương muốn cưỡng đoạt làm vợ bằng mọi cách. Người cô mong đợi lại không dám nói lời yêu thương.
Tết rồi cũng qua, Hải Đường trở lại với trường lớp. Không được vui như trước nữa nhưng ngày đầu năm cô cố gắng hòa đồng với bạn bè, hỏi thăm mọi người ăn Tết có vui không? Điều cô mong đợi bây giờ là được trông thấy anh nhưng bóng dáng anh vẫn không thấy đâu? Hải Đường hay lo sợ vẩn vơ vì không biết anh trở về bằng phương tiện gì, có đi đến nơi về đến chốn hay có điều gì xảy ra với anh . Lòng cô như lửa đốt. Sân trường vắng vẻ hơn. Mọi cảnh vật chung quanh như bất động.
Rồi ngày vui cũng đến. Anh trở vào sau Tết một tuần, trông bơ phờ, hốc hác. Tối đó anh đến quán muộn hơn thường ngày. Lúng túng tìm chỗ ngồi vì cái bàn quen thuộc đã có người khác chiếm hữu mất rồi. Người đàn ông này không quay lưng lại như anh.
Hai cái ghế kéo lại chỗ góc sân gần lối ra vào, một cái làm bàn, anh ngồi dựa vào tường nhìn Hải Đường đang học bài. Cô đã nhìn thấy anh vào nhưng cố tình làm ngơ, vẫn cúi đầu nhưng trái tim đập liên hồi.
Anh đốt thuốc. Giả như không thấy nhưng Hải Đường biết anh đang chăm chú nhìn . Không chịu nổi cái nhìn của anh, lát sau cô quay lại mỉm cười. Anh cười đáp lại và nháy mắt chỉ người đàn ông đang ngồi nơi chiếc bàn dưới giàn bông giấy. Hải Đường lắc đầu. (sau này người mà anh muốn hỏi là ai. Đó chính là anh Thịnh, sẽ nói rõ hơn ở phần sau).
Hải Đường xếp sách vở, đứng dậy, tay cầm cuốn sách kẹp lá thư gởi anh lúc đi ra quầy, cô viết: “Họ chờ, đi lâu dữ rứa!” Lát sau anh bước đến quầy, nhẹ nhàng đẩy mảnh giấy viết vội : “Không còn giận nữa chứ?”. Hải Đường không trả lời mà chỉ lắc đầu khi anh quay về ngồi lại chỗ cũ. Suốt buổi tối đó cả hai chỉ biết mỉm cười với nhau. Ánh mắt họ đã nói với nhau những lời thương nhớ.
Sau Tết nửa tháng ông Giao về thăm nhà. Ngày trở lại ông tặng Hải Đường đủ thứ quà. Từ sách vở, bút viết đến chiếc kẹp tóc… Cô không thể không nhận nhưng chưa một lần đụng đến chúng. Thái độ bất cần của cô, Mẹ và ông Giao đều nhận ra nhưng không nói gì.. Hải Đường càng tỏ ra lạnh nhạt, ông Giao càng đeo đuổi quyết liệt hơn, càng cố lấy cảm tình với mẹ nhiều hơn. Điều đó làm cho cô khó chịu và cảm thấy áp lực vô cùng nặng nề.
Một buổi tối thứ bảy Hải Đường không phải học bài, cô xuống phụ mẹ pha cà phê cho khách. Anh đến quán sớm hơn cùng với hai người bạn. Nhìn ra cửa, cô mỉm cười, anh cũng vẫy tay, cười với cô và nói gì đó với hai người bạn. Cặm cụi làm việc nhưng trong lòng rất vui vì được nhìn thấy anh nên không để ý đến Mẹ đã bước ra quán. Sau đó anh theo Mẹ vào trong nhà, ngồi xuống hai chiếc ghế đối diện. Linh tính có điều gì không hay đang xảy ra, Hải Đường đứng gần cửa lên xuống lắng nghe mẹ nói gì với anh. Mẹ nói rất nhỏ, cố gắng lắm cũng chỉ nghe được vài từ.. Cô biết anh không cần nghe, không muốn nghe gì hết vì những điều bà nói anh biết trước rồi. Bà nói rất nhiều. Khoảng mười phút sau cô nghe anh xin phép để ra ngoài với bạn. Bước chân anh nặng nề đi qua khoảng sân trống, đầu anh cúi xuống và chắc là anh đang giận. Hải Đường nghĩ vậy.
Hai ngày sau đi học lại Hải Đường không nhìn thấy ánh mắt và nụ cười của anh. Nhìn dáng anh đi buồn bã, trong lòng cô xót xa lắm nhưng không thể nào đến hỏi chuyện gì đã xảy ra giữa mẹ và anh.
Đó là thời gian bước vào kỳ thi học kỳ 2 năm lớp 10. Hải Đường không còn tâm trí đâu ôn bài vở để thi. Không gặp nhau suốt tuần, cô nhớ và thương anh lắm nhưng không có cách nào liên lạc được với anh. Mười ngày sau anh đến quán, ngồi hút thuốc liên tục và không hề nhìn cô lần nào. Lúc học xong, Hải Đường bước ra quầy, anh đến tính tiền, trao vội cho cô mảnh giấy. Anh viết: ” Phải quay về nhà thôi. Mình gặp nhau một lần nhé Được không?”
Trời ơi! Tình yêu của Hải Đường chỉ có vậy thôi sao? Cô buồn, nước mắt chảy dài suốt đêm. Hải Đường thương cho tình yêu vừa chín, thương anh vô cùng. Anh đến với cô bằng con người khác không giống như cái bề ngoài của mình,sôi nổi và nghịch ngợm. Anh đến bên cô bằng trái tim nồng cháy, tâm hồn lãng mạn nhưng với nụ cười buồn.
Được không?! Một câu hỏi khiến tim cô tan nát. Một cuộc gặp chẳng để làm gì. Chẳng cứu vãn được gì nhưng là cần thiết. Thật ra điều này là không dễ đối với Hải Đường trong lúc này. Được không? Một câu hỏi xé nát tim cô.
Hải Đường biết anh đã vượt qua bao nhiêu khó khăn để được có tình yêu này. Anh đã từ chối lời gọi về của gia đình mà ở lại đây cho đến lúc này cũng vì cô.
Được không?
Một ý nghĩ táo bạo và bất ngờ trong cô. Trốn học và một ngày với riêng anh.
Hôm sau đến trường Hải Đường trao vội mảnh giấy cho anh lúc giờ ra chơi trên hành lang của lớp: “Hải Đường cần nói chuyện với anh. Mai mình gặp nhau buổi sáng nhé.”
Hôm sau cả hai vẫn đi học bình thường dù không có giờ học buổi sáng. Hải Đường nói dối với Mẹ trưa ở lại để chiều tiếp tục thi học kỳ.
Đây là lần đầu tiên Hải Đường liều lĩnh bước chân ra khỏi nhà mà Ba Mẹ không biết cô đi đâu. Con bé mười sáu tuổi như cô dám làm một chuyện động trời như vậy. Trốn học một ngày để đi theo tiếng gọi của tình yêu. Với người lớn ngày đó quả là một chuyện không thể chấp nhận được.
Hai người đi bên nhau như bạn bè. Bước chân đưa đẩy họ về phía biển lúc này vắng hoe, nắng lên chói chang. Anh cầm tay cô dẫn đến bên gốc dừa sát biển và ngồi xuống.
Hơn mười ngày rồi họ chưa được nói với nhau một lời nào, đến lúc đã ngồi bên nhau rất lâu rồi vẫn còn ngại ngùng. Cả hai quên hết những lo lắng, tim vẫn đập nhưng nhịp đập bây giờ có lẽ khác hơn, vội vã, rộn ràng, không thứ tự, nhịp sau như chồng lên nhịp trước. Anh nhẹ nhàng cầm tay Hải Đường. Bàn tay cô run run:
– Mình liều quá anh! Lỡ ai bắt gặp thì chỉ có chết.
Anh nắm chặt hơn:
– Ừ, liều thật nhưng anh không sợ. Chỉ lo cho em thôi. Chuyện mình buồn quá.
– Anh định quay về thật sao?
– Có lẽ vậy, anh xin lỗi đã làm cho em buồn. Đã hứa với Mẹ rồi, sẽ không đến tìm nữa. Nhưng đêm khuya không ngủ được, không học hành được chi hết.
– Vậy còn chuyện mình…?
Anh thở dài, im lặng khá lâu rồi thầm thì:
-Đây chỉ là nơi anh đến trọ, đến thì có ngày phải đi. Anh ghét vùng đất này nhưng chân lỡ vướng sợi tóc em rồi. Lẽ ra anh đã trở về từ năm học vừa qua nhưng em đã giữ anh lại..
– Anh gỡ sợi tóc ra rồi hay sao mà lại muốn về?
– Không! là mẹ em đã buộc anh gỡ nó ra.
– …
– Thi học kỳ xong anh sẽ quay về với gia đình, trường cũ. Đành phải vậy.
Hải Đường hỏi anh:
– Mẹ đã nói gì với anh hôm đó?
Anh hơi nhăn mặt, chậm rãi từng tiếng một:
– Mẹ nói nhiều lắm. Nói rằng nếu anh thương em thì hãy rời xa để cho em hạnh phúc, tương lai em tươi sáng hơn. Mẹ nói: “Cháu còn nhỏ lắm. Hải Đường thì đã đến tuổi lấy chồng được rồi. Cháu chỉ là cậu học trò mười sáu, mười bảy tuổi làm sao có thể…”
– …
– Mẹ em nói đúng. Anh chỉ là thằng trẻ con. Mẹ còn nói em đã đồng ý lấy ông Giao nhưng chưa tiện cho anh biết thôi. Đúng vậy không?
Hải Đường ngước mắt nhìn anh:
– Không đúng! Em không nói điều đó và cũng không bao giờ có ý định đó. Em ghét ông ấy. Em đang tìm cách trì hoãn để rồi trả lời không đồng ý. Nhất định em sẽ làm được.
– Không làm được đâu. Em không đủ sức. Mình còn nhỏ, không lường trước điều gì sẽ xảy ra. Anh chưa đủ lớn để bảo vệ được em. Hơn nữa anh ở xa lắm, đang sống nhờ Bà cô nơi đây thì làm sao cùng em chống chọi lại được. Ông ấy dù sao cũng là một sĩ quan, một người học thức. Ông ấy có mọi thứ, còn anh chỉ là thằng trẻ con..
– Em sẽ tìm cách trì hoãn đám hỏi cho đến khi thi xong tú tài rồi đi tìm việc làm đâu đó…
Anh ném nắm cát ra xa, quay lại nhìn xoáy vào mắt Hải Đường. Đôi mắt anh lộ vẻ giận dữ, tuyệt vọng:
– Em có biết Mẹ nói gì với anh không?
Hải Đường thoáng sững sờ trước cơn giận dữ bất ngờ của anh:
– Mẹ đã nói gì?
Anh lắc đầu không trả lời câu hỏi của tôi.
Mãi mãi cho đến tận bây giờ, khi hai người đã gặp lại nhau, hoặc khi gọi điện thoại thăm nhau, Hải Đường có hỏi lại anh điều bí mật ấy anh cũng chỉ lắc đầu, không nói ra. Điều bí mật của câu nói vẫn chìm sâu trong tâm hồn anh.
– Anh muốn mình xa nhau phải không?
– Không muốn! Không bao giờ anh muốn điều ấy. Anh có thể ở đây đợi em một hai năm nữa. Nhưng không thể được. Không bao giờ được. Em không hiểu.
– Vậy sao anh lại có ý định quay về?
Anh lay nhẹ vai cô:
– Anh không muốn về nhưng phải làm vậy.Anh chưa phải là người lớn như họ nhưng có lòng tự trọng và không muốn em đau khổ vì anh.

Hải Đường không gặng hỏi anh nữa. Cô kể cho anh nghe mọi chuyện xảy ra, cho anh biết cô phải chịu đựng và chống chọi lại như thế nào. Anh im lặng lắng nghe cho đến khi Hải Đường dừng lại.
Rồi bất ngờ anh đưa hai tay ôm đầu cô, xoay lại:
– Cách đây mấy hôm anh đến quán sớm và đã nhìn thấy em nhận gói quà của một ông sĩ quan, phải không? Ông ấy đã đến chiếm chiếc ghế của anh dưới cây bông giấy.
Anh hỏi thật đột ngột khiến Hải Đường bối rối. Cô đã cố tình giấu anh chuyện này nên trả lời:
– Ông Thịnh nhờ em giữ bức tranh, chỉ có vậy thôi. Em chưa mở nó ra.
Anh nhìn thẳng vào mắt cô:
– Tại sao em nhận? Bức tranh vẽ gì, em biết không?
Hải Đường hơi run vì câu hỏi tiếp theo của anh:
– Họ gởi thì mình nhận… có sao đâu anh?
Anh rút tay về ngồi bó gối, nét mặt nhìn xa xăm:
– Anh hỏi em lần nữa. Bức tranh ấy vẽ cái gì? Có phải một cô thiếu nữ xinh đẹp ngồi dưới ánh đèn màu không?
Hải Đường giật mình. Làm sao anh có thể biết rõ đến như vây. Cô nói:
-Nhưng sao anh lại nghĩ đó là chân dung của em?
Anh không trả lời câu hỏi này của cô. Lúc đó Hải Đường hơi hoảng vì sao anh có thể biết bức tranh ấy của ông trung uý Thịnh vẽ nàng thiếu nữ ngồi bên ánh đèn là cô. Đó là sự thật. Hải Đường đã nhận bức tranh ấy vì thấy nó đẹp và có hồn. Hơn nữa, nhân vật trong bức tranh là mình.
Hải Đường mong được hạnh phúc bên anh hôm đó. Mong được anh vỗ về, an ủi. Nhưng không phải như vậy. Hai người tranh cãi nhau rất nhiều.
Anh giận dữ đứng dậy và cô cũng vậy. Sau này mỗi lần nghĩ lại Hải Đường thấy hối hận nhưng lại bật cười chua chát rằng sao hồi đó cả hai quá trẻ con đến dại khờ như vậy. Ngu ngơ đến mức đánh mất cả mối tình đầu của mình.
Cả hai không ai nhường nhịn ai. Không ai chịu lên tiếng xin lỗi. Đến gần trường anh buồn bã nhìn cô bước qua cánh cổng sắt, còn anh vào quán nước bên kia đường.
Tan học, Hải Đường vội vã bước ra khỏi cổng trường dáo dác tìm anh. Tần ngần ngay giữa đám bạn khiến mọi người ngạc nhiên về thái độ của cô. Nhìn khắp chung quanh vẫn không thấy bóng dáng anh đâu.
Bỗng từ phía dưới ngược lên, chiếc xe jeep quân đội chở một ông sĩ quan trờ tới bên cạnh. Hải Đường hốt hoảng tránh dạt vào lề đường. Người ngồi trên xe là một ông khách đeo đuổi cô bấy lâu, ông ta làm việc ở quân trường Pháo binh. Hải Đường đã nhiều lần tỏ thái độ lạnh nhạt, khó chịu nhưng ông ấy vẫn cố tình như không nhận biết.
.Bước xuống xe đứng cạnh Hải Đường ông ta lên tiếng:
– Hải Đường ! Mời em lên xe tôi đưa về.
Hải Đường không trả lời. Miệng cô mim chặt. Cơn giận dữ xen lẫn lo lắng khiến Hải Đường không thể bình tĩnh được nữa:
– Tôi không về. Ông đi đi.
Hải Đường vội vã băng qua đường dưới ánh mắt ngạc nhiên của mọi người. Đoạn đường về nhà sao mà dài lê thê. Tâm trạng cô thật nặng nề nhìn xuống lòng đường. Con đường nhựa cứ lướt qua, lướt qua đắng sau xe, mang theo nỗi buồn, nỗi bực dọc trải dài .
Tối đó anh lên quán rất muộn. Không ngồi ở cái bàn quen thuộc nữa mà chọn một bàn khác, sát bên đường luồng vào nhà. Hải Đường đã ra ngồi quầy, anh xoay mặt về hướng cô, hút thuốc liên tục. Khuôn mặt anh bất động, lạnh băng, vô hồn. Linh tính như có điều gì không hay đang xảy ra. Một linh cảm như sẽ mất anh mãi mãi bùng lên trong cô. Nước mắt Hải Đường chảy dài xuống má. Cô không còn sợ sệt gì nữa. Ném cái nhìn giận dữ vào ông Giao đang ngồi bên chiếc bàn giữa phòng khách, vội vào nhà tìm tấm hình vừa mới chụp cách đây hai tháng, gói cẩn thận và đi đến bên anh, nhẹ nhàng đặt trên bàn:
– Anh sao vậy? Không thể nhìn anh như thế được. Anh về nghỉ, sáng mai đi học mình gặp nhau nghe.
Anh vẫn không ngước nhìn. Đầu gục xuống, khuôn mặt vẫn lạnh băng.
– Anh nhớ cất cẩn thận tấm hình của em.
Khi không còn người khách nào nữa anh mới đứng dậy bước ra khỏi quán sau khi nhét tấm hình cô đặt trước mặt vào túi áo.
Đêm sau và đêm sau nữa cũng vậy, anh đến uống cà phê và hút thuốc liên tục. Không mỉm cười với cô. Khuôn mặt như tượng đá.
Lần cuối cùng Hải Đường nhìn thấy anh ở quán lúc đó đêm đã khuya lắm rồi. Ông Giao vẫn còn ngồi nơi chiếc ghế trong phòng khách. Anh nặng nề đứng dậy ra về, không nhìn cô. Dáng anh liêu xiêu bước ra khỏi cửa, đưa hai tay lên vuốt mặt. Hình như anh đang nén lại những giọt nước mắt. Bóng anh khuất hẳn về phía trái.
Anh vĩnh viễn không bước vào quán cà phê Hải Đường một lần nào nữa.
Ba đêm liền anh đến ngồi bên chiếc bàn xa lạ, hút thuốc liên tục và không đến quầy trả tiền như mọi lần.
Đã thi xong học kỳ 2, xem như đã xong một năm học, nhưng Hải Đường cũng phải đến trường bình thường như mọi ngày. Cô vào lớp nhưng tâm trí để nơi anh đang ngồi cách lớp học của cô hai phòng. Có lẽ anh cũng đang gục đầu trên bàn. cô nghĩ vậy. Hải Đường hình dung nụ cười của anh, đôi mắt hay nhìn nghiêng đáng ghét. Cô nhớ dáng anh ngồi trước ly cà phê, hút thuốc liên tục. Nhớ dáng anh bước ra khỏi quán đêm trước, nặng nề cúi đầu, hai tay ôm mặt.
Bỗng nhiên Hải Đường hoảng sợ rồi bật khóc, úp mặt xuống bàn học.
Có tiếng bước chân vội vã bên ngoài hành lang. Nhanh dần, nhanh dần về phía phòng học của Hải Đường. Như một linh tính bất an, cô ngước mặt lên nhìn ra ngoài, nơi tiếng bước chân đến gần.
Anh hiện ra, lướt đi bên ngoài khung cửa. Anh bước nhanh nhưng cũng cố quay đầu nhìn vào. Hải Đường chạm đôi mắt anh trong mắt mình. Nét mặt anh buồn lắm. Khi anh lướt qua khỏi phòng học, cô hốt hoảng đứng dậy, bước ra ngoài hành lang nhìn theo anh. Anh đến cuối hành lang, xuống cầu thang. Cô chồm người qua lan can nhìn xuống sân trường.
Bóng anh mờ mờ dưới tán cây phượng rủ lá. Màu hoa phượng choàng lên người anh một màu đỏ rực. Anh mất dần, mất dần dưới sân trường rồi tan biến sau hai cánh cổng sắt.
Lần cuối cùng Hải Đường nhìn thấy anh. Cô mất anh từ đó!
Anh ra đi sau ba đêm liên tục đến ngồi trên chiếc bàn xa lạ sát đường luồng vào nhà trong.
Uống ba ly cà phê và hút không biết bao nhiêu điếu thuốc.
Anh nợ Hải Đường ba ly cà phê. Còn cô nợ anh nửa cuộc đời mình.
Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày không thấy anh đi học. Không còn thấy bóng anh ngồi dưới giàn hoa giấy đỏ. Không tìm thấy ánh mắt và nụ cười của anh khiến Hải Đường hoang mang. Về nhà, không nói với ai một câu nào. Mẹ có hỏi gì cô cũng im lặng.
Hải Đường nuốt nỗi buồn vào trong để đến trường, không để lộ ra cho bạn bè biết chuyện gì xảy ra. Lúc nào cũng như muốn khóc, có lẽ mọi người nghĩ cô buồn chuyện Ba Mẹ bắt lấy chồng nên cũng không hỏi điều gì, chỉ nhìn nhau ái ngại.

Một tuần sau đó Hải Đường mới tin chắc rằng anh đã bỏ đi. Không một lời từ biệt. Anh không hề nói đã hờn giận hay oán trách cô. Hải Đường không biết gì hết ngoài hình ảnh anh bước vội trên hành lang buổi chiều hôm trước. Tiếng bước chân và ánh mắt buồn rười rượi của anh cứ ám ảnh cô suốt nhiều năm sau này.
Anh đã dứt khoát ra đi. Có lẽ anh đau khổ nhiều lắm khi bỏ lại đây một mối tình thơ dại. Hải Đường nghĩ vậy.
Nhưng còn một lý do khác khiến cô suy nghĩ. Không hiểu vì sao ra đi mà anh không từ giã lời nào với cô. Đi đâu về đâu cô không thể biết được. Hải Đường lại có ý nghĩ giận anh, hay anh về thành phố của mình với một người con gái nào khác. Cô nhớ thương anh lẫn lộn với một chút giận hờn, ghen tương khiến tim cô như thắt lại. Phải chi trước lúc ra đi anh cho Hải Đường một lời giải thích, hoặc một câu từ giã có lẽ đời cô sau này cũng đỡ ray rứt hơn.
Đúng vậy! Hải Đường đã ray rứt suốt cuộc đời còn lại của mình. Sau này có gia đình rồi cũng vậy. Cô đã cố gắng quên đi, giấu đôi mắt u buồn của anh lúc ấy vào tận sâu trong trái tim mình để làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ trong gia đình. Hải Đường đã làm được điều ấy một cách thật khó khăn.
Nhiều đêm, Hải Đường ôm hai tấm thiệp chúc tết và những lá thư anh gởi vào lòng để ngủ. Cuốn Đặc San hè 1973 có hai bài viết của họ. Nếu tinh tế, sâu sắc hơn, mọi người sẽ nhận ra nhiều điều giống nhau ở hai bài này. Cái buồn man mác, cái hụt hẫng của người con gái khi sắp chia xa người mình yêu thương để lấy chồng, cô đã gởi gắm vào trong bài viết ấy. Hải Đường và anh đã chia sẻ buồn vui trong tháng ngày qua, hòa tan trong những câu văn mình viết.
Thật ra hai bài văn ấy là đứa con tinh thần, cùng tác giả là của hai người. Anh học toán nhưng lại viết văn rất hay, lôi cuốn người đọc. Còn Hải Đường tuy học văn nhưng bài của mình luôn cần đến góp ý, chia sẻ của anh.
Cuốn đặc san này Hải Đường vẫn còn giữ cho đến hôm nay cùng với những lá thư và hai tấm thiệp chúc Tết như một kỷ vật quý giá đời mình.
Mùa hè năm 1973 nóng kinh khiếp. Mấy tháng hè ở nhà không đi chơi đâu. Ra đường là gặp sắc áo lính khiến Hải Đường đôi lúc hoảng sợ vì những lời chọc ghẹo. Cô chỉ biết quanh quẩn trong nhà, ra trông quàn cà phê hoặc chăm sóc mấy đứa em nhỏ, dạy thêm cho chúng học hành, không giao tiếp với ai bên ngoài.
Giữa mẹ và Hải Đường là bức tường ngăn cách vô hình. Bà không nặng lời nhưng cô biết Mẹ giận vì thái độ của mình nhiều lắm. Sai bảo gì cô cũng nghe, cũng làm như cái máy mà không hề phản đối hay cãi lại Mẹ. Bà biết bây giờ trạng thái tâm lý cô không ổn vì bà là nguyên nhân gây ra sự chia ly của cô và anh. Bà sợ sự bùng nổ không kìm chế được của cô nên cũng không nói gì, không muốn tạo một không khí căng thẳng trong lúc này.
Đúng như người mẹ nghĩ. Nếu lúc ấy bà chì chiết Hải Đường, không biết điều gì sẽ xảy ra. Tâm hồn  luôn bấn loạn, mất thăng bằng trong thời điểm này nên có thể làm điều dại dột nếu đầu óc bị kích động. Chuyện tình cảm của cô và anh được  giấu kín với mọi người bên ngoài. Còn cô cũng không thể biểu lộ điều gì. Mọi người chỉ thấy nét mặt Hải Đường  u sầu, buồn bã, nước mắt luôn chực chờ tuôn trào như muốn gây sự nên cũng chẳng ai muốn lại gần mình. Cô cảm thấy được yên thân lúc ấy.
 Ba của Hải Đường nhìn cô cứ buồn bã nên khuyên Mẹ khoan đề cập đến việc gã chồng, nhờ vậy đầu óc cô cũng bớt căng thẳng.
Một lần Ba đến bên cô an ủi: “Chuyện của con Ba rất hiểu nhưng đừng vì điều ấy mà buồn rầu. Con còn trẻ dại lắm, con biết không?”. Nghe Ba nói như vậy Hải Đuòng bật khóc nức nở: “Biết con còn nhỏ dại sao Ba Mẹ lại ép con lấy chồng?”. Ba lau nước mắt cho cô: “Ba Mẹ muốn tìm cho con một nơi êm ấm. Hơn nữa, con có lấy chồng ngay bây giờ đâu. Khi nào học xong mười hai rồi Ba mới cho cưới kia mà”. Bỗng nhiên không kìm chế được, Hải Đường hét lên: “Còn tuổi trẻ của con đâu? Thời đi học đẹp đẽ của con đâu? Sao Ba Mẹ lại tàn nhẫn như vậy chứ?”. Ba không nói gì nữa, nén tiếng thở dài nhìn cô bằng ánh mắt như van nài.
Ông Giao vẫn quanh quẩn trong nhà nhưng không dám đến gần. Hải Đường nghĩ ông ta đã biết hết mọi chuyện và đang tìm cách nào đó để tiếp cận và chinh phục được cô. Hoặc mong cô vì quá đau khổ với mối tình đầu, quá thất vọng mà gật đầu đồng ý.
Ông ta không còn thái độ ngạo mạn như trước nữa. Dịu dàng, nhỏ nhẹ hơn. Cách đi lại cũng có phần khác trước. Phong cách người sĩ quan biến mất. Thay vào đó là những cử chỉ ân cần và hay ngồi suy tư. Hải Đường biết đó là chiến thuật của ông Giao nhân cơ hội cô suy sụp tấn công bằng tình cảm.
Sự việc sau này diễn ra đúng như ý đồ của ông. Không còn một lối thoát nào nữa. Không có ai đồng cảm, chia sẻ, bênh vực nên cô buông xuôi tất cả. Hải Đường buộc phải đồng ý dưới áp lực của Ba Mẹ, trong cô đơn, lẻ loi đau khổ tột cùng.
Ngày khai giảng năm học cuối Hải Đường nhờ anh trai chở xuống trường. Con đường dẫn đến trường phất phơ những tà áo trắng. Tiếng cười nói, nét mặt hân hoan của bạn bè khiến cô cũng vui lây. Nhưng khi chuẩn bị bước qua cánh cổng trường Hải Đường bỗng khựng người dừng lại, bất động nhìn chăm chăm vào hai cánh cổng đã mở toang rồi nhìn lên dãy hành lang trên lầu.
Vang vang tiếng giày vội vã trên hành lang. Anh nghiêng đầu nhìn vào lớp cô học. Đôi mắt anh chạm mắt cô rồi quay mặt bước nhanh. Đôi mắt mờ lệ, cô nhìn xuống sân trường. Dáng anh mờ mờ. Màu hoa phượng choàng lên người anh một màu đỏ. Anh mất hút sau cánh cổng này.
Tim Hải Đường se thắt, sống mũi cay cay… Cô muốn khóc quá!
Thật ra Hải Đường là một cô gái đầy nghị lực. Trải qua những sự việc đau buồn nhưng cô vẫn đến trường như bao nhiêu người khác. Tiếng trống khai giảng rộn ràng cho năm học mới bắt đầu. Nuốt đau vào lòng để hòa nhập với mọi người là điều khó khăn.
Những ngày kế tiếp cô lao vào học tập để cố quên đi hình ảnh của anh. Quên đi dáng anh tựa lan can, khuôn mặt buồn nhìn về cuối cầu thang, quên đi mối tình đầu thơ dại. Nhưng mỗi lần ra chơi đứng trên hành lang nhìn xuống sân trường đông vui rộn rã tiếng cười. Qua những tán lá bàng gần văn phòng và cây phượng rũ nhánh cuối sân, cô chợt nghe lòng mình sao mênh mông, im vắng quá!.
Còn đâu nữa ánh mắt nhìn nghiêng và nụ cười mỉm của anh. Mất rồi dáng anh nhảy nhót trên hành lang mỗi lần trông thấy cô. Còn đâu nữa những bức thư trao nhanh vội vã. Mất hết rồi ánh mắt tìm mắt những giờ ra chơi hay tan học. Mọi thứ bây giờ trở nên vô nghĩa.

Không gian vắng lặng giờ ra chơi. Có ai cảm nhận được điều này một lần như Hải Đường chưa?
Hải Đường hay đứng một mình nhìn xuống sân trường như vậy. Nhớ lại cái nhìn cuối cùng gởi cho cô khi bước chân anh vội vã băng qua dãy hành lang này.
Đôi lúc Hải Đường hình dung thấy anh đứng đó, lưng dựa vào tường, hai tay khoanh trước mặt nhưng không nhìn thấy cô. Hoặc không muốn nhìn thấy, cô bạn học trò nhỏ bé đã gởi trái tim cho anh mang đi.
Cuộc sống khép kín, Hải Đường như cái bóng trong nhà. Cô không trò chuyện với  mấy đứa em, anh trai và cả với ba mẹ. Sau giờ học bài mỗi đêm, cô lại ra quầy ngồi.
Sợ nhất là khi các đơn vị tác chiến từ chiến trường về an dưỡng ở các Trung tâm huấn luyện. Một số quân nhân tác chiến sống xa phố phường đô hội nên khi về hậu cứ thường rất ngang tàng. Một vài người không kìm chế hành vi của họ nên rất khiếm nhã khi tụ tập uống cà phê ở quán của cô sau khi nhậu say ở đâu đó rồi. Những lúc như vậy Hải Đường thường trốn biệt trong nhà, đi học phải có Ba đưa đến tận trường.
Cô vẫn còn nhớ đến một người lính Trung uý Đại đội trưởng của một tiểu đoàn BĐQ. Anh ấy khoảng hai mươi lăm tuổi nhưng dáng người trông có vẻ già dặn, cứng cáp hơn nhiều vì lăn lộn không biết bao nhiêu chiến trường. Anh rất nghiêm khắc với những người lính vô kỷ luật, đã dùng kỷ luật thép nghiêm cấm lính của anh vào quán  phá phách hoặc  chọc ghẹo cô.
Hải Đường  đâu ngờ người sĩ quan phong trần ấy đã đem lòng yêu mình, mặc dù vẫn xưng hô là chú – cháu. Đêm cuối cùng, anh ngồi suốt từ chiều cho đến khuya, im lặng nhìn cô ngồi bên quầy. Khi khách đã ra về hết, anh nhẹ nhàng đến cạnh quầy, nhìn vào mắt cô rồi nói: “Cháu đẹp lắm! Chú xin gởi lại tình yêu của chú nơi đây. Chú xin lỗi cháu” Dứt lời, rất nhanh anh choàng tay qua đầu Hải Đường, đặt lên trán cô một nụ hôn bất ngờ rồi vội vã ra đi.
Hải Đường không bất ngờ khi biết một chàng sỹ quan yêu mình nhưng lại không ngờ anh ấy có hành động tỏ tình mạnh mẽ như vậy. Cô trân trọng mối tình câm lặng của anh. Trân trọng nụ hôn ấy. Nó là một kỷ niệm khó quên. Nhớ đến anh như một người chú, người anh đã bảo vệ cô trong những ngày đơn vị anh an dưỡng nơi này. Quý mến con người biết trân trọng một tình yêu đúng nghĩa của nó.
Còn một lý do để Hải Đường nhớ mãi nụ hôn ấy bởi vì đó là những lời sau cùng anh nói với cô. Mãi mãi  không còn gặp lại anh nữa.
Anh là Trung úy Thuận.
Nửa năm sau, có người lính mặc quân phục BĐQ cấp bậc thiếu uý đến quán ngồi uống cà phê. Trông anh có vẻ đăm chiêu. Thỉnh thoảng liếc nhìn về phía Hải Đường nhưng ánh mắt của anh không sỗ sáng như nhiều người lính tác chiến khác. Khi ra về anh ấy đến quầy nói nhỏ với Hải Đường:  “Xin lỗi em! Có phải là Hải Đường không?” Cô ngước mặt lên nhìn, hơi ngạc nhiên về câu hỏi nhỏ nhẹ của người sĩ quan trẻ mang sắc phục binh chủng BĐQ. Nhìn anh không có vẻ là người đến bên để tán tỉnh. Hải Đường trả lời; “Dạ đúng. Có chi vậy anh?”. Giongj anh nghiêm nghị: “Trước đây em có biết Đại uý Thuận không?”  “Dạ có! Nhưng trung uý chứ?” Chàng trai thiếu uý trẻ có khuôn mặt buồn, nói :  “Anh Thuận đã lên đại uý và mất sau đó hai tháng trong một trận đánh tại Quảng Nam. Anh ấy thỉnh thoảng có nhắc đến Hải Đường, cô hàng cà phê nơi này”.
Thông tin cuối cùng Hải Đường  biết về anh Thuận là vậy.
Hải Đường  không yêu anh nhưng rất quý mến con người anh. Cô có một khoảng thời gian khá dài ấm áp trong tình cảm ấy.
Đêm ấy cô rơi rất nhiều nước mắt cho người đã thầm yêu mình. Mong anh được siêu thoát trên Thiên đường…
Năm học này cô tham gia tiết mục văn nghệ của trường với vũ khúc “Vọng Cố Đô” – Đây là lý do chính đáng để cô thoát ra khỏi nhà. Cô say mê luyện tập, nhờ vậy nguôi ngoai bớt nỗi buồn xa anh. Mọi người như nhận ra điều đau buồn nào đó  nên luôn tìm cách cho cô vui. Họ gọi cô là “Người em sầu mộng” một cách trìu mến, thân thương. Hải Đường  xúc động vì điều này, cảm thấy bạn bè mới là người gần gũi, sẻ chia với cô.
Thời gian sau ba mẹ không cho Hải Đường  ra quầy ngồi nữa. Khi nào cần lắm cũng chỉ một giờ, sau gọi vào nhà vì không muốn cô gặp gỡ, cười đùa với bất cứ ai. Ba Mẹ cô đã chọn một con đường và bắt buộc cô đi trên con đường ấy bằng bất cứ giá nào. Bằng phẳng hay gập ghềnh cũng mặc kệ. Có muốn hay không cũng ráng mà đi, dù biết rằng cô sẽ đi một cách khó khăn.
Rồi Tết lại đến, Hải Đường không vồn vã đợi chờ. Năm nay ông Giao về ăn Tết ở quê nên cô được thanh thản hơn. không phải lo đối đầu với ông ấy, dành thời gian đi lại thăm hỏi bạn bè, người thân.
Mồng một Tết Hải Đường mặc áo dài đi lễ nhà thờ. Chắp tay nguyện cầu cho Ba Mẹ được mạnh khỏe, gia đình bình yên. Nguyện cầu cho mình thoát khỏi ông Giao. Nguyện cầu cho anh được bình yên nơi thành phố anh ở, cho anh quên được cô và sống vui cùng mọi người.
Khi ra khỏi nhà thờ, đi giữa hàng thông cao vút trong sân, Hải Đường bỗng nhận ra thấp thoáng bóng anh đứng tựa lưng vào một gốc cây dương liễu phía bên ngoài nhà thờ. Anh nở nụ cười tươi, vẫy tay gọi cô đến. Cô ngẩn ngơ giây lát rồi chợt bừng tỉnh, chẳng có ai vẫy gọi. Đó chỉ là ảo ảnh.
Qua nhanh những ngày Tết, Hải Đường  trở lại trường, vừa học vừa tham gia văn nghệ nên cô cần cố gắng rất nhiều, nhưng bù lại cảm thấy vui hơn, nét mặt tươi hơn.
Ông Giao vẫn đến nhà thường xuyên, Hải Đường luôn tìm cách lẫn tránh cặp mắt của ông ấy. Thoáng thấy bóng dáng ông ấy ở nhà trên là cô trốn ngay xuống bếp và ngược lại. Biết rõ thái độ của cô như vậy nhưng vẫn không làm ông chùn bước. Một hôm vào khoảng tháng ba năm 1974, ông Giao đến nhà, đem theo hai tấm bằng cử nhân Luật và Cử nhân Văn chương rồi đưa cho Ba Mẹ Hải Đường  xem. Ông muốn khoe thành tích học tập của mình và đang dự định sẽ trở vào Saigon học tiếp cao học tại Quốc Gia Hành Chánh. Đòn tâm lý ấy đã thay đổi được suy nghĩ của Ba cô. Một chàng rể tương lai rực rỡ như vậy thật quá tốt. Đến tối ông gọi Hải Đường lại nói:
– Ba thấy nó tuy lớn tuổi nhưng cũng được. Nó có học thức, sau này đời con sẽ không khổ, con đồng ý lấy nó đi cho Ba Mẹ yên tâm. Nó chọn con làm vợ thực sự là một hạnh phúc, may mắn cho nhà mình.
Hải Đường nói thật nhỏ với Ba:
– Con còn nhỏ mà Ba… Con muốn đi học, hơn nữa lấy chồng thì ít ra phải là người con có chút tình cảm. Ba biết con không ưa ông ta tí nào sao Ba lại muốn con lấy ông ta?
Mẹ từ nhà dưới đi lên, ngồi xuống cạnh ba góp ý:
– Lấy nhau rồi sẽ yêu thương nhau thôi con. Mẹ muốn con được sung sướng cả đời. Sau này em con còn được nhờ nữa.
Cô im lặng vì biết nói gì với Ba Mẹ cũng vô ích mà thôi.
Đêm đó Hải Đường lại nằm úp mặt vào gối khóc. Cuộc đời cô sao lại bất hạnh đến như vậy?       

Hải Đường tuyệt vọng. Cô nhớ anh vô cùng. Phải chi lúc này có anh bên cạnh để cùng chia sẻ nỗi buồn, cùng cô toan tính một lối thoát khác. Hải Đường giận anh hèn nhát ra đi, bỏ cô lại với nỗi khổ này mà không biết phải đối phó làm sao?
Hải Đường lại suy nghĩ vẩn vơ. Biết đâu giờ này anh đang vui với người con gái nào đó bên cạnh. Cô biết anh là một con người lãng mạn, dễ gần nên chinh phục một người con gái không khó đối với anh. Cô nhớ anh quay quắt. Gần một năm rồi, từ ngày anh ra đi không lúc nào cô quên anh được. Nhớ nụ cười và ánh mắt anh, nhớ buổi sáng đi “bụi” cùng anh ra biển. Nhớ bàn tay anh nắm chặt. Nhớ tiếng giày anh khua vội vã trên hành lang. Nhớ đôi mắt anh nhìn cô u buồn rồi vội quay đi. Nhớ bóng anh mờ dần dưới tán cây phượng, vụt qua sân trường rồi khuất hẳn sau cánh cổng trường.
Hải Đường tuyệt vọng, đau khổ và buông xuôi.
Một tháng sau Mẹ gọi cô lại và cho biết ngày đám hỏi. Ông Giao bây giờ đã trở về Sài Gòn và đang theo học cao học Quốc Gia Hành Chánh. Mọi chuyện phải trao đổi qua thư từ. Nhà trai sẽ ra bốn người, lễ hỏi tổ chức vào ngày cuối thang sáu 1974. Vậy là còn hơn tháng rưỡi nữa.
Tâm hồn tê tái, nỗi đau tận cùng. Hải Đường không còn biết mình là ai nữa. Cô im lặng như một sự đồng ý
Lễ hỏi diễn ra trong một ngày hè nóng bức.
Buổi sáng hôm ấy Hải Đường nằm trên giường khóc sướt mướt, Bên cạnh cô là dì Út. Dì an ủi đủ điều. Nói nhiều lắm nhưng cô có nghe được gì đâu. Một tí nữa thôi Hải Đường sẽ vĩnh viễn không còn là mình nữa. Cô sẽ thuộc về người đàn ông mà mình không yêu thương, thậm chí rất ghét đó. Trong buổi sáng hôm ấy chỉ có hai khuôn mặt luôn hiện ra trong tâm trí cô. Ông Giao và anh.
Hình ảnh khuôn mặt đen sạm, người vạm vỡ, dáng đi dứt khoát, mạnh mẽ của ông Giao ám ảnh Hải Đường liên tục. Nó như cuốn phim chiếu đi, chiếu lại nhiều lần cũng chỉ với khuôn mặt ấy, con người ấy khiến cho cô run sợ. Khi cuộn phim ấy dừng lại, tâm hồn  dễ chịu hơn. Ấy là lúc một khuôn mặt khác, nhẹ nhàng, thanh thoát tươi vui của anh hiện về nhìn cô nở nụ cười thay thế khuôn mặt như tượng kia.
Anh bây giờ ở đâu ? Có biết Hải Đường đang ở bên bờ tuyệt vọng không?Cô nhớ lại những khi lén lút chuyền cho nhau mảnh giấy. Nhớ lại lần anh cùng cô đi trên đoạn đường xuống biển, hai đứa không dám đi sát bên nhau, thì thầm nói chuyện với nhau như hai người bạn.
Nhớ lại lần theo dì Út xuống suối vô tình gặp anh đang ngồi thẫn thờ trên tảng đá, mắt nhìn vào giòng nước. Chiếc lá khô xoay tròn khi bị nước cuốn vào hốc đá. Anh lúc đó như một chàng nghệ sĩ, mái tóc bồng bềnh trong gió. Có đám chuồn chuồn bay cao, bay thấp thỉnh thoảng lại sà nhanh xuống mặt nước. Cô trốn dì Út đi ra sau bụi cây đến bên cạnh anh. Khuôn mặt anh lúc ấy giãn ra, tươi lên bất ngờ. Anh làm sao có thể ngờ được một buổi chiều đẹp như vậy, đang thẫn thờ  nhìn đám chuồn chuồn chạm nước và trông thấy cô? Anh nhìn quanh rồi vội vàng nắm tay Hải Đường. Hoảng hốt, cô giật mạnh tay về khiến anh ngã chúi về phía trước.
May mà không chuyện gì xảy ra hôm đó. Cái may này là dì Út  không hề biết chuyện hai người đã hôn nhau vội vã bên suối lần ấy.
Một nụ hôn như chuồn chuồn chạm nước khi môi anh lướt nhẹ lên má Hải Đường.
Nhà trai đến trên một chiếc xe Jeep màu vàng nhạt. Khi tiếng xe dừng trước nhà, Hồng, em gái Hải Đường lúc đó mới mười tuổi chạy vào báo cho cô biết để chuẩn bị. Nước mắt Hải Đường lại tuôn trào. Nỗi lo sợ khủng khiếp tra tấn cô, đầu óc như muốn vỡ tung ra. Giấc mơ đẹp về anh đang còn trong cô đột ngột bị cắt ngang bởi tiếng gọi của em gái. Tâm hồn cô đang yên bình với anh bên bờ suối bỗng như bão tố nổi lên khi nghe âm thanh của chiếc xe đang dừng lại trước nhà mình, bên gốc cây trứng cá. Hải Đường hoảng loạn, như đang bị dập vùi dưới trời giông bão.
Mẹ  vào phòng khuyên Hải Đường bình tĩnh, vui vẻ lên để đi ra chào hỏi nhà trai. Cô nắm lấy tay Mẹ, lay mạnh:
– Mẹ đừng nhận lễ của họ… Con lạy Mẹ! Đừng bắt con…
Mẹ cô lúc đó không còn kiên nhẫn  nữa. Mẹ cũng khóc nhưng ở một tâm trạng khác :
– Đến giờ này rồi mà mi còn như vậy hả? Muốn mẹ chết phải không?
Hải Đường vẫn khóc. Giọng Mẹ nhỏ lại vừa thuyết phục, vừa dọa dẫm:
– Bây giờ nhà trai đến rồi, mẹ biết phải làm sao đây.
Mẹ vật vã trên giường còn cô vật vã cả tâm hồn. Cái tâm hồn nhỏ bé run rẫy, sợ hãi vì lời Mẹ nói.
Ngoài kia, Ba Hải Đường đang tiếp đón nhà trai nên không biết sự việc xảy ra. Khi cô không còn khóc được nữa, Mẹ bước ra ngoài chào hỏi nhà trai, nhận lễ của họ rồi nhờ Dì út mang chiếc áo dài màu đỏ cùng chiếc quần trắng mà nhà trai đem đến vào phòng, mặc cho cô.
Hải Đường ngồi đó như vô hồn, Dì bảo làm gì cô làm theo mà không ý thức được rằng mình đang mặc chiếc áo bó chặt đời mình. Dì chải tóc lại và rồi cả hai cùng bước chậm chạp ra khỏi phòng.
Ông Giao mặc bộ complet màu xám chỉnh tề, mặt hớn hở, không còn tác phong quân sự như trước nữa. Ba Hải Đường giới thiệu cô với nhà trai, giọng chùng xuống:
– Tôi xin nhận những lễ vật đính hôn này…
Hải Đường nhìn thấy đôi mắt Ba như sâu hơn vì chất chứa nỗi buồn. Một con người hiền hậu nhưng yếu đuối.
Ông Giao mở nắp hộp, cầm chiếc nhẫn đính nhiều hạt kim cương đeo vào tay cô. Hải Đường cúi mặt không nói lời nào.  Chiếc nhẫn từ từ đẩy sâu vào đốt thứ ba của ngón áp út. Ông Giao vẫn cầm tay cô, xoay chiếc nhẫn lại cho ngay ngắn. Nó như nhát dao oan nghiệt đâm sâu vào trái tim Hải Đường, xoáy nhiều lần làm cô cảm thấy ngạt thở. Khi ông Giao lơi tay, Hải Đường rút bàn tay về thật vội. Khuôn mặt lộ rõ vẻ sợ hãi và bất cần. Hành động ấy không che giấu được những cặp mắt đang chăm chú nhìn cô. Mặc kệ.
Hải Đường không còn nghe mọi người nói với nhau điều gì nữa.
Chẳng còn nhìn thấy ai đứng trước mặt mình.
Căn phòng khách trống rỗng. Một mình cô đang đối diện với anh.
Khoảnh khắc ấy Hải Đường trông thấy anh đang đứng ngay góc phòng nhìn mình, khuôn mặt buồn bã cúi xuống, lưng tựa vào tường, hai tay khoanh trước ngực. Anh thì thầm trách móc:  “Tại sao em làm vậy?”.
Hải Đường chạy đến ôm chầm lấy anh. Cả hai cùng bay lên. Bay lên cao mãi!
Nhìn nhau hạnh phúc với những giọt nước mắt.

Mẹ nhận ra điều không ổn nên đã xin phép nhà trai cho Hải Đường vào nghỉ.  Cô  thoát cảnh bị tra tấn, chân bước đi nhưng vẫn ngoái đầu lại nhìn vào góc nhà. Nơi anh vừa đứng đó nhìn cô mang chiếc nhẫn đính hôn.
Cứ như  anh vẫn còn đứng đó, lưng tựa vào tường cúi đầu buồn bã, hai tay khoanh trước ngực. Anh im lặng với những giọt nước mắt.
Hai gia đình ngồi lại ăn uống, không ồn ào như những lễ hỏi cưới bình thường. Mọi người nói chuyện với nhau trong không khí không được vui cho lắm. Hải Đường nghĩ vậy bởi vì lúc đó cô đã vào trong phòng nằm khóc rưng rức. Không hiểu vì sao ông Giao và cả gia đình ông ta lại có thể chịu đựng được một lễ hỏi như vậy, khi mà người được hỏi làm vợ đã tỏ thái độ lạnh lùng như Hải Đường lúc nãy. Khi mà người con dâu tương lai của họ chỉ là một pho tượng không hồn?
Có một điều như một điềm báo trước cho cuộc hôn nhân không thành sau này. Cuộn phim chụp lễ đính hôn hoàn toàn bị hỏng, khi rửa phim chỉ có một màu trắng, không ghi lại một hình ảnh nào. Sau này Hải Đường cảm thấy hối tiếc vì không ghi lại được một kỷ niệm trong đời mình, dù đó là kỷ niệm đớn đau, xô đẩy đời cô vào những cơn sóng dữ ngày sau.
Một phút  trôi qua nhưng dài vô tận. Cái khoảnh khắc Hải Đường đã nhìn thấy anh tựa lưng vào tường, hai tay khoanh trước ngực và hỏi: “Tại sao em làm vậy?”
Hình ảnh không thực ấy cứ theo Hải Đường, ám ảnh cho đến ngày cô thực sự có một gia đình riêng mới phôi phai đi được.
Khoảnh khắc thật kinh khủng nhưng cô lại được thăng hoa trên cung bậc tình yêu tuyệt diệu. Đúng vào lúc rối loạn, mất thăng bằng nhưng Hải Đường vẫn hình dung được bay lên cùng anh. Dù biết rằng trái tim anh như đang ngừng thở..
Hải Đường không hề chấp nhận cuộc hôn nhân này. Mặc dù  đã đeo chiếc nhẫn đính hôn, đã mặc chiếc áo dài màu đỏ mà gia đình ông Giao sắm làm lễ vât. Cô cảm thấy mình sao ngu ngốc, dại dột để bị trói buộc vào một cuộc hôn nhân vô nghĩa như vậy.
Trong tuyệt vọng cô như người mù. Không có ai dẫn đường cho cô đi, tự mình mò mẫm trong bóng tối, như không lối thoát. Nhưng bản năng trong con người  vẫn còn. Dù đã chấp nhận thua cuộc một cách đắng cay như vậy, Hải Đường cũng muốn cho người chiến thắng là ông Giao biết rằng, ông ấy chỉ có thể chiếm được thân xác mình, còn tâm hồn nó vẫn cứ mãi là của riêng cô.
Một tháng sau ngày lễ hỏi, Hải Đường viết cho ông G. lá thư với lời lẽ cay đắng
 “… Có lẽ anh lúc này cũng thường! À! mà mới hỏi vợ xong mừng quá chắc cũng lên được vài kg? Tôi cũng muốn mình mập hơn để bớt đi vẻ hốc hác sau những ngày bị mất ngủ.Tưởng điều này dễ mà lại khó vô cùng. Có lẽ vì lúc nào trong tôi cũng mang sẵn một nỗi buồn. Không ai hiểu được nỗi buồn tôi mang, vì ai cũng cho rằng tôi hạnh phúc, diễm phúc lắm rồi… Tôi chấp nhận tất cả (anh đừng lo), chấp nhận để thấy Ba Mẹ tôi, cả anh được vui, và làm cho người khác được vui là điều hạnh phúc nhất.
Bây giờ thì đã qua, đã xong một ngày anh mong đợi. Chiếc nhẫn đính hôn giờ là một gạch nối quan trọng cho hai đời người, là một ràng buộc. “Anh nghĩ rằng tôi vui? Không đâu anh! Đúng hơn là tôi thản nhiên, không buồn, không vui. Vì biết rằng đời tôi đã bị thứ định mệnh tím trói buộc, thế nên dẫu không cùng một nhịp đập yêu thương với anh, thì tôi vẫn cứ là của anh”.
Hải Đường đến trường mang theo nỗi buồn canh cánh bên lòng, không hồn nhiên, vô tư như ngày trước.
Năm nay chuẩn bị cho kỳ thi Tú Tài, phải tập trung vào chuyện học nên cô không tham gia văn nghệ nữa. Điều này khiến Hải Đường mất đi niềm vui nhưng bù lại việc học cũng chiếm khá nhiều thời gian rồi. Cô cố quên đi tất cả. Quên lễ hỏi, quên anh.
Ông Giao đang ở Sài Gòn, tập trung cho việc học cao học ở Quốc gia hành chánh nên Hải Đường cảm thấy dễ chịu hơn vì không giáp mặt với ông. Cô cũng nghĩ, bây giờ ông ấy đã toại nguyện với chiến thắng của mình. Không cần ở cạnh bên cô  để canh giữ nữa.
Hải Đường mang tâm sự của mình chia sẻ với bạn bè nhưng vẫn giấu kín tình cảm dành cho anh.

Đến trường nhìn cánh cổng sắt và hành lang hay bất cứ nơi nào trước đây anh ghé đến, Hải Đường lại nhìn thấy anh ở đó. Anh vẫn luôn hiện hữu khắp nơi. Quán nước bên đường, trên hành lang, vệ cỏ bên đường, dưới hàng phượng đỏ. Nơi đâu cũng nhìn thấy nụ cười anh để lại. Những lúc như vậy nước mắt cô lại rơi.
Một cái Tết nữa lại đến. Hơn hai trăm ngày Hải Đường mất anh, không được nhìn thấy anh.
Không còn ai tặng cho cô thiệp đóa hồng nhung. Hải Đường nhớ anh da diết, tưởng rằng đã quên được anh, nhưng mỗi lần ra ngồi quầy hoặc lên xe đi học lại nhớ nụ cười của anh, đôi mắt nhìn nghiêng làm cô xao xuyến lòng. Không còn ai nhìn theo mỗi chiều đi học về  trên  đoạn đường từ nhà Thờ đến quán cà phê Hải Đường. Không còn anh đến ngồi dưới giàn hoa giấy nhìn cô học bài, trao vội vàng lá thư thương nhớ vu vơ. Cô thèm được nhận thư anh, thèm được nhìn nét chữ tròn vo, mềm mại của anh.
Hải Đường cố gắng học hành chăm chỉ, bù lại những kiến thức còn thiếu trong thời gian tập diễn văn nghệ, nên ít làm việc nhà và phụ trông quán. Hơn nữa thời gian này mẹ không muốn cô giao du với người khác. Hải Đường không suy nghĩ nhiều về cuộc hôn nhân sắp đến. Cô muốn quên hết. “Chỉ có nơi gia đình ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại những tai ương của số mệnh”. Cô đã đọc được câu này ở đâu đó. Nhưng số mệnh của Hải Đường thì không có chốn nương thân. Thật cay đắng!
Tháng hai năm 1975
Tết đã qua một tháng rồi. Tình hình chiến sự lúc này rất căng thẳng. Quân miền Bắc đang tấn công Buôn Mê Thuột. Đến đầu tháng 3 dương lịch, từng đoàn người dân thường, quân đội lẫn lộn đổ xô chạy. Thị trấn này quá tải, ngột ngat trong lo âu sợ hãi. Nhìn những khuôn mặt người di tản bơ phờ, sợ hãi khiến người dân nơi đây hoảng loạn, lo lắng. Nhiều gia đình tìm đường vào Sài Gòn khi nghe tin Buôn Mê Thuột đã mất.
Hải Đường  không còn nhớ gì xảy ra lúc này. Cũng không còn đầu óc nghĩ về anh nữa. Mọi chuyện rối tung lên không riêng gì gia đình cô. Đâu đâu cũng nghe bàn chuyện di tản. Một hôm, đến trường nghe tin thầy Hiệu Trưởng đã cho nghỉ học. Thầy cô và học sinh giải tán trở về gia đình. Đó là những ngày cuối cùng thời áo trắng của Hải Đường. Mãi mãi không bao giờ còn được cắp sách đến trường nữa. Thật ra cô cũng không bận tâm lắm đến chuyện nghỉ học. Chiến tranh khốc liệt đã chiếm hết tâm trí rồi.
Hải Đường mãi mãi vĩnh biệt thời áo trắng một cách lạnh lùng như vậy.
Là sĩ quan quân đội nên Ba cô có phần lo sợ. Nét hoang mang lộ rõ trên khuôn mặt và giọng nói của Ba. Mẹ bàn với Ba nên bỏ nhà thoát theo đoàn người di tản để tìm đường vào Sài gòn. Lúc này đường bộ đã bị tắt nghẽn không dễ gì đi được. Vậy là cả nhà gom hết những vật dụng cần thiết để chuẩn bị ra đi. Phần cô chỉ có những kỷ vật là được gói ghém kỹ nhất.
Trong lúc hỗn loạn căng thẳng thì Hải Đường nhận được lá thư tay nhờ chuyển của ông Giao từ Sài Gòn. Cô không còn nhớ ai đã đem lá thư ấy về cho mình và bằng cách nào. Ông Giao viết:  “Hải Đường em! Tình hình này anh không thể nào về với em và gia đình được. Anh nóng lòng quá, không biết em và gia đình thế nào rồi. Em thưa lại với Ba và tìm mọi cách để vào đây với anh, rồi anh sẽ thu xếp. Đừng để chậm trễ, em nhé! Thời gian bây giờ chỉ tính từng giờ thôi. Nhớ là phải nhanh lên, anh nhớ mong em từng phút giây – Anh Giao.”
Cô đọc thư nhưng không nói lại cho Ba Mẹ biết. Lòng bình thản  không một chút âu lo, nghĩ ngợi dành cho ông ta. Trong lúc hỗn loạn này đâu có gì chi phối được tâm trí của cô. Sự sợ hãi chiếm hết đầu óc rồi còn đâu. Một gia đình với đứa trẻ nhỏ nhất mới chỉ ba tuổi nên mọi người không thể liều lĩnh băng rừng vượt biển ra đi. Cuối cùng cái thị trấn đáng ghét này vẫn là nơi cư ngụ.
Sau 30/4
Mọi người trong gia đình bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa. Công việc thật nặng nề, tâm trạng chán chường. Ai cũng im lặng làm việc. Muốn dọn thế nào cũng được vì bây giờ cũng chẳng cần cho nhà cửa đàng hoàng, miễn sao có chỗ để ăn ngủ.
Hải Đường  ngơ ngác mỗi khi chiều về. Có căn nhà bị sụp đổ bên kia đường, cô hay qua ngồi thẫn thờ bên đống gạch vụn vỡ với hai hàng nước mắt. Cảnh vật điêu tàn quá! Người đã buồn nhưng cảnh còn buồn hơn khiến cô như chơi vơi, hụt hẫng trong những tháng ngày tiếp theo sau đó.  Khóc cho tuổi trẻ cô trôi qua mau như một giấc mơ. Tiếc thương cho tà áo trắng giờ nằm im lìm, lạnh lẽo trong góc tủ. Khóc cho bút vở tội nghiệp và khóc cho cuộc đời cô.
Hải Đường tiếc thương tuổi trẻ đã mất và những gì cô phải chịu đựng trong quãng thời gian đẹp nhất của một đời người. Từ tuổi mười lăm đã phải trải qua biết bao đau khổ, tâm hồn bị tổn thương mà lẽ ra cô xứng đáng được hưởng những gì tốt đẹp nhất trên đời này như bao cô gái khác. Đánh mất tình yêu của mình để đón nhận cuộc hôn nhân vô nghĩa và cuối cùng mất luôn thời áo trắng cặp vở.
Là một sĩ quan Tâm lý chiến nên ba của Hải Đường phải tập trung để học tập cải tạo. Trước khi đi ông nói với Hải Đường: “Bây giờ điều gì con muốn, con có thể làm được rồi. Nhưng hãy đợi Ba về rồi lấy chồng nghe con!”. Cô nhìn thấy giọt nước mắt của Ba trên bàn tay mình.
Quán cà phê được mở lại nhưng chỉ bán vào buổi tối. Hải Đường tiếp tục trông coi quán vì thời gian này mẹ cũng phải ra bươn chãi ngoài chợ đời để kiếm cái ăn cho gia đình.
Lúc này quán không còn xanh màu áo lính như xưa. Cô nấu chè bán thêm để phục vụ cho nhiều thành phần khách. Công việc rất vất vả vì  cô chỉ mới bắt đầu làm quen, tất cả hãy còn mới mẻ và lạ lẫm đối với cô. Quán cũng không còn tiếng nhạc dặt dìu với khung cảnh mờ ảo ánh đèn màu. Tất cả đã tắt lịm. Mọi thứ cứ như chưa hề có. Một sự trống vắng, một nỗi cô quạnh đến rợn người.
Sau một ngày cực nhọc vất vả, hằng đêm trước giấc ngủ cô phải tập đối diện với thực tại, nhưng không dễ dàng chút nào.
Tâm trạng Hải Đường dần ổn định sau một thời gian dài. Những chuyện đã xảy ra trước đây bắt đầu trở về lại. Những niềm vui và nỗi buồn xen lẫn với nhau. Nhớ được gì cứ nhớ. Thế nào cũng được. Dù sao thì mọi thứ xảy ra trước đây vẫn còn hơn bây giờ.
Thỉnh thoảng vắng khách, Hải Đường ngồi nhìn gốc cây bông giấy mà thẫn thờ. Cô nhớ anh. Thời tình yêu chớm nở ấy đã trôi qua hơn một năm rồi mà cô cứ ngỡ anh vẫn đang ngồi đó, lưng quay về phía mình. Nhớ những lá thư trao vội qua khung cửa sổ, nhớ nụ cười anh. Nhớ lắm, “Cậu bé” của cô.
Tháng bảy năm bảy lăm, Hải Đường nhận được thư ông Giao “ .. Anh không nhìn thấy trở ngại nào cả và nếu có thì cũng cố vượt qua cho bỏ hết những xui xẻo dĩ vãng. Anh đã chuẩn bị một tổ ấm cho tụi mình và sau ngày cưới em sẽ vào luôn với anh trong này. Anh nôn nóng lắm, cứ sợ tương lai khi đưa em vào thì thành phố này buồn hơn cũ nhiều, bây giờ thì vẫn đẹp?…”
Hải Đường viết thư trả lời mềm mỏng: “… Em xin lỗi, chưa được đâu anh, phải chờ Ba em đi học tập cải tạo về rồi tính…”.  Cô khéo léo trả lời như vậy để trì hoãn chuyện cưới xin, hi vọng sẽ tìm được cách thoát khỏi cuộc hôn nhân áp đặt này. Cô nghĩ thời thế đã thay đổi và mọi chuyện cũng sẽ thay đổi theo. Cái cớ hợp lý nhất bây giờ là cô muốn đám cưới phải có sự hiện diện của Ba, cô sẽ vin vào đó để kéo dài thời gian.
Nhưng thật ra Hải Đường đang chờ đợi một điều khác. Cô chờ anh!
Hải Đường không ngờ là ông Giao viết thư cho Mẹ mình : “.Thưa Mẹ, nhà cửa con đã chuẩn bị rồi, mọi thứ cho một tổ ấm con đã lo đầy đủ. Con xin Mẹ thuyết phục em cho con được tổ chức cưới…”.
Nhận được thư của ông Giao, mẹ Hải Đường như người giữa giòng nước gặp lại chiếc phao đã trôi đi trước đó. Trong hoàn cảnh bi đát như thế này mà ông ấy vẫn còn chung thuỷ với cô thì còn gì quý hơn, bà nghĩ vậy. Ở Sài gòn dù sao cũng khá hơn đây nhiều. Có sẵn nhà cửa cho cô rồi, vậy thì cần phải tiến hành chuyện cưới xin càng sớm càng tốt. Không cần thiết phải chờ Ba cô trở về. Hơn nữa, làm sao có thể chờ được khi không thể biết ngày về. Năm năm, mười năm.. không lẽ cứ chờ hoài vậy sao? Lại thúc hối, dỗ dành để cho họ cưới. Hải Đường nhất định không bằng lòng, cứ khăng khăng phải chờ Ba về vì chỉ có cái cớ đó thì ông ta mới không cưới được cô.
Hải Đường  còn hai lý do để từ chối việc cưới xin vào lúc này. Đó là trước khi đi cải tạo Ba đã dặn dò rằng chờ Ba về. Thứ hai là cô muốn chờ đợi anh.
Mỗi ngày Hải Đường đều mong ngóng thư của bạn bè để được lịm đi trong buồn bã và tiếc nhớ. Đọc những lá thư Hải Đường lại càng tủi thân hơn. Mọi người vẫn còn cắp sách đến trường, riêng cô không được cái diễm phúc đó. Bạn viết: “… Nhớ cái thuở tụi mình xa lắc xa lơ mà buồn chán chê mi nợ! – Đừng có sợ tụi ta quên mi, vào lớp nhắc, đi chơi nhắc luôn, chẳng còn dịp nào để nghe mi hát nữa. Hải Đường ơi! muốn ứa nước mắt khóc thuở tụi mình. Nhớ không cái hôm chàng si tình đến tận nhà tao để tìm mi. Nhìn quanh, không có chỗ nấp mi chui đại dưới bàn học để trốn? Nhìn mi mặt mày tái xanh cả bọn không nhịn được cười. Hình như đó là lần cuối mình cười nhiều nhất Hải Đường hở?…”
Và còn một nơi sâu thẳm trong tim, cô nén chặt nỗi đau khi tự hỏi sao anh không viết cho cô một dòng nào ? Sau cuộc chiến, mọi chuyện đã thay đổi sao anh không trở lại nơi đây một lần? Đâu còn trở ngại gì nữa để được tìm đến nhau. Phải chi có anh bên cạnh cô lúc này thì mọi chuyện đơn giản hơn nhiều. Hải Đường  nghĩ như vậy và cảm thấy như bị anh bỏ rơi trong lúc này. Cô vẫn còn yêu anh nhiều lắm. Nhớ anh biết chừng nào!
Một hôm đang ngồi bán hàng trong nhà thì có người đến trao cho Hải Đường một lá thư. Bì thư tự làm thật đơn giản, nhỏ và xinh xắn hơn. Giấy xếp bì thư là loại giấy cứng, lấy ra từ một tập hồ sơ nào đó có in những sọc ngang. Ngoài bì thư ghi người nhận : Hải Đường, quán cà phê Hải Đường. Thị trấn… Cô nhận ra ngay nét chữ của anh. Trời ơi! Hải Đường mừng muốn bật khóc ngay giữa quán.
Từ từ, cô dùng kéo cẩn thận cắt bì thư ra. Bên trong có hai lá thư. Hải Đường mở một lá ra đọc trước.
“ Kim Anh thân mến!
… Có gì vui sau cuộc chiến không..? Vẫn còn đến trường cùng bạn bè hay đã nghỉ học rồi. Ta nhớ những ngày cùng đi học với bạn bè mà buồn quá. Nhớ mọi người..”…
Hải Đường giận dỗi xé ngay bức thư không thương tiếc. Định không đọc tiếp lá thư thứ hai nữa. Tim cô hồi hộp không biết lá thư này có phải gởi cho mình không hay là cho người bạn nào đó nhờ cô chuyển giúp. Vừa giận dỗi nhưng cũng vì tò mò, Hải Đường mở ra đọc.
“ Hải Đường  thân mến!
Những ngày mưa nơi thành phố của ta buồn hiu hắt. Hải Đường bây giờ thế nào rồi. Vẫn còn ngày ngày cắp sách đến trường cùng bạn bè đó chứ? Ta nghĩ Hải Đường bây giờ đang yên vui chuyện chồng con..
Nhờ chuyển thư cho Kim Anh nhé.”
Trời ơi! Hải Đường không thể tin được là anh viết cho cô những giòng chữ quá đơn giản như vậy. Còn tệ hơn viết cho một người bạn. Cô giận anh. Cô ghét anh.
Đêm đó Hải Đường nằm úp mặt vào gối khóc như một đứa trẻ con. Không lẽ anh quên tình yêu của họ rồi sao? Hơn hai năm chờ đợi, trông ngóng để rồi cô nhận được những giòng chữ vô hồn của anh. Anh phải hình dung được cuộc sống của cô bây giờ tệ hại như thế nào chứ. Không biết anh còn một chút tình cảm nào không mà lại gởi cho cô lá thư như vậy. Điều xấu xa nhất của anh là đã đùa cợt cô bằng cách gởi hai lá thư chung với nhau. Lại còn nhờ chuyển lá thư ấy cho cô gái ấy.
Còn gì đau đớn hơn khi đối diện với sự thật là anh đã quên cô và đùa cợt với tình yêu của cô dành cho anh từ hơn hai năm nay. Kim Anh chính là cô nữ sinh học sau Hải Đường hai lớp.
Hải Đường bật hộp quẹt, tần ngần một lúc rồi tắt đi. Định đốt bỏ lá thư anh gởi nhưng rồi cuối cùng cũng không đành. Cô còn giữ mãi cho đến hôm nay.
Cứ ngỡ mọi chuyện qua đi và Hải Đường sẽ quên lá thư ấy. Nhưng không, một tháng sau anh gởi cho cô lần nữa.
“ Hải Đường thân mến ơi!
Mưa rả rich. Có khi mưa cuồng nộ. Trong rừng núi này không có tiếng côn trùng kêu. Chỉ có tiếng mưa trên mái lá và những cây cao vút ầm ào đổ xuống.
Ta không còn ở thành phố nữa rồi. Bây giờ núi rừng là không gian ta phải yêu mến. Cái lạnh cắt da ta chưa bao giờ biết trước đây khiến ta co ro như con mèo ốm. Hải Đường chẳng hiểu vì sao đâu. Không hình dung nỗi ta bây giờ như thế nào đâu.Ta nhớ tất cả mọi thứ trên đời và ta thèm được sống như một con người đàng hoàng.
Ta cũng nhớ Hải Đường  và mọi người biết bao!…
Hãy chuyển dùm ta đến Kim Anh lá thư này nhé”
Lần này thật sự là quá sức chịu đựng của Hải Đường rồi. Tại sao không gởi trực tiếp mà phải bắt cô chuyển lá thư ấy cho người ta. Anh đùa cợt đến vậy sao? Hai năm  tính từ ngày anh ra đi cho đến nay cô mong ngóng tin anh, không biết anh lưu lạc về đâu, làm gì, cuộc sống anh có được bình yên hay không? Vậy mà cuối cùng anh lại đối xử như vậy. Thà rằng anh đừng gởi cho cô hai lá thư ấy. Cho cô giữ mãi hình ảnh đẹp đẽ về anh và kỷ niệm một thời yêu nhau có lẽ tốt hơn không?
Đôi mắt Hải Đường ráo hoảnh. Nước mắt không còn để khóc được nữa. Cô cay đắng xếp lại lá thư một cách cẩn thận, cất vào ngăn tủ. Hai lá thư được  nhét sâu dưới chồng sách vở. Chất đầy lên trên những gì có thể được.
Hải Đường quyết định quên và chôn sâu mối tình đầu. Đoạn tuyệt mãi mãi tình yêu dại khờ của mình.
Hải Đường làm quen với việc buôn bán. Mẹ cô lúc này tháo vát hơn bằng cách đi buôn chuyến từ SàiGòn về.
Là chị gái lớn trong nhà nên Hải Đường phải chăm sóc, cơm nước cho các em, vừa buôn bán ngoài chợ. Cô bán hàng thực phẩm hải sản khô. Từ sáng sớm chị em cô đẩy chiếc xe cọc cạch chở hàng ra chợ nhưng khi mấy đứa em đi học, cô phải gồng gánh trên đôi vai. Đoạn đường từ nhà  đến chợ khoảng vài trăm mét thôi nhưng với cô nó dài thăm thẳm. Đôi chân rã rời và lòng đau lắm khi phải đi qua đoạn đường này. Đoạn đường ngắn thân yêu, quen thuộc từng viên sỏi, hàng cây, vệ cỏ. Từng căn nhà lùi lại đằng sau mỗi bước chân. Đoạn đường  trước đây với áo dài, cặp vở Hải Đường đã qua lại nhưng bây giờ là quang gánh trên vai. Đôi vai gầy ngày trước có người ví như cánh vạc trong nhạc Trịnh nay oằn xuống dưới sức nặng của số phận. Cánh vạc ngày đó tả tơi rồi.
Hải Đường hiền lành, nhút nhát, ít nói nên ra chợ một thời gian cô bị người đời đánh bật không thương tiếc. Người ta giành giật từng miếng ăn với nhau, còn cô chỉ biết đứng nhìn.
Mẹ gom góp mua được miếng rẫy. Ngày ngày theo anh trai lội qua con suối nhỏ để trồng khoai, sắn, nuôi heo. Hải Đường trở thành nông dân một cách bất đắc dĩ. Cuốc xẻng gì cũng biết sử dụng sau vài tháng nắng mưa.
Lây lất rồi cũng qua năm. Bạn bè bây giờ đã giã từ áo trắng hết rồi. Bọn con gái có đứa học sư phạm, có đứa về nhà bươn chãi với cuộc sống khó khăn. Hải Đường buộc phải tham gia vào đoàn thể thanh niên. Đêm đêm ra sinh hoạt chung với những thanh niên nam nữ trong xã. Dù không quen với đám đông nhưng không thể trốn tránh được. Thanh niên gồm đủ thành phần nên không phù hợp lắm với cách sống nhẹ nhàng, âm thầm của cô nhưng biết làm sao hơn.
Một thời gian sau Hải Đường được đề nghị tham gia văn nghệ ở xã. Như vậy cũng tốt hơn trước nhiều. Ít ra cũng còn có chút niềm vui.
Người phụ trách Đội trưởng văn nghệ là anh Thọ. Mẹ  không muốn con gái mình tham gia nhưng cũng phải miễn cưỡng sau nhiều lần anh đến thuyết phục. Làm sao mẹ có thể chống đối lại chính quyền được.
Anh Thọ là một thanh niên trí thức, học Đại Học Sư Phạm ở Sài Gòn năm cuối cùng. Sau 30/4, vì hoàn cảnh gia đình, Ba anh đau nặng không ai chăm sóc nên phải bỏ học trở về. Trong số thanh niên còn ở lại lúc ấy có lẽ anh là người nổi bật nhất. Anh nói chuyện dí dỏm, thông minh. Ở Sài gòn trọ học nhiều năm nên phong cách của anh rất khác những thanh niên ở đây.
Một hôm, sau buổi tập văn nghệ trở về, anh đi bên Hải Đường nhỏ nhẹ:
– Sáng mai anh sẽ đến nhà tập riêng cho em để chuẩn bị tiết mục đơn ca.
– Dạ…
Không hiểu sao lúc này anh trở nên rụt rè:
– Anh biết  Hải Đường từ ngày anh còn học ở Sài gòn. Mỗi lần về nghỉ hè, thỉnh thoảng có lên quán uống cà phê. Lúc ngồi dưới ánh đèn màu em đẹp lắm!…
– Tối mai anh lại đến đón Hải Đường đi tập văn nghệ nhé!
Cô ngại ngùng:
– Cám ơn anh. Em đi một mình cũng được. Anh đừng đón, không tiện.
Thỉnh thoảng anh tặng cho Hải Đường một vài món quà đầy ý nghĩa. Anh quan tâm đặc biệt đến cô. Về công việc, sức khỏe và cả những buồn vui trong cuộc sống.
Xứ sở này quá điêu tàn. Con người ở đây cũng vậy. Những gia đình khá giả ra đi rất nhiều. Người ở tầng lớp trên trước đó không còn lại bao nhiêu. Họ ra đi để tìm một cuộc sống khá hơn, văn minh hơn nên thời gian này ở đây rất buồn, không còn náo nhiệt như trước nữa.
Anh Thọ thường gần gũi, an ủi những lúc Hải Đường buồn phiền nên cô cũng có chút tình cảm và tôn trọng anh như người anh trai của mình. Cô rất quý mến con người học thức này nhưng vẫn luôn giữ một khoảng cách nhất định.
Trong khi bao nhiêu người tìm cách ra đi thì anh lại từ Sài Gòn ngược về đây. Đôi  khi cô nghĩ về anh như một con người kỳ lạ. Một con người có trình độ đại học, ở Sài Gòn nhiều năm sao lại có thể quay về ở nơi hiu hắt này. Anh có thể  làm việc trong đó, sẽ có điều kiện để anh tiến thân hơn.  Hải Đường khâm phục sự dũng cảm của anh. Dưới suy nghĩ của cô không ai có thể hơn anh lúc này.…
Sau khi nhận hai lá thư cuối của mối tình đầu, Hải Đường hụt hẫng, buồn tủi thời gian dài nhưng rồi cũng cố quên đi để sống bình thản. Điều đó rất khó nhưng cô quyết tâm sẽ làm được. Cố gắng hòa nhập vào cuộc sống mới, tham gia sinh hoạt thanh niên, văn nghệ để cố tìm quên.
Thời gian dần trôi. Cuối cùng rồi cũng quên được mối tình cổ tích. Hải Đường bắt đầu  làm lại cuộc đời mình.
Qua năm 1976, đội văn nghệ  ráo riết luyện tập để đón mừng Xuân Bính Thìn.  Mẹ không muốn cho Hải Đường tham gia nữa vì sợ cô thoát khỏi sự kiểm soát của Mẹ. Anh Thọ đã đến nhà thuyết phục  cho Mẹ hiểu vai trò của người thanh niên trong chế độ mới, phải có đoàn thể chứ không tách rời ra được. Anh khuyên Mẹ nên để cho cô được tham gia vì điều đó sẽ tác động tốt đến việc học tập cải tạo của Ba cô. Không còn cách nào khác nên bà phải đồng ý. Hải Đường rất mừng vì nếu cứ ở nhà hoài sẽ làm cho con người cô héo khô hơn. Hải Đường muốn quên đi mọi chuyện đã qua, quên thời đi học tung tăng cùng bạn bè, quên đi trường lớp, quên đi tất cả vì nếu càng nhớ càng thêm đau khổ mà thôi. Nhất là mối tình đầu đời chưa chết hẳn, cứ gặm nhấm tâm hồn yếu đuối tội nghiệp của cô. Vì vậy đi tập văn nghệ hằng đêm là sự an ủi cho cô được thanh thản hơn.
Anh Thọ luôn nổi bật giữa đám đông. Mỗi lần sinh hoạt thanh niên, anh thu hút mọi người với lối nói chuyện dí dỏm, lưu loát và hay cười của anh. Mọi người ngưỡng mộ, khâm phục vì anh đàn, hát rất hay. Càng ngày anh càng tỏ ra quan tâm, gần gũi Hải Đường hơn. Anh động viên, an ủi cho cô vơi đi buồn phiền và cô rất cảm động vì những điều đó.
Anh chính là người được Hải Đuòng dành tình cảm nhiều nhất lúc đó. Không phải tổ ấm gia đình mà chính là anh vực cô dậy để hòa nhập với cuộc sống này. Cô biết anh yêu mình rất nhiều và mong được đáp lại.
Anh Thọ hay tìm cách đến gần Hải Đường. Muốn chứng tỏ cho mọi người hiểu rằng anh yêu cô, theo đuổi cô. Thái độ của Hải Đường lúc ấy rất chừng mực trong quan hệ với anh. Những lá thư tỏ tình của anh trao vội vào tay cô khi vắng người thực ra không làm cho Hải Đường xúc động. Lời trong thư không bay bổng, hoa mỹ. Anh nói về tình yêu bằng lời lẽ chân thật nhưng chưa làm trái tim cô rung động được. Chưa trả lời đồng ý yêu anh, không phải vì không có cảm tình với anh nhưng sự thật cô chưa thể đón nhận nó. Hải Đường suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này bởi vì sợ những gì sắp đến sẽ xảy ra. Đến với anh, cuộc đời sau này của anh sẽ ra sao? Hải Đường là con của một sĩ quan chế độ cũ, còn anh là một cán bộ làm việc ở xã ( do lý lịch bản thân và gia đình” trong sạch “), liệu điều đó có đem lại một tương lai tốt đẹp cho anh? Cô suy nghĩ rất nhiều vì không có cách lựa chọn hoàn hảo nào.
Còn một rắc rối lớn nữa là làm sao thoát khỏi lễ giáo gia đình khi Hải Đường đã nhận lời hứa hôn với một người khác và Mẹ có đồng ý để cô lấy anh Thọ không? Bao nhiêu câu hỏi cứ xoay trong đầu .
Nhưng sâu thẳm chính là Hải Đường chưa thể quên đi mối tình đầu.
Mẹ không thể cấm Hải Đường đi sinh hoạt văn nghệ dù rất ghét điều ấy. Cô thì ngược lại. Cứ lợi dụng việc sinh hoạt đó để tìm cách thoát ra khỏi nhà, thoát khỏi ánh mắt Mẹ. Cuối cùng rồi Mẹ cũng phát hiện chuyện  anh Thọ theo đuổi cô nên giao cho Hồng, cô em gái lúc đó mới mười hai tuổi giám sát chặt chẽ. Đi đâu, làm gì cũng có cặp mắt của Hồng dõi theo. Điều ấy khiến Hải Đường bị ức chế rất nhiều. Sao Mẹ không tha cho  cô con gái yếu đuối, tội nghiệp của Mẹ. Sao Mẹ không cho cô được làm một đứa con bình thường như bao người con gái khác để  được chút thời gian thanh thản trong tâm hồn? Sao Mẹ nỡ trói buộc cuộc đời cô từ khi chưa kịp lớn cho đến bây giờ? Hải Đường tủi thân cho số kiếp của mình. Cuộc sống đã đổi thay rồi nhưng cô vẫn bị trói chặt.
Sau nhiều lá thư của ông Giao gởi về thuyết phục, hứa hẹn một cuộc sống tươi đẹp, mẹ buộc cô phải làm đám cưới với ông. Biết không thể nào ngăn cản ý của Mẹ được nữa nên Hải Đường im lặng ra vẻ đồng ý, nhưng trong lòng thì đang tìm cách thoát cho bằng được cuộc hôn nhân này. Đêm đó cô quyết định viết lá thư từ hôn gởi cho ông Giao với những lời lẽ  thật cay đắng và cả van xin. Hải Đường đề nghị  một cách dứt khoát, yêu cầu ông Giao ra nhận lại lễ vật đã tặng  trong lễ hỏi. Một quyết định liều lĩnh đầu tiên trong đời mà cô dám làm để giải thoát cho bản thân. Hải Đường chọn con đường tìm lại tự do cho mình đồng thời cũng chấp nhận một cuộc đời đắng cay, tủi nhục khác.
Nhận thư, có lẽ ông Giao không còn hy vọng gì ở cuộc hôn nhân này nữa nên mười ngày sau, người chú và người em trai thay mặt gia đình từ Bình Định vào xin được nhận lại những lễ vật đính hôn. Chiếc nhẫn bằng kim cương có giá trị lớn cùng những lễ vật khác Hải Đường đã cẩn thận gói sẵn để trong tủ chờ đến ngày trả lại cho nhà trai.
Ngày định mệnh  25/6/1977.
Đang cầm chiếc cuốc xới cho tơi đất để trồng mì, anh trai từ nhà qua báo cho Hải Đường biết gia đình ông Giao đến nhận lại lễ hỏi theo đề nghị trong thư của cô.  Mẹ cho gọi  về ngay. Hải Đường nghe báo tin mà rụng rời cả tay chân. Chiếc cuốc trên tay lúc đó cô nắm chặt không muốn thả ra. Một thời khắc sợ hãi kinh hoàng cô cần phải đối mặt trong lúc này.
Hải Đường biết điều đen tối đang chờ cô trong chút nữa thôi. Sợ hãi tột cùng. Cô điên loạn hay đã chết rồi trong lúc ấy?
Sợ Mẹ, sợ họ hàng ông Giao nên Hải Đường trốn biệt vào một bụi cây rậm bên rẫy. Không ai có thể tìm ra cô cho đến tối mịt. Chung quanh là bóng đêm. Sương bắt đầu rơi xuống trên những tán cây, trên lá và trên tóc Hải Đường ướt đẫm. Lạnh buốt xương và cái đói hành hạ. Nhắm mắt lại cô bắt đầu rơi vào cơn mê loạn.
Có ánh sáng đom đóm bay đêm chập chờn. Tiếng gió rít, ve vuốt, rượt đuổi. Âm thanh răng rắc. Tiếng lá rơi xào xạc, lả lơi. Có tiếng hát ru em của Dì Út vọng về.
 Điệu múa Đêm tàn Bến Ngự. Lượt là trong bộ Hoàng bào vàng óng.
Những hạt sương mong manh trên má. Cái lạnh thấm dần vào thân thể yếu mềm hoà với cái đau bị muỗi đốt vẫn còn đỡ hơn cái đau trong tâm hồn mà Hải Đường đang gánh chịu lúc này. Cô muốn mình được thiếp đi một cách nhẹ nhàng. Thôi đừng đau đớn nữa. Cô muốn bay vào hư vô mãi mãi để không còn phải giáp mặt với những bất hạnh mình đã chịu từ bao nhiêu năm nay.
Sương lạnh thấm vai. Buốt rét mềm đôi bàn tay nhưng con tim nóng hừng hực bừng lên như ngọn lửa hồng đốt cháy.
Tiếng muỗi vo ve hát ca nhảy múa.Tiếng côn trùng ran ran bên cạnh. Có tiếng sột soạt của con thú hoang đói mồi.Tiếng chin chit của lũ chuột tinh ranh.
Có tiếng hú gọi đến như tiếng người. Đen thẫm. Mờ mờ ảo ảo ánh đén hắt sang ..
Hải Đường giật mình bừng tỉnh. Không gian rờn rợn. Chung quanh toàn những cây cao và bụi rậm. Đêm của lũ côn trùng ma quái.
Đói cồn cào!
Hải Đường muốn nằm yên trong bụi cây này mãi. Mong được khép chặt đôi mắt, thiếp đi nhẹ nhàng và đừng bao giờ thức dậy  nữa. Muốn được bay bỗng lên rồi tan ra, biến vào hư không. Xin đừng đau đớn. Cô đau đớn nhiều rồi. Hải Đường muốn trốn chạy đi đâu đó thật xa cái xứ này. Nhưng trốn đi đâu bây giờ?
Rét run và đói. Hai tay ôm chặt lồng ngực, hơi thở yếu dần. Hải Đường trở mình bên bụi cây gai. Có vết đau trên lưng. Không! Nó nhói từ trái tim. Nắm nhánh cây gai đang đong đưa trước mặt, níu chặt, chập choạng. Có mùi mặn trên đôi tay.
Không còn nơi nào  có thể nương thân. Về thôi!
Lầm lũi  bước cao, bước thấp mò mẫm từng đoạn đường mòn, bước qua con suối lạnh Hải Đường tìm đường về nhà.
Bọn dế giun đang hát khúc hoan ca hay khúc bi ai bên kia bờ suối?
Rồi cũng đến được. Cổng nhà đây rồi! Cánh cửa màu xanh quen thuộc và cây trứng cá của Hải Đường mỗi chiều đứng đợi. Mà đợi gì nhỉ?
Bàn tay chạm vào cánh cửa, Hải Đường run lên bần bật, thân thể co rúm lại, bước chân không còn nhấc lên nổi nữa. Chờ  một lúc lâu, nghe trong nhà im vắng cô rón rén đi vào bằng lối bên hông nhà. Vừa đến sân nhìn thấy Mẹ ngồi trên ghế, nét mặt giận dữ đang chờ. Thân thể mãnh mai tội nghiệp đổ sụp xuống dưới chân Mẹ.
Không còn cảm giác để mà đau nữa.  Không còn đủ sức để van xin. Tê dại. Khù khờ. Có tiếng gió rin rít. Gãy đổ. Lào rào. Rền rĩ. Nước mắt cạn khô rồi. Miệng bỏng rát. Da thịt nham nhám mùi vỏ cây. Hải Đường lạnh!
Đã bao nhiêu lần trong đời sống bên ngoài gia đình. Đó là những đêm đi biểu diễn văn nghệ cùng với bạn bè thời đi học. Những lúc ấy Hải Đường chỉ có niềm vui.
Đêm nay cô cũng có một đêm bên ngoài ngôi nhà của mình. Bên ngoài đúng nghĩa của nó vì Hải Đường đang ngồi dựa gốc cây trứng cá trước nhà mình giữa đêm khuya.Tâm hồn khô khốc, trống rỗng, nhạt thếch. Đã khóc như một phản ứng tự nhiên nhưng không hiểu vì sao mình khóc. Chẳng ý thức được gì, không hiểu mình đang làm gì và chuyện gì đang xảy ra với mình. Sự trống rỗng đến ngạc nhiên.
Lại mơ!
Hoá thân thành con đom đóm nhỏ lập loè bay lên với các vì sao. Sao sáng quá khiến cô sợ hãi,
Mơ bay trên sân trường phủ đầy hoa phượng đỏ có những tà áo trắng phất phơ.
Mơ xoay tròn trên sân khấu với vũ khúc Vọng cố đô trong vai cô Công chúa mặc áo Hoàng bào.

Mơ mình ngồi bên giòng sông tuổi thơ, nước êm đềm cuốn đi chiếc lá khô vừa rơi xuống. Ba  chở đi trên chiếc Lambretta qua cầu Bạch Hổ chiều lộng gió thổi bay chiếc mũ rộng vành.
Mơ được Ba đưa vào Đài phát thanh Huế khi người còn làm việc trong ban văn nghệ .
Mơ! Cô mơ nhiều lắm.
Mơ cái êm êm của tuổi thơ bên giòng sông Hương. Mơ con chuồn chuồn ớt đỏ vụt bay trong khoảnh khắc hai ngón tay vừa chạm vào cái đuôi mềm mại, âm ấm của nó. Mơ con đường đất nhiều sỏi đá dẫn tôi đến trường tiểu học và thằng bạn mập xịt, kẻ thù  thời thơ ấu.
( Xem ” Chuyến Tàu Tuổi Thơ” cùng tác giả)
Mơ tiếng chuồn chuồn chạm nước. Nhẹ nhàng như nụ hôn bất ngờ anh lướt nhẹ trên má.
Nhiều khuôn mặt lướt qua trong trí nhớ vội vàng. Nhòe nhoẹt. Rõ nét. Vui nhộn. Lặng lẽ. Hung tợn. Như có thể chạm được nhưng lại xa vời vợi.
Hải Đường mơ, mơ mãi trong giấc ngủ mê hoảng loạn. Hai tay bó gối. Lưng tựa vào thân cây.
Tiếng muỗi vo ve, tiếng chó sủa trong đêm vắng vẻ. Con đường khuya thỉnh thoảng có ánh đèn vụt qua.
Có tiếng xì xào xa xa. Tiếng chim non gọi mẹ. Thống thiết.
Có cánh tay choàng qua vai ôm chặt . Hơi ấm từ đâu đó sưởi ấm bờ vai gầy yếu của cô  vẫn còn đang trong mơ tuyệt vọng.
Có cái lay nhẹ bờ vai. Lờ mờ Hải Đường nhận ra một giọng nói quen thuộc. Có tiếng âm âm từ rừng núi dội về.
Có tiếng hỏi dồn. Cô bay lên. Nhè nhẹ. Từ từ. Chậm rãi. Hải Đường chạm vào mây. Mềm mại. Âm ấm.
Mây vuốt vào má. Có bàn tay đặt nhẹ lên môi. Có cánh tay dìu  đứng dậy. Lướt hay bay đi. Nhẹ tênh.
Hải Đường như vô cảm lúc đó. Bước chân bềnh bồng. Chệnh choạng.
Anh Thọ!
Hình như Hải Đường đang gọi tên ai đó.
Anh dìu cô về căn nhà nhỏ của mình.
Sáng hôm sau, cơn mê bừng tỉnh. Anh nói: “Bây giờ thì em quyết định được rồi đó, em phải tự chọn con đường mình đi, không ai ép buộc em được. Nhìn em như thế này anh cảm thấy uất ức lắm. Anh muốn đưa em thoát khỏi cuộc hôn nhân vô nghĩa này, anh sẽ bất chấp tất cả nếu em đồng ý”.
Anh an ủi, dỗ dành, thuyết phục, vỗ về Hải Đường  mãi. Có còn nơi đâu để cô về nữa?.
Cơn gió rin rít thổi qua mái lá. Có tiếng róc rách của con suối chảy qua ngang đây. Bản nhạc rừng líu lo.
Hải Đường  gật đầu đồng ý. Cô cũng chẳng cần gì khác nữa.
Sau này, khi hai vợ chồng tâm sự cùng nhau, Anh hay ôm đầu Hải Đường vào lòng, nói đùa: “Mẹ đã vô tình tặng cho anh món quà vô giá này”.
Một tuần sau Ủy ban xã cấp giấy công nhận kết hôn và cho hai người ở nhờ căn nhà nhỏ vắng chủ. Của hồi môn Hải Đường mang theo chẳng có gì nhiều. Ngoài áo quần, chỉ còn vài ba cuốn sách và những kỷ vật thời học trò.
Hai vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc. Anh rất yêu thương Hải Đường, lo lắng cho cô đủ điều, từ những việc nhỏ nhặt nhất trong gia đình. Kinh tế khó khăn  nhưng không lấy đó làm buồn phiền. Vợ chồng cô chăm lo hạnh phúc gia đình. Quyết định không có con vội trong lúc này.
Cuộc sống tuy nghèo nhưng thơ mộng. Hai người  thường hay ngồi bên nhau hằng giờ mỗi đêm, chồng đàn vợ hát những tình khúc xưa thật say sưa. Khi chưa vướng bận chuyện con cái, hai người thường hay xuống suối vào những đêm trăng sáng. Đêm trăng bên giòng suối vắng thật huyền ảo, ánh trăng tràn ngập khắp nơi. Trăng như rơi vỡ trên giòng nước.
Hải Đường và anh đi dọc theo bờ suối hoặc ngồi trên tảng đá cùng nhau câu cá. Thường thì anh cầm cần câu còn cô cầm đèn, ngồi giữ chiếc lồng đựng cá và nhai bắp rang cho đỡ buồn ngủ. Nhưng cũng có đôi lúc cô thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi anh gọi dậy, cùng nhau trở về trời cũng bắt đầu sáng.
Cuộc sống vợ chồng khi mới lấy nhau thật lãng mạn dù muôn vàn khó khăn phải đối mặt hằng ngày.
Năm 1980 Hải Đường sinh con trai đầu lòng. Cuộc sống bây giờ khó khăn hơn nhiều, với đồng lương của anh làm sao nuôi được vợ con nên anh quyết định xin nghỉ việc ở Uỷ ban xã để ra ngoài làm ăn.
Cuộc sống vất vả hơn nhiều. Anh bươn chãi khắp nơi để kiếm sống.Ở thời buổi này, kiến thức, chữ nghĩa anh học được chẳng giúp gì được cho cuộc sống gia đình.
Vào một buổi sáng thàng hai 1982, đang lui cui làm việc ở nhà thì em gái Hải Đường chạy vào báo tin Ba bị tai nạn bên rẫy. Cô tức tốc chạy băng qua, đến nơi thì Ba đã trút hơi thở cuối cùng. Đau đớn chồng thêm đau đớn, vành khăn tang đầu tiên trong đời lại dành cho người cô yêu thương và kính trọng nhất. Người luôn mong muốn cho cuộc đời con gái được sung sướng, hạnh phúc nhưng lại bất lực nhìn đứa con gái yêu thương của mình chịu hết đau khổ này đến đau khổ khác. Không đủ sức dìu dắt để con được vào đời may mắn hơn.
Hải Đường mồ côi Ba!
Đứa con trai thứ hai ra đời  năm 1983 thì tháng ngày vất vả  bắt đầu từ đây. Anh Thọ tham gia đoàn người đi tìm trầm. Mỗi chuyến đi của anh lặn lội trong rừng sâu nước độc từ nửa tháng đến một tháng đã đày ải thân xác anh.
Căn nhà nhỏ bên cạnh nhà thờ  được Ủy Ban Xã cho ở tạm thấp lè tè và nóng bức vô cùng. Lấy nhau đã năm năm mà tài sản gia đình của họ chẳng có gì. Thậm chí cái quạt máy cho con mát trong những ngày hè cũng không có. Hải Đường phải xin vào làm kế toán ở ủy ban xã với đồng lương èo uột nhưng vẫn cố gắng sống sao cho vừa đủ. Điều này có nghĩa bản thân cô phải biết tính toán và tiết kiệm một cách tối đa. Một đồng quà cho con cũng phải suy nghĩ.
Anh Thọ đi núi vất vả  nhưng không kiếm được bao nhiêu. Lúc trầm khan hiếm thì lại không được gì. Lúc tìm được trầm thì hàng không ai mua phải bán rẻ. Phải nói là số phận gia đình Hải Đường thật bất hạnh. Người ta cũng như mình nhưng lại gặp may mắn còn anh thì xui rủi cứ đeo đuổi mãi .
Cuộc sống khốn khó nhưng hạnh phúc trôi đều theo năm tháng
Và kỷ niệm nhẫn tâm một lần ùa về  thật bất ngờ..
Một buổi chiều, Hải Đường thong thả đạp xe về nhà sau giờ làm việc. Hôm đó anh Thọ không đi núi, thay cô lo cho hai con nên cô cũng không vội vã lắm. Tự cho phép mình hưởng thụ một chút gió chiều, nắng nhạt, cái cảm giác mà lâu lắm rồi có không có được.
Hải Đường nhớ hôm ấy tóc bay sau ngược gió vì cô không kẹp lên. Một chút lãng mạn sau bao tháng năm buồn, hôm nay cô muốn được hưởng một tí.
Khi đạp xe về gần ngôi nhà cũ, quán cà phê Hải Đường ngày trước. Cô giật mình vì thoáng thấy một dáng người cúi đầu lầm lũi bước đi bên kia đường. Dáng ấy quen thuộc đến mức Hải Đường không thể lầm lẫn được. Hai tay cô run run trên ghi đông xe đạp, toàn thân cứng đờ. Chiếc xe vẫn từ từ tiến lên phía trước một cách nặng nề.
Khi đến trước quán cà phê cũ, người ấy dừng lại và nhìn vào trong rất lâu. Hải Đường cũng dừng lại bởi một sức hút vô hình từ phía bên kia đường. Cô ngộp thở, tai ù đi, ran ran tiếng gió.
Hải Đường bước ra khỏi xe và nhìn chằm chằm vào con người ấy. Bất chợt người ấy quay lại nhìn cô.
Người bên này, người bên kia đường bất ngờ hoà tan trong  ánh mắt. Hai chân Hải Đường muốn quỵ xuống. Đôi mắt của anh. Đôi mắt u buồn kỳ lạ, xa xăm nhưng lại có ngọn lửa bùng cháy bên trong.
Trời ơi! anh đó sao? Hơn mười năm rồi, anh gầy và đen hơn nhiều. Dáng người khắc khổ. Anh nhìn cô không hề chớp mắt. Hải Đường cũng vậy. Nước mắt cô chảy dài  xuống má tự nhiên không kìm chế được. Hải Đường muốn chạy ào qua với anh nhưng hai chân chôn chặt xuống lề đường. Không được! Không thể được. Cô nhủ thầm như vậy.
Người bên này, người bên kia đường chỉ im lặng nhìn nhau  trong chốc lát, không ai nói một lời nào. Khi anh quay mặt bước đi cũng là lúc Hải Đường ngồi lên yên xe, đạp về nhà. Cô cám ơn anh đã kìm chế được trong giây phút đó. Nếu anh băng qua con đường rồi đứng trước mặt cô liệu điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Hải Đường cũng không biết nữa. Trong khoảnh khắc xảy ra chớp nhoáng ấy, cô tin anh vẫn còn yêu mình. Đôi mắt không giấu được điều gì.
Về đến nhà chồng con  ra đón, hai đứa con bụ bẫm dễ thương ôm lấy Hải Đường. Nhờ vậy cô đã che giấu được cảm xúc bất ngờ với chồng lúc đó. Hải Đường đã quyết định đoạn tuyệt với mối tình đầu từ lâu. Hơn mười năm, đôi lúc có nhớ về anh nhưng với tình yêu chồng con dành cho cô quá lớn không cho phép có những giây phút yếu lòng. Cũng bởi Hải Đường may mắn chưa gặp lại lần nào kể từ lúc anh ra đi. Nhưng chiều nay, gặp nhau trong hoàn cảnh như vậy lòng cô đau xót lắm. Thà anh cứ cúi đầu, đừng nhìn để cô không mang nặng đôi mắt ấy, có lẽ sẽ nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Hải Đường biết phải làm sao bây giờ. Đã là gái có chồng,  sinh được hai cậu con trai, trái tim  mềm yếu vẫn chưa quên được anh sao?
Thật ra  Hải Đường đã tự dối lòng. Cô nghĩ không chỉ riêng mình mà với bất cứ người phụ nữ nào đều không thể quên được tình yêu cũ. Nếu có thể quên, có nghĩa là họ chưa bao giờ yêu và được yêu. Người phụ nữ luôn yếu mềm. Chỉ có thể chôn vùi nó vào trong trái tim để làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ. Coi đó như là một kỷ niệm thiêng liêng. Một tượng đài của ký ức.
Hải Đường cũng chỉ là một phụ nữ yếu đuối.

 Mối tình đầu luôn có một chỗ đứng trong trái tim. Dù đã có gia đình nhưng cô vẫn dành riêng cho mối tình ấy một  giang sơn nhỏ bé trong tâm hồn. Nó mong manh, kỳ ảo vô cùng.
 Sáng hôm sau nhìn thấy Hải Đường xanh xao mệt mỏi, anh Thọ đến bên cạnh, nhẹ nhàng:
– Em đau rồi, hôm nay xin nghỉ một ngày cho khỏe. Để việc nhà anh lo. Em cứ nằm nghỉ.
– Dạ không anh, em mệt một tí thôi, đi làm được mà.
Nói với anh như vậy nhưng Hải Đường rất mệt do cả đêm qua thao thức, nằm không dám trở mình sợ anh lo lắng. Cô hối hận và thấy thương anh. Trong một phút yếu lòng gặp lại anh, Hải Đường trở thành người phụ nữ phản bội chồng mình dù chỉ trong tư tưởng.
 Đôi khi nhiều chuyện cứ tưởng đơn giản nhưng không phải vậy. Ngỡ đã quên được anh rồi, nhưng khi bắt gặp ánh mắt u buồn của anh buổi chiều hôm ấy lòng cô lại vấn vương, ray rứt. Nhiều năm sau này cũng vậy, cho đến ngày chồng qua đời, trái tim héo khô và thân xác gầy mòn sống đơn độc một mình nuôi con, Hải Đường mới thật sự quên được tất cả. Cô quên hết những con người đã từng yêu thương mình. Quên hết. Không có ai, không còn ai trong tâm trí cô nữa. Bởi một điều đơn giản cô không còn thời gian để tiếc nhớ, để mộng mơ, để oán trách.  
Hai con khỏe mạnh, ít đau ốm nên Hải Đường cũng bớt được nỗi lo.Có lẽ ông trời thương cảm hoàn cảnh gia đình cô nên ban cho hạnh phúc như vậy. Niềm hạnh phúc lớn lao nhất là mỗi chiều đi làm về được bồng ẳm, ôm chặt hai con vào lòng. Buổi tối sau khi dỗ hai con ngủ cô tranh thủ làm sổ sách kế toán cho hoàn chỉnh. Những ngày anh Thọ không đi núi sẽ ngồi ôm đàn hát khẽ cho cô nghe hoặc gíup cô cộng những dãy số để làm quyết toán.
Những đêm trăng đẹp, cả gia đình ra ngồi bên bờ suối ngắm trăng lên. Ánh trăng xuyên qua những tán cây hai bên bờ suối trông thật lãng mạn. Trăng rơi xuống mặt nước lững lờ trôi, trăng vỡ từng mảnh nhỏ trên lưng phiến đá. Có khi trăng lại cười với gia đình họ.  Hai con trai tung tăng bên bờ suối, còn vợ chồng Hải Đường ngồi cạnh nhau hát cho nhau nghe những bản tình ca . Ôi, thời gian ấy sao mà đẹp quá!
Có những buổi sáng anh dậy thật sớm chuẩn bị bữa ăn sáng cho công việc đi kiếm củi cách đó gần 10 cây số. Cực nhọc, vất vả là vậy nhưng lúc nào anh cũng tươi cười, ngọt ngào, nhẹ nhàng với Hải Đường và đùa giỡn với hai con.  Trăm ngàn khó nhọc nhưng gia đình cô rất hạnh phúc, đầm ấm, chỉ mong cuộc sống mãi bình yên.
Đầu năm 1993 gia đình Hải Đường phải bỏ cái vùng đất oan nghiệt ấy ra đi. Đến vùng đất mới xa lạ ở vùng rừng núi cao nguyên để kiếm sống. Phải vay mượn thêm để có tiền cất tạm nhà mới. Anh Thọ không còn đi núi nữa vì sức khỏe rất kém. Hải Đường mở quán nước giải khát nhỏ trước nhà và anh Thọ nhận dạy kèm Toán, Anh văn cho học sinh cuối cấp nên cũng có thêm thu nhập. Tuy vậy, quần quật quanh năm suốt tháng mà cũng không trả hết nợ. Túng thiếu đeo đuổi gia đình cô mãi.
Năm 1994 anh Thọ phát bệnh nặng, phải vào bệnh viện để điều trị nhiều đợt do xuất huyết dạ dày. Sức khoẻ anh càng ngày càng sa sút. Anh xanh xao, gầy yếu nhưng vẫn phải dạy học để có thêm thu nhập cho gia đình. Hải Đường làm mọi công việc để đủ tiền nuôi hai con ăn học và thuốc thang cho anh. May mắn nhất là hai đứa con  rất ngoan hiền, biết phụ giúp đỡ đần công việc trong nhà nên cô cũng được đôi phần an ủi, yên tâm.
Cuối năm 1994 sức khỏe anh đã kiệt quệ. Thương cho hoàn cảnh, mến anh và thích cách dạy của anh nên học trò vẫn đến học rất đông. Anh ngồi kê gối dựa vào thành giường giảng bài, còn học trò ngồi chung quanh ghi chép. Khi thấy anh mệt thì thay phiên nhau quạt, xoa bóp cho anh, lại còn nấu từ nhà mang đến cho anh những món ăn bồi dưỡng sức khỏe. Cứ như vậy anh cố gắng dạy cho đến gần ngày ra đi.
Anh Thọ mất vào một buổi tối giữa tháng giêng âm lịch tại bệnh viện tỉnh. Trước đó vài giờ, khi anh đang còn nhận máu từ những đứa học trò hiến cho anh thì vị bác sĩ trực tiếp điều trị cho anh đã gọi Hải Đường ra ngoài hành lang hỏi: “Chị đã có con trai chưa?”  Cô gật đầu trả lời “Dạ, tôi được hai cháu trai”. Bác sĩ giọng nhỏ lại: “Vậy là tốt rồi. Bệnh anh nặng lắm, bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối, không qua được đâu. Có lẽ một vài hôm nữa thôi”…
Hải Đường gục xuống hành lang bệnh viện, ôm mặt khóc.
Trở vào phòng ngồi bên cạnh nhìn anh thoi thóp thở, cô cứ ôm lấy đôi chân gầy guộc, xanh xao của anh như muốn níu giữ anh ở lại với mình, với hai con. Hải Đường xin anh đừng bỏ rơi cô và hai con mà đi. Hải Đường yếu đuối quá, cần anh che chở biết bao. Hai con còn thơ dại quá, cần anh nuôi nấng, dạy dỗ mới khôn lớn nên người.
Bón cho anh từng muỗng sữa rất nhỏ mà anh vẫn nuốt thật khó khăn. Nước mắt anh chảy dài trên gối và nước mắt Hải Đường thì rơi từng giọt trên ngực anh. Rồi anh sờ soạng, cầm lấy hai bàn tay cô nắm  chặt như muốn dồn vào đó tất cả sức lực còn lại của mình. Giọng anh lạc hẳn đi:  “Em yếu đuối quá! Anh sợ em nuôi con không nổi. Tội nghiệp cho em.” Rồi bàn tay anh lơi dần, mắt khép kín và đôi chân cũng lạnh dần.
Anh ra đi thật lạnh lùng, thật vội vã không chút tiếc thương, mặc cho Hải Đường và hai con đã ghì chặt, đã kêu tên anh biết bao lần.
Hải Đường trở thành  góa phụ năm 38 tuổi…
Đám tang anh thật lặng lẽ. Bà con không có nhiều. Đông nhất là học trò của anh và hàng xóm  tiễn đưa đến nơi cuối cùng.
Sau đám tang anh một tuần Hải Đường lại phải lao vào công việc. Đau đớn và thương tiếc chồng cũng đành nén lòng để kiếm đồng tiền nuôi hai con và trả nợ.  Cuộc đời cơ cực cứ vậy mà lôi cô đi. Con trai lớn tội nghiệp  phải nghỉ học để đi học nghề, đau lòng lắm nhưng đành phải vậy thôi. Làm sao một mình Hải Đường có thể gánh vác được để cho con tiếp tục đến trường. Cô thật sự bất lực để kiếm đồng tiền nuôi con. Nước mắt chỉ biết nuốt vào trong nhìn con mới mười lăm tuổi phải vào đời kiếm miếng cơm.
Từ lúc ấy Hải Đường không còn để ý gì về mọi chuyện chung quanh nữa. Công việc bắt đầu từ sáng sớm và kết thúc vào 9 giờ tối hàng ngày. Ban ngày cô nấu chè bán cùng các loại nước giải khát và đồ tạp hóa. Hàng gì bán được cô cũng gom góp mua về bán. Đêm đến làm nhiều loại bánh để sáng sớm hôm sau đạp xe đi bỏ khắp nơi.
Khổ cực đến nỗi Hải Đường không còn nhớ chuyện gì đã xảy ra trong cuộc đời mình hơn hai mươi năm qua. Không có thời gian để nhớ về thân phận mình, để nhớ về những ngày xưa rằng cô đã có một thời đi học vui đùa cùng các bạn, đã có một tình yêu đầu đời thật đẹp. Thậm chí cô cũng quên luôn mình đã từng có một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Quên luôn những khổ đau đã trải qua, vì chính thời gian này là thời kỳ bi đát nhất, khó khăn nhất trong đời cô.
Một điều kỳ lạ nhưng may mắn đã xảy ra. Vào đúng ngày mãn tang anh Thọ, mới sáng sớm, bất ngờ cô em chồng đến thăm, chạy ào vào nhà:
– Chị Hải Đường ơi! Em nằm mơ thấy anh Thọ về. Khuôn mặt anh buồn lắm. Anh vừa khóc, vừa nói với em đừng đòi lại số vàng đã cho anh chị mượn. Anh xin em cho chị vì biết chị trả không nổi. Sáng nay em đã ra mộ thắp hương đồng ý rồi. Thôi chị đừng lo nữa, em cho chị để nuôi cháu. Chị yên tâm nhé!
Hải Đường mừng rỡ đến nghẹn ngào không nói được lời cảm ơn cô em chồng. Chỉ biết ôm chặt lấy cô ấy mà khóc nức nở.
Vậy là  bớt đi một nỗi lo. Hải Đường biết ơn vô cùng. Tình cảm và sự cưu mang của cô em chồng Hải Đường nhớ mãi mãi.
 Thời gian vun vút trôi nhanh. Con trai chị bây giờ đã khôn lớn, bắt đầu kiếm được tiền giúp đỡ mẹ và em. Hải Đường  sung sướng khi con  đem đồng tiền đầu đời của nó kiếm được đưa cho mình. “Con đã trưởng thành rồi, Mẹ mừng lắm!”. Chị xúc động nói với con như vậy. Con trai đã lớn, chững chạc, hiền lành và giống ba như đúc. Hải Đường không phải làm công việc của người đàn ông nữa, không phải leo lên mái nhà để lợp lại tấm tôn tốc mái. Đóng những cây đinh để treo hàng hóa hay cầm cái cưa xẻ tấm ván làm ghế ngồi. Chị sung sướng nhìn con đóng cái bàn, cái ghế, sửa lại hàng rào… Làm những việc mà trước đây chị phải gánh vác thay chồng.
Bây giờ nhà chị thực sự đã có người đàn ông rồi.
Vất vả để nuôi con, thân xác héo hon, nhan sắc cũng úa tàn theo. Hải Đường đóng chặt trái tim mình như sợ ai đó biết được nó đang cô đơn mà gõ cửa. Chị sống an phận, nén buồn tủi với  tiếng thở dài.
Nhiều người đàn ông nhìn ngó, đánh tiếng. Trong số họ cũng có  người không vướng bận gia đình, kinh tế khá giả nhưng chi không để tâm. Lòng đã lạnh nguội rồi. Chị đã có hai con trai và đó là chính cuộc đời của chị. Con  ngày càng khôn lớn và chị cảm thấy mình được bảo vệ, chở che. Còn gì hơn nữa. Ấm lòng, hạnh phúc trong cảnh mẹ góa con côi chị luôn cầu mong sao quãng đời còn lại được bình yên, may mắn.
Cuộc sống cứ trôi đều. Cuốn Hải Đường theo với những tháng ngày cực nhọc, buồn tủi.  Chị không còn nhớ ai và cũng không muốn nhớ về ai. Thật ra cũng chẳng còn ai để cho chị nhớ về. Hải Đường quên hết, sống khép kín trong vỏ ốc cô đơn. Chị biết chẳng ai còn nhớ đến mình. Bạn bè ư?. Một thời đã xa rồi. Tình yêu ư? Trái tim  héo khô rồi. Nơi vùng đất xa xôi cao nguyên này chỉ còn lại mình chị và hai đứa con tội nghiệp sống trong nghèo khổ mà thôi. Một thời nhan sắc đã qua, cái khổ tàn phá dung nhan chị. Một người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh.
Có những chiều ngồi giặt áo quần bên giòng kênh nhìn nước chảy cuồn cuộn, Hải Đường chợt nhớ đến con suối  năm xưa. Chị nhớ những đêm trăng cùng chồng ngồi trên tảng đá to nhìn trăng lên. Hải Đường nhìn xuống giòng kênh ấy và nhìn  thấy chồng mình ngồi trầm tư nhìn ánh trăng trên giòng nước chảy lững lờ bên giòng suối năm xưa. Nhìn thấy từng mảnh trăng vỡ vụn dưới những bọt nước bên khe đá.
Con kênh đưa giòng nước chảy về đâu? Có đem theo được nỗi lòng Hải Đường về lại chốn cũ. Nơi những đêm trăng chị ngồi bên chồng, tựa đầu vào vai anh nghe hạnh phúc trào dâng.
Có mang dùm tâm hồn nhỏ bé tội nghiệp của chị về đâu đó xa xa, nơi ấy có anh, mối tình đầu vụng dại. Giòng kênh nước chảy ơi! Nước mắt chị lại hoà xuống dòng kênh, trôi đi.
Có những đêm mệt lả người Hải Đường ngủ  thiếp đi. Trong mơ màng giấc ngủ hiện về những ngày tươi đẹp hiếm hoi của đời mình.
Chị mơ thấy Ba chở đến Đài phát thanh Huế, nơi Ba vẫn thường làm việc. Cô bé năm tuổi đứng đằng trước hai tay vịn vào ghi đông. Ba ngồi trên xe hai đầu gối giữ chặt, vừa chạy vừa cúi xuống hôn lên tóc cô con gái bé nhỏ .
Chị mơ đang chơi cờ cá ngựa cùng chồng. Khi  bị thua, anh vừa nhẹ nhàng vuốt mũi vừa nheo mắt chọc chị. Tức quá,chị khóc không thèm chơi mặc cho anh năn nỉ.
Chị mơ những đêm trăng lẽo đẽo theo anh đi dọc con suối, tay cầm giỏ đựng cá, hai vợ chồng vừa đi vừa hát nho nhỏ.
Chị mơ về mối tình đầu. Nụ cười nửa miệng và đôi mắt nhìn nghiêng của anh. Mơ thấy anh băng nhanh qua hành lang lớp học, nghiêng đầu nhìn. Bóng anh mờ dần dưới sân trường rồi mất hút đằng sau cánh cổng.
Chị mơ cùng bạn bè tung tăng ngoài cửa lớp, mơ điệu múa  Vọng cố đô với áo Hoàng bào rực rỡ.
Chị mơ nhiều lắm để rồi khi tỉnh giấc, những giọt nước mắt lăn dài trên má.
Và như vậy Hải Đường cứ mơ, mơ và mơ. Những giấc mơ an ủi chị, đem lại hơi thở cuộc sống  sau những giờ mệt nhọc. Giấc mơ cho chị thêm nghị lực, dìu chị đi như đứa bé con mới lớn chập chững những bước vụng về.
Hải Đường mơ nhiều lắm. Vì chỉ có mơ mới đem lại cho chị niềm hạnh phúc mà thôi, dù biết rằng đó là hạnh phúc trong mơ.
Sau nhiều lá thư của ông Giao gởi về thuyết phục, hứa hẹn một cuộc sống tươi đẹp, mẹ buộc cô phải làm đám cưới với ông. Biết không thể nào ngăn cản ý của Mẹ được nữa nên Hải Đường im lặng ra vẻ đồng ý, nhưng trong lòng thì đang tìm cách thoát cho bằng được cuộc hôn nhân này. Đêm đó cô quyết định viết lá thư từ hôn gởi cho ông Giao với những lời lẽ  thật cay đắng và cả van xin. Hải Đường đề nghị  một cách dứt khoát, yêu cầu ông Giao ra nhận lại lễ vật đã tặng  trong lễ hỏi. Một quyết định liều lĩnh đầu tiên trong đời mà cô dám làm để giải thoát cho bản thân. Hải Đường chọn con đường tìm lại tự do cho mình đồng thời cũng chấp nhận một cuộc đời đắng cay, tủi nhục khác.
Nhận thư, có lẽ ông Giao không còn hy vọng gì ở cuộc hôn nhân này nữa nên mười ngày sau, người chú và người em trai thay mặt gia đình từ Bình Định vào xin được nhận lại những lễ vật đính hôn. Chiếc nhẫn bằng kim cương có giá trị lớn cùng những lễ vật khác Hải Đường đã cẩn thận gói sẵn để trong tủ chờ đến ngày trả lại cho nhà trai.
Ngày định mệnh  25/6/1977.
Đang cầm chiếc cuốc xới cho tơi đất để trồng mì, anh trai từ nhà qua báo cho Hải Đường biết gia đình ông Giao đến nhận lại lễ hỏi theo đề nghị trong thư của cô.  Mẹ cho gọi  về ngay. Hải Đường nghe báo tin mà rụng rời cả tay chân. Chiếc cuốc trên tay lúc đó cô nắm chặt không muốn thả ra. Một thời khắc sợ hãi kinh hoàng cô cần phải đối mặt trong lúc này.
Hải Đường biết điều đen tối đang chờ cô trong chút nữa thôi. Sợ hãi tột cùng. Cô điên loạn hay đã chết rồi trong lúc ấy?
Sợ Mẹ, sợ họ hàng ông Giao nên Hải Đường trốn biệt vào một bụi cây rậm bên rẫy. Không ai có thể tìm ra cô cho đến tối mịt. Chung quanh là bóng đêm. Sương bắt đầu rơi xuống trên những tán cây, trên lá và trên tóc Hải Đường ướt đẫm. Lạnh buốt xương và cái đói hành hạ. Nhắm mắt lại cô bắt đầu rơi vào cơn mê loạn.
Có ánh sáng đom đóm bay đêm chập chờn. Tiếng gió rít, ve vuốt, rượt đuổi. Âm thanh răng rắc. Tiếng lá rơi xào xạc, lả lơi. Có tiếng hát ru em của Dì Út vọng về.
 Điệu múa Đêm tàn Bến Ngự. Lượt là trong bộ Hoàng bào vàng óng.
Những hạt sương mong manh trên má. Cái lạnh thấm dần vào thân thể yếu mềm hoà với cái đau bị muỗi đốt vẫn còn đỡ hơn cái đau trong tâm hồn mà Hải Đường đang gánh chịu lúc này. Cô muốn mình được thiếp đi một cách nhẹ nhàng. Thôi đừng đau đớn nữa. Cô muốn bay vào hư vô mãi mãi để không còn phải giáp mặt với những bất hạnh mình đã chịu từ bao nhiêu năm nay.
Sương lạnh thấm vai. Buốt rét mềm đôi bàn tay nhưng con tim nóng hừng hực bừng lên như ngọn lửa hồng đốt cháy.
Tiếng muỗi vo ve hát ca nhảy múa.Tiếng côn trùng ran ran bên cạnh. Có tiếng sột soạt của con thú hoang đói mồi.Tiếng chin chit của lũ chuột tinh ranh.
Có tiếng hú gọi đến như tiếng người. Đen thẫm. Mờ mờ ảo ảo ánh đén hắt sang ..
Hải Đường giật mình bừng tỉnh. Không gian rờn rợn. Chung quanh toàn những cây cao và bụi rậm. Đêm của lũ côn trùng ma quái.
Đói cồn cào!
Hải Đường muốn nằm yên trong bụi cây này mãi. Mong được khép chặt đôi mắt, thiếp đi nhẹ nhàng và đừng bao giờ thức dậy  nữa. Muốn được bay bỗng lên rồi tan ra, biến vào hư không. Xin đừng đau đớn. Cô đau đớn nhiều rồi. Hải Đường muốn trốn chạy đi đâu đó thật xa cái xứ này. Nhưng trốn đi đâu bây giờ?
Rét run và đói. Hai tay ôm chặt lồng ngực, hơi thở yếu dần. Hải Đường trở mình bên bụi cây gai. Có vết đau trên lưng. Không! Nó nhói từ trái tim. Nắm nhánh cây gai đang đong đưa trước mặt, níu chặt, chập choạng. Có mùi mặn trên đôi tay.
Không còn nơi nào  có thể nương thân. Về thôi!
Lầm lũi  bước cao, bước thấp mò mẫm từng đoạn đường mòn, bước qua con suối lạnh Hải Đường tìm đường về nhà.
Bọn dế giun đang hát khúc hoan ca hay khúc bi ai bên kia bờ suối?
Rồi cũng đến được. Cổng nhà đây rồi! Cánh cửa màu xanh quen thuộc và cây trứng cá của Hải Đường mỗi chiều đứng đợi. Mà đợi gì nhỉ?
Bàn tay chạm vào cánh cửa, Hải Đường run lên bần bật, thân thể co rúm lại, bước chân không còn nhấc lên nổi nữa. Chờ  một lúc lâu, nghe trong nhà im vắng cô rón rén đi vào bằng lối bên hông nhà. Vừa đến sân nhìn thấy Mẹ ngồi trên ghế, nét mặt giận dữ đang chờ. Thân thể mãnh mai tội nghiệp đổ sụp xuống dưới chân Mẹ.
Không còn cảm giác để mà đau nữa.  Không còn đủ sức để van xin. Tê dại. Khù khờ. Có tiếng gió rin rít. Gãy đổ. Lào rào. Rền rĩ. Nước mắt cạn khô rồi. Miệng bỏng rát. Da thịt nham nhám mùi vỏ cây. Hải Đường lạnh!
Đã bao nhiêu lần trong đời sống bên ngoài gia đình. Đó là những đêm đi biểu diễn văn nghệ cùng với bạn bè thời đi học. Những lúc ấy Hải Đường chỉ có niềm vui.
Đêm nay cô cũng có một đêm bên ngoài ngôi nhà của mình. Bên ngoài đúng nghĩa của nó vì Hải Đường đang ngồi dựa gốc cây trứng cá trước nhà mình giữa đêm khuya.Tâm hồn khô khốc, trống rỗng, nhạt thếch. Đã khóc như một phản ứng tự nhiên nhưng không hiểu vì sao mình khóc. Chẳng ý thức được gì, không hiểu mình đang làm gì và chuyện gì đang xảy ra với mình. Sự trống rỗng đến ngạc nhiên.
Lại mơ!
Hoá thân thành con đom đóm nhỏ lập loè bay lên với các vì sao. Sao sáng quá khiến cô sợ hãi,
Mơ bay trên sân trường phủ đầy hoa phượng đỏ có những tà áo trắng phất phơ.
Mơ xoay tròn trên sân khấu với vũ khúc Vọng cố đô trong vai cô Công chúa mặc áo Hoàng bào.
Mơ mình ngồi bên giòng sông tuổi thơ, nước êm đềm cuốn đi chiếc lá khô vừa rơi xuống. Ba  chở đi trên chiếc Lambretta qua cầu Bạch Hổ chiều lộng gió thổi bay chiếc mũ rộng vành.
Mơ được Ba đưa vào Đài phát thanh Huế khi người còn làm việc trong ban văn nghệ .
Mơ! Cô mơ nhiều lắm.
Mơ cái êm êm của tuổi thơ bên giòng sông Hương. Mơ con chuồn chuồn ớt đỏ vụt bay trong khoảnh khắc hai ngón tay vừa chạm vào cái đuôi mềm mại, âm ấm của nó. Mơ con đường đất nhiều sỏi đá dẫn tôi đến trường tiểu học và thằng bạn mập xịt, kẻ thù  thời thơ ấu.
( Xem ” Chuyến Tàu Tuổi Thơ” cùng tác giả)
Mơ tiếng chuồn chuồn chạm nước. Nhẹ nhàng như nụ hôn bất ngờ anh lướt nhẹ trên má.
Nhiều khuôn mặt lướt qua trong trí nhớ vội vàng. Nhòe nhoẹt. Rõ nét. Vui nhộn. Lặng lẽ. Hung tợn. Như có thể chạm được nhưng lại xa vời vợi.
Hải Đường mơ, mơ mãi trong giấc ngủ mê hoảng loạn. Hai tay bó gối. Lưng tựa vào thân cây.
Tiếng muỗi vo ve, tiếng chó sủa trong đêm vắng vẻ. Con đường khuya thỉnh thoảng có ánh đèn vụt qua.
Có tiếng xì xào xa xa. Tiếng chim non gọi mẹ. Thống thiết.
Có cánh tay choàng qua vai ôm chặt . Hơi ấm từ đâu đó sưởi ấm bờ vai gầy yếu của cô  vẫn còn đang trong mơ tuyệt vọng.
Có cái lay nhẹ bờ vai. Lờ mờ Hải Đường nhận ra một giọng nói quen thuộc. Có tiếng âm âm từ rừng núi dội về.
Có tiếng hỏi dồn. Cô bay lên. Nhè nhẹ. Từ từ. Chậm rãi. Hải Đường chạm vào mây. Mềm mại. Âm ấm.
Mây vuốt vào má. Có bàn tay đặt nhẹ lên môi. Có cánh tay dìu  đứng dậy. Lướt hay bay đi. Nhẹ tênh.
Hải Đường như vô cảm lúc đó. Bước chân bềnh bồng. Chệnh choạng.
Anh Thọ!
Hình như Hải Đường đang gọi tên ai đó.
Anh dìu cô về căn nhà nhỏ của mình.
Sáng hôm sau, cơn mê bừng tỉnh. Anh nói: “Bây giờ thì em quyết định được rồi đó, em phải tự chọn con đường mình đi, không ai ép buộc em được. Nhìn em như thế này anh cảm thấy uất ức lắm. Anh muốn đưa em thoát khỏi cuộc hôn nhân vô nghĩa này, anh sẽ bất chấp tất cả nếu em đồng ý”.
Anh an ủi, dỗ dành, thuyết phục, vỗ về Hải Đường  mãi. Có còn nơi đâu để cô về nữa?.
Cơn gió rin rít thổi qua mái lá. Có tiếng róc rách của con suối chảy qua ngang đây. Bản nhạc rừng líu lo.
Hải Đường  gật đầu đồng ý. Cô cũng chẳng cần gì khác nữa.
Sau này, khi hai vợ chồng tâm sự cùng nhau, Anh hay ôm đầu Hải Đường vào lòng, nói đùa: “Mẹ đã vô tình tặng cho anh món quà vô giá này”.
Một tuần sau Ủy ban xã cấp giấy công nhận kết hôn và cho hai người ở nhờ căn nhà nhỏ vắng chủ. Của hồi môn Hải Đường mang theo chẳng có gì nhiều. Ngoài áo quần, chỉ còn vài ba cuốn sách và những kỷ vật thời học trò.
Hai vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc. Anh rất yêu thương Hải Đường, lo lắng cho cô đủ điều, từ những việc nhỏ nhặt nhất trong gia đình. Kinh tế khó khăn  nhưng không lấy đó làm buồn phiền. Vợ chồng cô chăm lo hạnh phúc gia đình. Quyết định không có con vội trong lúc này.
Cuộc sống tuy nghèo nhưng thơ mộng. Hai người  thường hay ngồi bên nhau hằng giờ mỗi đêm, chồng đàn vợ hát những tình khúc xưa thật say sưa. Khi chưa vướng bận chuyện con cái, hai người thường hay xuống suối vào những đêm trăng sáng. Đêm trăng bên giòng suối vắng thật huyền ảo, ánh trăng tràn ngập khắp nơi. Trăng như rơi vỡ trên giòng nước.
Hải Đường và anh đi dọc theo bờ suối hoặc ngồi trên tảng đá cùng nhau câu cá. Thường thì anh cầm cần câu còn cô cầm đèn, ngồi giữ chiếc lồng đựng cá và nhai bắp rang cho đỡ buồn ngủ. Nhưng cũng có đôi lúc cô thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi anh gọi dậy, cùng nhau trở về trời cũng bắt đầu sáng.
Cuộc sống vợ chồng khi mới lấy nhau thật lãng mạn dù muôn vàn khó khăn phải đối mặt hằng ngày.
Năm 1980 Hải Đường sinh con trai đầu lòng. Cuộc sống bây giờ khó khăn hơn nhiều, với đồng lương của anh làm sao nuôi được vợ con nên anh quyết định xin nghỉ việc ở Uỷ ban xã để ra ngoài làm ăn.
Cuộc sống vất vả hơn nhiều. Anh bươn chãi khắp nơi để kiếm sống.Ở thời buổi này, kiến thức, chữ nghĩa anh học được chẳng giúp gì được cho cuộc sống gia đình.
Vào một buổi sáng thàng hai 1982, đang lui cui làm việc ở nhà thì em gái Hải Đường chạy vào báo tin Ba bị tai nạn bên rẫy. Cô tức tốc chạy băng qua, đến nơi thì Ba đã trút hơi thở cuối cùng. Đau đớn chồng thêm đau đớn, vành khăn tang đầu tiên trong đời lại dành cho người cô yêu thương và kính trọng nhất. Người luôn mong muốn cho cuộc đời con gái được sung sướng, hạnh phúc nhưng lại bất lực nhìn đứa con gái yêu thương của mình chịu hết đau khổ này đến đau khổ khác. Không đủ sức dìu dắt để con được vào đời may mắn hơn.
Hải Đường mồ côi Ba!
Đứa con trai thứ hai ra đời  năm 1983 thì tháng ngày vất vả  bắt đầu từ đây. Anh Thọ tham gia đoàn người đi tìm trầm. Mỗi chuyến đi của anh lặn lội trong rừng sâu nước độc từ nửa tháng đến một tháng đã đày ải thân xác anh.
Căn nhà nhỏ bên cạnh nhà thờ  được Ủy Ban Xã cho ở tạm thấp lè tè và nóng bức vô cùng. Lấy nhau đã năm năm mà tài sản gia đình của họ chẳng có gì. Thậm chí cái quạt máy cho con mát trong những ngày hè cũng không có. Hải Đường phải xin vào làm kế toán ở ủy ban xã với đồng lương èo uột nhưng vẫn cố gắng sống sao cho vừa đủ. Điều này có nghĩa bản thân cô phải biết tính toán và tiết kiệm một cách tối đa. Một đồng quà cho con cũng phải suy nghĩ.
Anh Thọ đi núi vất vả  nhưng không kiếm được bao nhiêu. Lúc trầm khan hiếm thì lại không được gì. Lúc tìm được trầm thì hàng không ai mua phải bán rẻ. Phải nói là số phận gia đình Hải Đường thật bất hạnh. Người ta cũng như mình nhưng lại gặp may mắn còn anh thì xui rủi cứ đeo đuổi mãi .
Cuộc sống khốn khó nhưng hạnh phúc trôi đều theo năm tháng
Và kỷ niệm nhẫn tâm một lần ùa về  thật bất ngờ...
Một buổi chiều, Hải Đường thong thả đạp xe về nhà sau giờ làm việc. Hôm đó anh Thọ không đi núi, thay cô lo cho hai con nên cô cũng không vội vã lắm. Tự cho phép mình hưởng thụ một chút gió chiều, nắng nhạt, cái cảm giác mà lâu lắm rồi có không có được.
Hải Đường nhớ hôm ấy tóc bay sau ngược gió vì cô không kẹp lên. Một chút lãng mạn sau bao tháng năm buồn, hôm nay cô muốn được hưởng một tí.
Khi đạp xe về gần ngôi nhà cũ, quán cà phê Hải Đường ngày trước. Cô giật mình vì thoáng thấy một dáng người cúi đầu lầm lũi bước đi bên kia đường. Dáng ấy quen thuộc đến mức Hải Đường không thể lầm lẫn được. Hai tay cô run run trên ghi đông xe đạp, toàn thân cứng đờ. Chiếc xe vẫn từ từ tiến lên phía trước một cách nặng nề.
Khi đến trước quán cà phê cũ, người ấy dừng lại và nhìn vào trong rất lâu. Hải Đường cũng dừng lại bởi một sức hút vô hình từ phía bên kia đường. Cô ngộp thở, tai ù đi, ran ran tiếng gió.
Hải Đường bước ra khỏi xe và nhìn chằm chằm vào con người ấy. Bất chợt người ấy quay lại nhìn cô.
Người bên này, người bên kia đường bất ngờ hoà tan trong  ánh mắt. Hai chân Hải Đường muốn quỵ xuống. Đôi mắt của anh. Đôi mắt u buồn kỳ lạ, xa xăm nhưng lại có ngọn lửa bùng cháy bên trong.
Trời ơi! anh đó sao? Hơn mười năm rồi, anh gầy và đen hơn nhiều. Dáng người khắc khổ. Anh nhìn cô không hề chớp mắt. Hải Đường cũng vậy. Nước mắt cô chảy dài  xuống má tự nhiên không kìm chế được. Hải Đường muốn chạy ào qua với anh nhưng hai chân chôn chặt xuống lề đường. Không được! Không thể được. Cô nhủ thầm như vậy.
Người bên này, người bên kia đường chỉ im lặng nhìn nhau  trong chốc lát, không ai nói một lời nào. Khi anh quay mặt bước đi cũng là lúc Hải Đường ngồi lên yên xe, đạp về nhà. Cô cám ơn anh đã kìm chế được trong giây phút đó. Nếu anh băng qua con đường rồi đứng trước mặt cô liệu điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Hải Đường cũng không biết nữa. Trong khoảnh khắc xảy ra chớp nhoáng ấy, cô tin anh vẫn còn yêu mình. Đôi mắt không giấu được điều gì.
Về đến nhà chồng con  ra đón, hai đứa con bụ bẫm dễ thương ôm lấy Hải Đường. Nhờ vậy cô đã che giấu được cảm xúc bất ngờ với chồng lúc đó. Hải Đường đã quyết định đoạn tuyệt với mối tình đầu từ lâu. Hơn mười năm, đôi lúc có nhớ về anh nhưng với tình yêu chồng con dành cho cô quá lớn không cho phép có những giây phút yếu lòng. Cũng bởi Hải Đường may mắn chưa gặp lại lần nào kể từ lúc anh ra đi. Nhưng chiều nay, gặp nhau trong hoàn cảnh như vậy lòng cô đau xót lắm. Thà anh cứ cúi đầu, đừng nhìn để cô không mang nặng đôi mắt ấy, có lẽ sẽ nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Hải Đường biết phải làm sao bây giờ. Đã là gái có chồng,  sinh được hai cậu con trai, trái tim  mềm yếu vẫn chưa quên được anh sao?
Thật ra  Hải Đường đã tự dối lòng. Cô nghĩ không chỉ riêng mình mà với bất cứ người phụ nữ nào đều không thể quên được tình yêu cũ. Nếu có thể quên, có nghĩa là họ chưa bao giờ yêu và được yêu. Người phụ nữ luôn yếu mềm. Chỉ có thể chôn vùi nó vào trong trái tim để làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ. Coi đó như là một kỷ niệm thiêng liêng. Một tượng đài của ký ức.
Hải Đường cũng chỉ là một phụ nữ yếu đuối.
 Mối tình đầu luôn có một chỗ đứng trong trái tim. Dù đã có gia đình nhưng cô vẫn dành riêng cho mối tình ấy một  giang sơn nhỏ bé trong tâm hồn. Nó mong manh, kỳ ảo vô cùng.
 Sáng hôm sau nhìn thấy Hải Đường xanh xao mệt mỏi, anh Thọ đến bên cạnh, nhẹ nhàng:
– Em đau rồi, hôm nay xin nghỉ một ngày cho khỏe. Để việc nhà anh lo. Em cứ nằm nghỉ.
– Dạ không anh, em mệt một tí thôi, đi làm được mà.
Nói với anh như vậy nhưng Hải Đường rất mệt do cả đêm qua thao thức, nằm không dám trở mình sợ anh lo lắng. Cô hối hận và thấy thương anh. Trong một phút yếu lòng gặp lại anh, Hải Đường trở thành người phụ nữ phản bội chồng mình dù chỉ trong tư tưởng.
 Đôi khi nhiều chuyện cứ tưởng đơn giản nhưng không phải vậy. Ngỡ đã quên được anh rồi, nhưng khi bắt gặp ánh mắt u buồn của anh buổi chiều hôm ấy lòng cô lại vấn vương, ray rứt. Nhiều năm sau này cũng vậy, cho đến ngày chồng qua đời, trái tim héo khô và thân xác gầy mòn sống đơn độc một mình nuôi con, Hải Đường mới thật sự quên được tất cả. Cô quên hết những con người đã từng yêu thương mình. Quên hết. Không có ai, không còn ai trong tâm trí cô nữa. Bởi một điều đơn giản cô không còn thời gian để tiếc nhớ, để mộng mơ, để oán trách.  
Hai con khỏe mạnh, ít đau ốm nên Hải Đường cũng bớt được nỗi lo.Có lẽ ông trời thương cảm hoàn cảnh gia đình cô nên ban cho hạnh phúc như vậy. Niềm hạnh phúc lớn lao nhất là mỗi chiều đi làm về được bồng ẳm, ôm chặt hai con vào lòng. Buổi tối sau khi dỗ hai con ngủ cô tranh thủ làm sổ sách kế toán cho hoàn chỉnh. Những ngày anh Thọ không đi núi sẽ ngồi ôm đàn hát khẽ cho cô nghe hoặc gíup cô cộng những dãy số để làm quyết toán.
Những đêm trăng đẹp, cả gia đình ra ngồi bên bờ suối ngắm trăng lên. Ánh trăng xuyên qua những tán cây hai bên bờ suối trông thật lãng mạn. Trăng rơi xuống mặt nước lững lờ trôi, trăng vỡ từng mảnh nhỏ trên lưng phiến đá. Có khi trăng lại cười với gia đình họ.  Hai con trai tung tăng bên bờ suối, còn vợ chồng Hải Đường ngồi cạnh nhau hát cho nhau nghe những bản tình ca . Ôi, thời gian ấy sao mà đẹp quá!
Có những buổi sáng anh dậy thật sớm chuẩn bị bữa ăn sáng cho công việc đi kiếm củi cách đó gần 10 cây số. Cực nhọc, vất vả là vậy nhưng lúc nào anh cũng tươi cười, ngọt ngào, nhẹ nhàng với Hải Đường và đùa giỡn với hai con.  Trăm ngàn khó nhọc nhưng gia đình cô rất hạnh phúc, đầm ấm, chỉ mong cuộc sống mãi bình yên.
Đầu năm 1993 gia đình Hải Đường phải bỏ cái vùng đất oan nghiệt ấy ra đi. Đến vùng đất mới xa lạ ở vùng rừng núi cao nguyên để kiếm sống. Phải vay mượn thêm để có tiền cất tạm nhà mới. Anh Thọ không còn đi núi nữa vì sức khỏe rất kém. Hải Đường mở quán nước giải khát nhỏ trước nhà và anh Thọ nhận dạy kèm Toán, Anh văn cho học sinh cuối cấp nên cũng có thêm thu nhập. Tuy vậy, quần quật quanh năm suốt tháng mà cũng không trả hết nợ. Túng thiếu đeo đuổi gia đình cô mãi.
Năm 1994 anh Thọ phát bệnh nặng, phải vào bệnh viện để điều trị nhiều đợt do xuất huyết dạ dày. Sức khoẻ anh càng ngày càng sa sút. Anh xanh xao, gầy yếu nhưng vẫn phải dạy học để có thêm thu nhập cho gia đình. Hải Đường làm mọi công việc để đủ tiền nuôi hai con ăn học và thuốc thang cho anh. May mắn nhất là hai đứa con  rất ngoan hiền, biết phụ giúp đỡ đần công việc trong nhà nên cô cũng được đôi phần an ủi, yên tâm.
Cuối năm 1994 sức khỏe anh đã kiệt quệ. Thương cho hoàn cảnh, mến anh và thích cách dạy của anh nên học trò vẫn đến học rất đông. Anh ngồi kê gối dựa vào thành giường giảng bài, còn học trò ngồi chung quanh ghi chép. Khi thấy anh mệt thì thay phiên nhau quạt, xoa bóp cho anh, lại còn nấu từ nhà mang đến cho anh những món ăn bồi dưỡng sức khỏe. Cứ như vậy anh cố gắng dạy cho đến gần ngày ra đi.
Anh Thọ mất vào một buổi tối giữa tháng giêng âm lịch tại bệnh viện tỉnh. Trước đó vài giờ, khi anh đang còn nhận máu từ những đứa học trò hiến cho anh thì vị bác sĩ trực tiếp điều trị cho anh đã gọi Hải Đường ra ngoài hành lang hỏi: “Chị đã có con trai chưa?”  Cô gật đầu trả lời “Dạ, tôi được hai cháu trai”. Bác sĩ giọng nhỏ lại: “Vậy là tốt rồi. Bệnh anh nặng lắm, bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối, không qua được đâu. Có lẽ một vài hôm nữa thôi”…
Hải Đường gục xuống hành lang bệnh viện, ôm mặt khóc.
Trở vào phòng ngồi bên cạnh nhìn anh thoi thóp thở, cô cứ ôm lấy đôi chân gầy guộc, xanh xao của anh như muốn níu giữ anh ở lại với mình, với hai con. Hải Đường xin anh đừng bỏ rơi cô và hai con mà đi. Hải Đường yếu đuối quá, cần anh che chở biết bao. Hai con còn thơ dại quá, cần anh nuôi nấng, dạy dỗ mới khôn lớn nên người.
Bón cho anh từng muỗng sữa rất nhỏ mà anh vẫn nuốt thật khó khăn. Nước mắt anh chảy dài trên gối và nước mắt Hải Đường thì rơi từng giọt trên ngực anh. Rồi anh sờ soạng, cầm lấy hai bàn tay cô nắm  chặt như muốn dồn vào đó tất cả sức lực còn lại của mình. Giọng anh lạc hẳn đi:  “Em yếu đuối quá! Anh sợ em nuôi con không nổi. Tội nghiệp cho em.” Rồi bàn tay anh lơi dần, mắt khép kín và đôi chân cũng lạnh dần.
Anh ra đi thật lạnh lùng, thật vội vã không chút tiếc thương, mặc cho Hải Đường và hai con đã ghì chặt, đã kêu tên anh biết bao lần.
Hải Đường trở thành  góa phụ năm 38 tuổi…
Đám tang anh thật lặng lẽ. Bà con không có nhiều. Đông nhất là học trò của anh và hàng xóm  tiễn đưa đến nơi cuối cùng.
Sau đám tang anh một tuần Hải Đường lại phải lao vào công việc. Đau đớn và thương tiếc chồng cũng đành nén lòng để kiếm đồng tiền nuôi hai con và trả nợ.  Cuộc đời cơ cực cứ vậy mà lôi cô đi. Con trai lớn tội nghiệp  phải nghỉ học để đi học nghề, đau lòng lắm nhưng đành phải vậy thôi. Làm sao một mình Hải Đường có thể gánh vác được để cho con tiếp tục đến trường. Cô thật sự bất lực để kiếm đồng tiền nuôi con. Nước mắt chỉ biết nuốt vào trong nhìn con mới mười lăm tuổi phải vào đời kiếm miếng cơm.
Từ lúc ấy Hải Đường không còn để ý gì về mọi chuyện chung quanh nữa. Công việc bắt đầu từ sáng sớm và kết thúc vào 9 giờ tối hàng ngày. Ban ngày cô nấu chè bán cùng các loại nước giải khát và đồ tạp hóa. Hàng gì bán được cô cũng gom góp mua về bán. Đêm đến làm nhiều loại bánh để sáng sớm hôm sau đạp xe đi bỏ khắp nơi.
Khổ cực đến nỗi Hải Đường không còn nhớ chuyện gì đã xảy ra trong cuộc đời mình hơn hai mươi năm qua. Không có thời gian để nhớ về thân phận mình, để nhớ về những ngày xưa rằng cô đã có một thời đi học vui đùa cùng các bạn, đã có một tình yêu đầu đời thật đẹp. Thậm chí cô cũng quên luôn mình đã từng có một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Quên luôn những khổ đau đã trải qua, vì chính thời gian này là thời kỳ bi đát nhất, khó khăn nhất trong đời cô.
Một điều kỳ lạ nhưng may mắn đã xảy ra. Vào đúng ngày mãn tang anh Thọ, mới sáng sớm, bất ngờ cô em chồng đến thăm, chạy ào vào nhà:
– Chị Hải Đường ơi! Em nằm mơ thấy anh Thọ về. Khuôn mặt anh buồn lắm. Anh vừa khóc, vừa nói với em đừng đòi lại số vàng đã cho anh chị mượn. Anh xin em cho chị vì biết chị trả không nổi. Sáng nay em đã ra mộ thắp hương đồng ý rồi. Thôi chị đừng lo nữa, em cho chị để nuôi cháu. Chị yên tâm nhé!

Hải Đường mừng rỡ đến nghẹn ngào không nói được lời cảm ơn cô em chồng. Chỉ biết ôm chặt lấy cô ấy mà khóc nức nở.
Vậy là  bớt đi một nỗi lo. Hải Đường biết ơn vô cùng. Tình cảm và sự cưu mang của cô em chồng Hải Đường nhớ mãi mãi.
 Thời gian vun vút trôi nhanh. Con trai chị bây giờ đã khôn lớn, bắt đầu kiếm được tiền giúp đỡ mẹ và em. Hải Đường  sung sướng khi con  đem đồng tiền đầu đời của nó kiếm được đưa cho mình. “Con đã trưởng thành rồi, Mẹ mừng lắm!”. Chị xúc động nói với con như vậy. Con trai đã lớn, chững chạc, hiền lành và giống ba như đúc. Hải Đường không phải làm công việc của người đàn ông nữa, không phải leo lên mái nhà để lợp lại tấm tôn tốc mái. Đóng những cây đinh để treo hàng hóa hay cầm cái cưa xẻ tấm ván làm ghế ngồi. Chị sung sướng nhìn con đóng cái bàn, cái ghế, sửa lại hàng rào… Làm những việc mà trước đây chị phải gánh vác thay chồng.
Bây giờ nhà chị thực sự đã có người đàn ông rồi.
Vất vả để nuôi con, thân xác héo hon, nhan sắc cũng úa tàn theo. Hải Đường đóng chặt trái tim mình như sợ ai đó biết được nó đang cô đơn mà gõ cửa. Chị sống an phận, nén buồn tủi với  tiếng thở dài.
Nhiều người đàn ông nhìn ngó, đánh tiếng. Trong số họ cũng có  người không vướng bận gia đình, kinh tế khá giả nhưng chi không để tâm. Lòng đã lạnh nguội rồi. Chị đã có hai con trai và đó là chính cuộc đời của chị. Con  ngày càng khôn lớn và chị cảm thấy mình được bảo vệ, chở che. Còn gì hơn nữa. Ấm lòng, hạnh phúc trong cảnh mẹ góa con côi chị luôn cầu mong sao quãng đời còn lại được bình yên, may mắn.
Cuộc sống cứ trôi đều. Cuốn Hải Đường theo với những tháng ngày cực nhọc, buồn tủi.  Chị không còn nhớ ai và cũng không muốn nhớ về ai. Thật ra cũng chẳng còn ai để cho chị nhớ về. Hải Đường quên hết, sống khép kín trong vỏ ốc cô đơn. Chị biết chẳng ai còn nhớ đến mình. Bạn bè ư ?  Một thời đã xa rồi. Tình yêu ư? Trái tim  héo khô rồi. Nơi vùng đất xa xôi cao nguyên này chỉ còn lại mình chị và hai đứa con tội nghiệp sống trong nghèo khổ mà thôi. Một thời nhan sắc đã qua, cái khổ tàn phá dung nhan chị. Một người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh.
Có những chiều ngồi giặt áo quần bên giòng kênh nhìn nước chảy cuồn cuộn, Hải Đường chợt nhớ đến con suối  năm xưa. Chị nhớ những đêm trăng cùng chồng ngồi trên tảng đá to nhìn trăng lên. Hải Đường nhìn xuống giòng kênh ấy và nhìn  thấy chồng mình ngồi trầm tư nhìn ánh trăng trên giòng nước chảy lững lờ bên giòng suối năm xưa. Nhìn thấy từng mảnh trăng vỡ vụn dưới những bọt nước bên khe đá.
Con kênh đưa giòng nước chảy về đâu? Có đem theo được nỗi lòng Hải Đường về lại chốn cũ. Nơi những đêm trăng chị ngồi bên chồng, tựa đầu vào vai anh nghe hạnh phúc trào dâng.
Có mang dùm tâm hồn nhỏ bé tội nghiệp của chị về đâu đó xa xa, nơi ấy có anh, mối tình đầu vụng dại. Giòng kênh nước chảy ơi! Nước mắt chị lại hoà xuống dòng kênh, trôi đi.
Có những đêm mệt lả người Hải Đường ngủ  thiếp đi. Trong mơ màng giấc ngủ hiện về những ngày tươi đẹp hiếm hoi của đời mình.
Chị mơ thấy Ba chở đến Đài phát thanh Huế, nơi Ba vẫn thường làm việc. Cô bé năm tuổi đứng đằng trước hai tay vịn vào ghi đông. Ba ngồi trên xe hai đầu gối giữ chặt, vừa chạy vừa cúi xuống hôn lên tóc cô con gái bé nhỏ .
Chị mơ đang chơi cờ cá ngựa cùng chồng. Khi  bị thua, anh vừa nhẹ nhàng vuốt mũi vừa nheo mắt chọc chị. Tức quá,chị khóc không thèm chơi mặc cho anh năn nỉ.
Chị mơ những đêm trăng lẽo đẽo theo anh đi dọc con suối, tay cầm giỏ đựng cá, hai vợ chồng vừa đi vừa hát nho nhỏ.
Chị mơ về mối tình đầu. Nụ cười nửa miệng và đôi mắt nhìn nghiêng của anh. Mơ thấy anh băng nhanh qua hành lang lớp học, nghiêng đầu nhìn. Bóng anh mờ dần dưới sân trường rồi mất hút đằng sau cánh cổng.
Chị mơ cùng bạn bè tung tăng ngoài cửa lớp, mơ điệu múa  Vọng cố đô với áo Hoàng bào rực rỡ.
Chị mơ nhiều lắm để rồi khi tỉnh giấc, những giọt nước mắt lăn dài trên má.
Và như vậy Hải Đường cứ mơ, mơ và mơ. Những giấc mơ an ủi chị, đem lại hơi thở cuộc sống  sau những giờ mệt nhọc. Giấc mơ cho chị thêm nghị lực, dìu chị đi như đứa bé con mới lớn chập chững những bước vụng về.
Hải Đường mơ nhiều lắm. Vì chỉ có mơ mới đem lại cho chị niềm hạnh phúc mà thôi, dù biết rằng đó là hạnh phúc trong mơ.
Ngày cuối thu năm 2000.
Có tiếng chuông điện thoại đổ vang, liên hồi.
Tiếng điện thoại reo vang nhiều lần nữa nhưng Hải Đường vẫn ngồi làm việc. Rồi tiếng chuông cũng tắt như mệt mỏi..
Đến trưa, khi chuẩn bị dọn dẹp bếp nướng bánh, tiếng chuông điện thoại lại vang, vội vã, thúc giục. Hải Đường đang đứng gần bên điện thoại nên cầm ống nghe.
– A lô!…
- A lô!
– “…Tôi ước ao được nói với kỷ niệm của ngày xưa cũ rằng. Ánh mắt thương yêu và những ý nghĩ trầm mặc đã đưa tôi vào cõi thần tiên. Để tôi lạc bước trên những đường mây rộng thênh thang…”
– Tôi xin lỗi, ai vậy?
Làm việc vất vả nhưng Hải Đường không hẳn đã quên cuộc gọi bất ngờ, kỳ lạ đó. Có một điều gì là lạ khiến chị tò mò. Cũng không hẳn vây. Một bản năng trỗi dậy trong chị khi nghe đoạn văn với cái chất giọng vừa lạ, vừa quen kia. Nó thôi thúc chị, nhắc nhở chị quay về một nơi mình đã ra đi. Nó không phải là một vùng đất, một nơi chốn. Nó mơ hồ, mong manh, mờ nhạt. Nhưng nó đã có thật. Nó ở trong sâu thẳm tiềm thức chị. Chắc chắn vậy! Hải Đường cố nhớ!
Cuộc sống không có ngày Chủ Nhật “Một ngày như mọi ngày”, kể cả những ngày lễ tết vẫn thui thủi một mình kiếm tiền để sống, nuôi con. Những ngày này nó đem lại cho Hải Đường nguồn thu khá lớn. Phục vụ cho những người đi chơi. Vậy là chị làm việc đủ ba trăm sáu mươi lăm ngày trong một năm.
Một tuần sau, tiếng chuông điện thoại lại reo trong lúc công việc đang dang dỡ như lần trước. Hải Đường lẩm bẩm ”Ai đó muốn chọc ghẹo sao?” Hải Đường thầm nghĩ vậy. Tiếng chuông thôi thúc rộn ràng hơn, quyến rũ dịu êm hơn. Chị đến bên điện thoại:
– A lô !
Im lặng. Có tiếng thở nhẹ trong ống nghe:
– A lô !
Vẫn tiếng thở nhẹ nhưng nhanh hơn:
-A lô !
Một giọng nói gấp gáp:
-Hải Đường phải không? Có phải em đó không?
Hai chân Hải Đường chôn chặt, toàn thân cứng đờ, mười đầu ngón tay như có giòng điện chạy qua. Chị không  cầm nổi cái ống nghe nữa, bàn tay rơi xuống mặt bàn cùng với nó. Hải Đường nghĩ trái tim mình  đã ngừng đập mất rồi. Giọng nói như xa, như gần. Như quen, như lạ. Âm thanh ấy đâu đó trong tiềm thức vọng về. Khơi gợi, xé toang u mê. Khó khăn lắm chị mới cầm được ống nghe .
– Phải.. không..?
Tiếng nói nhỏ, van xin.
– Anh đây! Đừng bỏ máy! Hải Đường phải không?
Tôi nghẹn ngào:
– Anh.. Anh  phải không? Dạ, em!
Giọng run run:
– Anh gọi cho em đây!.
Hai hàng nước mắt chảy dài, chị nói từng tiếng:
– Sao anh biết số điện thoại của em?
– Anh biết qua một người quen. Anh xin lỗi. Hải Đường đang bận phải không?
– Dạ, cũng bận nhưng mình nói chuyện với nhau được mà anh.
– Vậy giờ nào, ngày nào trong tuần em rảnh? Anh ngại làm phiền em.
– Khoảng 5 giờ chiều, anh.
– Vậy chiều mai, 5 giờ anh gọi cho em nghe. Anh muốn được nói chuyện thật nhiều, thật lâu với em. Được không?.
Hải Đường hốt hoảng:
– Thôi bây giờ nói chuyện luôn đi. Mai em bận rồi.

Thật ra chiều mai chị chẳng có việc gì phải bận cả, công việc hằng ngày cứ trôi đều như vậy. Ngày nào mà không bận. Nhưng có gì bận rộn hơn được nghe anh nói, điều mà chị đã chờ đợi suốt gần ba mươi năm qua. Giọng anh ấm và chậm rãi:
– Vậy thì mình nói chuyện với nhau nhé.
– Dạ, anh nói trước đi. Em không biết nói chi với anh hết.
Anh cười :
– Thì em nói cái chi cũng được mà. Anh muốn nghe được em nói lắm. Anh nhớ em. Nhớ giọng nói của em quá!
Hải Đường thì thầm:
– Dạ.. em cũng vậy.
– Anh cũng chờ em lâu lắm rồi. Anh đi tìm em cả đời mình.
Lúc này Hải Đường đã lấy lại bình tĩnh hơn, chọc anh:
– Mà sao giọng anh nói nghe lạ dữ rứa.
Hình như khi nghe tôi nói, anh có vẻ không vui:
– Họ già rồi thì giọng nói phải khác đi chứ. Lạ lắm sao?
– Không, em nói vậy thôi vì không nhận ra giọng của anh ngay từ đầu. Em xin lỗi.
Giọng anh như chùng xuống:
– Tại em quên anh từ lâu rồi nên mới không nhận ra thôi. .
– Em nói thật mà.
– Thôi, bỏ qua cái giọng nói đi. Em có khỏe không? Chuyện chồng con?
– Anh Thọ mất lâu rồi, anh không biết sao?
– Anh biết! Ngày anh Thọ mất, anh định vào chia buồn với em, nhưng nghĩ lại không hay lắm, mọi người và cả em nữa lại nghĩ không tốt về anh, nên thôi. Anh có lỗi với em. Còn bây giờ thì sao, em sống với ai?
– Sao anh lại nghĩ về em như vậy? Người đàn ông nào có thể đi vào đời em được kia chứ?
– Anh.. xin lỗi em. Nhưng anh tưởng..
– Em vẫn ở vậy từ ngày anh Thọ mất, sống với hai con trai em. Anh đang ở đâu mà gọi cho em vậy?
– Quán cà phê. Một mình. À, Mà không phải dưới giàn bông giấy đâu nghe, anh về quê từ sau 30/4.
Giọng nói anh trở lại bình thường và vẫn cách nói bông đùa:
– Anh đang uống cà phê, nghe nhạc Trịnh. Không thập thò đưa thư như ngày xưa nữa đâu.  Gìa rồi!. Nhưng mà bỗng dưng nhớ em quá. Anh nói thật.
– Còn vợ con anh ra sao?
– Ừ, thì một người vợ bình thường, không đẹp như em nhưng tuyệt vời. Anh có hai con, một trai một gái.
Hải Đường muốn nói chuyện với anh nhiều nữa nhưng e ngại vì thời gian xa cách quá lâu, giữa hai người đang có một khoảng cách hai bảy năm không gặp. Cả hai đều ấp úng không biết nói những gì dù muốn nói mãi.
– Chúc anh hạnh phúc. Lúc khác mình nói chuyện nha anh!
– Ừ, mai anh gọi. Em chờ anh năm giờ chiều nhé.
– Da, em chờ.
Đêm đó Hải Đường thao thức không sao ngủ được, miên man với những kỷ niệm ùa về.
Cậu thư sinh áo trắng ngồi quay lưng lặng lẽ bên giàn hoa giấy đỏ. Có cô gái bên trong của sổ trộm nhìn.  Những mảnh giấy viết vội.
Nụ cười anh, nụ cười của Mona Lisa. Đôi mắt nhìn nghiêng, giếng sâu bên má.
Nụ hôn nhẹ như con chuồn chuồn chạm nước một chiều bên suối.
Buổi nắng sớm bên bờ biển sóng vỗ rì rào. Anh choàng tay qua bờ vai gầy định hôn lên mái tóc . Họ cãi nhau rồi giận hờn. Rồi từ đó không còn nói với nhau một lời nào nữa. Hai mươi bảy năm biền biệt xa.
Màu đỏ hoa phượng ngập bóng anh. Khuất dần nơi sân trường rồi tan nhanh sau cánh cổng màu xanh.
Anh dựa lưng vào tường, hai tay ôm ngực, đầu cúi xuống trong buổi lễ hỏi . Đôi mắt u buồn.
Dáng anh khắc khổ đứng trước quán Hải Đường. Người bên này người bên kia nhìn nhau ngậm ngùi. Buổi chiều nắng đẹp.
Ôi! Biết bao kỷ niệm của hai người hiện về cùng lúc trong tâm hồn Hải Đường  đêm nay. Chị  hạnh phúc quá.
Chiều hôm sau anh không gọi như đã hứa. Hải Đường bần thần trông ngóng tiếng chuông điện thoại. Im lặng. Hôm sau và hôm sau nữa, đến ngày thứ tư, đúng 5 giờ chiều anh gọi. Tiếng chuông điện thoại rộn ràng khiến cho Hải Đường hoảng hốt, run rẫy. Phải anh đó không? Chị vội vã  cầm ống nghe:
– A lô!
– Anh đây! Em khỏe không?
Hải Đường giận hờn:
– Em bình thường. Sao mấy ngày rồi anh không gọi?
Anh lúng túng:
– Anh muốn lắm. Đêm nào anh cũng cầm điện thoại lên nhưng rồi lại thôi. Anh ngại làm phiền em, sợ em không muốn nghe.
Chị trả lời thật nhanh:
– Không ! Không. Em chờ anh gọi mà.
– Em nói thật chứ?
Hải Đường nghe tiếng anh nghẹn lại bên kia đường dây. Chị im lặng, không nói gì, chỉ thấy lòng mình ấm lại sau câu hỏi của anh. Bất ngờ anh nói:
– Anh đứng ở trước quán Hải Đường của em đây. Người ta xây nhà tầng rồi em. Anh muốn gặp em.
Hải Đường hoảng hốt:
– Anh nói sao? Sao lại ở đó?
– Mấy ngày qua anh suy nghĩ rất nhiều. Anh rất nhớ em. Nếu em đồng ý, vài giờ nữa mình sẽ gặp nhau. Được không em? Chỉ còn vài chục cây số thôi mà.
Chị lo lắng :
– Không! Không thể được đâu anh. Đừng đến. Em sợ lắm!
– Em sợ ai? Em đang sống với người đàn ông khác phải không?
– Không! không . Hải Đường  nói nhanh.  Không có ai đâu anh. Nhưng em sợ lắm!
– Tại sao em phải sợ. Anh chờ ngày hôm nay lâu rồi. Hai bảy năm anh luôn đi theo bước chân em…Dù không gặp em nhưng em ở đâu, làm gì, những gì xảy ra trong cuộc đời em anh đều biết. Em đừng nghĩ rằng anh quên em. Không đâu em.
 (Sau này anh kể cho chị nghe, làm sao mà anh đã biết về cuộc sống của chị như thế nào trong những năm qua).
– Em muốn lắm nhưng mình không thể gặp nhau bây giờ được. Em sợ! Còn nhiều việc mình phải suy nghĩ đã anh. Nếu còn thương em, xin anh đừng đến.
– Anh chuẩn bị cho chuyến đi này lâu lắm rồi em. Một chuyến đi mà anh phải sắp đặt hơn hai mươi năm mới làm được. Em phải tin anh. Anh không thể về mà không gặp lại em.
Có nhiều lý do Hải Đường không muốn gặp anh lúc này. Chị sợ anh thất vọng khi nhìn thấy chị  không như xưa nữa. Nhan sắc tàn phai. Sống trong căn nhà mái tole lụp xụp nghèo nàn. Không có nổi bộ bàn ghế đàng hoàng để tiếp anh. Nhưng điều Hải Đường lo sợ nhất khi gặp anh còn một lý do khác lớn hơn nhiều.
Chị cương quyết:
– Không được! Em không thể gặp lại anh.
– Em khác ngày xưa nhiều quá. Nếu ngày đó em cũng cương quyết như bây giờ có lẽ anh và em không phải khổ sở đến mấy chục năm.
Chị chạnh lòng khi nghe anh nói nhưng vẫn không thay đổi.
– Anh nghe em! Chuyện cũ qua lâu rồi, anh đừng nhắc lại nữa buồn lắm. Mình có thể gặp nhau nhưng không phải là bây giờ. Mong anh hiểu cho em.
– Anh không muốn hiểu gì hết. Anh chỉ muốn gặp lại em thôi. Một lần duy nhất thôi. Anh biết vì sao em ngại gặp anh. Nhưng em đừng nghĩ như vậy. Anh biết em không còn đẹp như xưa nữa. Yêu em không phải vì nhan sắc. Anh yêu mối tình đầu của anh.  Nó đi theo suốt cả đời anh. Em hiểu không?
Anh nói một hơi dài, vừa giận dỗi vừa như muốn kéo Hải Đường lại gần anh hơn. Nhưng chị không thể nào nghe theo lời anh bây giờ được. Dứt khoát là như vậy. Thật sự là chị sợ. Rất sợ. Hải Đường van xin anh:
– Anh! Hãy để cho mọi thứ qua đi. Hãy xem em như một người bạn cũ. Em sợ gặp lại nhau lắm. Chúng ta, mỗi người đều đã có cuộc sống riêng, đã an phận với những gì mình có lâu nay. Em xin anh, đừng đến nếu anh vẫn còn yêu thương, còn nhớ đến em. Em nói thật lòng mà. Đừng nghe anh!
Nước mắt ràn rụa trên hai má, chảy dài xuống nơi ống nghe điện thoại khiến tay chị không cầm chặt được nó.
Anh chưa bỏ cuộc:
– Một lần này đi em. Anh nhớ em! Đã đi năm trăm cây số vào đây rồi. Muốn gặp được em. Gần ba mươi năm anh mới đủ can đảm làm điều này. Em biết không? Chỉ một lần được nhìn thấy em, nói với em vài câu rồi anh trở về cũng được mà.
Hải Đường cương quyết không để cho anh thuyết phục:
– Em nói rồi. Không được là không được. Anh đến, em sẽ tránh mặt. Hãy nghe lời em. Bây giờ không thể được. Có thể sau này cũng vậy. Chỉ cần thỉnh thoảng nghe anh nói qua điện thoại cũng đủ hạnh phúc cho em lắm. Quay về đi anh.
Hải Đường không nghe tiếng anh nói mà chỉ còn những tiếng thở dài. Anh im lặng, lòng chị nặng trĩu nhưng biết làm sao hơn. Không thể được! Dứt khoát  không thể gặp nhau trong lúc này được. Có thể là mãi mãi về sau này cũng vậy. Hải Đường nghĩ bây giờ chị chẳng  còn gì nữa. Cô bé học trò ngày xưa kiêu sa, xinh đẹp của quá khứ rồi. Tình yêu của chị và anh cũng vậy. Đã qua rất xa và nằm sâu trong ký ức mỗi người. Hãy để cho tình yêu ấy đẹp hơn nữa nếu vẫn là kỷ niệm một thời đã xa. Hải Đường không muốn mất đi mối tình đẹp đẽ đó. Không muốn cho những ngày xa xưa với tình yêu đầu đời tan biến đi sau khi gặp lại nhau. Vì nó là một phần của cuộc đời chị. Hải Đường không muốn gặp anh là vì vậy.
Lâu sau anh thì thầm với chị:
– Vậy thôi! Em đã cương quyết, anh không muốn em không vui, khó xử. Anh sẽ đợi.
Hải Đường im lặng.
– Nhưng em hãy biết rằng mấy chục năm qua chưa bao giờ anh quên được em. Hình bóng em vẫn nằm mãi trong tim anh. Sau này có dịp anh sẽ kể cho em nghe anh đã đi tìm em như thế nào trong suốt thời gian ấy. Nhất là cái ngày anh vào tìm em sau khi em về làm vợ anh Thọ. Thôi, anh chúc em mạnh khỏe. Một ngày gần đây anh sẽ gọi lại cho em.
– Em xin lỗi anh.
– Em không có lỗi gì hết.  Anh cũng vậy. Tất cả đều là định mệnh.Trước khi vào đây anh nghĩ em sẽ vui. Anh sẽ được em mừng rỡ đón tiếp. Nhưng không phải vậy, đó cũng là lý do vì sao bao nhiêu năm anh không dám gặp lại em. Anh sợ em từ chối. Anh sợ cái nhìn lạnh lùng, xa lạ của em. Vì trong anh luôn có một ý nghĩ, từ ngày anh bỏ ra đi. Anh chẳng là gì của em. Thôi vậy cũng được. Chiều nay anh sẽ quay về.
-Em xin lỗi!
Nước mắt Hải Đường ràn rụa trên má. Anh dừng lại một lúc lâu vẫn chưa chịu tắt máy điện thoại.
-Em này! Có thật sự em không muốn gặp anh?
Hải Đường ngập ngừng:
– Dạ…không!
– Không…là sao em.
– Dạ… muốn!
– Anh nhớ em. Sẽ chờ em cho anh cơ hội. Thôi, anh tắt máy đây.  Khi nào anh có thể gọi lại cho em được?
Nghe giọng anh buồn mà lòng tôi hiu hắt:
– Lúc nào cũng được. Thuận tiện thì anh gọi.
– Anh mong em luôn vui vẻ và khỏe mạnh. Mong mọi an lành cho em.
– Em cũng mong anh như vậy. Nhớ giữ gìn sức khỏe.
Hải Đường cúp máy và lau nhanh những giọt nước mắt còn lại trên má.

Nguyễn Thị Ngọc Lan
Theo https://tuongtri.com/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Miền cổ tích hoang hư 2

Miền cổ tích hoang hư 2 7 - Ngọ... Chiếc tàu thu mua hải sản ném Phương lên bờ tại cảng cá tanh hôi và ồn ào của Hải Phòng. Lôi thôi lếch ...