Vũ Thành An và những bài
không tên
Nhắc đến nhạc sĩ Vũ Thành
An, có lẽ tất cả những ai yêu nhạc đều nhớ đến khoảng 40 bài ‘không tên’. Tuy
nhiên nếu có điều kiện tìm hiểu rõ hơn về nhà nhạc sĩ, chúng ta mới khám phá
nhiều điều thú vị về một trong những nhạc sĩ có khuynh hướng sáng tác rất riêng
nổi tiếng vào cuối những năm 1960 ở miền nam Việt Nam (cùng với Trịnh Công Sơn,
Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, v.v.)
ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ VŨ THÀNH
AN
(Nguồn http://vi.wikipedia.org/wiki/Vũ_Thành_An)
(Nguồn http://vi.wikipedia.org/wiki/Vũ_Thành_An)
Vũ Thành An sinh năm 1943 tại
Hải Hậu, Nam Định.
Năm 1954 ông theo gia đình
di cư vào miền Nam.
Năm 1960, ông vào học trường
trung học Nguyễn Trãi, có theo học nhạc sĩ Chung Quân cùng Ngô Thụy Miên, Đức
Huy.
Năm 1961 ông thi hỏng Tú tài
và về trường Hưng Đạo học tiếp Đệ nhị.
Năm 1963, Vũ Thành An thi đậu
Tú tài toàn phần. Sau đó ông được linh mục Trần Đức Huynh, giám đốc trường Hưng
Đạo cho dạy lớp Đệ thất để có tiền học Đại học.
Cuối năm 1963, Vũ Thành An
vào làm phóng viên ở Đài phát thanh Sài Gòn, ở đó ông gặp nhà thơ Nguyễn Đình
Toàn.
Năm 1965, ông viết Tình khúc
thứ nhất, thơ Nguyễn Đình Toàn và nổi tiếng ngay từ ca khúc đầu tay đó. Những
năm tiếp theo, ông viết nhiều Bài không tên khác.
Năm 1967, Vũ Thành An nhập
ngũ khóa 25 Sĩ quan dự bị Thủ Đức và 1969 ông lập gia đình.
Năm 1969, ông phát hành tập
nhạc Những bài không tên. Các tác phẩm của Vũ Thành An được yêu thích ở khắp miền
Nam khi đó. Người ta có thể nghe tại gần như hầu hết các quán cà phê nhạc của
Sài Gòn và những thành phố lớn khác, tại các quân trường và trên các làn sóng
phát thanh. Tên tuổi của Vũ Thành An cùng với Tình khúc thứ nhất, Em đến thăm
anh đêm ba mươi và các Bài không tên gắn liền với giới trẻ thời bấy giờ. Vũ
Thành An cùng với Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương
tạo thành một lớp nhạc sĩ mới đầy tài năng.
Năm 1971, Vũ Thành An tốt
nghiệp đại học Luật khoa Sài Gòn.
Ông tiếp tục làm việc tại
đài phát thanh Sài Gòn với cấp bậc sĩ quan, và trải qua nhiều chức vụ: Trưởng
cơ sở dân vận Gia Định 1973, Trưởng phân khối văn hóa, Phụ tá trưởng khối
chương trình, Trưởng khối chương trình và Trưởng phân khối kế hoạch hệ thống
truyền thanh 1974.
Ngày 30 tháng 4 1975, Vũ
Thành An là người cuối cùng rời Đài phát thanh Sài Gòn, lúc 10 giờ 30 giờ sáng.
Sau đó ông bị tù cải tạo suốt mười năm dài từ 1975 đến 1985 tại miền Bắc.
Theo lời Vũ Thành An, ông bắt
đầu sáng tác Thánh ca, Những Bài Nhân Bản trong thời gian cải tạo từ năm 1981.
Năm 1991, Vũ Thành An rời Việt
Nam và định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1996, ông ghi danh học chương trình Cao học Thần
học của Tổng giáo phận Portland, Oregon.
Năm 2000, Vũ Thành An được
đào tạo làm chức Phó Tế và phụ trách Đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại ở
Portland, Oregon. V
ũ Thành An ngừng sáng tác
tình khúc và chỉ tiếp tục soạn các bản thánh ca, và tham gia các công việc từ
thiện.
“TÌNH KHÚC THỨ NHẤT” VÀ MỐI
LƯƠNG DUYÊN VỚI NHÀ THƠ– NHẠC SỸ NGUYỄN ĐÌNH TOÀN.
Nhạc sỹ Vũ Thành An viết nhạc
từ rất sớm: ngay từ khi học lớp đệ tứ, tức lớp 9 ngày nay. Sáng tác đầu tay đã
bị người thầy là nhạc sỹ Chung Quân (tác giả bản nhạc bất hủ “Làng tôi” - Làng
tôi có cây đa cao ngất tầng xanh …) chê, nói chính xác là chê phần lời. Thế là
nhà nhạc sỹ của chúng ta chỉ sáng tác phần nhạc và để đó.
Mãi đến khi vào làm việc ở
đài phát thanh Sài Gòn và có dịp gặp gỡ rồi làm quen với nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn
Đình Toàn và được sự giúp đỡ và động viên của nhà thơ thì Vũ Thành An của chúng
ta mới tự tin hơn và dần dần tự đặt lời cho những ca khúc của mình. Năm 1965,
khi mới 22 tuổi, Vũ Thành An vụt nổi tiếng với “Tình khúc thứ nhất”, phần nhạc
Vũ Thành An và phần lời của Nguyễn Đình Toàn. Đây có thể nói là sáng tác đầu
tiên của Vũ Thành An được công chúng biết đến.
“BÀI KHÔNG TÊN CUỐI CÙNG”
NHƯNG LẠI LÀ BÀI ĐẦU TIÊN TRONG LOẠT NHỮNG “BÀI KHÔNG TÊN”.
Cũng trong năm 1965, mối
tình đầu của nhà nhạc sỹ tan vỡ. Tâm sự ấy đã được Vũ Thành An gởi gắm vào “Bài
không tên cuối cùng”. Chữ “cuối cùng” ở đây mang ý nghĩa đó là kỷ niệm cuối
cùng với người con gái mà nhà nhạc sỹ đã thầm yêu.
Theo lời tự sự của chính nhà
nhạc sỹ, tác phẩm này vô tình đã gây nhiều đau khổ cho “người con gái” trong cuộc
sống. Vì thế cho nên năm 1991, ngay khi đặt chân đến trại tỵ nạn, Vũ Thành An
viết ngay “Bài không tên cuối cùng tiếp nối” nhưng là một phần để xoa dịu nỗi
đau ngày xưa:
“Này em hỡi, con đường em đi
đó, con đường em theo đó đúng đấy em ơi …”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét