Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016

Yên Tử, di tích quốc gia đặc biệt và dòng thiền phái Trúc Lâm

Yên Tử, di tích quốc gia đặc biệt 
và dòng thiền phái Trúc Lâm 
Chùa Đồng Yên Tử 
Cách trung tâm Thành phố Uông Bí khoảng 14 km về phía Tây Bắc đưa ta đến với khu di tích danh thắng Yên Tử. Ðây là ngọn núi thiêng trong tâm thức người Việt Nam và là đất Tổ của Thiền phái Trúc Lâm- một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa, tín ngưỡng dân tộc, thể hiện rõ rệt nhất tư tưởng, tâm hồn người Việt.
Từ xa xưa, Yên Tử đã nổi tiếng là một vùng núi cao, cảnh đẹp của nước Nam ta. Sử sách đã ghi lại rằng:Yên Tử được coi là "phúc địa thứ tư của Giao Châu".
“Tân Kỳ chóp núi nâu vài nụ
Yểu điệu hình khe trổ một cành
Tiên cưỡi loan qua ngồi cảnh tịnh
Người xem rồng xuống giỡn đầu xanh”.
Nhiều tài liệu cũ đều thống nhất ghi nhận "Năm Tự Ðức thứ ba, núi Yên Tử được liệt vào hàng danh sơn”. Với độ cao 1068m, Yên Tử vút cao lên trong mây giữa những cánh cung trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, bốn mùa sương giăng mây phủ, mang chứa trong mình vô vàn những câu chuyện huyền thoại kỳ bí hàng năm. “Yên Tử” có tên là “núi Voi”, tên chữ là “Tượng Sơn” (có lẽ bởi hình dáng núi giống như một con voi khổng lồ). Sử sách cũ lại gọi Yên Tử là “Bạch Vân Sơn” nghĩa là núi mây trắng. Phải chăng, chính sự linh thiêng huyền bí ấy mà từ xưa các tín đồ đạo phật Việt Nam đã đến Yên Tử dựng am cỏ cầu kinh niệm Phật. Tục truyền rằng, vào đời Tần Thủy Hoàng (cuối thế kỉ thứ III TCN), bên Trung Hoa có vị đạo sỹ tên là An Kỳ Sinh (Yên Kỳ Sinh) đã đến đây tu luyện và tìm thuốc trường sinh bất tử cho nhà vua, rồi hóa thành tượng đá, hai tay chắp trước ngực, đứng lặng lẽ khấn nguyện tận cổng trời. Từ đó, núi mang tên là “Yên Tử”.
Từ thời Trần, Yên Tử đã được đầu tư xây dựng thành khu quần thể kiến trúc chùa tháp có qui mô lớn. Khởi đầu là vua Trần Thái Tông đến Yên Tử tháng 4 năm Bính Thân (1236). Sau đó, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông - ông vua anh hùng của hai cuộc kháng chiến đại thắng quân Nguyên- Mông (1285-1288), vào lúc triều đại đang hưng thịnh vẫn nhường ngôi cho con tìm đến Yên Tử tu hành. Bằng học vấn uyên thâm và kinh nghiệm từng trải, Trần Nhân Tông lĩnh hội thành tựu của các vị cao tăng đi trước, tiếp nhận những yếu tố tích cực của Phật giáo là từ bi, bác ái, khoan dung, hướng thiện, loại bỏ yếm thế…sáng lập nên phái Thiền Trúc Lâm- giáo phái bản địa hóa đầu tiên ở Việt Nam, mang bản sắc riêng của Việt Nam.
Lấy pháp hiệu là Điều Ngự, Trần Nhân Tông cùng hai nhà sư Pháp Loa và Huyền Quang và các môn đệ khác đã dịch, soạn thảo kinh sách, quy tụ, tập hợp tín đồ truyền bá giáo lý tại Yên Tử. Với tư tưởng “nhập thế” và “ tu tại tâm”, Tam Tổ đã khẳng định: Đạo không tách biệt đời, đạo phải thể nghiệm trong cuộc sống. Mầm giác ngộ, Đức Phật tính, vốn có sẵn trong mỗi người, chỉ cần khơi dậy, tự rèn luyện, hoàn thiện bản thân. Yên Tử đã trở thành trung tâm Phật giáo Việt Nam thời kỳ đó. Không những thế, đây còn là một thắng cảnh từng in dấu chân biết bao tao nhân mặc khách đến thăm, mở lòng mình giao hòa với thiên nhiên, tìm thi hứng để viết nên những thiên tuyệt bút.
Ảnh tại Lễ đón nhận bằng di tích Quốc gia đặc biệt
Vào mùa xuân, khi tiết trời dịu mát, rừng Yên Tử nảy lộc đơm hoa, khách thập phương thuộc nhiều lứa tuổi, trong nước và ngoài nước rộn ràng đổ về Yên Tử trẩy hội, nhắm đỉnh núi mờ sương hăm hở bước tới. Về với núi thiêng, hồn ta như lạc vào cõi “bồng lai tiên cảnh”, rừng già đại ngàn, núi non trùng điệp, có thác đổ, suối reo, mây giăng sương phủ, sống trong không gian tâm linh bay bổng, thanh thản vô cùng. Đến với Yên Tử, không chỉ có hàng nghìn tăng ni và Phật tử, đạo hữu mà còn có rất nhiều đoàn đại biểu của các tổ chức chính trị trong và ngoài nước, nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của Trung ương đã đặt chân lên đỉnh cao nhất của non thiêng Yên Tử, bồi hồi tượng niệm đức vua Trần- Người đã từ chốn phồn hoa và tước vị cao sang nên non xanh xuống tóc tu hành, trở thành đức Phật Thích Ca Mâu Ni của Việt Nam. Cây bồ đề do Chủ tịch nước Trần Đức Lương trồng nay đã xanh tươi. Những món quà hảo tâm đã được trao. Những nguồn kinh phí trùng tu tôn tạo đã, đang và sẽ được các Phật tử trong nước phát tâm công đức. Những công trình như đường xá, cầu cống, dự án cáp treo đã dược triển khai, xây dựng chốn Tổ xứng đáng với niềm ngưỡng vọng của muôn dân.
Trên dọc đường dài từ chân núi đi lên, ngót vài chục công trình Phật giáo lớn nhỏ đã được xây dựng, hấp dẫn khách tham quan. Đó là: chùa Lân (Thiền Viện Trúc Lâm), chùa Giải Oan, chùa Hoa Yên, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu, chùa Một Mái…Đó là các am, các viện: am Rèn, am Thiền Định, am Diêm, am Dược, viện Phù Đồ…Đó là hàng trăm tháp, mộ các thiền sư, hàng nghìn di vật cổ quý giá cùng các bia ký, hoành phi, câu đối… phản ánh thời đại hào hùng nhất trong toàn bộ quá khứ lịch sử dân tộc. Trên đỉnh non thiêng, trước cảnh hùng vĩ mà thơ mộng ấy, ta mới thấy được cái tinh tế của Nguyễn Trãi khi vịnh Yên Tử:
                                 “Trên non Yên Tử chòm cao nhất
                                   Trời mới canh năm đã sáng tinh 
                                   Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả
                                    Nói, cười- người ở giữa mây xanh
                                    Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
                                    Bao dải tua châu đá rủ màn
                                   Di tích Nhân Tông còn lưu đấy
                                  Trùng đồng thấy giữa ánh quang minh.”
1. Quá trình hình thành, phát triển của cõi thiêng Yên Tử
Xưa kia, Yên Tử chỉ là khu rừng rậm hoang sơ, chưa có công trình kiến trúc nhân tạo nào, chỉ có các cảnh quan thiên tạo: Bãi đá chùa Đồng, Cổng Trời, tượng đá An Kỳ Sinh, thác Vàng, thác Bạc, rừng đại ngàn và hang động.
1.1. Thời Lý
Từ thời sau vua Lý Huệ Tông, thiền sư Hiện Quang đã lên Yên Tử kết am tranh mà ở. Khi mất, ngài được các môn nhân an táng trong hang núi vì lúc đó chưa có chùa tháp như các đời sau. Cũng có ý kiến cho rằng, từ thời Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật, tuy nhiên chưa có kết luận chính thức từ phía các nhà nghiên cứu.
1.2. Thời Trần
Các kiến trúc chùa, am, tháp có quy mô to lớn, đẹp đẽ trên các vị trí như ngày nay:
“Tháp biếc trăm tầng cao chất ngất
Lầu son mấy nóc rộng thênh thênh.”
Công trình kiến trúc được xây dựng trước khi Thượng Hoàng Trần Nhân Tông về tu hành là am Dược để luyện và bào chế thuốc. Ngoài ra, các vị tu hành mới sử dụng hang động làm am thất tu hành: am Ngọa Vân, am Ly Trần, am Thiền Định..
Sau khi Điều Ngự Giác Hoàng Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông viên tịch, đến thời Pháp Loa, ngài cho xây dựng các chùa: Vân Yên (Hoa Yên), Vân Tiêu, Giải Oan, Long Động, lăng Quy Đức với tháp Huệ Quang. Đây là thời kỳ xây dựng nhiều công trình kiến trúc với quy mô lớn.
Cuối thời Trần, triều chính suy vi, Nho giáo độc tôn, lấn át vị trí của đạo Phật, thêm vào đó, giặc Minh xâm lược nước ta, thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc, hàng loạt công trình kiến trúc nguy nga lộng lẫy của Yên Tử bị phá bỏ hoàn toàn. Mắt Rồng (ngay sau Tháp Tổ) cũng bị phá một bên, tháp Tổ cũng bị phá 
(được trùng tu lại sau khi Lê Thái Tổ dẹp tan giặc Minh- thế kỷ XV).
1.3. Thời Lê
Đất nước độc lập, Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử được phục hồi, tiếp tục phát triển, đặc biệt vào thế kỉ XVIII, thời Lê- Trịnh, chùa chiền được trùng tu. Thời Lê Thánh Tông, chùa tháp Yên Tử khang trang, đẹp đẽ. Thiền Phái Trúc Lâm Tế ở Trung Quốc qua giao lưu có ảnh hưởng phần nào đến Yên Tử, chứng tích là tháp đá cổ khắc chữ: “Lâm Tế chân truyền phù lãng phái”. Hầu hết, các chùa, am, tháp Yên Tử được trùng tu vào thời Lê.
Suốt gần 600 năm lịch sử, chùa chiền đổ nát, dấu vết trùng tu xây dựng của thời Lê không còn nhiều song chúng ta vẫn nhận thấy qua các tháp đá, tháp gạch, qua khảo cổ học dấu vết di tích thời Trần, Lê.
1.4. Thời Nguyễn
Vào thời Nguyễn, thiền phái Trúc Lâm suy vi, các công trình được đầu tư tôn tạo vào thời Lê đổ nát; việc tôn tạo nhỏ lẻ, chủ yếu do các nhà hảo tâm công đức.
1.5. Từ Hội nghị Khoa học Yên Tử (ngày 28-30/1/1981 đến nay)
Hội nghị Khoa Học lần thứ nhất đã khẳng định giá trị to lớn của Yên Tử, định hướng cho việc quản lý, đầu tư, tôn tạo, khai thác tại Yên Tử.
Sau hội nghị, việc trùng tu, tôn tạo Yên Tử được các cấp, các ngành, tăng ni, phật tử trong và ngoài nước quan tâm.
Đặc biệt, cuối năm 1992, khi Ban Quản Lý di tích- danh thắng Yên Tử (nay là Trung Tâm quản lý di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử) được thành lập và quản lý khu di tích đến nay, Yên Tử đã được tôn tạo, hồi sinh và phát triển. Dự án Yên Tử được triển khai với mục tiêu: “Xây dựng Yên Tử xứng đáng là một kỳ quan, một trung tâm Phật giáo của nước nhà, là điểm đến của du khách, phật tử trong nước và bạn bè năm châu”. Khu di tích Yên Tử không chỉ được trùng tu, tôn tạo về kiến trúc chùa am, tháp mà còn được đầu tư lớn về các dịch vụ khác. Năm 2002, hệ thống cabin cáp treo hiện đại được đưa vào phục vụ du khách, thuận tiện cho việc ngắm cảnh quan hùng vĩ của núi thiêng, phù hợp với công tác bảo vệ, tôn tạo, phát huy mọi giá trị của di tích danh thắng trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
2. Hành hương về đất Phật
Từ Hà Nội có thể đi xe ô tô vượt quãng đường 115km, qua Thành phố Uông Bí thì rẽ vào đường Vàng Danh, đi tiếp khoảng 9km thì rẽ trái theo con đường dẫn vào khu vực thắng cảnh Yên Tử.
Xưa kia, đường lên núi Yên Tử, lên đỉnh Phù Vân huyền thoại, chỉ có một cách duy nhất là theo đường đi bộ, len lỏi theo lối mòn vượt qua bạt ngàn cây cỏ, dưới tán rừng trúc, rừng thông. Còn bây giờ, du khách có thêm một sự lựa chọn: theo đường cáp treo hiện đại vượt quãng đường trên 1km để có thể ngắm cảnh núi rừng Yên Tử từ trên cao, sau đó lại tiếp tục đi bộ đến thăm các điểm khác trong khu vực thắng cảnh. Tuy thế, rất nhiều người vẫn chọn con đường du lịch truyền thống để thăm toàn tuyến du lịch vì họ có thể chậm rãi thăm thú tất cả những gì mà thiên nhiên đất trời tạo lập nơi đây. Đó là con đường dài trên 6km đã được gia cố bởi hàng nghìn bậc đá xếp, rất chắc chắn và rất thuận tiện cho dù độ dốc khá lớn.
Trước hết, khi tới chân núi theo một lối mòn, rẽ tay phải, đang còn trong cảnh rậm rạp ta đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Đó là suối Giải Oan trong veo chảy ngoằn ngoèo trên nền đá cuội và sỏi trắng. Nối hai bên bờ suối là cây cầu đá xanh, dài 10m, có kiến trúc không cầu kỳ nhưng lại toát lên vẻ cổ kính, vững chãi. Chính ở dòng suối này, lòng ta trào dâng niềm thương cảm, câu chuyện bi thương về 100 cung nữ đã quyên sinh tại đây vì không được theo vua. Tục truyền rằng, xưa kia vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông rồi tìm đến cõi Phật. Vua Nhân Tông có rất nhiều cung tần và mỹ nữ. Họ đã khuyên ông trở về cung gấm nhưng không được nên đã gieo mình xuống suối tự vẫn.  Để giải oan cho linh hồn của họ, vua Trần Nhân Tông đã lập chùa hợp cúng. Ngôi chùa và con suối từ đó, mang tên là “Giải Oan”. Dưới ân đức cao dày và lòng từ bi, bồ tát của vua Trần Nhân Tông, những cung nữ còn sống sót đã được làm nhà, cấp ruộng cấy cày dưới chân núi, lấy chồng sinh con, lập thành làng Nương, nàng Mụ, tức xã Thượng Yên Công (Uông Bí) ngày nay.
Ảnh: Suối Giải Oan
Theo chuyện xưa, chùa Giải Oan không chỉ là nơi lập đàn tràng giải oan cho các cung nữ mà còn là nơi Đệ Tam Tổ Huyền Quang giải nỗi oan khuất của mình với nàng Điểm Bích, trước khi về kinh đô làm lễ sám hối cho triều đình. (Thời vua Trần Minh Tông).
Ngày xưa khi đi qua đây, danh sỹ Nguyễn Thượng Huyền thương cảm trước vong hồn của họ nên đã viết:
“Giải kết nỗi lòng oan với Chúa
Oan theo dòng nước sạch cùng vua.”
Ngay sau chùa Giải Oan, đi lên chừng 400m, rẽ trái khoảng 50m, đến am Lò Rèn. Tương truyền từ thời Phật hoàng Trần Nhân Tông về Yên Tử, ngài dựng am để rèn dụng cụ lao động cho các chùa và nhân dân quanh vùng. Qua am Lò Rèn, là khu tháp Tổ đồ sộ tức Huệ Quang Kim tháp, ở độ cao 700m, lưu giữ xá lợi của đức Tổ thứ nhất Trần Nhân Tông sau khi viên tịch.
Ảnh Vườn tháp Huệ Quang
Ngài tịch tại am Ngọa Vân, vị tổ thứ hai là sư Pháp Loa đem xác nhà vua hỏa thiêu và chôn nơi đây. Con đường lên tháp Tổ xếp bậc đá dẫn thẳng đến trước cửa khu tháp dưới bóng một cây thông già gần ngàn tuổi, cây thẳng đứng, thân to tròn ba người ôm không xuể, cành đan vào nhau tạo nên cái tán hình tròn xương xẩu đứng cách xa chân núi hàng chục kilômét cũng nhìn thấy. Chính giữa khu tháp là lăng Quy Đức- nơi đặt mộ vua Trần Nhân Tông. Lăng Quy Đức được xây bằng gạch to, dày, nung, chín già; chát bùn đất, vôi trộn mật đường, bột giấy, gió và cát; lợp ngó mũi hài kép. Đây là một di tích thời Trần còn lại hầu như nguyên vẹn. Ở giữa lăng nổi lên một ngọn tháp lớn, là bông hoa thắm nhất trong rừng tháp Yên Tử. Tháp 6 tầng, cao 10m, bốn mặt tháp có tường vây, mỗi tầng là một khối đá xanh vuông vức. Từ dáng thu tầng độc đáo của ngọn tháp, từ các hoa văn sóng nước, hình ngọn núi được chạm ở bệ tháp, hoa văn dây lá cuốn trong cánh sen, cách ghép đá bằng những lỗ cá đổ chì, đặc biệt là pho tượng Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông, chất liệu bằng đá trắng, dáng ngồi khoan thai, áo cà sa khoác chéo, lộ trần cánh tay phải với các hoa văn dây lá trên các nẹp áo đều là những tư liệu quý cho việc nghiên cứu kiến trúc và nghệ thuật thời Trần. Quây quần quanh tháp Tổ là 97 ngọn tháp khác nhau của các nhà tu hành thời Trần và thời Lê, đã trọn đời hóa thân vào cõi Phật.
“Tháp cổ rêu phong lăng mộ Tổ
Mơ màng chiêm ngưỡng cảnh sườn Nam
Ở cuối hồi chùa cây sung cổ
Chùm đỏ, chùm xanh, dưới nắng vàng”.
(Tháp cổ- Hoàng Quang Thuận)
Con đường từ khu tháp Tổ lên chùa Hoa Yên lát loại gạch vuông lớn in hình hoa cúc phổ biến thời Trần (ngày nay còn được 84 viên). Đáng lưu ý là gạch hoa cúc thời Trần chỉ có ở các di tích của triều đình hay hoàng tộc nhà Trần, điều đó mách bảo vị trí trang trọng của khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử. Gạch hoa cúc làm bằng đất nung để nát nền hoặc ốp tường, không dùng để xây, hình vuông, có cấu trúc hoa văn trên bề mặt, phản ánh ý nghĩa triết lý sâu sắc. Hình vuông lớn- biểu trưng cho đất (chứa đựng âm khí); bốn góc của hình vuông có bốn bông hoa cúc, biểu tượng của tứ tượng ( khí, thủy, hỏa, thổ); hình tròn lớn trong lòng viên gạch tượng trưng cho trời (chứa đựng dương khí); có 8 bông hoa cúc thể hiện bát quái. Hình tròn nhỏ ở giữa có hai bông hoa cúc nhỏ, thể hiện sự kết hợp của âm dương; xung quanh viên gạch theo hình vuông là các tinh tú. Qua hoa văn họa tiết trên gạch hoa cúc thời Trần, ta thấy rằng: Ngay từ thời xa xưa, người Dân Đại Việt đã biết kết hợp thuyết Âm Dương: thái cực (Âm Dương) sinh lưỡng nghi (trời đất), lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, thiên biến vạn hóa ra mọi vật trong xã hội.
Qua 136 bậc đá, lên chùa Chùa Hoa Yên, nằm ở độ cao 535m so với mực nước biển.Dọc hai bên đường, cúc vạn thọ sum suê, hoa chen hoa vàng rực sườn núi, cây đại 700 tuổi vỏ sù sì, cành cong veo đứng chênh vênh bên tường đá nổi bật lên chùm hoa trắng dịu, chân tường đá là hàng dong lá tía, hoa đỏ rực như những ngọn lửa nhỏ khiến cho cảnh vật trước cửa chùa thêm ấm áp. Chùa Hoa Yên vốn có tên là “Vân Yên” (mây khói), đặt với hàm ý: chùa trên tận núi cao, quanh năm mây sương phủ, mây lững lờ trôi, trắng nhẹ như khói bay trên núi. Từ khi vua Lê Thánh Tông lên vãn cảnh, thấy sắc hoa tươi đẹp nên đổi tên chùa là Hoa Yên.
Ảnh: Chùa Hoa Yên 
Chùa Hoa Yên và các chùa xung quanh tạo nên quần thể kiến trúc chính của khu Yên Tử. Chính vì chùa có quy mô lớn nhất và đẹp nhất cho nên còn goi là chùa Cả. Trên 700 năm trước, chùa chỉ là một thảo am để Trần Nhân Tông giảng đạo. Chùa được xây dựng khang trang bắt đầu từ thời Đệ Nhị Tổ Pháp Loa. Sách xưa ghi lại: Chùa Hoa Yên ngoài tiền đường, thượng điện để thờ Phật, tả hữu còn có Viện Phù Đồ, có lầu trống, lầu chuông, nhà dưỡng tăng, nhà khách nghỉ tạo nên một quần thể kiến trúc to lớn. Chùa Hoa Yên xưa quả là một kỳ quan:
“Tháp biếc trăm tầng cao chất ngất
Lầu son mấy nóc rộng thênh thênh.”
Nhìn theo thế núi, chùa Hoa Yên tọa lạc nơi đầu rồng, núi nhô ra như trán, mũi, hàm rồng. Đôi mắt rồng ở ngôi tháp Tổ, hai dãy núi Tây Đông vươn về Nam ôm lấy con đường hành hương dưới chân núi Giải Oan như đôi cánh tay rồng. Xét về mặt tâm linh, chùa Hoa Yên là nơi giao hội của trục linh (trục tung) và trục tú (trục hoành), hai bên tả hữu vươn ra (tả thanh long, hữu bạch hổ) theo thuật phong thủy, đây là vị trí đất quý hiếm.
Trải qua hơn 700 năm, biết bao các vị hoàng đế, vương hầu, các danh nhân về thăm Yên Tử đã đề thơ ngợi ca chùa Hoa Yên.
“Cảnh tốt hoa lành
  Đồ tựa vẽ tranh
  Chốn thấy trời thiêng mở khéo
  Nhà kia vua bụt tu hành
  Hồ sen trương tán lục
  Suối trúc bím đàn tranh.”
 (Vịnh Chùa Hoa Yên- Huyền Quang)
 Đệ Tam Tổ Huyền Quang đã từng trụ trì ở đây. Câu chuyện oan tình của ông với nàng Điểm Bích (1313) cũng xảy ra ở chốn Hoa Yên này.
Ngày nay, mặt bằng chùa có lầu chuông, lầu trống, am Thiền định, nhà dưỡng tăng, nhà khách nay không còn. Cuối năm 2002, chùa Hoa Yên đã được tôn tạo lại, cấu trúc gần giống hình chữ “Quốc” kiểu chùa gọi là “nội công; ngoại quốc”, có nghĩa là trong hình có chữ “công” còn bên ngoài có khung bao quanh như chữ “quốc”. Chùa được xây dựng trên dải đất hình cánh sen bao quanh sườn núi gồm hai phần: tiền sảnh và hậu cung rộng khoảng 150 m² thờ hàng chục pho tượng lớn toàn bằng đồng, lớn nhất là tượng Trần Nhân Tông đặt ở chính giữa hậu cung, ngồi xếp bằng trên đài sen, vẻ mặt không gợn chút trần tục. Gian bên trái chùa, trước tiền sảnh treo một quả chuông lớn đúc thời Minh Mệnh thứ 14, ghi lại bài Minh do Diên Chính Nguyễn Siêu Phàm soạn, ngợi ca về Trần Nhân Tông và Yên Tử. Có đoạn viết:
“Từng nghe, tiếng chuông khánh có ích lợi làm tỉnh giấc mê, tiếng chuông gióng giả ngân lên vang vọng chốn xa xăm, ấy là tiếng thanh đại pháp nơi cửa thiền. Chùa ở núi này, từ ngày Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhường ngôi vua đi tu hành đạo đến nay, lửa thiền truyền còn lưu rực rỡ, vẫn là chùa núi nổi tiếng bậc nhất của nước Việt…”( Dịch nghĩa chữ Hán).
Đến chùa Hoa Yên vào buổi chiều tà, du khách đã qua nửa chặng đường leo núi Yên Tử, được mời nghỉ chân qua đêm tại chùa để lấy lại sức sáng hôm sau tiếp tục cuộc hành trình. Đêm ở chùa thật kỳ ảo, trong không gian mênh mông, văng vẳng tiếng suối róc rách, tiếng trúc rì rào, tiếng tắc kè thảng thốt, đâu đây thoang thoảng mùi hương phong lan, mộc miên, trứng gà, hoa dẻ...
Bên phải chùa Hoa Yên là thác Ngự Dội (nơi vua tắm), một đoạn của thác Vàng chảy ngầm trong núi đến đây vọt ra thành một đường cong lắp lánh ánh bạc. Sách xưa kể lại rằng: đây là nơi mà Phật Hoàng Trần Nhân Tông thường tắm rửa trước khi nhập định, tham thiền tại am Thiền Định. Nguồn nước của thác Ngự Dội như là trí tuệ của Phật Tổ gột rửa hết tam độc (tham, sân, si), lục tặc ( nhân tặc, nhĩ tặc, thiệt tặc, thân tặc, tỵ tặc, ý tặc) để tu thành chính quả. Thác Ngự Dội còn có tên khác là Long Khê (khe Rồng), nước từ trên núi cao đổ xuống ầm ầm, toé lên trắng xóa như những hạt lưu ly, tạo ra một luồng gió mạnh mang theo bụi nước mờ mờ như sương, du khách thấy mình xiết bao nhẹ nhõm, thoải mái với cái cảm giác mơn man, tươi mát này.
Kề sát thác Ngự Dội là am Thiền Định- nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông ngồi nhập định, tham thiền. Am Thiền Định ở xa tuyến hành hương tĩnh lặng phù hợp với việc thiền định. Cách đó khoảng 300m, đến thác Vàng, nước chảy từ chùa Đồng (1068m), như dải lụa chảy xuống thành suối vàng, lúc ồn ào, lúc trầm tư.
Người lên Yên Tử càng lên cao càng ngỡ mình đi lạc vào chốn mộng mơ, huyền ảo. Cảnh núi non sương khói như đưa người vào cõi tiên xa cách chốn trần gian. Dòng người càng lên cao, con đường càng gập ghềnh, những tảng đá chai mòn như lưu lại quá khứ hành hương đến nghìn năm của chốn thiện tâm. Những rừng trúc xanh tươi rì rào trong gió ngàn như kể chuyện Tam Tổ đã lập lên Thiền Phái Trúc Lâm hay hát lên những lời ca cảm thán đất nước mình. Như có một sức mạnh thần bí nâng bổng con người vượt núi tới đây. Đó là vẻ đẹp linh thiêng của trời đất và lòng người hòa hợp.
Ảnh: Con đường hành hương lên Yên Tử.
 Cách chùa Hoa Yên khoảng 200m, là chùa Một Mái hay còn gọi là chùa Bồ Đà, am Ly Trần, chùa Bán Mái, Thanh Long động (động Rồng xanh). Chùa chênh vênh trong vách núi, nửa nhô ra bên ngoài, nửa bám vào vách đá. Xưa chưa có chùa, nơi đây là am Ly Trần. Cảnh am tĩnh lặng, thanh thoát, cách xa trần tục. Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông và các môn sinh, đệ tử từ Hoa Yên thường sang đây đọc sách, soạn kinh. Sau khi Ngài hiển Phật, người đời sau dựng chùa tại đây. Chùa hình chữ “nhất”, gồm 4 gian, chiều ngang hẹp, tượng và đồ thờ đều bằng đá trắng. Chùa Một Mái xưa là nơi lưu trữ các văn từ, thư tịch. Trong vách hang có mạch nước ngầm nhỏ dẫn từng giọt trên một núm đá suốt bốn mùa như dòng sữa mẹ không bao giờ cạn. Sư trụ trì lấy nước tinh khiết này để tắm quả và lễ Phật. Du khách tới đây, ai cũng muốn uống một ly để lấy phúc. Dân gian tin rằng, lấy nước ở đây và nước giếng ở chùa Đồng về thắp hương gia tiên rất linh thiêng. Vì lẽ đó, mà rất nhiều phật tử đến chùa thắp hương xin nước về để cúng lễ quanh năm tại gia. Rời chùa Một Mái, men theo con đường vắt qua sườn núi sẽ đến am Ngọa Vân (am trong mây), trước mặt là thác Tử từ trên lèn đá cao 10m đổ xuống, sôi réo trong các khe đá rồi tràn qua mặt đường, lao xuống vực. Am Ngọa Vân tựa vào sườn núi, dưới tán hai cây tùng lớn, hơi nước từ biển Đông theo gió bay vào Yên Tử gặp khí lạnh của núi biến thành màn mây mỏng bàng bạc như khói, lùa vào am vương vấn trên tán tùng, bồng bềnh trong rừng trúc, cảnh núi rừng hòa tan trong làn mây mỏng nhẹ rồi lại từ từ hiện ra từng mảng đậm nhạt, chỗ xanh, chỗ trắng như một bức tranh thủy mặc kỳ diệu. Trước cửa am Ngọa Vân phía trước sườn núi có am Thung (am giã thuốc) và am Dược (am chế thuốc). Theo truyền thuyết, am Dược là nơi An Kỳ Sinh luyện thuốc, đến thời vua Trần Nhân Tông về Yên Tử tu hành, ngài đã cho xây dựng am dược thành một xưởng bào chế thuốc. Các loại thảo dược quý của Yên Sơn và các vùng lân cận được chăm sóc thu hái, mang về điều chế thành thuốc “Hồng Ngọc Sương”. Những viên thuốc quý này dùng để chữa bệnh cho tăng sỹ, nhân dân, đặc biệt là những người nghèo khó, không có tiền mua thuốc. Đứng ở đây, khách hành hương có thể hướng tầm mắt ra biển, thấy thấp thoáng Hạ Long và những dải mây trắng bồng bềnh quấn quanh người mát lạnh, tâm hồn thanh thản lạ thường. Leo lên một đoạn dốc thẳng đứng, du khách được thưởng ngoại cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Cả rừng trúc xanh bạt ngàn biếc mắt, khi một làn gió nhẹ đưa mây trắng phủ kín. Tạo nên một khung cảnh nên thơ và một gam màu đầy sống động cho bức tranh Yên Tử.
Từ am Ngọa Vân đi lên con đường gần như dựng đứng. Sen đất mọc thành bồn trong những kẽ đá ven đường, lá hoe vàng, ram rám và tròn xoe, hoa năm cánh, hồng tươi và mỏng, tỏa mùi hương dịu nhẹ, lan trắng, lan tía mọc chen trong khóm trúc, hoa loa kèn nở rộ, phong lan buông từng chùm vàng hay trắng, dọc đường trên mỗi quãng ngắn có một cây vạn tuế lá xanh thắm bốn mùa. Nằm ở vị trí cheo leo, cao 724m so với mặt nước biển, tựa vào vách đá cao chót vót hiện ra chùa Bảo Sái. Thời kỳ Thượng Hoàng Trần Nhân Tông tu hành nơi đây chỉ có một am trong động, tên là Ngộ Ngữ Viện. Đại đệ tử thân tín nhất của Đệ Nhất Tổ là Bảo Sái đã tu hành ở đây. Bảo Sái được Trần Nhân Tông giao cho việc biên tập và ấn tống tất cả các kinh sách của Thiền phái Trúc Lâm rồi chuyển đến các chùa  để truyền giảng Thiền tông cho tín đồ, phật tử trong cả nước. Sau khi thiền sư Bảo Sái viên tịch, Ngộ Ngữ Viện tiếp tục được mở rộng, đời sau lấy tên ngài đăt tên là chùa Bảo Sái. Chùa có ba pho tượng Tam Tổ Trúc Lâm bằng đồng khá lớn, cùng ngồi xếp bằng trên bệ sen đồng được sơn son thiếp vàng. Chùa Bảo Sái vừa là tên chùa, vừa là tên đại đệ tử của Đức Phật Trúc Lâm. “Bảo Sái” tức là “những giọt nước chảy thành tua”, nghĩa đạo là sự thấm nhuần mưa của Đạo Phật nhiệm màu với chúng sinh. Chùa Bảo Sái là một biểu tượng của sự thấm nhuần rễ đạo của phật tử.
Cạnh am là giếng Thiêng nước trong vắt và cây giội cổ thụ, bị móng vuốt hổ cào, trải qua bao năm tháng vẫn còn in vết như một huyền thoại. Dưới gốc cây là ông Hổ Đáquỳ hai chân trước nhìn vào am chăm chú như đang nghe kinh. Chuyện xưa kể rằng: Đã lâu lắm rồi, có một con hổ ở đâu về chùa, cứ mỗi lần sư chùa tụng kinh, gõ mõ là hổ lại đến bên gốc giổi nghe kinh kệ. Ngày tháng qua đi, hổ và nhà sư luôn sống gần nhau. Bỗng một ngày kia, sư chùa lâm bệnh rồi viên tịch. Vắng bóng nhà sư, không còn tiếng tụng kinh, gõ mõ, hổ đau đớn, thét gầm, ôm chặt thân cây giổi cào xé. Sau ngày đó, hổ biệt tăm. Để ghi lại sự tích này, đời sau đã tạc tượng hổ bên giếng thiêng và khắc vào vách đá 4 chữ “Hổ bao niết linh”, tức “dấu vết ôm cây của hổ thiêng”. Du khách đến chùa thường ra thắp hương cho ông hổ, chỉ cho nhau xem dấu vết móng vuốt hổ còn in đậm nơi này.
Cách chùa Bảo Sái vài trăm mét là chùa Vân Tiêu (chùa trên mây), tọa lạc trên gò núi cao, từ dưới nhìn lên có cảm giác như công trình kiến trúc này được nổi hẳn lên giữa trời mây bát ngát. Có lẽ, địa thế chênh vênh như vậy, mà vua Trần Anh Tông đã đến chùa và đề thơ:
“Đình đình bảo các cao phan vân
Kim tiên vô khuyết cung phàm trần”.
Dịch
“Một tòa nhà sừng sững như chiếc lọng cao chạm mây
Cung điện thần tiên không chút thần tục.”
Xưa, thì chùa chỉ là một am thất nhỏ. Sau khi Đệ Nhất Tổ hiển Phật, thì nơi đây mới được xây dựng thành chùa. Trải qua mấy trăm năm, ngôi chùa đã được nhiều lần trùng tu. Vào thời Lê, đích thân Chúa Trịnh đã đứng lên làm chủ việc sửa chữa, tôn tạo lại chùa. Bia đá còn ghi lại sự kiện “Lê triều- Đại nguyên soái Thống Quốc Chính”.Chùa đã bị cháy từ cuối thế kỷ trước, nay chỉ còn nền gạch và bàn thờ Chúa Đại Ngàn, Năm 1992, ở đây đã xây dựng một ngôi thờ Tam Tổ Trúc Lâm hình chữ “nhất”, lợp ngói vảy rồng. Phía trước chùa là năm ngọn tháp trước vươn lên dưới mấy gốc tùng cháy. Khu tháp này được gọi là Vọng Tiên Cung, Tháp cao nhất 7m hình bát giác với 9 tầng cân đối là một trong những tháp độc đáo nhất của khu Yên Tử. Tục truyền, Quốc sư Trúc Lâm Đại Sa Môn Đạo Viên đã hóa thân hiển Phật ở đây. Trong hàng trăm ngôi tháp ở Yên Tử thì tháp “Vọng Tiên Cung” có kiểu kiến trúc riêng, độc đáo, phản ánh kiến trúc lăng tháp điển hình của thời Nguyễn. Bằng sự công đức của các phật tử thập phương, chùa Vân Tiêu được xây dựng lại năm 2001, có quy mô rộng lớn hơn, có cấu trúc hình chữ “đinh”, gồm bái đường và hậu cung, đón khách thập phương về thăm quan lễ Phật. Bên phải chùa Vân Tiêu là suối Hàm Long, khúc thượng lưu của suối Vàng, dòng nước trong veo, lưu lượng lớn, đều đặn, bốn mùa không thay đổi, tục truyền rằng du khách nào dừng chân tắm suối này thì da sẽ mịn hơn, người sẽ khỏe thêm.
Từ chùa Giải Oan đến chùa Bảo Sái là đường rừng, trúc, mai, giang bạt ngàn, mọc ken dày, thẳng tắp, mái lá rậm rạp, mượt mà phủ quanh các mái chùa, đỉnh tháp và rủ xuống hai bên lối đi. Ở đây ngoài nhiều loại trúc thường thấy có loại trúc hóa rồng thân vàng đậm, đốt chỗ thưa chỗ mau, gốc trồi lên mặt đất uốn cong với bộ rễ dày và xoăn tựa đầu rồng. Về mùa xuân, dưới những cơn mưa bụi, các loại măng bật lên từ lớp đất ẩm ướt phủ đầy lá mục: măng giang mập mạp, măng trúc vàng ánh, măng mai mảnh dẻ, tất cả đều mọc thẳng, nhọn hoắt làm cho rừng Yên Tử trẻ lại, đầy sức sống sau mùa khô hanh lạnh lẽo. Rừng trúc là sản phẩm vô tận của Yên Tử, tượng trưng cho sinh lực dẻo dai và vẻ đẹp thanh bạch của thiên nhiên, có lẽ vì vậy Trần Nhân Tông đã lấy tên Trúc Lâm đặt tên cho phái thiền do ông sáng lập. Làm bạn với trúc, mai, giang là các loài chim. Chiều chiều khi hoàng hôn xuống, vô vàn cu xanh, cu đất, chào mào, cà cưỡng,cò lửa, chích chòe... bay về ngủ, đậu rợp rừng trúc, kêu chao chác, inh ỏi.
Nằm ở độ cao 900m, cách chùa Vân Tiêu 569m, trên một vùng đất phẳng và rộng, một nhà sư mặc áo thâm hai tay chắp trước ngực đứng lặng lẽ nhìn ra lối đi như đang cầu nguyện. Đó là một tảng đá cao 3,5m tương truyền là An Kỳ Sinh tu hành đắc đạo và hóa thành Phật đã nhập vào mảng đá này. Pho tượng An Kỳ Sinh độc đáo, vừa như một khối đá tự nhiên, vừa như có bàn tay con người tạo dựng, sừng sững trên núi cao, tạo một không khí thần tiên cho không gian nơi này. Chuyện xưa kể rằng, vào thời Tần Thủy Hoàng, ở làng Phù Hương, đất Lạng Giang có người tên là An Kỳ Sinh thường đi chữa bệnh cho dân nghèo ở vùng biển. Khi Tần Thủy Hoàng đi đông du có mời ông đến nói chuyện y thuật và cho tặng phẩm. Ông mang những vật phẩm đó vào đình làng rồi đi tìm thuốc trường sinh bất tử cho nhà vua. Đi mãi đến Bạch Vân Sơn, thấy cảnh vật hữu tình, đắc ý ở lại, hái lá cây, luyện đan làm thuốc cứu đời. Khi mới đến Yên Tử, ông dựng am thuốc bào chế tại am Dược, sau chuyển lên khu vực dựng tượng đá ngày nay rồi mất.
Ảnh: Tượng đá An Kỳ Sinh Yên Tử.
 “An” (yên) nghĩa gốc là “an định”(yên lặng); “Kỳ”- nghĩa gốc lá cờ, kỳ đài (định giới hạn); “Sinh” nghĩa là sự sinh sôi, nảy nở. Hợp nghĩa ba chữ “An Kỳ Sinh” là sự khởi sinh nơi tĩnh lặng, trường tồn. Một tượng đá hóa người hay chính người hóa đá, gửi lại đây một hào khí sâu xa, về sự đắc đạo hài hòa giữa con người và tạo vật. Một tấm đá từ thủa hoang sơ nào trời đất tự dựng bia đã trở thành bia Phật giữa lòng người. Bàn tay gia công của nghệ nhân đã gắn linh hồn cho một phiến đá tự nhiên nhưng tài tình đến mức còn nguyên dáng dấp của một phiến đá trời sinh. Người tu hành đắc đạo đã trường tồn với trời đất, đi vão cõi vĩnh hằng. Tượng đá An Kỳ Sinh như là sự khởi đầu bước vào ranh giới cõi thiêng liêng nhất trên non thiêng Yên Tử.
“Ngày xưa đạo sỹ An Kỳ Sinh
Tìm đến núi Yên luyện đan linh
Ngang qua mắt ngọc rồng rực sáng
Ông nhận ra đây chốn địa linh”.
(Tượng đá An Kỳ Sinh- Hoàng Quang Thuận)
Từ An Kỳ Sinh lên chùa Đồng phải qua Cổng Trời. Cổng trời là nơi con đường luồn qua giữa hai vách đá vuông vức, tạo thành cổng tự nhiên, chắn hai bên, như để đi vào thiên đình của Tiên Giới. Thấp hơn cổng trời, ở dưới là Bia Phật. Đó là phiến đá tự nhiên mỏng, hình lá bồ đề, cao 5m. Cổ nhân xưa khắc trên đá chữ “A Di Đà Phật”. Ở hàng dọc nay còn rõ chữ “Phật”, hàng ngang còn rõ bốn chữ “Tứ tự hồng danh” (bốn chữ trên son). Bia Phật là biểu tượng thiêng liêng của Phật. Đất sinh ra đá, trời dựng bia, người khắc bia để lưu danh là sự kết hợp hài hòa giữa trời, đất và người tạo thành thắng tích trên Yên Tử. Gần đó, có một phiến đá rộng phẳng phiu, đó là Bàn cờ tiên. Xưa kia, có các quân cờ bằng đá, được khắc rất tinh xảo, nay không còn. Tục truyền rằng, đó là nơi các tiên ông thường xuống đánh cờ, bàn thế cuộc. Nơi đây cũng là nơi du khách dừng chân chuẩn bị sính lễ để dâng cúng phật tại chùa Đồng. Điều kỳ lạ làm cho ta sửng sốt khi đặt chân lên sàn đá khổng lồ của vùng chóp núi ấy là sự hiện diện của một rừng sú lộng nguyên sinh và những khối đá in ngấn sóng, lác đác trong một số hốc đá có vỏ hà, vỏ sò. Như thế là ở độ cao chóp núi chon von ta lại gặp hình ảnh của biển cả!. Rừng sú lộng chiếm trên 2/3 bề mặt của sàn đá với diện tích hàng ngàn mét vuông. Sú ở đây cũng giống loại sú mọc ven bãi biển, nhưng là sú cổ thụ cao chừng 2m gốc to tròn, sụn xuống, ngọn thắt lại, cong queo, cành sần sùi, lưa thưa vài chiếc lá cứng nhỏ, chim vẹt mỏ đỏ đuôi xanh từ trong rừng sú bay vút ra kêu cheo chét. Cạnh mép rừng sú dọc theo lối lên chùa có nhiều khối đá lạ, vuông vức như được ghè đẽo, xếp nối tiếp cạnh nhau. Ở các khối đá này đều có những đường lõm nông, rộng, nhẵn thẳng tắp và đều cách mặt trên một quãng bằng nhau, đó là những ngấn sóng. Ngấn sóng trên các khối đá và rừng sú lộng ở trên chóp núi Yên Tử cho thấy rằng cách đây hàng trăm triệu năm nơi này còn là mặt bằng ven biển.                                       
Ở độ cao 1068m, điểm dừng chân cuối cùng của Yên Tử là chùa Đồng. Đây được coi là "đóa sen" trên đỉnh thiêng Yên Tử, nơi chỉ "cách trời ba thước". Hai bên lối đi, những khóm mẫu đơn đơm đầy hoa trắng, hoa đỏ, từng đàn bướm rừng to bằng bàn tay mang sắc cầu vồng loang loáng trên cánh, vờn quanh. 
Đại lễ khánh thành Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông
Chùa Đồng (còn gọi là chùa Thiên Trúc- mang tên đất nước của Phật Tổ Như Lai) vốn là một ngôi chùa hình trụ nhỏ bằng đồng. Trong chùa thờ tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, chuông và đồ thờ đều bằng đồng, sau thất lạc. Năm 1930, chùa được đúc lại bằng đồng đặc, nhưng quy mô vẫn nhỏ, sau đó chiến tranh chống Mỹ khiến cho chùa bị rơi xuống vách núi phía Bắc. Cũng trong thời gian này, phật tử thập phương công đức xây lại chùa bằng bê tông cốt thép. Năm 2006, ban quản lý Dự án chùa Đồng, bằng công đức của thập phương trong và ngoài nước đã khởi lễ đúc chùa Đồng. Chùa được khánh thành vào ngày 30/1/2007 tọa lạc trên đỉnh non thiêng, ở vị trí giữa hai ngôi chùa được xây dựng. Chùa Đồng hiện nay là một công trình độc đáo nhất Đông Nam Á, trọng lượng 70 tấn, chiều dài 4,6m, chiều rộng 3,6m, cao 3,35m, mỗi viên ngói nặng khoảng 4 kg, 4 cột chùa, mỗi cột nặng 1 tấn. Chùa mang vóc dáng một đài sen nở. Trong chùa thờ Phật Thích Ca Mâu Ni và Tam Tổ Trúc Lâm Yên Tử.
Theo nhận thức của con người, chùa Đồng- Yên Tử là nơi con người có thể cầu viện được “sinh lực của vũ trụ” cho mọi mặt của cuộc đời. Chùa Đồng nơi mà tín đồ, phật tử đặt niềm tin vào sự linh ứng mỗi lần đến thăm viếng để được nhập vào nguồn sinh khí vô biên đó. Đến chùa Đồng lễ Phật, uống nước tiên là niềm ao ước của khách thập phương khi về Yên Tử.
Ngay trước mặt ta là những đám mây trắng bồng bềnh như suối vờn quanh, hơi nước ngưng lại trên da, tóc thành những giọt sương trong mát lạnh. Không khí trong lành làm cho du khách cảm thấy tiêu tan mọi mệt nhọc, nhẹ nhàng, và thanh thản, khó diễn tả được thành lời, sau quãng đường đầy gian nan, hành bộ tìm đến nơi này. Đứng ở chùa Đồng là đứng trong biển mây, trời thoắt nắng, thoắt râm, ngọn sú, mái chùa, bia Phật chợt hiện ra lờ mờ, chợt lại biến mất. Lúc gió ngừng thổi, mây đột ngột buông xuống vây quanh chóp núi trắng xóa. Lúc trời quang mây, đứng ở chùa Đồng, tầm mắt có thể bao quát cả không gian bao la hùng vĩ của vùng Đông Bắc Tổ quốc. Phía Đông là vịnh Hạ Long mênh mông với hàng ngàn đảo đá xúm xít như chuỗi ngọc, phía Đông Nam là Thành phố - cảng Hải Phòng chạy dài bên bờ sông Cấm, ngày đêm tấp nập tàu thuyền. Phía Nam và Tây Nam bát ngát những cánh đồng lúa, rau, tiếp mùa thay nhanh áo mới. Phía Bắc là cánh rừng bạt ngàn, xa xa những ngọn đồi đất nâu sẫm nhấp nhô in trên nền xanh lam của những rặng núi đá trùng điệp.
Với thời gian trung bình 3 giờ leo núi vất vả mới có thể đến được chùa Ðồng, đường lên đỉnh Yên Tử là một cuộc thử thách đức tính kiên trì, kiểm chứng lòng thành tâm với Phật. Lên đỉnh Yên Sơn, ta không phân biệt được đâu là trời, đâu là đất, đâu là người ở nơi hòa hợp giữa trời đất và người (thiên, địa, nhân). Đến đây, du khách được thưởng thức danh lam thắng cảnh, được lễ Phật và nghe giảng kinh, được thanh thản tâm hồn sau những ngày lao động vất vả. Những tín đồ của Phật có cảm giác mãn nguyện như đến được cội nguồn cõi Phật. Dường như nơi đây là chốn đào viên để Tiên, Phật đánh cờ, luận đàm kinh kệ, truyền cho các bậc hiền triết của trần gian.Ai nấy đều mãn nguyện khi đã tự mình lên tới đỉnh non thiêng, cái cảm giác người trẻ khỏe ra, già trẻ lại đã ứng vào tâm từng người. Ca dao xưa có câu:
"Trăm năm tích đức tu hành
Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu".
4. Hội xuân Yên Tử
Hội xuân Yên Tử là một trong những lễ hội lớn nhất Việt Nam vào mùa xuân ở nước ta với cả quy mô và thời gian trẩy hội. Lễ hội Yên Tử được tổ chức trong 3 tháng xuân, bắt đầu từ mùng 10 tháng giêng. Những năm gần đây, Yên Tử đang thu hút khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước và du khách quốc tế. Không chỉ riêng vào mùa lễ hội, mà trong thời gian suốt cả năm, Yên Tử luôn là điểm đến lý tưởng của du khách, ngoài là một khu di tích nổi tiếng nơi đây còn là một vùng sinh thái lý tưởng đối với con người.
Không biết lễ hội Yên Tử được hình thành từ bao giờ, chỉ biết rằng, từ thế kỷ XVII- XVIII, trên đỉnh Yên Tử, ở độ cao 1.068m đã hiện diện một ngôi chùa (Thiên Trúc Tự) mái lợp ngói đồng, trong chùa có 2 tượng đồng, cạnh chùa là một phiến đá lớn bằng phẳng được gọi là “Bàn cờ Tiên” cùng với một chữ “Phật” lớn khắc vào vách đá...Tất cả đều nói lên sự linh thiêng, huyền bí và sức cuốn hút kỳ diệu của Yên Tử.
* Các hoạt động văn hóa tâm linh trong năm ở Yên Tử là các ngày:
- Lễ khai hội Yên Tử mồng mười tháng giêng.
- Lễ Phật Đản ngày 15/4 âm lịch.
- Giỗ đệ Nhất Tổ Trúc Lâm ngày mồng 1 tháng 11 (âm lịch).
- Giỗ đệ Tam Tổ Huyền Quang ngày 23 tháng Giêng.
- Giỗ Thiền sư Chân Nguyên ngày 28 tháng 10 (âm lịch).
- Lễ Vu Lan ngày 15 tháng 7 (âm lịch).
Các ngày lễ, ngày giỗ Tổ hàng năm đều được trung tâm quản lý di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử, Ban Trị sự Phật giáo, các vị chức sắc trụ trì tại các chùa kết hợp tổ chức, long trọng và trang nghiêm, đón tín đồ Phật tử từ mọi miền về lễ Phật, lễ Tổ.
Sau phần nghi lễ long trọng dưới chân núi là cuộc hành hương của hàng vạn người đến với đỉnh cao nhất của Yên Tử- chùa Ðồng. Rải đều trên các cung bậc của hành trình hội xuân Yên Tử là những cụm kiến trúc chùa, bia, am, tháp...Lúc náu mình trong rừng cổ nguyên sinh, khi phô bày giữa không gian thoáng đãng, nhiều lúc ẩn hiện trong mây, huyền ảo như trong chuyện cổ tích, vừa quyến rũ du khách, vừa khích lệ tinh thần chinh phục. Mỗi bước đi lên, khách hành hương tự nâng đôi chân của mình nên một tầng cao mới. Phật dạy: “Khắc đi, khắc đến”; “Hãy thắp đuốc mà đi tìm chân lý”. Đạo Phật đề cao tinh thần tự lực, đường dẫn tới sự giác ngộ của con người. Ðường lên đỉnh Yên Tử uốn lượn, gập ghềnh, khó khăn, luồn dưới những bóng cây đại thụ, xuyên qua những vạt rừng thông, trúc...nhưng đi rồi sẽ đến, khi đến đỉnh Yên Tử du khách có cảm giác như lên tới cổng trời cưỡi mây nhìn xuống hạ giới. Tất cả gợi lên niềm phấn khích tự hào, lâng lâng trong niềm vui chiến thắng và chinh phục. Đường lên chùa Đồng rất thực giữa đời thường và trở thành biểu tượng của con đường tu hành theo Phật đạo.
Mùa xuân năm ngoái, khi chúng tôi lên chùa Đồng thấy có khá nhiều cụ già tuổi trên 60 mà nếu nhìn qua thì khó nghĩ các cụ có thể lên được đây. Với sự tò mò, chúng tôi đã bắt chuyện với một số cụ trong đó để tìm hiểu. Nét mặt tươi cười hết sức mãn nguyện và sung sướng, hai bà cụ nói với chúng tôi rằng: Lúc mới trèo lên, các cụ cũng không biết mình có thể lên tới nơi hay không, nhưng không hiểu sao càng đi càng thấy mình dẻo dai như có người nâng bước, và các cụ cho đó là Phật phù hộ, Phật giúp sức. Sự sung sướng thể hiện trên nét mặt họ thật khó có lời nào tả hết được. Vấn đề ở đây không phải là phép thần thông biến hoá gì của tôn giáo, mà là mặt tâm lý của con người khi tiếp xúc với những tín ngưỡng tôn giáo. Đức Phật Thích Ca từng nói: “Hạnh phúc chính là sự thanh thản của tâm hồn”. Về với Yên Tử, con người ta cảm nhận được sự thanh thản và giải toả rất nhiều lo lắng, bức xúc trong cuộc sống. Đó chính là tiềm năng to lớn nhất mà lễ hội Yên Tử có thể đem lại cho con người hiện đại hôm nay. Đặc biệt, trong tình hình xã hội hiện đại như bây giờ, con người đang chịu không biết bao áp lực do cuộc sống đem lại như cường độ công việc, nỗi lo lắng của công ăn việc làm, ô nhiễm môi trường, những bất trắc của cuộc sống…
Một điểm chú ý khác đó là xu thế du lịch hành hương đang ngày càng phát triển ở nước ta. Cuộc sống ngày càng phát triển, con người có nhiều điều kiện kinh tế cho phép đi lại, thăm thú nhiều nơi hơn. Bên cạnh những niềm tin tôn giáo thì giá trị lịch sử của khu di tích Yên Tử như một bài học lịch sử đối với tất cả người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Đến đây, du khách được thấy tận mắt những bằng chứng sống của một giai đoạn quá khứ oai hùng của dân tộc, hơn thế là những giai thoại và câu chuyện gắn liền với các hiện vật còn lại ở đó, như vậy bài học lịch sử càng sâu sắc thêm.
Cơ sở hạ tầng những việc tu bổ di tích cũng đóng góp vào sự tấp nập của lễ hội Yên Tử. Đó là dự án nâng cấp mở rộng tuyến quốc lộ 18 đã được hoàn thành. Bãi đỗ xe rộng có thể chứa được vài trăm xe khách cở lớn tạo điều kiện cho du khách đến thăm. Hệ thống cáp treo lên gần Hoa Yên được xây dựng năm 2002 và hệ thống cáp treo tiếp theo mới khánh thành năm 2008, đã giúp những khách hành hương không có thời gian lưu lại lâu tại lễ hội rất thuận tiện cho việc thăm viếng. Đặc biệt là sự kiện khánh thành chùa Đồng mới được đúc lại bằng 60 tấn đồng nguyên chất cao 3,35m, rộng 3,6m vào năm 2007 làm cho Phật tử cả nước vô cùng hân hoan, phấn khởi. Cùng với chùa Đồng, các di tích và thắng cảnh của quần thể chùa này đang dần dần được tu bổ, tôn tạo ngày một khang trang hơn để đáp ứng được lòng mong mỏi của du khách. Nhân dịp sự kiện “700 năm ngày giỗ của Phật hoàng Trần Nhân Tông”(1/11/1308- 1/11/2008) đã cho dựng tượng Trần Nhân Tông trên đỉnh non thiêng Yên Tử; tôn tạo Chùa Suối Tắm, chùa Bảo Sái; hoàn thành việc lập dự án phát triển mở rộng Yên Tử trình Chính Phủ phê duyệt.
Môi trường sinh thái Yên Tử còn là tiềm năng làm cho lễ hội này duy trì và phát triển. Đương nhiên, mỗi lễ hội hay danh lam thắng cảnh đều có tiềm năng riêng của nó. Song, ở yên Tử quy mô của nó khác hẳn ở chỗ đây không chỉ đẹp về cảnh quan, mà hấp dẫn bởi mội trường sinh thái với trúc lâm (rừng trúc), với những rừng thông, những cây tùng cổ thụ xen kẽ trong các di tích tôn giáo…. Tất cả những cái đó tạo nên sự u tịch, tĩnh lặng và trong lành, vừa thiêng liêng vừa hoang sơ làm nao lòng các du khách. Cây trúc là một đặc sản lâm nghiệp nổi tiếng ở Yên Tử, Đệ Tam Tổ Huyền Quang đã có thơ:
“Trúc Lâm đa túc điểu
Quá bán, bạn nhàn tăng”.
Nghĩa là:
“Rừng trúc nhiều chim ngủ
Quá nửa là bạn nhà sư”.
Trúc tự nhiên và trúc trồng dọc đường hành hương lên đỉnh Yên Sơn mang ý nghĩa tượng trưng cho người quân tử ngay thẳng trung thực. Sự đông đúc quần tụ của rừng trúc được ví như sự hợp quần của tín đồ, phật tử. Trúc là loại có nhiều đốt như chiếc thang lên trời trong ước vọng tâm linh. Với đạo Phật, do lòng rỗng, trúc (tre) tượng trưng cho “tâm không” dẫn phật tử, dẫn người ta về với bản thể chân như, để thấy “phật tâm”. Rừng tre trúc ở đây có nhiều loài, đặc biệt là loài trúc hóa long (hóa rồng), chân ngắn, màu vàng đậm, đốt có chỗ thưa, chỗ mau, gốc trồi lên mặt đất uốn cong lên với bộ rễ dày, xoắn tựa râu rồng, đó là loài cây quý. Có lẽ vì vậy mà Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đặt tên cho thiền phái mà Ngài sáng lập. Ngoài ra, cây tùng, đại, bồ đề, sung, đa, mít, si, cây thuốc nam…cũng là những loài cây quý ở đây. Nguyên Chủ Tịch nước Trần Đức Lương trong chuyến thăm Yên Tử ngày 17-18 tháng 2 năm 1999 đã nhắc nhở: “Ở Yên Tử, những cây đại, cây tùng, rừng trúc quý vô giá. Một ngôi chùa lớn chỉ cần xây vài tháng là xong, còn cây đại, cây tùng cổ thụ thì phải 700 năm mới có…”.Rừng nguyên sinh Yên Tử kết hợp với nhiều loại cây mang ý nghĩa tôn giáo, được các thiền sư, các nhà quản lý, tín đồ, phật tử trồng một cách có ý thức tại các điểm di tích, hòa cùng kiến thức của các chùa, tạo thành một tổng thể, góp phần tôn vinh vẻ thâm nghiêm, huyền bí của Yên Tử sơn. Đến đây người ta như trút được tất cả để thả hồn trong rừng cây, con suối… để lấy lại sức lực cho những thách thức mới đang đợi họ phía trước. Sự thanh thản ấy sẽ là một liều thuốc vô cùng quý giá. Ấy là chưa kể đến sự hỗ trợ về tâm linh lại càng tăng thêm sự tự tin và sức mạnh trong mỗi con người.
Những tiềm năng văn hoá khác như các nghi lễ và sinh hoạt văn hoá cũng đang dần dần được khôi phục và phát triển. Năm 2008, ngày khai hội đã vang lên tiếng nhạc Long âm cùng tiếng trống khai hội vang vọng khắp núi rừng cùng Lễ dâng hương, lễ cầu quốc thái dân an, lễ đóng dấu thiêng lưu niệm chùa Đồng. Đặc biệt hơn nữa, “để tạo thêm sắc thái mới, Ban tổ chức đã mang đến cho du khách một tiết mục rất đặc sắc, đó là “múa bài bông” – một điệu múa cổ tương truyền có từ thời Trần, thường được trình diễn tại các đại lễ của triều đình.
Năm nay, hội xuân Yên Tử có nhiều nét mới như: công trình trùng tu, tôn tạo chùa Suối Tắm đã hoàn thiện. Dự án điện chiếu sáng Yên Tử đã hoàn thành, chiếu sáng toàn bộ tuyến đường hành hương từ chùa Giải Oan qua các điểm chùa lên đến chùa Đồng. Ngoài ra, hệ thống cáp treo của Công ty cổ phần phát triển Tùng Lâm cũng đã được nâng cao công suất và số lượng cabin, đảm bảo vận chuyển khách an toàn, nhanh, thuận tiện. Theo thống kê của ban tổ chức, từ ngày mồng 1 tết đến ngày mồng 10 tết Nguyên đán có tới hơn 30 vạn lượt du khách đã đến với Yên Tử. Du khách đến với chốn linh sơn có nhiều lý do: Có những người đến Yên Tử để ngưỡng cảm ý chí thông tuệ và đức độ thanh cao của các bậc cha ông. Có người về Yên Tử để du xuân, vãn cảnh, thưởng ngoạn không khí thanh bình. Nam nữ thanh niên đi Yên Tử để khám phá, chinh phục. Nhiều Việt kiều về nước tìm dến Yên Tử đắm mình trong những giá trị nhân văn, tinh hoa dân tộc. Rất nhiều khách nước ngoài đã biết đến Yên Tử như một điểm hấp dẫn du lịch tôn giáo, lịch sử, văn hóa và sinh thái. Nhưng khi trở về, tất cả mọi người đều mang trong mình sự thanh thản của tâm hồn và mong mỏi về một điều linh thiêng mà mình nguyện cầu trên Yên Tử sơn sẽ thành hiện thực.
YÊN TỬ - NƠI SÁNG NGHIỆP CỦA DÒNG THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
Tam tổ Trúc Lâm Yên Tử
1. Đệ Nhất Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258- 1308).
Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, nhà lãnh đạo kinh luân, nhà ngoại giao tài ba, thiền sư lỗi lạc, nhà văn hoá uyên bác và nhà thơ xuất sắc của dân tộc. Ở bình diện nào, người ta cũng phát hiện những điều thú vị, kì lạ ở danh nhân kiệt xuất này. Nói như nhà nghiên cứu văn học Trần Thị Băng Thanh, Trần Nhân Tông “là một con người đa dạng. Trong ông có bản lĩnh quả quyết, vững vàng của một người làm tướng, có cái sắc bén, bình tĩnh, ung dung của một nhà chính trị, ngoại giao, có sự sâu sắc thâm trầm của một nhà thiền học và quán xuyến tất cả là lòng nhân ái, hồn hậu, yêu nước nồng nàn… của con người Việt Nam cùng với một tâm hồn thơ giàu cảm xúc, tinh tế”.
Trần Nhân Tông là con vua Trần Thánh Tông, cháu vua Trần Thái Tông, là đời vua thứ ba của vương triều Trần, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép về Ngài: "... được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thế chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng...” .Thân sắc Ngài vàng ánh, tựa hoàng kim, nên vua cha gọi là “Kim phật”. Lớn lên, năm 16 tuổi (1274), Ngài được lập làm Đông cung Thái tử và cùng năm Ngài kết duyên cùng công chúa Quyên Thánh, trưởng nữ Hưng Đạo Đại Vương. Vua Trần Thánh Tông đã mời các bậc lão thông Nho giáo, Tứ thư, Ngũ kinh để dạy cho Ngài như Lê Phụ Trần, Nguyễn Thánh Huấn, Nguyễn Sĩ Cố v.v… tất cả đều hết lòng dạy dỗ. Chính vua cha cũng đã soạn “Di hậu lục” để dạy dỗ cho Thái tử cách xử thế, chuẩn bị nối nghiệp sau này. Ngài: “Học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển, ngay cả thiên văn, lý số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì mà không mau chóng nắm được sâu sắc. Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền) tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ “Thiền tủy”. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy. Ngài thường tới lui chùa Tư Phúc trong kinh thành để tụng kinh, tọa thiền, lễ bái Tam bảo.
Năm 1279, tròn 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi, lấy hiệu là Nhân Tông. “Vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song, để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân" (Đại Việt sử ký toàn thư).Dưới sự trị vì của Ngài, triều Trần tiếp tục hưng thịnh. Ngài chủ trương dùng “đức trị”, dùng “tâm”, đoàn kết toàn dân, quy tụ lòng người. Bản thân Ngài là tấm gương sáng về nhân hiếu, tôn người hiền, trọng kẻ sỹ. Thấm nhuần giáo lý Phật từ nhỏ, lại được Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy dỗ nên khi làm thái tử, làm vua, lúc cầm gươm, cầm bút, ở cương vị nào Ngài cũng mang phong cách của Thiền gia.
Trước thảm họa ngoại xâm, quân Nguyên- Mông chuẩn bị xâm chiếm nước Nam (1258- 1288),  năm 1282, Trần Nhân Tông chủ trì Hội nghị Bình Than để lấy ý kiến toàn dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Năm 1284, trước khi cuộc chiến tranh diễn ra, Ngài tiếp tục chủ trì Hội nghị Diên Hồng, lấy ý kiến các vị Bô lão, những người đứng đầu các Bộ lạc. Toàn thể hội nghị già trẻ, gái trai đều một lòng tung hô quyết chiến. Cùng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông  đã lãnh đạo quân dân đánh bại quân giặc. Ngài là ngọn cờ tiêu biểu của dân tộc, "cố kết nhân tâm", lãnh đạo quân dân cả nước vượt qua mọi gian khổ hy sinh làm nên chiến thắng huy hoàng. Vào giai đoạn đầu cuộc kháng chiến năm 1285, khi quân giặc ồ ạt tiến công, Trần Nhân Tông đã viết lên đuôi thuyền chiến hai câu thơ đầy hào khí và lòng tin vào sức mạnh tiềm tàng của quân dân ta sẽ làm nên chiến thắng: 
"Cối Kê cựu sự quân tu ký
 Hoan Diễn do tồn thập vạn binh" 
Dịch: 
"Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ
 Hoan Diễn còn kia chục vạn quân”.
 Hai câu thơ đó, đã đi vào lịch sử như một giá trị bất diệt trong sự nghiệp đánh giặc Nguyên Mông. Sự nghiệp hiển hách nhất của Trần Nhân Tông cũng đồng thời là sự nghiệp hiển hách nhất của lịch sử Việt Nam trung đại, đúng như ngài đã viết trong ngày làm lễ hiến tiệp trước lăng mộ của ông nội Trần Thái Tông:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.”
Dịch là :
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thủa vững âu vàng.”
 Sau khi làm vua 14 năm, năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông để có thì giờ tu học. Sau đó, Ngài lùi về phủ Thiên Trường (Nam Định) chuyên tâm nghiên cứu kinh sách Phật. Tuy nhiên, vua chưa xuất gia liền, vì muốn có một thời gian đứng sau lưng con, để tập sự cho khá giỏi, vững chãi thì mình mới đi tu. Đồng thời cũng để giúp vua có nhiều thì giờ và điều kiện để học tập kinh điển, để tham vấn với các vị thiện đức và để tu tập ngay ở trong trụ sở của vua
Sử có chép: Một hôm từ phủ Thiên Trường tới, Thượng Hoàng Nhân Tông không thấy vua Anh Tông ở đâu cả. Đi tìm cung này sang cung khác cũng không thấy nhà vua trẻ đâu hết. Hỏi các cung nữ, các cung nữ nói rằng Hoàng Thượng đang ngủ ở trong Tẩm Điện, vì hồi trưa uống rượu nhiều quá! Vua uống loại rượu rất thơm, rất ngon gọi là rượu Xương Bồ.
Thượng Hoàng không bằng lòng, ngài trở về chỗ tu học của mình và ra lệnh cho các quan trong triều đến đó để bàn bạc và hội nghị với ngài.
Lúc vua Anh Tông thức dậy, hỏi thăm và biết rằng Thượng Hoàng có tới thăm, tìm mình không ra, đã không bằng lòng, bỏ về cung Thiên Trường, và triệu tập các quan vào đó để hội nghị, cho nên vua rất sợ! Mình làm vua, mình say rượu nằm ngủ cho đến đỗi Thượng Hoàng tới thăm mà mình không có mặt để tiếp đón. Đó là một cái lỗi rất lớn!
Vua Anh Tông không biết làm sao, các quan thì đi hết rồi! Đi quanh đi quẩn, đi qua chùa Thiên Quốc thì gặp một anh chàng thư sinh đang ngồi đọc sách ở trước sân chùa. Anh chàng đó tên là Đoàn Nhử Hài. Nhà vua mới nói rằng: “Này khanh, khanh ngồi xuống viết cho trẫm một cái thơ sám hối, một tờ biểu tạ tội với Thượng Hoàng”.
Rồi hai vua tôi ngồi đó, vua nói ý, còn anh chàng sinh viên Đoàn Nhử Hài viết xuống một tờ biểu để tạ tội. Xong, hai người lấy thuyền chèo về phủ Thiên Trường. Hai người vào sân phủ, vua quỳ trước sân và đội tờ biểu để dâng lên, anh chàng sinh viên quỳ phía sau lưng. Lúc đó trời mưa. Ở trong cung nhìn ra mọi người đều thấy.
Để vua quỳ như vậy một lúc thì Thượng Hoàng mới ra lệnh cho vào. Đọc xong tờ biểu tạ tội thì Thượng Hoàng mới quở rằng: “Ta đang còn sống mà con còn làm như vậy huống hồ sau này ta chết thì con sẽ làm như thế nào nữa!”. Ngài chỉ la một câu rồi sau đó thì tha tội cho vua.
Từ giây phút đó về sau, vua Anh Tông không uống một giọt rượu nào nữa. Không những rượu Xương Bồ mà bất cứ rượu nào cũng không uống một giọt! Ngài đã học được một bài học rất đích đáng.
Trong thời gian này, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông vẫn phải lo việc “quốc gia đại sự”. Ngài thân chinh cầm quân chống Ai Lao, dẹp yên biên giới phía Tây Nam Đại Việt (1294), tiếp sứ bộ nhà Nguyên do Nguyên Thánh Tông cử sang thông báo về việc bãi binh (1295). Cũng vào năm đó, Ngài tập xuất gia ở hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình) 4 năm. Tháng 10 năm 1299, xét thấy Anh Tông có đủ tài đủ sức đảm đang nổi việc nước, Ngài chính thức xuất gia. 
Ảnh Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông tại Yên Tử 
Theo gương các thiền sư: Hiện Quang, Đao Viên, Đại Đăng, Tiêu Dao, Huệ Tuệ đã từng tu hành, đắc đạo tại Yên Tử, Ngài về Yên Tử tu hành, lấy pháp danh Hương Vân Đại Đầu Đà, đạo hiệu là Trúc Lâm Đại Sỹ, mặc áo nâu, đi hài cỏ, dựng am tranh để đọc sách Phật, tọa thiền. Người đời gọi Ngài là Điều Giác Ngự Hoàng (vua giác ngộ đạo Phật). Nói về mục đích xuất gia lên núi Yên Tử đi tu của Trần Nhân Tông, trong sách “Trúc Lâm tông chỉ nguyên hanh” của danh sĩ Ngô Thì Nhậm (1746-1802) đã luận giải rất xác đáng: "Mọi người thấy Đức Điều Ngự (tức Trần Nhân Tông) là tổ thứ nhất khi ra ở chùa Yên Hoa thì cho ngay là Ngài xuất gia. Nhưng có biết đâu, đương lúc bấy giờ, Đức tổ biết lấy thiên hạ làm chung, gặp buổi nước nhà yên ổn song nước láng giềng ở ngay bên cạnh rất mạnh nên chưa được yên tâm, mà việc đó không thể nói ra, sợ lòng người dao động. Nhân thấy Yên Tử là ngọn núi cao phía đông nhòm mặt được tính Yên, tỉnh Quảng, phía bắc có thể trông tới Lạng Sơn, Lạng Giang, nên mới dựng tu viện, thường qua lại xem động tĩnh, khiến quân giặc ở ngoài không thể gây những việc đáng lo ngại. Đó mới thật là vô lượng, lực đại thế chí Bồ Tát..."
Từ khi xuất gia về Yên Tử, Ngài tập trung lo việc đạo, xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo, và đi khắp nơi giảng giải cho chúng sinh hiểu và làm theo “thập thiện”.
Ngài mở pháp hội vô lượng ở chùa Phổ Minh (Nam Định), mở hội thuyết giảng ở Sùng Nghiêm, Kỳ Lân Viện (Chí Linh- Hải Dương), Quỳnh Lâm (Đông Triều- Quảng Ninh), Báo Ân (Gia Lâm- Hà Nội), Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) và chủ yếu tại Yên Tử. Ngài bố thí chẩn cấp cho người nghèo, thuyết giảng giúp dân khai mở tâm tính. Ngài khuyên phật tử có thể giác ngộ ngay trong đời sống thường ngày, không nhất thiết phải tìm lên núi mới mộ đạo. Trong “Khóa hư lục”, Ngài nói rất rõ về quan điểm nhân sinh “tâm” và “đạo”. Chỉ cần đọc thơ của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông là hiểu ngay, đạo Phật không ảo mà thiết thực đến mức “cư trần lạc đạo”- sống giữa đời vẫn thành Phật.
Là người anh hùng, là triết gia, Trần Nhân Tông còn là một thi sĩ có tâm hồn rộng lớn, phóng khoáng và có cái nhìn tinh tế, thanh tao. Thơ trần Nhân Tông phảng phất phong vị Thiền, gợi mở cho người đọc thấy thế giới tinh thần cao khiết. Ngài chủ trương dùng chữ Nôm thay thế chữ Hán thể hiện tinh thần dân tộc của nền văn hóa Đại Việt. Trần Nhân Tông là tác giả của những sáng tác như: “Thiền Lâm thiết chủy ngữ lục”, “Trúc Lâm hậu lục”, “Thạch Thất mị ngữ”, “Tăng già toái sự”, “Thượng sỹ hành trang”, “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”, “Cư trần lạc đạo phú”. Trong bài “Sơn phòng mạn hứng” tức “Tức khởi hứng nơi phòng trên núi”, Ngài viết:
“Thị phi niệm trục triệu hoa lạc
Danh lợi tâm tuy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thành đề điểu hựu xuân tàn.”
Dịch nghĩa:
“Phải quấy niệm rơi theo hoa sớm
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm
Hoa sạch, mưa dừng non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.”
Với Đại Đầu Đà Trúc Lâm, sau khi xuất gia, Ngài hứng khởi trước cảnh lặng lẽ, im vắng, tình đời khó đến được. Tâm lợi danh nay cũng đã lạnh đi cùng với trận mưa đêm, hết còn nóng bỏng, khởi động. Và cuối cùng thì hoa rơi sạch, mưa dừng tạnh, chỉ còn lại một cảnh núi non vắng lặng, tình đời khó đến được. Chợt một tiếng chim kêu vang lên, và mùa xuân đã tàn. Trong cảnh lặng lẽ im vắng đó, một tiếng chim bỗng kêu vang lên, ai nghe được “tiếng kêu ấy”? Hay là cũng tầm thường tàn theo mùa xuân kia? Đó là chỗ niệm phải quấy, tâm lợi danh đều dứt bặt.
Mùa xuân năm 1308, tại chùa Siêu Loại, Ngài long trọng tổ chức truyền đăng trao y bát cho Thiền sư Pháp Loa.
Chuyện kể rằng, trước khi hóa Phật, Trần Nhân Tông cho gọi đệ tử Bảo Sái lên am Ngọa Vân. Bảo Sái ở dưới liền trông thấy một đám mây đen từ am Ngọa Vân bay ngang núi, đến ngang suối thì nước dâng cao mấy trượng, rồi lại phẳng lặng như thường. Rồi lại có con rồng, đầu to, cũng nhảy bổ cao đến một trượng, hai mắt sáng như sao một chốc rồi biến mất. Trời đất bỗng tối om, mưa gió dữ dội, khỉ vượn chạy quanh am, chim chóc kêu thê thảm. Vua hỏi Bảo Sái: “Giờ này là giờ gì?”. Bảo Sái thưa: “Bây giờ là giờ Tý”. Vua đẩy cánh cửa sổ mà nói: “Đây là giờ của Phật”. Nói xong, vua liền nằm như sư tử ngủ thiếp đi. Nhất Tổ Trúc Lâm Yên Tử Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông hiển Phật vào giờ Tý ngày 1/11 năm Mậu Thân (1308) tại am Ngọa Vân (An Sinh- Đông Triều- Quảng Ninh.)
Trần Nhân Tông- một vị vua Đại Việt có khả năng ứng dụng trí tuệ của đức Phật để hoàn thành sứ mệnh của một vị thánh vương trong lúc làm vua; hoàn thành sứ mệnh của bậc chuyển pháp luân trong thời kỳ xuất gia và đã biết cái gọi là chết để trở thành vô lượng quang, vô lượng thọ, mãi mãi xuất hiện mọi nơi để hô trì cho thế giới cần đến ánh sáng của chư Phật, ánh sáng đạo đức và trí tuệ. Ngài là tấm gương sáng ứng dụng trí tuệ Phật mà tất cả những người có động cơ làm người đứng đắn đều phải suy nghĩ học theo, nhất là các phật tử.
Xét từ nhiều góc độ, Trần Nhân Tông là một nhân vật lịch sử vĩ đại. Do vậy, việc một lần nữa đánh giá về Ngài trên các phương diện lãnh tụ đất nước, anh hùng dân tộc, Phật hoàng, nhà cải cách tôn giáo hay nhà triết học… là không hề đơn giản. Dưới mỗi một lăng kính, Trần Nhân Tông hiện ra với một uy thế khiến chúng ta khâm phục. Nhưng, cái đáng quý là ở chỗ, tất cả những tư thế đó, giá trị đó, thành tựu đó lại được tựu trung vào một con người - Phật hoàng Trần Nhân Tông.
“Giáo hội Trúc Lâm- Vua giáo chủ
Thịnh cường Đại Việt- sáng trời Nam
Yên Tử linh sơn thành đất Phật
Nhất Tổ Trúc Lâm hóa mây vàng.”
(Vua giáo chủ- Hoàng Quang Thuận)
2. Đệ Nhị Tổ Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330)
Đệ Nhị Tổ thế danh là Đồng Kiên Cương, sinh ngày 7/5 năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), người thôn Đồng Hóa hương Cửu La (nay là xã Ái Quốc. huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Thân phụ là Đồng Thuần Mậu, thân mẫu là Vũ Thị Sinh.
Chuyện kể rằng, sau 8 lần sinh đều là gái, nên gia đình bà rất mong có cậu con trai để nối dõi tông đường. Một đêm, bà nằm mơ thấy di nhân trao cho thanh kiếm báu, bà vui vẻ nhận, ôm vào lòng rồi về mang thai. Vì lại lo sinh con gái, bà tìm mọi cách, mọi phương thuốc để trục thai, song thai nhi vẫn không hề suy chuyển. Để ghi lại bản lĩnh kiên cường của con ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, ông bà đặt tên con là Đồng Kiên Cương.
Khi Ngài sinh, hương thơm tỏa đầy nhà hàng tháng trời không hết. Ngài thông minh xuất chúng, từ nhỏ đã thích theo mẹ lên chùa nghe giảng kinh kệ và thắp hương lễ Phật.
Năm 1299, Điều Ngự Giác Hoàng từ hành cung Vũ Lâm về Yên Tử , trên đường gặp Đồng Kiên Cương, Đồng Kiên Cương quỳ lạy xin theo làm thị giả. Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông tổ chức giới đàn thụ giới tỳ kheo cho Thiên Lai và ban hiệu là Thiên Lai.
Năm Hưng Long thứ 13(1305), Điều Ngự Giác Hoàng làm chủ lễ, tổ chức giới đàn thụ giới tỳ kheo cho Thiên Lai và ban hiệu là Pháp Loa. Kể từ ngày đó, Thiền Sư Pháp Loa được gần gũi Đệ Nhất Tổ, có điều kiện học đạo, rèn tâm.
Huyền Quang được Trần Nhân Tông rất yêu mến, cho ở luôn bên mình để kèm cặp và giao cho soạn một số sách về Phật học như “Chư phẩm kinh”, “Công văn tập” “Thích khoa giáo”, “Thạch thất mị ngữ”. Trần Nhân Tông từng thốt lên khen: "Phàm các sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt chữ nào".Dưới sự đào tạo của Trần Nhân Tông, Huyền Quang trở thành một trí thức uyên bác của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chứng nhập sâu xa đạo pháp và là một bậc thầy tâm huyết trong giảng dạy Thiền học, có hàng ngàn môn sinh.
Năm 1306, Ngài được Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông lập làm giảng sư ở chùa Siêu Loại để đào tạo tăng tài.
Ngày 1 tháng Giêng năm 1308, tại chùa Siêu Loại, trước sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông cùng đông đảo triều thần, tăng sỹ và Phật Tử, Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông lập lễ đàn trang trọng truyền đăng cho Thiền sư Pháp Loa. Từ đây, Thiền sư Pháp Loa trở thành Đệ Nhị Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, về trụ trì chùa Báo Ân để lo công việc.
Sau khi Đệ Nhất Tổ Trúc Lâm hiển Phật, Ngài trở thành giáo chủ Phật giáo Đại Việt- khi vừa bước sáng tuổi 24. Ngài về Yên Tử xây chùa Vân Yên (Hoa Yên), chùa Long Động (chùa Lân)…
Năm 1309, Ngài cùng môn nhân xây bảo tháp để quàn xá lợi của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trong lăng Quy Đức, trước chùa Hoa Yên.
Trong 19 năm tu hành, Ngài đã cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như viện Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều Côn Sơn, Thanh Mai, Hồ Thiên... Pháp Loa là người có công lớn trong việc quảng bá giáo lý của Thiền phái Trúc Lâm. Thời ngài làm giáo chủ, Thiền phái Trúc Lâm phát triển rộng khắp và cực thịnh nhất.
Tháng 2 năm Khai Hựu thứ 2 (1330) tại tăng viện Quỳnh Lâm( Đông Triều) trước sự chứng kiến của Thượng Hoàng Trần Minh Tông cùng các quần thần và đông đảo chúng tăng, Ngài phong cử Huyền Quang Tôn Giả làm Tổ truyền đăng kế tiếp của Thiền Phái Trúc Lâm.
Pháp Loa Đồng Kiên Cương viên tịch vào đêm mồng 1 tháng 3 năm 1330. Thể theo di chúc của Ngài, các đệ tử an táng Ngài trong bảo tháp Viên Thông chùa Thanh Mai (Chí Linh- Hải Dương).
Ngày nay, hầu hết các chùa tại Yên Tử đều tạc tượng thờ Ngài bên trái tượng thờ Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông. Từ khi làm giáo chủ, Ngài đã tập trung bổ sung hoàn thiện giáo lý, giới luật của Thiền phái Trúc Lâm, biên soạn hàng loạt sách kinh điển như: “Kim cương đạo trường”, “Bát nhã tâm kinh”, “Tán pháp khoa kinh khóa sớ”,” Phát nguyên văn”…
Sau 46 năm tại thế, di bút cuối cùng để lại cho hậu thế của Ngài là:
“Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhân
Tứ thập dư niên mộng ảo gian
Trân trọng chủ nhân lưu tá vấn
Ma biên phong nguyệt cánh mai khoan.”
Dịch:
“Muôn duyên cắt bỏ được thân nhàn
Hơn bốn chục năm mộng ảo gian
Nhắn nhủ mọi người đừng viếng hỏi
Bên này trăng gió cũng mênh mang.”
3. Đệ Tam Tổ Huyền Quang Tôn Giả Lý Đạo Tái (1254-1334).
Đệ Tam Tổ thế danh là Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tỵ huyện Gia Định lộ Bắc Giang ( nay là thôn Vạn Tỵ, xã Cao Đức Tỵ, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh).
Thân phụ là Tuệ Tổ thuộc dòng dõi quan liêu, bản thân Ngài không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Thân mẫu họ Lê, là người có tiếng nhân đức.
Chuyện xưa kể rằng, nhà sư chùa Ngọc Hoàng gần đó nằm mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng rực rỡ, chư Phật tụ hội. Phật chỉ Tôn Giả A Nan bảo: “Người thác minh pháp khí cõi Đông”. Đến đây, chợt có người gõ cửa, nhà sư tỉnh giấc liền làm bài kệ:
“Người mà vì đạo chớ tìm đâu
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu
Mộng thấy điều lành là ảnh hưởng
Đời nay ắt gặp kẻ tâm đầu.”
Thủa nhỏ, Ngài có dung nhan kỳ dị, khác người, sớm bộc lộ tư chất thông minh, hiếu học, kim cổ đều thông tuệ. Hai mươi tuổi đỗ đầu kỳ thi hương; thi đỗ Trạng Nguyên năm 21 tuổi. Khi sứ thần phương Bắc sang, tất cả các văn từ qua lại triều Trần đều giao cho Ngài soạn thảo. Ngài làm quan triều Trần khoảng 30 năm, vua Trần định đem công chúa Liễu Nữ- cháu của An Sinh Vương gả cho nhưng Ngài một mực từ chối. Năm 1305, nhân theo vua đến huyện Phượng Nhỡn nghe Pháp Loa giảng kinh tại chùa Vĩnh Nghiêm, khi trở về ngài xin xuất gia, được vua Trần ưng chuẩn.
Ngài xuất gia thụ giới tại Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, pháp hiệu là Huyền Quang.
Năm 1330, được Đệ Nhị Tổ Trúc Lâm Pháp Loa Đồng Kiên Cương truyền đăng, Ngài trở thành Tổ thứ ba ( Đệ Tam Tổ) của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và là giáo chủ của Tăng đoàn Trúc Lâm khi ở tuổi 77. Ngoài việc tổ chức lãnh đạo Tăng đoàn, Ngài nghiên cứu xây dựng phép Thiền Hoa ( ngồi thiền bên hoa) được thê hiện qua các bài kệ. Phép Thiền Hoa là dùng tâm thanh để thưởng thức hoa đến mức hóa đạo. Sau này, người Nhật đã phát triển phép Thiền Hoa của Ngài thành môn Hoa Đạo để dùng cho thiền năng chữa bệnh (ngồi thiền bên hoa để thưởng thức tinh hương của từng thời khắc dẫn vào đan điền và chuyển đi các đường kinh lạc trong cơ thể).
Huyền Quang Tôn Giả là một Nho gia uyên bác đồng thời cũng là một thi nhân với thi phẩm: “Ngọc liên tập” và các bài thơ chép trong các thi tập. Lịch sử văn học Việt Nam cũng ghi nhận Huyền Quang là một nhà thơ lớn thời Trần, để lại cho đời những bài thơ câu thơ đẹp vào bậc nhất thơ ca Việt Nam xưa. Trong đó có bài phú “Vịnh chùa Hoa Yên” bất hủ, viết về vùng phúc địa Yên Tử. Thơ của Ngài rất tình tứ, thường phản ánh những vẻ đẹp đặc sắc, thanh tân, mang sức sống trẻ trung, tươi mát. Cảnh trong thơ thực mà tĩnh nhưng luôn mang những nét truyền thống.
“Dục hướng thương thương vấn sở tầng
 Lẫn nhiên cô tri tuyết sơn trung
 Chiết lai bất vị giả thanh nhàn
 Nguyên tá xuân tư ủy bệnh ông.”
Dịch:
“Muốn hỏi trời xanh hoa từ đâu?
Một mình gội tuyết chốn non sâu
Bẻ về nào muốn lừa tri kỷ
Mượn vẻ xuân tươi giải bệnh sầu.”
Ngài viên tịch ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334) tại Côn Sơn sau 81 năm tại thế.
4.  Đôi điều về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Từ khi giành lại được độc lập sau nghìn năm Bắc thuộc, đất Việt ta từ triều Đinh đến Tiền Lê đều rất coi trọng Phật giáo, đặc biệt là triều Lý và Trần đều lấy Phật giáo làm quốc giáo, tạo nên cục diện “vua và sư cùng trị thiên hạ” (đế dữ tăng cộng thiên hạ). Song, các tông phái Phật giáo ở thời kỳ này đều được sáng lập bởi người nước ngoài, như Tì Ni Đa Lưu Chi (? - 594) là người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), sáng lập thiền phái “Tì Ni Đa Lưu Chi”; Vô Ngôn Thông (759? - 826), nhà sư đời Đường Trung Quốc, thành lập phái thiền “Vô Ngôn Thông”; Thảo Đường, cũng là nhà sư Trung Quốc thuộc Vân Môn tông, thành lập ra phái “Thảo Đường”. Việc ra đời Thiền phái Trúc Lâm đã kết thúc thời kỳ các tông phái Phật giáo Việt Nam do người nước ngoài sáng lập, chứng minh Phật giáo đã thực sự bắt rễ tại Việt Nam, thực sự được người Việt đương thời tiếp thu và phát triển. Trải qua sự chuẩn bị từ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông phải đến Trần Nhân Tông mới hội đủ điều kiện để định hình Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nội sinh trong nền văn hóa và Phật giáo dân tộc, hoàn tất quá trình Việt Nam hóa Phật giáo.
Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một lẽ thật bình đẳng không phân chia ranh giới: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính.” Song Phật giáo truyền vào mỗi nước, thì mỗi nước có tính dân tộc riêng, có ngôn ngữ, có nếp sinh hoạt, nếp suy nghĩ theo cá tính dân tộc, do đó Phật giáo cũng phải hòa nhập vào mỗi dân tộc để có được sự tiếp thu dễ dàng thích ứng. Chính vì vậy nên mới có Phật Giáo Việt Nam, Phật Giáo Ấn Độ, Phật Giáo Trung Hoa…Vậy đã gọi là Phật Giáo Việt Nam thì nó phải có những nét gì đặc sắc của Việt Nam khiến người nhìn vào, đánh giá được đó là Phật Giáo Việt Nam. Ðặt trong tương quan giữa Phật giáo và văn hóa dân tộc, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử có một vị trí đặc biệt. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử quả thực đã làm nổi bật lên những nét chấm phá của Phật Giáo Việt Nam. Nguyễn Lang, trong“Việt Nam Phật Giáo Sử Luận” đã viết: “Phật Giáo Trúc Lâm là một nền Phật Giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình.”
 Cách đây hơn 700 năm, Trần Nhân Tông đã xây dựng nên dòng thiền Trúc Lâm bằng cả một hệ thống lý thuyết và hành động gắn đạo với đời. Với việc học tập, lĩnh hội những tinh hoa của các bâc cao tăng đi trước, vua Trần Nhân Tông đã sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Đó là nơi hội nhập của ba dòng Thiền: Vô Ngôn Thông; Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Thảo Đường. Tuy nhiên, cần phải chú ý rằng: đến thời đại của Trần Nhân Tông, sau hơn mười thế kỷ phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã thấm nhuần vào trong đời sống xã hội cũng như sinh hoạt lý luận đương thời. Tư tưởng thiền học của Trần Nhân Tông không phải xuất phát trực tiếp từ thiền học Trung Quốc, mà gốc là từ các dòng thiền được nảy sinh tại Việt Nam và được nuôi dưỡng bởi các thiền sư Việt Nam. Nói cách khác, Trần Nhân Tông đã tập hợp thành tư tưởng thiền học của một số thiền sư Việt Nam trước đó, sáng tạo nên Thiền phái Trúc Lâm. Ngài được coi là vị Sư Tổ thứ nhất của Phật phái Trúc Lâm mang Phật danh Ðiều Ngự Giác Hoàng. Kế tục sự nghiệp của Ngài là Sư Tổ Pháp Loa và Huyền Quang Tôn Giả. Cả ba vị được gọi chung là Trúc Lâm Tam Tổ. Từ đó, Yên Tử trở thành kinh đô tư tưởng của Phật phái Trúc Lâm, đánh dấu sự phát triển triết học và tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong các thế kỷ XII- XIV.
“Thiền”- tiếng Trung Hoa dịch âm là “Thiền - Na”, đó là chiêm nghiệm trong tĩnh lặng. Thiền định là phương pháp tu bao gồm cả định và “tuệ”, nghĩa là tập trung suy nghĩ. Thiền Trúc Lâm Yên Tử thuộc phái Thiền Tông. Câu niệm chú hàng ngày là “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”. Tu thiền là phương pháp tập trung trí não để suy nghĩ, chiêm ngẫm trong tĩnh lặng để tìm ra chân lý.
Thiền phái Trúc Lâm không thần thánh hóa Phật Tổ như một đấng cứu thế, không cầu xin ban phước lộc, danh vọng. Coi đức Phật là người thầy tối cao dẫn đường chúng sinh thoát khỏi cảnh vô minh, lầm lạc. Không phải đến lúc chết mới về Tây Phương cực lạc mà ngay từ khi đang sống phải lo xây dựng cõi Tây Phương tại thế gian này.
“Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
 Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc” 
 (Cư trần lạc đạo- Hội thứ năm)
Thiền Trúc Lâm Yên Tử hướng phật tử vào việc tu dưỡng “tâm” minh sáng suốt, thanh tịnh, giác ngộ được chữ “Tâm” là thành Phật. Lấy tông chỉ Thiền Tông: “Trực Chỉ Nhân Tâm, Kiến Tính Thành Phật” (Chỉ thẳng tâm người, thấy tính thành Phật).Không quan tâm tới tiền bạc, không yêu cầu phật tử phải bỏ ra tiền cầu phúc, tài lộc mà khuyên con người luôn phải hướng thiện bằng nhiều việc làm tốt đẹp. Người ta thường nói: “Ở đâu mà người ta trọng hình thức, lễ nghi hoành tráng, ồn ào đại ngôn thì cái nội dung có giá trị đích thực sẽ len lén cắp nón ra đi..." .“Phật tại Tâm” đơn giản là như vậy, đâu cần phải sắp mâm cao cỗ đầy, tiền công đức hậu hĩ và lễ nghi long trọng, hoành tráng. Quan trọng là tâm tính, là bản chất hướng thiện của mình được thể hiện trong cuộc đời. Người trí thức hành động không hề cách biệt với cuộc đời mà hòa đồng trong cuộc đời như một con người trần thế. Và chính trong cuộc đời trần tục ấy mà giác ngộ được thì giá trị càng được nâng lên. Sống có đạo đức, có nhân nghĩa và biết yêu thương người khác như chính bản thân mình thì tất cả đều là Phật:
“Tích nhân nghì, tu đạo đức
Ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh, đoạn xan tham
Chỉn thực ấy là Di Lặc”
(Cư trần lạc đạo phú - Hội thứ sáu)
Bản thân vua Trần Nhân Tông thường vân du trong nhân gian, cấp vàng bạc tiền lụa cho dân nghèo, khuyên chúng sinh không trộm cắp, không tà dâm, khơi gợi nhân tâm diệt trừ tam độc, dựng lên tâm Phật trong lòng người dân Việt. Trần Nhân Tông đã từng nói với đệ tử như sau: “Lỗ mũi thẳng xuống cửa mặt, lông mày vắt ngang hố mắt, há dễ tìm thấy được đâu? Nên hãy đi tìm cái đạo không thấy. Ba ngàn pháp môn cùng về tấc dạ. Hà sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm. Cái gọi là giới môn, định môn, tuệ môn, các người không thiếu. Nên trở về mà tự nghĩ suy. Phàm những tiếng ho hắng, mày dương mắt nháy, tay cầm chân bước, đó là tính gì? Biết được tính đó là tâm gì, tâm tính rõ thông, thì cái gì đúng, cái gì là không đúng. Pháp tức là tính, Phật tức là tâm. Tính nào chẳng phải là pháp? Tính nào chẳng phải là Phật. Tức tâm tức Phật, tức tâm tức pháp, pháp vốn chẳng pháp. Tức pháp tức tâm, tâm vốn chẳng tâm, tức tâm tức Phật”. Có thể nói, “tính” và “pháp” ở đây chính là chỉ sự vật và quy luật của nó. Ngài phát huy tác dụng của tâm đến vô hạn, cho rằng mọi sự vật đều giống như ý thức chủ quan của con người. Chính vì vậy, “Phật” không phải nằm ở một nơi xa xăm nào đó, mà là ở ngay trong tâm của mỗi con người. “Kinh Pháp cú” cũng nói:"Chỉ có tự mình gây nên điều xấu, tự mình làm nhơ uế mình. Tự mình hủy bỏ điều xấu, tự mình làm mình thanh tịnh. Thanh tịnh hay nhơ uế đều tùy thuộc mình. Không ai làm ai thanh tịnh được". Nguyên nhân của Khổ là do con người chạy theo những ảo ảnh của vật chất chỉ là do tâm chủ quan gán cho. Nếu tâm không giác ngộ, thì dù cho suốt đời niệm kinh thờ Phật cũng không thể thành chính quả. Như vậy, đối với Trần Nhân Tông, con đường hiện thực để thành Phật chính là sự giác ngộ của “bản tính” trong mỗi một con người, nhấn mạnh đến truy cầu nội tại từ trong tâm. Ngài đã khẳng định: 
“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.
(Cư trần lạc đạo- Hội thứ mười)
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
Tâm thiền sáng ngời thể hiện ngay trong cuộc sống hàng ngày, không phải tìm kiếm đâu xa. Đói ăn mệt ngủ nơi mọi sinh hoạt hàng ngày ăn, mặc, ngủ, nghỉ mà làm với tâm hồn nhiên, trong sáng, không sinh tâm theo duyên, theo cảnh: ăn không sinh tâm ăn, mặc không sinh tâm mặc. Hay nói cách khác, đứng trước thế giới khách quan nhưng tâm không” động”, luôn trong trạng thái hư vô, tĩnh mịch, trống rỗng thì chính đó là ánh sáng “cảnh giới Thiền”, là đạt đạo, là giác ngộ. Đấy là của báu ngay trong nhà mình, đâu phải tìm nơi khác. Quốc sư Trúc Đạo Viên tóm tắt về Thiền Trúc Lâm qua lời khuyên của vua Trần Thái Tông khi Ngài tỏ ý muốn về Yên Tử cầu làm Phật:“ Sơn bản vô Phật duy tồn hồ tâm, tâm tịch nhị tri, thị danh chân Phật” (Thiền Tông Chỉ Nam Tự) nghĩa là: “Núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng lẽ mà biết,  thì đó là Phật đấy.” Tâm lặng là tâm đã cởi bỏ hết phiền não “tham”, “sân”, “si”, nhờ vậy mà giác ngộ và giải thoát. Có lẽ không một tư tưởng nào tôn vinh con người ngang hàng với Phật như Thiền phái Trúc Lâm.
Muốn thoát khỏi khổ thì phải tiêu diệt mầm mống sinh ra nỗi khổ bằng cách phải tu “tâm”, diệt dục để tìm ra bản thể, cốt cách con người thực của mình khi chưa bị nhiễm tam độc. Muốn thế phải tập thiền, phải tam quy, ngũ giới, thực hành thập thiện, sám hối lục căn để trừ lục tặc. Tu theo Thiền phái Trúc Lâm còn tùy thuộc trình độ mà tu tập theo các bậc khác nhau.
Đối với giới tu hành, tu tập theo pháp môn nghiêm ngặt. Đối với phật tử thì tu “tâm”, thực hành “tam quy” (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng), “ngũ giới” (5 điều cấm kỵ: Cấm sát sinh, cấm trộm cắp, cấm tà dâm, cấm ngoa ngôn, vọng ngữ, cấm uống rượu). Thực hành “thập thiện” (10 điều: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói ác, không nói chia rẽ, không nói vô nghĩa, không tham lam, không hận thù, không say mê đắm dục).
Pháp tu căn bản là “lục thời sám hối” (mỗi ngày chia ra 6 thời khắc). Mỗi thời khắc sám hối một căn, vì có lục căn (6 căn): “mắt”, “tai”, “mũi”, “lưỡi”, “thân”, “ý” gây tội lỗi nên phải sám hối:
- Sáng sớm sám hối căn mắt
- Buổi trưa sám hối căn tai
- Buổi chiều sám hối căn mũi
- Chập tối sám hối căn lưỡi
- Nửa đêm sám hối căn thân
- Cuối đêm sám hối căn ý.
Nhiều người thắc mắc rằng Phật giáo đời Trần với các vị vua như Trần Thái Tông và nhất là Trần Nhân Tông đã trực tiếp lãnh đạo tướng sĩ, quân dân thời đó đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông, máu giặc nhiều trận nhuộm đỏ nước sông Bạch Đằng, xác giặc trôi ngổn ngang trong dòng, phơi đầy ngoài biên ải, như thế xét về mặt giáo lý của nhà Phật, thì các vị vua ấy có phạm tội sát sinh hay không? Để trả lời, hòa thượng Thích Thanh Từ - người khởi xướng và chủ trương khôi phục Phật giáo đời Trần hiện nay đã nói: “Tu theo Phật giáo là trau dồi đạo đức rèn luyện tâm linh đó là việc riêng của mỗi người phật tử, tức là lĩnh vực của tôn giáo. Giặc ngoại bang xâm lăng Tổ quốc, toàn dân đứng lên chống giặc, người lãnh đạo cổ động lòng yêu nước của dân và đứng ra chỉ huy đánh giặc là lĩnh vực chính trị. Phân rành lĩnh vực tôn giáo, lĩnh vực chính trị là vấn đề rất thiết yếu. Người phật tử thọ tam quy trì ngũ giới, nếu phạm giới sát sinh là có tội, đó là phần tu hành riêng của phật tử, thuộc lĩnh vực tôn giáo. Đất nước bị xâm lăng, toàn dân đứng lên chống giặc là trách nhiệm của mỗi công dân, thuộc lĩnh vực chính trị. Dù trong cuộc chiến có nhiều phật tử giết nhiều sinh mạng kẻ thù, song không thể mang tội sát sinh đặt vào chỗ này được”.
Theo thuyết Phong thủy, Yên Tử có địa thế long chầu, hổ phục, là đất linh cực kỳ quý hiếm. Đó là nơi tập thiền rất lý tưởng, có đầy đủ điều kiện để tu thiền. Các nhà triết gia cho rằng, những nơi núi già như Yên Tử có trường địa từ rất mạnh, có khả năng tác động đến trường nhận diện của con người, hỗ trợ đắc lực cho việc tu thiền nhanh chóng đạt kết quả cuối cùng của “pháp tu thiền định”. Chính vì thế, Yên Tử mới được vua Trần Nhân Tông chon làm nơi tu hành và đắc đạo.
Trong một bối cảnh đất nước độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực với hào khí Đông A, Thiền phái Trúc Lâm ra đời là một quy luật tất yếu của lịch sử Phật giáo nói riêng và trong dòng chảy lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung. Nói cách khác, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã kề vai sát cánh cùng dân tộc đi đến sự thống nhất đất nước, nhất là góp phần phục hưng mọi giá trị tinh thần văn hóa truyền thống của dân tộc. Đây chính là sức mạnh nội tại để Phật giáo Việt Nam cùng với dân tộc Việt Nam phát triển song hành trong việc tiếp nối mọi giá trị truyền thống, hiện thực hóa trong hiện tại và định hướng cho tương lai trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước ở mọi thời đại.
Đứng trên cây cầu đá xanh bắc qua suối Giải Oan- cây cầu nối giữa hai thế kỉ, kết nối nhân tâm của hàng triệu con người, đưa chân du khách từ cõi trần ai vào cõi Phật, tôi nghe đâu đây có âm hưởng nào vọng lại từ xa. Đấy là âm hưởng của đại ngàn hay tiếng vọng thiêng liêng phát ra từ lòng người. Mỗi người về đất Phật Tổ này đều linh nghiệm chính lòng mình. Hơn 700 năm qua, muôn dân phát nguyện hồi hương về Yên Tử với niềm thành kính và biết ơn sâu sắc. Trần Nhân Tông là Phật Tổ của Việt Nam ta, là niềm tự hào về tinh thần dân tộc mà hậu thế được vinh hưởng. Đó cũng là đặc trưng vị thuốc nam đã cắm sâu vào lòng đất mẹ, tinh lọc đắng cay và thơm thảo tự bao đời. Đảng Bộ và chính quyền, nhân dân các dân tộc Thành phố Uông Bí vô cùng vinh hạnh và tự hào về Yên Tử, trân trọng cảm ơn những tấm lòng vàng của các tổ chức kinh tế xã hội, các bậc tôn đức, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, tăng ni phật tử, các đạo hữu, du khách gần xa đã phát tâm công đức về Yên Tử, xây dựng chốn Tổ xứng đáng với niềm ngưỡng vọng của muôn phương.
Yên Tử, Một không gian tâm linh, chứa đựng những tâm lý siêu việt của dân tộc ta từ hơn bảy thế kỉ trước. Cảm ơn đất trời và lòng người đã tạo dựng lên một tam thế vững chắc cho Việt Nam, mãi mãi trường tồn.
Quang Tứ
Theo http://www.quangninh.gov.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hoàng Nhuận Cầm thời chống Mỹ: Một tâm hồn học sinh những câu thơ trận mạc Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm vừa đột ngột ra đi ở tuổi 70 vào chiề...