Tiểu sử
Bình Nguyên Lộc tên thật Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy
tờ ghi 1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova,
Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn.
Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô
Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy
đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường
không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, làm công chức ở kho
bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố.
Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và
1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo.
Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí
Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn,
nghề báo. 1950, in tập truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui
Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất.
Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị
thất lạc cũng nhiều, phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn.
Tác phẩm đã in:
Thơ: Thơ tay trái, Việt sử trường ca và Thơ
ba Mén (tiểu thuyết thơ).
Sưu tầm, chú giải: Thổ ngơi Đồng Nai (ca dao miền
Nam, và chú giải cổ văn, viết chung với Nguyễn Ngu Í), Chiêu hồn và Tiếc
thay duyên Tấn phận Tần, Tự tình khúc và Thu dạ lữ hoài ngâm, Tỳ
bà hành và Trường hận ca.
Dân tộc học và ngôn ngữ học: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc
Việt Nam (1971), Lột trần Việt ngữ (1972)...
Truyện ngắn: Nhốt gió (Thời thế, 1950), Ký
thác (Bến Nghé, 1960), Tân liêu trai (Bến Nghé, 1960), Tâm
trạng hồng (Sống Mới, 1963). Mưa thu nhớ tằm (Phù Sa, 1965), Tình
đất (Thời Mới, 1966), Cuống rún chưa lìa (Lá Bối,1969), Nụ cười
nước mắt học trò (Trương gia, 1967)...
Tạp bút: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình
Nguyên Lộc (Thịnh Ký, 1966).
Truyện dài: Đò dọc (Bến Nghé, 1959), Gieo
gió gặt bão (Bến Nghé, 1960), Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (Thế
Kỷ, 1963), Mối tình cuối cùng (Thế Kỷ, 1963), Bóng ai qua ngoài
song cửa (Thế Kỷ, 1963), Bí mật của nàng (Thế Kỷ, 1963), Hoa
hậu Bồ Đào (Sống Mới, 1963), Xô ngã bức tường rêu (Sống Mới,
1963), Nhện chờ mối ai (Nam Cường, 1963), Nửa đêm... Trăng sụp (Nam
Cường, 1963), Đừng hỏi tại sao (Tia Sáng, 1965), Quán tai heo (Văn
Xương, 1967), Một nàng hai chàng (1967), Thầm lặng (1967), Trăm
nhớ ngàn thương (1967), Uống lộn thuốc tiên (1967), Đèn Cần Giờ (1968), Diễm
Phương (1968), Sau đêm bố ráp (1968), Khi Từ Thức về trần (1969), Nhìn
xuân người khác (1969) Tỳ vết tâm linh (?), Lữ đoàn mông đen (Xuân
Thu, Hoa Kỳ, 2001)
Truyện dài chưa in: Ngụy Khôi, Đôi giày cũ chữ Phạn,
Thuyền Trưởng sông Lô, Mà vẫn chưa nguôi hình bóng cũ, Người săn ảo ảnh, Suối đổi
lốt, Trử La bến cũ, Bọn xé rào, Cô sáu Nam Vang, Một chuyến ra khơi, Trọng Thủy - Mị
Đường, Sở đoản của đàn ông, Luật rừng, Trai cưới gái nào, Cuồng ca thế kỷ, Bóng
ma dĩ vãng, Gái mẹ, Món nợ thiêng liêng, Khi chim lìa tổ lạnh, Ngõ 25, Hột cơm
Ngô chúa, Lưỡi dao cùn, Con khỉ đột trò xiếc, Con quỷ ban trưa, Quật mồ người đẹp,
Nguời đẹp bến Ninh Kiều, Bưởi Biên Hòa, Giấu tận đáy lòng, Quang Trung du Bắc,
Xóm Đề bô, Hai kiếp nhả tơ, Muôn triệu năm xưa, Hổ phách thời gian,...
(Theo Nguyễn Ngu Í trong Sống và viết với... (1966), đến ngày 31/5/1966
Bình Nguyên Lộc đã viết: 820 truyện ngắn (in năm tập), 52 tiểu thuyết (đã in
11 cuốn).
Việc thất lạc văn bản và sự đánh giá sai lầm về Bình Nguyên Lộc
Có sự trùng hợp lạ lùng giữa ngày sinh và mất của Bình Nguyên
Lộc: cùng ngày 7/3, cách nhau 73 năm: 7 và 3 như hai yếu tố biện chứng của định
mệnh, như thể nhà văn đã quyết định chấm dứt đời mình trong vòng bảy, ba; ba, bảy.
Một thân phận ba chìm bẩy nổi gắn bó với chữ nghiã, khổ đau vì chữ nghiã: suốt
đời bị thất lạc tác phẩm. Ngay từ năm 1965, khi trả lời phỏng vấn của Nguyễn
Ngu Í (trong cuốn Sống và viết với...). Bình Nguyên Lộc cho biết: Tác phẩm đầu
tay tựa đề Hương gió Đồng Nai viết trong gần mười năm (1935-1942), là
"tập truyện ngắn và tùy bút bát ngát hương đồng gió nội, và dẫy đầy
màu sắc địa phương này, đã được hai nhà thơ có tiếng đương thời: Xuân Diệu và
Huy Cận tán thưởng" (Nguyễn Ngu Í, sđd, trang 220), bản thảo bị thất lạc
trong lúc tản cư, khi Pháp trở lại chiếm Tân Uyên cuối 1945. Dấu vết Hương
gió Đồng Nai chỉ còn lại một truyện ngắn và một tuỳ bút (đăng báo khoảng
năm 1943). Mấy chục năm sau, Bình Nguyên Lộc còn có lời rao trên báo, tìm người
nào tình cờ giữ được trọn vẹn hay một phần bản thảo, rồi ông đã thử viết lại Hương
gió Đồng Nai, nhưng cả hai cố gắng đều vô hiệu.
Phù sa, tác phẩm thứ nhì, khởi viết năm 1942, cũng chung số
phận như Hương gió Đồng Nai, nhưng may mắn hơn, đoạn mở đầu đã đăng trên
báo Thanh Niên năm 1943, với tên Di dân lập ấp (khiến độc giả biết đến
ông) và về sau ông viết lại được độ 1/6 tác phẩm, cho in trên tuần báo Nhân Loại.
Theo lời Bình Nguyên Lộc, Phù sa là "tác phẩm quan trọng nhất"
của ông, làm sống lại cuộc "tiến vào Nam" của đồng bào Nam - Ngãi
để dựng nên miền Lục Tỉnh (sđd, trang 221).
Trong những sách đã xuất bản, Bình Nguyên Lộc phân biệt: loại
sách không thương mại, mà ông cho là không mấy ai đọc, in thật ít, còn ghi
thêm không bao giờ tái bản, như cuốnNhững bước lang thang trên
hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966) Thịnh Ký, in 658 bản. Thầm
lặng (1967) cũng được ông liệt vào loại này; ngoài ra còn cuốn Thu hẹp
thiên nhiên, mới thấy quảng cáo sẽ in 569 cuốn, và nói cũng không bao giờ in lại,
nhưng có lẽ đã không ra đời được, vì không thấy các tư liệu về Bình Nguyên Lộc
nhắc đến cuốn sách này. Tập Nhốt gió (1950) khi ông còn sống cũng
không tái bản. Số phận bộ sách biên khảo Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt
Nam (đã in một phần năm 1971), sau 75, được Mai Thảo thuật lại trong
bài Nhân cách Bình Nguyên Lộc. Theo lời người thân kể, khi rời nước năm
1985, ông bị lạc một va ly tác phẩm và bản thảo, những gì còn vớt vát lại của một
đời văn.
Mặc dù với những khó khăn về văn bản như thế, ở hải ngoại đã
có những cố gắng đáng kể trong việc bảo tồn những tác phẩm giá trị của Bình
Nguyên Lộc:
Nhà xuất bản Văn Nghệ của Võ Thắng Tiết đã in lại hai tập
truyện ngắn Ký thác (1986) và Cuống rún chưa lìa (1987). Tạp
chí Văn Học, do Nguyễn Mộng Giác chủ biên, ra số đặc biệt tưởng niệm nhà văn,
sau khi ông qua đời (số 18, tháng 7/1987), trong có bài nhận định đặc sắc của Hồ
Trường An về Bình Nguyên Lộc và in lại bài Bình Nguyên Lộc trả lời phỏng vấn
Nguyễn Nam Anh (Nguyễn Xuân Hoàng), đã in trên báo Văn trước 75, với những
thông tin chính xác về tác giả.
Năm 1999, nhà xuất bản An Tiêm của Thanh Tuệ ở Paris đã in
tuyển tập Bình Nguyên Lộc, với lời giới thiệu của Võ Phiến. Rất tiếc, trong bài
tựa Bình Nguyên Lộc, một nhân sĩ trong làng văn, Võ Phiến không cho độc giả
thấy cái hay của Bình Nguyên Lộc (lý do làm tuyển tập), mà ông lại kín đáo chứng
minh sự "bất tài" của Bình Nguyên Lộc, với những nhận định giễu cợt mỉa
mai như: "Cả tháng trời, Sơn Nam đọc từng đoạn (Nhốt gió) như
thế, và ông lâng lâng. Thì ra ông có đọc truyện đâu! Tay cầm cuốn truyện, ông đọc... ca dao!
Như thế, Sơn Nam quả là tay sành sõi. Ông Cao Huy Khanh, ông
Nguyễn Văn Sâm đọc truyện của Bình Nguyên Lộc, và không mấy bằng lòng...",
"Chúng ta có cảm tưởng ông Bình Nguyên Lộc có hảo ý muốn làm vui người đọc.
Hảo ý không thuộc về nghệ thuật" (Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, một
nhân sĩ trong làng văn, Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, An Tiêm, Pháp, 1999, trang
XVII, và XIX). Rồi Võ Phiến kể lại chuyện Nhất Linh khi vào Nam, chỉ mời Bình
Nguyên Lộc cộng tác làm báo chứ không đề cử vào Tự Lực Văn Đoàn như đã làm với
Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam; lại cũng là một cách gián tiếp
nhờ Nhất Linh để hạ bệ Bình Nguyên Lộc. Sự thực Võ Phiến có thể đã đoán sai ý
Nhất Linh: Nhất Linh coi Bình Nguyên Lộc là đồng nghiệp chứ không phải là đàn
em như Nhật Tiến, Linh Bảo... mà "cho" vào Tự Lực Văn Đoàn. Hoặc như
việc Võ Phiến trích lại những phê phán sai lầm của Cao Huy Khanh và Nguyễn Văn
Sâm về Bình Nguyên Lộc, coi như là những nhận định chính xác để đánh giá Bình
Nguyên Lộc, là một việc làm không tốt, bất cẩn, nhân cái sai làm hai.
Ông Cao Huy Khanh là người Huế, cũng như một số rất
đông người Bắc, không muốn hoặc không hiểu, không thông cảm cái mà ông gọi
là "tâm lý bình dân" của người Nam, mà ông cho là "tủn
mủm" và "dễ dãi" trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc.
Mà Đò dọc cũng không phải là "sự thành công duy nhất và quá hiếm
hoi so với sự nghiệp sáng tác đồ sộ của tác giả", như ông Cao đã nhận
định. Sở dĩ Đò dọc được ông khen là bởi viết theo lối Bắc, kiểu Tự Lực
Văn Đoàn, hợp với "gu" của ông.
Năm 1999, nhà xuất bản Trẻ ở Sài Gòn, cho in lại cuốn "Những
bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc", do Sơn Nam viết
tựa. Ai cũng biết Sơn Nam là "học trò" của Bình Nguyên Lộc. Trong bài
này, ông Sơn Nam biến Sài Gòn thành "vùng tạm chiếm" và ông
biến Bình Nguyên Lộc thành "nhà văn tiểu tư sản yêu nước" và
ông có ý "biện hộ" dùm. Nhưng điều đó cũng chưa đáng giận bằng việc họ
đã bỏ Mấy lời nói đầu trong bản Thịnh Ký (1966) có lẽ do chính Bình
Nguyên Lộc viết, rất ngắn, nhưng có đầy đủ thông tin về văn bản, như sau:
"Nhà văn Bình Nguyên Lộc có viết một thiên điều
tra phóng sự dài, nhan là "Thám hiểm đô thành", gồm nhiều bài ngắn và
chia ra làm hai phần.
Phần thứ nhứt, cho đăng báo hằng ngày, kể những chuyện lạ của
Sàigòn mà chưa báo nào nói đến, chẳng hạn như những bài "Ma máy đá",
tả cái viện cơ thể học đầy dẫy xác chết ngâm thuốc của trường Y khoa Đại học,
chẳng hạn bài "Người chuột cống", theo dõi những người phu của ty vệ
sinh đô thành họ chun xuống hệ thống cống tối thui và chằng chịt như mạng nhện
để vét bùn đất cho thông cống.
Phần thứ nhứt ấy, tác giả không muốn in thành sách.
Đây là phần thứ hai mà tác giả đã cho đăng riêng ở các tạp
chí. (Nhân Loại, Thời Trân, Sáng Tạo, v.v...) không có tính cách xã hội, hoặc
"giựt gân" như các bài của phần thứ nhứt mà chỉ nên thơ hoặc đượm một
tý triết lý vụn vặt nào đó thôi".
Thịnh Ký
Theo lời nói đầu này, thì Những bước lang thang... chỉ
là phần "không giựt gân", tức là "hiền lành" hơn,
có thể không hay bằng phần thứ nhất? Vậy sưu tầm lại phần thứ nhất, sẽ rất bổ
ích cho văn bản học và văn học.
Sự thất lạc tác phẩm, kèm theo việc bị đánh
giá sai lầm, và thêm khó khăn thứ ba: chưa có công trình tập hợp toàn bộ sáng
tác đồ sộ của ông, một nhà văn có bút lực dồi dào như Hồ Biểu Chánh, Lê Văn
Trương (trên dưới 100 tác phẩm), để lựa phần chủ yếu, phần đáng kể nhất. Chính
Bình Nguyên Lộc cũng đã "tâm sự" với Nguyễn Văn Sâm: "Viết
hai, ba chục bài mới mong thấy được một bài khá" (Nguyễn Văn Sâm, Xin
được lần cuối gọi bằng anh, Văn học, Cali, số 18, tháng 7/1987, trang 67). Nếu
dùng sự lựa lọc kỹ càng này của Bình Nguyên Lộc, thì qua trên dưới 1000 truyện
ngắn, tùy bút ông đã viết, cũng có trên dưới 50 "bài khá", (không chỉ
là một, hai, như ý kiến của Nguyễn Văn Sâm). Với con số 50 tác phẩm hay đã
quả là đáng kể của một đời cầm bút, không phải nhà văn nào cũng có thể đạt được.
Tinh thần hòa hợp dân tộc
Bình Nguyên Lộc có một lập trường văn học riêng, không
theo Bắc, hoàn toàn theo Bắc như Đông Hồ, cũng không giữ nguyên đặc chất Nam Kỳ
như Hồ Biểu Chánh, Vương Hồng Sển... Nếu trong truyện ngắn chất Nam thường nổi
bật, thì trong truyện dài ông ngả theo lối Bắc. Đó là một thái độ lựa chọn:
Bình Nguyên Lộc chọn thái độ trung dung trong tinh thần giao hoà Nam Bắc, kết hợp
lịch sử di dân với ngôn ngữ con người.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, Hồ Biểu Chánh đã dùng tiếng Nam như một chính
ngữ; như thể Hồ muốn chống lại thành kiến của số đông người Bắc, tự cho tiếng Bắc
là "chính", là "chuẩn", tiếng Nam là "phụ", là tiếng
"địa phương", "quê mùa", "hủ lậu". Thành kiến
này, gần đây, vì lý do chính trị, có vẻ được củng cố mạnh mẽ hơn, cho nên ba
mươi năm sau ngày thống nhất đất nước, vẫn có người không bằng lòng khi thấy một
số bảng hiệu ở ngoài Bắc đã bắt đầu dùng tiếng Nam. Đối với một số thành phần bảo
thủ ở Bắc, tiếng Nam, vẫn tiếp tục là thứ tiếng ngoại vi, thô thiển.
Dùng tiếng Nam làm chính ngữ, Hồ Biểu Chánh chỉ làm một việc
tự nhiên, nhưng nó mang tính cách thách thức: dựng nên một vùng đất mới của
ngôn ngữ, một thứ ngôn ngữ giàu có, sống động, đầy âm thanh, tiết điệu, thành
quả của sự kết hợp âm thanh ngôn ngữ Việt với những nền văn hoá phía Nam trên đất
Thủy Chân Lạp. Hồ chẳng quan tâm gì đến "gốc Bắc". Đối với Hồ, Nam Kỳ
cũng là một "gốc", một địa phận, một thổ ngơi, từ đó phát sinh ra văn
chương, tư tưởng và xã hội miền Nam.
Sự so sánh văn phong Hồ Biểu Chánh với văn phong Bình Nguyên
Lộc sẽ là một đề tài lý thú cho nghiên cứu văn học, nhìn dưới lăng kính đối chiếu
ngôn ngữ, để xác định hai thời kỳ xã hội: thời đầu thế kỷ, khuynh hướng
"Nam kỳ tự trị" còn mạnh, xuất hiện Hồ Biểu Chánh và thời sau 1954, với
làn sóng di cư, khuynh hướng Bắc Nam hoà hợp ra đời, đồng thời sự chia rẽ cũng
đã manh nha, với sự kỳ thị Nam Bắc, với nghịch cảnh chia đôi đất nước, xuất hiện
Bình Nguyên Lộc.
Đông Hồ Lâm Tấn Phác đi ngược lại phong cách Hồ Biểu Chánh.
Tâm hồn Đông Hồ và ngôn ngữ Đông Hồ đã bị "Bắc hóa" hoàn toàn. Dưới
con mắt những người như Vương Hồng Sển, Đông Hồ bị "khai trừ" khỏi
"thổ ngơi" miền Nam. Văn phong Đông Hồ không thoát khỏi không khí
Tương Phố, Á Nam Trần Tuấn Khải.
Bình Nguyên Lộc bắc cầu giữa hai khuynh hướng trên: Ông không
theo Bắc, hoàn toàn theo Bắc như Đông Hồ, mà cũng không giữ nguyên đặc chất Nam
Kỳ như Hồ biểu Chánh, Vương Hồng Sển. Ông mở con đường thứ ba: giao lưu văn hoá
Bắc Nam trong truyền thống di dân và tiếp cận ngôn ngữ.
Cái "gốc Bắc", "tổ tiên" ngoài Bắc, được
ông trân trọng tìm kiếm, không riêng khía cạnh lịch sử Nam tiến, mà còn cả về
nguồn cội ngôn ngữ. Ngoài sách biên khảo, trong tiểu thuyết, khi dùng một chữ
có tính chất đặc biệt địa phương miền Nam, ông thường tìm cách giải thích ngay
bên cạnh, chữ này ngoài Bắc dùng chữ gì. Đôi khi còn phê bình luôn là chữ Nam
hay chữ Bắc hay hơn, có lý hơn, hoặc nói rõ xuất xứ tại sao lại có sự khác biệt
như vậy. Tất cả những lý giải này rất nhiều khi trở thành nhược điểm, làm nặng
sáng tác, thoát thai từ lối kể chuyện đường dài, trong truyền thống "kể"
và "nói" của văn chương miền Nam.
Trong hoàn cảnh thiếu tư liệu, chúng tôi chưa thể có một cái
nhìn hoàn chỉnh về tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc, chỉ xin phân tích truyện ngắn,
cũng là sở trường của ông, tuy nhiên, qua một vài truyện dài đã đọc, chúng tôi
thấy Bình Nguyên Lộc tiếp nối truyền thống tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn. Ông
chưa mở ra được một hướng đi mới cho tiểu thuyết như ông đã làm cho truyện ngắn:
ảnh hưởng Khái Hưng, Nhất Linh còn bàng bạc trong cách phát triển kỹ thuật truyện
dài.
Cuốn Đò dọc (1959), tiểu thuyết đầu tay, được giải
thưởng văn chương toàn quốc 1960 (của miền Nam), mang dấu ấn truyện tâm lý viết
theo lối Bắc, khác hẳn lối viết của Hồ Biểu Chánh. Những cuốn sau như Ái
ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (1963), Hoa hậu Bồ Đào (1963),
sự phân tích tâm lý đã chiếm gần trọn tác phẩm, mở rộng và đào sâu về hiện thực
xã hội thành thị miền Nam.
Đò dọc viết về gia đình ông bà Nam Thành và bốn cô con
gái. Ông Nam Thành nguyên là thầy giáo làng, gốc Bạc Liêu, trôi dạt lên Sài Gòn
thời Pháp thuộc những năm 50, kiếm sống bằng nghề bán rương và va ly da cho
lính Pháp. Năm 1954, khi Pháp rút khỏi Việt Nam, gia đình này phải về quê, tìm
cách chăn nuôi và trồng trọt để độ thân. Đây là một khuôn mẫu người dân
chợ (Bắc gọi là kẻ chợ) phải về quê (Nam gọi là về
vườn). Và hai mẫu đất vườn, đất mới này của họ, cũng là thứ "nửa quê nửa tỉnh",
nằm trên đường Sài Gòn-Thủ Đức, một con đường "thiên lý", một thứ xa
lộ tương lai.
Người di dân ngược xuôi như chuyến đò dọc, bị bấn từ Bạc
Liêu lên Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn sang miệt Thủ Đức. Gia đình Nam Thành khi nói
"nhớ" là không biết "nhớ" đâu: cha mẹ thì nhớ quê má Bạc
Liêu, các cô con gái thì nhớ Sài Gòn. Cuối cùng ngôn ngữ cũng mách cho họ một
thứ nguồn gốc xa xôi hơn: "gốc Bắc". Gia đình Nam Thành là hình ảnh của
người dân Việt trong cuộc Nam tiến của dân tộc.
Đò Dọc còn cho thấy tư tưởng chủ yếu của Bình
Nguyên Lộc ở thời điểm 1954: khi đợt sóng di dư từ Bắc tràn vào, vừa có một đòi
hỏi đoàn kết Bắc Nam, nhưng lại có một thực tại kỳ thị, khác biệt lối sống và
cá tính đôi bên, có sự trịch thượng của người Bắc di cư trên văn đàn (nhóm Sáng
Tạo), có tình trạng người Nam bị chiếm thị trường chữ nghĩa và kinh tế.
Tất cả những yếu tố ấy đôi co, dằn vặt nhau, trong không khí
xã hội ngấm ngầm căng thẳng, khi nhẫn nhục chịu đựng, khi trực diện đối đầu.
Đò dọc là tác phẩm bao dung và nhân hậu mở vòng tay chào
đón đồng bào di cư, trong giai đoạn lịch sử khó khăn, bằng con đường kết hợp
dân tộc, bằng cách nhắc lại lịch sử di dân, khai phá đất hoang, mở rộng cõi bờ
và giao hoà ngôn ngữ. Có lẽ đó là một trong những lý do khiến Mai Thảo, ngoài sự
kính trọng tài năng, còn tìm thấy ở Bình Nguyên Lộc, một nhân cách lớn, và Nhất
Linh đã sớm coi Bình Nguyên Lộc là một nhân tài, cho nên ông không đề nghị
"đưa" ông vào Tự Lực Văn Đoàn như đối với các nhà văn đàn em, đàn
cháu.
Tư tưởng của Bình Nguyên Lộc lại càng sáng tỏ hơn, sau cuộc đổi
đời 1975, những người thắng cuộc vì không đọc Hồ Biểu Chánh, không đọc Bình
Nguyên Lộc, không thể hiểu được tiếng Nam, hiểu tâm sự của người miền Nam, rằng
sự "đô hộ" chưa bao giờ là một khí giới lợi hại để chinh phục lòng
người, rằng việc đổi tên Sài Gòn là một hành động kém cỏi, phi văn hoá và kỳ thị.
Dòng tư tưởng hoà hợp đất nước và con người trong
tác phẩm Bình Nguyên Lộc, không phải đợi đến 1954 mới xuất hiện, mà nó đã sống
trong ông từ lâu, nằm trong xương thịt các tác phẩm đầu tay, dù đã thất lạc,
nhưng vẫn còn để lại những cái tên đầy ý nghiã: Hương gió Đồng Nai, Phù
sa, và chúng ta có thể nhận diện tinh thần ấy ngay trong tác phẩm đầu tiên được
in ra năm 1950: Nhốt gió.
Nhốt gió, ý thức về tự do
Nhốt gió là gì? Làm sao mà nhốt được gió?
"Cả bàn ăn đều kinh ngạc". Truyện bắt đầu
bằng một câu như vậy.
Kinh ngạc cái gì? Chưa biết.
1- Kinh ngạc vì "thằng Kiệt không được thưởng xe máy
theo lời hứa?
2- Vì thằng Kiệt có những ý muốn làm cho mẹ nó khiếp đảm?
3- Vì thằng Kiệt tái diễn sự xô sát thế hệ (giữa cha nó và
ông bà nó)?
4- Vì thằng Kiệt có những tư tưởng mà cha nó không thể nào
ngăn cản được?
5- Vì thằng Kiệt có một nhân sinh quan khác người?
Cả 5 giả thiết đều có thể đúng hoặc sai, và đến dòng chót, độc
giả vẫn chưa biết "cả bàn đều kinh ngạc" cái gì. Đọc không
được thì phải đoán. Trước mắt bạn là một văn bản không hiển nhiên, bắt bạn phải
suy nghĩ, phải xử dụng "chất xám" của mình: vậy là một văn bản bất
thường, một tác phẩm có tham vọng làm đảo lộn nội quy thường trú. Bình Nguyên Lộc
tung ra một lúc hai đòn bí mật: nhốt gió, và kinh ngạc, để
làm lạc hướng những người đọc truyền thống.
Thủ pháp đầu tiên là "hãm" thời gian, "nhốt"
nó lại. Bảo nó đừng chảy nữa, bắt phải đợi chờ, đùa với những hấp tấp của những
"kẻ đọc" vội vàng muốn tìm ngay kết luận.
Hãm trở thành động tác chính trong truyện: nhốt tất
cả những gì không giam hãm được. Trước tiên hãm nằm trong ý đồ của
nhân vật Tạo, người cha muốn nhốt con trong vòng giáo dục "tiến
bộ" của mình. Tạo là một kiến trúc sư Tây học, tưởng mình văn minh, tưởng
mình hiểu con lắm. Tạo có thấy thế giới chung quanh thay đổi và chính chàng
cũng đang thay đổi: kiểu nhà vừa vẽ xong, chàng đã thấy chán ngắt, nhưng Tạo là
kẻ cầu an, không chịu dùng kinh nghiệm thực tiễn, để tìm bài học cho mình,
chàng quen dựa vào kinh nghiệm của những người đi trước, cho việc giáo dục con
cái xưa nay tự nhiên vẫn thế: mình bắt gì chúng phải nghe như vậy. Tạo thuộc lớp
người biết hãm, biết nhốt mà không biết thả. Tình cờ chàng
được mục kích cảnh thằng nhỏ năm tuổi "tiếp xúc"với gió, thấy
cách nó đối xử với gió, chàng chợt tìm thấy lối thoát cho mình. Thử xem thằng
nhỏ đối phó với gió như thế nào:
"- Mẹ, sập hoài!
Tạo giựt mình, dòm xuống cỏ. Trên khoảng đất hẹp giữa xóm nhà
lá và dãy phố chàng ở, một đứa bé chừng năm tuổi đương ngồi chơi gì trên cỏ. Đứa
bé ở trần, đưa lưng đen thui lại phía chàng. Nó mặc một cái quần dài đen. Chàng
bước sấn lại thì thấy nó đương loay hoay với những cành cây nhỏ và ngắn. Nó cắm
trên cát bốn cành cây đầu trên có nạng, rồi gác ngang lên nạng những cành khác.
Thì ra nó chơi cất nhà. Khi nó vừa phủ lên cái giàn đó một tấm lá chuối để làm
nóc nhà thì gió ở đâu thổi đến. Nóc nhà của nó bay lên, bốn cây cột đều ngã. Thằng
nhỏ gương mặt dễ thương này tức giận chưởi thề nữa, nhưng không nản chí, bắt đầu
xây dựng lại. Gió lại thổi lên phá hoại công trình của nó. Lần này nó nắm chặt
hai tay bặm môi như muốn đánh ai. Đoạn nghĩ ra điều gì, nó cởi tuột quần ra, mò
dưới cỏ tìm gặp hai sợi dây chuối, nó cột túm hai ống quần lại. Nó phành lưng
quần đưa ra trước gió như người lớn phành bao bố hứng gạo và nói: "Nhốt
mày lại coi mày còn phá nữa hết". Gió chun vào thổi phồng quần lên. Hai ống
quần bọc no nứt gió, bay nằm ngang trên không trung như hai khúc dồi. Nó vừa muốn
túm lưng quần lại để gói gió trong ấy, thì chợt nhận ra rằng ở đâu cũng có gió
hết, gió chạy trên người nó để trôi ra phía sau, gió thổi cát bay, gió lay tầu
chuối. [...]
Đứa bé đang lính quýnh vì gió nhiều quá không biết đâu
mà hốt cho hết. Một tay nó thả lưng quần, cào gió lại, chơn nó đá như muốn đuổi
gió đi. [...]
Một cơn gió đổi chiều làm cho cái quần nó ốm xếp ve và bành bạch
bay day qua hướng khác.
Thằng bé thấy mình thất bại vội bỏ quần xuống đất, giăng tay
ra rước gió. Nó hít gió, nó nuốt gió, mặt nó sung sướng trông thấy. Đoạn nó cầm
quần lên phành lưng đưa trước chiều gió mới. Lần này nó không có ý nhốt gió nữa
mà lại hớn hở nhìn hai ống quần no như hai khúc dồi. Nó giỡn với gió chứ không
ghét gió nữa
Tạo mỉm cười nói lầm thầm: "Thằng nhỏ biết điều
quá".(Nhốt gió, nxb Văn Nghệ thành phố in lại, 1998, trang 8-9).
Nhốt gió là hành động tiếp xúc đầu tiên của con người với
thiên nhiên, Husserl gọi là "cuộc gặp gỡ đầu tiên của ta với thế giới".
Gặp gió, thằng nhỏ đã coi ngay gió như một thực thể có thể giao thiệp
được. Nếu một người lớn biết làm như vậy, thì có thể bảo là anh ta đang áp dụng
"phương pháp giảm trừ hiện tượng", nghĩa là gạt bỏ tất cả mọi thành
kiến mà anh ta có về gió qua sách vở, qua những kiến thức lượm được từ
bên ngoài, để tiếp xúc với gió như lần gặp gỡ đầu tiên, chưa bị bất cứ
thành kiến nào về gió chi phối. Thằng nhỏ năm tuổi, dĩ nhiên là chưa
bị sách vở đầu độc, chưa bị môi trường ảnh hưởng, cho nên nó đãi gió một
cách chân tình, nhờ sự chân tình đó mà nó tìm ra chân lý: không thể nhốt gió,
nó bèn thả gió.
Không nhốt được gió, thằng nhỏ xử huề, nó tìm cách chơi với
gió. Bắt tay với đối thủ, thằng nhỏ "biết người biết ta". Cái lý mà
chỉ trong nháy mắt một thằng nhỏ năm tuổi đã "thấu triệt", thì người
lớn lại "ngu lâu". Bởi vì thằng bé dùng kinh nghiệm trực tiếp của
mình, không qua trung gian, mối lái, tức là nó đã bỏ hẳn giai đoạn suy nghĩ, lập
luận, lý giải (đương nhiên, vì nó bé), để trực tiếp thể nghiệm sự tiếp xúc giữa thân
xác nó và thân xác gió, và thằng bé hiểu ngay là phải cộng
sinh với gió, nó không thể bắt được gió cũng như gió không dạy được nó: giữa
gió và nó có mối tương quan biện chứng hệt như tự do và con người; hệt như tư
tưởng và con người: con người không thể nhốt tư tưởng của mình và của người
khác, con ngưòi không thể nhốt tự do. Nhốt tự do, nhốt tư tưởng cũng vô ích như
nhốt gió. Thằng nhỏ năm tuổi đã "ngộ" ra lẽ sống bình đẳng trong trời
đất: Gió đối với nó là một thực thể khác và hơn nữa: gió là người
khác. Vì không bắt được kẻ kia phải theo cái lẽ phải của mình, thằng
nhỏ chấp nhận đối phương, để lũy thừa điều kiện sống, điều kiện giỡn, khả năng
hưởng thụ, khả năng sống còn, khả năng hạnh phúc. Sự từ chối bạo lực, từ chối
đàn áp, nơi thằng nhỏ dẫn nó đến một thế giới mới đầy thú vị, hoà bình và hạnh
phúc.
Âm thanh của đời sống
Bình Nguyên Lộc cho biết Nhốt gió là truyện thật giữa
ông và người con trai cả, chúng ta lại càng thấy cách nhà văn rút từ kinh nghiệm
nhìn, ngắm, suy nghĩ, sống thật của mình như thế nào để làm ra tác phẩm nghệ
thuật: Ông không chịu dừng lại ở nhận xét bề ngoài của hiện tượng, mà ông còn
tìm cách bóc vỏ, để vào sâu hơn, tìm đến bản chất, đến cơ năng bên trong của hiện
tượng, của những thực thể như lá, gió, rừng, nắng, đất, nước... Những thực thể ấy
hiện diện quanh ta, nhưng không mấy ai chú ý. Bình Nguyên Lộc khác. Đọc văn
ông, cảm tưởng đầu tiên là ông viết rất phớt (nếu chỉ chú ý đến khía cạnh
"kể" hoặc giải thích, khiến nhiều người cho ngay là dở) phải đọc lại
lần nữa mới thấy hay, và đọc đến lần thứ ba mới thấy tất cả cái nền tư tưởng
sâu lắng ở ông. Vì vậy mà Sơn Nam cứ "phải đọc" Nhốt gió, đọc mà
không hiểu tại sao: "thỉnh thoảng đọc lại năm ba hàng, tình cờ, lại
thấy vui và mới. Nó giống như ca dao, những câu ca dao bằng văn
xuôi". (dẫn theo bài của Võ Phiến, trong tuyển tập BNL). Cái mà Sơn
Nam thấy vui và mới, là gì? Mà tại sao lại mới giống
như ca dao ? Cái đó chính là giá trị vĩnh cửu của một văn bản, vừa hiện
đại (mới) vừa cổ điển (ca dao).
Lý do đưa đến cảm giác ấy có thể là như thế này: Bình Nguyên
Lộc đối xử với những thực thể tầm thường một cách bất thường: chúng ta nhìn những
vật xung quanh một cách nhàm chán, bởi lúc nào chúng cũng có đấy, tưởng chúng
không hề thay đổi, chúng im lặng vô cảm. Bình Nguyên Lộc nhìn, nghe mọi vật dưới
những góc độ khác: ông để ý đến đời sống riêng của chúng, và chính cái đời sống
riêng này, quan trọng hơn đời sống vô tri vô cảm mà ta cấp cho nó. Nhờ tri giác
bất thường này mà ông thấy thằng bé năm tuổi đang "nhốt gió", nghe được
tiếng "trở mình của lá chết", tiếng "đất hả họng
khát nước", tiếng "đồng hồ bụng" của anh Chím Rắc
báo hiệu đã đến trưa, tiếng phổ ky hát: "Vách bên trái cà phê không đậm,
nhớ lược bằng vợt mới nghe không?", "Người nầy ba muổng đường,
người kia một muỗng rưỡi thôi" v.v... Tất cả những thứ "tiếng"
tầm thường của đời sống, được ông nghe, và ghi lại lần đầu trong văn chương.
Sau người ta sẽ học ở ông cách ghi lại âm thanh ấy, cách mô tả chi tiết ấy,
tinh thần bắt mạch đất nước và con người ấy, rồi người ta tái hiện trong Hương
rừng Cà mau, 1962 (Sơn Nam), trong Đất nước quê hương, 1973
(Võ Phiến)... rồi người ta hạ bệ thầy.
Bình Nguyên Lộc là nhà văn đầu tiên đã trình bày một diện
mạo rất lạ về vùng đất mới, bằng cái nhìn "ngây thơ" vào đời, cái
nhìn "biết người biết ta" của thằng nhỏ năm tuổi, cái nhìn khôi
nguyên của một nhà thơ vừa khám phá ra vũ trụ: đất nước và con người.
Bình Nguyên Lộc dùng âm thanh tiếng Việt để tạo âm, tạo động
mà không cần đến phụ tùng nào khác. Tiếng Nam của Bình Nguyên Lộc giàu âm thanh
hơn tiếng Bắc nhiều: rụp rụp, rôm rả, rôm rốp, tươi rói, mỏng lét,...
Sự láy âm, láy ý đã biến ngôn ngữ từ chức vụ thuần tuý diễn tả, sang chức vụ tạo
thanh, tạo hình. Và ông đã xử dụng khả năng thứ nhì này một cách tài tình khiến
những quang cảnh, hiện tượng mà ông mô tả trở thành những cảnh nổi.
Nguyễn Tuân là người cực kỳ nhạy cảm, ông "nghe" thấy
tiếng lửa reo trong lò sưởi, tiếng các loại gỗ cháy khác nhau... Nhưng Nguyễn
Tuân nghe tiếng sự vật theo "lối Bắc", dùng chữ đầy chất thơ, mượt mà
uyển chuyển theo lối Bắc. Văn Nguyễn Tuân thể hiện mỹ tính nhẵn nhụi thuần
túy Bắc, cũng như thơ Nguyễn Du, đặc giọng Bắc, thỉnh thoảng mới có vài âm Nghệ,
mà phải Hoàng Xuân Hãn mới nhận ra.
Bình Nguyên Lộc thường "nghe" ở chỗ người ta
"ngửi", (ông nghe mùi), đó là một đặc chất Nam Kỳ; và ông ghi lại tiếng
sự vật bằng tiếng Nam, chân chất và thô nhám, làm nổi bật tính gồ ghề sần
sùi chỉ có trong ngôn ngữ và âm thanh tiếng Nam. Có thể nói các nhà văn Bắc
làm phim phẳng, nhà văn Nam (như Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc), có thể làm
phim nổi. Phi Vân trong Đồng quê (1943, Nxb Bốn Phương in lần thứ ba,
không đề năm), cũng đã có mạch văn đầy âm thanh như vậy. Tuy nhiên, văn Phi Vân
là văn phóng sự, mang chất hài hước mua vui, Phi Vân chưa đạt đến mức độ dùng
âm thanh để diễn tả toàn bộ đời sống như Bình Nguyên Lộc.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ví dụ với một cuộc đua ghe trên
sông Đồng Nai, Bình Nguyên Lộc cũng có thể vận dụng ngữ âm như yếu tố chính để
thực hiện cuốn phim có âm thanh nổi:
"Một hồi trống. Tức thì mấy mươi chiếc ghe chuyển mình,
lượn tới để sắp hàng.
Một tiếng súng. Trả lời tiếng súng ấy, mấy mươi chiếc phèng
la đánh lên một lượt, rồi mấy trăm tiếng người hô lên một lượt để ra hiệu khởi
hành:
Phèng!
- Hè!
Phèng!
"Bây giờ sông nổi sóng. Mũi ghe rẽ nước vo vo. Giầm chém
xuống mặt sông làm bắn nước lên trắng như bọt thác.
Phèng!
- Hè![...]
Hai chiếc ghe giữa đi kề sát nhau. Dân bơi bên nây dùng giầm mà
chém vào tay dân bơi bên kia. Cuộc chém trả gây thành một trận thủy chiến tai hại
cho cả đôi bên. [...]
Ghe An Thịt lấn hơn nghe Ba Doi nửa mình. Ghe sau hổn hển rượt
theo, coi muốn hụt hơi mà chỉ nhích lên được một nửa gang thôi. Đã kém, nó lại
không đi đường ngay lối thẳng, mà chĩa xéo mũi vào bờ bên nây." (Đồng
đội, trong Ký thác, các trang 113, 114, 136).
Chính ngữ âm tiếng Việt đã làm cho cuộc đua thuyền trên sông
Đồng Nai có vị rùng rợn của một cuộc thủy chiến, với thứ ngôn ngữ anh chị, chầm
bập như những nhát búa:
"Tám Tơ khà một cái dài như rắn hổ, đặt tô trà Huế xuống
bàn một cái cộp, rồi hỏi:
- Mầy liệu làm sao?" (sđd, trang 131).
Không khí, giọng kể và tiếng nói ăn rập với nhau, trong nhịp
điệu âm thanh và ngữ nghĩa lạ lùng, từ tên người: Tám Tơ, Tư Nết; tên đất: Vằm
Tắt, Cồn Gáo, Ba Doi, An Thịt, Rừng Sát... đến các âm thanh khác như: ăn rập,
tái lét, rượt bối, xà bát, có u, có nần... đều đồng loạt ướp ngầm đao búa với ý
đồ khiêu chiến, chém trả: Hành động, ý đồ và ngôn ngữ có gì ăn khớp với nhau,
trong cuộc chiến khốc liệt giữa hai làng băng đảng: Ba Doi-An Thịt. Cả
đến lối chào của kẻ chiến thắng cũng mang hình ảnh quái gở: "Ba mươi
chiếc giầm sơn đỏ của ghe An Thịt bỗng đưa cao lên một lượt để chào quan khách
trong bờ. Khán giả có ấn tượng như thấy một con rít chạy tới đó rồi ngã lăn
đùng ra, đưa mấy trăm chân lên trời" (trang 137).
Bình Nguyên Lộc dùng chữ như những quân cờ tác chiến: trong
trận địa, chữ cũng xung phong, ông vận dụng tất cả "khí giới chữ
nghiã" trong tay, để "làm sống" lại tinh thần "quyết thắng"
làng xã: mọi đòn đều tốt, mọi thủ đoạn đều khả thi. Tác phẩm gói ghém, cô đọng
như một thứ échantillon của tinh thần thua đủ mất còn Nam-Bắc, trong truyền thống
lịch sử không mấy vinh quang của dân tộc.
Khuynh hướng hiện thực thô lậu
Nếu âm thanh là yếu tố thứ nhất, thì chuyển động là yếu tố thứ
nhì, xác định bản chất của vạn vật: dưới mắt Bình Nguyên Lộc mọi vật di động
không ngừng:
"Cây tăm ngặm nơi môi chàng điên cuồng chuyển động. Nó
hươi đủ chiều, xoay đủ hướng, có khi nó nằm yên để người ta đoán thấy chàng
đương cắn răng dữ tợn" (Nhốt gió, trang 4).
"Ruồi mặc sức mà bay vù vù, mà đậu trện các món ăn,
trong sự im lặng nặng nề ấy. Hơi nước mặc sức mà đọng chung quanh mấy ly nước
đá, không ngón tay nào rớ tới ly để xoá những mụt nước trắng mờ đang đơm lổm chổm
trên vách pha lê. Cùng với tim của người quanh bàn, thời gian như ngừng hẳn lại" (Nhốt
gió, trang 4).
"Mấy mươi lò gốm, nóc dài, đen khói, như cố trèo lên dốc.
Khói đen, dày và đậm trào lên khỏi đầu lò; khói dày thành khối cứ trào lên như
nước mội; trào lên, trào lên cao, gặp gió nhẹ, nó chảy thành những mạch khói,
cuồn cuộn đi xa. Trong khi đó thì những lưỡi lửa cứ thò ra khỏi mấy lỗ thông
hơi ở hông lò". (Lò chén chòm sao, Nhốt gió, trang 27).
"Có khi đang đêm trời mưa ầm ỹ, anh nghe chõng tre anh
đang nằm lắc lay, dao động, toàn thể đám đất rung chuyển như cơn địa chấn sắp đến.
Đó là rác mục đang biến thành đất, gặp mưa nó dẽ xuống, lớp đất trên cũng sụp
theo" (Cái Bách- xê, Nhốt gió, trang 36-37).
"Lửa cháy lấn qua hai bên, lấn vô trong sâu. Người ta, từ
trong đó chạy ra như kiến. Con nít khóc, đờn bà la, tre, nứa nổ rắc rắc. Mái
nhà cứ nối tiếp nhau mà chảy như sáp. Nhiều căn nhà hình như là có chứa dầu
xăng trong chai. Khi lửa bò qua đó thì nghe tiếng nổ, rồi ngọn lửa bùng lên một
vài giây.
Gió nghe lửa rủ, kéo tới. Lửa gặp gió mừng rỡ, càng hung hăng
thêm" (Cái Bách-xê, Nhốt gió, trang 42)
Nghệ thuật kết hợp âm thanh trong tiếng nói với sự chuyển động
của vật thể, chiếu vào những sự kiện nhỏ nhoi như con chấy, con rận, cái răng,
cái tóc, cái tăm... đã được Bình Nguyên Lộc khai sinh. Chưa thấy trong văn Hồ
Biểu Chánh, cũng chưa có trong lối viết Tự Lực Văn Đoàn.
Thế giới quan tế vi và thô lậu trong Nhốt gió,
xuất hiện năm 1950, tạo xúc cảm mà không cần vị lãng mạn, đã trở thành một lối
hiện thực mới: hiện thực thô lậu đã ảnh hưởng sâu xa đến những người
viết đi sau, như Sơn Nam, Võ Phiến, Lê Xuyên, Nhật Tiến, Thanh Tâm Tuyền, Thụy
Vũ, Hồ Trường An...
Một tình cảm khác thường xâm chiếm tâm hồn người đọc,
nhất là những người gốc Bắc, bởi Bình Nguyên Lộc không chỉ dùng thứ ngôn ngữ
"địa phương" đầy tiếng "lạ hoắc", mà lại còn cả tiếng Triều
Châu: "Huệt nía, huệt cưn cưn". Chỉ riêng một nhận xét thực
thà thô vụng của anh Pô: "Cả trăm năm nay người mình và người An Nam
sống chung lộn với nhau một đời sống cực khổ, lai bậy hết, thét rồi không còn
biết ai là Trung Hoa, ai là An Nam nữa" (trang 29), đã mang chất gì
như "tình nhân loại", nhưng anh Pô đâu có biết đến cái chữ nhân loại
sang trọng như thế, anh chỉ nói lên ý nghĩ quê mùa của mình trong một thế giới
ít chữ; một thế giới lai, chung lộn yêu thương, nghèo khổ, trời nước, bọt bèo,
của vùng Sa Thảo xa lắc miệt Triều Châu pha với làn khói bốc lên ở lò chén Chòm
Sao, miền Hậu Giang đất Việt.
Đối diện với một thứ truyền thống dân tộc cổ hủ dựa trên tinh
lọc, kỳ thị, không thích lai giống, chống sự lấy người ngoại quốc, Bình Nguyên
Lộc đã xây dựng một thế giới lai: thế giới chung lộn, lai tạp, giữa người Việt
và người Hoa, giữa người Việt và người Chàm, giữa người Việt và người Chân Lạp,
giữa người và ma, người và cỏ cây, một thế giới gắn liền con người với đất
nước đã "bốc lên" trong Nhốt gió, từ Nhốt gió.
Thế giới đó có ông Cựu Xã An nghe được tiếng đất hấp hối.
Nó hấp hối chầm chậm. Ban đầu là cái xa quay nước suối, đang kiệt sức: "Cái
xa nó quay làm biếng như cái chong chóng của trẻ con lúc vừa tắt gió. Có khi nó
đứng sựng lại, mặc dầu nước suối vẫn chảy xiết. Những lúc ấy thì nước bị vật liệu
xiêu vẹo của cái xa cản lại, kêu khàn khàn. Ông Cựu Xã An nghe như cái xa thở hổn
hển gần muốn đứt hơi. Nó ngừng như vậy lâu lắm, ông Cựu Xã An tưởng chừng như
đó là phút cuối cùng của nó, và không bao giờ nữa, nó còn múc nước lên máng xối
để tưới đám đất ông.(...)
Nhưng mà... nó lại quay. Trông bộ tịch nó ráng lắm, như là một
người kiệt sức té qụy, cố lồm cồm dậy. (...)
Những ống tre múc nước mà cái xa nặng nhọc đưa lên cao, vì
sút dây, trật ra một bên lại trút nước trở xuống suối chớ không rót vô máng xối.
Ông Cựu Xã An cứ nhìn những nước trút bậy mà tiếc, trong khi đám đất ông nó
khát hả họng.
Đất hả họng thật. Nó nứt ra như để hứng sương cho đỡ khát. Cỏ
ở đó khô cỡ quăng xuống một tàn thuốc là nó cháy chạy theo không kịp.
Ông An đứng nghe con suối trong khảy đờn, bụng cứ lấy làm lạ
rằng sao những người hồi xưa khai đất lập làng lại tìm chỗ khô hạn như vầy. Mà
lạ sao đất không nuôi nổi người mà đã bao đời rồi người vẫn ở đây. (...) Mặt đất
đã cạn nguồn sống, mà lòng đất cứ bịn rịn hoài. Nó đã nuôi sống người, người
sao nỡ bỏ đi để nó chết khát" (Đất hấp hối, Nhốt gió, trang 46-47).
Trong thế giới quê mùa hạn hán, đói khát, nứt nẻ ấy, con người
chưa biết cắt sợi nhau dính liền với bụng mẹ là đất, cuống rún họ chưa
lìa khỏi bụng đất, họ có cha là nước, anh là gió, em là mưa, bà con với
hươu nai, dị thảo. Con người đó nghe được nỗi đau của vạn vật, con người đó bị
gió hành, con người đó có khả năng phân biệt giữa tiếng gió và tiếng lá: "Ở
vườn, ở rừng, trời gió, người ta chỉ nghe tiếng cây, tiếng lá, rồi ngỡ là nhờ
cây lá, gió mới kêu. Ở đây mới rõ thật là gió có tiếng riêng của nó, không
nhờ gì hết. Nắng càng xuống, gió càng lên và tiếng gió vù vù càng nổi dậy.
Nhà chòi kêu răng rắc như sập đến nơi, Huấn nghe như mình ngồi
trên thuyền, giữa biển cả, trong một cơn dông tố. Má anh rát dưới những cái
tát mạnh của gió: khoé mắt anh nóng rực như bị banh bét ra." (Hai buổi
giậm cù, Nhốt gió, trang 91-92).
Phải vào thế giới ấy, ta mới hiểu: yêu đất, yêu nước, thương
nhà, là như thế nào. Bình Nguyên Lộc không chỉ quan sát vạn vật bằng con mắt mới,
không chỉ dùng những nhận xét tế vi; ông còn nhập vào thiên nhiên, vào đất vào
nước, chú ý đến chuyển động của các sinh thể, ông còn chuyển thể, làm cho những
tĩnh vật di chuyển, làm động lá, động rừng, động đất, động nhà; làm cho những yếu
tố phi vật chất như gió, nắng cũng chuyển thành cụ thể sờ mó được. Bachelard
kinh nghiệm rằng: khi ta bắt gặp trong văn chương một sự chuyển thể từ tĩnh
sang động, từ lỏng sang đặc như thế, ấy là dấu ấn một nghệ sĩ lớn. Người ta
nghe thấy trong Nhốt gió, biết bao di động, biết bao chuyển thể, trong tiếng "nhà
chòi kêu răng rắc", trong những chuyển động liên hồi của nắng, gió:
"nắng càng xuống, gió càng lên", trong "cái tát mạnh
của gió", hoặc có thể phân biệt "gió có tiếng riêng của
nó", ngay cả những thực thể bị bắt buộc phải ở vị trí cố định như mắt cũng
có thể bạo động: "mắt ông trừng trừng nhìn như muốn vọt ra
khỏi mặt" (Tôi là người, Nhốt gió, trang 132).
Sau cùng, sự gặp gỡ tình cờ giữa hai phạm trù đối nghịch, tạo
ra những bức tranh sống động biểu hiện cuộc tranh đấu ác liệt để sinh tồn: "Đàn
nai lớn đi lần theo, dè dặt, nghe ngóng từng mỗi bước, nghi ngại đến tiếng
trở mình của lá chết, đến đám cò xám hiền lành. Nai đầu đàn bọc hậu, oai vệ như
ông tướng soái điều binh. Nó không xuống nước, chỉ đứng canh giữa quãng từ mé rừng
tới bờ ao. Một tiếng động. Nó vừa kịp quay đầu lại thì một con cọp đã rơi xuống
trên lưng nó rồi. Rồi, thì rôm rốp, những móng nai bay trên cỏ." (Tôi
là người, Nhốt gió, trang 130).
Tất cả những chủ đề lớn trong văn chương đều đã xuất hiện
trong Nhốt gió: con người và thiên nhiên, con người và đất nước, con
người và cõi âm, di dân và sống còn, với một giọng văn quê mùa, khiêm tốn. Ông
kể chuyện dềnh dang như những người ít học, nhưng không phải người nhiều chữ
nào cũng có khả năng đọc và hiểu ông; ngược lại người bình dân chắc chắn thấm lối
kể chuyện của ông, bởi Bình Nguyên Lộc là lương tâm của họ, ông nói tất cả những
gì họ nghĩ mà không viết ra được.
Sài Gòn, thổ ngơi thơm phức hồn ma cũ
Làm sao mường tượng được Hàng Châu nếu không có Tô Đông
Pha. Một thành phố dù đẹp đến đâu, nhưng nếu văn chương chẳng đoái hoài, rồi
cũng sẽ "cát bụi trở về với cát bụi". Nếu Platon không nhắc đến
Atlantide, liệu ảo thành này có "sống còn" đến ngày nay.
Huế, Hà Nội, có cái may và cũng là cái rủi được nhiều người
nhắc đến. Hầu như chẳng có nghệ sĩ gốc Bắc, gốc Trung nào mà không có vài câu
văn, lời thơ, bản nhạc... ngậm ngùi, nhớ thương, ca tụng thành phố của họ.
Sự lạm phát tình cảm, lạm phát tự hào, có thể đưa đến lạm phát quyền uy, lạm
phát chính nghiã.
Sài Gòn không có cái may ấy và cũng chẳng có cái rủi ấy, bởi
Sài Gòn không thơ mộng như Huế và không có bề dầy lịch sử như Hà Nội.
Bình Nguyện Lộc biết rõ điều đó: "Thủ đô miền Nam
là một thành phố mới. Cây, đá, nhà, phố, phong tục, đều chưa mang được cái vẻ cổ
kính, chưa biết kể lể những kỷ niệm cảm động để quyến luyến con nguời." (Sông
ông Lãnh, Những bước lang thang...nxb Thịnh Ký, 1966, trang 12).
Chưa nhiều kỷ niệm, nhưng Sài Gòn có một không gian, một nền
đất và một hiện tại, đủ để nhà văn dẫn chúng ta vào "Những bước lang
thang...", tìm lại bản lai diện mục của thành phố sinh ra từ một dòng
sông, chưa kịp có dĩ vãng:
"Con sông con thân mật, đứng bờ bên nây hú một tiếng
là bên kia nghe liền...
Con sông gợi tình, thỉnh thoảng mầu nước trong xanh biến ra
vàng sậm vì từ lòng cạn vẩn lên phù sa gợi nhớ Thủy Chân Lạp hoang vu, nê địa,
gợi nhớ cuộc đổ xô vào Nam, gợi hình ảnh đẹp đẽ của đoàn người chiến đấu với
thiên nhiên để khai thác đất mới...
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai vào Bến Nghé, Đồng Nai thì vào.
Con sông làm vận thừa cho một giang cảng sầm uất, (cái bụng của
Sài gòn), tập trung tất cả ghe thương hồ của một hậu phương trù phú [...]
Một người bạn ghe nào đó, không tiền để đi hưởng các cuộc vui
của thành phố tưng bừng, ngồi trong khoang thuyền gảy nhẹ chiếc độc huyền, và cất
giọng nói thơ.
Với tiếng nhạc quê mùa, hương gió của Đồng nai, mùi bùn của
Ba Thắc, tất cả linh hồn của đất nước như đã theo thuyền buôn mà về đây.
Con sông đặc biệt Á đông với những chiếc ghe dùng làm nhà,
trên mui chưng vài ba cây cảnh, trước mui một con heo đứng ngơ ngác nhìn bờ, một
con gà muốn cất cánh bay mà ngại chết đuối.
Nên chi, đi xa mười năm vẫn nhớ Sàigòn. Không nhớ những phố lớn
nhà cao vô vị vì giống phố nhà nơi khác, mà nhớ con sông nho nhỏ, khổ đau vì chở
nặng những ghe chài khẩm lừ hàng hoá, thủ phận người vợ hiền chăm nuôi con dại,
và bỡ ngỡ như một chị nhà quê vào thành phố." (Sông Ông Lãnh, Những
bước lang thang..., trang 14).
Giọng văn thầm thỉ giữa người và sông, đôi khi sông biến
thành người, một thứ đối thoại tay ba giữa người viết, đối tượng được viết và
linh hồn đôi bên: người ôm lấy sông, vỗ về, an ủi như an ủi một người vợ, một
người mẹ, bao năm âm thầm lam lũ làm những việc nhỏ nhoi và cực nhọc nhất để
nuôi sống gia đình, nhưng có ai biết đến công lao dưỡng dục can trì, thủ phận ấy.
Sông mẹ nằm đây nghe cả chỗ thắt ngoặt của tâm hồn mình. Những chiều tối một
tay chơi nào đó, cất giọng "nói thơ", trong tiếng nhạc quê
mùa phát ra từ chiếc đờn một giây, một gáo. Tất cả chất quê, chất vụng về thô lậu
của Sài Gòn tan loãng trong mùi bùn Ba Thắc, ngậy lên linh hồn của đất nước, một
đất nước 80% dân chúng làm nghề nông. Một đất nước 80% tìm thấy căn cước của
mình trong lòng nước, dưới dòng nước.
Con Sông Ông Lãnh hay con Kinh Tầu Hủ là vòng đai nhẹ, là xa
lộ nước, ôm siết bụng dưới của Sài Gòn, bằng hệ "thương hồ" chở
"khẩm lừ " trái cây và các hàng hoá khác chăm nuôi thành phố, không
quên các món ăn khuya: "Ở đây không có xe hơi, không có ra đi ô,
không có trẻ nô đùa, nên những tiếng bí mật của đêm trường mang rõ linh hồn của
nó, âm thanh có sự sống đã đành mà cho đến tiếng động, lắm khi cũng thành nhạc.
Một chiếc xuồng tam bản, chuồi êm rơ trên mặt nước, một mái
chèo khua nhẹ trên dòng kinh, một đèn dầu leo lét soi mờ bóng một cô chèo xuồng,
rồi từ tất cả các thứ ấy, vẳng lên: "Ai... chè đậu... cháo
cá... hông?" (Quà đêm trên sông Ông Lãnh, trang 15).
Đấy mới chỉ là một Bình Nguyên Lộc chưa thoát khỏi ảnh hưởng
Thạch Lam, nhưng còn có một Bình Nguyên Lộc khác, từ Thạch Lam rẽ qua ngã khác:
không dựa trên nền lịch sử đã có mà dựa trên nền lịch sử chưa thành hình,
trên quá khứ chưa thành quá khứ của thành phố: Bình Nguyên Lộc dùng hiện tại,
cái đang có trước mặt để xây dựng quá khứ, bởi vì ông biết "Đất, có ở
lâu, tình đất mới sâu", nên ông đào xuống, đào sâu vào lòng đất, lòng
người để tìm cái dĩ vãng chưa có của Sài Gòn:
"Tình đất Sài Gòn tản mát trong người trong vật. Nhứt là
trong vài câu ca dao hiếm hoi. Vì hiếm hoi nên tình không thoả. Vì không thoả
nó mới cố lắng sâu như để tìm chính mình, trong chỗ không có gì hết." (sđd,
trang 24).
"Tình đất Sài Gòn tản mát trong người trong vật" là
gì? Nếu không là sự sống chung giữa người sống và người chết; sự sống chung ấy
đã "xẩy ra" trước Sài Gòn rất lâu, ở những nơi xa xăm, những thế
giới khác: thế giới vương mộ Ai Cập, thế giới xác ướp Pérou cách chúng ta ba bốn
ngàn năm.
Người Ai Cập xây âm cung cho người chết, để duy trì cái vô
cùng sau khi chết. Ở Thèbes (Louksor) sông Nil chia đôi kinh thành: hữu ngạn
là dương cung, là triều đình với những lâu đài tráng lệ Louksor, Karnak. Tả ngạn
là âm cung, là đền đài của người chết chìm sâu trong lòng cát. Người Ai Cập gọi
những nhà mộ trong âm cung là sinh cơ (maison de vie), là nhà sống.
Việc ướp xác (được thực hiện trong sinh cơ) chuẩn bị để người chết ra đi,
sống đời thứ nhì trong cõi vô cùng, không bao giờ còn phải chết.
Du khách đến Louksor bây giờ, đêm đêm có thể dạo chơi trên bờ
phải sông Nil, hoặc ngồi trong du thuyền hay khách sạn cửa nhìn sang tả ngạn, sẽ
thấy một cầu vồng ánh sáng bao bọc âm cung như một thị trấn sầm uất. Từ dẫy sinh
cơ cửa ngỏ, vọng ra những âm thanh đồng thiếp, pha trộn tiếng gió hú, tiếng
cát hò, tiếng khí giới va chạm trong nhà sống của Ramsès III, tiếng
nhã nhạc trong sinh cung của hoàng hậu Néfertari, vợ yêu của Ramsès
II. Lắng tai nữa, ta còn có thể nghe được cả tiếng gieo mạ, tiếng hái dâu, tiếng
dệt cửi, tiếng "chồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa " của đám nông dân,
trong chung cơ dành cho thợ thuyền, nông trại. Họ vẫn sống đấy dù đã
xa ta hơn bốn nghìn năm.
Trên xứ Pérou, Nam Mỹ, rải rác trong những khu di tích các nền
văn hoá cổ như Chavin, Paracas, Moshica, Nazca (tiền thân của văn minh Inca sau
này), sự bảo tồn linh hồn và thể xác người xưa còn thắm thiết hơn: người chết
được giữ lại trong tư thế ngồi xổm của bào thai đang chuẩn bị chào đời. Xác ướp
mặc áo đẹp, đeo mặt nạ trang điểm như lúc còn sống, không chôn mà ở riêng một
gian khác trong nhà. Hàng năm, trong dịp giỗ kỵ, lễ lạt, người chết được con
cháu ôm ra, ngồi cùng bàn, đoàn tụ ăn cỗ với con cháu.
Hai thế giới Ai Cập và Nam Mỹ xưa, có gì tương hợp với câu
thơ của Bình Nguyên Lộc: Thổ ngơi thơm phức hồn ma cũ.
Sài Gòn, mới hơn hai trăm năm, chưa kịp có quá khứ lịch
sử, cho nên nhà văn phải tìm cho thành phố một quá khứ khác, thấm sâu trong
lòng đất, lòng người với những "hồn ma cũ". Chỗ cách biệt
sâu xa giữa Sài Gòn của Bình Nguyên Lộc và Huế, Hà Nội của các nhà văn khác, là
ở đó. Ông dựng lại Sài Gòn của ông, không bằng kỷ niệm, bằng trí nhớ, bằng óc
tưởng tượng như mọi người mà ông dựng lại thành phố bằng da thịt người chết, hệt
như thủ pháp của người Ai Cập xưa:
Một hôm "Đi trên vỉa hè, phố Bùi Chu đến góc
Bùi Chu - Bùi Thị Xuân bạn bỗng nghe một cảm giác là lạ dưới chơn. Vỉa hè đất
thịt bằng phẳng bỗng gập ghềnh và làm cho tiếng giày của bạn vang lên. Nhìn xuống,
bạn mới nhận ra dấu vết của một mả vôi trám cả bề rộng khá lớn của vỉa
hè" và bạn khám phá ra "thành phố của ta xây cất trên một bãi
tha ma minh mông". (Hui nhị tỳ II). "Ở đâu cũng mả hết, nhứt
là Ô Ma. Người ta nói Ô Ma tức là "Phía vũng lầy" (Aux mares) của tiếng
Pháp. Sao ta chôn xác người ở xóm vũng lầy? (...). Mồ mả ở Sài Gòn thân mật quá
chừng. Người ta sinh hoạt giữa mồ mả như quen biết với ma dữ lắm". (Hui
nhị tỳ II).
"Bạn ở Sađéc trôi nổi lên đây làm ăn mà rủi có mạng hệ
nào bạn, bạn đừng lo bỏ thân nơi xứ người. Trong nghĩa địa, bạn sẽ gặp đủ mặt
người đồng hương giữa một ô riêng dành cho tỉnh Sađéc.
Những đêm mưa dầm, ma ở đây chắc không lạnh bao nhiêu, vì
quanh họ đông đúc những khuôn mặt thân yêu, tha hồ mà trò truyện cho ấm lòng.
Tỉnh này muốn qua tỉnh kia thăm bạn, chỉ phải bước qua một
hàng rào. Gần hai muơi tỉnh sát cánh nhau để dựng lên một miền Nam trong cõi
âm.
Người sống hay đòi thống nhất nhưng họ lại bắt người chết
phân ly: Bắc Việt nghĩa trang, Trung Việt nghĩa trang, và Nam Việt nghĩa trang
này là ba thế giới riêng biệt không có đường xe lửa nối liền.
Riêng dân chết ở Nam Việt họ tự trị mỗi tỉnh một ô riêng ngăn
ranh giới bằng dây kẽm gai, ý chừng đề ngừa xâm lăng"(Hui nhị tỳ I).
Tất cả sinh hoạt kỳ thị của người sống đã nhập mộ, diễn lại
trong đất chết. Tính kỳ thị Nam Bắc, kỳ thị làng xã, rất sâu trong lòng người
Việt, di xuống tuyền đài, ô nhiễm cõi âm. Nhưng ở nghiã địa đất thánh nhà thờ Cầu
Kho, bạn lại gặp một cảnh chung sống âm dương kỳ lạ: người chiếm mả
"Những ngôi mộ bia bị giấu mất dưới những nếp nhà lá nhỏ
như chiếc khăn mu xoa, rồi trong đó, đám người kẻ dương gian người âm cảnh, ngủ
chung với nhau.
Nếu có ma thì ma ở đây rất sợ người ta, những người lỳ lợm; mả
mới mả cũ gì họ cũng cất nhà chồng tưới lên.
Nhiều nhà mồ biến thành trại mộc và có vài ngôi mộ có rào sắt,
bị người ta dùng làm chuồng heo". (Hui nhị tỳ I).
Cảnh sống chung âm dương trong Hui Nhị Tỳ là nền tảng
để nhà văn xây dựng lại bối cảnh khốn khổ của địa ngục thành thị, mặt trái của
"hòn ngọc Viễn Đông" và sự lầm than của con người trong cuộc cạnh
tranh sinh tồn khốc liệt.
Cuộc cạnh tranh sinh tồn
Trong truyện Ba con cáo (Ký thác) sự tranh đấu dành
miếng ăn đã đạt tới cực điểm đắng cay, xót chua, tàn ác. Ba người-cáo sống
chung trong nghiã địa đất thánh Cầu Kho: Sáu Sửu, một tay anh chị gặp bước đường
cùng, một mụ điếm hết thời, giấu tên và một con chồn, cả ba chia nhau hai
"căn hộ" dựng trên mả.
Cảnh người sống squatter đất người chết, phong tỏa nghiã địa,
lấy "nhà chết" làm "nhà sống" trở thành một hoạt cảnh hài
hước. Nghệ thuật của Bình Nguyên Lộc ở đây là sự chuyển thể từ bi
sang hài từ hài sang bi, hay chính hài đã là bi, bi đã là hài:
"... nghĩa địa phải chịu nạn nhơn mãn [...]
Họ cất vây tứ phía ngôi đất thánh và vòng vây cứ càng ngày
càng siết chặt lại, người chết không còn lối nào để thoát ra được nữa". (Ba
con cáo, Ký thác, trang 38). "Không bao giờ kẻ sống và người chết lại
sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong
khi tôi không có lấy một vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ, vậy ông thứ lỗi
nhé!" (trang 38)
"Một khi xâm nhập vào địa hạt của người chết rồi mới nhận
ra rằng cuộc đời bên ngoài dầu đau khổ bao nhiêu cũng còn ấm chán". (trang
37).
Người sống xâm nhập vào đây, là đã như chết, là đã hoá cáo.
Con cáo thứ nhất là một con chồn chính hiệu, cư dân lâu đời
nhất ở đây, đục lỗ làm nhà dưới ngôi mộ cổ, biệt lập trên một "cù
lao", có địa thế hiểm trở, bùn lầy nước đọng, dân chung cư không ai dám
bén mảng tới. Ngày chui xuống mộ, chiếm tầng "sous-sol". Đêm đến mò
ra ăn cắp gà của bọn "láng giềng".
Con cáo thứ nhì là Sáu Sửu, một tay anh chị trốn bố ráp, cắm
chòi trên mộ, chiếm tầng trệt, nằm trên "sous-sol" của con chồn. Sáu
Sửu hành ghề đạo trích.
Con cáo thứ ba, một ma mới, mụ điếm bệnh hoạn, chạy kiểm tục,
đánh hơi thấy vùng "an toàn", bèn đến định cư, cắm lều trên ngôi mộ
bên cạnh, bắt bồ với Sáu Sửu.
Sự sống chung hòa bình của ba nhân vật kéo dài trong mùa nắng:
cả ba đều no đủ vì có kế sinh nhai. Nhưng tới mùa mưa, người Sài Gòn không ra
đường; Sáu Sửu không làm ăn gì được. Mụ điếm già vắng khách, trùm mền nhịn đói.
Hai "cáo-người" bèn xực "cáo-chồn" trước, rồi thua đủ với
nhau sau. Cuộc tranh đấu đến chết của ba nhân vật khốn cùng, trong hai căn lều
cắm lậu trên đất chết, như khuôn mặt tàn son phấn của Sài Gòn hoa lệ, như mặt
trái của lầm than, mặt chìm của xã hội, nhưng nó cũng là dung nhan tàn tạ của mọi
vùng ngụ cư trái phép, của những người sống ngoài lề, của dân lậu, sống chui,
suốt đời không căn cước.
Cái "kinh khủng" trong văn Bình Nguyên Lộc là ở chỗ
đó: ông viết về những tình thế quái gở người sống "squatter" chỗ ở của
người chết, lỳ lợm chiếm nhà chiếm đất, lẹ như không, như kể một chuyện đùa. Kể
hay, kể vụng, kể ngắn, kể dài, không văn, không vẻ, không bố cục, mới đọc qua
nghe hời hợt, dễ ợt, cho nên nhiều người coi thường. Nhưng cái sâu sắc của ông
lại nằm trong chính cái "hời hợt, dễ ợt" ấy.
Bình Nguyên Lộc không tìm quá khứ lịch sử anh hùng, mà
tìm những thực tại không mấy anh hùng của dân tộc. Ông mô tả thành phố Sài Gòn
qua cái nhìn trực thăng, lướt trên những không gian khác nhau: không gian
sống có, không gian chết có, nghiã địa chôn có, nghiã địa treo có,
chằng chịt dây điện, đầy những xác diều:
"Những xác ấy bị treo lủng lẳng như vậy, có xác rơi xuống
đất sau vài hôm, một tuần, một tháng, mà cũng có xác trơ gan cùng tuế nguyệt
cho đến mùa mưa mới chịu để cho phong võ làm rã thịt mục xương.
Diều sống có cá tánh riêng biệt khi bay lượn, mà chết, xác diều
cũng có cá tánh nữa. Không phải xác nào cũng giống xác nào về lối chết và lối
an nghỉ ngàn thu trên dây điện.[...]
Diều ơi, diều có phải là gốc người Tây Tạng hoặc người của
vài bộ lạc Phi Châu mà khi chết xác không thổ táng, hoả táng mà lại không
táng?" (Có những xác diều, trang 28-29).
Sài Gòn là vùng mộ huyệt. Chôn người. Chôn diều. Sài Gòn là mộ
những bầy chim dại dột, vì miếng ăn mà phải "cảm tử đáp xuống các đống
rác" nên bị sa lưới; mới mắc bẫy buổi sáng, đến tối đã nằm phơi thây trên
các chảo mỡ sôi sục của các tửu lầu. Khoảnh khắc sau đã yên nghỉ trong dạ dầy một
thực khách.
Đang no nê say sưa, bỗng nhiên Sài Gòn như hấp hối "chết
đi" trong tiếng "kêu cơm" của những người hành khất: "Ớ... ơ
bớ cơm, bớ gạo, làm đoan, làm phước bố thí cho kẻ bần hàn..." hay một
âm thanh lạc loài khác: "Ai... bột khoai bún tàu...đậu xanh nước dừa
đường cát hôn..." (Âm thanh bí mật, trang 45).
Sài Gòn, bức chân dung chưa từng thấy về một thành phố, vươn
lên từ bãi tha ma, vĩnh viễn sẽ chỉ là mộ địa: Mỗi người trong thành phố mang
trong bụng những nấm mồ. Sinh ra để đi một vòng: từ đất để về lại đất. Xác người,
hồn vật, tất cả gắn bó với đất, chết đi và sống lại trong lòng đất, tạo nên một "thổ
ngơi thơm phức hồn ma cũ". Mỗi chúng sinh đều là mộ chôn những sinh
linh khác. Mỗi không gian đều là "thác gian" của bao nhiêu "cánh
diều" muốn vươn lên tìm dưỡng khí, nhưng lại chết yểu trong vùng khí quyển
ô nhiễm của mình.
Mà không chỉ có Sài Gòn, không chỉ có người Sài Gòn, không chỉ
có thổ ngơi Sài Gòn, mới "thơm phức hồn ma cũ", mà mỗi thổ ngơi, mỗi
đất sống, Paris, Luân Đôn, New-York, Hà Nội... đều "thơm phức hồn ma"
như thế cả, bởi mỗi chúng ta ai mà chả mang trong dạ một bãi tha ma, chôn dấu
bao nhiêu vịt, gà, chim chóc...
Sài Gòn là địa điểm để nhà văn bộc lộ cuộc sinh tồn và sự gắn
bó khốc liệt của con người với đất sinh, đất sống.
Những người đổi tên Sài Gòn chắc chưa biết sự tích cái "thổ
ngơi thơm phúc hồn ma cũ" ấy, để hiểu tâm hồn của con người gắn bó với
đất sinh, để hiểu tại sao người Sài Gòn không đếm xỉa đến tên mới mà chỉ ngắn gọn
hai chữ thành phố khi nhắc đến thổ ngơi của họ.
Cõi âm
Nếu Sàigòn là vùng người hóa cáo, người thành ma, người ăn hiếp
ma, thì trong "Cuống rún chưa lià" Bình Nguyên Lộc trình
bày một thực tại khác: sự sống chung, gần như hoà bình, không tranh chấp giữa
người và ma, thậm chí người còn sợ ma.
Về cõi âm, cũng lại chưa có tác giả nào đi sâu vào tâm
hồn người Việt đến thế. Bình Nguyên Lộc không chỉ dừng lại ở những vùng đất nước,
đất cạn, mà ông còn xuống sâu hơn nữa, ông xuống đến cả vùng đất ở dưới đất, đất
ở dưới nước: đất âm. Ba Sa là kẻ trung gian đi về, Ba Sa đã từng xuống "dưới
ấy", đã cam kết với "họ" từ nay không dám đụng chạm gì đến lãnh
địa thần nước, thần cá nữa.
Đất âm là vùng của những sinh vật không có khả năng tự cắt
rún, suốt đời gắn liền với đất với nguồn, như ông già Sáu Nhánh sống trên sông
nước, trước khi chết muốn trở về "ngửi mùi đất làng" (trong Phân
nửa con người). Như mớ cá "lạc mạ" (lạc mẹ) cố lội ngược
dòng, trở về nơi chôn rau cắt rún (trong Bám níu). Như anh Nguyễn Văn Mun
trước khi bỏ làng ra đi, bới trộm hài cốt của ông bà, cha mẹ đem theo sang xứ
khác làm ăn (trong Mấy vụ quật mồ bí mật). Tất cả những người, những
cá, như thế tạo nên một thế giới không cắt rún,vĩnh viễn gắn liền với đất,
không chịu rời nguồn; một thế giới bán khai, bắc cầu giữa âm và dương, có khả
năng giao tiếp với ma, và đó cũng là cộng đồng dân quê, cộng đồng đông dân cư
nhất và chân chất nhất trên đất Việt.
Ba Sa là một đại diện "đặc thù" của thế giới bắc cầu
ấy. Sự xuất hiện của ông Ba mang những nét vừa bí mật vừa thân quen, như thể
làng nào cũng có: "Ông Ba Sa là một ngưòi thuộc về cõi âm. Ban ngày
không thấy ông đi đâu hết, trừ khi ông giúp đám ma, nhà héo, đi cúng chùa, cúng
đình (...) Như con cú ăn đêm, bạn bè với bóng tối, ông Ba chỉ ra khỏi nhà lúc đỏ
đèn để câu dầm, về mùa mưa" (Câu dầm, trong Cuống rún chưa
lià, trang 84).
Những yếu tố: cõi âm, đám ma, nhà héo, cúng chùa, cúng
đình, con cú, bóng tối, đỏ đèn, câu dầm, đổ dồn lên một lúc như thế, trực tiếp
chúng đã lập âm, lập một cõi âm, trực tiếp chúng đưa ta vào vùng nước, với Thuỷ
tề, Thiên lôi, tầm sét;thêm những chuyện nghe ông kể càng gây "không
khí": "... chuyện thằng cha đi câu dầm, đêm kia gặp một bà già lạnh
quíu, run rẩy lên đường. Động lòng thương, anh ta cõng bà ấy về làng. Nhưng dọc
đưòng nghe càng lâu, càng nặng, nặng quá, đi không nổi. Anh ta ngó ngoài lại
thì trời ơi, đó là một cỗ hòm, lâu đời mục nát, hôi tanh. Lại chuyện anh chàng
đi soi ếch, nửa đường có thằng nhỏ xin theo xách giỏ.
Tới khuya, anh ta xem lại giỏ coi được nhiều hay ít... thấy
máu chảy ròng ròng, ếch thì con nào con nấy cũng mất đầu, anh ta hỏi lẩy thằng
nhỏ:
- Bộ mầy ăn ếch sao mậy?
- Ừ, tôi ăn.
- Bộ mầy là ma sao mà...
Anh chưa dứt tiếng thì trời bỗng chớp lòe, thấy miệng thằng
nhỏ dính máu tèm lem, túa lụa, còn lưỡi nó thì le ra dài tới rún..." (Câu
dầm, sđd, trang 84- 85).
Bình Nguyên Lộc không làm việc gì khác ngoài việc kể chuyện
ma, hệt như chúng ta nghe u già kể chuyện ma thuở nhỏ; đưa ta trở lại
không khí rờn rợn tuổi thơ, vừa nghe chuyện ma vừa rút chân co quắp trong chăn,
những đêm mưa dầm gió bấc. Nhưng u già chỉ biết kể chuyện người gặp ma, mà
không kể được sự giao lưu giữa người với ma, không kể được những nét tương đồng
giữa hai thế giới người ma, như Bình Nguyên Lộc. Tại sao vậy? Bởi vì ông là người
đầu tiên mở cuộc "tiếp xúc trực tiếp" với ma. Giống như thằng nhỏ năm
tuổi tiếp xúc với gió. Nói theo ngôn ngữ Husserl, lại có thể gọi đó là sự tiếp
xúc đầu tiên với thế giới ma để biết thế giới hình thành thế giới như
thế nào?
Trước tiên, bạn hãy để ý đến sự "xưng hô" giữa
anh chàng đi soi ếch và thằng lỏi ma: "Bộ mầy ăn ếch sao mậy?".
Mầy ở đầu, mậy ở cuối. Tại sao anh ta không bảo: "Bộ
mầy ăn ếch sao mầy?" Là bởi vì mậy thân hơn mầy và mậy thả
chót như một dấu chấm, đậm tình hơn. Như vậy, trong cuộc tiếp xúc đần tiên giữa
người và ma: ma là ruột thịt.
Ở một đoạn khác, có cảnh thần đánh cờ: "Hai vị thần
nầy, đen hắc, đầu đội mão hình đuôi cá, xiêm y rực rỡ những vẩy cá ngũ sắc, những
vỏ ốc xà cừ. Xem kỹ lại thì thấy thần đương đánh cờ. Chừng đâu được tàn một điếu
thuốc bỗng nghe vị nữ thần nói: "Ông nè, ở đây nghe như có hơi phàm" (Câu
dầm, sđd, trang 87).
Hoặc bọn Thần Cù (cặp rắn lớn mồng đỏ, mỏ nhọn) mặc sức
hoành hành: "Hễ năm nào dân làng không cúng hối lộ thì năm đó thế nào
cũng bị tai hoạ" Khiến dân làng phải: "lập đàn làm chay để
tế thần Cù, và luôn tiện bố thí cô hồn, các đảng." (Câu dầm, sđd,
trang 87)
Bản sắc dân tộc của người Việt chưa khi nào xuất hiện rõ rệt
đến thế: vừa sợ thần thánh, vừa thích buôn thần, bán thánh. Truyền thống quan
liêu và hối lộ không hề thay đổi khi "đối tác" là người hay thần, người
hay ma. Có lẽ chưa nơi nào thần và dân, người và ma lại sống chung một cách đề
huề và hiện thực như thế. Một thế giới đầy tệ nạn tham nhũng, dân phải hối lộ
thần, không thần vật chết và bọn tiện dân cũng ma giáo không kém: Lập đàn cúng
bái là làm một công đôi ba việc: vừa đấm mõm bọn thần Cù cho khỏi rách việc, vừa
được tiếng bố thí cho cô hồn các đảng. Cả đến thời gian ở đây cũng nhiễm chất
hiện thực "kinh tế thị trường": cuộc cờ của hai ông bà thần không kéo
dài canh tàn, bóng xế, mà trong khoảng "tàn một điếu thuốc lá". Bà thần
xem chừng ăn nói y hệt giọng bà Hương, bà Hội, thời trước, hay bà lớn
trong các "đại gia" thời này, còn đánh hơi được cả mùi
"phàm", còn có ý hăm doạ: đứa nào nghe lén, coi chừng nghe bây!
Như vậy, người Việt đối xử với ma quỷ thần thánh giống người
Hy Lạp, tức là coi ma quỷ thần thánh như người, như "người ta". Sự
giao tiếp với thần thánh luôn luôn có tính cách thực tiễn, bán buôn, lời lãi.
Thần thánh chỉ phò trợ nếu được hối lộ. Triệt để tuân theo đúng ý thần thánh
thì có đường sống, nếu không bị vật chết.
Như thế, thần thánh chỉ là phóng ảnh của tập đoàn cai trị:
vua quan dưới thời phong kiến, tổ hợp chính trị độc tài thời nay. Thần thánh
cũng là một trong những nét chính của bản sắc dân tộc mà những kẻ làm chính trị
có thể trường tồn khai thác, khi còn người, còn ma.
Tiêu diệt dân Chàm
Tội ác tiêu diệt dân Chàm, chưa bao giờ người Việt công khai
nhìn nhận. Lịch sử Việt Nam là lịch sử anh hùng, mở mang bờ cõi. Linh hồn và thể
xác dân Chàm là đất, đá vô ngôn.
Bà Mọi hú (trong tập Cuống rún chưa lià, Văn
Nghệ, 1987), là toà án lương tâm đầu tiên của người Việt, xây dựng công khai
trên văn bản: xám hối sự sát hại người Chàm.
Bình Nguyên Lộc mở truyện bằng bức chân dung một ngọn
núi "đi lạc" về phía Nam:
"... cả cánh đồng là một biển lau sậy bằng phẳng và buồn
hiu.
Giữa cánh đồng, lạ lùng thay, một trái núi nổi lên, giống
một hòn đảo nhỏ giữa biển cả và nhứt là giống một cậu bé đi lạc, ngơ ngác nhìn
quanh.
Nói "cậu bé" vì đó chỉ là một quả núi tí hon và chỉ
cao độ bốn mươi thước thôi. Còn nói "đi lạc" là vì những hòn núi rời,
tách ra khỏi khối Trưòng Sơn đi lang thang về phiá Nam, chỉ tới mạn bắc tỉnh
Biên Hoà là dừng chơn lại. Cái anh chàng đi xa hơn hết là núi Chứa Chan đứng sừng
sững đằng xa kia, xanh mờ trên nền trời lam lợt. Nhưng anh ta cũng khá dềnh
dàng để xứng đáng là một phần tử trong bầy Trường Sơn chớ có đâu mà lùn xịt và
đi xa quá như chú núi nhỏ nầy.
Tuy nhỏ mà cũng có tên họ đàng hoàng, mặc dầu không được sách
địa dư nào nói đến cả. Đó là núi Bà Mọi" (Bà Mọi hú, trong Cuống
rún chưa lià, trang 53-54).
Chân dung của Bà Mọi, một chân dung núi: pha trộn đất đá và
xương thịt con người. Núi Bà Mọi không chỉ là ngọn núi mà còn là sự hoá thân của
một người đàn bà sơn cước, không biết thuộc bộ lạc nào, nhưng người Việt gọi bừa
là Mọi.
Khi bọn người di dân kia, từ Bắc xuống Nam, chiếm hết lãnh thổ
của người Chàm, ăn xém đến đất của người "Mọi". Việt đốt rừng làm ruộng.
Mọi tìm cách chống lại sự xâm lăng, nhưng cuối cùng yếu sức phải rút dần vào rừng
sâu, lên núi, chết hết, chỉ còn lại độc một mình "mụ Mọi già, tóc tai
bồm xồm, trông rất ghê sợ" ở lại giữ công tác du kích tuyệt vọng.
"Rừng già bị gặm ngày một, chậm mà chắc chắn, mãi cho đến
ngày kia thì vòng vây đã siết chặt quanh hòn núi như ở nhà quê người ta cạo trọc
đầu con trẻ, chừa lại chiếc bánh bèo" (trang 56).
"Một ngày kia", bọn chiếm đất thấy sáu con suối
phát xuất từ đỉnh núi, chẩy xuống miền đất khẩn hoang dần dần cạn bớt nước, rồi
cạn hẳn. Thủ phạm đích thực là mụ Mọi già. Không bắt được mụ, bọn di dân bèn
vây núi, đốt rừng, tìm cách thủ tiêu mụ:
"Lửa leo núi được vài giờ thì ngưới ta nghe tiếng hú dài
ghê rợn trên đỉnh núi nổi lên.
Tiếng hú như kêu gọi một cách tuyệt vọng đồng bào sơn dã của
mụ đến giải thoát mụ ta (..) tiếng kêu của mụ mất hút trong không khí, không có
lấy một tiếng vang nào vẳng lại.
Tiếng hú vang rền từng hồi, hấp hối, rồi lại nấc lên và rốt
cuộc chết lần, tắt hẳn, trong ngọn lửa cao ngất trời đã bò lên tới đỉnh" (trang
57).
Về mặt kỹ thuật dựng truyện, Bà Mọi hú chưa phải là
một trong những truyện hoàn hảo nhất của Bình Nguyên Lộc, nhưng có những đoạn
hùng tráng, khốc liệt, bi thảm, xứng tầm vóc núi non của lịch sử dân Chàm, xứng
tấm gương oanh liệt của một vị anh hùng: một tác phẩm đáng gờm, đáng sợ, đáng
kính nể.
Bà Mọi hú là một nhân vật phản anh hùng trong tất
cả các chiều kích. Người anh hùng ở đây không phải là Lê Lợi, Quang Trung, cũng
không phải Bà Trưng, bà Triệu của Giao Chỉ. Người anh hùng ở đây là một "mụ
mọi già", cà răng, căng tai, cổ đeo răng cọp, chống lại bọn Giao Chỉ cướp
đất. Mụ giữ đất mụ, không bằng gươm, bằng giáo; mụ giữ đất mụ bằng răng, bằng
óc mụ. Mụ chiến đấu tay không với các đội quân đầy khí giới gươm đao, mụ đơn
thương độc mã, một mình mụ chống lại cả một tập đoàn dân tộc hung hãn.
Khi người ta khám phá ra rằng mụ đã đút nút nguồn của sáu ngọn
suối bằng thịt cây gồ, một thứ gỗ khi thấm nước, nó cứ nở mãi, nở mãi...
Nước mội trong lòng đất thoát ra chứa nhiều chất đá vôi. Chất
này khô cứng lại và hoá thạch cái nút làm bằng thịt cây gồ của mụ, biến nó
thành cái nút bê tông đá, không ai lay chuyển được. Lòng yêu rừng, giữ đất, giữ
nước của mụ mọi già đã hoá đá, nó không thể chết, nó không bị thiêu như thân
xác mụ.
Mụ chuyển bại thành thắng. Chuyển chết thành sống. Những kẻ
cướp đất kia phải lập miếu thờ mụ. Hoàn trả tên núi cho mụ. Và gọi mụ bằng Bà,
như Bà Trưng, Bà Triệu. Trong lịch sử giữ đất của loài người, Bà Mọi đã làm một
việc phi phàm: việc chặn nước, ngăn nguồn. Bà đã chặn giặc sau khi chết. Núi Bà
Mọi chỉ là một cái tên, không được sách địa dư nào của người Việt nói đến: bởi
lịch sử do kẻ thắng viết ra.
Nhưng chỉ có nhà văn, nhà văn đích thực, mới có thể bắt dân tộc
mình phải có một tòa án lương tâm, phải nhìn nhận tội lỗi, để có thể trưởng
thành trong niềm tự vấn đớn đau.
Lịch sử di dân và ý nghĩa hai chữ đất nước
Lịch sử "giữ đất" của Bà Mọi, đi đôi với lịch sử
"làm đất" của ông nội thằng Cộc.
Khi thằng Cộc xuất hiện trong Rừng mắm nó đã tạo ra
một thế giới: Thế giới Robinson trong xóm Ô Heo khỉ ho cò gáy với khát vọng
"thèm người".
"Ông nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch.
Gió thổi vô rừng và lửa, như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào vào khối thịt
xanh um của biển rừng tràm này. Thành ra ruộng nhà của nó mang một hình tròn kỳ
dị, không tròn đều đặn vì không ai chỉ huy được sự cháy rất là rắn mặt của ngọn
lửa.
Cộc nhìn ruộng mình một hơi rồi cười khan lên. Đám rừng bị
khoét một lỗ để làm ruộng, trông như đầu tóc trẻ con được mẹ cạo, nhưng mới cạo
có một mảng thì có chuyện gấp, bỏ dở công việc; đứa trẻ bị chúng bạn chế nhạo
là đầu chó táp.
Lúa ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống để lòi trăm
ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng
không đủ sức đánh những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng Cộc
đành cấy lúa giữa những gốc ấy, mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía
nó nói mười năm nữa tràm chết cũng vẫn còn đưa cẳng lên như vầy.
Sau lưng Cộc là những rặng tràm bị cháy sém dưới trận lửa
khai hoang, không chết ngay, nhưng "chết nhát", cứ mỗi năm chết lần
mòn thêm vài mươi cây. Mấy hàng tràm đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà
cháy, căm hận nhìn chiếc chòi lá xa tít mù dưới mé rạch đang chứa chấp kẻ thù
đã lấn đất của chúng, đã sát hại chúng." (Rừng mắm, Ký thác, trang
13-14).
Không gian và thời gian trong Rừng mắm được tổ chức
một cách khác thưòng:
Thằng Cộc đứng một mình trong rừng, nhưng những giây thần
kinh trong người nó không khác gì những chân bạch tuộc, cứ chạy sâu, chạy xa,
bám đất, bám người. Nó như một thân cây đang lớn với tốc độ khổng lồ.
Mốc thời gian là hiện tại, tức là lúc thằng Cộc đứng nhìn ruộng
mình. Nhưng tất cả xoay biến rất nhanh: nó "nhìn một hơi", rồi
nó "cười khan lên". Nhìn, khác với nhìn một hơi; cười khác
với cười khan lên. Nhìn là chỉ nhìn mà không động, nhìn một hơi là
nhìn mà động. Cười là chỉ cười mà không động, cười khan lên là cười mà động.
Trong khoảnh khắc không đầy một giây giữa lúc nó nhìn một hơi, đến lúc
nó cười khan lên, là bốc lên cảnh cháy rừng ngày ông nội nó mới đến khẩn đất:
trong một giây ấy, thằng Cộc đã quay lại quá khứ, nhìn thấy ngọn lửa "hung
hăng" "rắn mặt", ngọn lửa có thân xác và ác tính của một
con khủng long biến rừng tràm thành một "biển thịt xanh" phơi
thây trước miệng lửa.
Hình ảnh con khủng long lửa đớp rừng, mới bùng lên
trong óc thằng Cộc một giây, chưa kịp tắt, nó lại tức khắc trở về hiện tại: trước
mặt nó là một đám rừng đã bị ông nó và tía nó khoét một lỗ làm ruộng, trông y hệt
như cái đầu chó tápcủa đứa trẻ. Thằng Cộc trầm ngâm, không biết là cái biển
rừng, bị ruộng ăn vụng một đám, giống cái đầu trẻ bị chó táp, hay là chính cái
mẩu ruộng trọc lóc, tự nhiên có một chỏm tóc tràm xanh dựng đứng, như tóc thằng
Bờm kia, là cái đầu chó táp.
Sự biến ảo hình ảnh, không gian và thời gian cùng một
lúc trong óc thằng Cộc, khiến cho cuốn phim ký ức của nó cực kỳ sôi động, vừa
hiện thực vừa hoang đường. Cả cái mẩu rừng tràm bị ông nội và tía nó đốt cháy mất
xác kia, chết đã năm năm, mà "cẳng vẫn còn chổng lên trời". Chứng
tỏ sức kháng cự mãnh liệt của thứ tràm cứng đầu cứng cổ. Trong trận chiến khắc
nghiệt với bọn di dân, bọn tràm có đứa trúng lửa chết ngay, có đứa chỉ bị cháy
xém ngắc ngoải, đó là bọn "chết nhát", những thây tràm khổng lồ hường
về phiá mái lều của gia đình thằng Cộc ở dưới kia -những kẽ sát tràm và lấn đất
của chúng- với lòng căm hận khôn nguôi.
Chỉ một đoạn văn ngắn, Bình Nguyên Lộc đã lược thâu toàn bộ
cuộc chiến với thiên nhiên để sống còn của con người từ vạn kỷ: chiếm hữu thiên
nhiên, phá hoại môi trường. Sự đầu hàng tạm thời của rừng tràm, chỉ là khoảng
thời gian hưu chiến mà thiên nhiên dành cho con người trong một hạn kỳ nhất định,
trước khi ra tay phản công, trong một đại hạn khác.
Tổ chức thời gian, không gian và hình ảnh trong Rừng
mắm là một tổ chức sóng thần: tới tấp, vũ bão, tơi bời, không để cho mắt,
tai, trí kịp nghe, kịp nhìn, kịp phản ứng. Tất cả xẩy ra như một cuộc đổ bộ bất
thần của làn sóng chữ vào những vùng nhậy cảm nhất của người đọc.
Đổ bộ xuống vùng đất Ô Heo, cả ba đời nhà thằng Cộc phải sống
cô độc, giáp trận với thiên nhiên, chiến thắng rừng tràm, để lập đất, lấn ra biển:
cuộc chiến đơn độc của gã ngư ông và biển cả. Cuộc đời thằng Cộc, từ ông nội,
tía má nó, đến nó, là cuộc di dân, Nam tiến của dân tộc ta.
Từ lúc sinh ra, thằng Cộc đã gắn bó với nước. "Quanh
nhà nó có hàng trăm nhà khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh
năm", và "trong thế giới bùn lầy mà thằng Cộc đang sống, ai
cũng là ông câu cả, từ ông nội nó cho đến những con sinh vật nhỏ mọn quy tụ
quanh các ngọn nước".
Nhưng nó chưa biết từ nước đến đất còn phải
đi bao nhiêu chặng đường, nếu không có ông nội nó. Nó đang sống vui thú ở làng,
thì bỗng không hiểu sao, "tía má nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó,
tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc thuyền cui,
một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con, rồi họ đi lang thang từ
rạch hoang vắng này, đến kinh hiu quạnh nọ và rốt cuộc dừng bước nơi cái xó
không người này mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô Heo" (Rừng mắm, Ký
thác, trang 12).
Đổ bộ xuống vùng đất Ô Heo, cả ba đời nhà thằng Cộc đã phải
giáp trận với thiên nhiên, chiến thắng rừng tràm, làm rađất.
Thằng Cộc chưa đủ kinh nghiệm để hiểu cuộc chiến trường kỳ
này. Nó hỏi ông nội:
"- Sao mình lại tới đây nội?
- Đã nói cho mầy biết rồi. Trên xứ, mình không có ruộng, làm
công khổ cả đời.
- Ở đây mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời.
Ông nội thằng Cộc làm thinh" (Rừng mắm, Ký thác,
trang 17)
Đối cực với ông nội, thằng Cộc có những lo lắng khác. Nó thèm
nghe tiếng chó sủa, tiếng gà gáy, nó thèm trái xoài ngọt, trái khế chua mà từ
năm năm nay nó không được nếm. Nhưng tất cả những thứ đó cũng chẳng nhằm nhò
gì, nó còn một thứ thèm khác: Thằng Cộc "thèm người". Không bao giờ
được đã cơn thèm, bởi vậy nó cứ lén ông nội và tiá má nó để trốn lên gò Ô Heo một
mình, vì ở đây nó gặp "người ta".
"Tui muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn là ở đó có làng
xóm, có người ta" (trang 18)
Có "người ta". Mục đích của thằng Cộc là "người
ta". Nó muốn bỏ xóm Ô Heo vì nó thèm người ta. Nó muốn về làng. Trở lực vượt
biên của thằng Cộc là ông nội.
Ông già biết cháu mình mới chỉ hiểu có một nửa: nó thèm người
nhưng nó chưa biết thèm đất. Phải làm sao cho nó biết cả nước, lẫn đất.
Biết con đường từ nước đến đất bao xa, nó mới có thể hiểu
được hai chữ đất nước. Và ông già đã dẫn cháu ra cửa biển, chỉ cho nó thấy cái
rễ của đất, chỉ cho nó việc làm đất từ nước như thế nào.
Bình Nguyên Lộc không những đã có cái nhìn nguyên thủy
về đất nước, mà ông còn thò tay vào việc biến đất lỏng (tức phù sa) thành "đất
thịt", ông chính là đời mắm, nằm rạp xuống để cho đời tràm chồi
lên: thế hệ trước đắp đường cho thế hệ sau bằng chính thịt da của mình.
Rừng mắm như một ký thác của Bình Nguyên Lộc về
chuyện mở nước, giữ đất, giữ bờ.
Văn Bình Nguyên Lộc là văn kể chuyện, ông không viết văn như
một người làm văn, mà ông kể chuyện như một bà già tràu có kho tàng ngôn ngữ và
văn hóa bất tận về dân tộc. Ông có kinh nghiệm về đất như chưa ai từng
có: "Rồi ngày kia mầy sẽ nghe rằng đất có hồn và hồn mầy rất gần gũi
với hồn đất". "Vợ chồng không thân thiết với nhau hơn là mình với đất.
Vợ chồng chỉ ăn ở với nhau ba bốn mươi năm là cùng, đất thì nó thấy mình sanh
ra, lớn lên, già yếu, rồi nó lại ôm mình khi mình chết" (Phân nửa con
người, Cuống rún chưa lìa, trang 97).
Ông là người đầu tiên viết về tình bạn và tình yêu giữa nước và đất: "Nước
với đất là bạn nhau. Đất không phải là chướng ngại vật của nước. Nước dịu dàng
len lỏi theo đất. Nước mang phù sa mà bồi đất. Đất ấp ủ nước trong lòng nó như
âu yếm tình nhân Rồi đời đời, kiếp kiếp, nước và đất kết hợp thành hoa màu để
nuôi dưỡng những đứa con biết thương yêu nó." (Hai buổi giậm cù, Nhốt
gió, trang 89)
Đất và nước là hai thực thể, vì tình cờ hay vì
tình yêu, kết chung thành khái niệm trừu tượng: đất nước? Hay đất nước là
một thực thể có linh hồn và thể xác, tồn tại "nhờ những kẻ nhớ
thương, bám víu vào nó" (Bám víu, Cuống rún chưa lià, trang 97).
Trong cả hai trường hợp, lập luận của Bình Nguyên Lộc vẫn là lập luận nguyên thủy
về đất nước.
Ngoài ông ra, chưa có nhà văn Việt Nam nào viết về đất
nước bát ngát và sâu xa đến thế. Và cũng chưa chắc đã có một thứ tiếng nước
nào diễn tả được đất nước với cả xác thịt và tâm hồn như hai từ đất
nước trong tiếng Việt.
Tháng 2/2006
Thụy Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét