Những đứa con rải rác trên đường
Văn học là hư cấu. Song không phải cái hư cấu đó đưa ta đến
những thiên đường đẹp đẽ mà trái lại, chính cái được hư cấu ấy đưa ta trở lại với
hiện thực. Cùng với hư cấu và những chất liệu quen thuộc là chất nghịch dị, bằng
sự sáng tạo không ranh giới của mình, Hồ Anh Thái đã làm được điều đó trong hầu
hết những sáng tác: Dấu về gió xóa, Trong sương hồng hiện ra, Đức
Phật, nàng Savitri và tôi... và tác phẩm mới nhất: Những đứa con rải rác
trên đường. Có thể nói Những đứa con rải rác trên đường của ông
đã xóa nhòa những ranh giới về không gian, thời gian, ranh giới thể loại, cùng
những lằn ranh khác để từ đó hiện thực đa chiều được soi chiếu.
Trước hết, về không gian. Có thể phân định ranh giới giữa xứ người, xứ
mình trong phần một: Thư đi không thư lại và câu chuyện hai cha con
ông Kễnh, giữa cuộc đời cha và cuộc đời con. Cuộc đời con với hành trình
du học và những hiện thực liên quan đến nó của “người xứ mình” khi ở xứ
người. Bên cạnh đó là câu chuyện về cuộc đời của những người di cư, vượt
biên,… Và song song đó là cuộc đời cha với hành trình dọc miền đất nước của ông
Kễnh. Thời chiến, thời hậu chiến, non cao, biển rộng, đường dài hay lòng người
đều được tác giả khái quát một cách đầy đủ…cùng với những chiến tích và tặng phẩm
trong cuộc đời ông ta. Những bức tranh về quê hương, con người Việt cũng đã được
tác giả tô vẽ bằng truyền thống, anh hùng, cả những lầm than, nhếch nhác,… với đầy đủ những sắc thái. Nhưng hiện thực được nói đến thì lại xóa
nhòa cái ranh giới đã từng có đó. Rằng nơi nào cũng có những kiếp người lầm
than, cũng có những số phận trớ trêu cay đắng, cũng có những góc khuất bị vùi lấp
sau những lớp vỏ tưởng như hào nhoáng. Nơi nào đó con người cũng phải lo lắng
toan tính, cũng quanh quẩn những cơm, áo, gạo, tiền… Kẻ có tiền thì lại cố gắng
bằng cách này hay cách khác để có được những thứ xa hoa, phù phiếm, mua bằng cấp,
mua quan mua chức, mua chân dài,… Kẻ có được tất cả rồi thì lại nuối tiếc quá
khứ,…
Về thời gian, có thể nói đến những hiện thực thời chiến với chuyện tình cảm, chuyện lương thực thực phẩm, chuyện những nhu cầu về
tâm sinh lý của quân lính,… Bằng câu chuyện cuộc đời chinh chiến của ông
Kễnh, tác giả đã gắn kết số phận con người từ quá khứ đến hiện tại, từ đó đề cập
đến vấn đề chính là nhân cách con người. Có những thứ thuộc về thời chiến
nhưng không mấy ai dám nhắc đến, đó là những nỗi đau, những nỗi mất mát, những
hệ lụy thuộc về chiến tranh. Nếu như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh nói đến cái hệ lụy chiến tranh về thần kinh con người, với những ám ảnh
vô thức, những nỗi đau đớn không thể chữa trị nổi bằng y học hiện đại, mà chỉ bằng
cách ngược về quá khứ. Và nếu Hoang tâm của Nguyễn Đình Tú nói về
cái bản năng chết và bản năng sống của con người khi chiến
tranh xuất hiện, tồn tại và kết thúc thì hai quá trình ấy tiếp tục đấu tranh
trong con người thời hiện tại. Còn với Những đứa con rải rác trên đường, Hồ
Anh Thái lại khai thác ở một khía cạnh khác, đó là hành trình chính chiến yêu
đương của anh lính lái trong thời chiến. Quá trình này được thể hiện rõ trong
phần hành trình xuyên Việt của ông Kễnh. Đó không phải nỗi đau, nỗi mất mát, đó
cũng không hẳn đơn thuần chỉ là tình yêu, mà chính nó đã cho chúng ta thấy được
cái phần đã bị khuất lấp đằng sau những ánh hào quang. Đằng sau cuộc đời đầy
xáo trộn của nhân vật chính - ông Kễnh, là sự xáo trộn, vô trật tự của cả
một đất nước. Đằng sau hành trình tìm lại những đứa con rải rác của
ông Kễnh là hành trình tìm lại những mất mát, những trật tự, những giá trị thật
“đã từng có” của cả một dân tộc.
Và những lằn ranh khác… Sự lựa chọn đặt ra cho con
người ngày nay là thế này: tiếp cận mối lo sợ hay xa lánh nó, vĩnh viễn hoá nó
hay khắc phục nó, chỉ coi nó là một xúc cảm như mọi xúc cảm khác, trong hàng loạt
xúc cảm vô cùng đa dạng tạo nên đời sống bên trong, hay thừa nhận cho nó là cái
cơ bản quyết định của thân phận con người… Ranh giới bi - hài kịch trong
cốt truyện. Điều đặc biệt tạo nên hiện thực trong Những đứa con rải rác
trên đường cũng như những tác phẩm khác của Hồ Anh Thái không gì khác là
chất nghịch dị. Chính trong những tình huống đậm chất nghịch dị ấy hẳn nhiên
người đọc đã thấy nó vừa có hài, vừa có bi trong tình huống truyện. Ẩn sau cái
hài ấy chính là bi kịch cá nhân hòa với bi kịch xã hội. Cái hài ấy hòa quyện vào
cái bi làm cho người đọc như thấm thía hơn cõi đời. Đó là tiếng cười sâu cay. Từ
bi kịch của một cá nhân, tác giả hướng người đọc đến bi kịch của một thế hệ, một
thời đại. Từ một tình huống trong một số phận con người hướng đến một hiện tượng
của xã hội. Giống như chuyện “hôn nhân cũng phải được quy hoạch”, thì cớ gì những
vấn đề thuộc về hình thái ý thức chính trị, xã hội lại không thể nằm trong diện
“quy hoạch”, mà lại là quy hoạch một cách công khai như chúng ta đã thấy.
Nói cho cùng giữa các lĩnh vực hình thái ý thức triết học, chính trị với đạo đức,
và giữa tất cả chúng với văn học nghệ thuật bao giờ cũng có sự gắn bó và chuyển
hóa lẫn nhau. Có thể nói, bên cạnh cái nhìn sâu sắc về quá khứ là cái nhìn vô
cùng sắc sảo về hiện tại. Tác phẩm đã đưa người đọc đứng trên bậc cao nhất của
những bậc thang để có cái nhìn khái quát nhất đối với hiện thực.
Về ngôn từ nghệ thuật. Nếu như ngôn ngữ trong Dấu về gió
xóa đậm tính triết lý, trong Người đàn bà trên đảo đậm chất lịch
sử, trong Đức phật, nàng Savitri và tôi đậm tính Phật học,… thì ở
trong Những đứa con rải rác trên đường lại trần ngập ngôn ngữ đời thường (bao gồm cả ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ vùng miền, ngôn ngữ theo từng thời kỳ
lịch sử của dân tộc,…) như trong phần lớn những truyện ngắn của ông. Phải chăng
Hồ Anh Thái đang thực hiện một cuộc đối thoại với độc giả khi sử dụng ngôn ngữ
đời thường để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật? Kiểu như: “Âm nhạc là một nồi lẩu
thập cẩm. Nhạc sĩ là…, ca sĩ là…”. Qua đó, có thể khẳng định rằng cái hiện
thực mà người đọc đã hình dung ra ấy không thể nào viết nên bởi những hình thức
trực giác cá nhân. Mà đó chính là khả năng đào sâu vào bản chất hiện thực dù hiện
thực có khi chỉ là một mẩu vụn: “luận văn, luận án là những công trình cắt dán
đầy nghệ thuật... bằng tiến sĩ có giá ba mươi lăm triệu. “Lũ
chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Cái gối con đè nát cái đầu con” …
Hiện thực đời sống trong truyện còn đồng thời vạch rõ được mối
liên hệ giữa những kinh nghiệm cá nhân với cuộc sống xã hội đó. Điều này làm
nên ý nghĩa đích thực cho tác phẩm, hướng người đọc đến những chuẩn giá trị về
văn hóa - nghệ thuật, giáo dục, lịch sử… cùng với đó là những vấn đề thuộc
về hiện tượng xã hội. Và sự lựa chọn duy nhất là “phải viết về con người”. Con
người với “tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày trong đời sống thực”
mà đã nhiều thập kỷ qua “tạm thời giấu mình trên trang sách”. Nhưng cuối cùng,
không một ranh giới nào hiển hiện, chỉ có hiện thực là rõ ràng nét một cách sắc
nét. Có thể nói nội hàm và ngoại diên câu chuyện trong Những đứa con rải
rác trên đường đã tạo nên một bộ phim cuốn hút… sẽ là một tiền đề không thể
bỏ qua để chuyển thể thành kịch bản điện ảnh.
Tài liệu tham khảo:
1. M.B. Khravchenko
(1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác
phẩm mới, Hà Nội.
2. Lotman, IU. (2004), Cấu trúc
văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét