Gia đình bà Ðiền bắt đầu suy sụp từ khi ông qua đời. Nhưng
tình trạng thê thảm thấy rõ nhất, nó như chiếc vòng lăn xuống giốc, phải kể từ
ngày 30 tháng 4 năm 75. Vào những năm 70, gia đình ông không dư giả nhưng không
phải nợ nần chất đống như những ngày về sau này. Ông làm nghề mộc. Ở vùng căn cứ
quân đội Mỹ, dân chúng bám vào những căn cứ ấy như miếng bánh ngọt mầu mỡ: Buôn
lậu, làm công. Dân chúng khá giả, đua nhau sắm sửa nhà cửa tươm tất. Nhà nào mà
không có một, hai chiếc tủ đứng, tủ chè đựng đồ kiểu. Nghề thợ mộc của ông đắt
khách. Dù ông chỉ là người làm thuê cho một chủ tiệm bán bàn ghế nhưng cũng đủ
cung ứng mọi chi tiêu cho gia đình.
Thế rồi, cái bánh ngọt mầu mỡ ấy, bỗng một ngày có người nhắc
đi. Chỉ sau vài tháng khi quân đội Mĩ rút lui, cỏ mọc xanh lối vào các căn cứ
mà đã một thuở rộn rã bóng người. Ðồng tiền khó kiếm. Cái nghề mộc của ông Ðiền
bắt đầu lung lay. Ông chủ tiệm đã có tiếng thở dài ế ẩm. Gia đình ông Ðiền thấy
bóng dáng mây đen đe dọa ở xa xa. Ba năm sau, gia đình ông bắt đầu là con nợ của
nhiều người.
Âu lo về chuyện nhà, thêm vào là bệnh tật, nhưng có lẽ ông
không đến nỗi chết sớm nếu không nghe cái hung tin về đứa con trai của ông tử
thương ở cao nguyên. Ông đã dốc tất cả số tiền dành dụm để chạy chọt, lo cho thằng
con khỏi phải đi lính. Nhưng tiền mất tật mang. Ông đã mất hai cây vàng để mua
lầm miếng giấy hoãn dịch giả. Hai tháng sau khi mua mảnh giấy giả ấy, thằng con
ông bị bắt. Thương nhớ con, tiếc của bị mất, vì nỗi tức, ông đã nghẹn thở suýt
chết mấy lần hồi ông mới bị bệnh. Khi nghe tin con tử thương thì ông xỉu thường
bữa. Từ ngày đó, sức khỏe ông trút đi trông thấy.
Vào một chiều u uẩn cuối tháng tám, ông vĩnh biệt cuộc đời khổ
đau để lại cho bà Ðiền trông coi sáu đứa con. Tháng tám với mùa nắng hanh nhưng
cũng có những cơn giông bất chợt. Cái nắng gian khổ của trời gởi đất. Cái giông
tố bất chợt của mưa bão gởi người. Cũng tháng tám, mùa có những giải mây trắng
tan loãng bay về nẻo xa như nhắc nhở của chia li cách biệt. Ngày ông chết là
cánh cửa đóng lại mảnh vườn gia đình của bà Ðiền và đưa Lan, người con gái lớn
của bà, mười chín tuổi vào thế giới của gian khổ, nhọc nhằn.
Lan phải bỏ học phụ mẹ tần tảo nuôi em. Bà Ðiền không còn gì
để cậy trông, nhìn sáu đứa con như một đường hầm dầy quánh bóng tối chảy vào
tương lai. Trên vai trĩu xuống tình mẫu tử nặng nề, xót xa. Trong nhà đã cạn tiền
bạc. Thương chồng, thương con, bà như cây sậy trơ vơ trước giông tố sắp ập xuống.
Bà không thể giấu được khổ đau. Những tiếng thở dài muộn phiền, não lòng của mẹ
như những mũi kim đâm vào tim Lan đau buốt.
Lan bỏ thi Tú Tài I. Ngày quyết định cất cặp sách vào cuộc đời
là ngày Lan đã lặng lẽ khóc. Giã từ sân trường, xa rời thầy cô, bạn bè, bỏ lại
sau lưng những mộng mơ thơm mùi hoa học trò. Những cánh phượng, những trang lưu
bút vấn vương kỷ niệm trôi về vùng biệt tăm. Lan như mất đi một phần đời. Nhìn
đám bạn bè vô tư với chữ nghĩa, với những tiếng cười giòn vang, Lan thấy mình
già đi. Những sáng trông tà áo bay, những vành nón nghiêng bên cặp sách, Lan thấy
mình thiệt thòi, xót xa. Nỗi tiếc thương của tuổi học trò vừa mất, thêm vào những
vất vả của mẹ làm tuổi thời gian mới mười chín của Lan đã phải hằn lên bằng lo
âu của tuổi đời, chập chùng bằng thao thức của tuổi sống. Ánh mắt Lan đọng trên
bờ mi những đăm chiêu. Trong đôi mắt ấy, bay về những chân trời thoang thoáng
mây tím lặng lẽ, đơn côi.
Vì ế ẩm, bà Ðiền bỏ nghề tráng bánh. Lan theo mẹ về các xóm
quê mua gà đem lên chợ bán. Tuy vất vả nhưng nếu gặp may thì bà Ðiền cũng có thể
cầm cự được với cuộc sống khó khăn. Nhưng không phải lúc nào cũng êm xuôi, có
những ngày Lan rối bời ruột gan nhìn bầy gà ốm. Gặp những chuyến gà toi là lỗ vốn
nặng. Mỗi con gà là một dòng máu của gia đình. Nhìn nó đi, nó nhẩy như chính cuộc
đời của Lan. Thấy bóng gà ủ rũ mà Lan lo âu từng giây, từng phút. Nhưng lo âu
cũng chẳng có phép mầu cứu vãn được tình thế. Chẳng bao lâu bà Ðiền kiệt vốn
vào một mùa gà toi. Gà chết, dòng máu cạn, chết đi cả gia đình. Trống không,
hai tay xơ xác. Nhà hết gạo ăn. Lan giấu mẹ những chiều ngồi một mình rưng rưng
lệ. Làm sao bây giờ? Không câu trả lời. Lan chỉ biết nhìn lên trời tìm yên ủi ở
một niềm tin. Nhưng niềm tin ở xa xôi quá.
Trong những ngày kiệt quệ ấy, thằng Ngân, đứa em kế của Lan
được ông Sáu Vượng mượn làm thuê. Tờ mờ sáng, nó sửa soạn sang nhà ông Sáu theo
xe lam của ông về miệt Vũng Tàu buôn cá khô. Ông buôn cá về phơi, xay nhỏ rồi
bán cho mấy công ti làm đồ ăn cho heo. Từ ngày thằng Ngân góp tay vào giúp gia
đình, bà Ðiền cũng bớt được đôi chút lo âu.
Thời gian bỗng dưng nổi sóng gió. Biến cố tháng Tư năm bẩy
lăm đảo ngược tất cả mọi sinh hoạt của miền Nam. Sau biến cố, ông Sáu Vượng bị
tịch thu chiếc xe lam. Thằng Ngân mất việc làm. Cuộc sống đảo lộn, rối bời
trong cơn lốc xoáy. Nhiễu nhương ấy đẩy con người vào hải đảo cô lập, thủ thân.
Bà con hàng xóm bỗng một ngày trở nên xa lạ. Niềm tin phai màu. Nhìn nhau bằng
mặt, xa nhau lòng thành. Tình thân thành nghi ngờ. Không ai còn dám cho nhau mượn
tiền bạc, lo sợ đủ điều. Chính vì vậy mà Lan đã cám ơn Chúa vô cùng, nàng coi
như một ơn đặc biệt Chúa ban cho gia đình nàng. Ðó là chuyện một gia đình dám
cho bà Ðiền mượn tiền mua chiếc máy may. Thấy hoàn cảnh đáng thương nên khi chủ
tiệm may Tân Thái muốn bán bớt máy để tránh cảnh dòm ngó của công an phường,
gia đình này đã sẵn sàng giúp vốn cho Lan mua chiếc máy để lấy kế sinh nhai.
Bà Ðiền biết mình sắp ngã nhưng không sao chống lại được. Bà
biết rõ là hai chân bà đang ríu lại. Cái cảm giác đầu tiên bà thấy là người nhẹ
đi, rồi những vật chung quanh bắt đầu di chuyển, ban đầu chầm chậm, rồi nhanh
hơn, nhanh hơn. Bà còn biết rõ, mới đầu chúng chạy vòng vòng, rồi một lúc sau,
hỗn độn, tứ tung. Trên đầu bà, mái nhà như chạy ngược về phía sau. Ðến giai đoạn
đó là bà thấy muốn ói mửa, xây xẩm mặt mày muốn té ngã. Bà cố gượng hết sức
nhưng không làm thế nào chống lại được, như người thủ môn chạy ra khỏi khung gỗ,
thấy đối thủ sút trái banh, nhìn đường bay vào khung gỗ mà đành chịu bó tay,
không sao níu kéo được. Nghe tiếng đổ nước ngoài sân, bà biết Lan đã cắt rau
cho heo về. Bà lại càng lấy hết sức mình bước về phía cái phản gỗ để giấu không
cho Lan biết bà đang bị chóng mặt. Bà nhủ thầm là bà không thể để cho đứa con
gái biết bà yếu sức đến như thế, không thể để cho Lan thấy bà ngã ở đây được. Với
ý tưởng ấy, bà cố gắng gượng thêm, nhưng bà chóng mặt rồi, không còn nhìn thấy
gì nữa. Tất cả quay tít. Hai chân ríu lại. Trời đất sụp xuống. Bà có cảm giác
như đang đứng trên cây thang, bỗng dưng có người rút mất khỏi chân. Lảo đảo, mặt
tối sầm, bà quỵ ngã xuống nền nhà.
Nghe tiếng người ngã, Lan vội bỏ gánh rau heo đang rửa nửa chừng
chạy vào. Bà Ðiền nằm sõng soài, miệng hẵn còn bọt trắng. Lan kêu thét lên chạy
đến ôm mẹ. Bà Ðiền chóng mặt nhưng tâm trí vẫn tỉnh, biết Lan ở bên cạnh, bà
ráng sức nói cho con gái yên tâm:
- Mẹ không sao đâu, đưa mẹ lên phản.
Mắt Lan đầm đìa lệ vì đây không phải là lần đầu bà Ðiền ngã.
Và Lan biết lí do tại sao mà mẹ chóng mặt. Ðiều ấy lại càng làm Lan đau khổ vô
cùng:
- Mẹ! Mẹ lại bán máu nữa rồi!
Nàng nức nở hỏi bà Ðiền:
- Mẹ, Mẹ có sao không, người ta rút bao nhiêu máu của mẹ?
Bà Ðiền nói lãng :
- Hôm nay trời đất đổi gió làm mẹ hơi nhức đầu.
Nhưng lời nói ấy chẳng làm Lan yên tâm mà chỉ làm nàng đau khổ
thêm. Lan bỗng nhiên tức mình với mẹ. Lan dìu mẹ lên phản mà chỉ muốn xô cho mẹ
ngã lần nữa, quá tức vì bà không chịu nghe lời mình. Lan biết bà đang dối Lan.
Nàng biết mẹ mình không phải trúng gió mà vì thiếu máu. Tức mẹ, nhưng càng tức
lại càng thương làm nước mắt Lan chảy thêm. Nàng khóc thút thít, bật thành tiếng
nấc. Khi bà Ðiền nằm lên phản rồi, Lan vạch tay áo của mẹ lên nhìn. Ðúng như
nàng đã nghĩ. Tay bà Ðiền vẫn còn vết rỉ máu. Một chấm đỏ, hơi sưng, lớn hơn đầu
tăm. Vết thương của một mũi kim chích.
Ðây là lần thứ tư bà đã bán máu trong vòng khoảng hai tháng
nay. Lần thứ nhất, nhờ số tiền bán máu bà đã trang trả được một phần nợ, dù số
nợ chẳng lớn nhưng vì đã quá lâu, người chủ nợ hỏi hoài vì sợ bà quỵt mất. Lần
bán thứ hai thì bà yếu hẳn đi nhưng bà vui vì đã trả được tiền thuốc cho thằng
Ngân bị thương hàn. Lần thứ ba thì người ta phải gọi Lan lên nhà thương dìu bà
về. Lúc đó Lan mới biết mẹ đã bán máu đến lần thứ ba rồi. Trong nhà chẳng còn
gì để bán. Vào lúc cùng quẫn ấy, ông Ngọ mách cho bà biết là ông cũng đã bán
máu tuần trước. Bà Ðiền thấy như chiếc phao đang trôi lại gần trong lúc sóng dập
đang đưa gia đình bà chìm xuống. Nhưng đến lần thứ tư thì bà không còn máu để
bán nữa. Một tháng trời mà bà đã bán hai lần rồi. Ăn uống không đủ, bữa cháo, bữa
ngô, bữa đói thì lấy đâu ra máu mà bán. Lần cuối cùng này bà Ðiền đã xỉu ngay
lúc người ta rút mũi kim chích ra khỏi tay. Họ đã phải cho bà một li nước đường
để uống hầu bù vào số chất lỏng bị thiếu hụt. Nhưng sau cùng họ cũng phải quyết
định trả lại số máu mới rút ra. Bà nhất định không chịu. Nghĩ đến số tiền họ đã
trả trước đang nằm chặt trong túi áo đã cài kỹ bằng chiếc kim băng, bà nhất định
bảo cô y tá là bà còn khỏe, bà chỉ chóng mặt một lúc là khỏi, bà chỉ cần nghỉ một
lúc là có thể đi được. Nhưng cái "một lúc" của bà đã kéo dài hàng giờ.
Cứ khi bà tưởng mình đi được, bà đứng dậy cố bước thì trời đất lại như lún xuống,
hụt hẫng. Bà bước chân trước chân sau, dập dềnh. Sau cùng thì cả hai bên đều kì
kèo, bà muốn bán, người ta muốn trả, nên giải đáp cuối là bơm lại một nửa để bà
có đủ sức bước về.
Dìu mẹ lên giường xong, Lan lặng lẽ ra bờ giếng ngồi nghĩ đến
hoàn cảnh nghèo của gia đình mà khóc một mình. Nàng nghĩ đến chiếc máy may, lại
tức giận với chính mình hơn. Ðối với nàng, cái quyết định sai lầm lớn nhất
trong đời là đã bán chiếc máy may. Từ ngày bán chiếc máy rồi, nàng thấy như một
cánh cửa gỗ nặng, dầy kín đè sập xuống không còn tia hi vọng để soi sáng nữa.
Lan trách mình sao mà ngu quá. Nhưng nghĩ lại thì Lan cũng lại thương mình. Ðêm
trước khi bán máy, nàng đã suy tính hơn thiệt, nàng cũng đã nhìn thấy cánh cửa
gỗ dầy đặc, tàn ác đó sẽ sập xuống. Nàng biết còn chiếc máy, còn có thể kiếm được
tiền, bán đi sẽ mất vĩnh viễn. Nhưng làm sao cứu nổi bà Ðiền trong cơn bệnh
nguy kịch. Mất máy may hay là mất mẹ. Câu hỏi sau cùng ấy đã quyết định số phận
cái máy may. Lan còn nhớ rõ là Lan nói với chính mình rằng đành liều vậy, rồi sẽ
xoay xở vì phải giữ mẹ. Mẹ là tất cả. Nàng ngồi bên bờ giếng nhớ lại vụ bán
máy, thấy mình hành động đúng chứ không ngu dại như vừa tự trách. Nước mắt lăn
dài, im lặng của một kẻ độc hành.
Cả buổi chiều đó Lan không cầm được nước mắt vì thương mẹ
quá. Tối về, trên giường ngủ, Lan úp mặt vào gối khóc thổn thức một mình. Ngoài
trời phủ mưa giăng. Tiếng mưa đập vào miếng giấy cứng che cửa sổ bồm bộp. Ánh
đèn dầu lao chao trên bàn thờ, mở một vùng sáng nhỏ. Chân tượng Chúa gầy trên
cây thập giá bụi mốc. Mưa nặng hạt, mưa lạnh quá, mưa đang rơi vào hồn. Gió đêm
bay tan tác con tim, gió đem mưa về bơ vơ trống trải. Tất cả mọi lối tới tương
lai đều nghẽn đường. Lan chỉ nhìn thấy bóng tối. Bóng dầy đặc như những tảng
khói sền sệt làm nàng không thở được. Bóng tối có sự chết, bóng tối chập chùng
những chán nản, âm u. Tư tưởng muốn chết, sợ hãi sự sống, oán trách Chúa làm
Lan lạnh người. Lan vội xua đuổi như một thứ yêu tinh. Ngoài trời đêm nay đen
thăm thẳm, gió ào ào xé nát những đọn chuối non. Mưa cứ từng cơn đổ về. Lan lặng
lẽ khóc. Trong cơn mệt, nàng đi vào giấc ngủ không bình yên, có những cơn mộng
mị khô héo. Trong cơn mơ ấy nàng thấy thánh lễ Chúa Nhật thật đông. Cha phó làm
lễ rất sốt sáng. Tất cả ca đoàn đứng trên gác hát trong bộ đồng phục áo dài
vàng tha thướt. Riêng nàng ngồi ở một góc tường. Cô độc. Nàng đã mất bạn bè rồi.
Những dẫy ghế dành cho ca đoàn còn đó, bỗng dưng nay sao xa lạ. Nàng không còn
thuộc về khung trời ấy nữa, như kẻ bị đẩy ra khỏi cuộc chơi. Ðứng đó, bơ vơ. Chỉ
có chiếc áo dài, mà từ ngày bán nó, Lan trở thành mồ côi. Càng ngày Lan càng hiểu
rằng chỉ có tâm hồn nhiều khi cũng chưa đủ. Trong cuộc sống, có những lằn mức
mà đức tin chẳng thể xóa mờ. Chưa lúc nào tâm hồn Lan gần gũi ca đoàn như lúc
này. Nhưng chỉ có tâm hồn thôi. Không có chiếc áo đồng phục, Lan chẳng thể thuộc
về thế giới ấy. Trong cái lẻ loi, Lan dần dần mới thấy Chúa là người luôn luôn
đi ngược dòng đời. Môn đệ Chúa chẳng có áo đồng phục. Kẻ theo Ngài chẳng có phù
hiệu. Nghĩ tới đó, Lan ôm mặt:
- Chúa ơi, đấy là thế giới của Chúa. Còn cuộc sống của chúng
con, khác lắm, vì nghèo đói mà cuộc sống mất phẩm giá của con người. Chúng con
chẳng thể nhận ra giá trị niềm tin nếu niềm tin không được may mặc bằng gấm
vóc.
Cha phó, người mà nàng vẫn đến để tâm sự, nay cũng mất luôn rồi.
Nàng không dám gặp mặt cha, sợ cha hỏi tại sao lại bỏ ca đoàn, biết trả lời thế
nào, chẳng lẽ lại nói cho cha biết sự thật, chiếc áo đã bán? Thức dậy nửa đêm,
Lan nhớ lại cơn mơ, nàng thấy tủi thân quá, thương mình quá, Lan lại úp mặt xuống
khóc trong lặng lẽ.
Cha phó đứng nhìn gốc lan đã bị nhổ, ném ra xa. Cây lan mới
trồng đây, mầm non đang đâm chồi, hôm nay nằm héo úa, chết dần như một người nhợt
nhạt ra đi vì bị rút máu khỏi cơ thể. Ngài cho rằng con chó hoang đã đào vì nó
thấy vết đất mới nên nghĩ là có gì chôn ở dưới. Chả có gì là quan trọng, sẽ trồng
gốc lan khác.
Bên kia ruộng khoai, bà quản Thông hé tấm phên che cửa nhìn
qua. Lòng rộn lên sung sướng vì bà bắt gặp chính lúc cha phó đứng nhìn gốc lan
bị nhổ. Kết quả do chính công trình tay bà tạo nên. Thấy mình là kẻ chiến thắng,
có sức mạnh làm cho cha phó phải khổ lụy. Bà hài lòng mãn nguyện. Khi thù oán,
người ta mừng lúc thấy đối phương sa cơ lỡ vận. Bà quản Thông cũng không ra
ngoài tâm trạng ấy, trong đầu bà vẽ ra bao nhiêu hình ảnh về cha phó. Cha phó
càng tức bao nhiêu, bà càng sung sướng bấy nhiêu. Nỗi đau của cha tỉ lệ nghịch
với niềm vui của bà nên để cho niềm vui ấy say sưa thêm, bà tưởng tượng ra nào
là khuôn mặt cha nhăn lại tức tối vì không biết ai nhổ cây lan, nào là cha phó
đang lẩm bẩm chửi thề, tức một mình mà không làm gì được. Thế mới đáng. Bà đứng
đó nhìn cha phó cho đến khi cha đi khỏi mới sập phên cửa lại.
Ngày cha phó về nhận xứ, bà quản Thông là người đầu tiên biếu
cha gói quà mà về sau cha phó cứ nhắc mãi vì nó là kỉ niệm, gói quà thứ nhất
ngày cha về xứ mới. Sau khi khép lại phên cửa, bà quản đứng tần ngần nhớ lại
cái "kỉ niệm" ấy. Bà còn nhớ rõ hộp kem đánh răng Colgate của đứa con
gái ở Mĩ gửi về. Cha phó bảo kem của nhà nước toàn là bọt. Nhưng cái tình nồng
nàn của bà quản dành cho cha phó giảm dần từ ngày cha mượn bà Ðiền vào giúp việc
nhà xứ. Ðến hôm nay thì cảm tình ấy đã trở thành tức giận. Bà nghĩ lại mà tiếc
rẻ lọ kem đánh răng đã biếu ngài. Riêng cha phó, chẳng hay biết gì, ngài vẫn thấy
nụ cười của bà quản thân tình như ngày nào.
Sự có mặt của bà Ðiền trong khu nhà xứ là một cái gai trước mắt
bà quản. Nhất là cái duyên dáng của cô Lan. Bà quản đã nhiều lần so sánh giữa
Lan và con gái của bà, Thu Cúc. Giữa Lan và Cúc thì Lan có cái đẹp kín đáo để
người ta phải tìm kiếm, khám phá. Nét đẹp ở Lan là cái duyên không ào ạt như những
cơn mưa mà là những làn gió nhẹ, những cụm mây trời lãng đãng. Lan hiền. Cúc
cũng đẹp, Cúc có sắc đẹp nổi bật, gợi cảm. Ðôi mắt Cúc có cái nhìn để kẻ nói
chuyện phải nôn nao. Nhưng đời Cúc và Lan khác nhau nhiều. Ðời sống vất vả,
nghèo khổ làm Lan có những suy tư, nhìn đời trầm lặng hơn Cúc. Cúc thì mặn mà,
tươi trẻ, nhí nhảnh. Cúc đẹp nên bà quản rất hãnh diện về cô con gái, hãnh diện
bao nhiêu thì lại đau bấy nhiêu nếu có ai khen người con gái khác. Ðối với bà
quản thì Cúc phải trổi vượt hơn Lan, hơn bất cứ người con gái nào. Và trong
thâm ý của bà quản thì Cúc phải có một "chỗ đứng" đặc biệt trong trái
tim cha phó hơn bất cứ người con gái nào trong ca đoàn.
Bà quản khó chịu khi thấy cha phó nói chuyện với Lan. Mới đầu,
cái khó chịu ấy chỉ là những nỗi tức suông, nhưng dần dà, nó có lí do của nó.
Bà cho rằng có thể Lan là dịp cám dỗ nguy hiểm cho cha phó! Ban đầu bà không để
ý đến Lan, bà chỉ khó chịu vì sự có mặt của bà Ðiền mà thôi. Chính Cúc là người
hay ra vào nhà xứ nhiều hơn cả vì nhà sát ngay bên. Nhưng cơn ganh tị có những
giả thuyết riêng của nó. Và nỗi ghen của bà quản đã được bọc một lớp đường
thánh thiện là: Bảo vệ cho cha phó khỏi sa chước cám dỗ! Mới đầu bà quản cũng
biết đấy chỉ là những ngụy biện. Bà xấu hổ vì cái ghen tức vô cớ của bà với sự
có mặt của bà Ðiền. Nhưng dần dà, bà mất dần cái ý thức tự nhận ấy, nỗi ghen từ
từ trở nên đích thực và chính đáng. Bà thấy tất cả việc làm của bà chỉ là làm
sáng danh Chúa chứ chẳng phải là tức tối với ai. Trên con đường mòn đầy cỏ dại
nghi ngờ, đố kỵ ấy, bà đã đi. Những bước chân ban đầu làm cắn rứt lương tâm,
bàn chân đau. Nhưng trên lối mòn bất chính đó, vết chân dẵm lên nhiều lần, nay
dần dà sắp thành chính lộ.
Khu nhà xứ đã là mảnh đất "bất khả xâm phạm" của bà
quản từ bao lâu nay rồi. Khi cha phó mượn bà Ðiền vào làm thì bà quản thấy như
mình bị hất ra. Như cái tình của cha phó dành cho bà đã bị chia sẻ. Bà thấy như
mình bị giảm mất ảnh hưởng. Cái giai đoạn đầu ấy đưa bà đi xa hơn trong lối
phán quyết. Bà nhìn cha phó với con mắt nghi ngờ đủ điều. Có thể vì thương cô
Lan mà cha phó mượn bà Ðiền chăng? Biết đâu đấy chẳng là cái cớ cho Lan có dịp
vào nhà xứ giúp mẹ để gặp cha nhiều hơn? Những câu hỏi ấy biện minh cho nỗi
ghen của bà, rồi từ đó, bà quản thấy rõ là việc làm của mình cần thiết và chính
trực. Thực sự đôi lúc bà cũng nhận rằng Lan không vào nhà xứ, lí do bà đưa ra
không vững. Nhưng nếu không tìm được lí do thì bà cảm thấy bà tức tối chỉ vì
ghen. Ðiều đó làm bà thấy mình tầm thường, nên từ tiềm thức sâu thẳm đẩy bà đi
tìm mọi thứ nghi ngờ hầu biện minh cho việc làm và tình cảm bất an trong tâm hồn
bà. Vì thế, lý do bà chưa bắt gặp Lan nói chuyện riêng với cha phó lại được tiềm
thức bà đi đến những sáng tạo mạnh bạo hơn: Biết đâu Lan chẳng gặp lén? Nếu vậy
thì bà lại càng phải để ý nhiều hơn! Những ý nghĩ ấy cho bà quản thêm xác tín về
hành động của bà, trấn an lương tâm và đẩy bà bước tới.
Nghe tiếng gõ cửa, cha phó lên tiếng gọi:
- Ai đó. Xin mời vào.
Sau khi thấy cha phó đứng trầm ngâm nhìn cây lan bị nhổ, bà
quản Thông muốn sang tận nơi để nhìn mặt cha phó xem phản ứng của cha thế nào về
cây lan. Bà nở một nụ cười thật tươi trước khi bước vào phòng:
- Bẩm cha! con đây ạ!
Cha phó vui mừng:
- Ấy! bà quản đấy à, tôi đang định qua tìm bà thì bà tới! Tôi
có việc phải nhờ bà đây. Thật đúng bà quản là người được thiên thần Chúa sai
đi!
Bà quản Thông, trong giọng nói rất đon đả, trả lời lại câu
nói dỡn của cha phó:
- Con có là quỷ thì có chứ thiên thần thiên thánh gì!
- Chết! Sao bà quản lại nói thế.
Thấy bà quản vui, rất tự nhiên, cha phó cũng vui lây, ngài
nói dăm ba câu pha trò. Hai người cùng cười. Bà quản Thông hỏi cha:
- Bẩm cha, cha tìm con có việc chi?
Cha phó không trả lời nhưng lại hỏi bà quản:
- Bà quản này, con Cúc nó có nhà không?
- Bẩm cha, cháu ở trên hợp tác xã chiều mới về, cha có điều
chi dạy cháu?
- Tôi có việc khá cần. Sắp đến dịp lễ quan thầy xứ, tôi muốn
nhờ nó may cho tấm khăn trải bàn thờ. Mới có người dâng nhà thờ ít vải đẹp lắm.
Cũng vải lụa từ Mĩ gởi về đấy bà quản ạ.
Nói đến từ Mĩ gởi về, bà quản lại nhớ đến lọ kem đánh răng
Colgate đã "lỡ" biếu cha phó làm bà thêm bực mình. Bà quản Thông đã
biết hoàn cảnh của bà Ðiền từ lâu. Bà biết Lan đã bán máy may nhưng đây là lúc
được dịp để bà nói dăm ba câu xiên xỏ mà bà ít thấy có cơ hội:
- Gớm! Cha dạy cháu quá điều. Con Cúc nhà con nó vụng tay lắm
cha ạ! Sao cha không nhờ cô Lan có hơn không, cô ấy vừa khéo tay lại vừa...đạo
đức!
Việc nhờ vả của cha phó chẳng ăn nhằm gì đến vấn đề đạo đức
nhưng khi chợt nhớ ra hai tiếng "đạo đức" ấy, bà lấy làm thú vị là đã
khen Lan đạo đức một cách mỉa mai trước mặt cha phó. Cha Phó quay sang nhìn bà
quản, vô tư:
- Con Lan nó bán máy may rồi bà quản ạ.
Bà quản Thông làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Gớm! Bán máy may rồi hả cha?
Cha phó vô tình kể lể:
- Ừ, nó bán máy rồi. Tội nghiệp cho con nhỏ, nó bán máy hồi
bà Ðiền bị bệnh nặng. Con Lan đảm đang quá, vất vả lo cho mẹ, lo cho em vậy mà
Hội Con Ðức Mẹ có điều gì nhờ vả là nó làm ngay chẳng nề hà.
Bà quản nghe những lời khen mà như lửa đốt trong tim. Bà hầm
hầm nhìn cha phó bỉu môi. Cha phó chẳng hay biết gì.
Ra khỏi phòng cha phó, bà quản tới cuối hành lang tìm gói đồ.
Bà đã cẩn thận để thật xa, chỉ sợ cha phó nhìn thấy. Bà xách chiếc túi giấy đi
về phía phòng cha xứ.
- Bẩm cha, cha có nhà không ạ?
Nghe tiếng gọi, cha xứ biết ngay là ai:
- Bà quản đấy hả, mời bà vào.
Bà quản Thông sẽ sàng mở cánh cửa đang khép hững hờ bước vào
với gói quà:
- Bẩm cha, con có chút quà mọn biếu cha!
- Bà quản nói thế chứ quà mọn của bà cũng bằng...
Nói đến đây cha xứ không biết so sánh thế nào, ngài vội lấp:
- Thế bà quản có gì đấy?
- Bẩm cha, chẳng nói giấu gì cha, nhà con mới đi Vũng Tầu về,
có ít nhãn gọi là chút quà...
- Ồ! Nhãn Vũng Tầu thì nổi tiếng ngọt!
Vừa nói cha xứ vừa kéo ra một chùm nhãn. Ngài trầm trồ khen:
- Nhãn lớn quá! Chưa bóc vỏ đã thấy mùi thơm!
Bà quản lấy làm sung sướng:
- Vâng, nhãn lồng đấy cha ạ. Nhiều cùi mà hột thì nhỏ chứ
không như thứ nhãn miệt Phước Thành. Con biết cha thích nhãn nên đã dặn nhà con
là thế nào cũng phải nhớ mua cho cha vài kí.
Bà cố ý nhấn mạnh chữ "cha" chứ không nói "hai
cha" vì bà muốn loại cha phó ra khỏi tình cảm lúc ban đầu mà bà đã hối hận
vì biếu cha lọ kem Colgate. Cha xứ đặt gói nhãn xuống bàn, ra chiều cảm động vì
sự săn sóc của bà quản. Trời hâm hấp nóng. Cha xứ vừa với chiếc quạt giấy vừa hỏi
bà quản:
- Thế ông nhà mới đi Vũng Tầu về đấy à, đi vì chuyện làm ăn
hay là chuyện gì?
- Bẩm cha, chẳng nói giấu gì cha, chuyện cho cháu Cúc đấy ạ!
- Thế à! Vậy ông bà tính đến bao giờ thì cho tôi ăn cỗ đây.
- Gớm! Cha nói vậy chứ cũng chưa biết thế nào.
- Con Cúc vừa đẹp lại vừa nhanh nhẹn, chắc là ông bà kén rể lắm
nhỉ.
Bà quản Thông sung sướng đến xúc động khi nghe cha xứ khen
Cúc đẹp. Bà làm ra vẻ bẽn lẽn:
- Gớm! Cha nói quá điều, con Cúc nhà con nó ra cái gì đâu!
Bà quản luôn có cái tật hay mở đầu bằng câu "gớm".
Nào là "gớm" con Cúc nhà con nó vụng tay lắm. "Gớm" cha
khen quá điều. Ðề cập đến chuyện cưới gả cho Cúc, bà quản thấy đây là dịp thuận
tiện cho bà "đánh" cha phó một đòn mà bà đã thầm nghĩ nhiều lần là chỉ
khi nào có bàn tay của cha xứ, bà mới thành công. Bà mở đầu câu chuyện như đã
chuẩn bị kĩ lưỡng:
- Gớm! có con gái lớn cũng khổ cha ạ. Con cứ lo ngay ngáy.
Thôi thì được người ta thương thì gả cho xong. Chứ như cô Lan bây giờ
thì...cũng khó... mà có khi ...mất linh hồn cũng không biết chừng! Có người nói
là có bầu! Có người nói là phá rồi!
Cha xứ chưng hửng, ngạc nhiên. Cô Lan nào? Lan con bà Ðiền
đang giúp việc nhà xứ ấy à? Lời phán quyết của bà quản như trái bom. Câu chuyện
hấp dẫn. Ngài nóng lòng hỏi bà:
- Cô Lan nào?
- Thì cô Lan con bà Ðiền ấy, cha không nghe gì hết à?
Nhíu mày suy nghĩ, ngài không hề biết, cũng chẳng nghe gì về
câu chuyện. Càng ngạc nhiên, Cha xứ hối bà quản:
- Vậy à, chuyện như thế nào bà kể cho tôi nghe.
Bà quản mừng thầm vì thấy cha xứ như con cá đang mắc phải lưỡi
câu. Bằng kiểu nói khôn ngoan, bà rào đón trước sau:
- Bẩm cha con cũng không biết rõ. Nói ra chỉ sợ mang tội xét
đoán oan cho người ta. Con chỉ nghe thấy tiếng đồn thôi. Con cũng định nói với cha
nhưng ngại quá. Vì câu chuyện không đơn giản như những câu chuyện khác, những đứa
con gái khác. Nhưng không nói thì con thấy lương tâm không bình an, cứ cắn rứt,
như là Chúa bảo phải nói cho cha hay...
Bà quản im lặng một chút như ngần ngại, cha xứ càng thấy câu
chuyện trở nên quan trọng. Bà làm ra vẻ điều bà sắp nói đây là điều rất khó
nói, chậm rãi bà quản kể tiếp:
- Bẩm cha, lâu nay, từ ngày bà Ðiền được cha phó mượn làm thì
cô Lan cũng lấy cớ vào phụ mẹ mà ra vào phòng cha phó luôn. Con nghe mấy đứa Hội
Con Ðức Mẹ xì xèo... Giáo dân cũng nói ra nói vào. Chuyện cha phó và cô Lan. Rõ
khổ! Mấy bà bên Hội Dòng Ba cũng nói lắm. Mấy bà cứ xúi con vào trình cho cha
hay. Con bảo là con không dám đâu. Nhưng mấy bà hối quá là hối, bảo rằng dù sao
thì con cũng là bà quản, cũng là người chức sắc trong xứ chứ họ thì lấy quyền
gì mà trình bày cho Cha. Nên hôm nay con phải lấy hết can đảm nói cho cha hay.
Nếu có điều gì không nên, không phải thì xin cha dạy, con chỉ vì lòng thành mà
thưa cha thôi.
Chiều hôm đó cha xứ dò hỏi và bực tức vì biết cha phó đã trả
cho bà Ðiền số lương khá hậu hĩnh.
Bà quản Thông cặm cụi viết thơ. Bà chỉ viết khi nào tất cả
nhà đã đi vắng. Bà thấy công việc tấn công cha phó bắt đầu hiệu nghiệm từ khi
có bàn tay cha xứ nhúng vào. Nhất là bà trở nên như một nhân vật quan trọng trước
mặt cha xứ. Bà thấy rõ, cha xứ niềm nở hơn, tin tưởng bà hơn nữa. Cầm lá thư
đang viết gởi cho cha phó, bà đọc lại:
Kính thưa cha,
Con không biết làm sao để nói cho cha, nên đành mượn trang giấy này tâm sự với cha vậy. Bẩm cha, ruột gan con rối như tơ vò khi nghi người ta xì xào về chuyện giữa cha và cô Lan. Người ta bảo vì cô Lan mà cha mượn bà Ðiền vào làm trong nhà xứ để cho cô Lan có dịp gặp gỡ cha...Con nghe thấy người ta đồn thổi quá, nào là cô Lan kì này rất xanh xao... nào là cô Lan gầy rạc hẳn đi...có người con nói là cô phá thai...
Con không biết làm sao để nói cho cha, nên đành mượn trang giấy này tâm sự với cha vậy. Bẩm cha, ruột gan con rối như tơ vò khi nghi người ta xì xào về chuyện giữa cha và cô Lan. Người ta bảo vì cô Lan mà cha mượn bà Ðiền vào làm trong nhà xứ để cho cô Lan có dịp gặp gỡ cha...Con nghe thấy người ta đồn thổi quá, nào là cô Lan kì này rất xanh xao... nào là cô Lan gầy rạc hẳn đi...có người con nói là cô phá thai...
Ðọc đến đó, bà quản cảm thấy mắt như hoa lên, mặt nóng bừng.
Lời thơ táo bạo quá, nó ác độc đến tận cùng rồi. Bà thấy áy náy, nhưng bà cất bỏ
lá thư vào ngăn tủ rồi lấy lá thư khác, lá thư viết cho Lan. Với tay lấy chiếc
nón lá, bà cầm lá thư đi về phía nhà bà Ðiền.
Bà quản Thông đứng chờ ở bên bụi chuối cho đến khi chính mắt
bà nhìn thấy Lan lấy lá thư cài ở khe cửa thì bà mới yên trí về.
Buổi chiều hôm ấy Lan như người mất hồn. Nàng không còn sức
nào rửa gánh rau heo mới vớt về. Bùn lấm đầy tóc nàng cũng chẳng gội. Tất cả
trước mặt nàng là tan tác. Trái tim nàng là một nghĩa trang với những ngôi mộ lạnh
lùng. Bạc phếch. Khổ hạnh. Âm u. Nàng không khóc được khi xem xong lá thư. Ngồi
ở thành giếng nhìn lên trời. Hết rồi. Tất cả là cạn máu, là đêm đen.
Lan đứng trước gương soi, nhìn hai gò mó. Lặng lẽ nói với
chính mình. Ừ, Lan ơi, mày xanh xao quá mà! Mày gầy quá mà! Mày không phá thai
sao mày xơ xác thế! Nói đến đây Lan mới bật khóc được. Nàng ôm mặt héo rũ cơn
đau, ra vườn cải đứng thẫn thờ. Ngồi bên bờ đất lặng lẽ nàng lại không khóc tiếp
được. Cả buổi chiều nàng thơ thẩn vì lá thư ngoài tầm hiểu biết của kẻ vô danh
gởi cho nàng. Những tin đau quá đột ngột, quá nặng nề thường làm người ta chai
lì không phản ứng kịp. Lan cũng thế, phải mãi đến nửa đêm mới đủ thời gian cho
lá thư ấy thấm vào hồn, mới đủ thời gian cho lòng bình tĩnh để nhìn cơn đau, bấy
giờ nàng mới khóc. Nước mắt như một nguồn cơn không thể dứt. Nghĩ đến cha phó,
người mà nàng thương mến, nghĩ đến chính mình, nàng không thể hiểu được vì sao
những kẻ vô tội lại phải chịu những hình phạt nặng nề đến thế. Nàng lo âu về lá
thư, nếu tin đồn tung ra, người ta sẽ nhòm ngó, theo dõi, nàng sẽ cô đơn cùng cực,
sẽ chẳng bao giờ dám gặp cha phó. Lan tưởng tượng thấy mình bị cô lập trong một
vỏ ốc tối đen, chật hẹp đến ngạt thở. Trong đêm dài tịch mịch, Lan khóc tủi
thân một mình:
- Chúa ơi, Con có làm gì nên tội tình đâu mà Chúa để con khổ
thế. Ba con chết sớm. Cả đời ba con phải vất vả làm ăn, dành dụm được ít tiền
thì bị lừa gạt, để rồi em con tử thương không lấy được xác chôn. Nhà con chẳng
còn gạo ăn để mẹ con phải bán máu nuôi lũ con. Chúa ơi, Chúa có biết những chuyện
ấy không? Dầu sao thì ngày xưa Ðức Mẹ cũng chẳng phải khổ như mẹ con, Chúa cũng
chẳng phải từng đêm thao thức lo âu vì không có cơm cho ngày hôm sau...
Kể lể tới đó. Lan không nói được nữa. Nàng ôm chặt chiếc gối
úp lên mặt nén tiếng khóc. Căn nhà vắng vẻ đìu hiu. Thỉnh thoảng nàng nghe tiếng
thở khò khè của bà Ðiền vì bị suyễn. Bóng tối dầy đặc. Ánh đèn dầu leo lét trên
bàn như một ngọn đèn nhang thắp canh người chết. Vắng lặng quá. Lan khóc thút
thít.
Chúa có nghe lời con cầu nguyện không? Con có làm gì nên tội
đâu sao đời con khổ quá vậy hả Chúa?
Những giọt nước mắt tròn trên mi vỡ dàn dụa. Chúa nói với
nàng:
- Cha đâu có làm con khổ. Chính Cha cũng khổ mà con. Nhìn con
đau đớn, nhìn gia đình con trằn trọc lo từng miếng ăn lòng Cha cũng tan nát.
Con đã chẳng nhớ rằng Cha đã dựng nên tất cả giàu sang của vũ trụ chỉ vì loài
người thôi hay sao? Cha cũng khổ tâm lắm. Nỗi đau của con là của Cha.
Lan lại khóc nhiều hơn. Lời nói của Chúa tội nghiệp quá. Nàng
giận Chúa, muốn trách Chúa. Nhưng Chúa đã chẳng trách, lại còn thương, còn nhân
từ, an ủi. Lan thấy Chúa cũng tội nghiệp, cũng một mình chịu cô đơn, sầu muộn.
Ðời Chúa cũng hiu hắt lắm, có mấy ai hiểu. Lan thầy mình nhẫn tâm đã oán trách
Chúa, chẳng chịu hiểu cho Ngài. Những ý nghĩ ấy, làm nước mắt càng chảy thêm,
không ngăn được. Nàng mếu máo hỏi Chúa:
- Nhưng Cha có quyền năng sao Cha không can thiệp!
Nàng chỉ nghe thấy tiếng im lặng vì nghĩ rằng Chúa cũng thua
cuộc nên mới bị đóng đinh trên thập giá. Ðau khổ quá, Lan không còn tâm trí nào
để nghĩ thêm về tình thương hay những mầu nhiệm trong cuộc đời mà Chúa chưa dọi
sáng cho người ta hiểu. Nhớ đến cha phó, đến người đã hỗ trợ tinh thần cho
nàng, đã cho nàng bao nhiêu lời khuyên khi nàng thấy cuộc đời là bóng tối tư bề.
Nàng đau đớn nghĩ rằng bây giờ nàng đã mất cha rồi. Trong dòng nước mắt Lan gọi
thầm:
- Giờ này chắc cha đang ngủ yên. Cha có biết con đang gục
khóc đêm nay không? Trong những giờ nguyện của cha, cha có van Chúa cho con xin
một lời kinh?
Ðêm vẫn mênh mông. Trên bàn thờ gỗ của gia đình bà Ðiền có
cây thập giá, Chúa của cây thập giá ấy cũng bị đóng đinh như thập giá của hai
nghìn năm trước đây trên đồi máu.
Câu chuyện cô Lan phá thai vì cha phó làm xôn xao ca đoàn. Chỉ
sau buổi chiều ca đoàn khám phá ra thì tin loan đi khắp xứ. Lá thư bà quản
Thông cố ý viết cho cha phó nhưng ngài chẳng bao giờ đọc được. Bà đã cẩn thận để
ở ghế của cha vẫn quỳ đọc sách nguyện. Bà đã tính toán kĩ và nhủ thầm rằng thế
nào cha phó cũng nhận được cánh thư. Bà muốn cha phó đọc lá thư nặc danh ấy như
một lưỡi dao cho tâm hồn ngài rối bời để cha hết dám mượn bà Ðiền làm việc
trong khu nhà xứ. Ðối với bà, đây là một cách gây đau khổ, mà gây được khổ đau
thì bà mới cảm thấy mình có quyền lực trong tay. Nhưng Bà đã quên một điều quan
trọng là hôm ấy Hội Con Ðức Mẹ quét dọn nhà thờ, trước giờ cha vẫn ra nhà thờ
nguyện kinh. Lá thư dán kín chỉ gợi thêm tò mò của những cô gái đang tuổi thắc
mắc. Những cô gái luôn luôn nhìn vào cha phó với con tim chinh phục và con mắt
theo dõi.
Cha xứ vào bàn ăn bực bội. Cha phó vẫn vô tư như mọi ngày, ngồi
vào bàn ăn vui vẻ không hề để ý đến nét mặt cha xứ hằm hằm. Vì lịch sự. Ngài
cũng trả lời khi cha phó hỏi chuyện nhưng trong lòng thì hậm hực. Ðối với ngài,
khuôn mặt cha phó hôm nay thật là trá hình. Bữa cơm gần xong, cha xứ quyết định:
- Cha phó này, tôi thấy không cần người làm. Tôi xin cha cho
bà Ðiền nghỉ việc. Tôi thấy cha trả cho bà số tiền hơi vô lí!
Nhìn mặt cha xứ nghiêm trang với giọng nói cứng rắn, cha phó
biết có chuyện chẳng lành. Ngài phân trần:
- Thưa cha vâng, cha nói đúng. Riêng mình con cũng có thể làm
tất cả công việc được, chẳng cần người làm. Con mượn bà Ðiền chỉ vì muốn giúp
gia đình bà mà thôi, vì thế mà con trả lương hơi cao. Nhưng đó là tiền của con
chứ con đâu lấy tiền nhà xứ. Gia đình bà túng thiếu quá. Không đủ gạo nấu cháo.
Bà đã lên nhà thương quận bán máu bốn lần trong vòng hai tháng. Con cũng giúp
gia đình ông Ất một số tiền cách đây vài tháng, nhờ thế mà gia đình ông đã qua
được một cái tang lớn. Ông biết ơn con quá, cứ mỗi khi gặp con là khúm núm, nói
dăm ba câu là nước mắt lại chảy. Vì thế, khi nghĩ đến việc giúp bà Ðiền con
không muốn cho bà Ðiền tiền sợ rằng bà cũng sẽ mang ơn. Khi người ta chẳng còn
chạy đến với ai được mà có người giúp thì ơn nào mà chả nặng. Con không muốn bà
nghĩ đến việc phải mang ơn quá như ông Ất. Vả lại nếu cho bà tiền mà người khác
biết được thì có khi câu chuyện lại phức tạp lắm. Vậy cha có giải pháp nào tốt
hơn không xin cha chỉ cho con.
Nghe xong cha xứ bối rối. Câu trả lời của cha phó ngoài dự
đoán của ngài. Giọng ngài lại nhỏ nhẹ, kính nể, phục tùng quyền bính của ngài.
Không còn lí do cho một tức giận. Nhưng chuyện cô Lan phá thai thì sao? Trên
nét mặt cha phó, ngài thấy dường như có thánh thiện mà cũng như đang lừa gạt
ngài. Ðể đánh tan cái bối rối hầu che kín những ý nghĩ khó giải đáp về cha phó,
cha xứ hỏi bâng quơ:
- Còn con Lan làm sao nó lại bỏ ca đoàn?
- Thưa cha con cũng không biết rõ. Nhưng con để ý thì không
thấy nó mặc áo dài đi lễ nữa, cả lễ Chúa Nhật. Vì thế con nghĩ nó đã bán áo dài
rồi. Bà Ðiền đã phải bán máu thì còn gì nữa mà không bán. Mà ca đoàn thì có đồng
phục áo dài vàng. Nếu nó không có áo thì làm sao mà ở trong ca đoàn được. Chứ
con Lan từ trước đến giờ nó có nề hà việc gì của nhà xứ đâu.
Mặt trời đang lên. Sương đang vén dần, tan loãng, đưa một buổi
sáng mát tươi vào đời. Cha xứ cầm cuốn sách dầy toàn là những lời nguyện thánh.
Ngài nhớ tới câu chuyện trong bữa cơm chiều hôm qua mà áy náy. Chính ngài là
người phải giúp bà Ðiền mới đúng. Còn ông Ất nào? Ngài không hề biết gì về tình
trạng gia đình ông. Nhìn cuốn sách nguyện, cha xứ thấy mình là chủ chăn mà chẳng
biết rõ chiên của mình, chẳng biết con nào đau, con nào cần săn sóc. Ðể cho cha
phó mới ra trường chưa được hai năm làm việc ấy, ngài thấy hổ thẹn với lương
tâm. Nhưng chuyện thực hư thế nào? Còn vụ con Lan, sao học được chữ ngờ? Ngài lưỡng
lự. Cuốn sách nguyện trên tay mà ngài không dám đọc một cách bình thản như mọi
ngày.
Bà quản Thông lại hé cánh cửa nhìn sang nhà xứ. Thấy cha phó
cúi nhặt cành lan đã bị bẻ gẫy, lòng bà rộn lên niềm vui thỏa mãn. Bà đứng núp
sau tấm phên, theo dõi. Hôm nay thì bà xác tín rằng không phải vì ghen tương gì
cả mà chỉ vì Chúa mà bà phải nhổ gốc lan. Bà tin chắc cha phó thương cô con gái
bà Ðiền nên mới trồng cây mộc lan. Tại sao không trồng thứ hoa khác mà lại phải
là hoa lan? Nếu không thương con Lan thì trồng lan làm gì? Trồng đấy để mà nhớ
nó à? Những xét đoán ấy làm bà vững chí để nhất định bẻ cây lan cho tới cùng.
Cha phó không còn nghi ngờ gì nữa, không phải là con chó
khoang bới, nhưng là dấu người bẻ và nhổ hẳn hoi. Sau trận mưa đêm qua, cát mướt
mịn, cha thấy vết chân đi từ phía bờ rào, băng qua dẫy khoai lang đến gốc lan.
Rõ ràng là vết chân người lớn. Cha phó mới trồng lại cây lan chưa được hai tuần.
Ngài chau mày nhìn cây lan bị nhổ rễ, dập gẫy mấy khúc. Ai đã bẻ cây lan? Vì
sao họ lại làm như vậy?
Ngài chưa hay gì những lời đồn thổi trong xứ về chuyện giữa
ngài và cô Lan. Mấy cô trong ca đoàn khi thấy cha phó thì bấu tay nhau ra dấu
hiệu ngầm, cha vẫn nhìn như những nụ cười thân thiện, trong sáng, lòng cha cũng
nở niềm vui. Sự vắng mặt của Lan trong ca đoàn càng làm cho xét đoán của các cô
là đúng. Các cô càng xác tín với lời trong lá thư đã khám phá ra. Nhiều cô tò
mò muốn đi qua nhà Lan để xem mặt Lan xanh như thế nào, gầy rạc làm sao. Chẳng
còn kính nể nữa, họ nhìn cha phó bằng nửa con mắt. Mới có mấy ngày mà dân xứ
xôn xao về tin cô Lan phá thai với cha phó. Một cơn bão tố sắp ập xuống để chào
đón những năm đầu đời của một linh mục trẻ. Cha phó chưa hay biết gì, nghe tiếng
chim hót trên cành, ngài se sẽ ngó, tìm cánh chim, trên tay vẫn cầm khúc cây
hoa lan bị bẻ gẫy. Trên ngọn đu đủ có con chim nhỏ đứng một mình, đang nhìn trời,
hót líu lo. Giọng hót trong như suối mát, tiếng chim cao vút làm cha phó thấy
tâm hồn bát ngát, thênh thang.
Trời lồng lộng, xanh ngắt. Từ sâu thẳm trong cõi lòng, dào dạt
thiên ân như những nụ hoa dưới mưa xuân, êm đềm. Cha phó nhìn trời cao, tâm hồn
lâng lâng trong buổi sáng ngập nắng ban mai. Con chim lại cất tiếng hót, chỉ có
một mình, nhưng giọng nó trong vắt như những giọt sương, say sưa gởi vào bầu trời
bài ca buổi sáng. Cha phó cũng huýt sáo nho nhỏ, vui với cánh chim một bài ca
mà ca đoàn đã hát cho ngài trong ngày lãnh chức linh mục.
Từ ngàn xưa Cha đã yêu con
Cha gọi con giữa muôn người.
Cha gọi con giữa muôn người.
Lời cuối:
* Có kẻ cho rằng chuyện không có kết. Chuyện chấm dứt
như là bâng quơ! Nếu hiểu bâng quơ nghĩa là không xác định, thì đi tìm một cái
kết xác định là lại phải thắc mắc: Tựa đề truyện là CÂY HOA LAN, nhưng ai là
nhân vật chính? Cây hoa Lan? Người trồng Lan? Hay kẻ bẻ gẫy cây Lan?
Trong một sáng mai hồng, con chim cứ hót một mình. Nó không
biết giông tố đang xảy đến. Ðó là lời hót khờ dại hay tiếng hót rất trong mà
không phải trái tim nào cũng có?.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét