Ðường về thượng trí
CÀNH HỒNG TRÊN ÐỒI TUYẾT
Mỗi lần đọc tập hồ sơ, quan tòa phải nheo mắt khó khăn dù có
kính lão. Bên cạnh ông còn hai người trẻ hơn, nhưng tầm độ cũng ngoài bốn mươi.
Người ngồi bên phải dáng điệu như còn chưa quen với loại áo cánh rộng của luật
sư. Ông ta trịnh trọng đến nỗi vụng về mỗi khi kéo ống tay rộng thùng thình.
Phiên tòa hôm nay không có gì hào hứng, ngoài quan tòa, luật
sư buộc tội, chống án, chỉ có dăm bẩy người ngồi ở mấy ghế gỗ phía cuối đợi xem
phiên xử. Vị chánh án mở hồ sơ, hỏi bị cáo:
- Ông bị tố cáo là ăn cắp đồ thánh của đền thờ. Ông có điều
gì muốn trình bày không?
- Thưa quan tòa tôi không phải là quân gian phi.
Quan tòa quay ra phía kẻ tố cáo hỏi:
- Xin ông kể lại diễn tiến của sự việc.
Vị linh mục tuổi độ ngũ tuần bước ra giữa, tay cầm một tập hồ
sơ. Ông đang định mở ra đọc thì quan tòa yêu cầu ông gập tập hồ sơ lại, chỉ kể
bằng trí nhớ. Vị linh mục hơi ấp úng một chút, rồi cũng bắt đầu:
- Thưa quan tòa, chính mắt tôi không trông thấy. Khi tôi tới
tháp chuông thì bị can đã bị bắt. Nhân chứng nhìn rõ sự việc là ông X. cũng có
mặt đây.
Vị linh mục quay về phía ông X. đang ngồi ở hàng ghế thứ hai.
Ngài chìa tay về phía ông X. để cho quan tòa biết, rồi lại tiếp tục trình bày:
- Lúc đó khoảng tám giờ tối. Tôi đang ở trên gian cung thánh,
sắp sửa khóa cửa nhà thờ, bỗng nghe thấy xôn xao ở tháp chuông. Tôi tới nơi thì
thấy ông X. và bị cáo đang giằng co, lớn tiếng với nhau.
Quan tòa hỏi vị linh mục:
- Vậy ngài có đồng quan điểm với ông X. là bị cáo đây đã dự định
ăn cắp quả chuông?
Vị linh mục lưỡng lự rồi đáp:
- Tôi nghĩ như vậy! Thưa quan tòa, kể từ mấy tháng nay nhiều
vụ mất cắp đã xẩy ra ở nhà xứ. Tuần trước chúng tôi cũng mới mất một bình hương
cổ rất quý.
Người luật sư biện hộ cho bị can nóng nẩy đứng dậy đáp trả:
- Xin lỗi linh mục, đó là điều vô lí! Bị can chỉ có một mình,
với thân hình tiều tụy, ốm yếu như thế này làm sao bị can có thể ăn cắp được quả
chuông nặng cả mấy trăm kí lô!
Vị linh mục chưa tìm được câu trả lời thích hợp thì quan tòa
đã gõ chiếc búa xuống bàn ra hiệu cho luật sư biện hộ im lặng:
- Yêu cầu luật sư im để bên công tố trình bày.
Người luật sư trẻ ngồi xuống, tức tối. Quan tòa ra hiệu cho
linh mục về chỗ rồi gọi ông X.
- Có phải ông là người đã bắt quả tang bị cáo đây?
- Thưa quan tòa, đúng thế!
- Xin ông trình bày sự việc, yêu cầu ông kể rành mạch từng
chi tiết theo thứ tự thời gian từ ban đầu.
- Thưa quan tòa, khi tôi tới tháp chuông thì trông thấy tên
ăn cắp này đang tháo dây chuông. Hắn mang theo một con dao găm và một túi vải đồ
nghề đủ các thứ kìm, búa, chìa khóa...
Vị quan tòa quay qua phía bị cáo hỏi:
- Ðiều cáo trên đây có đúng không?
Bị cáo buồn phiền nhìn quan tòa, bình thản thưa:
- Thưa quan tòa không! Tôi chỉ có con dao và túi vải, nhưng
túi vải là túi đựng quần áo của tôi, tôi không có kìm, búa, và bất cứ chìa khóa
nào. Tôi cũng có thêm một khúc dây thép mà ông X. đã không nói tới. Tôi mới leo
lên gần tới sàn gác chuông, chưa tới nơi thì ông X. ở trên lầu chuông leo xuống
rồi ông đạp tôi ngã từ cầu thang và đổ tội cho tôi ăn cắp, chứ không phải là
ông leo ở dưới lên như ông vừa trình bày.
Quan tòa ghi chép rồi quay về phía linh mục hỏi:
- Thưa linh mục, ngài đã về xứ đạo được bao lâu?
- Thưa quan tòa, mười hai năm.
- Có phải ngài là người xây tháp chuông không?
- Không phải tôi, nhưng tôi tu bổ và sửa lại lầu chuông hầu
như hoàn toàn.
- Xin linh mục tả cho chúng tôi biết về lầu chuông như thế
nào.
- Thưa quan tòa, cả lầu chuông được xây nối liền với nhà thờ ở
căn cuối cùng. Muốn lên lầu chuông phải qua cửa nhà thờ, rồi lên gác hát của ca
đoàn. Từ gác hát có một cầu thang gỗ nhỏ, đủ để hai người đi, dẫn lên tháp
chuông. Còn lầu gỗ, nơi để đặt quả chuông thì rộng bằng hai manh chiếu. Sàn của
lầu chuông lát bằng gỗ thông. Ðủ làm chỗ ngủ cho chừng dăm, ba người. Muốn leo
lên sàn chuông thì phải mở một nắp như nắp hầm.
Ông X. thêm vào:
- Vì thế lầu chuông có thể là chỗ ngủ đêm của bọn vô gia cư!
Ông ta ngừng nói trước khi quan tòa đập búa ra lệnh cho ông
không được nói khi chưa có phép. Vị quan tòa quay lại hỏi bị can:
- Ông lên tháp chuông làm gì vào giữa đêm tối như vậy?
-Thưa quan tòa, cả câu chuyện thì dài dòng, quan tòa có thể
cho tôi trình bày hết?
Vị quan tòa để xệ cặp kính lão, nheo mắt nhìn phạm nhân từ đầu
đến chân như muốn lục lọi trong con người này những điều kì dị. Ngần ngừ. Ông
ra lệnh:
- Hãy trình bày đầu đuôi:
- Thưa quan tòa, ngày còn bé tôi là cậu nhỏ chiều nào cũng giật
chuông. Tiếng chuông đã là một phần đời của tôi. Tiếng chuông đã thấm vào trọn
vẹn hồn xác tôi. Những buổi chiều không có tiếng chuông cầu nguyện tôi thấy khắc
khoải, đời tôi như thiếu vắng một cái gì gần gũi và linh thiêng lắm. Tôi yêu những
lầu chuông. Tôi yêu những tiếng chuông đồng. Giã từ tuổi thơ, tôi phiêu bạt khắp
nẻo đường nhưng bao giờ cũng nhớ về lầu chuông xưa. Có những chiều tôi thường lẻn
lên lầu chuông ngủ qua đêm khi tôi đi đường. Lầu chuông là nơi tôi trú mưa, lầu
chuông che tôi khỏi nắng. Khi còn nhỏ thì lầu chuông là nơi tuổi thơ nô đùa. Lớn
lên, khi đủ tuổi khôn thì lầu chuông vẫn nhắc nhở tôi về tiếng gọi của Thượng Ðế
trên cao. Trong những ngày phiêu bạt, tôi đã dừng lại biết bao nhiêu lầu chuông
và tôi đã đánh bóng không biết bao nhiêu quả chuông đồng bị mưa nắng làm sét
hoen rỉ. Khi tôi qua đây vào một buổi chiều, tôi cũng ước mong được nghe tiếng
chuông, nhưng chiều qua, không gian lặng lẽ hiu hắt. Tôi không hiểu vì sao
không ai giật chuông. Tôi đã leo lên lầu gỗ và thấy giây chuông đã bị đứt, quả
chuông đã bị mạng nhện chăng kín. Quả chuông đã bị lãng quên từ lâu ngày. Tôi
thấy xót xa cho Thượng Ðế trên thập giá. Ngài chẳng có ai chuyện trò, chỉ có mỗi
tiếng chuông mà nay lầu chuông cũng im vắng. Vì thế tôi đã tìm khúc giây thép
này để mong tìm cách nối lại giây chuông xưa.
Lời nói của gã bị can chỉ lớn đủ để mọi người nghe. Gã ốm yếu.
Trông bên ngoài không ai có thể nghĩ là hắn lại có những tư tưởng lạ lùng như
thế. Ông già ngồi ở hàng ghế cuối cùng, hai tay cầm gậy tre run run, xúc động
vì tâm sự của bị can. Gã luật sư nhìn lơ đãng qua cửa sổ. Vị linh mục cúi đầu
trầm tư không nói gì. Ông chánh án ra hiệu cho mọi người chú ý, bỏ chiếc kính
lão xuống bàn, ông nhìn tất cả mọi người hỏi:
- Ông ta bị cáo là ăn trộm. Nhưng chỉ có một nhân chứng là
ông X. còn ai biết gì nữa không?
Ông X. mừng như bắt được cơ may hiếm có để vội kết tội gã đàn
ông đang đứng lo xo trên kia cho xong chuyện. Vừa chợt định giơ tay minh xác là
còn một nhân chứng nữa, nghĩ sao ông lại dừng lại. Sau đó ông mới hối hận đã
hơi quá vội vàng với ý nghĩ điên rồ ấy. Ông giữ kín nhân chứng thứ hai này
không hề nói cho ai hay trong suốt đời ông.
Nhớ lại đêm đó, khi gã tội nhân tới gần sàn chuông thì ông X.
ở trên đi xuống mở nắp ván và gã nghe có giọng nói phụ nữ trên gác chuông. Như
thế, ngoài ông X. còn nhân vật thứ hai. Nhưng nhân vật này không hề xuất hiện
cho dù sau khi ông X. đã túm cổ áo hắn la lối và vị linh mục đã đến.
Im lặng như tờ. Vị quan tòa dáo dác nhìn khắp phòng, gõ chiếc
búa gỗ xuống bàn kết luận:
- Không hẳn là đủ điều kiện để buộc tội bị cáo ăn cắp chuông.
Nhưng cũng không đủ chứng cớ để chứng tỏ bị cáo là người ngay. Dựa vào lời khai
của linh mục, nhà thờ đã bị mất cắp nhiều lần trong những tuần lễ vừa qua. Bị
can là người "phiêu bạt" như lời tự thú. Xét theo luật pháp và bị can
đã xác nhận là đã lẻn lên lầu chuông hai lần vào đêm khuya. Xâm phạm giáo đường
trong đêm vắng không có phép của linh mục quản nhiệm là điều phạm pháp. Quan
tòa xin kết thúc: Ba năm cải hóa!
Tiếng búa khô khan đập xuống bàn không gây nổi tiếng động.
Riêng ông già dự kiến, chậm rãi cúi tìm cây gậy tre, mò từng bước chậm ra cửa,
ánh sáng chiếu rõ hai giọt lệ còn đọng trên gò má nhăn nheo.
3 NĂM SAU
Ngoài ba mươi tuổi đời, ba năm tuổi tù. Ba năm tù không phải
là thời gian quá dài. Nhưng cái cô đơn của cuộc đời bị xét đoán bất công. Cái
xót xa cho sự thật thất bại trước sức mạnh của bóng tối. Cái vắng lặng của lầu
chuông là thao thức trong lòng hắn, đã làm hắn cằn cỗi. Rồi nữa, chồng thêm lên
mảnh đời độc hành: Cái già nua mang úa mầu thất vọng. Vẫn dáng người dong dỏng
cao. Ðôi mắt vẫn đặc biệt. Những suy tư thầm lặng dường như sâu hơn. Trong đôi
mắt ấy nỗi buồn thất vọng lớn hơn nỗi buồn oán trách. Nỗi buồn thao thức chìm lắng
xuống hơn nỗi buồn bị kết án. Hắn xách túi vải lững thững xuống đồi. Ði được một
quãng, hắn quay lại nhìn khu nhà tù chiều nay mới được phóng thích. Dẫu sao, đấy
cũng là ngôi trường cho chàng hiểu thân phận làm người. Gởi gắm lại nơi ấy những
tháng ngày cảm nhận bóng tối có sức mạnh trong cuộc đời. Và có thực sự ánh sáng
công lí là hương thơm có thể bay ngược chiều gió?
Ra tù vào mùa xuân. Trời gió mát. Cảnh vật thiên nhiên cho hắn
thêm sức sống, vỗ về hắn bằng lời hứa hi vọng, an ủi hắn bằng mơ ước ngọt của
tương lai. Chiếc túi trên vai. Bước chân ngập ngừng. Ði mà chưa biết về đâu. Rải
rác đây đó, đàn bò béo tốt đang gặm cỏ trên ven đồi. Những chùm dâu đỏ đang mùa
chín tới nằm phơi mình dưới nắng ấm. Chàng thấy ngoài nhà tù, vũ trụ vẫn đẹp, vẫn
tha thiết lắm. Những cánh nhạn đang bâng khuâng buông cánh muốn làm quen nhau
trên bầu trời bình yên. Thế giới đẹp quá. Thế giới mà Thượng Ðế đã làm cho cỏ
hoa đồng nội đẹp hơn áo lụa, gấm vóc của Salomon. Vũ trụ mà Thượng Ðế đã lo
chăm sóc để chim muông khỏi lo lắng kiếm ăn hầu có thì giờ ca hót véo von.
Chàng ngước mắt nhìn trời cao tin tưởng, cám ơn Thượng Ðế. Một niềm vui nhỏ nở
trong tim gã tù nhân mới được vào đời lần thứ hai.
Cặm cụi bước về phố dưới thung lũng, trên đường đi, mấy bác
nông phu nhễ nhãi mồ hôi chào hắn những lời chào thân tình. Họ cho hắn những
trái dưa chín thơm mùi mật ong. Cánh đồng bình yên. Chàng muốn dừng chân nơi
đây lập nghiệp nhưng nhớ lại lời cha của chàng căn dặn. Phải đi. Phải luôn luôn
là từ giã. Hắn ngần ngại nghĩ đến những tình thân quen thuộc trên đường đời. Hắn
được nhận lời chào nhưng phải quên ngay sau đó. Hắn phải lên đường bước tới chứ
không được dừng chân lưu luyến. Ðiều ấy đôi khi làm hắn thấy lẻ loi.
Từng đống rơm còn thơm mùi lúa mới gặt nằm rải rác khắp cánh
đồng. Mấy chú bê nhỏ chạy tung tăng bên vú mẹ căng tròn bầu sữa. Dăm ba cô gái
gánh những gánh bí ngô vàng rộ lên đường về. Những mớ tóc đen đơn giản lúc lắc
sau chiếc cổ trắng nõn nà, bịn rịn mồ hôi. Những đôi mắt bình an, trong sáng
như mầu trời trao cho chàng cảm xúc bâng khuâng. Buổi chiều ra tù của hắn hôm
nay rất đẹp. Chàng nghĩ về tương lai với một niềm vui kín đáo mang mầu hi vọng
mịn màng.
Nửa ngày mới về tới phố. Chung quanh tường đá đã nở mùa hoa
leo tím. Ngồi trên bờ đá của ngôi nhà thờ cổ nghỉ chân. Chàng đã bỏ lại cánh đồng
đằng sau lưng. Tâm trí chàng vẫn chan chứa những nụ cười giòn giã, lời nói chân
tình của mấy bác nhà nông. Ðối với chàng dường như chỉ có những người nhà quê
là mến chàng. Từ ngày chàng bỏ làng quê nhỏ ra đi, chàng đã gặp biết bao miệt
thị, khó khăn, nhưng chưa lần nào những khó khăn ấy đến từ những bàn tay chỉ biết
vui bên vườn đất. Nghĩ lại mấy năm về trước, buổi trưa trước mặt quan tòa, kẻ kết
án chàng toàn là những người có địa vị, có chức sắc trong xã hội, trong giáo xứ.
Nhớ về đó, thoáng nỗi khổ đau dâng về.
Ngôi nhà thờ hiền hòa như bóng mát cho kẻ mệt vì đường xa có
chỗ nghỉ chân. Mầu rêu xanh đậm phủ theo những vết nứt trên tường xi măng già.
Nhìn ngôi nhà thờ, ngắm những bông hoa nhỏ, chàng giơ tay vuốt bờ đá rêu mát lạnh.
Cõi lòng cung kính như thoang thoảng thấy mùi hương trầm đang kính dâng trong đền
thờ. Ðã mấy năm nay chàng xa vắng mùi hương quen thuộc ấy. Ðã mấy năm nay không
ngày nào mà chàng không nghĩ đến những hàng nến trắng cháy lung linh trên bàn
thánh. Giờ này, bồi hồi sung sướng. Trước mặt chàng, nhà thờ đây, trong ấy có
mùi hương, có nến sáng. Người thanh niên tìm lối vào. Chàng lại mân mê vuốt từng
phiến đá mát rượi của tường đền thánh. Lúc vừa xoay ổ khóa, cũng là lúc chàng vội
rụt tay về. Lời của ông quan tòa năm xưa vẫn còn ám ảnh: Xâm phạm nhà thờ không
có phép của cha xứ quản nhiệm là bất hợp pháp! Chàng đứng ngần ngại. Tự nghĩ,
biết đâu chẳng lại phải vào tù lần nữa. Ðứng nhìn nhà thờ, chàng ngó tháp
chuông cao, nuối tiếc, không dám tìm lối vào. Buồn bã đi về phía phố.
Hàng me xám nặng của một buổi chiều hết nắng. Nửa ngày đường.
Chiếc túi trên vai làm chàng mỏi, nhưng vui mỗi khi nghĩ đến tình người mà
chàng đã bắt gặp trên cánh đồng. Ði qua một quãng đồng thôi mà chàng được biết
bao thương mến. Ổ bánh còn thơm mùi mới nướng. Họ đã cho chàng từng chùm dâu
chín đỏ. Những củ khoai nướng còn thơm mùi tro. Chiếc bánh vương mầu lá gói.
Ðang nghĩ tới niềm vui ấy, chàng chạnh lòng trông thấy người đàn bà ăn xin.
Hình ảnh người đàn bà im lặng như một bức tranh tĩnh vật. Lặng
lẽ. Chẳng thiếu được những thua thiệt trong cuộc sống. Ðời làm sao vắng bóng được
nước mắt. Có kẻ giầu, phải có người nghèo. Cuộc đời là vậy. Nhưng bất hạnh cho
ai rơi trong dòng đời héo cạn ấy. Có chủ ông, phải có tôi nợ. Vẫn biết mầu sắc
nào cũng cần cho bức tranh hoàn hảo. Vẫn hay chẳng thể loại trừ cái mầu xám lặng
lẽ khỏi cảnh bình minh huy hoàng. Chính cái lặng lẽ của nó làm rực thêm cái nét
vàng. Chính cái hẩm hiu mang số phận xám ngắt ấy làm cho mầu bình minh tươi rực.
Nhưng có bao giờ cái mầu rực rỡ của bình minh kia biết cái mảng mầu tối tăm ấy
chính lại là vùng đất cần thiết cho mình nương tựa? Cuộc đời là thế. Bất hạnh
chen giữa hoan lạc. Ðau khổ tìm lối ngoi lên để cho hạnh phúc sáng giá. Chàng đứng
nhìn người đàn bà ăn xin.
Người đàn bà nhăn mặt thảm thiết. Bà cấu đứa bé mắt còn đỏ
hoe, đứa bé khóc ré vì đau. Nhặt những đồng tiền sáng như bạc dắt vào chiếc bao
cài ở vành quần rồi lại ngồi nhìn lơ đãng, thản nhiên. Mỗi lúc có người tới, bà
nhăn nhó ra vẻ nghèo đói, đứa bé lại khóc thét lên vì bị bà lấy chiếc kẹp tóc
nghiến vào bắp chân đã tím bầm để gợi lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Thằng bé
vô tội trở nên nạn nhân của một kẻ làm tiền. Chàng thấy bà chẳng có tật nguyền
gì. Túi tiền bà giấu ở đâu? Nghĩ đến lòng người, chàng thất vọng, chán ngán bỏ
đi.
Chàng vào phố, đi vòng quanh khắp cả. Từ khu này lang thang
sang khu khác. Rực rỡ đèn mầu, tấp nập người qua lại. Hàng đèn dọi lên những sợi
giây chuyền vàng làm sáng một vuông cửa. Trên nền nhung đen, những chiếc nhẫn
kim cương gặp ánh điện lóe lên sáng ngời. Người chen người tấp nập. Họ ôm nhau
đi trên phố. Những đôi tình nhân trẻ đi tìm bến mơ. Hơi café đượm nóng làm
chàng thèm nghỉ chân.
Giầu sang của phố thị đã đưa chàng vào một thế giới quá lạc
lõng, đơn côi. Trong đám đông ấy, ở một vỉa hè, chàng sững sờ ngó người đàn bà
đang ôm chặt chiếc bóp da rằn ri như da rắn. Bà đang xóc những con lúc lắc trên
mặt tấm vải lớn. Chung quanh bà, kẻ ngồi, người đứng. Họ đang sát phạt nhau bằng
những canh bạc tham lam. Người chủ sòng chính là người đàn bà ngồi ăn xin ở góc
phố hồi ban tối. Chiếc nốt ruồi trên ngón tay cái. Không thể lầm.
Ra khỏi khúc đường nhộn nhịp chàng tìm một ghế đá công viên
ngồi nghỉ. Cuộc đời như một vòng tròn, đi mãi không có lối ra. Quyền lực, giầu
sang, nghèo khổ, gian dối, yêu thương, hận thù, tất cả quay vòng, dính lẫn vào
nhau. Những bước chân long đong hối hả. Những dòng lệ trong đêm. Những tính
toán mệt nhừ. Những bàn tay chai cứng vì lao tác. Thở dài. Chàng thấy như con
người đang lao đao vất vả quá mà vẫn không gặp cái mà họ kiếm tìm. Họ khổ sở
xây những bức tường thành cao rồi than khóc là không có ánh sáng. Họ tất tưởi
đi giành giật sự an nhàn bằng vội vã, để rồi càng vội vã, an nhàn càng mù xa.
Hạnh phúc? Sự chết? Tất cả lại đưa chàng vào câu hỏi cũ kĩ
nhưng vẫn rất khó trả lời: Ðâu là ý nghĩa cuộc sống? Trên ghế đá công viên mát
lạnh, chàng không biết nhân loại đáng thương hay đáng trách. Nghĩ đến công việc
của chàng, chàng bắt đầu nguyện cầu:
- Lạy Cha, tay con ngắn quá mà cuộc đời thì như Cha biết đó,
bao la, phức tạp, ngổn ngang những bóng tối, con không biết phải làm gì, khởi đầu
từ đâu. Con không biết rồi ngày mai ra sao.
- Con cứ làm theo sức con. Hạt giống con đang có trên tay hãy
gieo xuống. Ai là người tưới, ai nhổ cỏ, ai là người làm cho nó nên xanh tươi,
ai sẽ gặt, đó là việc của Cha.
- Vâng, con xin làm theo ý Cha.
- Cuộc đời bao la thì con đừng bao giờ xây đắp cho riêng tư
nhưng hãy miệt mài đi mãi. Cuộc đời phức tạp, con hãy giữ trái tim đơn sơ. Cuộc
đời ngổn ngang, con hãy sống trong sự thật. Cuộc đời đầy bóng tối, con hãy thắp
lên một que diêm.
- Vâng, con xin làm theo ý Cha. Nhưng dường như chẳng có kết
quả. Cha bảo nơi nào có chia li thì hãy đem nối chắp vá lại. Nơi nào có tang
tóc thì đem ủi an. Nhưng Cha thấy đó, lúc con nối lại giây chuông là lúc con bị
kết án ăn trộm. Lúc con định chia sớt nhọc nhằn với người đàn bà ăn xin là lúc
con khám phá ra túi bạc và lòng ích kỉ nhỏ nhen. Ðâu là sự thật soi cho con đi
hả Cha?
- Con không đi tìm sự thật. Sự thật ở trong con và con đến để
làm chứng cho sự thật. Con đem sự thật cho đời. Vì thế, nơi nào có gian dối,
Cha gởi con tới. Nơi nào có kết án bất công, Cha bảo con đến.
Người thanh niên ngồi yên trầm mặc. Lời nói trong hồn thao thức,
thăm thẳm sâu. Nhẹ nhàng như một lời mời, thách đố như một lệnh truyền. Phải
đi. Phải đến. Ðấy là ý nghĩa đời chàng. Một thoáng lại hiện về trong trí nhớ.
Nhà tù, vòng sắt, quan tòa. Chàng biết gian dối, bất công có sức mạnh của nó, kẻ
dám đương đầu với bất công là kẻ phải can đảm chấp nhận tù đầy, khổ đau. Chàng
lại nghĩ tới thân mình. Một thoáng lo âu ngần ngại lướt qua như lời nói khẽ cho
chàng hay đời chàng sẽ còn nhiều giông tố phũ phàng vì chàng dám sống cho sự thật.
Ý nghĩ ấy làm chàng trầm nét băn khoăn. Nhưng chàng đứng dậy, xách theo túi vải,
nói với lòng mình:
- Thức ăn của ta là làm theo Ðấng đã sai ta.
Người đàn bà bên kia đường trông thấy chàng, vội rời hè phố,
băng qua lộ, bước qua hàng rào công viên, đến trước mặt chàng:
- Ông có lửa không, cho tôi xin mồi lửa?
Người phụ nữ vừa nói vừa đưa điếu thuốc lên môi. Móng tay
nàng dài, sơn mầu huyết dụ. Cặp môi đỏ mọng, mướt lánh như nàng vừa mới thoa
son xong. Chàng đưa tay lên túi áo ngực:
- Xin lỗi cô, tôi không có bật lửa.
Người đàn bà như chờ đợi thêm nhưng hắn chỉ nói có thế. Nàng
tỏ vẻ thất vọng, hơi bực mình, nhưng người đàn bà kiên nhẫn thêm. Bây giờ nàng
đứng sát bên hắn. Gã bối rối vì mùi nước hoa làm chàng xao xuyến. Và dường như
ngực người đàn bà cũng vừa chạm vào da thịt chàng. Dưới vùng sáng mờ của ngọn
đèn néon ở góc công viên cho chàng thấy chiếc nút áo ngực của người đàn bà đã mở
rộng. Da thịt nàng căng tròn, mời mọc. Chàng chưa biết phản ứng làm sao, người
đàn bà đến sát chàng thêm nữa. Chiếc quần bó chẽn, mùi nước hoa đẩy đưa người
đàn bà vào dáng dấp cám dỗ. Giọng nói phụ nữ đuổi đi cái im lặng ngập ngừng:
- Năm mươi đồng?
Hắn không hiểu gì. Người đàn bà nói thẳng:
- Năm mươi đồng một đêm!
Nàng đợi chờ phản ứng của gã. Hắn có hiểu ý? Hắn nghe không
rõ? Im lặng. Hắn không dám hỏi lại. Người đàn bà chỉ tay vào túi vải hắn đang
đeo, hỏi thăm rồi bảo chàng:
- Bán cho tôi ít dâu và mấy trái dưa đi, bao nhiêu?
Hắn không biết phải trả lời thế nào. Cuộc gặp gỡ bất ngờ.
Chàng có bao giờ mua bán đâu mà biết giá cả. Ðã mấy năm trong tù, chàng chẳng
biết gì ngoài xã hội. Chàng nghĩ thầm, mới từ chiều đến giờ mà đã gặp bao nhiêu
chuyện bất ngờ. Chàng cúi mở chiếc túi thì người đàn bà đặt tay lên vai ra hiệu
cho chàng hãy đem túi vải ra chỗ có ánh sáng. Hắn xách túi vải theo sau người
đàn bà. Nhưng họ đã không dừng lại ở ngọn đèn nơi đầu công viên. Họ tiếp tục đi
với nhau dọc dẫy phố. Họ nói chuyện với nhau nhiều hơn. Ðã có một cánh cửa nào
đó mở ngõ cho những câu chuyện có lối đi về. Khi chàng biết được nàng là một
gái đêm đang tìm khách, và người khách hàng nàng đang muốn ngủ đêm nay lại là
chính chàng, chàng cảm thấy lo âu hồi hộp, nhưng cũng có phiêu lưu. Chàng chưa
bao giờ gần gũi đàn bà, đêm nay là đêm đầu tiên chàng ngửi thấy mùi nước hoa
ngay bên, da thịt căng đầy trước mặt, Chàng bối rối, và rồi tự nhủ chắc chắn phần
thắng sẽ về chàng. Chàng nhớ lại lời nói ban nẫy khi chàng cầu nguyện:
- Nơi nào có bóng tối thì con hãy đốt lên một que diêm.
Ðêm nay chàng đã gặp bóng tối. Thầm nghĩ nhất định chàng phải
đem tâm hồn nàng về với ánh sáng. Chàng sẽ đốt lên một que diêm. Ý nghĩ ấy cho
chàng can đảm, bình tĩnh theo nàng về căn gác trọ.
Vị chánh án hỏi bị can:
- Ông có quả bị bắt trong đêm ngày mồng 5 tháng 4 ở căn nhà số
103 không?
- Thưa quan tòa đúng.
- Ông đến đó làm gì?
- Tôi đến để thắp lên một ánh lửa trong bóng đêm.
Ở một góc nọ người đàn bà béo phị vừa cười ngặt nghẽo vừa lớn
tiếng trong giọng nói pha trò:
- Ông ấy là thánh đấy!
Mọi người cười ồ. Riêng người phụ nữ bị kết án là gái điếm
cúi đầu khóc. Vị quan tòa hỏi nàng:
- Còn cô, cô muốn nói gì không?
Người đàn bà tức giận, không ngần ngại nhìn thẳng vào ông
chánh án trả lời:
- Biết bao nhiêu người đàn ông đã đến với tôi, trí thức có, đạo
mạo có, họ là những kẻ kết án tôi ban ngày nhưng lại cần tôi ban đêm...
Người đàn bà còn đang nói thì có tiếng đập bàn phản đối của
người đàn ông phía sau. Ông chánh án đập chiếc búa gỗ ra lệnh cho tất cả giữ trật
tự. Mặt ông đỏ như gấc, tức tối vì câu nói của người đàn bà, như ông thấy trong
số những người đàn ông mà bà ám chỉ đã có cả ông:
- Yêu cầu bà chỉ trả lời vào câu hỏi. Bà có muốn khiếu nại gì
không?
Người đàn bà chỉ tay về phía gã đàn ông nói:
- Tôi không khiếu nại gì cho tôi, nhưng riêng người này thì
vô tội. Ông không tìm tôi như nhiều người đàn ông khác, nhưng tôi tìm ông. Ông
nghèo. Ông chỉ có một tâm hồn là giàu có. Ông đã đốt lên một que diêm trong
bóng đêm. Ông chỉ cho tôi con đường về nhà cũ mà tôi đã bỏ đi. Ông chính là đấng
thánh như lời các người vừa nói!
Cả phòng xử án lại phá lên cười. Vị quan tòa không đập búa nữa
nhưng đợi cho mọi người cười xong, ông mở tập hồ sơ rồi tuyên bố vắn gọn:
- Tất cả đã rõ. Những mụn ghẻ trên da thịt xã hội phải được cắt
đứt!
Cả phòng xử im lặng vì giọng nói cứng rắn và bực tức của ông.
Người đàn ông bị kết án đứng xuôi tay nhớ lại lời từ trời cao đã nói với hắn
trong khi cầu nguyện:
- Nơi nào có ngổn ngang thì con hãy sống trong sự thật. Nơi
nào phức tạp thì con hãy giữ trái tim đơn sơ. Nơi nào có gian dối thì Cha gọi
con tới. Nơi nào có bất công thì Cha bảo con đến.
Chàng cúi đầu chấp nhận tất cả. Riêng người đàn bà bị kết tội
là điếm ôm mặt khóc nức nở. Nàng không sợ hãi cho đời nàng nhưng nàng thương
người đàn ông vô tội đang đứng trước mặt nàng. Chính nàng là người hiểu rõ đâu
là sự thật, đâu là công lí của xã hội. Cả phòng xử đông người nhưng chỉ có hai
kẻ bị kết án là biết sự thật và cùng đau khổ cho sự thật.
SAU NHỮNG NGÀY TÙ
Tất cả trắng bát ngát. Tuyết phủ kín cánh đồng. Hàng táo đứng
trơ cành khô khẳng khiu. Gió ào ào như muốn xô ngã tên tù. Hắn ôm túi vải vào
ngực, đứng nhìn cánh đồng tuyết lạnh mà thấy cô đơn về mênh mông.
Hắn đã được thả tù sớm hơn bản án cay nghiệt vì sức khỏe hao
mòn. Ðã nhiều đêm hắn muốn tắt thở vì cơn ho. Vào những tháng gần đây sức khỏe
của hắn giảm sút một cách thảm hại. Gió rét về từng cơn. Hắn đi không vững. Mặt
hốc hác, chỉ còn đôi mắt vẫn huyền nhiệm.
Ra tù lần này khác với những năm về trước. Bây giờ là mùa
đông băng giá. Chàng xiêu vẹo cầm cự với những cơn gió vô tình nghiệt ngã. Thỉnh
thoảng hắn lại ngồi xuống ôm ngực ho. Mỗi lúc gió một nhiều. Dường như có một
trận bão ở đâu đó. Hắn tìm lối xuống đồi nhưng tất cả mọi lối mòn đã bị tuyết
phủ kín. Hắn chỉ còn căn cứ vào những hàng cây bên đường mà phỏng đoán lối đi.
Hắn nhớ lại kỳ ra tù lần trước có hàng cây anh đào, nhưng hôm nay đã biến mất.
Chúng đã bị chặt từ thuở nào? Gió lật ngược tấm vải khoác, chàng phải ngồi xuống
tránh gió. Ði đâu bây giờ? Chàng thấy vũ trụ mà Thượng Ðế đã dựng nên lớn quá,
nhưng chàng không có chỗ nghỉ chân. Chàng thấy Thượng Ðế đã trang điểm vũ trụ bằng
vàng bạc châu báu mà chàng thì không có bữa ăn chiều nay.
Trời càng về tối gió càng lạnh. Ði được một quãng xa, đến gần
ngọn đồi năm xưa mà bác nông phu đã cho chàng bánh và dâu thơm thì trời chuyển
mây, tuyết rơi. Chàng nhớ về những kỉ niệm năm xưa ở khúc đường này mà muốn ứa
lệ. Giờ này các bác nông phu ở đâu? Tuyết rơi rất nhanh. Cố gắng bước vội. Ðã
thấy ánh đèn phố xa tít dưới thung lũng. Chàng nhớ tới ngôi nhà thờ đã ngồi nghỉ
năm xưa. Chàng thầm nghĩ sẽ cố gắng về tới nơi để xin một chỗ trọ đêm nay. Trên
đồi tuyết lạnh mà những tưởng tượng ra mùi hương trầm nồng ấm của nhà thờ, lòng
chàng nhẹ nở một an ủi êm đềm.
Nhưng chàng đã chẳng bao giờ tới nơi. Tuyết rơi dày hơn,
nhanh hơn. Mỗi lúc tuyết một phủ kín thêm cánh đồng đã trắng lạnh. Trên ngọn đồi,
một đống tuyết nhỏ nổi bật lên cao phủ kín tên tù nhân xấu số. Hắn đã ngã chết
vì đói trong trời tuyết lạnh.
Xế chiều, mặt trời mù mờ trong sương. Từ dưới thung lũng đi
lên, người ta thấy một bóng người trong chiếc áo khoác màu đen. Ðầu, cổ choàng
khăn kín mít. Cánh đồng trắng như một biển muối. Rải rác đây đó những bụi cây
nhỏ đứng chơ vơ. Hàng táo ở ven đường càng về chiều càng đen sẫm. Cơn bão tuyết
đã dứt từ mấy hôm nay. Gió thổi bay những hạt tuyết đọng trên cành, bây giờ chỉ
còn những cành cây trơ trọi, đen đủi, thỉnh thoảng rung rinh khi con gió đến.
Khi đi tới ngọn đồi, người đàn ông ngó về phía đồi tuyết. Ông
tần ngần đi chậm lại rồi băng qua ruộng lúa bị tuyết phủ ngập, đi dần lên gò
tuyết cao. Tuyết phủ mịn màng như một bãi cát đồng trinh. Bước đi của người đàn
ông in từng vết chân thành một vệt ngoằn ngoèo dài. Khi tới gần đồi tuyết thì
ông không thể hồ nghi được nữa. Trước mặt ông là cụm hoa hồng!
Vì sao lại có cây hồng giữa mùa đông băng giá? Ðây có phải là
cây hồng thật? Ngạc nhiên quá đỗi. Ông cúi xuống, ngồi sát bên cây hồng. Màu lá
xanh ngát thỉnh thoảng rung lên theo nhịp gió đẩy. Một bông hồng lớn bằng trái
cam, đỏ thẫm. Cánh hồng mướt như nhung. Sương ướt còn long lanh trên những cánh
hồng mềm. Người đàn ông đứng ngó sững sờ. Ông lại thắc mắc một mình. Giữa đồi
tuyết lạnh sao lại có cành hồng? Tất cả cây cối đều rũ bã chết khô sao lại có
cây hồng xanh tươi? Cả rừng cây đứng thua trận mùa đông sao lại có cành hồng thản
nhiên? Người đàn ông giơ tay vuốt những cánh hồng xinh. Một cơn gió nhẹ, cánh hồng
lao chao nghiêng ngả. Người đàn ông với tay đỡ, che cho bông hồng. Cánh gai nhọn
làm tay ông rướm máu, bấy giờ ông mới nhận thấy một điều khác lạ: Những mũi gai
nhọn. Gai của cây hồng này không giống những loại hồng khác. Người đàn ông nhìn
kỹ hơn vì chưa bao giờ thấy những chiếc gai lạ như thế. Nó dài gấp ba, bốn lấn
gai hồng thường và nhọn hoắt như lưỡi dao sắc bén.
Người đàn ông băn khoăn lạ lùng vì cây hồng ngoại lệ trong
mùa đông, nhưng không biết giải thích ra sao. Ông định hái bông hoa nhưng rồi lại
đổi ý. Gạt tuyết ở gốc hồng, ông tìm cách bứng cả cụm hồng về nhà trồng. Gạt được
một mớ tuyết, ông thấy sồn sột của móng tay cào trên nền vải. Ông bới mạnh hơn,
lẹ hơn, thay vì đất đen, dưới lớp tuyết phủ là một tấm vải màu vàng ngà. Vừa ngạc
nhiên vừa hồi hộp, ông tiếp tục lần theo chiều vải mà cào tuyết. Ðược một lúc,
ló ra một khoảng vải lớn. Ông cầm miếng vải kéo mạnh. Tuyết bay mù mịt. Ông hoảng
hốt giật bắn người: Một đôi chân! Ông vội vàng lui về phía sau. Rõ ràng một đôi
chân người! Ông quay mặt nhìn chung quanh như muốn cầu cứu nhưng cánh đồng vẫn
hoang vu vắng lặng. Chênh chếch về phía tây, mặt trời mù đặc trong sương ẩm.
Người đàn ông tháo chiếc túi vải đeo ở vai để xuống bên cạnh.
Ðó là chiếc túi da màu đen có in hình thánh giá mạ vàng. Túi da nhắc nhở ông đến
một sứ mạng thiêng liêng. Ông lại ngó quanh như mong có người đang đi đường để
ông bớt lẻ loi, sợ hãi. Có thể đây là nạn nhân của bão tuyết? Có thể bị cướp
đánh? Còn nhiều cái có thể khác đặt ra trong đầu ông. Có thể họ đã chết? Có thể
còn sống? Nếu còn sống thì ông phải làm gì? Câu hỏi làm người đàm ông liên tưởng
đến túi da bên cạnh có in hình thánh giá ở ngoài. Dường như cây thánh giá ấy
cho ông thêm can đảm để bới nạn nhân ra khỏi tuyết.
Hai tay lạnh cóng, ông rút chiếc khăn đang đeo ở cổ cuốn lấy
bàn tay phải để làm chiếc găng tay cho đỡ lạnh. Bấy giờ mới ló ra cổ áo dòng
đen có chiếc collar màu trắng. Ông là một linh mục đang trên đường đi làm việc
mục vụ. Nạn nhân nằm co quắp nhưng người vẫn còn mềm. Linh mục bới sạch tuyết
trên mặt nạn nhân thì ông nhăn mặt nghĩ ngợi. Trên khuôn mặt như có nét quen
thuộc mà vị linh mục hình như có gặp nạn nhân ở đâu đó. Có thể là bộ râu? Có thể
là mái tóc? Hay là sống mũi? Linh mục cố moi móc trong cái trí nhớ bắt đầu già
nua theo tuổi tác. Ðôi mắt nạn nhân nhắm nghiền như đang ngủ say. Càng nhìn kỹ,
linh mục càng thêm xác tín là đã gặp nạn nhân rồi. Ngài xác định nhưng vẫn còn
mơ hồ, lãng đãng chưa tìm được một chứng cớ rõ ràng. Ðang cố gắng lục lọi các
ngăn tủ của trí nhớ, ngài lại nhìn thấy một đầu miếng vải khác nữa nhô lên khỏi
tuyết ở cách đó không xa, chừng vài bước chân. Vị linh mục kéo mạnh miếng vải,
cả chiếc túi bật lên. Ngài ngó đăm đăm vào chiếc áo choàng lớn mà nạn nhân đang
mặc. Màu vải của chiếc túi và của chiếc áo khoác giống y như nhau. Thêm một tia
sáng soi vào vùng tối của trí nhớ, quay ngược thời gian về khoảng 7 năm trước
đây. Chính chiếc áo này, gã đàn ông đã mặc, với túi vải này hắn đã xách theo đứng
trước tòa án khi bị tố cáo là ăn cắp quả chuông của nhà thờ. Linh mục nhìn kĩ
hơn vào khuôn mặt nạn nhân và càng nhìn kĩ ngài càng thấy điều đó đúng. Chính nạn
nhân là kẻ ăn cắp quả chuông của giáo xứ, năm nào!
Nạn nhân còn mềm nhưng không còn dấu hiệu của sự sống. Linh mục
ngần ngại lấy chiếc túi da đen, mở nắp tìm cuốn kinh và lọ dầu thánh, thứ dầu để
xức cho bệnh nhân. Biết đâu nạn nhân chưa chết hẳn, nghĩ thế, ngài mở một cuốn
sách nhỏ, tìm lời kinh nguyện cho kẻ đang hấp hối rồi đọc:
- Lạy Chúa, xin xót thương tôi tớ Chúa đây, vì lòng nhân từ,
xin Chúa ban ơn trợ giúp để người tôi tớ Chúa được mạnh sức trung thành với
Chúa đến cùng. Xin dấu thánh của Người là ân sủng xóa hết tội khiên...
Linh mục vừa đọc vừa xức dầu lên trán nạn nhân. Trên vừng
trán, khi linh mục vén mớ tóc lên cao, ngài thấy những vết sẹo đã lành lâu ngày
nhưng còn trông rõ như những vết gai nhọn đâm chằng chịt. Lúc xức dầu vào lòng
bàn tay nạn nhân, ngài thấy bàn tay mềm như người còn sống dù là giữa trời tuyết
giá băng. Ở lòng bàn tay ưng ửng đỏ rồi máu từ từ rớt xuống nền tuyết trắng
tinh. Lòng bàn tay mở ra một lỗ bị đâm thật lớn như dấu bị đóng đinh. Linh mục
ngỡ rằng nạn nhân đã bị kẻ cướp đánh. Thế nhưng còn dấu đinh ở bàn tay thì sao?
Nếu bị cướp giết thì sao lại để lại chiếc túi? Nạn nhân đã bị tuyết phủ sao vẫn
còn máu tươi đỏ? Mà những gì đựng trong túi vải kia? Linh mục lại bắt đầu băn
khoăn, linh tính báo cho ngài biết một sự gì khác thường, nhưng ngài không thể
xác định được.
Linh mục đổ tất cả mọi thứ trong chiếc túi vải xuống tuyết. Một
mớ quần áo cũ. Tất cả chỉ có thế. Chính những quần áo mà ngài đã nhìn thấy mấy
năm trước đây khi quan tòa ra lệnh cho hắn lấy ra khỏi chiếc túi trong ngày hắn
bị xử án. Linh mục lục lọi kỹ nhưng không có gì. Riêng có một gói nhỏ, bọc kính
cẩn bằng miếng vải màu đỏ thẫm. Khi mở xong lớp vải sau cùng, linh mục thất vọng,
đây không phải là gói tiền hay nột thứ gì quý mà chỉ là cuốn sách cũ. Ðó là cuốn
Thánh Kinh, bìa da bị cong và rách, những mép trang nhàu nát vì bị mở quá nhiều
lần. Vị linh mục mở qua, mở lại nhưng cũng chẳng có một thứ giấy tờ gì nói cho
rõ nạn nhân là ai.
Riêng ở trang đầu tiên, khi linh mục mở tờ bìa, ở góc phải,
phía trên cao có mấy chữ viết như học sinh vẫn đề tên vào góc sách để biết sách
nào là của ai. Nét chữ không đẹp, nét mực cũng nhòe, phải nhìn kỹ người ta mới
có thể đọc được: Giêsu, Nazareth.
Lời cuối
* Ðọc được tên Ðức Kitô trong cuộc đời không dễ. Người ta hay
đọc lộn tên Ngài.
* Hai nghìn năm trước, các thầy thượng phẩm cũng nhân danh
Yavê mà kết án Ðức Kitô. Nhân danh công lý mà kết án công lý. Trên đường
Jerusalem, những giọt nước mắt khóc thương Chúa thì Chúa bảo hãy khóc thương
chính mình.
* Kẻ thắc mắc thì cho rằng người viết không đề cao điều thiện.
Sao tác giả không minh oan cho nạn nhân mà lại để chết đơn côi trong chiều tuyết
lạnh? Có phải trong lối kết cấu tác giả đã đề cao điều ác? Ðức Kitô cũng đã chết
trên đồi máu, vậy sự ác có toàn thắng?.
Nguyễn Tầm Thường
Nguồn: Trích tập truyện ngắn
"ÐƯỜNG VỀ THƯỠNG TRÍ"
Theo https://vntaiwan.catholic.org.tw/


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét