Hoa xuân trong hồn thơ dân tộc
Khi những giọt sương nở rộ đâm chồi sang xuân, thì cũng là
lúc trăm hoa đua nở, thơm hương, tỏa ngát xô nghiêng bướm vàng. Mùa xuân không
những hoa đào sắc thắm đỏ, hoa mai dát vàng kêu hãnh trong gió sương, mà còn có
hàng trăm thứ hoa đồng nội khác cũng thi nhau khoe sắc trong thơ.
Mãn Giác thiền sư đời Lý, sáng ngủ dậy nhìn thấy “Nàng thơ”-
hoa mai nở, ông bối rối cảm xúc và bật ra vần thơ thật tuyệt vời: “Đừng tưởng
xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua, trước cửa, nở một nhành mai!” (Cáo tật thị
chúng - Ngô Tất Tố dịch). Hoa mai nở đã làm cho nhà sư bâng khuâng
chăng? Chu Mạnh Trinh là một nhà nho nổi tiếng ở sự phóng khoáng hào hoa, thành
thạo cả cầm, kỳ, thi họa. Ông rất mực yêu mến hoa mai: “Thỏ thẻ rừng mai chim
cúng trái,/ Lững lờ khe yến cá nghe kinh” (Hương sơn phong cảnh ca) Nếu ai
đã một lần đến Chùa Hương, đi dạo trên các đồi dốc quanh chùa thì mới thấm thía
ý vị của câu thơ và nhất định bạn sẽ yêu hoa mai hơn! Cao Bá Quát, người đời
suy tôn là “Thánh Quát” viết nhiều câu thơ và ca ngợi về hoa mai. Đây là câu đối
của ông: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ, bái hoa mai”!. Vua
Trần Nhân Tông, vị vua cung kiếm anh hùng của dân tộc ta, Người cũng có nhiều vần
thơ ca ngợi ca hoa mai: “Sương giọt mùi hương, lay bướm dậy/ Đêm ngời ánh nước,
khiến chim lơi/ Hằng Nga nếu biết vẻ đẹp của hoa mai/ Thì có luyến tiếc
chi nơi cung thiềm lạnh lẽo” (Hoa Mai sớm - lần 1). Đại thi hào Nguyễn
Du khi đi sứ bên Trung Quốc, một chủ lò gốm xin ông ghi cho vài chữ vào ấm chén
trước trước lúc cho vào lò nung. Nguyễn Du vui vẽ cầm bút: “Nghêu ngao vui
thú yên hà/ Mai là bạn cũ, hạc là người quen”. Trước sự bao la của tạo
hóa, mênh mông của trời đất, ấy mà Nguyễn Du chỉ tâm niệm về mai - hạc và thi
nhân! Nhưng nhà thơ viết “hạc là người quen”.
Nếu mai vàng kiêu hãnh là biểu tượng của mùa xuân đất
phương Nam thì ở xứ Bắc, loài hoa vinh dự được chọn là hoa đào. Theo
giai thoại tổ tiên ta kể lại, việc miền Bắc chơi đào, trong khi miền Nam chơi
mai trong dịp Tết được giải thích: sau khi mở rộng bờ cõi về phương Nam vốn có
khí hậu nóng hơn không thích hợp với việc trồng đào, mỗi khi Tết đến, những người
đi mở đất nhớ đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được đã chọn mai (một
cây hoa rất phổ biến ở trong Nam, đẹp, nhiều hoa lại nở đúng mùa Tết) để thay
thế. Nếu ngày Tết mà thiếu hoa đào thì thiếu hẳn hương sắc. Trong thơ Nguyễn
Trãi, hoa đào đồng nghĩa với mùa xuân, đồng nghĩa với vẻ đẹp kín đáo
thanh cao: “Một đóa đào yêu khéo tốt tươi/ Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười”
(Đào hoa thi). Nguyễn Bỉnh Khiêm vịnh hoa đào cũng cho rằng đào là giống cây xuất
xứ từ cõi tiên: “Tiên thụ thùy tương quán lý tài?/ Hảo xuân nhất độ hảo hoa
khai” (Cây tiên bên quán bởi ai trồng? Mỗi độ xuân về rực rỡ bông). Với Nguyễn
Bính, nhìn cánh đào rơi trong ngày xuân chạnh lòng nhớ cố nhân: “Hôm nay còn
xuân, mai còn xuân/ Một cánh đào rơi nhớ cố nhân” (Xuân tha hương). Vũ Đình
Liên thì khắc khoải với thời gian mỗi độ xuân về: “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy
ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua” (Ông đồ).
Mai hay đào đều là hai loài hoa tinh khiết, quý hiếm trong
muôn loài, tượng trưng cho sức sống kỳ diệu của thế giới loài hoa giữa trời
xuân, lại có hương thơm nhẹ nhàng thanh thoát, hợp với không khí đầm ấm hạnh
phúc của người đang rạo rực vui xuân, du xuân. Đào đỏ, mai vàng. Màu đỏ thắm
tươi biểu tượng cho sự vui mừng; màu vàng tượng trưng cho sự vinh hiển cao
sang. Ngoài hoa mai, hoa đào còn có không ít loài “hoa đồng nội cũng giăng
lưới tình xuân, rượu quê dễ xiêu lòng”. Đẹp làm sao hình ảnh “vườn cũ thức mùi
hoa bưởi”, những bông hoa trắng ngần, đua nhau khoe sắc thắm, ngào ngạt hương
thơm, chập chờn cánh bướm. Thi sĩ Nguyễn Bính đã có những câu rất gợi cảm và
nên thơ: "Thong thả dân gian nghỉ việc đồng/ Lúa thì con gái mượt như
nhung/ Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng (Xuân
về). Ngước nhìn những hạt mưa xuân mong manh, dịu dàng, ta bắt gặp những
bông hoa xoan bắt đầu bung nụ, những cánh hoa nhỏ xíu mảnh mai rơi rơi
trong gió nhẹ, trong mưa bụi phập phồng. Chợt khao khát thèm nhớ cánh hoa xoan
tím ngắt dịu dàng vương lên mái tóc, nhẹ nhàng buông trên áo, trên vai
ai. Nguyễn Bính đã điểm tô cho không khí rạo rực của những ngày đầu
Xuân không phải là hoa đào tươi thắm, không phải là lay ơn sang trọng mà chỉ là
hoa xoan: “Bữa ấy, mưa xuân phơi phới bay,/ Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy./
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,/ Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay” (Mưa
xuân). Nhà thơ Nguyễn Hồng Hải đón xuân mới, lại nhớ đến mùa xuân của
tuổi trẻ và tình yêu: “Cái tuổi biết mùa xuân sang/ Mơ màng như hoa xoan ấy/
Phía cuối bờ dâu xóm bãi/ Mắt ai biêng biếc mong chờ” (Hoa xoan). Hoa
xoan tím cả một trời xuân thương nhớ. Hoa Xoan, xoan cũng là Xuân đọc chệch
đi như hát Xoan tức hát Xuân đấy ạ! Ngày xuân ta còn bắt gặp nhiều loại
hoa loa kèn, với nhiều màu sắc khác nhau, mọc ở bất cứ nơi đâu,
bên lề đường, trên triền đê, bờ ao, bờ dậu. Khác với các loài
hoa mọc trong vườn, hoa đồng nội không rực rỡ, không kiêu kỳ, không có hương
thơm quyến rũ thế nhưng cũng khiến lòng người xao xuyến, rung động tâm hồn: “Hoa
dành vàng lối vắng/ Nụ hôn đằm thắm xuân/ Người đi chưa trở lại/ Hoa dành… dành
nhớ thương…!. Mỗi khi bắt gặp hoa loa kèn, bạn sẽ liên tưởng đến bức tranh
nổi tiếng “Thiếu nữ bên hoa huệ” của họa sĩ Tô Ngọc Vân và biết đâu lại ngân
nga những dòng thơ về một loài hoa: “Hoa loa kèn em cắm chờ anh/ Anh
không đến từng nụ hoa vẫn nở/ Cứ hào phóng tỏa hương theo gió/ Làm sao dồn
bắt được mùi hương… (Hoa loa kèn thơm phố tháng Tư Xanh - Lương Đình Khoa)
Đến với thơ Hàn Mặc Tử ta bắt gặp trong làn nắng
“ửng” và “khói mơ” có “Bóng xuân sang” trên giàn hoa thiên lý: “Trong làn
khói ửng giấc mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió
trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang (Mùa xuân chín). Trong
mảnh vườn xuân còn có hoa chanh, hoa cà, hoa ổi, hoa bí, hoa bầu… dịu
dàng mà mộc mạc, cho ta mùa quả trĩu cành: “Đến mùa quả chín nhìn
lên/ Những điều tưởng đã lãng quên thì còn...”. Hoa xuyến chi trắng
muốt ngỡ là mỏng manh nhưng lại có thể âm thầm mọc kín cả những nơi cằn cỗi, sỏi
đá... để rồi khi nhìn từ xa chỉ thấy ngợp một sắc trắng mênh mông như những đám
mây trời sà xuống mặt đất. Những ngày xuân, hoa xuyến chi nở rộ làm nền cảnh đẹp
rất tao nhã: “Em thách cưới một vòng hoa xuyến chi/ Để tôi suốt trưa mải
mê khắp triền đồi lộng gió/ Bới tung từng bụi cỏ/ Khấp khởi vui mừng khi tìm được
một nụ hoa… Em có nhớ về hoa Xuyến Chi/ Như nhớ lời thầm thì đêm cuối đông
trời Hà Nội/ Thế kỷ xanh chông chênh trên lưng cụ Rùa cằn cỗi/ Gió Hồ Gươm - ta
không dối lòng mình!...” (Hoa xuyến chi - Phạm Vũ Ngọc Nga).
Ở cuốn “Lãng du trong văn hóa Việt Nam”, Nhà nghiên cứu
Hữu Ngọc đã thống kê: “Trong Truyện Kiều có tới hơn 130 câu thơ sử dụng chữ
“hoa”, không kể những câu thơ sử dụng tên hoa như: phù dung, đào, (lửa) lựu,
mai, lan, huệ… có thể đến hàng trăm”, Nhà nghiên cứu khẳng định: “Văn hóa truyền
thống Việt Nam mang dấu ấn của hoa”.
Xuân lại về, tiết trời ấm áp, ngoài kia trăm hoa đang đua nở,
thi nhân, thi sĩ cũng nở hoa xuân trong những vần thơ!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét