Nguyên Minh và Màu tím
1. Trên tay tôi là tập truyện mới nhất của nhà văn Nguyên
Minh: Màu tím hoa mua (MTHM) do Nhà xuất bản Thanh Niên cấp phép. Cuốn
sách trang nhã với nhiều tranh đẹp của các họa sĩ tên tuổi một thời, cùng sự
chăm chút trình bày của họa sĩ Nguyễn Sông Ba, gồm 21 truyện chiếm 241 trang.
Phần cuối sách có 10 phụ lục từ trang 243 đến 316 là lời của 10 nhân vật trong
cuộc, những con người bằng xương bằng thịt lúc đậm lúc nhạt xuất hiện trong tác
phẩm Màu tím hoa mua theo dòng ký ức của tác giả, như những chứng
nhân, như những tâm tình yêu thương mà bạn bè dành cho tác giả. Hai mươi mốt
câu chuyện nhẹ nhàng xoay quanh những vùng đất tác giả đã sống, đã đi qua;
quanh những khuôn mặt bạn bè, gia đình, những con người thân sơ anh đã quen, đã
gặp như mối nhân duyên lạ kỳ của số phận được gắn kết bởi văn chương…
2. Tôi thích màu tím. Như nhiều phụ nữ già trẻ vẫn thích. Cái
màu buồn buồn mà kiêu sa chung thủy. Cái màu thương màu nhớ… Và những đóa hoa
mua mộc mạc hoang dại vượt khô cằn sỏi đá tím ngát cả một vùng đồi núi khắp các
miền Bắc Trung Nam… phải chăng cũng là một biểu trưng của tình yêu, của tình bạn
thủy chung, của sức sống bình dị mà kiên cường không gì dập tắt nổi của một tâm
hồn đã trót hẹn với văn chương… Vì vậy, tôi đã thích thú đón nhận tập truyện Màu
tím hoa mua của anh Nguyên Minh với ý nghĩ ban đầu: có lẽ là tập truyện về
những/ một mối tình sâu đậm của anh như anh em thân hữu lâu nay vẫn đùa ghẹo anh
về một T., nào đó… Mà mỗi lẫn nhắc đến những dấu chấm, chấm… ấy anh vẫn bối rối,
đỏ mặt, cười lỏn lẻn… e thẹn rất duyên như một cậu học trò bẽn lẽn nói về mối
tình đầu thơ mộng của mình. Không chút u sầu hay dằn vặt. Không lấm la lấm lét
nhìn xem L. nhà mình có nổi cơn Hoạn Thư không… Trong sáng. Hồn nhiên. Rất lạ.
Nhưng đọc hết 21 câu chuyện của anh trong Màu tím hoa
mua, nhất là ở truyện cùng tên dài 13 trang (trang 197-209) hóa ra tôi đã nhầm.
Chỉ là một cái cớ. Một duyên cớ mà anh mượn để nói về đam mê lớn nhất đời mình:
Đam mê văn chương chữ nghĩa. Nỗi đam mê mà anh đã đánh đổi bằng tình yêu, hạnh
phúc và cuộc sống của bản thân mình trong từng ấy năm tháng… Ít ỏi chi, 72 năm,
cả một đời người... Kỷ niệm buồn về một mối tình đã lỡ cứ thổn thức trong những
chuyến đi về Phan Rang - Sài Gòn qua những ngọn đồi nhuộm đầy một màu tím hoa
mua… tuy có bàng bạc trong truyện và tất nhiên tất cả truyện khác của anh,
nhưng thật ra câu chuyện tình lỡ này chỉ được nhắc tới vỏn vẹn 13 dòng cuối
truyện như một chút chạnh lòng. Theo dòng hồi tưởng của tác giả, 13 trang của
câu chuyện Màu tím hoa mua - được anh dùng làm nhan đề cho tập truyện
thứ 5 này sau Đám tang đa đa, Căn nhà hoang xuất bản trước 75; Tưởng
chừng đã quên (2007), Ngôi nhà số 11 (2009) như bùng lên từ bài hát Anh
còn nợ em trong buổi ra mắt tập thơ Khuya thắp nắng của anh Đoàn
Văn Khánh. Những hồi tưởng cứ miên man về cuộc tình lỡ đầu đời mà anh đã đánh đổi
cho món nợ văn chương với nỗi dằn vặt: Thì ra anh đã bỏ cuộc. Sự lựa chọn
đời mình đã phí công sao? (trang 198) để đến với miền ký ức những ngày đầu anh
trở lại với chữ nghĩa: Gầy dựng tập san văn học nghệ thuật Quán Văn ban đầu
là cuộc chơi mới của những người cũ qua 16 số báo, từng khuôn mặt bạn
bè… dần dà thành cuộc chơi của những người yêu văn chương… không phân
biệt cũ mới, thành danh - chưa thành danh, già trẻ, Bắc Nam… Và anh đã làm được.
Đã kết nối được. Đã trở về được với chính mình. Một kẻ tình si suốt đời của chữ
nghĩa, văn chương…
Trong MTHM, thời gian các câu chuyện cứ đan xen lẫn nhau,
chúng ta bắt gặp nỗi đam mê tuổi trẻ của anh và các bạn ở “Một thời Ý Thức”, về
từng giai đoạn làm báo Ý thức trước những năm 1975 và về các số Quán Văn tâm
huyết hai năm nay đã đem lại cho anh sức sống mới, đã giúp anh tìm lại được
chính mình sau 25 năm dâu bể… Điều ấn tượng hơn cả là qua những trang viết như
kể, viết như thầm thì thủ thỉ với chính mình ấy, anh lại không nói về mình, về
cái Tôi như thông thường các nhà văn chúng ta vẫn thế. Trái lại, xoay quanh TÔI
là những kỉ niệm ân tình, những duyên gặp gỡ, những cá tính độc đáo… làm nên những
bức phác họa chân dung của những người bạn còn và mất của anh trong nhiều chặng
đường đổi thay của đất nước, qua nhiều nơi chốn… Nhưng ấn tượng nhất có lẽ vẫn
là dòng sông quê nhà thân thương chảy suốt tuổi nhỏ nghịch ngợm và những năm
tháng hoa niên thơ mộng nhiều khát khao hoài bão của anh. Có thể thấy rõ điều
đó trong truyện đầu tiên Chuyện một dòng sông qua từng khuôn mặt bạn
bè của anh, những cây bút đã góp phần làm nên dòng sông Dinh văn chương của xứ
nắng Phan Rang ấy: những Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Ngy Hữu, Chu Trầm Nguyên Minh, Hoài
Khanh, Phạm Văn Nhàn, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Lệ Uyên, Lê Ký Thương, Nguyễn Lệ
Tuân, Vô Thường…
Một dòng sông quê hương hiền hòa của một vùng nắng gió khô cằn
bắt nguồn từ dãy núi cao E Lâm Thông giáp với Lâm Đồng và Phan Rang từng là nỗi
nhớ da diết của những người con xứ nắng. Đẹp thay đã cho văn chương những ngòi
bút tài hoa. Có chút kiêu hãnh ngọt ngào trìu mến khi anh nói về những người
góp mặt làm nên tên tuổi con sông Dinh yêu mến của anh, Ngôi nhà số 11 của
anh…
Chân thành đến xúc động, không làm dáng hay phấn son kiểu
cách, Màu tím hoa mua còn làm người đọc dễ dàng nhận ra khát vọng dành
trọn cuộc đời trả nợ văn chương của anh: “Thời gian chúng tôi còn lại chẳng bao
lâu nên sống hết mình cho văn chương. Và, làm được gì cho nhau, không chần chừ
gì nữa…” (Chuyện một dòng sông, trang 21)
Điều này không phải một lần mà nhiều lần anh từng nhắc đi nhắc
lại trong nhiều trang viết của mình như một lời tự nhủ, tự động viên mình. Nói
đúng hơn, như một tâm nguyện thiết tha thực thà đến cảm động:
“Những ngày còn lại cuối đời, tôi không có thời giờ để tự vấn
mình nữa, mà tôi phải viết ra những gì tôi ấp ủ trong lòng từ bao nhiêu năm của
cuộc đời tôi về những người đã đi qua đời tôi như một món nợ cần phải trả. Nếu
không, như có một vật gì nặng nề đè lên trái tim tôi làm tôi ngạt thở. Và tôi sẽ
chết.”
(Ông bạn già, trang 31)
3. Cũng không thể không nói đến điều này: 21 tác phẩm xen lẫn tùy
bút hồi ký truyện trong MTHM của nhà văn Nguyên Minh thực chất rất khó xác
định ranh giới thể loại. Lệ thường mang tính trường lớp, khi đọc một tác phẩm
là phải xác định thể loại để từ đó có thể lựa chọn cách đọc, cách hiểu phù hợp.
Thơ là cảm xúc nhịp điệu. Truyện thì cốt truyện, nhân vật và hư cấu. Hồi ký thì
sự kiện và chi tiết… Thế nhưng, có lẽ phải theo quan niệm của tác giả mà gần cuối
tập truyện Nguyên Minh đã rất ý thức khi xác định: “Truyện ngắn thì phải có hư
cấu. Hồi ký thì phải đúng sự thật. Ở đây thật hư lẫn lộn. Tốt nhứt không để thể
loại gì cả” (MTHM, trang 199). Tôi lại muốn hỏi anh câu hỏi đã từng hỏi anh Chu
Trầm Nguyên Minh khi đọc Con bách thảo cái và Tội ngu: Bao nhiêu
% là sự thật trong truyện của anh?
Hỏi thì hỏi vậy, nhưng thật sự, theo cảm nhận riêng tôi, nổi
bật vẫn là những ký ức, những hồi tưởng vừa rời rạc vừa hệ thống trải dài suốt
những năm tháng thiếu niên của anh và bè bạn. Theo dòng chảy ký ức từ con sông
Dinh sinh ra của anh, đến sông Hương quê nội cổ kính xa xăm… người đọc có thể bắt
gặp những địa danh quen thuộc: Phan Thiết, Phan Rang, Tuy Hòa, Quy Nhơn, Đà Lạt,
Sài Gòn… theo bước chân chữ nghĩa ‘tòa soạn theo chân người viết’ của anh. Có
khi còn vượt cả biên giới quốc gia khi ngòi bút của anh bị dòng sông Seine xinh
đẹp quyến rũ trong “Sông Seine và tôi”…
Có thể bắt gặp hình ảnh một cậu bé tinh nghịch từ những ngày
con nít tiểu học còn hồn nhiên vô tình mà tai ác ghẹo bạn là “con đầm cùi” để bị
cô giận dữ sẵn cây viết mực cầm trên tay phóng luôn vô tay, cắm phập vào da thịt…,
và rồi suốt đời ân hận như nợ “Một lời xin lỗi” trong Chốn xưa. Bởi cậu có
biết đâu… mấy tiếng “con đầm cùi” ấy khiến Hường đau đớn hơn là cầm dao đâm vào
tim cô bé… vì cô đang sống với người mẹ bao giờ cũng mang mặc cảm của một người
đàn bà bị bọn lính tây Lê dương hãm hiếp!
Có thể cùng anh qua những ngày mới lớn mộng mơ đến những năm
tan tác và những ngày tháng thất thập cổ lai hy, ấm áp bên thầy cô bè bạn, gia
đình… trong Giang hồ, Ông bạn già, Mảnh đời, Trăng lưng đồi, Những trang
viết rời, Bức tranh, hay ước gì tôi được một lần hy hữu đón “Ánh trăng rằm
trong đêm Giáng Sinh” như anh trong Đêm Noel trong đời tôi…
Màu tím hoa mua còn thấp thoáng những ký ức gia đình, về
ngôi từ đường cổ kính với con đường làng nhỏ nhắn, cong queo, lầy lội của làng
Ngọc Anh xứ Huế nay đã bê tông hóa láng trơn, rộng ra… Và những nỗi niềm đau
đáu như không chỉ của riêng một dòng họ mà là bi kịch thực tế xót xa của cả dân
tộc mình: “Đã qua một thời chiến tranh. Trong mỗi gia đình ít nhiều đều có con
cháu ngả về hai phía đối nghịch nhau, vì những hoàn cảnh phân ly của đất nước,
đến mức phải hận thù. Bây giờ, họ đã cùng nhau nằm dưới đáy mồ, cùng nhau về ngồi
trên bàn thờ nhà từ đường. Gần bốn mươi năm rồi còn gì.” (Nhà mình có
hoa, trang 240)
Cũng xứ Huế ấy còn thấp thoáng ngôi trường Quốc học- hồn
xưa mà mỗi lần trở về anh đều cảm thấy mình nhỏ bé. Rồi con đường có những
hàng cây Đoác ám ảnh như “Những linh hồn đứng” trước đây anh từng kể trong Tưởng
chừng đã quên…
Màu tím hoa mua còn in đậm ký ức về những khuôn mặt bằng
hữu xa gần khắp nơi, thân sơ… đã đến bên cuộc đời anh - những cây bút ít nhiều
đã quen thuộc, nổi danh cũng như ít nổi danh: Ngy Hữu-Trần Hữu Ngũ, Thái Ngọc
San, Võ Tấn Khanh, Đỗ Quang Em, Trần Hoài Thư, Đặng Kim Côn, Phạm Cao Hoàng, Ngụy
Ngữ, Lê Văn Ngăn, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Lê Ký Thương, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh,
Từ Sâm, Đỗ Hồng Ngọc, Đặng Tiến, Hoàng Khởi Phong… Và về những người bạn mới
hơn: Nguyễn Hòa VCV, Đoàn Văn Khánh, Trương Văn Dân, Elena, Ban Mai…
Qua những câu chuyện bè bạn của anh, cái vòng tay bằng hữu ấy
bỗng như thật gần gũi thân thiết, bỗng cũng ấm áp thân thương… dù có nhiều tên
tuổi, đến giờ, tôi chỉ mới “Văn kỳ thanh…”
Càng đọc, dòng hồi ức “stream of memories” ấy cứ tuôn trào,
cuộn chảy miên man như không bao giờ cạn…Và vì là hồi ức nên anh chọn giọng kể
- nhân vật tự sự cũng là chính anh - Tôi - Nguyễn Chí Minh - Minh Bui - Nguyên
Minh… một con người nhỏ bé nhưng đầy đam mê, hiền hòa nhưng kiên cường, vui
tính nghịch ngợm nhưng nhân hậu thủy chung, một người bạn chí tình chí nghĩa với
bạn bè và hết lòng yêu văn chương như máu thịt cuộc đời mình…
4. Và không dễ đọc những câu chuyện hồi ức này của anh nếu không
đặt mình vào tâm thế, bối cảnh những năm 70 của các câu chuyện ấy. Bức tranh
văn học sử ở một vùng được coi là tỉnh lẻ hiện lên khá thú vị và chân thực. Ít
nhiều cũng có giá trị tư liệu nhất định đối với bộ mặt văn học thời Ý Thức và
tái hiện phần nào không khí văn học miền Nam nói chung dù chỉ dừng lại ở một
nhóm văn nghệ sĩ nhất định. Người đọc cũng hiểu thêm về tập san Quán Văn ở Sài
Gòn sau này mà anh là chủ biên. Cái giọng kể có vẻ monotone lắm lúc khiến người
đọc chìm sâu vào quá khứ miên man của tác giả… May thay, anh đã có lối kể chuyện
có duyên, làm nó thành những câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn với nhiều chi tiết thật
hư cứ quyện vào nhau bởi cái tình sâu nặng và cả cách viết khá tỉnh táo, kịp ngắt
thành những tiểu truyện không để dòng hồi ức ấy chìm cuốn trôi đi… Nhiều câu
văn ngắn, sử dụng cấu trúc câu đơn đặc biệt như lắng đọng, như trầm tư, hoặc những
đoạn văn tác giả nhân vật như thoát ra bên ngoài sự kiện và tự nhìn ngắm nó…
cũng là một chọn lựa thích hợp của người viết.
Đọc lại lần nữa Màu tím hoa mua, một kẻ sinh sau đẻ muộn
như tôi, bỗng tiếc vô cùng sao mình không được sống những ngày rất đẹp ấy, bên
những người bạn quý báu ấy… Cảm động thay, bây giờ, tôi thấy các anh vẫn lặng lẽ
ân cần bên nhau, vẫn tiếp tục cuộc chơi văn chương thời hoa niên đã chọn, vẫn
như không có cái khoảng dài nửa thế kỷ bao nhiêu là vật đổi sao dời vắt ngang
đau đớn… tưởng đã lạc mất mình, tưởng đã lạc mất nhau.
Gấp sách lại, tôi vẫn còn bàng hoàng về cái chết dữ dội của
anh Từ Thế Mộng. Ôi, hy vọng đó chỉ là hư cấu! Tôi vẫn còn thấy trên bàn thờ
anh chồng tập thơ vừa in xong chưa kịp gửi tặng hết bạn bè thân hữu… Tôi vẫn còn
thấy căn phòng chất đầy tranh ở Đà Lạt của họa sĩ Lưu Công Nhân và ngón tay run
rẩy của anh viết những dòng cuối cùng lên trang bìa cuốn sách hội họa của mình
mà vĩnh viễn anh cũng chỉ mới thấy được tấm bìa …
“Một đời… yêu! Một đời… vẽ!
Và
Rồi cũng hết…”
Gấp sách lại, tôi vẫn nghe tiếng guitar của Vô Thường phủ kín
hồn tôi những đêm cứ là đêm như thế này…
Gấp sách lại, tôi vẫn cứ thấy Ngôi nhà số 11 của
anh. Vẫn cứ thấy khung cảnh quán café Tao Nhân đêm diễn độc nhất được tái hiện
đầy ấn tượng trong Bèo trôi giữa dòng… Vẫn tưởng tượng như đang nghe
tiếng guitar bập bùng của người nhạc sĩ thiên tài: “… Mẹ ngồi trăm năm như
thân tượng buồn để lại quê hương. Tuổi còn bơ vơ thế giới hằn thù chiến tranh
ngục tù” [1], vẫn nghe
anh thét gào “Hãy sống dùm tôi hãy nói dùm tôi hãy thở dùm tôi, thịt da này
dành cho bạo quyền, cho tham vọng của một lũ điên…” [2] và nức nở:
“Chiều nay còn mưa sao em không lại, nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau,
hằn lên nỗi đau” [3]… và tiếng
hát của Mây Trôi: “Tôi có người yêu chết trận Pleime. Tôi có người yêu ở chiến
khu D, chết trận Đồng Xoài…” [4].
Gấp sách lại, tôi như thấy khuôn mặt rất “Phật bà Quan Âm” của
Mây Trôi, thấy cái dáng ngồi ngang ngược của cô và cả tiếng hát khản đặc mùi
thuốc lá, cũng như chiếc áo dài tím dịu dàng Mây Trôi mặc đến cùng hát với Trịnh
Công Sơn. Nhân vật nữ độc đáo này có cảm giác chỉ mới là những nét phác thảo
cho một truyện dài hơi khác của Nguyên Minh. Một cô giáo hiền lành có khuôn mặt
trái xoan và đôi mắt màu hạt dẻ… Một nữ huynh trưởng Hướng đạo mẫu mực, năng động
trong Gia đình Phật tử… Rồi chiến cuộc. Người chồng sắp cưới tan xác trong một
cuộc hành quân... Cô trả áo lam, bỏ nghề, sống thác loạn… Cô hóa thành “Nữ
Tặc”, mặt trát đầy phấn, môi đỏ bầm, tóc quăn và xù lông nhím… Và cô đã biệt
tăm sau đêm hát cùng Trịnh Công Sơn ở quán Tao Nhân 11 Nguyễn Thái Học của anh.
Biệt tăm.
Ước gì tôi gặp lại Mây Trôi, Vân Phi, Nữ Tặc… Ước gì tôi được
ôm nàng khóc cười cùng phận người phụ nữ thời chiến chất trên đôi vai gầy guộc
mỏng của Mây Trôi…
Thương nghẹn lòng.
Những mảnh vỡ tâm hồn giờ chắc đã hằn sâu hay phai nhạt?
Mây Trôi ơi, nơi cuối trời nào đó… bây giờ Nàng ở đâu? Ở
đâu…?
Anh nói anh còn nợ em. T. à. Nợ cuộc tình đầu trong veo như
tiểu thuyết…
Hay thật ra anh đang nợ anh, món nợ văn chương mà 25 năm sau
1975, thời thế đã làm anh mòn lưng trong cuộc áo cơm… bỗng bùng lên mạnh mẽ hơn
bao giờ hết:
Như ngựa đã xổ chuồng. Cánh đồng rộng mênh mông. Khung trời
bao la. Những dòng sông nước trong. Những ngọn đồi xanh cỏ mọc. Tôi thoát khỏi
nỗi cô đơn đã từng nhấn chìm mình trong bao nhiêu năm. Một câu hỏi như nhắc nhở
tôi của người tình xưa làm tôi bừng tỉnh. Tôi viết trong cơn mê đồng bóng. Cuộc
đời đã cho tôi biết bao điều khổ đau cũng như hạnh phúc cận kề. Tôi đón nhận cả
hai và tôi xin cám ơn đời. Tôi đã trải nghiệm qua cuộc sống. Tôi viết ra như trả
nợ người. Tôi viết ra như trả nợ đời. Thế thôi.”
(Màu tím hoa mua, trang 199-200)
Đó không chỉ là món nợ cuộc đời, không chỉ là món nợ với những
người thân yêu lỡ làng lỗi hẹn, mà còn là món nợ chính mình.
Phải, anh còn nợ Chính Anh, anh Nguyên Minh!.
Chú thích:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét