Đời thường và trang viết
Miền Nam giải phóng được mấy hôm. Bữa ấy tôi gặp
nhà văn Lê Lựu ở 150 Trần Hưng Đạo, quận 1. Dãy nhà 5 tầng, vốn là khách sạn
Metropole được tạm thời làm trụ sở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. Rời căn cứ
vùng rừng Lộc Ninh theo đoàn quân chiến thắng, cơ quan Tạp chí Văn nghệ Quân giải
phóng tiếp quản khu nhà này với hàng chục căn phòng còn nguyên giường tủ, điều
hòa.
Nhà văn Lê Lựu
Từ đây xuống Quận 5, lên dinh Độc lập, chợ Bến Thành hay tới
bến phà Thủ Thiêm rất tiện, có thể đi bộ được. Các anh ngoài Tạp chí Văn
nghệ Quân đội Hà Nội khi vào Nam công tác bao giờ cũng ghé đây trước rồi
đi đâu mới tính. Có người lấy đó làm nơi tá túc những ngày làm việc, cũng có
người ngồi chơi một lúc rồi đi luôn. Bởi thế tôi đã được gặp những nhà văn, nhà
thơ tên tuổi từng ngưỡng mộ như Vũ Cao, Hữu Mai, Hải Hồ, Phạm Ngọc Cảnh, Hồ
Phương, Xuân Thiều… Với một người mới tập tọng viết lách, mà lại ở tít trong rừng
miền Đông, thì đấy là một diễm phúc. Dạo ấy Lê Lựu đang là cây bút nổi tiếng và
sung sức trên văn đàn. Trước khi diện kiến, tôi đã biết tên tuổi anh qua các
tác phẩm Người cầm súng, Phía mặt trời... và được xem bộ phim truyện Người
về đồng cói chuyển thể từ truyện vừa cùng tên của anh nữa. Sau này anh còn
xuất bản nhiều sách trong đó có cuốn Thời xa vắng đã làm nên “cơn sốt”
với bạn đọc. Tôi vẫn hình dung một Lê Lựu dáng người cao ráo, nước da trắng,
gương mặt nhẹ nhõm gắn đôi kính cận rất trí thức. Và nhất là trong cách nói
năng giao tiếp thì nhỏ nhẹ, thậm chí hơi kiểu cách. Văn là người mà, tôi vẫn
nghe người ta bảo thế. Những trang văn mượt mà đằm thắm và lối kể chuyện dí dỏm
hấp dẫn như có ma lực của anh chẳng đã lôi cuốn tôi đến ngẩn ngơ đó sao? Nhưng
khi Lê Lựu xuất hiện thì sự mường tượng ấy hoàn toàn bị đảo lộn. Đôi bàn tay
thô tháp, bước đi nặng nề lúc nào cũng vội vàng hấp hoảng với tấm lưng dày đúc
lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi và giọng nói đặc quánh hương vị thuốc lào, nước chè
tươi, thêm nụ cười nhọc nhằn, Lê Lựu là bức chân dung đích thực của một nông
dân của vùng đồng bãi bắc bộ, đông con, chạy ăn từng bữa. Xởi lởi, bình dân, Lê
Lựu cho tôi ngay từ đầu cảm giác dễ thân, gần, dễ tin cậy.
Lê Lựu cho tôi biết chuyến đi thực tế này của anh là để nắm bắt
không khí miền Nam sau ngày giải phóng, tâm trạng người dân trước một đổi thay
có tính chất bước ngoặt và cách vận hành của bộ máy công quyền mới. Dĩ nhiên,
anh nói, đấy chỉ là những ghi chép làm tư liệu cho sau này, chứ muốn viết tiểu
thuyết thì cần phải có sự lắng và độ lùi thời gian. Cái bề nổi hiện tại chỉ
thích hợp với bút ký, phóng sự. Trao đổi qua loa bên bàn trà, nhưng đấy là bài
học kinh nghiệm Lê Lựu đã tích lũy mà anh muốn truyền đạt lại cho tôi…
Vượt qua chặng đường gần hai nghìn cây số, mấy ngày vật vã
lăn lóc trên ô tô, tàu hỏa, vậy mà chiều hôm ấy anh đã khoác ba lô hỏi đường,
bám xe đò đi xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Một tuần sau, một hôm khi
thành phố lên đèn, một người xe ôm đã đưa Lê Lựu trở về 150 Trần Hưng Đạo, khi ấy
mấy anh em cơ quan cũng vừa ngồi vào mâm cơm. Lê Lựu bảo tôi, mấy ngày vừa qua
anh đi được khá nhiều nơi, tài liệu thu thập đầy 2 quyển sổ, nhưng điều thú vị
nhất với anh là đã được tiếp xúc trực tiếp với người dân Nam bộ, bước đầu hiểu
được tình cảm của họ với cách mạng, và anh sẽ còn trở lại vùng đất ấy nhiều lần
nữa. Sáng hôm sau ăn sáng xong Lê Lựu vào phòng tôi, uống chưa tàn ấm trà, chẳng
cần rào đón ý tứ, anh bảo, việc công xong rồi, giờ đến việc tư. Bây giờ ông đưa
tôi ra chợ đồ cũ mua mấy thứ, nhiệm vụ vợ giao, còn quan trọng hơn thủ trưởng
cơ quan. Anh thật thà, mình chỉ đáng dùng đồ cũ thôi, ít tiền mà. Ngoài Bắc thiếu
thốn đủ thứ, phân phối từ cái bát ăn cơm đến cây kim sợi chỉ, có chút nhuận bút
tích cóp giờ mới đem ra dùng. Thấy anh nói có lý, vả, mấy khi được đi với nhà
văn nổi tiếng, thế là tôi xuống đường cùng anh. Chợ trời đồ cũ Huỳnh Thúc Kháng
có đủ mọi thứ thượng vàng hạ cám. Điện tử, điện cơ, điện lạnh, phụ tùng… lớn là
tủ lạnh, đàn piano, nhỏ như cái bàn cạo râu cánh cụp cánh xoè, bộ dũa móng tay
móng chân phụ nữ… Tôi ngồi đợi đầu chợ, để một mình Lê Lựu khoác túi len vào.
Chừng hơn tiếng đồng hồ, từ trong đám người chen lấn với xô bồ hàng hóa, Lê Lựu
đi ra, vẻ mặt hí hửng như người nhặt được của, tay xách nách mang, nào quạt điện,
cát sét, máy xay sinh tố… Người đầm đìa mồ hôi, nhưng dường như anh không quan
tâm đến điều đó. Uống chưa kịp hết cốc nước sinh tố rau má, Lê Lựu đã rối rít
giục về. Anh không thể “hoãn được sự sung sướng” đang thôi thúc.
Mở vội cửa ào vào nhà, Lê Lựu cắm cắm, bật bật. Chiếc quạt
bàn hiệu Hitachi chạy vù vù, từ máy cát sét giọng ca Khánh Ly với bài hát Nối
vòng tay lớn của Trịnh Công Sơn vang lên làm căn phòng bỗng chốc trở nên đầy
sinh khí, rồi máy xay sinh tố… tất cả đều được khởi động an toàn, không có trục
trặc gì. Lê Lựu lúc này như khác hẳn Lê Lựu trước đấy. Anh như trẻ ra, náo hoạt,
xăng xái hẳn lên. Nở nụ cười đầy mãn nguyện với “thành quả” đã đạt được…
Mua hàng mặc cả khi trả tiền, điều này tôi chỉ gặp ở những bà
nội trợ, nghĩ cho cùng, đó cũng là một nghệ thuật trong giao tiếp. Đám công chức,
trí thức thành thị đa phần mắc “bệnh sĩ”, người bán nói bao nhiêu mua bấy
nhiêu, thế nên nhiều khi mua đắt gấp ba, bốn lần mà không biết. Lê Lựu thì
không, anh cứ chân chỉ hột bột, tiếp thu cái “nghệ thuật” đó một cách thành
công. Đang mạch hưng phấn, Lê Lựu như khoe: “Rất nhiều thứ ông à, cái gì cũng
muốn, nhưng… mai còn phải đi mua cái nồi cơm điện, bàn là nữa. Vợ giao nhiệm vụ
không hoàn thành về không cho vào nhà ấy chứ…”. Tôi chợt nghĩ Lê Lựu không phải
là con người đại khái đơn giản chỉ viết văn hay, mà anh còn tỉ mỉ, biết lo toan
cân đong đo đếm cho gia đình như một người nội trợ đảm đang. Đằng sau cái lấp
lánh văn chương của một nhà văn có tài, trong anh còn có bóng dáng một phụ nữ
nông thôn tảo tần, chịu thương chịu khó cả đời vì chồng vì con, chưa khi nào
nghĩ tới ăn ngon mặc đẹp cho riêng mình. Giữa Sài Gòn, một bước ra khỏi nhà chỗ
nào cũng hiệu ăn, quán uống, bình dân có, sang trọng không thiếu, ai cũng nghĩ
anh có quyền “tự thưởng” cho mình mỗi sáng một tô hủ tiếu nặng tay, hay một chầu
cà phê, thuốc lá thơm ở những cửa hàng mặt phố sầm uất. Nhưng Lê Lựu chẳng để
ý, vẫn hàng ngày trung thành với bữa cơm tập thể đạm bạc ở cơ quan, ngay cả đi
xe lam, xích lô cũng không, với chủ trương tiết kiệm dành tiền mua sắm đồ dùng
cho gia đình.
Dãy nhà 150 Trần Hưng Đạo có một hành lang chạy giữa, phòng ở
hai bên. Thường, phòng của các anh Tạp chí Văn nghệ Quân đội ít khi mở
cửa vì đi vắng cả ngày. Lê Lựu cũng không ngoại lệ, khi nào thấy cửa phòng mở
là y như rằng anh vừa đi “săn hàng” về. Không giấu giếm, mua được cái gì anh
đem khoe ngay. Biết tính anh, có hôm tôi đùa, chuyến này về Hà Nội chắc anh Lựu
sẽ cho ra tiểu thuyết “săn hàng” đây. Lê Lựu không tự ái, chẳng thế anh còn bảo
tôi là đồ dở hơi, văn chương có phải lúc nào cũng ngồi viết được đâu. Trong bối
cảnh giao thời cũ mới, mọi thứ chưa định hình, chưa bộc lộ hết, giờ là thời điểm
của báo chí, nhà văn nếu có, chỉ là gặp gỡ nhân chứng, lấy tài liệu, càng nhiều
càng tốt, đóng cửa ngồi trong phòng là bỏ phí thời gian vàng ngọc. Sau này ngẫm
lại mới thấy những điều anh nói là có lý.
Một hôm đang giữa trưa, Lê Lựu chạy vội về, anh lao ngay vào
phòng tôi thông báo một tin “quan trọng”: Ngoài cửa hàng Lê Lai bán áo thun
theo giấy giới thiệu, người ta đang chen nhau mua. Thấy tôi có vẻ nghi ngờ, anh
nhắc lại như đinh đóng cột, rằng anh đã đến tận nơi, hỏi trực tiếp mậu dịch
viên, mỗi giấy giới thiệu được mua hai chiếc áo. Anh hối tôi đi cùng anh đến chỗ
anh Hoài Vũ xin giấy. Nhà thơ Hoài Vũ lúc ấy là Tổng biên tập báo Văn nghệ
Giải phóng. Tôi đang chần chừ, Lê Lựu giục, đi nhanh không hết hàng, nếu ông
không cần thì mua hộ tôi… Ngày đó ngoài Bắc vào rất thích áo thun. Để tránh đầu
cơ mua đi bán lại, các cửa hàng thỉnh thoảng lại tung ra một đợt bán theo giấy
giới thiệu cơ quan. Lê Lựu đang sốt ruột về chuyện này nên dù ngại nắng tôi
cũng không nỡ từ chối anh… Cầm hai cái giấy giới thiệu đóng dấu báo Văn
nghệ Giải phóng đỏ chót, Lê Lựu tự tin kéo tôi lại phía quầy hàng. Xem giấy
xong, cô nhân viên chừng ngoài 20 tuổi, lịch sự hỏi nhà văn, thưa… chú cần cỡ
nào ạ? - Em cho xem mấy loại cả nữ và nam nhé, giọng Lê Lựu thoáng chút hồi hộp.
Đặt những chiếc áo kích cỡ, màu sắc khác nhau lên mặt quầy kính, cô gái lại nhỏ
nhẹ: Chú lựa đi. Cầm những chiếc áo, Lê Lựu ngắm nghía, lộn trái, lộn phải, xem
nhãn mác rồi gật đầu nói, mặc thử cái đã. Rất tự nhiên, Lê Lựu khuỳnh tay định
cởi cái áo sơ mi cộc tay màu cháo lòng ướt đẫm mồ hôi trên người. Tôi vội nhắc
anh, lúc đó nhà văn như mới chợt nhớ và đi lại phòng thử đồ. Đứng trước chiếc
gương lớn, Lê Lựu quay sau, ngắm trước, hỏi có vừa không. Đoạn anh nói, không
biết với tôi hay với những người có mặt ở đấy: Áo quần là cứ phải vừa vặn,
không là như đồ đi mượn, mặc vào thêm xấu hổ… Rồi anh “diện” luôn chiếc áo đó,
không cởi ra nữa…
Chiều đó tôi lại “tháp tùng” nhà văn đi chợ Bến Thành. Anh cần
mua vài thứ nữa để tối đóng gói chuẩn bị về Bắc. Đã có chủ định từ nhà, vào chợ
anh sà ngay đến chỗ bán đậu xanh, gạo thơm. Những thứ này ngoài mình phải có
tem phiếu mới mua được, anh nói, mà đâu ngon thế này. Tôi hiểu đây là lúc anh
nghĩ tới đứa con nhỏ ở nhà. Máy xay sinh tố có rồi, đậu xanh, gạo ngon nấu cháo
xay nhuyễn, thêm chút đường kính vào, sẽ là món quà ngon trên cả tuyệt vời cho
con…
Mấy ngày đi với Lê Lựu, tôi chưa thấy nhà văn mua sắm cái gì
cho riêng mình, toàn cho vợ con và bếp núc, nhỏ nhặt như cái xay hạt tiêu, con
dao thái sắc lẹm bằng inos, lớn hơn là bình đun nước, nồi cơm điện.v.v… Anh vừa
viết văn hay lại đảm đang việc nhà, đức tính này không phải văn nhân nào cũng
có. Đường phố Sài Gòn giữa trưa nắng như đổ lửa, không mũ nón, nhiều hôm thấy
tôi ái ngại cho anh, anh cười cười: Cái số mình nó vất vả thế đấy ông à.
Đọc Lê Lựu, nhiều người cứ tưởng rằng mỗi khi anh đặt bút xuống
là văn chương sẽ ào ạt chảy tràn trên trang giấy, nhưng không, anh viết một
cách vất vả, chật vật như thợ cày thợ đấu. Anh đánh vật với trang giấy đến mức
kiệt sức, vắt đến giọt mồ hôi cuối cùng, chút sức lực cuối cùng. Vậy nhưng
không phải lúc nào cũng thành, viết rồi xé, xé rồi lại viết, đến mức thuộc lòng
những trang viết. Anh có thể đọc làu làu không vấp váp, cũng chẳng sai một dấu
chấm, dấu phảy cả một chương tiểu thuyết dài, hoặc một thiên truyện ngắn. Với
hơn 20 đầu sách đã đưa anh tới vinh quang của nghề cầm bút, được tặng giải thưởng
Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007) như Thời xa vắng, Mở rừng (tiểu
thuyết), Người cầm súng (truyện ngắn). Nổi tiếng trong văn chương,
nhưng ngoài đời Lê Lựu lại giản dị, thân thiện dễ gần. Trong quan hệ giao tiếp,
có lẽ anh không biết giận ai, và cũng chẳng ai có thể giận anh dù cuộc sống có
lúc này lúc khác. Lần đầu tiếp xúc với Lê Lựu tôi đã mến anh bởi sự xởi lởi,
chân thực, không màu mè khách sáo, thế nên những ngày ấy đi đâu, giữa trưa nắng
hay chiều tối, lội phố đến rạc chân, tôi luôn tự nguyện và thấy hãnh diện được
làm “cái bóng” của anh…
Nhiều năm nay Lê Lựu đau ốm nằm một chỗ, văn hay, khỏe mạnh
là thế mà bây giờ phải có người thường xuyên bên cạnh giúp đỡ. Trong văn chương
anh sắc sảo tinh nhạy bao nhiêu thì giữa đời thường anh lại thật thà đến ngây
thơ bấy nhiêu. Và nó cũng chẳng giúp gì được cho anh trước những toan tính của
con người mà anh đã dành trọn yêu thương, để rồi cuối đời sống trong bệnh tật,
cô đơn... Phải chăng cái câu “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” đã ứng vào
anh?...
Thế đấy, con người ta không ai nói trước được điều gì…
19/7/2020
Lê Văn Vọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét