Chân dung Nguyễn Du - Phần 1
(Khảo
luận của Vũ Hoàng Chương - Nguyễn Sỹ Tế - Nguyễn Văn Trung - Trần Bích Lan -
Đinh Hùng - Doãn Quốc Sỹ - Việt Tử - Trần Thanh Hiệp - Phạm Thếng - Thanh Tâm
Tuyền - Vũ Khắc Khoan - Nguyễn Thị Sâm)
Nguyễn Du (1765 – 1820)- 1765.– Năm sinh của Nguyễn Du.
- 1767.– Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên.
- 1771.– Khởi nghĩa Tây Sơn.
- 1775.– Nguyễn Nghiễm, thân sinh Nguyễn Du mất.
- 1782.– Trịnh Sâm mất. Loạn Kiêu binh ở Thăng
Long.
- 1783-84.– Nguyễn Du đỗ Tam trường. Làm một chức
quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
- 1786.– Nguyễn Huệ ra Bắc dứt họ Trịnh. Lê Hiển
Tông mất, Lê Chiêu Thống lên ngôi.
- 1787.– Vũ Văn Nhậm ra Bắc. Lê Chiêu Thống chạy
sang Trung Hoa. Nguyễn Du khởi nghĩa chống Tây Sơn thất bại, bị bắt giam 2
tháng.
- 1788.– Nguyễn Huệ lên ngôi lấy đế hiệu Quang
Trung.
- 1789.– Trận Đống Đa.
- 1790.– Nguyễn Huy Tự, tác giả Hoa Tiên
truyện mất.
- 1792.– Vua Quang Trung mất.
- 1797.– Sau mười năm phiêu bạt ở Bắc Hà, Nguyễn Du
về quê nhà ẩn dật.
- 1798.– Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung oán
ngâm khúc mất.
- 1800.– Phạm Thái viết Chiến Tụng Tây Hồ
Phú trả lời Tụng Tây Hồ Phú của Nguyễn Huy
Lượng.
- 1801.–....
- 1802.– Gia Long lên ngôi ra Bắc. Nguyễn Du làm
Tri huyện Phù Dục (Thái Bình).
- 1804.– Phạm Thái viết Sơ kính tân trang.
- 1806.– Thăng Đông Các đại học sĩ.
- 1809.– Lâm Bố Chính tỉnh Quảng Bình. Nguyễn Huy
Hồ viết Mai Đình mộng ký.
- 1913.– Thăng Cần Chánh đại học sĩ, đi sứ Trung
Hoa, viết Bắc hành thi tập.
- 1814.– Nguyễn Du thăng Lại Bộ hữu tham tri.
- 1819.– Gia Long mất. Nguyễn Công Trứ đỗ Giải nguyên.
- 1820.– Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du mất.
Thân thế và thời đại Nguyễn Du
Nguyễn Du sinh vào thời Lê Mạt, vào lúc xã hội
đang trải qua cơn khủng hoảng trầm trọng, lịch sử dồn dập những biến cố đảo
điên. Cơ nghiệp nhà Lê bắt đầu từ Lê Thái Tổ lên ngôi năm 1428 hoàn toàn sụp
đổ. Năm 1787 khi Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh và Lê Chiêu Thống
chạy sang cầu viện nhà Thanh. Trên thực tế nhà Lê đã mất từ đầu thế kỷ XVI năm
1527 khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi của Lê Chiêu Tông, sử chép: “… Từ khi nhà Lê
Trung Hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ ở phương Nam, họ Trịnh xưng chúa
xứ Bắc; trên tuy còn tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đã có
vua lại có chúa, làm thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy
là một thời loạn. Đến sau ở trong Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm
bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa
phải nhún mình mà chiều đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại
là một lúc đại loạn vậy” [1] .Chế độ tập quyền thiết lập từ nhà Đinh ở thế kỷ
thứ X đến hết thế kỷ XV thì bắt đầu tan rã. Nguyên nhân thứ nhất có thể kể đến
là nước Việt Nam không sợ bị nạn ngoại xâm đe doạ ở phương Bắc, Trung Hoa đang
bị bối rối về sự phân tranh giữa Minh và Thanh; nguyên nhân thứ hai là sự bành
trướng đất đai về phương Nam, công cuộc Nam Tiến từ nhà Lý coi như đã thành tựu
dưới thời Lê, các chúa Nguyễn sau này chỉ kế tiếp việc bỏ dở không gặp sự kháng
cự nào đáng kể. Suốt từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII là sự tranh chấp phân
chia quyền hành liên miên, hết Nam Bắt triều đến Trịnh – Nguyễn, tới thời
Nguyễn Du sự tranh chấp ấy diễn ra cảnh chia xẻ nát bét: Tây Sơn khởi nghĩa
đuổi Nguyễn diệt Trịnh, anh em Tây Sơn chia rẽ nhau. Có lúc trên một lãnh thổ
thiết lập ba triều đình khác nhau: luẩn quẩn khi Gia Định khi Phú Quốc là triều
đình Nguyễn Phúc Ánh, ở Phú Xuân là triều đình anh em Tây Sơn, ở Thăng Long là
triều đình nhà Lê. Cái tinh thần dân tộc thống nhất hùng mạnh dưới những đời Lê
– Lý – Trần – Lê không còn nữa, Nguyễn Nhạc lúc đuổi theo Nguyễn Huệ ra Thăng
Long để gọi em về, đã nói với Lê Chiêu Thống những lời sau này: “Vì họ Trịnh
hiếp chế, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh thì một
tấc cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê, thì một tấc cũng không dám lấy. Xin
mong nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cõi đất, để đời đời giao hiếu với
nhau, ấy là cái phúc của hai nước đấy”.Xét riêng xã hội Bắc Hà vào cuối thế kỷ XVIII
dưới các triều chúa Trịnh cuối cùng là một xã hội mục nát hoàn toàn không
phương cứu vớt. Trong gia đình nhà Trịnh, việc phế trưởng lập thứ của Trịnh Sâm
gây mầm nội loạn tranh chấp, anh em mưu hại lẫn nhau. Bọn quan lại suy đốn trốn
tránh nhiệm vụ, phỉnh nịnh luồn lọt người trên, tàn bạo hà hiếp dân lành, bọn
kiêu binh lộng hành uy hiếp nhà chúa, trừ diệt những người đối lập, cướp bóc ức
hiếp dân chúng [2]. Một vài sự kiện điển hình của thời đại bấy
giờ, sử chép “Lệ cứ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được thăng chức một
bậc, còn những người chân trắng mà ai nộp 2.800 quan thì được bổ tri phủ, 1.800
quan thì được bổ tri huyện”, đó là tình hình quan trường. “Đến năm Canh Ngọ
(1750), đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ thông kinh, hễ ai nộp
ba quan thì được đi thi, mà không phải khảo hạch. Thành ra lúc bấy giờ những
người đi làm ruộng, đi buôn, đi bán thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến
nỗi lúc vào thi, người tranh nhau vào trường xéo đạp lẫn nhau, có những người
chết. Vào ở trong trường người thì dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học trò
với quan trường thì thông với nhau, thành ra cái “chợ thi”, đó là
quang cảnh cuộc tưởng lựa nhân tài giúp việc trong bộ máy cai trị. “Từ đó quân
kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng nghìn đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi
lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu
địch, mà các văn thần võ tướng cũng bó tay mà chịu không làm sao được”, đó là
tình trạng an ninh của dân chúng. Tóm lại xã hội Bắc Hà bấy giờ không còn một
chút kỷ cương giềng mối nào nữa, một xã hội ngắc ngoải chờ chết. Đám dân lành
phải gánh chịu mọi tai ương: thuế khoá nặng nề, mất mùa đói kém, giặc giã chiến
tranh. Khâm định Việt sử nói về thời đại ấy đã ghi: “Chính sự
hư hỏng, thuế khóa nặng nề, lòng người ước ao sự loạn lạc”.Nguyễn Du lớn lên trong xã hội ấy.Dòng dõi trâm anh, tư chất thông minh, nếu sinh
vào thời bình, Nguyễn Du cũng sẽ hiển đạt như cha và anh – tiến sĩ Nguyễn
Nghiễm tước Xuân quận công, tiến sĩ Nguyễn Khản chức Tham Tụng. Điều nhạc hầu
Nguyễn Điều trấn thủ Sơn Tây – chẳng may sinh vào thời loạn – Nguyễn Du phải
trải trăm nghìn cay đắng. Thi Hương đỗ Tam trường, làm Chánh thủ hiệu ở Thái
Nguyên, lúc Tây Sơn ra Bắc, Chiêu Thống chạy sau lưng Trung Hoa, Nguyễn Du về
quê vợ ở làng Hải An huyện Quỳnh Côi tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Thái Bình) mưu đồ
khôi phục nhà Lê nhưng thất bại. Trong mười năm trời, lưu lạc trốn tranh ở đất
Bắc, nếm đủ mùi gian nan: nghèo túng, bệnh hoạn. Về sau thấy sức mình không
xoay nổi thời thế, ông tìm đường vào Nam định mượn tay Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn,
nhưng việc tiết lộ, ông bị bắt giam ở Vinh, ít lâu thì được tha. Từ đấy ông về
quê sống cuộc đời ẩn dật. Già nửa đời người sống trong cảnh loạn lạc, bất đắc
chí với những kinh nghiệm bản thân chịu đựng đã có ảnh hưởng gần như quyết định
trong sự nảy nở của thiên tài bất hủ về thi ca của Nguyễn Du.Khi Gia Long thống nhất đất nước, xã hội tạm
thời ổn định nhưng lòng người, nhất là ở Bắc Hà, vẫn còn hoang mang chưa tin
tưởng. Sự nghi kỵ giữa triều đình nhà Nguyễn đối với con cháu và đám cựu thần
nhà Lê, càng làm tăng thêm bầu không khí bất mãn của đám nho sĩ đất Bắc. Trong
giai đoạn thứ hai của đời Nguyễn Du, mặc dầu ra làm quan với Gia Long nhưng ông
không tỏ ra sốt sắng, nhiều lần cáo bệnh xin về, ở trong triều, theo sách Chính
Biên liệt truyện, ông ít nói năng, nhà vua đã có lần quở trách. Cũng theo
sách này Nguyễn Du là người bề trong có ý trợ phụ, mà bề ngoài thì thật thà cẩn
thận; khi thi sĩ mắc bệnh nặng, không chịu uống thuốc, lúc biết mình sắp chết,
chỉ nói một tiếng “được”, không trối lại điều gì cả.Sinh thời Nguyễn Du là một người học thức rộng:
ông học Nho, nhưng sách Phật, Lão đều có đọc, văn chương cổ kim Trung Hoa và
của ta ông đều biết. Ông còn là một người tài hoa, từng sống cuộc đời phong lưu
công tử ở chốn đế đô khi học ở Thăng Long, lúc về ẩn dật thường sang chơi bên
Trường Lưu với Nguyễn Huy Hổ (tác giả Mai Đình mộng ký, con trai
Nguyễn Huy Tự, cháu ngoại Nguyễn Khản), có khi cùng nhau đi nghe phường vải ở
đấy hát suốt đêm nên những câu ca lời hát trong những cuộc gặp gỡ gái trai ở
nông thôn cũng như giọng hát cung đàn trên chiếu rượu ông đều thông thuộc. Rồi
những năm lưu lạc ở đất Bắc, ông từng trải nhiều nên thông cảm sâu sắc được mọi
cảnh ngộ éo le, sự khổ cực của người đời. Cuộc đời phức tạp sóng gió của Nguyễn
Du đã giúp ông tạo được những tác phẩm giàu tính cách nhân đạo, nghệ thuật
tuyệt vời.
Tình hình văn học thời Nguyễn Du
Nếu phân chia thời kỳ văn học dựa vào tinh thần
thời đại phản chiếu trong tác phẩm, ta phải xếp Nguyễn Du vào thế kỷ XVIII. Thế
kỷ XVIII là thời phồn thịnh trong lịch sử văn chương Việt Nam, có một tinh thần
độc đáo mà kết tinh đặc biệt nhất của tinh thần ấy là Đoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du. Xét như thế sẽ nhận định được rằng về phương diện
văn học, sự xuất hiện tác phẩm của Nguyễn Du không phải là đột ngột, Đoạn
trường tân thanh chỉ là một bước trong quá trình phát triển của văn
chương Việt Nam trong thế kỷ XVIII.
Văn chương chữ nôm từ thế kỷ XIII đến thế kỷ
XVII còn nghèo nàn khuôn sáo về nội dung, vụng về non nớt về hình thức. Tới thế
kỷ XVIII, mở đầu là Chinh phụ ngâm, rồi Cung oán ngâm khúc,
văn chương chữ nôm đã trở thành một ngôn ngữ thi ca đáng kể diễn tả được những
tình cảm tư tưởng tinh vi tế nhị. Các tác phẩm tiến sát gần tới đời sống, ghi
lại được mọi khía cạnh phức tạp của đời người trong hoàn cảnh lịch sử. Tổng
quát mà nói các tác giả ở thế kỷ XVIII đều bi quan, tác phẩm của họ phần lớn
đều bi đát.I. Những tác giả chính trong thế kỷ XVIII- Đoàn Thị Điểm (1705-1748): Dịch Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn
- Nguyễn Gia Thiều (1741-1798): Cung oán
ngâm khúc
- Nguyễn Huy Tự (1743-1790): Truyện Hoa
tiên
- Phạm Thái (1777-1813): Chiếu tụng Tây Hồ
phú, Văn xuôi Khóc Trương Quỳnh Như, Sơ kính tân
trang.
- Hồ Xuân Hương (?): Thơ
- Nguyễn Du (1765-1820): Đoạn trường tân
thanh, Văn tế thập loại chúng sinh.
II. Những tác giả phụ- Nguyễn Bá Lân (1701-1785): Giai cảnh hứng
tình phú, Ngã ba hạc phú
- Nguyễn Cư Trinh (1716-1767): Sãi vãi
- Lê Quý Đôn (1726-1784): Văn sách kinh
nghĩa, Thơ
- Nguyễn Huy Lượng (?): Tụng Tây Hồ phú
- Nguyễn Hữu Chỉnh (? – 1787): Quách tử
nghi phúc, Ngôn ẩm thi tập, Cung oán thi, Bài văn tế chị
- Lê Ngọc Hân (1770-1799): Văn tế vua Quang
Trung, Ai tư vãn
- Phan Huy Ích (1750-1822): Dụ am văn tập,
Dụ am ngâm tập
- Nguyễn Huy Hổ (1783-1841): Mai Đình mộng
ký.
Bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh
của Hội Khai Trí Tiến
Đức [3]
Bài bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh
Tiếng nào đã làm được văn không phải là tiếng
tầm thường, người nào đã hay về văn cũng không phải là người tầm thường, đất
nào đã có người hay văn lại không phải là đất tầm thường.Tiếng ta phần nhiều căn cứ ở chữ Tàu, tư tưởng
cũng hấp thụ ở văn Tàu, song vẫn tự có một thể tài riêng, một tinh thần riêng,
xem những ca dao ngạn ngữ truyền đến ngày nay nhiều câu thật thà mộc mạc mà ý
vị sâu xa, chắc rằng cái mầm sống văn ta đã nảy nở từ thời kỳ tối cổ. Đến đời
Trần, ông Nguyễn Thuyên, ông Nguyễn Sĩ Cố đem lối thi phú làm bằng tiếng nôm,
văn ta một ngày một thịnh, dù học hiệu chưa giảng, khoa cử chưa dùng, song Hán
học thịnh lên bao nhiêu thì cái kho văn liệu của tiếng ta càng giàu thêm bấy
nhiêu, cho nên các bậc tiền bối thâm về Hán học, như ông Tiều Ấu, ông Ức Trai,
ông Bạch Vân Am, ông La Sơn đều nổi tiếng về quốc văn cả. Nay thử kể qua những
tập văn nôm cũ, chất phác như Trê Cóc, nghiêm chỉnh như Trinh
Thử, lâm ly như Cung Oán, diễm lệ như Hoa Tiên đều
là cái lịch sử rực rỡ vẻ vang của văn chương tiếng Việt. Ai bảo rằng một giải
đất con con ở dưới ánh sáng lập lòe sao Dực Chẩn lại không đủ tinh hoa linh tú
để chung đúc được bao nhiêu Lý, Đỗ, Hàn, Tô hay sao.Song xét cho kỹ, quốc văn từ Lê về trước thì
chất thắng, từ Lê về sau thì văn thắng, tìm một nhà chiết trung cả chất văn, để
làm tiêu biểu cho Hán học, thì Tiên Điền Nguyễn Tiên sinh là bậc đệ nhất vậy.Tiên sinh húy là Du, tự là Tố Như, hiệu là Thanh
Hiên, biệt hiệu là Hồng sơn Liệp hộ, sinh năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26
(1765), mất ngày mồng mười tháng Tám, năm đầu niên hiệu Minh Mệnh (1820), con
thứ bảy ông Hoàng Giáp Xuân, Quận công Nguyễn Nghiễm, người làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An. Tiên sinh vốn thiên bẩm cao, hậu về tình, hào về
khí, hùng và tài lại bác thâm về học vấn, ma chiết về cảnh ngộ, nên văn chương
dung hóa, thấu lý nhập thần không kể những tập viết bằng chữ Hán như Bắc
hành thi tập, Nam trung tập ngâm, Thanh Hiên tiền hậu
tập, còn ngâm vịnh trứ thuật bằng quốc âm cũng nhiều, mà thứ nhất tập Đoạn
trường tân thanh (tức là Truyện Kiều) thật là một cuộc văn
kiệt tác trước sau chưa có bao giờ.Hội ta nghĩ rằng: Hán văn đã một ngày một lui để
nhường cái đặc vị chính đáng cho quốc văn, thì quốc văn tất có cái tương lai,
rất quan hệ, rất mật thiết với nước ta, mà một bậc sở trường về quốc văn không
ai bằng tiên sinh, giá trị quốc văn nay tôn lên cũng nhờ ngọn bút tiên sinh.
Nay quốc dân đương cổ vũ về quốc văn há lại quên một bậc đã có công với quốc
văn hay sao? Đã hay những bậc huân nghiệp đời trước, không phải một mình tiên
sinh, song Hội ta sùng bái tiên sinh, chủ ý chuyên trọng về quốc văn, mong sau
này quốc văn có một ngày hưng thịnh; mà cả tư tưởng học thuật đều bởi đó đằng
tiến mãi lên, vậy thì một bậc đã có công to với quốc văn tức là có công to với
nước vậy.Tiên sinh lúc lâm chung có khẩu chiếm một câu
rằng: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố
Như”, dẫu danh nhân tâm sự giãi với giang sơn, lời đổng khốc để đợi
người thức giả, song nay vì tiếng vì đất mà nhớ đến người thì bài bia này dù
không dám đương được chữ “khấp” cũng gọ là chữ “truyện” hay chữ “ký” để thay
một nén hương chung của quốc dân vậy.Minh rằng:Đất đục, trời trong, hòa tan làm mực.Nước biếc non xanh, tả nên đây bức.Đã sẵn tài tình quản gì phong sắc?Hồn văn đi về, cho thơm sực nức.Kiếm gác bên đền, gió mưa vẫn sắc.Bút tựa mặt hồ, trăng sao vằng vặc.Cảnh ấy bia này nghìn thu dằng dặc.Ngày rằm tháng hai năm Kỷ Tỵ, Hội Khai Trí Tiến
Đức cẩn chi.Sắc Nguyễn Du, Đời Gia Long [4]
Bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh
của Hội Khai Trí Tiến
Đức [3]
Sắc Nguyễn Du, Đời Gia Long [4]
Vịnh Kiều
I.
Giọt nước Tiền đường chẳng rửa oan,
Yên hoa bao trắng nợ hồng nhan?
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng;
Gót ngọc chưa tiêu chốn Thủy quan.
Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp;
Một giây bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế gian.
(Dịch nguyên Hán văn của Hoa đường Phạm Quý
Thích)
II.
Đã biết má hồng thời phận bạc,
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng.
Chiếc quạt thoa, đành phụ nghĩa Kim lang;
Nặng vì hiếu nhẹ vì tình thời cũng phải.
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,
Cánh hoa tàn đem bán chốn thanh lâu.
Bây giờ Kiều còn hiếu vào đâu?
Mà bướm chán ong chường cho đến thế?
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa;
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Đố đem chữ “hiếu” mà nhầm được ai!
Nghĩ đời mà chán cho đời.
(Nguyễn Công Trứ)
III.
Kiều nhi giấc mộng bặt như cười.
Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi!
Số kiếp bởi đâu mà lận đận?
Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi!
Cành thoa vườn Thúy hương còn bén;
Non nước sông Tiền nợ chửa xuôi.
Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi,
Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi.
(Yên Đổ Nguyễn Khuyến)
IV.
Than ôi! Một bước phong trần, mấy phen chìm
nổi!Trời tình mù mịt, bể hận mênh mông.Sợi tơ mành theo gió đưa đi, cánh hoa rụng
chọn gì đất sạch!Ai dư nước mắt khóc người đời xưa? Thế mà
giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm dương chan chứa; lòng cảm cựu
ai xui thương mướn? Nghe câu Ngọc thụ não nùng. Cho hay danh sĩ giai nhân, cũng
kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai lưu lạc đau
lòng.(Trích bài tựa Hán văn để Thanh Tâm tài nhân thi
tập của Chu Mạnh Trinh, Đoàn Tư Thuật dịch)V.
Tiếng sóng ân tình bốn mặt ran,
Tướng quân chi tiếc cánh hoa tàn!
Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng;
Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan,
Tổng đốc ví thương người bạc phận,
Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan,
Chờ chờ nấm đất bờ sông nọ,
Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn?
(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
Cảm đề Đoạn trường tân thanh
I.
Oan nghiệp khư khư buộc lấy mình,
Xót cho tài sắc lại đa tình.
Gió mưa năm ngón hai dòng lệ,
Cát bụi mười phương một chữ trinh.
Giữa cuộc bao phen liều nhắm mắt,
Trong mơ nửa kiếp đã in hình,
Đoạn trường tiếng ấy nghìn thu mới,
Trang Cảo Thơm còn dấu hiển linh.
II.
Trăng xế hoa gần, đêm tịch liêu,
Sử Phong Tình ngát, sóng tình xiêu.
Văn Hà Tĩnh, chuyện đời Gia Tĩnh,
Nhớ Át Kiều, thương nghiệp Thúy Kiều.
Hòn đá ba sinh lăn lóc mãi,
Tấm lòng thiên cổ vấn vương nhiều,
Mua vui cũng được… ai người khóc?
Hoài cảm riêng mình thử nói điêu.
III.
Ý đã cao mà bút đã tinh,
Nòi si vạn thuở một giây tình.
Cảm thông đến cả trời Nam Quốc,
Luân lạc riêng gì gái Bắc Kinh?
Hạt bụi nhớ quên lòng đại khối,
Hoa đèn thức ngủ bướm Trang Sinh.
Ấy ai soi tấm gương “tài lụy”,
Có thấy hồn ai nhập bóng mình?
IV.
Ôi Thúy Kiều xưa khóc Đạm Tiên,
Hoàng lang giờ lại khóc Tiên Điền.
Dây thông cảm buộc từ ba kiếp,
Số đoạn trường ghi chẳng một tên.
Xác mới đây còn thân cũ nhớ,
Trời xanh đâu chỉ má hồng ghen.
Bốn trăm năm lẻ tình khôn dứt,
Lệ trước mồ chưa ráo trước đèn.
V.
Ai rằng u hiển với quan san,
Trích địa tây thiên một nỗi hàn
Song nở mai, ngờ sen động giấc
Thơ rơi lệ, tưởng máu loang đàn.
Gối chăn lạnh đầy hoa kiểu sử,
Vòng xuyến về chưa nguyệt thế gian.
Tình-cách-đời nghe lòng sực thức,
Trầm luân biết có bể vơi oan?
(Trích tập thơ Rừng phong của
Vũ Hoàng Chương)
Bình Kiều
I.
Đem bút mực tả lên tờ giấy những câu vừa lâm ly,
vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra một người tài mệnh trong mười
mấy năm trời, cũng là vì cái cảnh lịch duyệt của người ấy có lâm ly ủy mị, đốn
tỏa, giải thư, thì mới có văn tả hệt ra như thế vậy.(Trích bài Tựa của Phong Tuyết, chủ nhân Thập
thanh thi, viết tháng 2 năm Mậu Tý, hiệu Minh Mệnh, 1828, Bùi Kỷ và Trần Trọng
Kim dịch)II.Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ
rằng:Tố Như tử dụng tâm đã khổ tự sự đã khéo, tả cảnh
đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm
lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy?(Trích bài Tựa của Tiên Phong, Mộng liên đường
chủ nhân, viết tháng 2 năm đầu hiệu Minh Mạng, 1820, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim
dịch)III.Người ta thường nói: con trai không nên
xem Tam quốc truyền kỳ, con gái không nên xem Kim Vân Kiều,
là sợ có phong hại cho đạo học mà động lòng dâm. Song không phải như thế. Còn
nhỏ khi tôi mười bốn tuổi, phú nghĩa đã thông mà tứ văn chưa hoạt. Có người
tiền bối bảo nên đọc truyện Thúy Kiều thì sau dễ viết hơn, tôi bèn lấy đọc. Tuy
chỉ thông được đại ý, điển tích sâu xa, chưa có thể hiểu rõ, nhưng tứ văn quả
nhờ thế mà thành hoạt bát hơn.(Trích bài Lệ Ngôn bản tân khắc Đoạn
trường tân thanh, hiệu Thành Thái năm thứ 14, 1902, của Kiều Oánh Mậu, Đào
Duy Anh dịch)IV.Tả Vân thì:“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.Đến tả Kiều thì:“Làn thu thủy nét xuân sơnHoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.Trên nói “thua”, “nhường”, sắc trung chi
hiền, đến chữ “ghen”, chữ “hờn” thì rõ là sắc trung chi
thánh. Trong sắc giới mà có phân bậc thánh bậc hiền thì mấy chữ đó
chính là tác giả đã khổ tâm chọn lựa, nấu nướng, un đúc để tả ra cho rành không
lẫn nhau.(Ý kiến của Thái Sơn Đặng Nguyên Cần do Tùng Ngư
thuật lại, xem Tiếng dân, ngày 9 Févrer 1937)V.Nói về văn chương quốc âm của ông Nguyễn Du, thì
vẫn là hay thật, song cái lối văn vận, ngâm nga ngợi hát, chỉ là một lối trong
đạo văn chương. Văn tuy hay mà truyện là một truyện phong tình thì có vẻ ai dâm
sầu oán, đạo dục tăng bi, tám chữ ấy không tránh đằng nào cho khỏi. Cái bản ý
ông Nguyễn Du làm truyện Đoạn trường tân thanh (tức là Truyện
Kiều) chỉ là mượn văn chương mà ngụ chút tâm sự mình; cho nên ông đã có
câu:“Lời quê góp nhặt nên bài,Mua vui cũng được một vài trống canh”.(Trích ở bài “Chánh học cùng Tà thuyết” của Tập
Xuyên Ngô Đức Kế đăng trong Hữu thanh tạp chí, số 21, ngày 21
Septembre 1924)VI.Phong tình mà tiết nghĩa, cả cái tâm lý cô Kiều
là gồm trong bốn chữ ấy. Lịch sử không thiếu gì những gương đàn bà tiết liệt,
nhưng các bậc ấy cao nghiêm quá, chỉ khiến cho người ta kính sợ, không cho
người ta mến yêu. Ở đời không thiếu gì những kẻ trăng hoa, nhưng các bậc ấy bỉ
tiện quá, chỉ khiến cho người ta khinh nhờn, không khiến cho người ta quý
chuộng. Có cái đức nghiêm của người liệt nữ, mà lại có cái vẻ tình của khách
phong lưu, đức hạnh đủ khiến tính, tài tình đủ khiến yêu, giá trị đủ khiến quý,
thân thế đủ khiến thương, vì cảnh ngộ phải nặng kiếp đào hoa, trong tình ý vốn
ra người tiết nghĩa, ở nơi ô trọc mà vẫn giữ được tiết thanh cao, gặp cảnh gian
nan mà không hề đến nỗi đắm đuối, Kiều nương thật gồm được cả bấy nhiêu tính
cách, nên ai đọc truyện cũng phải kính, phải thương, phải yêu, phải trọng.(Trích bài “Truyện Kiều” của Phạm Thượng Chi
trong Nam Phong tạp chí, số 30, Déc. 1919)Chú thích:[1] Việt Nam sử lược của
Trần Trọng Kim, trang 368.[2] Đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí[3] Tài liệu trích trong Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du[4] Tài liệu trích trong Văn Đàn Bảo GiámVũ Hoàng ChươngGóp phần hiểu biếtNhân ngày kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn tiên sinh,
cách đây mấy năm ông Đoàn Phú Tứ đã lần giở mấy trang Kiều để luận về bút pháp
của tác giả áng văn chương bất hủ đó. Diễn giả đã hùng biện một cách có duyên
biết bao! Nhưng cũng không kém khiêm tốn. Thật vậy, ông không có ý “phê bình
văn chương hoặc triết lý” chi hết. Ông chỉ nêu lên một điểm nhỏ thuộc phạm vi
ngữ pháp: vấn đề chủ từ. Và ông cũng chỉ đem áp dụng quan điểm của ông vào
riêng có bốn câu thơ trong tác phẩm vĩ đại của nhà văn hào vĩ đại kia mà thôi.
Theo lời ông, cái việc đi tìm chủ từ một mệnh đề chỉ là học trò, nhưng có thể
lấy đấy làm khởi điểm để khảo sát tâm lý nhân vật trong tác phẩm và hơn nữa, để
tìm hiểu những chỗ tế nhị trong bút pháp mới thưởng thức được văn chương; lẽ đó
dĩ nhiên lắm.Sau đoạn nhập đề ngắn nói về “chủ từ trong Việt
ngữ”, diễn giả lại một lần nữa khiêm tốn, tuyên bố rằng đây cũng chỉ là ông
“đem cái hiểu biết nhỏ bé của mình góp vào sự hiểu biết chung về áng văn chương
vĩ đại” mà hôm nay ông thận trọng lần giở từng trang trước một cử tọa đông đảo
và phần lớn có thẩm quyền.Kẻ viết bài này không dám tự phụ rằng cũng như
ai có thẩm quyền trong các vấn đề văn phạm, văn chương. Nhưng từng đã phụng sự
nghệ thuật và tha thiết với quốc văn lẽ nào lại thờ: không noi gương ông Đoàn,
cũng thử đem cái hiểu nhỏ bé của mình góp vào sự hiểu biết áng văn chương vĩ
đại ấy. Trước hết xin lần lượt bàn về câu Kiều mà ông Đoàn đã nêu ra, rồi sau
sẽ bàn chung về vấn đề “chủ từ” trong thơ Việt.Câu thứ nhất:“Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn”.Câu thơ này trích ở đoạn Thúy Kiều đi hội Đạp
Thanh, gặp Kim Trọng. Theo ý ông Đoàn câu đó không có chủ từ, khiến cho độc giả
bỡ ngỡ không hiểu tác giả định nói về nhân vật nào: Thúy Kiều hay Kim Trọng?Rồi ông nếu ra hai lý do để kết luận: nhân vật
ấy phải là Kim Trọng.Lý do thứ nhất của ông dựa vào bút pháp tác giả.
Này nhé, suốt một đoạn dài từ câu “Nguyên người quanh quất đâu xa”, sự can hệ
đã được đặt hết vào Kim Trọng. Còn như Thúy Kiều, nàng đã bị gạt sang “bình
diện thứ hai” ngay từ khi “e lệ nép vào dưới hoa” rồi. Kim Trọng đã là chủ động
trong suốt đoạn này (cho đến… “người còn nghé theo”), tất nhiên cái cảnh “tình
trong như đã mặt ngoài còn e” cũng là Kim Trọng. Và cũng tất phải là Kim Trọng
cái kẻ “chập chờn cơn tỉnh cơn mê, rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn”.Lý do thứ hai dựa vào tâm lý nhân vật. Này nhé
Thúy Kiều dù đa tình đến đâu cũng là một gái khuê các từ trước vẫn “trướng rủ
màn che” và lần này mới là lần thứ nhất gặp một người con trai lạ. Vậy nàng
không thể nào say đắm người con trai ấy đến nỗi “chập chờn cơn tỉnh cơn mê”
được, cũng không thể có thái độ “rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn” được!
Không phải Thúy Kiều, vậy chỉ có thể là Kim Trọng. Vả chăng Kim Trọng từ trước
“trộm nhớ thầm yêu” thì bây giờ “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” cũng đáng. Và cái
thái độ “rốn ngồi chẳng tiệt dứt về chỉn khôn” phải là thái độ của chàng.Hai lý do này đã đưa ông Đoàn tới kết luận mà
ông cho là tất nhiên.Nhưng, ta hãy kiểm thảo từng lý do xem có xác
đáng không để đi tới sự có đồng ý với ông Đoàn hay không đồng ý.1.
Nói về bút pháp, cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều chỉ là một dịp để tác giả
giới thiệu hai nhân vật mới, vô cùng quan hệ đến tương lai Thúy Kiều: Đạm Tiên
và Kim Trọng. Vậy bắt đầu từ câu “Nguyên người quanh quất đâu xa” cho đến câu
“Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai”, tác giả đã giới thiệu Kim Trọng. Lối văn được
sử dụng trong 16 câu này là lối văn “tự sự”: tác giả tạm ngắt cuộc du xuân, mở
một dấu ngoặc để đề cao vai Kim Trọng “bình diện thứ nhất”, nhưng dấu ngoặc ấy
đã đóng lại sau câu “… mặn mà cả hai”.“Người quốc sắc kẻ thiên tài”, văn thể đã biến
chuyển từ “tự sự” sang “mô tả” rồi. Đoạn này rất can hệ, không có không xong.
Bởi vì khi Thúy Kiều gặp Kim Trọng, tâm trạng hai người như thế nào, cần phải
mô tả lắm chứ.Cứ xem như cách mở lên bằng câu:“Người quốc sắc kẻ thiên tài” rồi khép lại bằng
câu “Khách đà lên ngựa người còn nghé theo”, ta cũng nhận thấy ngay rằng tác
giả định mô tả tâm trạng cả hai bên chứ không riêng gì Thúy Kiều hay Kim Trọng.
Thật thế, phép hành văn có: khai, thừa, chuyển, hợp. Đã có câu “khai” và câu
“hợp” như đã nói, tất nhiên ở những câu “thừa” và “chuyển” cả hai bên đều phải
là chủ động, đều can hệ ngang nhau. Chứ không thể gạt Thúy Kiều sang “bình diện
thứ hai” được, dù nàng vẫn “e lệ nép vào dưới hoa” như trước.Một bên thiên tài, một bên quốc sắc, tâm trạng
tế ngộ như thế nào?Thưa rằng: cả hai cùng “tình trong như đã mặt
ngoài còn e”, cả hai cùng “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê. Rốn ngồi chẳng tiện dứt
về chỉn khôn”. Và sau hết “bóng tà như giục cơn buồn”, cũng là cơn buồn của cả
hai vậy.Hơn nữa, nếu những câu “Tình trong…, chập chờn…,
rốn ngồi…” đều chỉ dùng để tả Kim Trọng thì nghịch với luật cân đối trong bút
pháp Tiên Điền. Thật thế, một khi đã dùng cú pháp “song quan” để mở “người quốc
sắc, kẻ thiên tài” mà không đả động gì đến “người quốc sắc”. Tác giả Đoạn
trường tân thanh thông hiểu luật cân đối như thế nào, khiến cho lời
văn có liên lạc mật thiết, tung, hứng, gọi, thưa, như thế nào, ta hãy mở một
dấu ngoặc, lấy một đoạn khác nào đó làm tỷ dụ để chứng minh: Đoạn Thúc Sinh
biệt Thúy Kiều chẳng hạn:Người lên ngựa kẻ chia bàoRừng phong thu đã nhuộm màu quan sanDặm hồng bụi cuốn chinh anTrông vời đã khuất mấy ngàn dâu xanhNgười về chiếc bóng năm canhKẻ đi muôn dặm một mình xa xôiVầng trăng ai xẻ làm đôiNửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.Nguyễn tiên sinh đã mở lên bằng câu “người… kẻ…”
thì suốt đoạn cụ mô tả hai nhân vật ấy song song nhau. Người đi thì “dặm hồng
bụi cuốn”, “một mình xa xôi”, “nửa soi dặm trường”. Đồng thời kẻ ở lại thì
“trông vời đã khuất”, “chiếc bóng năm canh”, “nửa in gối chiếc”. Còn như quan
san đã nhuốm rừng phong khi chia tay, hình vầng trăng bị xẻ làm đôi khi cách
mặt ấy đều là cảnh trước mắt của hai người, trước sau đã khích động tâm tư cả
hai người. Hai nhân vật nêu lên ở câu mở đã được chú ý ngang nhau vậy.Đến đây ta đóng ngoặc lại để trở về với “kẻ
thiên tài” và “người quốc sắc” ở hội Đạp Thanh. Nếu ta lần giở thêm trang sau
ta sẽ thấy tác giả “già tay bút pháp” biết chừng nào, và luật cân đối được tôn
trọng biết bao nhiêu! Thật thế, sau cuộc gặp gỡ, cùng trở về nhà, một đàng thì:“Kiều từ trở gót trướng hoa”một đàng thì:“Chàng Kim từ lại thư song”Bên thì:“Ngổn ngang trăm mối”Bên thì:“Canh cánh bên lòng”Người quốc sắc ấy kẻ thiên tài ấy sau khi tế ngộ
đã cùng thắc mắc bâng khuâng như nhau, không lẽ gì ngay khi tế ngộ mà chỉ riêng
một mình ai được tác giả chú ý đến tâm trạng?2. Nói
về tâm lý nhân vật, cụ Tiên Điền thật đã dụng công xây dựng vai Kiều ngoài
khuôn khổ những cô gái khuê các thông thường. Nàng là người đa cảm đa tình đến
tột bậc kìa. Ở đoạn trên nghe Vương Quan “kể chuyện gần xa” mà nàng đã cảm xúc
thấm thía, tầm tã châu rơi, không những chỉ thương riêng người ca nhi xấu số,
lại còn thương chung cho tất cả những ai là đàn bà. Không những chỉ thương xót
vu vợ, lại còn đau đớn lo ngại cho cả chính mình nữa:“Nỗi niềm tưởng đến mà đau,Thấy người nằm đó biết sau thế nào!”.Ở đoạn dưới, sau khi “trở gót trướng hoa”, nhớ
lại cuộc nhất kiến đột ngột và ngắn ngủi với Kim Trọng mà nàng đã tự hỏi ngay:“Người đâu gặp gỡ làm chi?Trăm năm biết có duyên gì hay không?”.Một thiếu nữ đa cảm đa tình đến bậc ấy, lại gặp
một người hào hoa phong nhã như chàng Kim, người mà nàng đã bằng trực giác nhận
chân ngay thấy mối tình u uẩn, nồng nàn; rất có thể nàng say đắm ngay từ phút
đầu lắm chứ! Huống hồ nàng đã có một tâm trạng rối ren, não cân vừa bị kích
thích, hồn phách vừa bị hoang mang sau việc Đạm Tiên hiển linh trước mộ. Như
thế, dù nàng có “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” cũng không có gì quá đáng. Cùng
trong một buổi chiều, nội giới của nàng đã liên tiếp rung lên hai đợt sóng
thông cảm phi thường và đột ngột, hỏi nàng bình tĩnh sao được mà không “chập
chờn cơn tỉnh cơn mê”?Cố nhiên rằng cả Kim Trọng nữa, từ lâu đã bị một
hình ảnh giai nhân chiếm cứ và giờ đây giấc mộng đẹp lại vừa được cụ thể hóa ở
đầu mày cuối mắt người nép dưới hoa, hỏi chàng Kim không ngây ngất vì tình sao
được? Há chỉ riêng một ai ngây ngất, dùng dằng, e ấp?Vậy cả hai đều “chập chờn cơn tỉnh cơn mê, rốn
ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn” mới phải. Nếu những câu thơ này chỉ riêng nói
về Kim Trọng chẳng hóa ra Thúy Kiều vô tình lắm sao? Chẳng lẽ nàng cũng như
Thúy Vân chỉ biết có việc “e lệ nép vào dưới hoa”, chẳng cảm xúc tí gì để đợi khi
“khách đã lên ngựa” rồi mới rụt rè nghe theo hay sao? Nếu thế thì đâu là sự
thông cảm ấy. Kiều chỉ là một thiếu nữ tầm thường, Kim chỉ là một anh chàng
hiếu sắc, khả ố. Còn bảo rằng nàng “thông minh vốn sẵn tính trời” và chàng “văn
chương nết đất thông minh tính trời” thế nào được?Kết luận về phương diện bút pháp tác giả cũng
như về phương diện tâm lý nhân vật, câu lục bát mà ông Đoàn nêu ra phải có hai
vai chủ động là Kim Trọng và Thúy Kiều.Còn nếu như chỉ đứng trên lập trường văn phạm
Tây phương mà xét thì câu thơ này không phải là thiếu “chủ từ” như ý ông Đoàn
Phú Tứ. Nó có “chủ từ” hẳn hoi. Thực tế, cuốn Đoạn trường tân thanh vốn
chép bằng chữ Nôm, không hề có dấu ngắt câu rõ rệt. Nhưng “lấy trong ý tứ mà
suy” thì sau mấy chữ “… mặn mà cả hai” phải có một dấu chấm xuống dòng, và sau
mấy chữ “… dứt về chỉn khôn” chỉ có một câu (phrase) gồm nhiều mệnh đề
(proposition) tất cả những mệnh đề này đều có “người quốc sắc kẻ thiên tài” làm
chủ từ.Trên đây chúng ta đã bàn về những câu thứ nhất
trong bốn câu Kiều do ông Đoàn Phú Tứ nêu ra để chứng tỏ những ý kiến của ông về
vấn đề chủ từ trong Việt ngữ.Bây giờ xin lần lượt bàn tới những câu sau.Câu thứ hai:“Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?”.Câu này trích trong đoạn Thúy Kiều nói với Kim
Trọng giữa khi:“Hoa đèn càng tô thức hồngĐầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu”.Theo ý ông Đoàn, động từ gieo không
có chủ từ khiến cho người đọc có thể hiểu lầm đấy là câu Thúy Kiều nói thẳng
với Kim Trọng. Thật ra chữ “chàng” chỉ là một phổ thông danh từ, không hề có ý
dùng để chỉ Kim Trọng, cũng như trong câu này phải là Thôi Oanh Oanh mới đúng. Ông viện ra hai lý do:Một là, tác động gieo thoi vừa bất nhã vừa tàn bạo. Không lẽ
gì Thúy Kiều lại đi nói với Kim Trọng rằng: “Nếu chàng lả lơi quá, thiếp sẽ học
lối người thiếu phụ thời xưa ném thoi vào mặt chàng để cự tuyệt khiến cho chàng
cũng bị gãy hai cái răng như Tạ Côn”. Nếu quả thật Thúy Kiều nói như thế với
người yêu thì lời nàng tuy có “đoan chính” đến đâu chăng nữa cũng không thể bảo
là “dễ nghe” được. Vậy Thúy Kiều không thể là chủ từ (hiểu ngầm) trong câu thơ
“gieo thoi”.
Hai là, điểm gieo thoi từ trước đã được dùng trong bức thư của
Thôi Oanh Oanh viết cho Trương Quân Thụy (Hội chân ký).
Vậy mà chính câu truyện tình giữa hai người này Thúy Kiều lại đã nêu ra làm tỷ dụ để giác ngộ chàng Kim:Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai có đẹp tày Thôi Trương
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến anh
Trong khi chắp cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên
Mái tây để lạnh hương nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng.
Như thế, ta phải hiểu rằng chính Thôi Oanh Oanh
mới là chủ động gieo thoi vậy.Trên đây là ý kiến của ông Đoàn. Tôi rất tiếc
rằng không thể cùng chung ý kiến với ông được.Trước hết tôi không đồng ý về sự vin vào tính
cách bất nhã và tàn bạo của động tác gieo thoi để đi đến kết luận.Theo ý tôi, điển cố nghĩa là một việc cũ, dùng
điển cố mục đích gợi lên một hình ảnh quen thuộc để cụ thể hóa một ý trừu tượng
nào đó muốn giãi bày. Do đó sự dùng điển cố có lợi ở chỗ chỉ dùng có một vài
chữ cũng phô diễn được rất nhiều ý tứ một cách tế nhị, linh động, đầy đủ, rõ
ràng.Nhưng khi một điển cố đã được dùng nhiều lần và
đã trở nên thông thường thì xuất xứ của nó có thể coi như không liên quan đến
câu văn nữa. Người ta chỉ cần lưu ý đến tính chất tiêu biểu của nó thôi.Ở đây Tiên Điền Nguyễn tiên sinh chỉ dùng điển
“tấu thoa triết sĩ” để tượng trưng cho sức kháng cự của người đàn bà trước thái
độ lả lơi của người đàn ông. Có thế thôi. Như vậy độc giả cũng như tác giả chỉ
cần nhớ tới tính chất tiêu biểu của việc gieo thoi, chứ không cần phải băn khoăn
về sự Tạ Côn bị gãy một hai cái răng hoặc về cử chỉ của người thiếu phụ kia bất
nhã hay chẳng bất nhã.Để chứng tỏ rõ ràng thêm quan niệm dùng điển và
hiểu điển như trên, ta hãy lấy một câu Kiều nào đó làm thí dụ: “Một nền đồng
tước khóa xuân hai Kiều” chẳng hạn [1].Ai cũng rõ đây là điểm rút trong Tam
Quốc chí…, hai Kiều tức là Đại Kiều và Tiểu Kiều ở Giang Đông, vợ của Tôn
Bá Phù và của Chu Công Cẩn. Đền Đồng Tước là đền do Tào Mạnh Đức dựng lên để
thị uy với thiên hạ. Gia Cát Khổng Minh vì muốn khích Đông Ngô chống Tào nên
bịa ra truyện Mạnh Đức sở dĩ hại Giang Đông là cốt bắt hai nàng Kiều tuyệt sắc
kia giam vào đền Đồng Tước để hầu hạ mình lúc tuổi già.Điển “Đồng Tước” và “hai Kiều” là như vậy. Nhưng
do sự dùng quen người ta đã không cần nhớ đến xuất xứ của nó nữa.“Hai Kiều” ở câu thơ trên chỉ có nghĩa là hai
“người đẹp” và đền “Đồng Tước” là chỗ ở sang trọng, thâm nghiêm.Thế thôi. Nếu cứ truy nguyên một cách câu nệ
chuyển hóa ra Tiên Điền Nguyễn tiên sinh đã lẩm cẩm đem ví Thúy Kiều, Thúy Vân
với hai người đàn bà có chồng bị bắt giam để làm trò chơi cho một ông thừa
tướng gian hùng hay sao?Vả lại khi đọc Đoạn trường tân thanh cũng
như khi đọc các áng thơ cổ, chúng ta có bao giờ câu nệ về điển cố đến nỗi cứ
khăng khăng cho “cuộc bể dâu” là phải có chu tuần ba mươi năm hoặc “Đào Nguyên”
phải là chỗ dân Tần tránh loạn lập nghiệp đâu? Nếu vậy hỏi còn có nghĩa những
câu như:“Cơ trời dâu bể đa đoan”(Lời Thúy Vân nói với chị)Hoặc:“Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?”Tóm lại, tính chất tàn bạo của điển “Gieo thoi”
không thể là khởi điểm đích đáng để đi tới một kết luận nào cả.Về lý do thứ hai tôi cũng nghĩ khác ông Đoàn.
Theo ý tôi không phải vì lẽ điển “Gieo thoi” đã được dùng từ trước trong Hội
chân kỳ mà động từ “gieo” trong câu Kiều phải có chủ từ là Thôi Oanh Oanh. Còn
như muốn chứng tỏ câu ấy có liên lạc mật thiết với mối duyên kỳ ngộ Thôi Trương, ta cần phải khảo sát cách hành văn trong toàn thể đoạn này hơn là chỉ
dựa vào điển cổ.Vậy ta hãy phân tích rành rẽ những lời Thúy Kiều
nói với Kim Trọng bắt đầu từ “… đừng lấy làm chơi” cho đến “… còn thân ắt hẳn
đến hồi có khi”.Những lời nói ấy sở dĩ “đoan chính dễ nghe” và
lung lạc được chàng Kim chính là bởi Thúy Kiều đã gieo dàn xếp rất công phu,
đón trước rào sau rất khéo léo.Thật thế:
“Vẻ chi một đóa yêu đào,Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh”.chỉ là câu đón trước.Cũng như:“Vội chi liễu ép hoa nài,Còn thân ắt cũng đền bồi có khi”.chỉ là câu rào sau. Nàng phải rào đón như vậy
mới khiến cho Kim Trọng không mích lòng và mới dẹp được cơn sóng tình kia một
cách êm ái. Dụng ý của nàng là ở 10 câu lục bát (đoạn giữa) trong đó ta nhận
thấy nàng đã nêu lên một quy tắc (đã cho vào bậc Đố kinh…) rồi dẫn chứng bằng
một mối duyên đáng lẽ đằm thắm mà lại hóa ra bẽ bàng. “Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa
nay…”. Như thế ta phải hiểu rằng câu lục bát “gieo thoi” chỉ dùng để kết thúc
những lời dẫn chứng và gợi lên cái thái độ chung của những người đàn bà muốn cho
“mái tây chẳng lạnh hương nguyền” vậy.Do đó câu thơ “gieo thoi” không thể có một “cá
nhân” nào làm chủ động, và chủ từ của nó cũng không phải là Thúy Kiều hay Thôi
Oanh Oanh. Vả chăng nếu chuyển sang tản văn câu đó ắt sẽ thành: “Trước chẳng
gieo thoi giữ gìn để sau thẹn cùng người yêu, lỗi ấy ở ai”. Tính cách phiếm chỉ
của động từ gieo như thế đã rõ rệt. Và nếu ta đứng trên lập trường văn phạm Tây
phương mà xét thì câu này đã đặt dưới hình thức nghi vấn (Forme interrogative)
sau chữ “ai” phải có một dấu hỏi (?). Vậy động từ “gieo” phải ở Mode Infinitif
và như thế không thể có một chủ từ nào được cả.Kết luận, câu thơ lục bát do ông Đoàn nêu ra
không có chủ từ là vì theo cách giãi ý và đặt câu, nó không thể có một chủ từ
được. Chứ không phải chủ từ của nó là Thôi Oanh Oanh, và vì
Tiên Điền Nguyễn tiên sinh đã hành văn không đủ khúc chiết khiến cho độc giả
hiểu lầm.Câu thứ ba:“Não người cữ gió tuần mưa”Câu này trích trong đoạn Kim Trọng trở về Liêu
Dương sau khi cùng Thúy Kiều từ biệt."Buồn trông phong cảnh quê ngườiĐầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưaNão người cữ gió tuần mưaMột ngày nặng gánh tương tư một ngày”.Ông Đoàn Phú Tứ cho rằng “cữ gió tuần mưa” là bổ
túc từ của chữ “người”, do đó ông nêu lên câu hỏi: Ai não cái những cữ gió tuần
mưa ấy?Theo ý tôi, đặt câu hỏi như thế có lẽ không
đúng. Bởi chữ “não” không thể lẫn với chữ “xét” hoặc “thương” được. Thật thế,
động từ “não” có nghĩa là “làm cho phiền muộn”. Thí dụ: Cảnh ấy não lòng, câu
chuyện ấy não người… Dù nó thường đi đôi với chữ “nùng” để biến thành một tĩnh
từ (adjectif) có nghĩa “làm cho phiền muộn” của nó vẫn không mất vì chữ nùng
vốn nghĩa là tôi và não nùng có cái nghĩa đầu tiên là “làm cho tôi phiền
muộn” [2].Như thế trong câu Kiều nói trên động từ “não”
phải có “cữ gió tuần mưa” làm chủ từ và “người” làm bổ túc từ. Nếu ta lại nhận
định thêm rằng hai chữ “não người” vốn nguồn gốc ở chữ Hán “não nhân” ta sẽ nhớ
đến ngay một câu Kiều khác có thể viện ra dẫn chứng:“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.Trong câu này chủ từ đã rõ rệt là “một thiên bạc
mệnh”. Còn như trong câu “não người” chủ từ không được tìm thấy một cách dễ
dàng bằng, nhưng nó vẫn có. Chỉ vì Tiên Điền Nguyễn tiên sinh đã dùng phép đặt
ngược (inversion) đó thôi.Phép đặt ngược này rất thông thường trong thơ
Pháp cũng như trong thơ Việt.Thí dụ:
Ici gronde le fleuve aux vanges écumantes.
(Isolement)
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng
(Đoạn trường tân thanh)
Câu thứ tư:
Còn non còn nước còn dài
Còn về còn nhớ tới người hôm nay.
Câu này trích ở đoạn Thúy Kiều tiễn biệt Kim
Trọng.
Ông Đoàn nêu lên câu hỏi: Ai về? Ai nhớ? Rồi ông
trả lời: Ở đây chỉ có hai người Kim và Kiều nhưng Kiều không đi đâu cả và chỉ Kim
ra đi thôi. Muốn có về sự tất phải có sự đi trước đã, vậy cái kẻ còn về ấy tất
phải là Kim cũng như cái kẻ còn nhớ vậy.Lý luận của ông quả thật đã xác đáng chặt chẽ,
kẻ viết bài này xin hoàn toàn đồng ý với ông.Nói tóm lại, trong bốn câu Kiều do ông Đoàn nêu ra
để dẫn chứng tôi chỉ đồng ý với ông về câu: “Còn về còn nhớ” được thôi.Bây giờ xin nói đến vấn đề chủ từ.1. “Tiếng
Việt Nam rất hay dùng lối đặt câu không có chủ từ”; điều nhận xét này của ông
Đoàn rất đúng. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Vả chăng trong cuốn Việt
Nam văn phạm, các ông Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm cũng đã công
nhận đặc tính ấy của tiếng Việt rồi.2. “Do sự thiếu chủ từ, thơ Việt thường tối
nghĩa”. Điều này tôi không đồng ý với ông Đoàn.Theo ý tôi, một câu thơ đặt thiếu chủ từ vẫn có
thể rõ nghĩa được lắm, nếu chủ từ ấy đã được nói rõ ở những câu trước hoặc được
coi là đích nhiên. Không ai chối cãi rằng nếu người viết văn không biết xếp đặt
ý tứ thì câu văn sẽ tối tăm vì lẽ thiếu chủ từ. Nhưng Tiên Điền Nguyễn tiên sinh
có phải là người viết văn vụng thế đâu! Trong Đoạn trường tân thanh cú
pháp của Tiên sinh rất trong sáng mềm mại và câu thơ của Tiên sinh cũng không
hề vì lẽ thiếu chủ từ mà tối nghĩa hoặc khiến cho độc giả hiểu lầm được bao
giờ.Ta hãy lấy một đoạn làm thí dụ:Ngày vừa sinh nhật ngoại gia
Trên song đường, dưới nữa là hai em
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành
Nhà lan thanh vắng một mình
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay
Thời trân thức thức sẵn bày
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường
Cánh hoa sẽ dặng tiếng vàng
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Ở bốn câu đầu, chủ từ đã rõ ràng “song đường” và
“hai em”. Ở những câu sau chủ từ tuy không đặt rõ ràng như thế nhưng cũng đích
nhiên là Thúy Kiều rồi. Ai đọc Đoạn trường tân thanh cũng phải
hiểu như vậy.Để kết luận, tôi xin nhắc lại rằng đây chỉ là
một bài góp ý kiến về sự tìm hiểu mấy câu Kiều. Ngoài ra tôi không có chủ ý gì
định công kích ông Đoàn Phú Tứ cả. Sau nữa những vấn đề to tát như: “Văn phạm
trong thơ Việt” hoặc “Có nên áp dụng văn phạm Tây phương vào sự hiểu thơ Việt
không?” đều là những vấn đề ở ngoài phạm vi nhỏ hẹp của bài này.Nguyễn Văn TrungĐặt lại vấn đề Truyện Kiều hay phê bình phê
bình văn họcKhi nghe bàn về Truyện Kiều chắc
có người nói: “Lại vẫn vấn đề truyện Kiều!”. Sự kiện truyện
Kiều luôn luôn giữ được tính cách thời sự không những trong phạm vi văn chương,
mà còn cả trong phạm vi văn hóa qua các thế hệ là một bằng chứng nói lên giá
trị bất hủ của một tuyệt tác, một thiên tài có sức quyến rũ mãnh liệt.Cũng như bất cứ tác phẩm vĩ đại nào, Truyện
Kiều là một khu rừng muôn ngả, một vườn hoa muôn màu cửa mở rộng; ai
nấy được tự do ra vào để khai thác, thưởng thức, mỗi người đã vào đều muốn tìm
ra một lối nhìn bao quát mong lĩnh hội được vẻ đẹp toàn diện của vườn hoa,
nhưng khi ra về, vẻ đẹp vẫn còn nguyên vẹn và người du khách đến sau cũng lại
mang theo tham vọng nhìn bao quát, rốt cuộc, mỗi người thật ra cũng chỉ nhìn
thấy một vài khía cạnh của chân lý toàn diện, nghĩa là đã chỉ đề nghị một lối
nhìn nào đó, khám phá được một vài nét mới của vẻ đẹp muôn bề đó thôi.Bây giờ tôi cũng xin làm một người du khách của
vườn hoa đẹp đó. Có lẽ tôi đã đến sau nhiều người, nhưng không hề gì, vì truyện
Kiều vẫn còn đó, bất diệt; hơn nữa tôi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn những
người đi trước vì có thể lợi dụng kinh nghiệm, những lối nhìn của họ để tự tìm
cho mình một lối nhìn. Lối nhìn riêng biệt đó dĩ nhiên không bao hàm một giá
trị phổ quát, độc nhất, vì có lẽ nó cũng chỉ là một lối nhìn
trong nhiều lối nhìn khác. Không ai có quyền bắt ai phải nhìn theo lối của mình
vì cửa vườn hoa mở rộng, tự do ra vào; mỗi người phải tự tạo cho mình một lối
nhìn tuy có thể đề nghị với người khác để hỏi ý kiến trong tinh thần trao đổi,
đối thoại.Từ khi Truyện Kiều ra đời, rất
nhiều nhà văn học đã tham gia tranh luận, phê bình, góp ý kiến một cách suy
nghĩ. Người khen, kẻ chê. Phái ca tụng, phái kết án hoặc về phương diện văn
chương, hay luân lý triết lý.Nhưng ta tự hỏi: các bậc học giả đó nhân
danh cái gì để phê bình lên án hay cổ võ Truyện Kiều? Nói
cách khác, thái độ phê bình của các nhà văn học đó đều bao hàm một lập trường
phê bình, một lý thuyết phê bình. Vậy những lập trường phê bình đó có ý nghĩa
gì, và đặt trên cơ sở nào?Trả lời những câu hỏi đó tức là làm công việc
phân tích, nhận định về những lối nhìn đã đề nghị về Truyện Kiều đồng
thời phê bình văn học nói chung, vì Truyện Kiều là nơi gặp gỡ
gần đầy đủ mọi lối phê bình văn học. Công việc nhận định đó sẽ giúp chúng ta
những yếu tố xây dựng một lối nhìn mới mẻ về truyện Kiều nói riêng và văn học
nói chung.Chúng ta có thể xếp tất cả những người, những
nhóm đã phê bình Truyện Kiều vào hai loại lớn:a. Phê bình chủ quan;b. Phê bình khách quan.Loại phê bình khách quan gồm hai khuynh hướng: 1. Khuynh hướng phê bình
luân lý chia thành hai phái: phái chủ trương Kiều có luân lý; phái không.2. Khuynh hướng phê bình
khoa học chia thành những phái phê bình giáo khoa, phê bình bằng xã hội học hay
tâm lý học. Chúng ta lần lượt khảo sát qua những khuynh hướng
trên.
Phê bình chủ quan
Gồm những người như Đào Duy Anh, Hoài Thanh…
(thời trước Cách mạng tháng Tám). Theo ông Đào Duy Anh: “Chúng ta sở dĩ
yêu chuộng Truyện Kiều không phải vì nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời,
mà chỉ vì trong sách ấy Nguyễn Du đã dùng những lời văn thần diệu để rung động
tâm hồn ta”. Mà cái lời văn thần diệu ấy theo ông Đào “không
ai là không cảm thấy. Nhưng hiểu biết cho hết cái hay ấy là một điều rất khó,
mà giải thích cho ra hết cái tinh vi uẩn khúc ấy là điều khó nữa”.Hoài Thanh cũng đồng ý với ông Đào Duy Anh, nhận
định: “Chất thơ bàng bạc trong truyện cần phải được cảm thấy một cách
hồn nhiên. Cứ phân tích, giảng giải nó sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi, phải nhẹ
bước mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng thùy mị, khi tráng lệ huy hoàng”.Tôi gọi khuynh hướng Đào Duy Anh, Hoài Thanh là
chủ quan vì mục đích của phê bình văn học không phải là đi vào tác phẩm tìm
hiểu ý nghĩa, giá trị khách quan của nó, nhưng là ghi lấy những phản ứng chủ
quan của người đọc với tác phẩm. Ý hướng nhận định không phải để đạt tới cái
chủ quan của người khác, nhưng là đạt tới cái chủ quan của mình nhờ cái
chủ quan của người khác. Nói khác đi, người phê bình đi tìm mình trong tác phẩm
của người khác và giá trị tác phẩm là ở chỗ gặp gỡ giữa tác phẩm và chủ quan
của mình như Anatole France đã nói: “Nhà phê bình giỏi là người kể lể
những cuộc phiêu lưu của lòng mình qua các tuyệt phẩm” (Le bon critique est ce
qui raconte les aventures de son âme ân sủng milieu des chefs-d’neuvre).Hoài Thanh đã không muốn cắt nghĩa Truyện
Kiều, vì Truyện Kiều không phải cuốn truyện đã được xây
dựng để có thể cắt nghĩa được bằng những lý do này, lý do kia, nhưng để tạo nên
nơi người đọc một cảm giác khoái lạc về tinh thần hay nghệ thuật. Cắt nghĩa một
tác phẩm tức là tiêu diệt cái cốt yếu: vẻ hồn nhiên, say sưa, dịu dàng của tác
phẩm.Như thế, phê bình chủ quan bao hàm một thái độ
hưởng thụ, thưởng ngoạn có tính cách tư riêng cá nhân. Do đó không còn phải là
phê bình vì chủ đích của người phê bình là chỉ muốn nói về mình thôi.Nhưng người phê bình chủ quan cũng nói: tác phẩm
này hay, tác phẩm kia dở. Nghĩa là không tránh được căn cứ vào một nguyên tắc
phê bình để xác định giá trị một tác phẩm. Nguyên tắc đó là: một tác
phẩm hay khi nó tạo được một rung cảm, một khoái lạc nghệ thuật. Nhưng
đã rõ nguyên tắc đó hoàn toàn chủ quan, vì sự rung cảm nghệ thuật chỉ lệ thuộc
vào mỗi chủ quan. Như thế không có một nền tảng khách quan để phê bình, vì mỗi
người tự đặt nguyên tắc cho mình, có những sở thích, năng khiếu riêng, vì có
bao nhiêu người thì có bao nhiêu lối hưởng thụ, gặp gỡ với tác phẩm.Lối phê bình chủ quan không phải là một phê bình
theo nghĩa thông thường của nó vì một đằng người phê bình lấy chủ quan của mình
làm nguyên tắc và cứu cánh phê bình, do đó sự phê bình chỉ có giá trị với chính
mình, đằng khác sự phê bình đó không thể diễn tả được nhưng phải dùng trực giác
mà lãnh hội tác phẩm để thưởng thức, hưởng thụ bên trong thôi.Phê bình khách quanTôi gọi là phê bình khách quan những khuynh
hướng không lấy cái chủ quan tư riêng làm nguyên tắc và cứu cánh phê bình nhưng
căn cứ vào những thực tại khách quan như Luân lý, Xã hội, Tâm lý để phê
bình Truyện Kiều.I. Trước hết là khuynh hướng phê bình luân lý
Ở đây hai phái chủ trương đối lập nhau. Phái
khen Truyện Kiều có luân lý gồm những người như Phạm Quỳnh,
Trần Trọng Kim, Vũ Đình Long… Theo họ, Kiều là một gương mẫu điển hình của luân
lý đặt cơ sở trên những nhân, nghĩa, trí, tín, đáng được kính trọng, thương
mến. Phái chê Truyện Kiều là vô luân lý gồm những nhà Nho
nghiêm khắc như Ngô Đức kế, Huỳnh Thúc Kháng. Theo các cụ Nho “văn dĩ
tải đạo”, nói cách khác, văn chương phục vụ luân lý. Vậy chỉ có một văn
chương là Tứ thư Ngũ kinh hay tất cả những gì có tính chất Tứ thư Ngũ kinh, còn
tiểu thuyết, thơ, không phải là văn chương và chỉ là một loại tiêu khiển phù
phiếm, trống rỗng, không giá trị.Trong viễn tượng đó, ông Ngô Đức Kế lên án Truyện
Kiều là “ai dâm sầu oán đạo dục tăng bi”, ông Huỳnh
Thúc Kháng: “Là một chuyện phong tình hối dâm không dùng làm sách dạy,
gieo các nọc gió trăng hoa liễu trong các thiếu niên nam nữ ta”.Nhưng chúng ta có thể hỏi: người nói Truyện
Kiều có hay không có luân lý, nhân danh cái gì mà quả quyết như vậy?
Căn cứ vào thứ luân lý nào để lên án hay ca tụng Truyện Kiều? Dĩ
nhiên ở đây là luân lý Nho giáo. Nhưng luân lý Nho giáo có phải là luân
lý phổ quát, độc nhất hay chỉ là một quan niệm về luân lý trong
muôn vàn quan niệm khác? Đặt những câu hỏi đó, ta thấy những phán đoán luân lý
thường bao hàm một tham vọng coi luân lý của mình là luân lý nghĩa
là tượng trưng cho luân lý phổ quát tuyệt đối. Nhưng đã rõ luân lý Nho giáo
cũng chỉ là một quan niệm luân lý. Có thể nhiều điểm của quan niệm Nho giáo
phản ảnh một giá trị phổ quát, nhưng cái gì trong Nho giáo là phổ quát, cái gì
không? Lầm lẫn Nho giáo cũng như nhiều hệ thống luân lý khác đều có một nội
dung phức tạp gồm những nguyên tắc trừu tượng, cả những lễ nghi, phong tục, tập
quán, tất cả thành một tổng hợp, một thế giới riêng biệt.Vậy khi người ta phán đoán; hành động này có hay
không có luân lý, chúng ta có quyền hỏi: Anh nhân danh luân lý gì để phán đoán
như thế? Ví dụ: Hành động đó là vô luân lý, bất hiếu v.v… Ta có thể hoài nghi
giá trị của câu phán đoán đó, vì rất có thể thái độ vô luân lý kia chỉ vô luân
lý với một thứ luân lý nào đó, và chưa chắc đã là vô luân lý với luân lý khách
quan, phổ quát tuyệt đối. Hơn nữa nhiều khi chính thái độ vô luân lý đó lại là
một cách biểu lộ và tôn trọng luân lý đích thực; vì rất có thể cái luân lý
người ta đưa ra để kết án không phải là luân lý phổ quát đích thực, nhưng chỉ
là những quy ước, tập quán, luật lệ, hình thức, đôi khi thiển cận, chật hẹp,
lỗi thời. Vô luân lý ở đây nghĩa là không tôn trọng những luật lệ, tập quán đó.
Nhưng như người ta thường nói: Luân lý đích thực bất chấp luân lý (la vraie
morale se moque de la morale) nghĩa là đôi khi hành động bị gán là vô luân lý,
bất kính v.v… không nhằm đả phá tinh thần luân lý như một thứ
tục lệ, luân lý hình thức giả tạo nào đó; do đó sự vô luân lý, bất kính là một
cách biểu lộ tôn trọng luân lý đích thực. Như nhà văn hào Jacob đã nói: “Nền
luân lý cao nhất là một luân lý bắt đầu bằng sự bất kính hoàn toàn” (La
moralité la plus haute est celle qui a pour point để départ un irrespect
universel). Cũng như về tôn giáo, người có tinh thần tôn giáo đích
thực gớm ghét tất cả những người đội lốt tôn giáo chỉ giữ cái đạo bề ngoài, vụ
lợi, thiển cận; cho nên người thánh, như Jacques Maritain nói, là một người vô
thần hoàn toàn (le saint est un athée intégral) vô thần theo
nghĩa chống lại mọi hình thức xuyên tạc tôn giáo như một tinh
thần để tỏ lòng tôn trọng tôn giáo đích thực.Vậy nếu chúng ta có quyền có những luân lý khác
luân lý Nho giáo tất nhiên những phê bình đứng ở lập trường Nho giáo chỉ có giá
trị tương đối, với những người chấp nhận luân lý đó. Trong một thế giới loài
người có nhiều quan niệm khác nhau về luân lý (Phật giáo, Công giáo, Nhân bản
vô thần, v.v…) và không ai đồng ý với ai về nền tảng sau cùng đời người (vì
luân lý cuối cùng phải đặt trên một siêu hình học, nghĩa là một quan niệm về
cuộc đời và đời người), quả quyết luân lý, tôn giáo của mình là tuyệt đối, độc
nhất có lẽ sẽ gây nên những phản ứng khó chịu. Chúng ta không còn sống trong vũ
trụ quan Nho giáo, thời đại mà luân lý, triết lý Nho giáo xuất hiện như một luân
lý, một triết lý độc tôn, duy nhất như đạo Công giáo thời
Trung cổ bên Âu châu, nhưng trong một thế giới tự do được chấp nhận nhiều triết
lý, tôn giáo kỹ nghệ hóa. Sự kiện đó làm cho chúng ta thận trọng dè dặt khi phê
bình vì bất cứ một phán đoán nào cũng đều đặt trên một cơ sở lý thuyết (luân lý
và triết lý) và ta không được quyền trước mặt người khác, quyết
đoán và bó buộc công nhận lập trường của ta như là chân lý tuyệt đối. Cần nhấn
mạnh rằng tôi không có ý phê bình Nho giáo hay từ chối có một luân lý phổ quát,
nhưng tôi chỉ muốn nói: có một luân lý phổ quát nhưng rất khó xác định; nên có
nhiều quan niệm khác nhau về luân lý phổ quát đó, như vậy khi phê bình rất khó
xác định xem lời phê bình có phản ảnh luân lý đích thực, phổ quát hay chỉ phản
ảnh một quan niệm về luân lý phổ quát, và do đó rất khó nói một hành động này
là có luân lý hay vô luân lý.Chúng ta còn không thể phê phán một hành động là
có hay không có luân lý, một cách chính xác, tuyệt đối khi nghiên cứu hành động
đó như thể hiện một thái độ trước một hoàn cảnh nhận định.Thế nào là một hành động vô luân lý? Hành động
là vô luân lý khi trái với những nguyên tắc của luân lý - ví dụ ăn trộm là trái
luân lý. Nhưng định nghĩa như thế là chỉ nhìn vấn đề trong phạm vi lý thuyết,
tổng quát; và ở trong phạm vi lý thuyết, chân lý đơn giản quá: ai chả công nhận
ăn trộm là trái luân lý. Nhưng nếu phải xác định giá trị luân lý của một hành
động (ăn trộm) trong một hoàn cảnh nhất định, vấn đề sẽ trở nên phức tạp. Tại
sao tôi ăn trộm, vì bị bóc lột, túng thiếu, thất nghiệp? Tại sao có thất
nghiệp? Hoàn cảnh sinh sống của tôi thế nào? Gia đình, xã hội có trách nhiệm
trong hoàn cảnh đó không? Bất cứ hành động luân lý nào cũng bao hàm một ý thức
và tự do. Tôi có khả năng nhận định dúng được ý nghĩa điều mình làm, tôi có tự
do lựa chọn và chấp nhận hay bị bó buộc lựa chọn? Trong những trường hợp nhất
định (hic et nune) trong hoàn cảnh này, trong hoàn cảnh kia, con người hành
động đôi khi không thấy rõ con đường đi tới, và hành động theo nhận thức bấp
bênh có thể đúng có thể sai đó. Trong đời sống thật sự; trước những trường hợp
cụ thể, luân lý phải trái không xuất hiện rõ ràng như ban ngày ban đêm, nhưng
như tranh tối tranh sáng, phức tạp, nghi vấn (problématique). Kiều bán mình
chuộc cha, hy sinh chữ tình, bảo vệ chữ hiếu. Nhưng đó có phải là con đường duy
nhất? Bảo vệ chữ Hiếu có lý; nhưng bảo vệ chữ tình cũng không phải là vô lý.
Cho nên trong đời sống, chân lý không đơn giản nhưng phức tạp, có cái có lý
trong cái vô lý và cái vô lý trong cái có lý.Sự nhận định đã không thể chính xác một cách
tuyệt đối, sự thực hiện bằng hành động cũng chỉ có tính cách một ván bài, một
cuộc phiêu lưu, một dấn thân liều mình, nghĩa là trong cái không vững chắc, cái
có thể đúng, có thể sai; cái có thể thất bại, có thể thành công.Trong thực tế, con người phải luôn luôn đi tìm
một con đường chỉ dẫn bằng lần mò như trong đêm tối, và có thể sa ngã, nhầm
lẫn, thất bại. Đó là thân phận con người, không có gì là sẵn đấy, rõ ràng, chắc
chắn. Mọi sự phải đi tìm, tạo ra, khám phá ra. Đời là một phiêu lưu pha trộn
may rủi, tình cờ, cái tốt cái xấu, mà mỗi lúc con người phải lựa chọn trong lo
lắng, băn khoăn với những khả năng của mình và theo những điều kiện bên ngoài.
Người ta trách Kiều là gái điếm vì đã lăn lộn trong các thanh lâu, lấy hết người
này đến người kia: nhìn một cách trừu tượng, sự bất trung, dâm đãng là một điều
xấu, vô luân lý. Nhưng Kiều có hoàn toàn trách nhiệm những hành động ấy không?
Dĩ nhiên có thể nói Kiều trách nhiệm những hành động ấy vì đã chấp nhận cuộc
phiêu lưu khi bằng lòng bán mình. Nhưng tại sao Kiều phải bán mình? Tại sao có
bất công, oan trái, tại sao có những thanh lâu, những gian ác, ích kỷ? Nói cách
khác, tại sao có những hoàn cảnh xấu trong đó con người phải quyết định lựa
chọn? Ai gây ra những hoàn cảnh đó? Nếu cuộc đời là định mệnh, con người sẽ là
trò chơi của số mệnh và không ai phải chịu trách nhiệm, vì đã không có tự do
hành động. Vậy cuộc đời do con người tạo ra và có cái tốt cái xấu pha trộn.
Cuộc đời đó mọi người chịu trách nhiệm, không ai hoàn toàn vô tội, nhưng cũng
không ai hoàn toàn có tội vì một hành động dù tư riêng cũng một phần do những
yếu tố bên ngoài gây nên đồng thời do chính người đó quyết định lựa chọn; cho
nên ta trách nhiệm hành động của ta, và người khác cũng trách nhiệm hành động
đó như ta trách nhiệm một phần hành động của họ. Mọi người liên đới nhau cùng
hành động và tạo ra cuộc đời xấu tốt. Cuối cùng không ai hoàn toàn oan nhưng
cũng không hoàn toàn có tội: như Karl Jaspers nói “Tội lỗi ở ngay tại
sự chấp nhận hiện hữu, nghĩa là khởi điểm, nguồn gốc cuộc đời”. Khi ta
vào đời, chấp nhận cuộc đời là như mang trong mình tình cảm có tội rồi.Những phân tích trên đưa ta đến hai nhận xét
này:1. Không
thể phê bình thái độ nhất định là có hay không có luân lý bằng cách trừu tượng
hóa con người toàn diện và hơn nữa trừu tượng hóa con người đó ở trong hoàn
cảnh đời. Khi ông Huỳnh Thúc Kháng, ông Ngô Đức Kế phê bình Kiều là người dâm
ô, hai ông đã không nhìn hành động của Kiều như một hành động trong một
hoàn cảnh và chỉ nhìn nó một cách trừu tượng như tội dâm ô nói chung.2. Không
thể phê bình một thái độ sống thật đứng ở lập trường luân lý phổ quát trên quan
điểm của một người “có bàn tay sạch” không bao giờ sai lầm, có
tội, nghĩa là trên quan điểm Thượng Đế; vì như trên đã nói, không ai hoàn toàn
vô tội: con người thiết yếu liên đới nhau. Vậy thái độ người và người
chỉ có thể là thái độ của kẻ có tội với người có tội, không thể là
thái độ của người không bao giờ có tội với người có tội. Như thế chỉ Thượng Đế
(nếu tầng trời tin có) mới có quyền lên án người ta. Thái độ kết án luân lý,
nơi con người bao hàm một tự phụ mình trong sạch, nghĩa là một giả hình [3].Do đó phê bình một hành động, một tác phẩm trên
phương diện luân lý là một điều rất khó và nguy hiểm vì ta không nắm được đầy
đủ những yếu tố phức tạp quyết định hành động, thái độ đó. Nhận định đó đòi hỏi
chúng ta một tinh thần thận trọng đến nỗi không còn dám lên án phê bình nhưng
chỉ muốn tìm hiểu và thông cảm. Phúc âm có nói “không
nên xét đoán vì sẽ bị xét đoán”. Tâm lý học và siêu hình học hiện đại
đã chứng minh chân lý đó: nghĩa là những yếu tố cấu tạo một hành động phức tạp,
ẩn kín người ngoài không thể lĩnh hội được và do đó sự phán đoán chỉ có thể là
sai lầm.II. Khuynh hướng phê bình khoa họcÔng Nguyễn Bách Khoa trong hai cuốn khảo luận
về Truyện Kiều đã trình bày một quan điểm phê bình mệnh danh
là khoa học. Ta có thể tóm lược quan điểm đó như sau: muốn hiểu một tác phẩm,
phải hiểu tác giả, và muốn hiểu tác giả, phải hiểu hoàn cảnh lịch sử của tác
giả. Văn chương là sản phẩm của con người; nhưng con người không phải một cá
nhân trừu tượng, độc lập, nhưng là “những ảnh hưởng xã hội kết tinh
lại” nghĩa là con người thuộc về một giai cấp xã hội và xung đột với
những giai cấp khác. Ý thức cá nhân phản ảnh ý thức giai cấp và ý thức giai cấp
phản ảnh những xung đột giữa các giai cấp trong xã hội. Văn chương bộc lộ ý
thức hệ của một giai cấp.Vậy muốn hiểu tác phẩm, phê bình văn học có
nhiệm vụ:1. Khảo sát dòng họ, huyết
thống tác giả, nghĩa là ảnh hưởng gia đình, thị tộc nơi tác giả đó sinh trưởng,
hành động.2. Khảo sát tâm lý, nguyện
vọng, vai trò lịch sử của giai cấp tác giả.3. Khảo sát những ảnh hưởng
do những cuộc xung đột giữa giai cấp tác giả với các giai cấp khác nơi tác giả. Theo quan niệm khoa học đó, Truyện Kiều là
một sản phẩm của con người Nguyễn Du và Nguyễn Du là sản phẩm của một thời đại.
Thời đại Nguyễn Du là một thời đại suy tàn, giai cấp của Nguyễn Du là giai cấp
đang suy tàn, thất bại, nên con người Nguyễn Du cũng chỉ có thể là con người
suy tàn và do đó văn chương Truyện Kiều cũng phản ảnh một cái
gì tàn tạ, sầu oán, chiến bại…Tại sao gọi quan niệm trên là một quan niệm phê
bình khoa học? Là vì tham vọng muốn áp dụng phương pháp thực nghiệm dùng trong
khoa học vật lý vào trong phạm vi văn chương. Nhưng vấn đề là ta có được phép
áp dụng phương pháp khoa học vào những phạm vi không còn đối tượng nghiên cứu
là vật chất thuần túy không? Chúng ta biết rằng đối tượng của khoa học là sự
vật, vật chất; nhà khoa học quan sát sự vật, đặt giả thuyết, thí nghiệm và
chứng nghiệm, xây định luật khoa học. Nền tảng giá trị khoa học là tất định
thuyết (déterminisme) nghĩa là mối tương quan thiết yếu giữa hai sự kiện (nếu
có đủ điều kiện ở A tất nhiên có B. Ví dụ nếu có kim khí, nhiệt độ đủ, áp lực
đủ, tất nhiên hiện tượng co giãn sẽ xảy ra). Nhà khoa học cắt
nghĩa hiện tượng co giãn bằng những điều kiện, nguyên nhân của nó.
Nhưng trong phạm vi văn chương nghệ thuật, một tác phẩm, một bản nhạc, một bức
họa không còn phải là một sự vật thuần túy nữa; vì nó chứa đựng một linh hồn,
một tình cảm, một nỗi niềm, một ý nghĩa, nghĩa là những cái không thể giản lược
vào vật chất được.Vậy muốn lĩnh hội một sự kiện nghệ thuật, không
thể đứng ở quan điểm khoa học được. Vì thái độ khoa học là nhằm cắt
nghĩa sự vật mà cắt nghĩa (expliquer), tức là giản lược điều cắt nghĩa
vào cái khác nó (nhà khoa học cắt nghĩa sự kiện co giãn bằng
cách trình bày những sự kiện khác cấu tạo nó, đồng thời những sự kiện khác nó
cắt nghĩa đầy đủ sự kiện co giãn).Nhà phê bình khoa học cũng cắt nghĩa một tác
phẩm văn chương bằng sự kiện khác nó, như bằng những yếu tố tâm lý, kinh tế, xã
hội và cho rằng tác phẩm hoàn toàn chỉ là những yếu tố đó.Nhưng nếu như vậy, không còn văn chương nữa. Cái
nhầm của thái độ khoa học áp dụng trong lĩnh vực văn chương là đã không coi văn
chương có một cứu cánh tự tại, tương đối biệt lập, nhưng chỉ
là phản ảnh của một thực tại khác nó.Vậy đã không lĩnh hội được một tác phẩm với
tư cách là một tác phẩm văn nghệ.Khi ta nghe một bản nhạc, nếu nghe với thái độ
của nhà khoa học ta chỉ lãnh hội được một tổng số âm thanh lần lượt phát hiện,
mà không tiếp nhận được ý nghĩa bản nhạc đó, nghĩa là bản nhạc không còn phải
là bản nhạc có một cơ cấu riêng, một ý nghĩa, một tình cảm nữa.Do đó, muốn lĩnh hội một tác phẩm nghệ thuật,
phải có thái độ nghệ thuật. Tôi ngắm một bức họa, dĩ nhiên bức
họa đó phải có một cơ cấu riêng xác định nó là bức họa không phải cái bảng đen,
quyển sách. Nhưng đồng thời tôi cũng phải có thái độ muốn lĩnh hội bức họa đó
như một bức họa. Nếu khi nhìn bức họa, tôi chỉ để ý quan sát kích thước, chiều
bề hay xem bức họa làm bằng những chất gì, lúc đó bức họa xuất hiện với tôi là
một nhà toán học hay vật lý học, như một sự vật gồm những đường có thể đo lường
hay một đối tượng vật lý gồm những chất nọ chất kia có thể phân tích được, và
bức họa đã biến mất, nghĩa là đã mất cái ý nghĩa là một bức
họa. Do đó sự vật xuất hiện trước ý hướng lĩnh hội của ta thế nào (se dévoile)
là tùy theo thái độ của ta lúc đó. Ta xác định một thái độ trước sự vật
và sự vật xuất hiện với ta theo thái độ đó.Vậy nếu ý hướng lĩnh hội của ta khi nghiên cứu
một tác phẩm văn chương, như Truyện Kiều chẳng hạn là một ý
hướng khoa học, muốn cắt nghĩa bằng những yếu tố kinh tế, lịch sử, xã hội
v.v… Truyện Kiều không còn xuất hiện (se dévoile) như một tác
phẩm văn chương nữa, nhưng là một tổng hợp những yếu tố xã hội, kinh tế, lịch
sử của một thời đại.Như thế, muốn lĩnh hội Truyện Kiều nói
riêng hay một tác phẩm văn nghệ nói chung, phải nhìn với con mắt văn nghệ,
nghĩa là vào trong tác phẩm, tìm khai triển ý nghĩa của ý
hướng văn nghệ sơ thủy của tác giả.Nhưng ý hướng văn nghệ sơ thủy đó phát sinh từ
những hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định và bộc lộ bằng những phương tiện diễn
tả của thời đại. Nói cách khác, không thể quan niệm một văn chương ở ngoài khía
cạnh văn hóa, xã hội của nó. Ta không thể hiểu được một văn chương đồng ruộng ở
giữa đời sống thị thành ồn ào. Người nghệ sĩ sáng tác bằng những tài liệu và
với những phương tiện do hoàn cảnh chung quanh cung cấp cho. Nhưng không thể
nói văn chương đồng ruộng là một sản phẩm của kinh tế nông nghiệp hay truyện
Kiều là sản phẩm của giải đáp quan lại thoái trào suy tàn, vì nếu hoàn cảnh tạo
nên tác phẩm một cách tất yếu như trong lược đồ nhân quả khoa học (điều kiện
nhiệt độ áp lực tạo nên hiện tượng co giãn) tại sao chỉ có Truyện Kiều của
Nguyễn Du văn sĩ, trong bao nhiêu Nguyễn Du quan lại thoái trào khác? Việt Nam
phản ảnh một phần nào hoàn cảnh vì con người văn nghệ cũng là người ở đời với
người khác trong một thời đại, nhưng hoàn cảnh chỉ là chất liệu mà
nhà văn nghệ là người thợ sử dụng để xây dựng một cái gì. Vậy chất liệu chỉ là
điều kiện cần thiết không phải điều kiện đầy đủ; vì cái cốt yếu trong công
trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật là nhờ ở ý hướng tác tạo tự do của con
người văn nghệ. Đặt vấn đề như thế, chúng ta thấy ngay ý nghĩa và giới hạn của
mọi khuynh hướng khoa học hoặc nhuộm màu mác-xít hay chỉ có tính cách giáo
khoa. Nhà phê bình khoa học sẽ khảo sát nguồn gốc, xuất xứ tác phẩm, nghiên cứu
ảnh hưởng đời sống gia đình, hoàn cảnh xã hội của thời đại với tác phẩm về phạm
vi tư tưởng hay phạm vi nghệ thuật; khảo sát những kỹ thuật sáng tác hành văn
nhằm mục đích phân loại, khuynh hướng, môn phái theo văn học sử. Nhưng những
công việc đó mới dừng lại ở bên ngoài tác phẩm, chưa đi vào chính cơ cấu, ý
nghĩa sâu xa, nguyên ủy của tác phẩm. Khai thác những ý nghĩa đó vượt phạm vi
cắt nghĩa khoa học.Nhưng thế nào là ý hướng của một tác phẩm văn
chương? Ý hướng văn chương biểu lộ một cách thế ở đời (manière
d’être au monde) của tác giả trong một tương quan thiết yếu với người
khác. Như vậy, bất cứ tác phẩm nào cũng bao hàm một lối nhìn về cuộc
đời và đời người, cũng gói ghém kín đáo những nỗi niềm tin tưởng sâu xa của tác
giả. Những nỗi niềm tin tưởng đó biến thành những “đề tài ưu đãi” (thèmes
privilégiés) là một tự thú của tác giả; một tự thú giãi bày
cuộc phiêu lưu một đời người và ý hướng chỉ đạo bao hàm một thái độ trước thân
phận con người nhìn trong viễn tượng toàn diện của nó.Vậy nhiệm vụ của phê bình là khai triển, bày tỏ
cái ẩn kín, bao hàm trong tác phẩm một cách khách quan, nghĩa là người phê bình
phải tự xóa đi để hòa mình với ý hướng sáng tác của tác giả, mong lãnh hội được
đúng ý nghĩa tác giả muốn nói, không phải bắt tác phẩm theo ý riêng của mình.Phê bình khoa học của Nguyễn Bách Khoa và nhiều
người khác… có tính cách võ đoán vì đã có sẵn một hệ thống, một
quan niệm về cuộc đời trước khi phê bình và phê bình tác giả theo hệ thống,
quan niệm của mình; hễ điểm nào trong tác phẩm hợp với hệ thống của mình là có
giá trị và không hợp, hay thiếu sót là không có giá trị.Vậy một phê bình văn học vượt phê bình khoa học
có nhiệm vụ bày tỏ lời gửi của tác giả (message) cho độc giả, ý nghĩa sự tra
hỏi về cuộc đời của tác giả trong tác phẩm. Nhưng phê bình đó căn cứ vào đâu để
xác định giá trị một tác phẩm, một lời gửi, một tra hỏi về cuộc đời của tác
giả? Phê bình ý nghĩa hay phê bình triết lý này đưa đến một phê bình phê bình
văn học, nghĩa là những nguyên tắc căn bản xác định giá trị lời gửi và cách
biểu diễn lời gửi đó. Phê bình phê bình văn học đó gồm một phân tích thực chất
của ý hướng văn nghệ, gồm một thẩm mỹ học xác định ý nghĩa và vai trò của những
văn ảnh, những chữ và những quá trình phối hợp của những văn ảnh trở thành
những chữ, những chữ thành những cơ cấu, hình thức đặc biệt theo những định
luật nhất định.Như thế, có thể xác định giá trị của một tác
phẩm, về hình thức, ở chỗ tác phẩm đó biết sử dụng khéo léo những quy ước của
thẩm mỹ học và về nội dung ở tính cách “chân thật” (authenticité)
lời gửi của tác giả là một “chứng nhân” trong mọi hoàn cảnh.Một tác phẩm đạt tới đích khi nó tạo được một
rung cảm nghệ thuật (joie esthétique) và giá trị thẩm mỹ và tính cách chân thật
lời gửi chứa đựng trong tác phẩm.Tác phẩm là một tiếng gọi và nó thành công khi
được đáp lại, nghĩa là khi gây được một thông cảm nơi người tiếp nhận nó.Tôi thiết tưởng rằng Truyện Kiều đã
đạt tới mục đích đó, nghĩa là đã xứng đáng là một tác phẩm văn chương và hơn
nữa là một tuyệt tác vì hai điểm:1. Nguyễn
Du đã đề nghị một lối nhìn về cuộc đời như một phiêu lưu của một tự do, luôn luôn
phải nhận định một hướng đi trong cái phức tạp, mơ hồ của hoàn cảnh, không biết
đâu là con đường sáng, đâu là con đường bế tắc và luôn luôn phải lựa chọn trong
lo lắng, xao xuyến, trước cái bấp bênh may rủi của tương lai, của tình cờ… Cuộc
đời trong Truyện Kiều không phải là an nghỉ, thanh bình, thân
ái, trật tự kinh hoàng nhìn nó trên lý thuyết, luân lý của nhà triết học hay
nhà luân lý nhưng là một thân phận, một cái kiếp con người, long đong ba chìm
bảy nổi, không có gì là vững chắc, lâu dài, nhưng éo le, dễ vỡ, phức tạp, gian
khổ… Truyện Kiều đã có một khả năng truyền cảm mãnh liệt vì nó
động đến những khía cạnh sâu xa, bi đát của hiện hữu, của con người nhập thể và
thiết thực trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta thích Truyện Kiều vì
ai cũng bắt gặp mình ít nhiều trong cuộc phiêu lưu của Kiều, nghĩa là trong
thân phận làm người có những lúc lo lắng, băn khoăn trước một tương lai mờ mịt;
có những chán nản, uất ức trước những cái vô lý cuộc đời, có những lúc tin
tưởng hy vọng muốn bám víu lấy cuộc sống vì tha thiết tuy đôi khi chỉ là những
tia hy vọng mỏng manh, hay là ảo vọng.2. Nguyễn
Du đã thành công trong việc sử dụng những kỹ thuật diễn tả cuộc đời như là một
phiêu lưu của con người tự do đó.Về nội dung, Nguyễn Du đã nói lên được những
khía cạnh sâu xa phổ biến nhất của thân phận con người trong trần gian. Một tác
phẩm càng phổ biến trường tồn bất hủ, nếu càng đạt được cái phổ quát. Qua
truyện Kiều, chúng ta đã tìm thấy những nét điển hình nhất của con người định
nghĩa như một dự phóng (un projet), một tự do.Nhưng Nguyễn Du còn biết diễn tả những cái phổ
biến đó bằng những phương tiện thông cảm phổ biến nhất, là những văn ảnh bình
dân chữ nôm tầm thường. Những truyện của Tự lực Văn đoàn đã gây một thông cảm
lớn lao, nhưng đều có tính cách hoàn cảnh, thời đại rõ rệt. Cốt truyện dựng
trong một xã hội nhất định, phản ảnh những vấn đề, thắc mắc của thời đại và
dùng những kỹ thuật riêng của xã hội, thời đại đó. Ngày nay, không còn những
ông Án, bà Phán, cũng không còn những lối sống của xã hội phong kiến pha trộn
trưởng giả Âu châu và con người thế hệ này đã thấy mình ở ngoài một
phần nào những hình ảnh dĩ vãng đó.Trái lại Truyện Kiều vẫn
rất “thời sự”, rất gần chúng ta, rất gần mọi lớp người, mọi thời
đại, vì nó đã bày tỏ những cái chung của thân phận con người bằng những phương
tiện chung của dân tộc; của mọi giai cấp xã hội. Trong đời sống, không có cái
gì là tầm thường, tẻ nhật; một lá cỏ, một ánh nắng, một cử chỉ bắt tay, tất cả
đều có thể chứa một nỗi niềm say sưa hay chỉ là những cái vô hồn, máy móc. Tình
yêu làm cho chúng sống động, và nghệ thuật là ở chỗ thực hiện được cái sống
động đó lên.Nguyễn Du đã thành công trong việc đó. Thơ của
Nguyễn Du như những bức họa có sức thực hiện ngay lên một khung cảnh sống và
gieo vào khung cảnh sống đó một tình yêu, một niềm tin, hay một chua xót,
thương tâm… bằng những hình ảnh, danh từ quen thuộc tầm thường ai cũng hiểu và
lĩnh hội, đồng thời ai cũng có thể rung cảm được. Mỗi chữ đều chứa một nội dung
tình cảm tâm lý; khi gợi lên, toàn thể nội dung đó cũng xuất hiện theo. Vì nếu
chữ đó với ta là xa lạ, tất nhiên không gợi lên được nội dung tình cảm kia và
do đó, năng lực truyền cảm của nó sẽ nghèo nàn, nhỏ bé (ví dụ những chữ, kiểu
nói chỉ thông dụng trong một vùng, một giới).Theo thiển ý, tôi thiết nghĩ đó là hai đặc điểm
xác định giá trị Truyện Kiều là một tuyệt tác; Truyện
Kiều không phải là một tác phẩm triết lý hay luân lý; có triết lý luân
lý trong Truyện Kiều, nhưng đó là những thái độ, hành
động không phải dưới hình thức một hệ thống để chứng minh cái gì;
Nguyễn Du viết Truyện Kiều không có ý chứng minh một tư tưởng,
vì nếu có ý chứng minh, tại sao có những mâu thuẫn trong hành động của Kiều?
Một quan niệm vẫn được công nhận là coi Truyện Kiều như một
chứng minh thuyết định mệnh. Nhưng gần đây ông Nguyên Sa trong Sáng tạo số
tháng 12/1957 đã chủ trương trái lại (Nguyễn Du trên những nẻo đường tự do) đưa
ra những lập luận vững chắc chứng minh Kiều luôn luôn hành động như một tự do
quyết định và lựa chọn, và nếu có định mệnh thì chính Kiều đã chọn định mệnh:
Tự do của Kiều đã đẻ ra định mệnh vì nếu nàng không tự ý bán mình chuộc cha,
còn đâu là định mệnh.Nếu xã hội Truyện Kiều là một
chứng minh định mệnh, nghĩa là Kiều và tất cả những nhân vật khác chỉ là lá
bài, trò chơi của số mệnh, không ai trách nhiệm vì không có tự do hành động;
tại sao có đền ơn báo oán, vì những Tú bà, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh chỉ làm những
việc mà định mệnh bắt phải làm, thì có tội gì? Nếu số Kiều đã phải khổ, thì
không có Tú bà này đã có Tú bà khác, tại sao lại báo oán, phạt những người sinh
ra để thi hành bản án của sổ đoạn trường? Tại sao Kiều đã không lấy Kim Trọng
lúc tái ngộ nếu nàng chỉ là nạn nhân của định mệnh, tại sao nàng có thể từ chối
mọi thúc đẩy của số mệnh? Vì nàng đã hành động tự do, nên đã không chấp nhận đề
nghị “kết tóc xe tơ” cùng Kim Trọng. Nếu chấp nhận là phủ nhận
mọi hy sinh có suy tính cẩn thận trước đây của nàng, và bằng lòng làm quân cờ
của định mệnh.Vậy Truyện Kiều chỉ có thể là
bài thơ, cuốn truyện thuật lại cuộc đời phiêu lưu của một tự do băn khoăn lo
lắng, lựa chọn trước những hoàn cảnh cuộc đời pha trộn may rủi, tốt xấu.Nếu có định mệnh đi nữa, nhưng con người ý thức
được sự định mệnh đó và sự ý thức đó bộc lộ con người có tự do; vì con người
vừa ở trong cái tất yếu, vừa không phải là
tất yếu mới ý thức tất yếu, định mệnh; nếu con người chỉ
là định mệnh, đồng hóa hoàn toàn với định mệnh như vật giới, làm sao
con người biết được định mệnh? Cái khả năng biết được đó ta gọi là tự do. Rất
có thể Nguyễn Du không ý thức được rõ rệt về tự do như thế, nhưng thái độ của
Cụ, thái độ của Kiều luôn luôn biểu lộ những thắc mắc, lo lắng và những phản
kháng, những lựa chọn bao hàm con người Nguyễn Du, nàng Kiều là những Tự do.Đọc Truyện Kiều, ta không thấy không
khí đạo đức của một Lục Vân Tiên hay Hoa Tiên. Sự
kiện đó có nghĩa là Nguyễn Du đã không muốn áp dụng tôn chỉ “Văn chở
đạo” vì nếu Nguyễn Du có ý giảng dạy luân lý bằng văn chương, tại
sao Truyện Kiều có thể gây nên những phản đối dữ dội của những
người đại diện luân lý? Như thế có nghĩa là Nguyễn Du chỉ muốn kể lể một câu
truyện, mô tả một cuộc đời phiêu lưu và kể như một nghệ sĩ. Tất
nhiên cuộc đời ấy bao hàm những thái độ triết lý, luân lý; nhưng chúng là những
thái độ sống, bao hàm trong những hành động được thực hiện dưới một hình thức
văn chương. Chính vì Truyện Kiều trước hết là một tác phẩm văn
chương nghĩa là những ý tưởng triết lý, luân lý và những thái độ sống phức tạp
mà người ta chia rẽ nhau vì không thể xác định một cách dứt khoát, rõ ràng giá
trị luân lý của những hành động cụ thể đó.Nhưng dù sao, những thái độ sống đó cũng là
những thái độ luân lý cần phải được xác định đúng hay sai, vô luân lý hay có
luân lý.Ở đây phải phân biệt hai phạm vi:1. Xác định giá trị luân lý
một thái độ sống trong hoàn cảnh nhất định.2. Xác định giá trị luân lý
một thái độ tổng quát, một cách khách quan.Ví dụ việc Kiều sang chơi hát đêm bên nhà Kim Trọng.
Khách quan mà xét, nghĩa là trừu tượng hóa những hoàn cảnh, thái độ đi chơi đêm
với trai như thế bao giờ cũng là một thái độ nguy hiểm, không
đứng đắn. Nhưng nếu xét trong trường hợp cụ thể (hic et nunc), nghĩa là xét
hành động trong một hoàn cảnh, ta có thể hiểu và tha thứ, cũng như không khí
thanh lâu, khách quan, sự kiện đó bao giờ cũng đều xấu; nhưng
trong những hoàn cảnh cụ thể, mà những con người vì những lý do phức tạp phải
lẫn lộn trong đó, có lẽ họ không có tội, mà có thể là nạn nhân đáng thương của
hoàn cảnh v.v… Thiết tưởng phải căn cứ vào sự phân biệt trên để
xác định những hành động bao hàm một thái độ luân lý của những nhân vật trong
truyện Kiều, vì nếu không sưu tranh luận sẽ cứ bế tắc mãi. Người chê truyện
Kiều là vô luân lý vì đứng ở quan điểm luân lý khách quan và sự kiện tổng quát;
còn người bênh truyện Kiều vì đứng ở phạm vi xét đoán theo hoàn cảnh. Hai bên
cùng không nhận ra khuyết điểm lập trường phê bình của mình. Một giáo sư trong
lớp nói: “Ối chà, Kiều sang chơi bên nhà Kim Trọng có tội gì, thanh niên bây
giờ làm thế là thường”. Nói như thế là lẫn lộn phạm vi, đã biện chính một thái
độ xét theo hoàn cảnh và mặc cho nó một thập giá luân lý khách quan. Nhưng thật
ra, nếu giáo sư đó có con gái, chắc ông sẽ không dám cho con gái mình đi tự do
như thế. Thái độ đó chứng tỏ nhầm lẫn nguy hiểm hai phạm vi phê bình nói trên.Đưa ra những nhận xét trên, tôi không có thể
thanh toán vấn đề nhưng chỉ muốn đặt lại vấn đề, tìm lấy cho mình một con đường
đi, một lối nhìn mới bằng nỗ lực vượt những kinh nghiệm của những người đi
trước. Lối nhìn đó tôi cũng không dám coi là đúng, thật ra tôi có cảm tưởng có
lẽ nên nhìn như vậy và khi đề nghị, nói với người khác tôi chỉ mong khơi gợi,
gây thắc mắc trong tinh thần trao đổi, đối thoại cùng nhau đi tìm những lối
nhìn đời đời hoàn toàn, chính xác hơn vì cứu cánh của vấn đề, không phải là bận
tâm về việc tôi nhìn phải, anh nhìn phải, nhưng là làm thế nào lĩnh hội được
nhiều khía cạnh hơn của vẻ đẹp vườn hoa.Trong viễn tượng đó, tìm hiểu chân lý toàn diện,
làm sao nhìn được vẻ đẹp bát ngát to lớn của tác phẩm sẽ là ý nghĩa và nền tảng
mọi nỗ lực nhận định, phê bình của những nguồn thiện chí và yêu nghệ thuật vậy.(1957)Chú thích:[1] Câu này phỏng dịch Đường Thi: “Đồng Tước Xuân thâm tỏa nhị Kiều.[2] Thơ Khiển sầu có câu:Sinh ca uyển chuyển tần liên tử,Cựu khúc y hi tối não nùng.[3] Trong tòa án, những quyết định luận phạt của quan tòa không đứng ở phạm vi luân lý, nhưng ở phạm vi bảo vệ công ích thôi.Nguyễn Sỹ TếTriết lý đoạn trường Tôi rất ngần ngại khi phải trở lại một vấn đề đã cũ: bàn về Đoạn trường
tân thanh của Nguyễn Du. Ngại ngần hơn nữa khi mà tác phẩm đó ít lâu
nay trở thành đề tài cho những "tiếng nói chính thức" khen cũng như
chê, ý thức hay vô tình, vụ lợi hay không vụ lợi.Trong nghề nghiệp của tôi, tôi đã từng va đầu phải một chân lý già nua nhưng
vĩnh cửu đã hơn một lần các văn học sử gia ghi nhận và kêu gọi: Chúng ta cứ tha
hồ mà hao dụng mọi phương tiện thăm dò với cái tham vọng cắt nghĩa hết thảy,
chiếu sáng hết thảy, rốt cuộc vẫn còn một xó tối nào đó nơi một tác giả, một tác
phẩm mà không một "ánh sáng khoa học nào" có thể xuyên qua được; khi
đó chúng ta chỉ còn có một lối là dùng trực giác của chúng ta mà thôi. Và sau
hết thảy, một tác phẩm tự nó chứng tỏ cho nó, tự nó nói với người đọc, tự nó
xếp chỗ ngồi cho nó!Trong một bài tiểu luận đăng trong một số Sáng tạo cũng như
trong một vài cuốn sách nhỏ viết cho học sinh trung học tôi đã khiêm mẫn gút
vấn đề tư tưởng của Nguyễn Du vào một tấn thảm kịch nội tâm. Xin nhắc lại sơ
qua để làm khởi điểm cho bài viết này.Tấn thảm kịch nội tâm của Tố Như có thể rút về ba cuộc tranh chấp song đồng:
Trước hết là cuộc tranh chấp ảnh hưởng giữa ba ý thức hệ căn
bản của Đông phương xưa. Đã gần chín thế kỷ rồi, từ thời tự chủ, Phật giáo và
Khổng giáo lần lượt thay nhau thống trị tư tưởng Việt Nam, rốt cuộc, qua những
phen thử thách gay go nhất là hồi cuối thế kỷ XVIII vẫn không đem lại an bình
cho quốc gia Việt Nam. Người ta bắt đầu nghi ngờ giá trị của những phương pháp ứng
dụng, nếu không là nghi ngờ giá trị nội dung của những ý thức hệ đó.
Thêm vào đó là tấn thảm kịch của một người đứng ở một ngã ba
đường lịch sử phải chọn nhận một thái độ: ra làm quan với nhà Nguyễn hay vẫn
trung thành với kỷ niệm của nhà Lê. Ngả đường đã giẫm chân lên rồi, Tố Như vẫn
chưa hết thắc mắc. Mấy ai đã hoàn toàn tự chủ, không lỗi lầm, và đoán trước được
mọi bất ngờ của việc đời, và chỗ vô thường của chính tâm lý mình?
Sau rốt là sự tranh chấp giữa hai xu hướng thẩm mỹ nơi nhà
thơ: thuận tình tới mức đã đạt tới của nghệ thuật hay phải đưa nó tới những bến
bờ mới lạ. Không ai chối nhận được "tính cách kim thời" - modernisme
- trong thi tài của Nguyễn Du.
Đó là những tranh chấp không tầm thường,
không phiến diện, mà là những tranh chấp bám chặt vào ý thức của Tố Như làm nên
cuộc khủng hoảng lương tâm, cuộc khủng hoảng đức tin, hiểu theo một nghĩa rộng,
của tác giả. Đoạn trường hơn nữa, tấn thảm kịch nội tâm đó kéo dài vô tận mà
dày vò nhà thơ cho đến lúc nhắm mắt phải thốt lên:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như?
Vậy thì hôm nay đây, theo gót một số người xưa: các thi gia Phạm Quý Thiên, Tôn
Thọ Tường, Chu Mạnh Trinh, v.v... với trực giác và dưới ánh "tranh sáng
tranh tối" của tấn thảm kịch trên, tôi thử gắng hệ thống hóa vấn đề, khoác
cho nỗi đoạn trường của Tố Như một bộ áo mới, nghĩ rằng: Hãy khởi đầu rút vấn
đề tư tưởng của Nguyễn Du về điểm dứt khoát nhất là thái độ của tác giả đối với
cuộc sống, đối với những nỗi thống khổ ở trên đời: Triết lý về sự Đau
khổ, Triết lý Đoạn trườngLại nữa, từ tấn thảm kịch nội tâm đặt ra vấn đề tư tưởng của Tố Như, nhận xét
đầu tiên của chúng ta phải là: Triết lý Đoạn trường đó, - danh
từ hiểu theo nghĩa rộng, - tác giả không đặt trên bình diện của triết
học thuần luận cao siêu mà chỉ đặt trên bình diện thông thường của thế nhân lấy
bản thân làm luận cứ [1].Trả Nguyễn Du về nghĩ của thường nhân, cảm của nghệ sĩ, cảm và nghĩ của một
người mà cuộc đời là ngay chứng tích của Đoạn trường, nhiên hậu ta mới đạt tới
thực trạng tư tưởng của tác giả, đạt tới đâu là ý nghĩa và giá trị của sự Đau
khổ, đâu là thái độ cần có.I. Ý nghĩa và giá trị của đau khổÝ nghĩa và giá trị của sự Đau khổ? - Mà thật thế, Đau khổ không phải là một
danh từ vô ích khi mà nó là một thực tại cũng già như nhân loại. Ấy thế mà rồi
vì cớ này hay cớ khác, con người vẫn ít nhiều coi nhẹ thực tại đó.1. Tố Như tuy không lớn tiếng rêu rao, song thật đã thâm cảm chân
lý khởi đầu: Bài học Đoạn trường phải là một bài học chủ quan, thực
nghiệm như mọi người Việt Nam ghi nhận trong câu:Đoạn trường ai có qua cầu mới hayÝ nghĩa của chân lý đã quá rõ. Phải có chính mình qua cầu Đoạn trường mới thấy
sự Đau khổ là thấm thía như thế nào, quật ngã con người ra sao. Phải chính mình
qua cầu Đoạn trường mới thấu hiểu những phản ứng vô thường từ cực cao đẹp đến
cực xấu xa của người trong Đau khổ. Phải có qua cầu Đoạn trường mới hay cái cực
hình của Đau khổ. Ngoại giả là mỹ ý suông không hoặc sai lệch tai hại.Nhận như thế, chúng ta không lấy làm lạ nữa trước những cư xử của Thúy Kiều
trong bao năm luân lạc từ bán mình chuộc cha đến đâm đầu xuống sông Tiền Đường
tự tận: thất thân với Mã Giám Sinh, cúi lạy Tú bà, theo Sở Khanh, ra ở thanh
lâu, chịu đòn để lấy Thúc Sinh, ăn cắp chuông vàng khánh bạc trốn khỏi nhà Hoạn
Thư, xui Từ Hải ra hàng, chuốc rượu Hồ Tôn Hiến bên xác chồng, v.v...Nhận như thế, chúng ta mới hiểu nỗi đau nhục của tác giả, một người đã khởi
quân chống Tây Sơn vì nhà Lê, để rồi lại ra làm quan với nhà Nguyễn; chúng ta
mới thấy rõ cái "dơ dáng dại hình" của một thứ "hàng thần lơ
láo" không xếp nỗi chỗ ngồi cho mình trong phong trào mới. Ai muốn nói
khôn cứ việc nói khôn, Tố Như hãy xin nói một câu chuyện kinh nghiệm, một câu
chuyện thế tình của một người đã chứng kiến cái chết đập xác vào tường của mấy
đứa trẻ thơ con quan tư đồ Diệu, cái nhục hình của thi hài Quang Trung bị giam
và bị tán nhỏ buông sông, cái cảnh sĩ phu Bắc Hà điệu từng đàn từ Thăng Long
vào Thuận Hóa rồi lại điệu ra Thăng Long, cái chết của Ngô Thời Nhiệm dưới roi
đòn thù của Đặng Trần Thường, v.v...Điều đó có khác chi trường hợp của Cao Bá Nhạ trong Tự tình khúc.
Người ta có thể khắt khe lý thuyết mà trách cứ họ Cao: "Tại sao Cao không
dám ngang nhiên chống đối chính quyền nhà Nguyễn, không dám ngang nhiên bạo
động về sự suy sụp gần kề của ý thức hệ và tổ chức xã hội thời bây giờ, khi mà
ông còn lạ gì pháp luật thời đại, khi mà ông đã thấy rõ cái mệnh ngàn cân treo
trên đầu sợi tóc? Được như thế có phải giá trị tư tưởng của khúc ca lên cao
biết mấy không?". Tôi nghĩ rằng trách như thế, mặc dầu có phần hữu lý,
người ta đã ở ngoài cầu Đoạn trường vậy. Nếu như giá trị tư tưởng của khúc ca
có bị sút kém vì thế, thì cũng chính vì thế mà giá trị ghi nhận tâm lý của khúc
ca được trội lên. Ai trong chúng ta là chẳng có bản năng tự tồn? Tác giả đã nói
đúng cái tâm lý quẩn quanh của một tên tử tù đơn độc cố bám lấy cái sống. Thêm
nữa lại nên lưu ý rằng nạn nhân bám lấy cái sống không phải chỉ cho riêng mình
như người "Thiếu nữ cầm tù" của André Chénie, mà còn vì hơn
một lý lẽ khác mà lẽ trường tồn gia tộc quý giá của Đông phương là một. Tấn
thảm kịch tư tưởng của Cao Bá Nhạ là ở chỗ: xuất thân từ cửa Khổng sân Trình,
làm một nạn nhân cùng cực một chế độ chính trị và xã hội, ông muốn tìm một lối
thoát cho tư tưởng hay ít nhất cũng cho tâm tưởng của mình mà không được, nên
không còn biết làm gì hơn là bám lấy gốc nguồn để tự tạo cho mình một niềm an
ủi mong manh.Điều đó cũng có khác chi tấn thảm kịch của đại đa số loài người ngày nay săn
đón bởi bao sức lực bạo tàn, ngồi ở một nơi mình không muốn, nhận những tội lỗi
mình không làm, nói điều mình không tin, gục đầu trên hệ lụy áo cơm và sự sống,
trong một cuộc khủng hoảng lương tâm mênh mông, trong ám ảnh thường xuyên của
bom đạn, hàng rào thép gai, đồn lũy, nhà tù, trại tập trung.2. Ý nghĩa, - tôi muốn nói rõ hơn nữa, mối cảm thụ, - của Đau khổ
phải là một ý nghĩa thật trải là như thế, và con người nhiều khi chỉ còn là một
thứ đồ chơi trong bàn tay của Định mệnh. Nói như thế không có nghĩa là bảo sự
đau khổ không có cái giá trị của nó. Thêm vào sự thật thứ nhất trên, chúng ta
còn phải kể tới một sự thật khác: giá trị đào luyện và làm cao cả con
người của sự Đau khổ. Tố Như không minh thị nói điều này trong tác
phẩm của tiên sinh, song lý ưng phải là như thế. Hơn nữa đây cũng là một chân
lý phổ biến không lạ gì đối với tiên sinh.Chúng ta hãy tự hỏi: Giá trị của Thúy Kiều chứng tỏ làm sao nếu không có mười
lăm năm luân lạc? Dầu chẳng cực đoan như Chu Mạnh Trinh nói: "Thì sao còn
tỏ được là người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa, tay đàn bà mà lại có cơ
quyền", chúng ta cũng phải nhận rằng mối từ tâm rộng lớn của Thúy Kiều,
thái độ nhẫn nhục của nàng trong cơn đương đầu với lưu lạc, việc nàng dám chọn
cái chết ở sông Tiền Đường để rồi lại trở về sum họp với Kim Trọng khi mà thâm
tâm nghĩ "còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi"… phần lớn là do bài học
Đoạn trường vậy.Lại nữa, giá trị rung cảm của thi phẩm của Tố Như ở đâu mà ra, nếu không là ở
chuỗi thống khổ dài của nàng Kiều? Người xưa nói: Nước sông Tiền Đường đã rửa
oan cho Thúy Kiều. Chúng ta phải hiểu rằng: Nước sông đó đã "gạn đục, khơi
trong" cho nàng. Hay rõ hơn: Cái chết của Thúy Kiều, - hay là nỗi thống
khổ cùng cực của nàng cũng thế, - đã làm nàng sạch mọi tội lỗi ở cõi đời này,
và bên kia nấm mồ sâu tất cả phải là im lặng.Tại sao chúng ta lại cứ muốn điều đặc biệt? Đã nói Tố Như tử xin thuận tình đặt
vấn đề trên bình diện thế tình. Tại sao chúng ta lại muốn bắt Thúy Kiều phải
làm những điều mà đa số thế nhân không làm được, kể cả nhiệt độ tình yêu qua
thời gian của nàng đối với Kim Trọng? Triết gia Edgar Quinet đã nói: "Tâm
hồn con người cũng cùn nhụt với tuổi sống" (Les âmes s’émoussent en
vivant). Thi hào Victor Hugo cũng khai triển một luận đề tương tự trong
bài Đêm đại dương (Nuit d’océan): "Sự lãng quên cũng là
nhân đạo".Sẽ thừa chăng khi nói tới thái độ sống nhẫn nhục của Nguyễn Du trong phong ba
lịch sử thời tiên sinh. Giá trị của Tố Như chính là giá trị của tấn thảm kịch
nội tâm của tiên sinh vậy. Và về điểm này, chúng ta có thể so sánh Nguyễn Du
với nhà đại thi hào của Đau khổ nước Đức cùng thế kỷ: Goethe.Người ta cũng từng đã nói nhiều về giá trị đào luyện con người của sự Đau khổ.
Tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, văn học Tây phương đầy dẫy nhận định này. Nho
giáo, cảnh cáo con người trên trường hành động về những thử thách cam go của
cuộc đời. Phật giáo có cả một triết lý hùng hậu về sự khổ. Tây phương có câu:
Người ta la một kẻ tập việc và sự đau khổ là ông thầy dạy việc (L’omme est un
apprenti et la douleur son maitre). Thời đại mới của chúng ta cũng tung ra khẩu
hiệu: Nhà tù là lò huấn luyện của cách mạng. Về điều Đau khổ làm cho con người
thêm cao cả, hãy chỉ xin kể thơ của Alfred de Musset:Không gì làm cao cả con người bằng một mối thống khổ lớn lao [2].hoặc:Khúc đoạn trường là những khúc ca hay nhấtVà tôi biết có những khúc ca bất hủ chỉ là những tiếng thổn thức đơn
thuần [3].II. Thái độ cần có trước đau khổ
Phần trên đã xét về ý nghĩa và giá trị của sự Đau khổ. Nhận chân hai điều đó,
Tố Như đã nghĩ gì về một thái độ của con người trước sự Đau khổ? Đây mới là
phần "trên" phần xây dựng trong Triết lý Đoạn trường của tác giả.1. Trước hết là thái độ đối với sự đau khổ của chính mình, đối
với cuộc đời, đối với Định mệnh. Xưa kia, các tác giả Đông Tây nói tới
Định mệnh, ngày nay thêm những nhận thức mới người ta nói tới "Thân phận
con người". Đặt vấn đề Định mệnh là đặt vấn đề cá nhân, mà đặt vấn đề Thân
phận con người là đặt vấn đề tập thể rộng lớn. Ý nghĩa của hai điều hầu như rút
về một. Là Định mệnh hay Thân phận con người thì đó cũng là một thực thể nhiều
khi ở trong một cái vòng phi lý mà người đời phải nhận. Nhận rồi, con người chỉ
còn có một lối cư xử là lợi dụng sự Đau khổ cho mình và cho đời. Chúng ta đã
nói tới thái độ của Thúy Kiều trong cơn thống khổ. Nàng như đã tự sửa soạn đón
nhận sự Đau khổ. Do đó Đoạn trường cũng hầu như không quật ngã được trọn vẹn
người con gái đó. Cả cuộc đời nàng là một cái gương cưỡng lại với Định mệnh.
Trong cuộc phân tranh này con người được hay thua còn tùy keo, tùy điều kiện.
Sự thất bại không hẳn là một điều nhục. Thiện chí tranh đấu còn đáng kể hơn kết
quả của tranh đấu. Như vậy không phải là một thái độ tiêu cực nhất đáng phải
gạt bỏ như mấy nhà đạo đức kim thời hẹp hòi chủ trương. Tục ngữ ta có câu:
"Còn nước còn tát". Ông thầy chữa bệnh gắng gổ tới phút cuối cùng.
Người dân quê Việt Nam vẫn cứ cấy cày mặc dầu trông thấy một thiên tai gần kề.Trầm lặng nhận cuộc thử thách rồi, chúng ta chọn phương tiện tranh đấu thế nào?
Với kinh nghiệm muôn đời của thế nhân, Tố Như bảo: Hãy lấy cái "tâm"
hơn là cái "trí". Sở dĩ phải chọn cái tâm làm phương tiện đấu tranh
chính yếu trước, vì giá trị tự tại của cái tâm, mà sau còn vì lòng tin ở điều
có thể "lấy tâm để sửa mệnh" trong khuôn khổ triết lý hằng cửu của
dân tộc: Triết lý có Trời. Đến đây chúng ta tiến tới điểm tế nhị nhất trong
triết lý đoạn trường của Nguyễn Du, và cũng là điểm tế nhị nhất trong tín
ngưỡng của người Việt Nam: Định mệnh có hay không, Trời có hay không, không
phải là vấn đề tìm hiểu hay chứng minh; vấn đề là ở chỗ tìm một thái độ đối với
một thực tại đã hầu như thường xuyên. Trong một bài viết cũng trong tờ Sáng
tạo, tôi đã có dịp nghĩ rằng đó cũng là một "quan niệm rất hiền
triết" của người Việt Nam về tôn giáo, về cuộc đời.Tuy nhiên, thái độ của Tố Như đối với sự Đau khổ ở đời cũng có những sắc thái
riêng cần phân biệt. Tất nhiên đó không phải là chủ trương sống vô vi thanh
tịnh kiểu Lão Trang, sống hồn nhiên như tạo vật tránh nhịp bạo tàn của định luật
tang thương của bà Huyện Thanh Quan, xuất thế kiểu tiểu thừa của Phật phái, -
việc đi tu của nàng Kiều chỉ là một việc chẳng được đừng. Đó cũng không hẳn là
chủ trương nhập thế kiểu Đại thừa. Tố Như phàm trần hơn, nghĩ rằng một sự cứu
vớt hợp lý phải bắt đầu bằng cự cứu vớt chính mình tỉ như luân lý thực tiễn của
phương Tây nói: Lòng nhân từ xếp đặt đúng phải bắt đầu từ chính mình. Đó cũng
không phải là những phản ứng tâm lý hồn nhiên, bướng bỉnh hay bừa bãi kiểu Hồ
Xuân Hương. Vấn đề của Tố Như vừa đặt trên lĩnh vực tâm vừa
trên lĩnh vực ý. Đặt trên lĩnh vực ý thức nó nhắc nhở tới chủ
trương võ sĩ đạo của Nhật Bản hay chủ trương của Corneille hay chủ trương
"khắc kỷ" (Stoïcisme) của Tây phương xưa mà nhà thơ
Alfred de Vginy còn ca ngợi trong bài Cái chết của con chó sói:Than khóc, cầu xin đều hèn cả.Hãy quyết tâm làm tròn nhiệm vụ nặng nề và lâu dài.Trên con đường mà số phận đã gọi ngươi,Rồi sau rốt, như ta, đau khổ và nhắm mắt không nói năng [4].Nhưng chủ trương "khắc kỷ" trên đây lại chỉ đặt trên cơ sở của lý trí
mà thôi. Đặt trên lĩnh vực tâm, thái độ của Tố Như còn rộng rãi và "nhân
tính" hơn thế. Lấy cái tâm để sửa mệnh chỉ là điều đến sau của một
"lối xử trí bằng cả tấm lòng" của một "thái độ sống tận tình với
cuộc sống" như một nhà thơ hoạt động của ta ca ngợi trong câu:Phải sống đến vong tình,Không bao giờ tàn lụi!Nói tới phản ứng ý thức, chúng ta cũng không nên vội cho rằng Nguyễn Du muốn
đặt ra một vấn đề xã hội như cái bệnh của một số nhà phê bình thời nay ưa tìm
kiếm hay đề cao. Tố Như còn rộng hơn thế, đặt vấn đề trong phạm vi nhân
bản [5]. Hiểu
như vậy tiếng than khóc trong Đoạn trường tân thanh không còn
ý nghĩa kháng đối cái xã hội gọi là phong kiến Trung Hoa đời Minh, hay cái xã hội
Việt Nam đầu nhà Nguyễn. Trong những nét thiên nhiên rộng lớn của nhà thơ thì
hai cái xã hội đó cũng giống như một xã hội thời xưa nào đó, một xã hội thời
nay nào đó, xã hội nhân loại trong những nét muôn thuở của nó, xã hội trong đó
thân phận con người rủi ro chỉ là:Phận bèo bao quản nước sa,Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.Hay là:Thân lươn bao quản lấm đầu.và cô độc trong trường đời, người ta hãy cốt yếu là trong cậy vào chính mình:Biết duyên mình biết phận mình thế thôi.Ta không nên bi quan mà cũng chẳng nên lãng quên đối với người đời. Nhân quần
chẳng tốt mà cũng chẳng xấu:Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương.2. Nhận định đặc tính và khả năng của con người như trên, Tố Như
cũng không đòi hỏi nhiều ở thái độ của chúng ta đối với sự Đau khổ của
kẻ khác.Đã biết "cánh hoa rụng chọn gì đất sạch", con người "tay không
đâu dễ tìm vành ấm no", với bao phản ứng, vô thường trong đau khổ, thái độ
mà nhà thơ này xin ở người đời đối với những nỗi đoạn trường của kẻ khác là
khởi từ tâm, là một tấm tình thương vậy. Đó cũng là thái độ của mụ Quản gia,
vãi Giác Duyên, sư Tam Hợp của tác giả và bao người sau tiên sinh đối với Thúy Kiều. Tình thương làm nên tất cả. Tình thương hàn gắn đoạn trường của người đau
khổ. Và biết đâu tình thương một ngày kia lại không tiêu diệt được đoạn trường
ở cõi đời? Hãy đến với kẻ đau khổ như chính mình đã qua cầu đau khổ vậy.Xuống một bậc, giả thử chúng ta chưa trang bị nổi cho mình một tình thương cao
đẹp, chúng ta hãy đến với đau khổ của nhân gian bằng một đầu óc hiểu biết. Đó
là một điều công bằng. Và đó cũng là một thái độ khôn ngoan: biết đâu một ngày
kia chúng ta lại không bị đẩy tới chân cầu đoạn trường khi mà:Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
Xuống một bậc nữa, thái độ đối với Đoạn trường của kẻ khác tối thiểu cũng phải
là một thái độ thành kính, tỉ như người ta thành kính trước Trời Phật mà người
ta có thể không hiểu, trong một giáo đường mà người ta có thể chẳng có lòng
tin. Đó cũng là một thái độ xứng đáng.Tất cả những điều đó gồm lại trong thái độ mà nhà thơ gọi là "khấp Tố
Như".Triết lý đoạn trường của Nguyễn Du là thế. Tôi nghĩ rằng vấn đề tư tưởng của
nhà thơ cũng khởi đầu từ đó và không đi xa nhiều lắm.Đoạn trường tân thanh là tiếng kêu cầu cứu, là tiếng kêu báo động
vì một tấn thảm kịch ngạt chìm sau cái vẻ ngoài hiền lành và trầm lặng của câu
chuyện, cũng hiền lành và trầm lặng như nếp sống của tác giả, như nếp sống của
dân tộc. Giá trị của tấn thảm kịch này cũng là giá trị của con người, giá trị
của triết lý đoạn trường của Tố Như. Thêm nữa, nói về rung cảm, giá trị rung
cảm của Đoạn trường tân thanh lại cũng nhờ ở tấn thảm kịch nội
tâm của tác giả và của nhân vật chính hơn là ở câu chuyện tầm thường của Thanh
Tâm Tài Nhân.Tấn thảm kịch đó cũng chẳng khác mấy tấn thảm kịch của đa số chúng ta ngày nay
và còn kéo dài không biết đến bao giờ nữa: tấn thảm kịch của con người, của
nhân loại chia từ trong nội tâm của chính mình trở đi. Tấn thảm kịch tầm thường
có lẽ, - cũng tầm thường như tấn thảm kịch trầm lặng muôn đời của người Việt
Nam, - mà thanh niên suy nghĩ ngày nay cũng không phải là không có lý do lên
án! Nhưng mà đặt trong chiều đo của thế nhân vĩnh cửu, giải pháp đòi
hỏi của nó là một giải pháp cho lâu dài.Muốn bay cao Tố Như đã miệt mài đi trong cái thấp, muốn một điều Tuyệt đối tiên
sinh thuận tình tự giam trong cái Tương đối, thực hiện cái mà bất luận một
người nào tầm thường đến đâu trong xã hội Đông phương xưa cũng ý thức được là
sự thái hòa giữa con người và vũ trụ.Cho nên với phép nhiệm mầu của ngôn ngữ thi ca mà không ai
chối nhận nơi tác phẩm của Tố Như, trong cái thời hiện đại mà chỉ trong vòng
chia tư thế kỷ các lý thuyết ầm ĩ nhất đua nhau nằm xuống, Đoạn trường
tân thanh của Nguyễn Du trường tồn bởi vì nếu có một cái gì
trường tồn trong cái thế giới điên loạn này thì đó phải là "những trang
văn chương thật thà nhân sự".Trần Bích LanNguyễn Du trên những nẻo đường tự doBàn về truyện Kiều các bậc thức giả đã góp ý kiến một cách rất đông đảo, súc
tích. Đứng trước sự kiện đó cũng có người hoặc vì tư tưởng yếm thế, hoài nghi,
hoặc vì muốn nổi bật, muốn vượt ra ngoài đám đông nhân chúng, thường tỏ ý chê
cười những ý kiến khác biệt đôi khi đến chỗ mâu thuẫn của những thức giả. Nhưng
thật ra cuộc họp mặt lớn rộng trong vườn hoa lá của những chủ trại Nguyễn Du
chỉ là một điều thông thường gần như tất nhiên ắt có. Những con nước dù là sông
nguồn, thác lũ bao giờ cũng đổ về biển khơi. Cũng vậy, những tác phẩm vĩ đại
của lịch sử văn học thế giới vốn có một ma lực, một sức nam châm hút sắt. Đứng
trước những trái núi kinh dị, con người luôn bị thúc đẩy bởi ước vọng đặt lộ
khai thông. Có những khoảng đường mòn đã được vẽ lên trong lớp cỏ lau, trườn
mình qua vách đá. Những người đi sau có thể không hài lòng về những bước chân
đặt trước. Mỗi người đều muốn kiến tạo lấy một đường đi thẳng tắp hơn, gần gũi
sáng sủa hơn để về được chân trời. Nhưng đường đi có được khai thác đến trăm
nghìn, vẻ hoang vu vẫn còn nguyên trong rừng thẳm. Con người có thể đập vỡ dăm
ba tảng đá bé mọn nhưng thạch bàn thì không bao giờ có thể bị đổi thay, di
chuyển.Nhưng trên tất cả trăm nghìn đường đi ngang dọc xuyên sơn ta vẫn có thể tìm
được một ngã ba quan ải. Vẫn có một con sông cái tụ họp được nhiều ngọn nước,
ngành sông.Những bậc thức giả có người khen Nguyễn Du thành công trong việc tác thành một
nền đạo lý, truyền bá lẽ làm người, xây dựng được nền tảng cho một ngôn ngữ
trong những lúc ban sơ. Họ đã tìm thấy, như chúng ta đã biết, ở thi hào họ
Nguyễn một Đệ nhất tài tử, một tác phẩm tuyệt mỹ, trọn vẹn trên thi đàn xứ
Việt. Có những người khác tuy cũng nhận nơi nhà thơ họ Nguyễn một thi tài lại
lên tiếng bài xích tác giả truyện Kiều đã truyền bá những tình tiết dâm ô, phô
diễn, khuếch trương những điều hỗn loạn, trái với đạo luân thường. Có người tìm
thấy ở Nguyễn Du hình ảnh người Việt Nam kiểu mẫu. Cũng có người khác lại nghĩ
rằng họ Nguyễn điển hình cho một giai cấp thoái trào. Nhưng dù muốn giải phẫu
tâm lý Thúy Kiều, mác xít hóa Nguyễn Du hay chỉ xét Đoạn trường tân
thanh qua lớp kính của nhà luân lý, ta thấy mọi người đều đồng ý với
nhau về một điểm: tư tưởng nền tảng, nòng cốt của truyện Kiều, Hoàng Ngọc
Phách, Trần Trọng Kim, Phan Kế Bính, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Bách Khoa, v.v...
những con người đến từ những chân trời tư tưởng hết sức xa xăm, cách biệt đều
thỏa hiệp với nhau trên một điểm: thuyết Định mệnh là nền tảng của truyện Kiều.
Tất nhiên có người cho rằng Mệnh trong truyện Kiều thoát thai từ Phật giáo. Có
người cho rằng chữ Mệnh đó nhuộm sắc thái của đạo Khổng nhiều hơn. Và cũng
nhiều người muốn đem lại cho chữ Mệnh một màu sắc dân tộc nên bảo rằng nó vốn
đa nguyên (tam giáo). Nhưng tựu trung tất cả hầu như đều công nhận: thuyết định
mệnh là triết lý nền tảng của truyện Kiều.Nhận định nhất loạt đó tất nhiên không phải những ngọn gió vu vơ, những lời
hoang truyền vô căn cứ. Vô số chứng tích hiển hiện trong tác phẩm thi ca của
thi sĩ Tiên Điền cho phép người đọc tưởng nghĩ như vậy. Toàn thể truyện Kiều
cuốn hút người yêu thơ vào giữa một vùng gió lốc ngào ngạt, uất nghẹn, vào giữa
một bầu không khí bi thảm, phũ phàng.Khi thì định mệnh được phơi bày rõ rệt, được chỉ đích danh qua những lời thơ
trác luyện. Chúng ta đều ghi nhớ những sức thơ đi như những đường dao lướt
xuống: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau…". "Trời xanh
quen thói má hồng đánh ghen…".Khi thì định mệnh mượn lời kẻ sống, người chết để nói lên nghiệp dĩ của người
trong cuộc. Nguyễn Du đã mượn bóng ma của Đạm Tiên để trình diễn với người đời
hình ảnh của Định mệnh qua một cuốn sổ "đen" của bên kia cõi thế, cuốn
sổ đoạn trường, trong đó người con gái họ Vương tên gọi Thúy Kiều đã được ghi
chú và nét mực còn hằn rõ đậm đà. Nguyễn Du cũng đã mượn lời người tu hành Giác
Duyên mà ngỏ lời thương xót người con gái hồng nhan gian khổ, xót thương vì sức
người nhân thế vô cùng nhỏ bé trước những căn do linh diệu, vô hình. Ngay chính
cả Thúy Kiều trong trạng thái tâm tư đa sầu đa cảm, trong những giờ phút thở
ngắn than dài cũng đã để toát ra niềm đau đớn của xuất ngoại trước những sự
đã đành, những sự được coi như đã đành từ khi chưa xảy đến.Một cách đại cương ta có thể nói được rằng là khi gấp sách lại lần đầu tiên
người đọc có cảm tưởng rằng Nguyễn Du đã cho đẩy mình đến trước sức sáng loáng
của những lưỡi thép, lưỡi gươm đã được sửa soạn, lau chùi để chờ đợi giờ hành
quyết và nạn nhân đã bị trói tay bịt mắt sẵn sàng.Phải, tất cả cuộc đời của Thúy Kiều hầu như đã bị trói buộc sẵn sàng. Cả một
cuộc đời đã bị quy định bởi những căn do ở bên ngoài nhân thế. Những căn do cố
định, phũ phàng, những nét bút của người hành hình nơi âm ti ghi trên một cuốn
sổ hộ tịch chung cho cả hai vũ trụ âm dương. Tất cả tương lai của Thúy Kiều đã
bị quyết định từ trước. Tất cả một tương lai đã bị "dĩ vãng
hóa", đã bị ràng buộc, trói chặt vào dĩ vãng và con người chỉ còn một
phương sách là cam chịu. Tự do làm lấy cuộc đời chỉ còn là một loài giun, kiến
bé nhỏ trước một trái núi khổng lồ phun lửa ngày đêm.Nhà phê bình văn học đã nhận định được một cách sáng rõ nhất về tính chất phũ
phàng của định mệnh trong Đoạn trường tân thanh hẳn là ông
Trần Trọng Kim. Nhà học giả đã viết: "Cái nghiệp đã định đến đâu
mới hết thì phải đi cho đến cùng chứ không sao trốn được". Và học
giả họ Trần đã ví cuộc đời một người bị quy định bởi định mệnh như số phận một
tên tội đồ không thể trốn thoát gông xiềng canh giữ của một vị quan tư pháp.Tuy nhiên, đứng trước sự đè ép đến uất nghẹn của định mệnh, nhiều lúc người đọc
vẫn cảm thấy sự uất nghẹn chưa bị đẩy sâu đến độ bóp nghẹt lòng người. Trong
khoảng u tối của một đời người, trong màn bao phủ mịt mù của biển cả, hải đăng
vẫn quay tròn le lói ở chân trời xa. Toàn thể câu chuyện, như chúng ta đã biết,
đem đến một kết quả có ít nhiều tươi sáng, kết luận mà người đời thường bảo là
hàm súc một niềm trung hậu. Nếu Đạm Tiên đóng vai sứ giả của định mệnh đến báo
trước cho Thúy Kiều biết trước một cuộc đời lưu lạc, nổi chìm thì nàng cũng lại
đến bên bờ sông Tiền Đường mà mở tung cửa ngục cho người con gái họ Vương, xóa bỏ án tội đồ trên tờ khai lý lịch. Cả Giác Duyên và cả Tam Hợp cũng đã thông
suốt cuộc ân xá mà Thúy Kiều được hưởng thụ sau những ngày tháng đày ải, trầm
luân.Cả những câu thơ lục bát bóng láng như những chiếc khóa vàng mở tung, những câu
thơ biểu hiện một số mệnh nặng nề u tối. Nguyễn Du đã viết: "Biết
thân chạy chẳng khỏi trời, cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh". Rồi
Nguyễn Du lại cởi gỡ tung ra: "Tại trời mà cũng tại
ta…". Bên cạnh sự phũ phàng của định mệnh, con người vẫn còn một
ý kiến, vẫn được quyền góp một ý kiến. Vẫn còn một con đường máu để thoát thân
khỏi vòng vây trùng điệp.Nhưng một câu hỏi đến với ta: Tại sao lại có thể như thế được? Nếu đời ta bị
quyết định bởi những căn do cố định tại làm sao ta còn có thể thay đổi cuộc đời
được? Là một con người làm sao ta có thể ảnh hưởng đến những sự kiện thần linh
được? Nguyễn Du muốn gì? Thi sĩ muốn bênh vực Tự do hay đề cao Định mệnh
thuyết? Một khi đã công nhận định mệnh thuyết mà còn nói tới tự do phải chăng
không rơi vào chỗ tự mâu thuẫn?Ta có đầy đủ chứng tích để được quyền thắc mắc như vậy. Thúy Kiều đã bị định
mệnh đưa vào một cuộc đời gian khổ. Nguyễn Du đã bảo thế vì chính thi sĩ đã đặt
trước mắt ta cuốn đoạn trường. Có những câu thơ nói về định mệnh. Có những câu
thơ đề cập đến Tự do. Làm sao hai sự kiện đó có thể sống chung trên một mảnh
đất, dưới một ánh sáng mặt trời được? Trần Trọng Kim đã trả lời: Sự kiện đó có
thể giải thích được. Ông đã viết: "Cái thuyết nhân quả của nhà
Phật gần giống cái thuyết định mệnh của triết học Tây phương. Nhưng chỉ khác ở
chỗ là cái định mệnh của nhà Phật do tự mình định ra, chứ không phải tự ở sức
người sai khiến. Thành thử cái thuyết nhân quả vẫn để cho mình có cái hoàn toàn
tự do".Và một cách rất hợp luận lý, lời giải thích đó đưa ta đến kết luận: "Văn
dĩ tải đạo" (Văn dùng để chở đạo). Nguyễn Du đã làm cái việc của người
muốn phổ biến một tư tưởng triết học lên văn chương. Ông là nhà văn đại biểu
của Phật giáo và ý thức được một cách rõ rệt trách vụ của mình.Lời giải thích đó thoạt nhìn, ta thấy hầu như có một giá trị hiển nhiên. Rất
nhiều lời thơ trong tác phẩm của Nguyễn Du làm ta liên tưởng đến đạo Phật. Chữ
mệnh trong truyện Kiều mang nặng sắc thái đạo Phật. Cái nghiệp mà con người tự
"mang lấy vào thân" làm ta liên tưởng tức khắc tới thuyết nhân quả
của đạo Phật. Tự do và định mệnh trong tác phẩm Nguyễn Du có thể dung hòa được
vì đó là những tư tưởng phản ảnh một khía cạnh của đạo Phật.Nhưng trong Đoạn trường tân thanh còn những nghi vấn bắt người
đọc phải suy nghĩ sâu rộng hơn. Biết rằng số mệnh của Thúy Kiều sẽ gian khổ là
một điều quen thuộc với ta. Nhưng chính vì quá quen thuộc nên đôi khi ta đã bỏ
quên những nét lạ nơi người thân, không nhìn thấy nhan sắc của người đàn bà gần
gũi. Ta hãy hỏi: Những ai đã biết Thúy Kiều bị ghi tên trong sổ Đoạn trường?
Không phải chỉ có Nguyễn Du, người tạo ra Thúy Kiều, độc giả, kẻ chia sớt niềm
đau xót của đời Kiều, Đạm Tiên sứ giả của định mệnh, mà chính cả Thúy Kiều,
người trong cuộc cũng biết rõ, biết trước cái hoàn cảnh của
mình, đất đứng của mình. Nguyễn Du đã để cho Đạm Tiên báo rõ cho Kiều. Chính
Thúy Kiều cũng biết mình sẽ được đặt lên chiếc xe của Định mệnh để lang bạt
trong cuộc đời. Chính Kiều cũng biết rằng "hồng nhan" thì phải
"bạc mệnh", "tiền oan" thì phải "túc trái" vì
nhân quả là nghiệp dĩ. Thế tại sao khi Kiều đã được người anh hùng "vai
năm tấc rộng, thân mười thước cao" đưa về chỗ ngồi của bà mệnh
phụ, nàng lại nghĩ đến chuyện đền ơn trả oán? Làm gì có ơn và oán mà
trả? Tú bà, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, v.v..., có làm gì đâu mà đáng bị xử phạt?
Thúc Sinh có làm gì đâu mà đáng được khen tặng? Họ chỉ là những quân cờ,
những lá bài của Định mệnh. Định mệnh đã đẻ ra họ để thi hành
bản án của sổ đoạn trường, để hành hạ Thúy Kiều. Không có quân cờ này sẽ có
quân cờ khác. Không có Tú bà này sẽ có Tú bà khác. Số cô
Kiều phải khổ thì cô sẽ khổ cơ mà. Tại sao
lại đền ơn, trả oán những quân cờ của Định mệnh, những quân cờ vô tội vì không
phải là kẻ chủ mưu hành hạ Thúy Kiều - Thí dụ họ đã có lỗi sự thật vì tại sao
Tú bà này lại không nhường việc hành hạ Thúy Kiều cho Tú
bà khác lại cứ đồng lõa với Định mệnh mà làm tranh thì Kiều
cũng lại phải để cho Định mệnh xử phạt họ chứ - Để cho họ đền tội oan trái
trong một kiếp sau chứ. Kiều đã biết rõ cái luật nhân quả, tại sao lại còn làm
lấy việc công lý, tránh sao khỏi lệch lạc và làm thế nào tránh khỏi oan trái
một lần nữa? Thúy Kiều đã ý thức được cái mệnh, cái nhân và
cái quả tại sao lại làm việc thiếu ý thức đó?Ta có thể đẩy câu hỏi đi xa hơn nữa. Thúy Kiều đã đền tội và nàng đã được ân
xá. Nàng đã bị đẩy lên con đò Định mệnh nhưng qua những cơn giông tố thuyền lại
cập bến và trên bờ Kim Trọng đang đứng đấy, ưu tư. Hoàn cảnh của chàng Kim đã
thay đổi chút ít. Kim Trọng đã kết hôn cùng người em gái của vị hôn thê. Nhưng
tâm hồn của Kim Trọng còn ngát hương hoa của đêm trăng hò hẹn dưới hiên Lãm
Thúy. Chàng lại muốn làm "lành" lại tấm gương đã vỡ, muốn giữ trọn
vẹn "lời nguyền xưa", lời "thâm giao" có đất trời chứng
kiến nên "dẫu rằng vật đổi sao dời, tử sinh cũng giữ lấy lời tử
sinh". Kim Trọng sẵn sàng kết hôn với Thúy Kiều bởi vì chàng cho
rằng "chữ trinh kia cũng có ba bảy đường". Nên chàng
sẵn sàng xóa bỏ tất cả như bụi phấn trên một tấm bảng đen. Và không phải chỉ
Kim Trọng, con người si tình mới lý luận, ước muốn như vậy. Cả "hai
thân thì cũng quyền theo một bài". Cha mẹ Kiều, tượng trưng cho
đạo lý, khuôn sáo của cuộc đời cũng du đẩy Kiều vào chỗ kết lại duyên xưa.Nhưng đứng trước tất cả như thúc đẩy, cầu xin đó Kiều đã trả lời ra sao? Người
con gái đẹp gian truân đó chỉ biết "cúi đầu" để ngắn dài thở than.
Nàng đã viện vô số lý lẽ để chối từ: nàng chỉ tự cho là một làn "hương
dưới đất", một loài "hoa cuối mùa". Nàng muốn đổi "duyên
cầm sắt ra duyên cầm kỳ". Nhưng tại sao nàng lại chối từ?Nếu Kiều chỉ là một nạn nhân của định mệnh thì mọi hành động của nàng đều vô
trách nhiệm cơ mà. Bị một tên hung bạo dí súng vào lưng bắt làm điều vô lý, kẻ
nạn nhân hành động vì bạo lực áp bức bao giờ cũng được tha thứ vì họ không
muốn làm, họ làm mà không được trọn quyền tự do. Chỉ có
trách nhiệm khi nào có tự do, ta đều biết như vậy. Nên ta phải hỏi "Tại
sao Kiều lại chối từ không trở về với Kim Trọng?". Và
nàng đã lý luận một cách rất ngụy biện, chẳng hạn như "Duyên đôi
lứa cũng là duyên bạn bầy", "Thì còn em đó, lo cầu chị
đây", hoặc "Lọ là chăn gối mới ra sắt
cầm". Tại sao lại như vậy? Duyên "bạn bầy" và
"duyên đôi lứa" khác nhau xa chứ? Làm thế nào có thể "sắt
cầm" mà không chăn gối được? Tại sao?Lý luận yếu đuối, ngập ngừng của Thúy Kiều trong những giờ phút tái hợp phản
ảnh một sự kiện gì? Có liên lạc gì với sự mâu thuẫn giữa Tự do và Định mệnh
trong tác phẩm của Nguyễn Du không? Nếu mà bảo Nguyễn Du muốn "kết
hậu" thì tại sao lại có chuyện rẽ duyên đó? Tại sao không để Kiều và Kim
Trọng lấy nhau bởi vì đa thê có gì là xấu xa với luân lý đương thời đâu?Sự yếu đuối, non nớt, ngụy biện trong lời lý luận của Kiều phải chăng là dấu
hiệu của một sự lo âu dài hạn, lo âu được đúc
kết từ những ngày biệt ly trong những năm về trước.Bài toán có những ẩn số chứa đựng trong nỗi phân vân của Thúy Kiều trước khi
bán mình chuộc cha. Trước khi quyết định Kiều đã "đặt vấn đề", đã cân
nhắc thiệt hơn với tất cả tâm hồn sáng suốt. Có ít nhiều tình cờ trong câu
chuyện, tất nhiên. Những tình cờ mà Nguyễn Du gọi là số mệnh và cả những người
đọc thơ họ Nguyễn cũng gọi như vậy. Tại sao thằng bán tơ không hại ai mà lại
nhằm đúng một gia đình "bậc trung" có hai con gái đầu lòng mà người
trưởng nữ lại có một vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" để tác quái? Phải, ta có
thể gọi sự kiện đó là sự kiện mang ít nhiều sắc thái tình cờ. Nhưng đó phải
chăng cũng chỉ là một trong muôn một sự tình cờ của đời người mà
ngày nay ta quen gọi là những hoàn cảnh của đời người? Sự có
mặt của một con người trên cõi đời đã là một sự ngẫu nhiên kỳ ngộ rồi. Tại sao
lại có ta? Không có, có phải tiện hơn không? Tại sao ta da vàng mà lại không
trắng, đỏ hoặc đen? Tại sao lại làm con ở gia đình họ Vương mà không lộn sòng
đến một cửa nhà quyền tước nào khác? Những hoàn cảnh bọc quanh một đời người kể
ra vô vố. Đứng trước những hoàn cảnh đó con người hoàn toàn tự do chấp nhận
hoặc chối bỏ. Không ai hỏi ý kiến ta trước khi sinh ra. Nhưng không ai cấm ta
từ bỏ cuộc đời nếu thấy nó vô nghĩa, không đáng sống. Hoàn cảnh vô hạn của gia
đình họ Vương là một sự kiện rõ rệt. Kiều nằm trong hoàn cảnh đó cũng như mỗi
người bị chi phối bởi vô số hoàn cảnh của cuộc đời. Nhưng hoàn cảnh không bắt
ta có một thái độ cố định. Ta chọn lấy thái độ của ta trước
hoàn cảnh. Thằng bán tơ không hề bắt buộc hoặc khuyên nhủ Kiều bán mình chuộc
cha. Cha mẹ Kiều cũng không bắt buộc nàng. Trái lại, các người lại còn can ngăn
vì e ngại: "Nỡ đày đọa trẻ, càng oan khốc già". Nhưng
đứng trước hoàn cảnh đó Kiều đã chọn lựa. Nàng đã sáng suốt lý luận: nếu một
mình nàng hy sinh đi thì an toàn của gia đình sẽ trọn vẹn. Trái lại nếu Kiều ở
lại đợi chờ Kim Trọng thì gia đình sẽ tan nát và nàng cũng
sẽ lênh đênh. Một là mất nàng mà được toàn gia. Hai là gia đình tan
nát mà Kiều cũng chẳng vẹn toàn. Những con số của bài toán đó Kiều đã bày ra
trọn vẹn trước mắt: "Thà rằng liều một thân con. Hoa dù rã cánh lá
còn xanh cây…" hoặc nếu ở lại thì "Tan nhà là một,
thiệt mình là hai…".Cho nên có một hoàn cảnh trớ trêu nhưng cũng có một Thúy Kiều tự do chọn lựa
con đường đi của mình trước hoàn cảnh đó. Không phải Thúy Kiều đã đi vào con
đường một chiều. Nàng đứng trước ngã ba xem một bản họa đồ trước khi đi vào con
đường gai góc.Nếu ta gọi hoàn cảnh đó là định mệnh thì chính Kiều đã chọn định
mệnh. Nàng đã đem lại cho định mệnh giá trị của định mệnh bởi vì nếu
nàng không tự ý bán mình chuộc cha thì làm gì có định mệnh cho đời nàng. Nàng
đã tính toán: cửa nhà tan nát và mình sẽ lênh đênh. Nhưng đó mới là một giả
thuyết. Có thể cửa nhà sẽ tan nát nhưng còn nàng sẽ được đoàn tụ với Kim Trọng
thì sao? Làm gì còn định mệnh? Tự do của Thúy Kiều đã đẻ ra định mệnh.Đứng trước cuộc lựa chọn đau đớn của Kiều những người không phải hy sinh, những
người tắc trách đều muốn tin vào số mệnh để an ủi lương tâm. Tại sao Vương Quan
không ra tay chèo lái? Tại sao Thúy Vân không bán mình? Vương Quan, Thúy Vân
đều muốn tin ở cuốn sổ đoạn trường của Thúy Kiều vì tiện lợi biết bao! Và Kiều
từ hành động tự do đó nàng đã không thể trở về với dĩ vãng được nữa. Vì nàng tự
do nên mới có cuộc đền ơn trả oán khi được người anh hùng dọc ngang trời đất
sủng ái. Nàng đã hành động tự do nên không thể trở về kết duyên cùng Kim Trọng.
Nếu chấp nhận đề nghị "kết tóc se tơ" cùng họ Kim tức là Kiều đã phủ
nhận tất cả những hành động tự do của đời nàng, phủ nhận sự hy sinh có suy tính
kỹ lưỡng, ý thức đầy đủ của nàng, phủ nhận tự do của nàng. Lấy Kim Trọng tức là
công nhận làm một quân cờ của định mệnh, một lá bài của cuốn sổ đoạn trường.
Kiều đã từ chối lời đề nghị của Kim Trọng. Nàng không lý luận hệt như ta vừa
nói, vừa diễn tả. Nhưng trong lời từ chối ngụy biện của nàng đã phản ảnh đầy đủ
niềm âu lo, dấu hiệu của sự công nhận tự do, của mọi hành động tự
do trọn vẹn.Và từ niềm lo âu của Thúy Kiều ta có thể nhìn thấy ít nhiều tâm trạng lo âu lớn
rộng của con người Nguyễn Du. Cũng như Thúy Kiều bị đặt trước một số hoàn cảnh,
Nguyễn Du cũng vậy. Họ Nguyễn cũng như nàng Kiều và những kẻ đồng cuộc ưa giải
thích sự ngẫu nhiên của cuộc đời, giải thích mọi hành động của mình là kết quả
của số mệnh, là quả của một cái nhân kết lại từ xưa. Nhưng cũng như Kiều đã
phục hồi tự do của mình, Nguyễn Du đã cảm thấy cái thuyết định mệnh bó chặt lấy
đời người đó gò bó quá. Có người đời sau đã ngợi khen họ Nguyễn đã làm việc
"đem văn ra chở đạo". Có người khác lại chê Nguyễn Du vì ông chỉ là
phản ảnh cái ý thức hệ, cho giai cấp sĩ phu thời đại. Nhưng cả hai bên, người
muốn "Phật hóa", kẻ định "mác xít hóa" Nguyễn Du đều biến
ông thành một sự kiện, thành một con người thụ động chỉ biết tiếp
nhận những ảnh hưởng thời đại mà không hề có phản ứng lựa chọn. Xã hội theo
thuyết nhân quả thì văn Nguyễn Du chỉ là cái xe chở đạo. Giai cấp sĩ phu thời
đại có những ý nghĩ đó, thì Nguyễn Du thành một phần giai cấp cũng phải nghĩ
như thế.Thi sĩ Tiên Điền đã tiếp nhận những luồng tư tưởng, những ảnh hưởng đến từ bốn
phương, từ trăm ngả cuộc đời. Tiếp nhận nhưng họ Nguyễn vẫn muốn góp
một ý kiến. Cũng như mọi người, Nguyễn Du đã muốn nghĩ rằng cái
"số" đã đẩy mình vào cảnh "hàng thần lơ láo" như một người
con gái ở hồng lâu. Nói thế nhưng thi sĩ vẫn cảm thấy rằng
chưa đủ. Nguyễn Du có thể tự hỏi: Nếu tất cả mọi người làm công việc quy thuận
đó đều quy lỗi vào số mệnh thì làm gì còn ai có trách nhiệm về bất cứ một việc
gì nữa? Kẻ phản quốc đã bán nước vì số bán nước. Người yêu nước cũng chẳng có
công lao gì vì số yêu nước. Cuộc đời sẽ ra sao? Số mệnh hay nói cho đúng hơn
hoàn cảnh đã tạo nên cảnh "vật đổi sao dời" thì mình phải duy trì lại
trật tự chứ. Chấp nhận trật tự mới là công nhận, đồng lõa rồi.Cho nên nghĩ rằng tại số, họ Nguyễn vẫn cảm thấy rằng cũng không phải là hoàn
toàn tại số. Nếu cô Kiều vẫn có tên trong sổ đoạn trường mà vẫn đền ơn trả oán,
vẫn không se duyên cùng Kim Trọng. Những mâu thuẫn đó là dấu hiệu của những âu
lo. Đó là niềm âu lo của nhân vật Thúy Kiều. Đó cũng là niềm âu lo của thi sĩ Tiên
Điền Nguyễn Du. Đứng trước một hệ thống tư tưởng cổ truyền đã được bắt rễ từ
muôn đời, đã được sức bảo vệ của phong tục tập quán, Nguyễn Du chỉ có âm thanh
làm vốn liếng. Ông chỉ là một người thơ - thi sĩ không thể góp ý kiến, đổi mới
một hệ thống tư tưởng cổ truyền. Nhưng Nguyễn Du vẫn không chịu là một sự
kiện, một tấm gương phản chiếu. Ông đã tỏ dấu âu lo. Ông
đã nhảy bừa vào mảnh đất tự do. Chưa xây được một đoạn đường dài tư tưởng,
Nguyễn Du qua những mâu thuẫn của tác phẩm, đã chiếm được một chỗ đứng trên nẻo
đường tự do đó.Chú thích:[1] Xin đọc thêm: “Để giải quyết mâu thuẫn trong Đoạn
trường tân thanh" - Trần Thanh Hiệp, cũng trong tập này.[2] Rien ne nous rend si grands qu’une grande douleur.[3] Les chants désespérés sont les chants les plus beaux.Et j’en sais d’immortels qui sont de purs sanglois[4] Gémir, pleurer, prler est également lâche.Fais énegiquement la longue et lourde tâcheDans la vole où le sort a voulu t’appeler,Puis après, comme moi, souff re et meurs sans parler.[5] Hiểu
theo nghĩa mới của “những nhân bản” của thế kỷ chúng ta.19/9/2008Nguồn: Chân dung Nguyễn Du,
in tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn. Kiểm duyệt số 401/XB ngày 8-3-1960. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Một là, tác động gieo thoi vừa bất nhã vừa tàn bạo. Không lẽ
gì Thúy Kiều lại đi nói với Kim Trọng rằng: “Nếu chàng lả lơi quá, thiếp sẽ học
lối người thiếu phụ thời xưa ném thoi vào mặt chàng để cự tuyệt khiến cho chàng
cũng bị gãy hai cái răng như Tạ Côn”. Nếu quả thật Thúy Kiều nói như thế với
người yêu thì lời nàng tuy có “đoan chính” đến đâu chăng nữa cũng không thể bảo
là “dễ nghe” được. Vậy Thúy Kiều không thể là chủ từ (hiểu ngầm) trong câu thơ
“gieo thoi”.
Hai là, điểm gieo thoi từ trước đã được dùng trong bức thư của Thôi Oanh Oanh viết cho Trương Quân Thụy (Hội chân ký).
Trước hết là cuộc tranh chấp ảnh hưởng giữa ba ý thức hệ căn bản của Đông phương xưa. Đã gần chín thế kỷ rồi, từ thời tự chủ, Phật giáo và Khổng giáo lần lượt thay nhau thống trị tư tưởng Việt Nam, rốt cuộc, qua những phen thử thách gay go nhất là hồi cuối thế kỷ XVIII vẫn không đem lại an bình cho quốc gia Việt Nam. Người ta bắt đầu nghi ngờ giá trị của những phương pháp ứng dụng, nếu không là nghi ngờ giá trị nội dung của những ý thức hệ đó.
Thêm vào đó là tấn thảm kịch của một người đứng ở một ngã ba đường lịch sử phải chọn nhận một thái độ: ra làm quan với nhà Nguyễn hay vẫn trung thành với kỷ niệm của nhà Lê. Ngả đường đã giẫm chân lên rồi, Tố Như vẫn chưa hết thắc mắc. Mấy ai đã hoàn toàn tự chủ, không lỗi lầm, và đoán trước được mọi bất ngờ của việc đời, và chỗ vô thường của chính tâm lý mình?
Sau rốt là sự tranh chấp giữa hai xu hướng thẩm mỹ nơi nhà thơ: thuận tình tới mức đã đạt tới của nghệ thuật hay phải đưa nó tới những bến bờ mới lạ. Không ai chối nhận được "tính cách kim thời" - modernisme - trong thi tài của Nguyễn Du.
Đó là những tranh chấp không tầm thường, không phiến diện, mà là những tranh chấp bám chặt vào ý thức của Tố Như làm nên cuộc khủng hoảng lương tâm, cuộc khủng hoảng đức tin, hiểu theo một nghĩa rộng, của tác giả. Đoạn trường hơn nữa, tấn thảm kịch nội tâm đó kéo dài vô tận mà dày vò nhà thơ cho đến lúc nhắm mắt phải thốt lên:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét