Về từ cõi chết 3: Tai nạn
Chương 1
1. Tai nạn xảy ra vào một tối tháng Bảy, ngay trung tâm
thành phố New York, lúc tôi cùng Kathleen băng qua đường để tới xem phim
Anh em nhà Karamazov.
Trời oi bức, ngột ngạt: cái nóng ngấm vào xương, vào mạch
máu, vào phổi. Khó mở miệng nói, thở cũng khó. Vạn vật bị
phủ trùm một tấm vải to lớn và nhớp nháp. Cái nóng bám vào da, như một
lời nguyền rủa.
Người ta bước quờ quạng, nhìn phờ phạc, miệng khô rang như miệng
người già đang nhìn sự suy sụp của đời mình, đang hi vọng vứt bỏ mọi hành trang
của chính mình để khỏi nổi điên. Hình hài họ tràn ngập sự gớm ghiếc.
Tôi mệt. Tôi vừa làm xong công việc của mình: một
bức điện tín dài năm trăm chữ. Năm trăm chữ chẳng nói lên điều
gì. Chỉ để làm cho đầy một ngày trống rỗng. Đây là một
trong những ngày Chúa nhật đều đều và yên tĩnh, không để lại dấu vết trên thời
gian. Washington: không có gì. Liên hiệp quốc: không có
gì. New York: không có gì. Cả Hollywood cũng nói: không
có gì. Các ngôi sao màn bạc đã bỏ rơi tin tức.
Thật chẳng dễ dùng năm trăm chữ để nói rằng không có gì
nói. Sau hai giờ làm việc cực nhọc, tôi kiệt sức.
“Bây giờ mình làm gì đây?” Kathleen hỏi.
“Gì cũng được, tùy ý em,” tôi trả lời.
Chúng tôi đang đứng ở góc Đường Bảy Mươi Tư, ngay đằng trước
Sheraton-Astor. Tôi cảm thấy chóng mặt, nặng nề và trong đầu có màn
sương dày. Một cử động nhẹ nhàng nhất cũng có vẻ như đang cố sức cử
một hành tinh lên. Có chì trong hai cánh tay và hai chân tôi.
Tôi có thể thấy cơn lốc người phía bên phải mình, trong Quảng
trường Times. Người ta đi ở đó như đi ra biển: không phải để chống lại
sự chán chường của một căn phòng đầy ứ các giấc mơ tàn lụi, mà là để cảm thấy
ít cô độc hơn hoặc cô độc nhiều hơn.
Thế giới thu mình trong một chuyển động chầm chậm dưới sức nặng
của cái nóng. Cảnh vật dường như không thật. Trong ánh
đèn nê-ong muôn màu như ngày hội, người ta đi lui đi tới, cười, hát, la hét, mắng
nhau, làm tất cả những việc ấy với vẻ lừ đừ cáu kỉnh.
Ba thủy thủ từ một khách sạn bước ra. Khi thấy
Kathleen, họ chửng lại, đồng thanh huýt lên tiếng sáo dài ngưỡng mộ.
“Mình đi thôi,” Kathleen vừa nói vừa kéo tay
tôi. Rõ ràng nàng khổ sở.
“Em bực họ làm gì?” tôi hỏi. “Họ nghĩ là em đẹp.”
“Em không thích họ huýt sáo như vậy.”
Tôi nói bằng giọng giảng giải. “Đó là cách họ nhìn
phụ nữ: không bằng mắt mà bằng miệng. Các thủy thủ để dành mắt mình
cho biển: khi lên đất liền, họ để mắt lại đằng sau như những biểu hiện của tình
yêu.”
Ba người ngưỡng mộ ấy đi đã một lúc.
“Còn anh?” Kathleen hỏi. “Anh nhìn em bằng cái
gì?”
Nàng thích qui hướng mọi sự vào chúng tôi. Trong
vũ trụ của nàng, chúng tôi là tâm điểm. Đối với nàng, người khác có
sống thì chỉ là để cho nàng đem ra so sánh với chúng tôi.
“Anh? Anh không nhìn em,” tôi trả lời, hơi cực
lòng. Im lặng. Tôi đang cắn lưỡi mình. “Nhưng
anh yêu em. Em biết điều đó mà.”
“Anh yêu em sao anh không nhìn em?” nàng rầu rỉ hỏi. “Cám
ơn lời xưng tụng.”
“Em không hiểu,” tôi tiếp lời ngay. “Người ta
không nhất thiết phải loại bỏ kẻ khác. Em có thể yêu Thượng đế nhưng
em không nhìn được Ngài.”
Nàng có vẻ hài lòng với sự so sánh đó. Tôi sẽ tập
nói dối.
“Khi anh yêu Thượng đế thì anh nhìn ai?” nàng hỏi sau một
chút im lặng.
“Em chứ ai. Nếu con người có thể ngắm nghía bộ mặt
của Thượng đế thì hẳn sẽ thôi yêu ngài. Thượng đế cần tình yêu; ngài
không cần sự am hiểu.”
“Còn anh?”
Với Kathleen thì ngay cả Thượng đế cũng không phải là một đề
tài để thảo luận mà chỉ là một lối đẩy đưa cuộc nói chuyện về lại chúng tôi.
“Anh cũng vậy,” tôi nói dối. “Anh cũng vậy, anh cần
tình yêu của em...”
Chúng tôi vẫn đứng tại chỗ. Tại sao chúng tôi
không cất bước. Tôi không biết. Có lẽ chúng tôi đang chờ
tai nạn.
Tôi tiếp tục suy nghĩ, mình phải học cách nói dối. Dù
có phải bỏ ra một ít thời giờ. Để nói dối như thật. Cho đến
lúc này, mình nói dối quá dở. Tôi ngượng nghịu, nét mặt tôi phản lại
tôi và chắc là tôi bắt đầu đỏ mặt.
“Mình chờ gì đây?” Kathleen bắt đầu nóng ruột.
“Không gì cả,” tôi nói.
Tôi đang nói dối mà không biết: chúng tôi đang chờ tai nạn.
“Anh vẫn không thấy đói?”
“Không,” tôi trả lời.
“Nhưng từ sáng tới bây giờ anh chưa ăn gì,” nàng nói một cách
hờn trách.
“Không.”
Kathleen thở dài.
“Anh nghĩ là anh chịu đựng được bao lâu nữa? Anh
đang giết anh dần mòn...”
Gần đó có một tiệm ăn nhỏ. Chúng tôi bước
vào. Được rồi, tôi tự nhủ. Mình cũng phải học
ăn. Và học yêu. Ngươi có thể học bất cứ cái gì.
Mười hoặc mười hai người ngồi trên ghế cao màu đỏ trước quầy
đang im lặng ăn. Kathleen lúc này thấy mình lọt vào một vùng đầy những
cái liếc nhìn chằm chặp của họ. Nàng đẹp. Khuôn mặt nàng,
đặc biệt quanh đôi môi, tỏ lộ những dấu hiệu nguyên sơ của một nỗi sợ hãi đang
chờ dịp biến thành niềm thống khổ tươi rói. Tôi muốn thêm lần nữa
nói với nàng tôi yêu nàng.
Chúng tôi gọi hai chiếc bánh mì khoanh kẹp thịt bò và hai ly
nước nho.
“Ăn đi anh,” Kathleen nói, ngước mắt nhìn tôi, nài nỉ.
Tôi bẻ một miếng đưa lên miệng. Mùi máu làm dạ dày
tôi đảo lộn. Tôi cảm thấy buồn nôn. Có lần tôi thấy một
người ăn hết sức ngon lành một lát thịt mà không kèm với bánh
mì. Thèm thuồng, tôi đứng ngó hắn rất lâu. Tôi như thể bị
thôi miên, mắt dán vào những chuyển động của các ngón tay và quai hàm của hắn. Tôi
hy vọng nếu hắn nhìn thấy tôi ở đó, trước mặt hắn, hắn sẽ vứt cho tôi một miếng. Hắn
không nhìn lên. Hôm sau, hắn bị những người chung ba-rắc treo cổ: hắn
đã ăn thịt người. Để bào chữa cho mình, hắn la lớn: “Tôi có làm gì hại
đâu: hắn ta đã chết sẵn rồi.” Khi thấy xác hắn đong đưa trên đài xử
giảo, tôi tự hỏi, “Nếu như lúc đó hắn trông thấy mình.”
“Ăn đi,” Kathleen nói.
Tôi uống chút nước trái cây.
“Anh không đói,” tôi gượng gạo nói.
Vài giờ sau, các bác sĩ bảo Kathleen, “Anh ta
hên. Anh ta ít đau đớn vì dạ dày rỗng. Anh ta sẽ không ói
nhiều lắm.”
“Mình đi,” tôi vừa bảo Kathleen vừa xoay người cất bước.
Tôi trả tiền hai chiếc bánh mì và chúng tôi đi. Quảng
trường Times không thay đổi. Ánh sáng giả, bóng tối nhân tạo. Vẫn
đám đông không quen biết đó lượn quanh và không lượn quanh. Trong
các quán rượu và các cửa tiệm, vẫn điệu nhạc kích động đập thẳng vào màng tang
ta với hàng ngàn chiếc búa nhỏ vô hình. Các bảng quảng cáo nê-ong vẫn
tuyên bố rằng uống cái này hay cái nọ thì có ích cho sức khoẻ, cho hạnh phúc của
người đời, cho bình an của thế giới, của linh hồn và của cái gì khác nữa tôi
không biết.
“Anh muốn đi đâu?”
Nàng giả bộ như không để ý tới vẻ xanh xao của
tôi. Ai cần, tôi nghĩ. Có lẽ nàng cũng phải học cách nói
dối.
“Xa,” tôi trả lời. “Thật xa.”
“Em sẽ cùng đi với anh,” nàng tuyên bố.
Sự buồn bã và cay đắng trong giọng nói nàng làm tôi chan chứa
xót thương. Tôi tự nhủ, Kathleen đã thay đổi. Nàng, kẻ
trước đây tin vào sự thách đố, vào hành động chiến đấu, vào hận thù, lúc này chọn
lựa sự thuần phục. Nàng, kẻ trước đây không chịu đi theo bất cứ lời
kêu gọi nào không phát xuất từ bản thân nàng, lúc này thừa nhận bị đánh bại. Tôi
đã hiểu đau khổ của tôi làm tôi thay đổi nhưng tôi không biết rằng nó cũng có
thể hủy hoại kẻ khác.
“Đương nhiên,” tôi nói. “Anh sẽ không đi mà không
có em.”
Tôi đang ngẫm nghĩ: đi xa thật xa, nơi con đường dẫn tới sự mộc
mạc không những chỉ có một nhóm được chọn mới biết tới mà còn hết thảy mọi người
đều biết; nơi tình yêu, tiếng cười, các bài ca và những lời cầu nguyện không
mang theo với chúng hận thù hoặc hổ thẹn; nơi tôi có thể nghĩ về mình mà không
khổ sở, không nhục nhã; nơi rượu nho và Kathleen tinh tuyền, không bị pha trộn
với nước rĩ ra từ tử thi; nơi người chết sống trong nghĩa trang chứ không sống
trong con tim và trí nhớ của loài người.
“Vậy?” Kathleen vừa hỏi vừa dõi theo ý tưởng của nàng. “Mình
đi đâu đây? Mình không thể đứng suốt đêm ở chỗ này.”
“Mình đi xem xi-nê,” tôi nói.
Đó vẫn là nơi tốt nhất. Sẽ chỉ có hai chúng tôi
thôi. Chúng tôi sẽ nghĩ tới cái gì khác. Chúng tôi sẽ ở
nơi nào khác.
Kathleen đồng ý. Chắc nàng muốn về chỗ tôi ở hay
chỗ của nàng nhưng nàng biết tôi sẽ không chịu: hai chỗ đó quá nóng trong khi rạp
chiếu bóng có máy lạnh. Tôi đi tới kết luận rằng nói dối cũng chẳng
khó lắm.
“Mình xem phim gì?”
Kathleen đưa mắt rảo nhìn quanh các phim chung quanh Quảng
trường Times. Rồi nàng kêu lên háo hức, “Anh em nhà Karamazov.”
Phim đó chiếu ở mé bên kia quảng trường. Chúng tôi
phải băng ngang hai đường phố. Một biển cả xe hơi và tiếng ồn ngăn
cách chúng tôi với cuốn phim đó.
“Anh thích xem một phim nào khác,” tôi nói. “Tuy anh rất
thích Dostoevski.”
Kathleen nhất quyết: đó là một phim hay tuyệt, vĩ đại, đặc biệt. Yul
Brynner đóng vai Dmitri. Nó là một cuốn phim người ta phải xem.
“Anh thích xem một phim trinh thám bình thường,” tôi
nói. “Một phim gì đó không có triết lý, không có siêu
hình. Trời quá nóng không hợp với việc thao tác trí tuệ. Em
coi kìa, Kẻ giết người ở Rio đang chiếu mé bên này. Mình tới
đó đi. Anh muốn biết tại Brazil người ta trở thành kẻ giết
người như thế nào.”
Kathleen vốn bướng bỉnh. Thêm lần nữa, nàng muốn
thử nghiệm tình yêu của chúng tôi. Nếu Dostoevski thắng: tôi yêu
nàng; nếu ngược lại: tôi không yêu nàng. Tôi liếc
nàng. Quanh đôi môi nàng còn nguyên nỗi sợ hãi . Nỗi sợ
hãi ấy sắp biến thành niềm thống khổ. Kathleen đẹp tuyệt vời khi nàng đau khổ;
mắt nàng sâu thẳm hơn, giọng ấm áp hơn, tròn đầy hơn; nhan sắc đậm đà của nàng
mộc mạc hơn và người hơn. Niềm thống khổ của nàng mang phẩm chất
thánh thiện. Đó là cách nàng trao hiến bản thân. Tôi
không thể nhìn Kathleen đau khổ mà không nói với nàng rằng tôi yêu nàng, làm
như tình yêu là sự phủ định cái ác. Tôi phải làm cho nàng không còn
đau khổ nữa.
“Có thật là em rất quan tâm tới phim đó?” tôi hỏi
nàng. “Có thật là em khao khát muốn nhìn những anh em nhà Karamazov
tốt lành bị đối xử tệ bạc?”
Rõ ràng là nàng muốn. Yul Brynner hoặc tình yêu của
chúng tôi.
“Vậy mình đi.”
Một nụ cười khải hoàn, kéo dài trong chỉ một giây, làm sáng rở
khuôn mặt nàng. Các ngón tay nàng níu chặt cánh tay tôi như thể nói:
lúc này em tin vào điều đang xảy ra cho chúng mình.
Chúng tôi bước vài bước tới lề đường. Chúng tôi phải
chờ một chút. Chờ đèn đỏ đổi qua xanh, chờ dòng xe ngừng lại, chờ
người cảnh sát điều khiển lưu thông đưa cánh tay mặt lên, chờ người tài xế tắc
xi, kẻ không nhận ra vai trò phải đóng trong khoảnh khắc đó, dừng xe đúng vạch
qui định. Tôi phải chờ tín hiệu của người đạo diễn.
Tôi nhìn quanh. Đồng hồ nơi cửa sổ toà nhà TWA chỉ
10:25.
“Lẹ lên,” Kathleen quyết định, kéo tay tôi. “Đèn
xanh.”
Chúng tôi bắt đầu băng qua đường. Kathleen bước lẹ
hơn tôi. Nàng đi bên phải tôi, nhiều lắm là hơn vài bước ngay trước
mặt tôi. Anh em nhà Karamazov không còn ở xa nữa, nhưng đêm đó tôi
không gặp họ.
Tôi nghe cái gì trước? Tiếng phanh xe rít lên kỳ dị
hoặc tiếng phụ nữ thét thất thanh? Tôi vẫn không nhớ.
Trong ánh chớp một phần nghìn giây, tôi tỉnh lại trong khi nằm
ngữa giữa đường phố. Trong ánh lờ mờ, vô số đầu người cúi xuống nhìn
tôi. Đầu người khắp nơi. Phải, trái, trên và cả dưới nữa. Mọi
cái đầu đều giống nhau. Những con mắt mở lớn giống nhau phản chiếu sự
kinh hoàng và tọc mạch. Những đôi môi cùng thì thầm giống nhau những
lời tôi không hiểu nổi.
Một người lớn tuổi hình như đang nói điều gì đó với
tôi. Tôi nghĩ không phải là lời thương cảm. Ông tóc cắt rất
ngắn và có ria mép. Kathleen không còn mái tóc đen đẹp tuyệt vời mà
nàng rất tự hào. Bộ mặt nàng biến dạng, mất vẻ thanh
xuân. Như thể trong sự có mặt của thần chết, mắt nàng càng lúc càng
to ra, và lạ lùng hơn nữa, nàng cũng để ria mép.
Tôi nhủ thầm, một giấc mơ. Chỉ là mơ thôi và khi
thức giấc mình sẽ quên ngay. Nếu không là mơ, tại sao mình lại ở
đây, bên vệ đường? Tại sao những người này vây quanh như thể mình sắp
chết? Và tại sao bỗng dưng Kathleen có bộ ria?
Tiếng ồn, đến từ mọi hướng, ép chặt lên bức màn sương mù dày
đặc mà chúng không thể thẩm thấu. Tôi muốn bảo người ta đừng nói vì
tôi không thể nghe họ. Tôi đang nằm mơ còn họ thì
không. Nhưng tôi không thể thốt lên được lấy một tiếng,
dù nhỏ nhất. Giấc mơ làm tôi câm và điếc.
Một bài thơ của Dylan Thomas -- lúc nào cũng vẫn chỉ bài thơ ấy
-- lại trở về với tôi. Bài thơ không nói về bước đi êm ái vào đêm mà
về “Hãy nổi cơn thịnh nộ, hãy nổi cơn thịnh nộ trước sự lâm chung của ánh
sáng.”
Thét lên ư? Người câm điếc không thét
lên. Họ đi êm ái vào đêm, nhẹ nhàng và rụt rè. Họ không
thét lên trước sự lâm chung của ánh sáng. Thét lên khi miệng ứ máu
là điều vô ích: người ta nhìn máu chứ không nghe ra tiếng thét. Đó
là lý do tôi im lặng. Và cũng vì tôi đang mơ một đêm hè trong khi
thân thể mình đông cứng. Cái nóng làm phát bệnh, những bộ mặt cúi xuống
tôi ròng ròng mồ hôi -- mồ hôi đang nhỏ những giọt nhịp nhàng -- và tuy thế,
tôi đang mơ là tôi lạnh quá tôi đang chết. Làm sao ta có thể thét
lên cưỡng lại giấc mơ? Làm sao ta có thể thét lên cưỡng lại sự lâm
chung của ánh sáng, cưỡng lại sự sống đang dần dần lạnh giá, cưỡng lại máu đang
chảy ra ngoài?
Chỉ về sau, sau rất lâu, khi tôi đã qua khỏi tình trạng nguy
kịch, Kathleen mới kể cho tôi nghe hoàn cảnh xảy ra tai nạn.
Một chiếc tắc xi đang phóng rất nhanh từ bên trái và tông vào
tôi, kéo lê tôi mấy thước. Kathleen thình lình nghe tiếng phanh xe
rít lên và tiếng thét thất thanh của một phụ nữ.
Khi nàng kịp thời quành người lại thì đám đông đã bu quanh
tôi. Ban đầu, nàng không biết người nằm dưới chân những kẻ đang ngó
đó là tôi.
Rồi có cảm giác mãnh liệt rằng người đó chính là tôi, nàng vẹt
đám đông lấn vào và thấy tôi: tả tơi đau đớn, quằn quại, đầu chúi giữa hai đầu
gối.
Và người ta thì đang nói, nói liên tu bất tận...
“Hắn chết rồi,” một người nói.
“Không, hắn chưa chết. Nhìn kìa, hắn nhúc nhích.”
Mở đường với còi hụ, xe cứu thương tới trong vòng hai mươi
phút. Trong thời gian đó tôi tỏ ra có vài dấu hiệu còn sống. Tôi
không thét, tôi không la, tôi chẳng nói gì cả.
Trên xe cứu thương, chỉ trong vài giây tôi tỉnh lại mấy lần. Trong
khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, tôi nói cho Kathleen những chỉ dẫn chính xác đáng
kinh ngạc về những việc tôi muốn nàng làm cho tôi: báo tin cho tờ báo; điện thoại
cho một trong các bạn tôi yêu cầu tạm thời tới làm dùm; hủy nhiều cuộc hẹn khác
nhau; trả tiền nhà, hoá đơn điện thoại, giặt quần áo. Sau khi giao
nàng việc cuối cùng trong ba việc cần làm gấp đó, tôi nhắm mắt, và suốt năm
ngày, không mở mắt ra lại.
Kathleen còn kể với tôi là: nhà thương đầu tiên xe cứu thương
chở tôi tới không chịu nhận tôi. Hết thảy các giường đều đã có người. Ít
ra đó là điều họ nói. Nhưng Kathleen nghĩ đó chỉ là kiếm cớ. Các
bác sĩ, sau khi liếc sơ tôi, quyết định là không hy vọng. Tốt hơn là
buông rơi kẻ hấp hối nhanh hết sức có thể được.
Xe cứu thương chở tôi tới Nhà thương New
York. Ở đây hình như họ không sợ người sắp chết. Bác sĩ
trực, một người nội trú trẻ, điềm tĩnh và trông có vẻ thiện cảm, lập tức vừa cấp
cứu tôi vừa định bệnh.
“Thế nào, thưa bác sĩ?” Kathleen hỏi.
Nhờ phép lạ nào đó nàng không bị đuổi ra khỏi phòng cấp cứu
trong khi bác sĩ Paul Russel đang săn sóc tôi.
“Mới nhìn thì hơi tệ,” người bác sĩ trẻ trả lời.
Và anh giải thích bằng giọng nghề nghiệp, “Hết thảy xương bên
trái người anh ấy đều gãy; chảy máu bên trong; chấn động não; tôi chưa thể nói
gì về mắt anh ấy; không biết chúng có bị ảnh hưởng hay không. Cũng vậy
đối với não: hãy cứ hi vọng là nó không bị hỏng.”
Kathleen cố nín khóc.
“Có thể làm gì bây giờ, thưa bác sĩ?”
“Cầu nguyện.”
“Có phải là nặng?”
“Rất nặng.”
Người bác sĩ trẻ, kẻ có giọng nói hết sức dè dặt như giọng
nói của một người già, nhìn nàng một lúc rồi hỏi, “Bà là ai? Vợ anh ấy?”
Gần như mê sảng, Kathleen chỉ lắc đầu thay cho lời nói.
“Hôn thê của anh ấy?”
“Không,” nàng thầm thì.
“Bạn gái của anh ấy?”
“Vâng.”
Sau một chút ngại ngần, anh dịu dàng hỏi nàng. “Bà yêu anh ấy?”
“Vâng,” Kathleen thầm thì.
“Trong trường hợp này, có lý do tốt lành để không mất hy vọng. Tình
yêu có giá trị không kém gì lời cầu nguyện. Có khi hơn nữa.”
Liền đó, Kathleen òa lên khóc.
Sau ba ngày hội chẩn và chờ đợi, các bác sĩ quyết định rằng
trường hợp của tôi hoàn toàn đáng để giải phẫu. Dù có ra sao đi nữa,
tôi cũng chẳng mất mát gì nhiều. Ngược lại, nếu may mắn, biết đâu mọi
sự sẽ diễn ra tốt đẹp...
Cuộc giải phẫu kéo dài rất lâu. Hơn năm giờ. Hai
bác sĩ phẫu thuật thay phiên nhau. Nhịp tim tôi xuống thấp một cách
đáng sợ. Tôi gần như đầu hàng cái chết. Với tiếp máu,
tiêm và truyền dưỡng khí, họ mang tôi về lại cuộc sống.
Sau cùng, các bác sĩ phẫu thuật quyết định chỉ giải phẫu tới
hông. Mắt cá, xương sườn và các chỗ gãy nhỏ khác để về
sau. Lúc này điều quan trọng là làm ngưng chảy máu, khâu các động mạch,
làm kín các vết nứt.
Tôi được mang về lại phòng mình và trong hai ngày, tôi đong
đưa giữa sự sống và cái chết. Bác sĩ Russel, người hết lòng chăm sóc
tôi, vẫn lạc quan về kết quả sau cùng. Tôi sốt cao và mất nhiều máu.
Sau cùng, tới ngày thứ năm tôi tỉnh lại.
Tôi nhớ mãi: tôi mở mắt mình ra và phải nhắm lại ngay, bị lóa
mắt vì màu sắc trắng xoá của phòng bệnh. Vài phút trôi qua tôi mới
có thể mở mắt ra lại và xác định được thời gian và không gian.
Hai bên giường tôi là các chai huyết tương treo trên giá gắn
vào vách phòng. Tôi không thể nhúc nhích tay mình: mỗi cánh tay có một
cây kim lớn gắn chặt vào bằng băng keo giải phẫu. Mọi sự dàn sẵn để
phòng khi tiếp máu cấp tốc.
Tôi cố cựa quậy chân: thể xác tôi không còn nghe lời
tôi. Bất chợt tôi cảm thấy hãi hùng rằng mình bị bại liệt. Tôi
cố gắng kinh người để thét thành tiếng, gọi bác sĩ, y tá hay người nào đó, hỏi
cho ra sự thật. Nhưng tôi quá yếu. Âm thanh nghẹt lại
trong cổ họng. Tôi nghĩ, có thể mình mất luôn giọng nói.
Tôi cảm thấy cô độc, bị bỏ rơi. Sâu trong lòng,
tôi phát hiện một nỗi hối tiếc: thà mình chết còn hơn.
Một giờ sau, bác sĩ Russel vô phòng và nói với tôi là tôi sẽ
sống. Chân tôi không bị cưa. Tôi không nhúc nhích được vì
khắp người bó bột. Chỉ có thể nhìn thấy đầu, cánh tay và hai ngón
chân cái của mình.
“Anh trở về từ một nơi rất xa,” người bác sĩ trẻ nói.
Tôi không trả lời. Tôi cảm thấy tiếc là từ một nơi
xa xăm như thế sao mình lại trở về.
“Anh phải cám ơn Thượng đế,” anh tiếp tục.
Tôi nhìn anh kỹ hơn. Ngồi bên mép giường tôi, các
ngón tay xoắn vào nhau, mắt anh đầy vẻ tò mò.
“Sao mà người ta phải cám ơn Thượng đế?” tôi hỏi anh.
Giọng nói của tôi chỉ là tiếng thì thào. Nhưng tôi
đã có thể nói. Việc này làm tôi vô cùng vui sướng tới nổi lệ trào
lên mắt. Tôi thờ ơ, hoặc hầu như thờ ơ đối với việc tôi còn sống. Nhưng
khi biết được rằng mình vẫn có thể nói được, tôi xúc động rưng rưng, không che
giấu nổi.
Người bác sĩ cau bộ mặt trẻ thơ của anh lại. Tóc
anh màu hung. Đôi mắt xanh nhạt biểu lộ lòng tốt vô hạn. Anh
nhìn tôi chằm chặp. Nhưng tôi không bực mình về cái nhìn
đó. Tôi quá yếu.
“Sao mà người ta phải cám ơn Thượng đế?” tôi lặp lại.
Tôi muốn nói thêm: tại sao cám ơn ông ấy? Trong một
thời gian rất dài, tôi không thể hiểu nổi trên thế gian này Thượng đế đã làm gì
để xứng đáng với con người.
Người bác sĩ tiếp tục nhìn tôi thật gần, rất gần. Trong
mắt anh lập lòe ánh kỳ lạ -- cũng có thể là một bóng tối kỳ dị.
Thình lình tim tôi giật thót. Kinh sợ, tôi nghĩ:
anh ta đã biết ra điều gì đó.
“Anh lạnh phải không?” anh hỏi, vẫn nhìn tôi.
“Vâng,” tôi trả lời. “Tôi lạnh.”
Thể xác tôi đang run lẩy bẩy.
“Đó là vì sốt,” anh giải thích.
Như thường lệ, họ sẽ lấy nhịp tim. Hoặc thêm nữa,
họ sẽ đặt mu bàn tay lên trán tôi. Nhưng người bác sĩ này chẳng làm
gì. Anh không làm gì cả. Anh đã biết rồi.
“Chúng ta sẽ ra sức chống trả cơn sốt,” anh tiếp tục giảng giải. “Chúng
tôi sẽ tiêm thuốc cho anh. Tiêm nhiều lần. Mỗi giờ. Suốt
ngày suốt đêm. Kẻ thù lúc này là cơn sốt.”
Anh ngừng nói, nhìn tôi một lúc rồi tiếp tục. Hình
như anh đang tìm tín hiệu, dấu chỉ, giải pháp cho một vấn đề mà tôi không thể
đoán ra các chi tiết của nó.
“Chúng tôi sợ anh bị nhiễm trùng,” anh nói tiếp. “Nếu
cơn sốt tăng cao, anh thua.”
“Và kẻ thù sẽ thắng,” tôi nói bằng giọng có ý mỉa
mai. “Bác sĩ ạ, anh thấy, điều người ta nói là đúng sự thật: con người
mang trong mình kẻ thù ác liệt nhất của nó. Hoả ngục không phải là
người khác. Hỏa ngục là chính chúng ta. Hoả ngục là cơn sốt
đang nung nấu tới độ làm ta cảm thấy lạnh.”
Giữa chúng tôi đã dăng ra một dây liên kết không xác định được. Chúng
tôi nói bằng ngôn ngữ chín chắn của những người đang liên hệ trực tiếp với cái
chết. Tôi cố nở nụ cười nhưng lạnh quá, tôi chỉ nhếch được
mép. Đó là lý do tại sao tôi không thích mùa đông: các nụ cười lúc
đó trở nên mơ hồ.
Bác sĩ Russel đứng dậy.
“Tôi sẽ phái y tá tới. Tới giờ tiêm thuốc rồi.”
Anh chạm ngón tay vào môi mình, như để cân nhắc kỹ lưỡng hơn,
rồi thêm, “Khi nào anh cảm thấy khá hơn, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều.”
Thêm lần nữa tôi có cảm tưởng bứt rứt là anh đã biết -- hay
ít ra, anh đang ngờ ngợ -- điều gì đó.
Tôi nhắm mắt. Đột nhiên tôi ý thức được sự đau đớn
đang hành hạ mình. Trước đây tôi không nhận ra nó. Thế
nhưng, cơn đau vẫn ở đó. Nó là không khí tôi đang thở, những lời lẽ
đang hình thành trong óc, bột bó cơ thể như da tôi đang nóng bừng bừng. Làm
sao đến lúc này bản thân tôi vẫn không cảm nhận được nó? Có thể vì
tôi quá chú tâm vào cuộc trò chuyện với bác sĩ. Anh có biết tôi đang
đau đớn, đau đớn kinh khủng? Anh có biết tôi lạnh? Anh có
biết sự đau đớn đang nung nấu da thịt tôi và trong cùng lúc đó, tôi run rẩy với
cơn lạnh hết chịu đựng nổi, như thể tôi đầu tiên bị nhận chìm vào một lò nung
và tiếp đó, vào một bồn nước đá. Rõ ràng anh hiểu. Anh biết. Paul
Russel là một bác sĩ có cảm tính. Anh có thể thấy tôi đang điên cuồng
cắn môi mình.
“Anh đang đau,” anh lên tiếng.
Anh đứng yên ở chân giường. Tôi hổ thẹn vì răng
mình đánh lập cập trước mặt anh.
“Thường thôi,” anh tiếp tục mà không chờ câu trả lời. “Khắp
người anh chỗ nào cũng bị thương. Cơ thể anh đang dấy loạn. Đau
đớn là cách chống đối của cơ thể. Nhưng tôi nói để anh biết: đau
đớn không là kẻ thù, chính cơn sốt mới là kẻ thù. Nếu nó tăng cao,
anh thua.”
Chết. Tôi ngẫm nghĩ: anh nghĩ rằng cái chết là kẻ
thù ấy của tôi. Anh lầm. Cái chết không là kẻ thù ấy của
tôi. Nếu anh không biết điều đó thì anh chẳng biết gì cả. Hay
ít ra, anh không biết hết mọi sự. Anh đã nhìn tôi trở về với cuộc đời,
nhưng anh không biết tôi nghĩ gì về sống và chết. Hoặc anh có thể biết
nhưng không để lộ ra? Sự nghi ngại, như tiếng ong vo ve kêu lui kêu
tới bên trong tôi đã khích động tột độ thần kinh của tôi.
Tôi có thể cảm thấy cơn sốt khi nó toả ra, siết tôi từng sợi
tóc giống như cây đuốc đang cháy. Cơn sốt ném tôi từ thế giới này
sang thế giới khác, lên rồi xuống, lên rất cao và xuống rất sâu, như thể nó có
ý chỉ dạy cho tôi biết cái lạnh ở những nơi cao và cái nóng ở những vực sâu.
“Anh có muốn dùng thuốc giảm đau không?” người bác sĩ thăm
dò.
Tôi lắc đầu. Không, tôi chẳng muốn chút
nào. Tôi chẳng cần chút nào. Tôi không sợ.
Tôi nghe tiếng chân anh bước ra phía cửa, hẳn nó ở đâu đó đằng
sau tôi. Cứ để anh ấy đi, tôi nghĩ. Tôi không sợ tình trạng
sống cô độc, tình trạng bước đi trong khoảng cách giữa cái sống và cái chết. Nên
tôi không cần anh. Tôi không sợ. Cứ để anh ấy đi!
Anh mở cửa, lưỡng lự trước khi khép lại. Anh dừng
bước, Có phải anh đang quay lại.
“Thật bất ngờ,” anh nói dịu dàng tới độ hầu như không nghe được. “Thật
bất ngờ. Tôi suýt quên nói với anh... Kathleen...bà ấy là một phụ nữ
rất duyên dáng... cực kỳ quyến rũ...”
Với lời đó, anh lặng lẽ rời phòng. Lúc này tôi cô
độc. Cô độc tận cùng có thể của một người liệt giường và đang đau đớn. Chẳng
bao lâu y tá sẽ đến với thuốc trụ sinh trên tay, để chiến đấu với kẻ thù ấy. Thật
dễ nổi khùng: chống lại kẻ thù ấy bằng một một mũi
tiêm. Thật khôi hài. Nhưng tôi không cười. Các
bắp thịt trên mặt tôi tê liệt, đông cứng.
Chút nữa đây y tá sẽ tới. Bác sĩ đã nói như vậy,
bác sĩ, kẻ có giọng nói trầm tĩnh như giọng nói của một người già, vừa mới khám
phá ra rằng lòng tốt của con người mang theo phần thưởng của chính
nó. Anh đã nói với tôi điều gì khác nữa? Điều gì đó về
Kathleen. Vâng: anh đã nói tới tên nàng. Một phụ nữ trẻ
trung và duyên dáng. Không, không phải như thế. Anh đã
nói điều gì khác: cực kỳ quyến rũ. Vâng, đúng vậy. Đó là
điều anh đã nói: Kathleen là một phụ nữ trẻ trung và quyến rũ. Tôi
nhớ lại chính xác: cực kỳ quyến rũ.
Kathleen... Có thể nàng ở đâu lúc này? Trong thế
giới nào? Trong thế giới bên trên hay trong thế giới bên dưới? Tôi
hy vọng nàng sẽ không đến đây. Tôi hy vọng nàng sẽ không xuất hiện
trong phòng này. Tôi không muốn nàng trông thấy tôi như thế
này. Tôi hy vọng rằng nàng sẽ không cùng đến với y tá. Và
rằng nàng sẽ không cho tôi thuốc trụ sinh. Tôi không muốn nàng giúp
tôi chiến đấu với kẻ thù ấy. Nàng là một phụ nữ duyên dáng, cực kỳ
quyến rũ, nhưng nàng không hiểu. Nàng không hiểu rằng cái chết không
phải là kẻ thù ấy. Điều đó thật không dễ. Nàng không hiểu. Nàng
tin hết sức tin vào sức mạnh, vào khả năng tuyệt đối của tình
yêu. Yêu đi và sẽ được bảo vệ. Yêu nhau đi và mọi sự sẽ tốt
lành: đau khổ sẽ mãi mãi rời bỏ trần gian của con người. Ai nói vậy? Có
thể là Đức Kitô. Ngài cũng tin hết sức tin vào tình
yêu. Về phần tôi, tình yêu hoặc cái chết, tôi bất cần. Tôi
có thể bật cười khi nghĩ tới tình yêu lẫn cái chết. Lúc nào cũng vậy,
tôi có thể phá lên cười. Vâng, nhưng các bắp thịt trên mặt tôi không
nghe lời tôi. Tôi lạnh quá. Trời lạnh vào hôm đó --
không, vào tối đó -- buổi tối lần đầu tôi gặp Kathleen
Một tối mùa đông. Từ bên trong vách nhà nghe rõ tiếng
gióđang rít xuyên cây cối ở ngoài trời.
“Đi với tôi,” Shimon Yanai bảo tôi. “Tôi muốn anh
gặp Halina.”
“Hãy để tôi nghe gió,” tôi trả lời (tôi đang trong tâm trạng
không thích trò chuyện). Gió có nhiều điều nói với tôi hơn Halina của
anh. Trong gió có những hối tiếc và lời cầu nguyện của linh hồn kẻ
đã chết. Linh hồn kẻ đã chết có nhiều điều để nói hơn người đang sống.
Shimon Yanai - người có bộ ria đẹp nhất xứ Palestine, nếu
không muốn nói đẹp nhất toàn cõi Trung Đông - chẳng để ý chút gì đến điều tôi
có ý nói.
“Đi nào,” anh nói, hai tay thọc trong túi quần. “Halina
đang chờ chúng ta.”
Tôi chịu thua. Tôi nghĩ: có thể Halina cũng là một
linh hồn kẻ đã chết.
Chúng tôi đang đứng trong khách sảnh vào giờ giải lao giữa một
buổi trình diễn vũ ba-lê tại Paris, đoàn Roland Petit Company hoặc Marquis
de Cuevas, nay tôi không còn nhớ rõ.
“Halina hẳn là một phụ nữ quyến rũ,” tôi nói khi băng ngang
khách sảnh để tới phòng bán rượu.
“Điều gì khiến anh nghĩ như vậy?” Shimon Yanai hỏi, có vẻ thú
vị.
“Cách anh ăn mặc tối nay. Ngó anh như một gã lãng
tử”
Tôi thích trêu ghẹo anh. Shimon đang tuổi tứ tuần,
cao, tóc rậm, mắt xanh mơ màng. Anh không bao giờ muốn được đón tiếp
trang trọng. Tôi thường nói với anh bằng giọng mỉa mai nhưng chan chứa
thương cảm, “Anh bỏ ra hàng giờ trước gương để đánh bù tóc, làm lệch gút cà vạt,
làm nhăn nhúm quần.” Có điều gì đó thống thiết trong tình mến cảm
anh dành cho người du mục bô-hê-miên.
Tôi hiểu rõ anh vì anh thường đến Paris và cho tôi
những mánh lới khôn khéo về tờ báo tin tức tôi đang làm. Anh thích ở
với các ký giả. Anh cần họ. Anh là đại diện tại Paris của
Phong trào Kháng chiến Do thái - lúc này nước Israel chưa ra đời - và
anh không ngần ngại thú nhận rằng đối với anh báo chí rất có lợi.
Halina đứng chờ chúng tôi ở phòng giải khát, trên tay cầm ly
rượu. Chị mới ngoài ba mươi. Gầy, mặt nhỏ, xanh xao, với
cái nhìn ẩn chứa nỗi sợ hãi của một phụ nữ đang vật lộn với quá khứ của mình.
Chúng tôi bắt tay nhau.
“Tôi tưởng anh lớn tuổi hơn.” Chị cười ngượng nghịu.
“Tôi già rồi,” tôi nói. “Đôi khi tôi già như gió.”
Chị cười. Thật ra chị không biết cười như thế
nào. Khi cười, chị có thể làm con tim ta nứt rạn. Nụ cười
của chị như mang vẻ bảng lảng của linh hồn kẻ đã chết.
“Tôi nói thật đấy,” chị nói. “Tôi có đọc các bài
báo của anh. Chúng được viết bởi một người đang đi tới cuối cuộc đời
của mình, tới tận cùng những hy vọng của mình.”
“Đó là dấu hiệu của tuổi trẻ,” tôi trả lời. “Tuổi
trẻ ngày nay không nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ già: họ tin là họ sẽ chết
yểu. Trong thời đại chúng ta người già là người trẻ tuổi thật sự. Họ
ít ra cũng có thể khoe khoang việc họ có cái mà chúng ta không có: một khoanh mỏng
của cuộc đời mà họ gọi đó là tuổi trẻ.”
Bộ mặt của người phụ nữ ấy lại càng tái nhợt
hơn. “Điều anh nói thật khủng khiếp.”
Tôi bật cười, nhưng có lẽ tiếng cười của tôi gượng gạo quá:
tôi cảm thấy mình không thích cười. Tôi không thích cười, chẳng kém
gì không thích trò chuyện.
“Chị đừng nghe tôi,” tôi nói. “Shimon sẽ nói cho
chị biết: tôi không bao giờ ăn nói trịnh trọng. Tôi giỡn, thế
thôi. Tôi đang giả bộ dọa cho chị sợ. Nhưng chị đừng để
ý. Những gì tôi nói chỉ là gió.”
Tôi sắp rời họ - viện cớ như thường lệ là phải đi gọi gấp một
cú điện thoại khẩn cấp - ngay lúc đó tôi thấy trong mắt Halina có cái nhìn bối
rối.
“Shimon!” chị kêu lên mà không cất cao giọng. “Coi
ai đó kìa: Kathleen!”
Shimon nhìn theo tay chỉ của Halina, và trong một giây - chỉ
một giây - mặt anh như ám bóng mây. Má anh tối lại, như thoạt nhớ tới
điều gì đó đau đớn.
“Anh tới yêu cầu cô ấy nhập bọn mình đi.” Halina nói.
“Nhưng cô ấy không đi một mình...”
“Chờ một phút! Cô ấy sẽ tới đây.”
Nàng tới. Và đó là lúc khởi đầu mọi chuyện.
Thật ra tôi có thể dễ dàng bỏ đi trong lúc Shimon đang nói
chuyện với nàng ở phía đầu kia khách sảnh. Lúc ấy cú điện thoại của
tôi vẫn còn khẩn cấp không kém trước đây. Tôi không muốn ở lại chút
nào. Mới nhìn nó giống một tình thế cổ điển. Ba nhân vật:
Shimon, Halina, Kathleen. Halina yêu Shimon, kẻ không yêu chị;
Shimon yêu Kathleen, kẻ không yêu anh; Kathleen yêu... Tôi không biết
nàng yêu ai và tôi không cần biết. Tôi có ý nghĩ: họ đang làm khổ
nhau trong một vòng tròn chật kín mít. Tốt hơn mình chớ có dính vào
chút nào, dù chỉ như một người chứng. Tôi không bao giờ quan tâm tới
sự khổ đau cùng kiệt. Đau khổ của người khác chỉ hấp dẫn tôi trong
chừng mực nó khiến người ta nhận ra cái mạnh và cái yếu của bản thân, trong bầu
khí hướng tới sự nổi loạn. Tình yêu của Halina và Shimon hoàn toàn
không đưa tới điều gì thuộc loại đó.
“Tôi phải đi thôi,” tôi bảo Halina.
Chị nhìn tôi nhưng không nghe; chị đang quan sát Shimon và
Kathleen ở phía đằng kia khách sảnh. “Xin anh đừng đi,” chị yêu cầu
tôi với giọng khiêm tốn, gần như hạ mình. Kế đó, chị nói tiếp, để
thêm phần thuyết phục hoặc để tỏ rõ sự hờ hửng của chị. “Anh sắp gặp
Kathleen. Cô ấy là một cô gái khác thường. Anh sẽ thấy.”
Chống cự cũng vô ích: Kathleen và Shimon đây rồi.
“Chào Halina,” Kathleen nói, bằng tiếng Pháp nặng giọng nhấn
Mỹ.
“Chào Kathleen.” Halina trả lời, rõ ràng đang che dấu sự căng
thẳng trong lòng. “Để tôi giới thiệu một người bạn...”
Không một cử chỉ, không một chuyển động, không một tiếng nói,
Kathleen và tôi nhìn nhau hồi lâu như thể lập thành một giao cảm trực tiếp. Nàng
có khuôn mặt trái xoan, cân đối, đẹp lạ thường và não nùng. Mũi hênh
hếch làm nổi bật đôi môi gợi cảm. Đôi mắt hạnh nhân của nàng ngun
ngút lửa câm nín, thầm lặng: một hoả diệm sơn đang yên ngủ. Với
nàng, đây có thể là giao cảm thật sự. Và trong khoảnh khắc đó, hốt
nhiên tôi hiểu ra tại sao tiếng cười của Halina không còn tự nhiên nữa.
“Hai người quen nhau rồi sao?” Halina hỏi nàng với nụ cười gượng
gạo. “Hai người nhìn nhau như thể đã quen nhau.”
Shimon im lặng. Anh đang nhìn Kathleen.
“Vâng,” tôi trả lời.
“Cái gì?” Halina kêu lên, không tin hoàn toàn. “Cả
hai từng gặp nhau rồi ư?”
“Không,” tôi trả lời. “Nhưng chúng tôi đã biết
nhau.”
Hàng ria của Shimon gờn gợn sóng, khó có thể nhận
ra. Tình hình đang hồi hết sức căng thẳng thì đột nhiên chuông báo
reo lên. Đã hết giờ nghỉ. Khách sảnh bắt đầu thưa người.
“Sau buổi diễn này chúng ta đi xem gì nữa?” Halina hỏi.
“Chắc tôi không đi được,” Kathleen trả lời. “Có
người đang chờ tôi.”
“Còn anh?” Halina nhìn tôi, mắt mở lớn hun hút nỗi buồn cô lạnh.
“Không,” tôi trả lời. “Tôi phải gọi điện thoại. Chuyện
khẩn cấp.”
Halina và Shimon đi. Chỉ còn hai chúng tôi,
Kathleen và tôi.
“Anh nói được tiếng Anh không?” nàng hỏi tôi bằng tiếng Anh,
có vẻ gấp rút.
“Được.”
“Chờ tôi chút,” nàng nói.
Nàng bước lẹ tới người đàn ông đang đứng chờ phía đầu kia
khách sảnh, nói với người ấy mấy lời. Tôi vẫn còn cơ hội
đi. Nhưng tại sao tôi bỏ chạy? Và chạy đi
đâu? Sa mạc nơi nào cũng giống nhau thôi. Các linh hồn kẻ
chết ở đó. Và đôi khi chúng giả bộ dọa giết linh hồn những kẻ chưa
chết.
Vài giây sau Kathleen quay lại. Tôi thấy mặt nàng
thoáng vẻ bất cần và cả quyết, như thể nàng vừa thực hiện một hành động quan trọng
nhất đời mình. Người đàn ông vừa bị bỏ rơi và bị làm bẻ mặt vẫn đứng
đó, ngây người, không nhúc nhích, như bị một lời nguyền rủa giáng xuống.
Bên trong, màn đã kéo lên.
“Chúng ta đi,” Kathleen nói bằng tiếng Anh.
Tôi muốn hỏi nàng những câu bất tận, nhưng quyết định dành
chúng lại về sau.
“Vâng,” tôi nói. “Chúng ta đi.”
Chúng tôi vội vàng rời khách sảnh. Bỏ người đàn
ông ấy lại đằng sau, một mình. Rất lâu sau đêm ấy, tôi không dám
quay lại rạp hát này. Tôi sợ thấy người ấy vẫn đứng đó, đúng ngay chỗ
chúng tôi đã bỏ lại.
Chúng tôi bắt đầu cất bước. Trời lạnh. Cả
hai đi chầm chậm như để tỏ ra mình mạnh mẽ và cái lạnh chẳng thấm vào đâu.
Kathleen không khoác tay tôi và tôi không khoác tay
nàng. Nàng không nhìn tôi và tôi không nhìn nàng. Chân
chúng tôi bước đều nhịp, dù có lúc một trong hai đứa phải đột nhiên dừng lại, để
suy nghĩ hay để cầu nguyện.
Sau khi im lặng đi dọc bờ sông Seine trong một hoặc hai giờ,
chúng tôi băng qua cầu Châtelet, rồi khi tới giữa cầu Saint-Michel, tôi đứng lại,
nhìn xuống dòng sông. Kathleen bước thêm hai bước rồi cũng đứng lại.
Sông Seine in hình bầu trời và các cột đèn, lúc này để lộ cho
chúng tôi thấy bộ mặt mùa đông bí nhiệm của nó, cái sâu kín trầm lặng của nó,
nơi sự sống nào cũng tiêu tan, nơi ánh sáng nào cũng tắt lịm. Tôi
nhìn dòng sông và nghĩ tới ngày nào đó tôi sẽ lìa đời.
Kathleen tới sát tôi hơn, nàng sắp nói điều gì
đó. Tôi lắc đầu ra hiệu nàng đừng nói.
Chút sau tôi bảo nàng, “Đừng nói.”
Tôi còn đang nghĩ tới cái chết và tôi không muốn nàng nói với
tôi. Chỉ trong im lặng, nghiêng mình trên dòng sông mùa đông, lúc ấy
con người mới có thể thật sự nghĩ tới cái chết.
Ngày nọ, tôi hỏi bà nội mình, “Bà ơi, trong mùa đông, làm thế
nào kẻ dưới mồ giữ mình cho khỏi lạnh?”
Nội tôi là một phụ nữ mộc mạc, ngoan đạo, thường nói với tôi
rằng Thượng đế ở khắp mọi nơi, cả trong sự dữ, cả trong sự trừng phạt, cả trong
sự bất công. Không chuyện gì mà bà không cầu nguyện. Da
bà trắng như cát sa mạc. Đầu bà trùm chiếc khăn màu đen lớn thật lớn
mà dường như bà chẳng bao giờ cởi ra.
“Kẻ không quên Thượng đế thì chẳng bao giờ thấy lạnh trong mồ
của mình,” bà nói.
“Cái gì làm kẻ đó ấm?” tôi nằng nặc hỏi.
Giọng nói nhỏ nhẹ của bà trở thành tiếng thì thầm: bí mật
đây. “Chính Thượng đế.” Nụ cười làm khắp nơi trên khuôn mặt
bà sáng lên, sáng cho tới mép khăn trùm đầu đang rũ xuống giữa
trán. Bà vẫn cười như thế mỗi khi tôi đặt cho bà một câu hỏi có câu
trả lời rõ ràng.
“Vậy nghĩa là Thượng đế ở trong mồ với những người đàn ông và
đàn bà đang bị chôn dưới đó?”
“Đúng,” nội tôi quả quyết với tôi. “Chính ngài giữ
cho họ ấm.”
Tôi nhớ lúc ấy tôi chợt buồn lạ thường. Tôi cảm thấy
thương hại Thượng đế. Tôi nghĩ: ngài vô phước hơn con người, con người
chỉ chết một lần, con người chỉ bị chôn một lần trong mồ.
“Nội ơi, nói cho con biết, Thượng đế cũng chết sao?”
“Không. Thượng đế không bao giờ chết.”
Câu trả lời của bà như một cú trời giáng. Tôi cảm
thấy muốn khóc thét lên. Thượng đế bị chôn sống! Lúc đó
tôi thích đảo ngược các vai trò; tôi thích nghĩ rằng Thượng đế thì chết còn con
người thì không. Tôi thích nghĩ rằng, khi con người đóng kịch như thể
mình đang chết thì chính Thượng đế lại bị đất phủ lấp.
Kathleen chạm cánh tay tôi. Tôi giật nảy người.
“Đừng chạm tôi,” tôi bảo nàng. Tôi đang nghĩ tới
bà nội của tôi và ta không thể thật sự nhớ tới bà nội mình đã chết nếu ta không
cô độc, nếu một cô gái có mái tóc đen, đen như chiếc khăn trùm đầu của bà nội
tôi -- chạm vào cánh tay ta.
Bỗng dưng tôi nảy ra ý nghĩ rằng nụ cười của bà nội tôi có ý
nghĩa tương lai sắp lộ ra: bà biết rằng câu hỏi của tôi không dính dáng gì tới
bà, rằng bà sẽ không biết tới cái lạnh lẽo của nấm mồ. Thân xác bà sẽ
không bị chôn mà là được phó cho gió mang đi mọi hướng. Và chính
thân xác của bà -- thân xác màu trắng và đen của nội tôi -- quất lên mặt tôi,
như một trừng phạt vì tôi đang quên lãng. Không, nội ơi!
Không, cháu không quên. Hễ lúc nào lạnh là cháu nghĩ tới nội, cháu
chỉ nghĩ tới nội thôi.
“Nào,” Kathleen nói. “Chúng ta đi. Tôi
lạnh rồi.”
Chúng tôi lại cất bước. Gió cắt mặt mình nhưng
chúng tôi tiếp tục đi. Chúng tôi không bước nhanh
hơn. Sau cùng, chúng tôi dừng chân ở Đại lộ Saint Germain, phía trước
Deux-Magots.
“Tới nơi rồi,” nàng nói.
“Cô ở chỗ này?”
“Vâng. Anh muốn vào không?”
Tôi phải cưỡng lại mình để đừng nói không. Tôi rất
muốn ở bên nàng, cùng nàng trò chuyện, sờ vào tóc nàng, ngắm nàng lịm vào giấc
ngủ. Nhưng tôi sợ mình bị thất vọng.
“Vào đi,” Kathleen cả quyết.
Nàng mở cánh cửa nặng nề và chúng tôi bước lên cầu thang dẫn
tới căn hộ của nàng.
Tôi lạnh. Và tôi nghĩ tới bà nội của tôi, bộ mặt
bà trắng như cát sa mạc trong suốt, và chiếc khăn trùm đầu của bà đen như đêm
nghĩa trang tối mịt mùng.
Chương 2
2
Ai đó?”
Tôi gần như không nghe ra giọng nói của chính
mình. Hàng ngàn mũi kim đang tiêm lửa vào máu tôi. Tôi
khát. Tôi cảm thấy nóng bừng bừng. Cổ họng tôi khô
rang. Mạch máu tôi sắp nổ tung. Tuy thế cái lạnh không bỏ
tôi mà đi. Thể xác tôi, rúng động vì chứng co giật, run rẩy như cây
trong bão, như lá trong gió, như gió giữa biển, như biển trong đầu một gã khật
khùng, một tên say rượu, một kẻ hấp hối.
“Ai đó?” tôi hỏi thêm lần nữa trong khi răng đánh lập cập. Tôi
cảm thấy có ai đó trong phòng.
“Y tá,” một giọng không quen nói.
“Nước.” tôi nói. “Tôi khát. Cho tôi
chút nước.”
“Anh không được uống,” giọng ấy nói. “Anh sẽ cảm
thấy tệ hơn. Nếu uống vào anh sẽ ói ra.”
Bị trái ý, tôi thầm lặng khóc.
“Nào, bây giờ,” người y tá nói, “Tôi sắp dấp nước lên mặt
anh.”
Chị lau trán tôi, rồi lau môi tôi bằng khăn ướt. Chiếc
khăn bắt lửa khi chạm vào da tôi.
“Mấy giờ rồi?” tôi hỏi.
“Sáu giờ.”
“Ban đêm?”
“Vâng.”
Tôi nghĩ: lúc bác sĩ Russel tới gặp tôi trời mới sắp
trưa. Sáu mũi thuốc trụ sinh rồi mà tôi không để ý.
“Anh đau lắm phải không?” người y tá hỏi.
“Tôi khát.”
“Chính cơn sốt làm anh khát.”
“Có phải tôi vẫn sốt cao?”
“Phải.”
“Cao tới đâu?”
“Cao.”
“Tôi muốn biết.”
“Tôi không được phép nói cho anh biết. Đó là luật.”
Cửa mở. Ai đó vào. Tiếng thì thầm.
“Sao, anh bạn? Anh nói gì đây?”
Bác sĩ Russel cố làm ra vẻ tình cờ.
“Tôi khát, thưa bác sĩ.”
“Kẻ thù không chịu rút lui,” anh nói. “Nhượng bộ
hay không là tùy anh.”
“Anh ta sẽ thắng, thưa bác sĩ. Anh ta không chết
vì khát đâu.”
Tôi nghĩ: chắc bà nội của tôi hiểu. Chính cái nóng
trong căn phòng khô nước, không dưỡng khí. Chính cái nóng trong căn
phòng mà thể xác sống động của bà bị các thể xác sống động khác xô tới đẩy
lui. Cũng như tôi, chắc bà đã há miệng để hớp không khí, để uống nước. Nhưng
chỗ của bà không nước cũng chẳng không khí. Bà chỉ đang uống, đang hớp
cái chết, như ta uống nước, hớp không khí, miệng há ra, mắt nhắm lại, các ngón
tay co quặp vào nhau.
Đột nhiên tôi cảm thấy cần nói lớn tiếng, cần lạ
lùng. Để kể lại câu chuyện cuộc sống và cái chết của bà nội tôi, để
tả lại chiếc khăn trùm đầu màu đen mà bà thường dọa cho tới lúc tôi hoàn hồn nhờ
vẻ mặt mộc mạc và ân cần của bà. Bà nội tôi là nơi lánh nạn của
tôi. Hễ bao giờ tôi bị cha tôi gắt gỏng là bà can thiệp: mấy ông bố
đều như thế cả, bà vừa cắt nghĩa vừa cười. Họ nổi giận chẳng đâu vào
đâu.
Ngày nọ cha tôi bạt tai tôi. Tôi ăn cắp ít tiền
trong hộc tiền nơi quầy hàng, để cho một bạn học cùng lớp. Nó là một
đứa trẻ nghèo khổ bệnh tật. Chúng bạn gọi nó là Haim trẻ mồ
côi. Thấy mặt nó là tôi cảm thấy người mình xốn xang khó chịu. Tôi
biết mình hạnh phúc hơn nó và điều đó khiến tôi cảm thấy mình có tội. Mắc
cái tội cha mẹ mình còn sống. Vì thế tôi ăn cắp tiền. Nhưng
khi cha tôi căn vặn, cố tìm cho ra tôi dùng tiền đó để làm gì thì tôi không nói
cho ông biết. Nói cho cùng, tôi không thể kể với cha tôi rằng tôi cảm
thấy mình có tội vì ông còn sống! Ông vã vào mặt tôi và tôi chạy tới
bà nội. Tôi có thể kể cho bà nghe hết sự thật. Bà không gắt
gỏng tôi. Đang ngồi giữa phòng, bà kéo tôi lên đùi bà và bà bắt đầu
khóc rấm rứt. Nước mắt bà nhỏ xuống đầu tôi dù bà đang cố nén lại
trong lồng ngực mình, và tôi ngạc nhiên khám phá ra rằng những giọt nước mắt của
bà nội tôi nóng hổi, chúng lăn qua nơi nào là đốt cháy mọi sự ở nơi đó.
“Bà ấy tới,” bác sĩ nói. “Bà ấy đang ở bên
ngoài. Trong hành lang. Anh có muốn bà ấy vào không?”
Với sức mạnh phát xuất từ lòng sợ hãi của mình, tôi kêu lên,
“Không, tôi không muốn, tôi không muốn.”
Tôi nghĩ là bác sĩ đang nói tới bà nội của
tôi. Tôi không muốn gặp bà. Tôi biết bà đã chết -- có thể
là chết khát -- và tôi sợ bà sẽ không giống như trong trí nhớ của
tôi. Tôi sợ bà sẽ không quấn chiếc khăn trùm đầu màu đen, cũng sẽ
không có những giọt nước mắt nóng hổi trong mắt, không có vẻ mặt sáng sủa, tĩnh
lặng làm ta quên rằng mình đang lạnh,
“Anh nên gặp bà ấy,” người bác sĩ nói, giọng dịu dàng.
“Không! Không phải lúc này.”
Nước mắt của tôi đóng thành vệt trên má tôi, trên môi tôi,
trên cằm tôi. Thỉnh thoảng, chúng còn cố chui xuống dưới khuôn mặt
tôi. Tại sao tôi khóc? Tôi không biết. Tôi
nghĩ đó là vì bà nội của tôi. Bà hay khóc. Bà khóc khi bà
hạnh phúc và khóc cả khi bà không hạnh phúc. Khi bà không hạnh phúc
hoặc không bất hạnh thì bà khóc vì bà không còn cảm thấy mọi sự đem tới hạnh
phúc hay bất hạnh. Tôi muốn chứng tỏ với bà là tôi thừa hưởng những
giọt nước mắt của bà, như đã được di chúc, chuyện gì cũng khóc.
“Tùy anh,” người bác sĩ nói. “Ngày mai Kathleen trở
lại cũng được.”
Kathleen! Nàng dính dáng gì tới chuyện này? Làm
sao nàng gặp bà nội của tôi? Bộ nàng cũng chết rồi sao?
“Kathleen?” tôi nói, ngã đầu xuống gối. “Cô ấy
đâu?”
“Bên ngoài,” người bác sĩ nói, có vẻ ngạc
nhiên. “Nơi hành lang.”
“Để cô ấy vào đi.”
Cửa mở và tiếng chân nhè nhẹ bước tới bên giường. Thêm
lần nữa tôi cố hết sức mở mắt nhưng cảm thấy mi mắt mình bị may dính lại.
“Em khoẻ không, Kathleen?” tôi hỏi bằng giọng rành mạch.
“Khoẻ.”
“Em thấy: anh là nạn nhân mới nhất của Dmitri Karamazov.”
Nàng cố hé miệng cười.
“Anh có lý. Cuốn phim đó dở.”
“Thà chết còn hơn xem nó.”
Tiếng cười của Kathleen có vẻ giả tạo.
“Em đang nói quá...”
Tôi thì thầm. Bác sĩ đang nói với nàng, rất dịu
dàng.
“Em phải rời anh,” Kathleen nói, giọng rất luyến tiếc.
“Cẩn thận khi băng qua đường.”
Nàng cúi xuống hôn tôi. Nỗi sợ xưa cũ chụp lên
tôi.
“Em đừng hôn anh, Kathleen!”
Nàng đột ngột rụt đầu lại. Trong thoáng chốc, căn
phòng yên lặng. Kế đó tôi cảm thấy bàn tay nàng trên trán
tôi. Tôi sắp nói với nàng hãy rụt tay lại, đừng liều mà phỏng lửa,
nhưng nàng đã rụt tay lại rồi.
Kathleen nhón bước ra khỏi phòng, theo chân bác
sĩ. Người y tá ở lại với tôi. Tôi thật sự muốn biết người
y tá trông ra sao: già hay trẻ, đẹp hay ủ rũ, tóc hung hay ngăm đen... Nhưng
tôi vẫn không động đậy nổi mi mắt. Mọi cố gắng mở chúng ra đều vô
ích. Có lúc tôi tự nhủ rằng ra sức nhướng lên thì không đủ, mình phải
dùng tới hai bàn tay. Nhưng tay tôi bị cột chặt vào hai bên giường
và vẫn còn đó các cây kim lớn.
“Tôi sẽ tiêm cho anh hai mũi thuốc,” người y tá tuyên bố bằng
một giọng mà khi nghe tôi chẳng đoán ra được gì.
“Hai? Tại sao hai?”
“Mũi thứ nhất, trụ sinh. Và mũi thứ hai, giúp anh
thiếp ngủ...”
“Chị không có mũi thứ ba trị cơn khát sao?” Lúc
này tôi khó thở. Phổi tôi sắp nổ tung, như chiếc ấm khô nước bị bỏ
quên trên bếp lửa.
“Anh sẽ ngủ. Anh sẽ không khát.”
“Tôi sẽ không mơ thấy mình khát ư?”
Người y tá kéo mền lên. “Tôi sẽ cho anh một mũi trị
các giấc mơ.”
Chị thật dễ thương, tôi nghĩ. Tim chị làm bằng
vàng. Chị đau khổ khi tôi đau khổ. Chị yên lặng khi tôi
khát. Chị yên lặng khi tôi ngủ. Có lẽ chị tươi trẻ, xinh
đẹp, quyến rũ. Chị có nét mặt nghiêm trang và có đôi mắt đang cười. Chị
có cái miệng gợi cảm, được tạo ra để hôn, không để chuyện trò. Giống
như đôi mắt của bà nội tôi, đôi mắt ấy không dùng để nhìn, không dùng để ngỡ
ngàng, mà chỉ dùng để khóc.
Mũi thứ nhất. Không có gì. Tôi không cảm
thấy nó. Mũi thứ hai, mũi này ở cánh tay. Vẫn không có
gì, Tôi đau trong người quá tới độ không cảm nhận được mũi thuốc
tiêm vào.
Người y tá sửa lại mền, đặt các mũi kim vô hộp thiếc, dời ghế
và xoay núm đèn.
“Tôi tắt đèn đây,” chị nói. “Anh sẽ ngủ ngay
thôi.”
Đột nhiên tôi có ý nghĩ chắc chị cũng muốn hôn tôi trước khi
đi ra. Chỉ là một nụ hôn thoáng chút ý nghĩa trên trán hoặc trên má,
cũng có thể trên mi mắt. Người ta thường làm như thế ở nhà
thương. Một nữ y tá tốt bụng hôn người bệnh khi chị chúc ngủ
ngon. Không phải trên miệng. Trên trán, trên
má. Nụ hôn ấy làm yên lòng người bệnh. Người bệnh nghĩ rằng
nếu có một phụ nữ muốn hôn mình tức là bệnh mình không tới nổi tệ lắm. Người
bệnh không biết rằng miệng của người nữ y tá được tạo ra không để nói, cũng
không để khóc mà là để giữ im lặng và để hôn người bệnh, cho họ thiếp ngủ mà
không sợ hãi, không sợ hãi bóng tối.
Thêm lần nữa, khắp người tôi ướt đẫm mồ hôi.
“Chị đừng hôn tôi,” tôi thì thào.
Người y tá cười thân thiện.
“Dĩ nhiên không. Nó làm anh khát.”
Rồi chị rời phòng. Và tôi chờ mình thiếp ngủ.
Kể cho tôi nghe đôi chút về anh,” Kathleen nói,
Chúng tôi ngồi trong căn phòng ấm áp dễ chịu của
nàng. Chúng tôi lắng nghe một bài ca vãn điệu Gregorian đang trào
dâng trong lòng mình. Nhạc đó và lời đó chan chứa sự an bình không
bão tố nào có thể lay động.
Trên bàn nhỏ, hai chiếc tách của chúng tôi vẫn chưa cạn. Cà
phê đã nguội. Khung cảnh nửa tối nửa sáng làm tôi nhắm mắt mình lại. Cảm
giác mệt lã đè nặng lên người tôi từ lúc chập tối nay hoàn toàn tan biến. Thần
kinh tôi căng thẳng, tôi biết rằng một khi thời khắc này đã đi qua cuộc đời tôi
thì sẽ mang theo với nó một phần con người tôi.
“Kể cho tôi nghe,” Kathleen nói. “Tôi muốn biết về
anh.”
Nàng ngồi bên phải tôi, chân xếp bằng tròn, trên ghế xa-long
màu nâu nhạt. Trong không khí bềnh bồng một giấc mơ đang tìm chỗ đậu.
“Tôi cảm thấy không thích làm như vậy,” tôi trả lời. “Tôi
cảm thấy không thích nói về mình.”
Nói về mình, thật sự nói về mình, tôi chắc phải kể câu chuyện
bà nội của tôi. Tôi cảm thấy không thích diễn tả câu chuyện đó thành
lời nói: chỉ có thể diễn tả bà bằng những câu kinh.
Sau chiến tranh, khi tôi tới Paris, tôi thường, rất thường,
bị thúc giục kể lại. Tôi từ chối. Tôi tự bảo mình rằng những
kẻ đã chết không cần qua chúng tôi mới được nghe tới. Họ ít rụt rè
hơn chúng tôi. Hổ thẹn không bám riết lấy họ trong khi tôi thì rụt
rè và hổ thẹn. Sự hổ thẹn không dằn vặt những kẻ hành quyết mà dằn vặt
những nạn nhân của họ, đó là cách đã và đang xảy ra cho chúng tôi. Hổ
thẹn lớn lao nhất là mình bị số mệnh chọn lựa. Con người ưa qui
trách cho mình hết thảy những tội lỗi và tội ác có thể xảy tới cho mình hơn là
rút ra kết luận rằng chính Thượng đế là cái khả năng bất công hiển nhiên nhất. Tôi
vẫn đỏ mặt hổ thẹn mỗi lần nghĩ đến cách mà Thượng đế đùa cợt loài người, những
đồ chơi ưu ái của ngài.
Có lần tôi hỏi Kalman nhà huyền học, ông thầy của tôi, câu hỏi
như sau: Thượng đế tạo dựng con người vì mục đích gì? Con
hiểu rằng con người cần Thượng đế, nhưng Thượng đế cần gì nơi con người?
Ông thầy của tôi nhắm đôi mắt lại, và một ngàn vết thương,
các mạch máu bị tê liệt vì những sự thật làm choáng váng kinh hoàng, vẽ thành
cung mê mờ mịt trên vầng trán ông. Sau đôi phút trầm ngâm, môi ông
hé mở thành một nụ cười tinh tế và rất xa vời.
“Sách Thánh dạy chúng ta,” ông nói, “rằng khi con người ý thức
những quyền năng của nó thì nó sẽ mất đức tin hoặc mất lý trí của
nó. Vì con người mang trong nó một vai trò vượt quá chính
nó. Thượng đế cần con người để là đấng độc nhất. Đấng Cứu
thế, kẻ được kêu mời đến để giải phóng con người, chỉ có thể được giải phóng bởi
con người. Chúng ta biết rằng không chỉ con người và vũ trụ được giải
phóng mà còn đấng độc nhất lập ra các lề luật của con người và các quan hệ của
con người cũng được giải phóng. Đấng ấy đi theo con người -- kẻ
không là gì cả ngoài một nắm đất -- kẻ có khả năng tái hiệp nhất thời gian và cội
nguồn của thời gian, và trả lại cho Thượng đế hình ảnh thật của chính ngài.”
Thuở đó, tôi quá trẻ, không hiểu nổi ý nghĩa những lời nói đó
của thầy tôi. Ý nghĩ rằng sự hiện hữu của Thượng đế có thể kết chặt
với sự hiện hữu của tôi làm lòng tôi chan chứa nỗi tự hào khốn khổ cùng với niềm
thương cảm sâu xa.
Vài năm sau, tôi thấy những người công chính và ngoan đạo vừa
bước tới cái chết của chính mình vừa hát, “Với lửa của chúng tôi, chúng tôi sắp
bẻ gãy xiềng xích của Đấng Cứu thế nơi lưu đày.” Chính lúc ấy, những
ngụ ý có tính cách tượng trưng trong những gì thầy tôi nói đó làm tôi choáng
váng. Vâng, Thượng đế cần con người. Bị kết án cô đơn
vĩnh viễn, ngài tạo ra con người để dùng nó làm đồ chơi, để làm mình thích
thú. Đó là điều mà các nhà triết lý và các nhà thơ không chịu thừa
nhận: từ thuở bắt đầu, đã không có Ngôi Lời, không có Tình Yêu, chỉ có tiếng cười
náo nhiệt, bất tận mà các âm vang của nó còn giả tạo hơn cả những ảo tượng
trong sa mạc.
“Tôi muốn biết về anh”, Kathleen nói.
Nét mặt nàng ảm đạm. Giấc mơ tan loảng rồi vì tìm
không ra chỗ đậu. Tôi nghĩ: giấc mơ đó có thể đã nhập vào đôi mắt
đang mở lớn của nàng. Nhưng các giấc mơ thì không bao giờ từ bên
ngoài nhập vào.
“Cô có thể kết thúc với lòng thù hận tôi,” tôi bảo nàng.
Nàng lại càng siết cái bằng tròn vô chặt hơn dưới người
mình. Cả con người nàng co rút lại, thành nhỏ hơn, như thể thân thể
nàng muốn đi theo giấc mơ đó và cùng tan biến với nó.
“Tôi sẽ có dịp,” nàng trả lời.
Nàng sẽ thù hận tôi, tôi nghĩ. Chuyện đó không
tránh được. Cái đã xảy ra thì rồi lại xảy ra. Nguyên nhân
giống nhau thì đưa tới hậu quả giống nhau và hận thù giống nhau. Sự
lặp lại là một thành tố quyết định trong khía cạnh bi thảm của thân phận chúng
ta.
Tôi không biết tên người đàn ông đầu tiên công khai thét lên
là thù hận tôi, cũng chẳng biết ông ta là ai. Ông tiêu biểu cho hết
thảy những người không tên không mặt sống trong vũ trụ của linh hồn những kẻ đã
chết.
Lúc đó, tôi đang trên con tàu vượt biển đi Nam
Phi. Chuyến đầu tiên tôi gặp gỡ biển cả. Hầu hết thời
gian, tôi ở trên boong, đăm đăm nhìn những con sóng không mệt mỏi đào những huyệt
mộ xong chỉ để lại lấp đầy. Khi còn bé, tôi tìm kiếm Thượng đế vì
tôi mường tượng ngài vĩ đại và quyền uy, bao la và vô tận. Biển cho
tôi hình ảnh đó. Giờ đây, tôi đã hiểu Narcissus: hắn không té xuống
giếng. Hắn nhảy vào lòng giếng. Vào lúc khát vọng của tôi
được làm một với biển trở nên mãnh liệt thì tôi chỉ muốn nhảy từ mạn tàu xuống
lòng biển.
Tôi chẳng có gì để mất, chẳng có gì để tiếc. Tôi
không ràng buộc vào thế giới của loài người. Tất cả những gì tôi
quan tâm đã bị tan thành khói. Ngôi nhà nhỏ với tường vách rạn nứt,
nơi lũ trẻ và người già lầm rầm khấn nguyện hoặc học bài dưới ánh sáng hiu hắt
của ngọn nến, đã không còn gì nữa ngoài tro than. Ông thầy của tôi,
người đầu tiên dạy tôi rằng sự sống là một mầu nhiệm, rằng bên kia ngôn từ là sự
im lặng, ông thầy của tôi, người lúc nào cũng phải nâng đầu mình lên như thể
không dám đối mặt với thiên đàng -- vị thầy của tôi đã từ lâu bị thu lại thành
một nhúm tro tàn. Và em gái của tôi, đứa em chế giễu tôi vì tôi
không bao giờ nô đùa với nó, vì tôi rất đạo mạo, quá đạo mạo, đứa em gái đó
không còn cười giỡn nữa.
Chính người lạ ấy, kẻ không quen biết, kẻ không chủ ý, đêm đó
đã ngăn tôi không bỏ cuộc. Khi tôi đang đứng bên lan can trên boong
thì ông - từ một nơi nào đó tôi không biết - bước tới đằng sau tôi, và bắt đầu
trò chuyện với tôi. Ông là một người Anh.
“Đêm đẹp quá,” ông nói, tì người vào lan can ngay bên phải
tôi, gần như chạm vào người tôi.
“Rất đẹp,” tôi trả lời lạnh lẽo.
Tôi nghĩ: đêm tuyệt đẹp để nói lời vĩnh biệt với những kẻ lừa
đảo, với những trung kiên đã trở thành dao động, với những lý tưởng đang hàm ý
phản bội, với thế giới này nơi không còn chỗ cho những gì mang tính người, với
lịch sử dẫn đến sự hủy hoại của linh hồn thay vì phát huy các uy lực của nó!
Người lạ ấy không cảm thấy sợ bởi trạng thái rầu rĩ buồn bực
của tôi. Ông tiếp tục: “Bầu trời gần với biển quá tới độ thật khó
nói cái nào phản ánh trong cái nào, cái nào cần tới cái nào, vì cái này đang chế
ngự cái kia.”
“Đúng vậy,” tôi lại thờ ơ trả lời.
Ông ngừng một chút. Tôi có thể thấy nét mặt nhìn
nghiêng của ông: gầy, sắc, thanh nhã.
“Nếu bầu trời và biển cả lâm chiến,” ông tiếp tục, “tôi hẳn về
phe của biển. Bầu trời chỉ tạo hứng cho các họa sĩ. Không
gây hứng khởi cho các nhạc sĩ. Trong khi biển... Anh có cảm thấy biển
tới gần con người qua âm nhạc của nó?”
“Có thể,” tôi trả lời với vẻ thù nghịch.
Ông lại ngừng nói, như thể đang tự hỏi có nên để tôi ở lại một
mình. Rồi ông quyết định mở miệng.
“Làm điếu thuốc?” ông hỏi, móc bao thuốc lá ra.
“Không, cám ơn. Tôi cảm thấy không thích hút.”
Ông thắp thuốc và ném que diêm qua mạn tàu: một ngôi sao băng
bị bóng tối nuốt chửng.
“Họ đang khiêu vũ bên trong,” ông nói. “Sao anh
không tham gia với họ?”
“Tôi cảm thấy không thích khiêu vũ.”
“Anh thích ở một mình với biển, phải không?”
Giọng ông đột nhiên biến đổi. Nó trở thành riêng
tư hơn, ít đại loại hơn. Tôi không nhận ra là con người có thể thay
đổi giọng nói của mình như thể thay đổi mặt nạ.
“Vâng, tôi thích được ở một mình với biển,” tôi cáu kỉnh trả
lời, nhấn mạnh tiếng “một mình.”
Ông bập bập mấy hơi thuốc.
“Biển. Biển khiến anh nghĩ tới cái gì?”
Tôi lưỡng lự. Sự kiện rằng ông được bóng tối bao
che, rằng tôi không biết ông, rằng có thể sáng mai trong phòng ăn tôi không còn
nhận ra ông, đã tạo thế thượng phong cho ông. Nói chuyện với một người
lạ thì cũng như nói chuyện với các ngôi sao: nó không gây hệ lụy cho ta.
“Biển,” tôi nói, “khiến tôi nghĩ tới cái chết.”
Tôi có cảm tưởng ông mỉm cười.
“Tôi biết điều đó.”
“Làm sao ông biết?” tôi hỏi, chưng hửng.
“Biển có sức mê hoặc rất mạnh. Tôi năm mươi tuổi
và đi du lịch đã ba mươi năm. Tôi biết tất cả các đại dương trên thế
giới. Tôi biết. Người ta không nên nhìn sóng biển quá
lâu. Nhất là vào ban đêm. Nhất là khi một mình.”
Ông kể tôi nghe chuyến đi đầu tiên của ông. Vợ ông
cùng đi với ông. Cả hai mới thành hôn. Một đêm để lại vợ
mình đang ngủ, ông lên boong tìm chút khí trời. Ở đó, ông nhận ra được
sức mạnh kinh hoàng của biển trên những kẻ đang nhìn thấy trong biển hình bóng
biến chất của mình. Ông đang hạnh phúc và trẻ; tuy thế ông cảm thấy
có một nhu cầu không cưỡng nổi là nhảy xuống biển, để được mang đi hoài đi mãi
theo các con sóng đang gầm thét, đang gợi lên sự vĩnh cữu, bình an, bất tận,
hơn bất cứ cái gì khác.
“Tôi có ý nói với anh,” ông lặp lại rất dịu
dàng. “Người ta không nên nhìn biển quá lâu. Không một
mình và không vào ban đêm.”
Lúc đó tôi cũng bắt đầu kể cho ông nghe những gì về bản thân
tôi. Biết rằng ông từng nghĩ tới cái chết và từng bị quyến rũ bởi bí
mật của nó, tôi cảm thấy gần gủi ông hơn. Tôi kể cho ông nghe
những gì tôi chưa hề kể với ai. Thời thơ ấu, các giấc mơ bí nhiệm,
những đam mê tôn giáo, các hồi ức của tôi về những trại tập trung của Đức, niềm
tin của tôi rằng mình lúc này chính là sứ giả của kẻ đã chết giữa những người
đang sống...
Tôi nói hàng giờ. Ông lắng nghe, ép sát người vô
lan can, không ngắt lời tôi, không nhúc nhích, không rời mắt khỏi bóng tối đang
chạy theo con tàu. Thỉnh thoảng ông đốt thuốc, và cả những lúc tôi dừng
lại giữa một ý nghĩ hoặc một câu, ông cũng không nói gì.
Thỉnh thoảng tôi bỏ lửng một câu, nhảy từ đoạn chuyện này qua
đoạn chuyện khác, hoặc mô tả một nhân vật bằng chỉ một chữ mà không đề cập gì tới
tình tiết liên quan đến nhân vật đó. Người lạ ấy cũng không yêu cầu
tôi giải thích. Đôi khi, tôi nói rất nhỏ, quá nhỏ tới độ ông không
thể nào nghe ra một tiếng trong điều tôi đang nói; nhưng ông vẫn bất động và im
lặng. Ông dường như không dám để mình hiện hữu ngoài cõi im lặng.
Chỉ đến lúc tàn đêm ông mới lấy lại được khả năng
nói. Giọng nói của ông, sau một thời gian câm nín, nay hóa ra khàn đục. Giọng
nói của một người đàn ông, một mình trong đêm, nhìn xuống biển, nhìn vào cái chết
của chính mình.
“Anh phải biết điều này,” sau cùng ông nói. “Tôi
nghĩ tôi sắp căm thù anh.”
Người lạ ấy ngữa đầu ra sau như thể để lấy làm chắc chắn rằng
bầu trời vẫn còn ở đó. Đột nhiên, ông bắt đầu đấm mạnh lên lan can bằng
nắm tay siết thật chặt. Và với giọng nói sâu thẳm, bị nén lại, ông lặp
đi lặp lại mãi chỉ một câu, “Tôi sắp căm thù anh... Tôi sắp căm thù anh...”
Rồi ông quay lưng đi thẳng.
Một luồng sáng làm chân trời rạng lên. Biển trầm lặng,
con tàu lơ mơ ngủ. Sao trời bắt đầu biến mất. Đã tới rạng
đông.
Tôi ở trên boong tàu suốt ngày. Đêm sau, tôi trở lại
đúng chỗ đó. Người lạ ấy không bao giờ đến với tôi nữa.
“Tôi sẽ có dịp,” Kathleen nói.
Tôi đứng lên, đi mấy bước quanh phòng cho giãn
chân. Tôi dừng lại bên cửa sổ và nhìn ra ngoài. Lối đi
băng qua đường phủ đầy tuyết. Một nỗi khổ não lạ lùng bao phủ lấy
tôi. Mồ hôi lạnh ướt đẫm trán. Thêm lần nữa, đêm cất gánh
nặng lên và ngày sẽ tới. Tôi sợ ban ngày. Trong đêm. tôi
nhận thấy mọi bộ mặt đều quen thuộc, mọi âm thanh đều giống những gì tôi đã từng
nghe. Suốt ngày, tôi chỉ đụng phải những cái xa lạ.
“Anh có biết Shimon Yanai kể gì với tôi về anh không?”
Kathleen hỏi.
“Tôi không có ý kiến.”
Shimon có thể đã kể gì với nàng? Anh ấy biết gì về
tôi? Không gì cả. Anh ấy không hiểu rằng hễ bao giờ tôi cảm
thấy mình bị hoàng hôn cuốn đi thì tâm hồn tôi chất ngất những hoài tưởng về
Sighet, thành phố nhỏ thời thơ ấu của tôi; tim tôi đập thình thình, rất mạnh, rất
nhanh, tới độ suốt tuần lễ sau đó tôi vẫn không lấy lại được nhịp thở bình thường;
anh không biết rằng tôi xúc động bởi một giai điệu Do thái, nó mang con người
tôi về lại cội nguồn của mình còn hơn tất cả Bach, Beethoven và Mozart cộng lại;
anh không thể biết rằng khi tôi nhìn một phụ nữ thì lúc nào tôi cũng thấy trong
đó hình ảnh của bà nội mình.
“Shimon Yanai nghĩ rằng anh là một vị thánh,” Kathleen nói.
Câu trả lời của tôi là một chuỗi cười lớn, không nín lại được.
“Shimon nói rằng anh đã đau khổ vô vàn. Chỉ có các
vị thánh mới đau khổ vô vàn.”
Tôi không thể ngừng cười. Tôi xoay người về phía
Kathleen, về đôi mắt nàng, đôi mắt được tạo ra không phải để nhìn, không phải để
khóc, nhưng để nói, và có lẽ để làm người ta cười. Nàng rụt cằm vào
trong cổ áo len, dấu đôi môi đang run rẩy.
“Tôi, một vị thánh? Thật tức cười...”
“Tại sao anh cười...”
“Tôi đang cười,” tôi trả lời mà người vẫn còn
rung. “Tôi cười vì tôi không phải là một vị thánh. Các vị
thánh không cười. Các vị thánh là những kẻ đã chết. Bà nội
của tôi là một vị thánh: bà đã chết. Ông thầy của tôi là một vị
thánh: ông đã chết. Còn tôi, nhìn tôi đây, tôi hãy còn sống. Và
tôi đang cười. Tôi còn sống và tôi đang cười vì tôi không phải là một
vị thánh...”
Ban đầu, có một thời gian khó khăn lắm tôi mới quen được với
ý tưởng rằng mình còn sống. Tôi nghĩ về mình như một kẻ đã chết. Tôi
không ăn được, đọc được, khóc được: tôi thấy bản thân mình đã chết. Tôi
nghĩ rằng mình đã chết, tới độ trong các giấc mơ, tôi tưởng tượng bản thân mình
còn sống. Tôi biết tôi không còn hiện hữu, rằng cái tôi thật sự của
tôi đã ở lại nơi đó, rằng cái tôi hiện tại của tôi không có gì giống với cái
tôi kia, cái con người thật sự. Tôi nay như rắn đã lột da.
Rồi ngày nọ, trên đường phố, một phụ nữ lớn tuổi yêu cầu tôi
đến phòng bà. Bà quá già, quá khô kiệt, tới độ tôi không nén nổi tiếng
cười. Bà già ấy tái người và tôi nghĩ rằng bà sắp ngã quị dưới chân
tôi.
“Cậu không có chút lòng thương xót nào sao?” bà nói bằng giọng
nghẹn ngào.
Lúc đó, bỗng dưng thực tại làm tôi choáng váng: tôi còn sống,
đang cười, đang giễu cợt một bà già bất hạnh, tôi có thể sỉ nhục và làm tổn
thương một bà già, giống như các vị thánh, khạc nhổ trên hình hài của chính họ,
“Đau khổ dẫn tới nơi nào?” Kathleen hỏi một cách căng thẳng. “Không
dẫn tới thánh tính sao?”
“Không!” tôi la lớn.
Tiếng la làm cơn cười của tôi ngưng lại. Tôi đang
nổi giận. Tôi rời cửa sổ và bước tới đứng trước mặt nàng; nàng lúc
này ngồi bệt dưới sàn nhà, đầu tì trên hai cánh tay đang bó gối.
“Những kẻ nói như vậy là tiên tri giả,” tôi nói.
Tôi phải cố gắng lắm mới không thét lên, không đánh thức cả
ngôi nhà và những kẻ đã chết đang chờ bên ngoài, trong gió và trong mưa tuyết. Tôi
tiếp tục:
“Đau khổ phơi ra tính cách hèn hạ nhất, tính cách khiếp nhược nhất
trong con người. Đau khổ có một giai đoạn mà qua tới bên kia giai đoạn
đó, cô trở thành kẻ tàn bạo: bên kia giai đoạn đó, cô bán linh hồn
cô -- và tệ hơn nữa, linh hồn các bằng bữu của cô -- vì một miếng bánh mì, một
chút ấm áp, vì một khoảnh khắc lãng quên, một giấc ngủ. Các vị thánh
là những kẻ đã chết trước giờ phút câu chuyện kết thúc. Những người
khác, những người mà số mệnh để cho sống sót, họ không còn dám soi mình trong
gương, họ sợ mình có thể thấy một hình ảnh bên trong con người của chính mình:
một con quái vật đang nhạo báng các phụ nữ bất hạnh và các vị thánh, những kẻ
đã chết...”
Kathleen lắng nghe, sửng sờ, mắt mở to. Khi tôi
nói, nàng khòm lưng xuống sâu hơn. Đôi môi tái nhợt thầm thì không
ngừng chỉ một câu, “Nói tiếp đi! Tôi muốn biết thêm nữa. Nói nữa đi!”
Kế đó tôi rủ người xuống, ôm đầu nàng trong hai lòng bàn tay
mình và nhìn thẳng vào mắt nàng, tôi kể nàng nghe câu chuyện của bà nội tôi, rồi
câu chuyện của em gái tôi, của cha tôi và của mẹ tôi; bằng những lời rất mộc mạc,
tôi tả lại cho nàng làm thế nào người ta trở thành một nấm mồ cho kẻ đã chết mà
chưa chôn.
Tôi tiếp tục nói. Trong từng chi tiết, tôi tả lại
những tiếng thét và những ác mộng tôi thường nghe thường thấy khi đêm về. Và
Kathleen, xanh xao tái nhợt, đôi mắt ửng đỏ, tiếp tục van nài:
“Nữa! Tiếp tục đi! Nữa!”
Nàng nói tiếng “Nữa” bằng giọng rạo rực của một phụ nữ muốn
kéo dài cơn khoái cảm của mình, nài nỉ người đàn ông nàng yêu đừng ngưng lại, đừng
buông nàng, đừng làm nàng thất vọng, đừng bỏ rơi nàng lưng chừng giữa con đường
ngất ngây và hư không. “Nữa...Nữa...”
Tôi tiếp tục nhìn nàng và giữ nàng trong tay. Tôi
muốn vứt bỏ tất cả rác rưởi ở trong tôi, ghép nó lên đôi con ngươi và đôi môi
nàng, mắt môi nàng tinh khiết quá, thơ ngây quá và đẹp tuyệt vời.
Tôi thổ lộ linh hồn tôi. Những ý nghĩ và những dục
vọng đê tiện nhất, những phản bội đau đớn nhất, những điêu ngoa mập mờ nhất của
tôi. Tôi bóc trần chúng ra khỏi bên trong tôi và đặt chúng xuống trước
mặt nàng, như một hiến vật uế tạp, để nàng có thể nhìn ngó chúng và ngửi mùi thối
rửa của chúng.
Nhưng Kathleen đang uống từng tiếng trong lời tôi nói như thể
nàng muốn tự trừng phạt vì trước đây mình chưa từng đau khổ. Thỉnh
thoảng, nàng nhắc lui nhấn tới, cũng bằng một giọng rạo rực đó, rất giống tiếng
kêu của một kỹ nữ về già, “Nữa...Nữa...”
Cuối cùng, tôi dừng lại, mệt lã. Tôi ngã vật người
trên thảm và nhắm mắt.
Trong một khoảng thời gian rất lâu chúng tôi không nói năng:
một giờ, có lẽ hai giờ. Tôi hết hơi. Người tôi ướt đẫm mồ
hôi, áo sơ-mi dán sát người. Kathleen không nhúc
nhích. Bên ngoài, đêm đang nhẹ nhàng xê dịch.
Đột nhiên chúng tôi nghe tiếng động chiếc xe của người giao sữa
tới trên đường phố. Xe dừng lại gần cửa.
Kathleen thở vào thật sâu và nói, “Tôi cảm thấy muốn xuống đường
hôn người giao sữa.”
Tôi không trả lời. Tôi chẳng còn hơi sức.
“Tôi muốn hôn ông ta,” Kathleen nói, “chỉ để cám ơn ông
ta. Cám ơn ông ta vì mình còn sống.”
Tôi im lặng.
“Anh không nói gì cả.” Giọng nàng có vẻ ngạc
nhiên. “Anh không cười sao?”
Và trong lúc tôi vẫn không nói gì, nàng bắt đầu vỗ về tóc
tôi, rồi các ngón tay của nàng mân mê những đường nét trên khuôn mặt
tôi. Tôi thích cách nàng đang vuốt ve tôi.
“Tôi thích cô chạm vào người tôi,” tôi bảo nàng, mắt vẫn nhắm. Sau
một chút ngại ngần, tôi thêm, “Cô thấy, đây là bằng chứng tốt nhất rằng tôi
không phải là một vị thánh. Về mặt này, các thánh giống như những kẻ
đã chết, họ không biết thèm muốn.”
Tiếng nói của Kathleen nhẹ hơn, nghe như gợi cảm
hơn. “Còn anh, anh thèm muốn tôi?”
“Vâng.”
Tôi lại cảm thấy buồn cười: một vị thánh, tôi? Thật khôi hài
kỳ lạ! Tôi, một vị thánh! Vị thánh ấy có cảm thấy thèm muốn
thân thể phụ nữ không? Hắn có cảm thấy cần ôm nàng trong tay, phủ
nàng với những nụ hôn, cắn vào da thịt nàng, chiếm hữu thể xác nàng, sự sống
nàng, bộ ngực nàng? Không, vị thánh ấy hẳn không muốn làm tình với một
phụ nữ trong lúc bà nội đã chết của hắn đang quan sát, đang đội chiếc khăn trùm
đầu màu đen như ôm ấp ngày và đêm của vũ trụ này.
Tôi ngồi xuống. Và tôi nói một cách giận dữ, “Tôi
không phải là một vị thánh!”
“Không ư?” Kathleen hỏi, cười không nổi.
“Không,” tôi lặp lại.
Tôi mở mắt và nhận ra nàng đang thật sự đau khổ. Nàng
cắn môi; trên mặt nàng có nỗi tuyệt vọng.
“Tôi sẽ chứng mình cho cô thấy rằng tôi không phải là một vị
thánh,” tôi lẩm bẩm một cách giận dữ.
Không nói một lời, tôi bắt đầu cởi quần áo
nàng. Nàng không chống cự. Khi trên người không còn manh
vải nào, nàng lại ngồi xuống như trước. Đầu tựa trên hai đầu gối,
nàng đau đớn nhìn tôi trong khi tôi cũng cởi quần áo mình. Lúc này
môi nàng mím lại thành một vệt thẳng trên miệng. Tôi có thể thấy
trong mắt nàng có nỗi sợ hãi. Tôi hài lòng; nàng sợ tôi, vậy là tốt. Những
kẻ, giống như tôi, đã để lại linh hồn của mình nơi địa ngục, và tại trần gian
này chỉ làm kẻ khác sợ hãi bằng hình bóng trong gương của mình.
“Tôi sẽ làm tình với cô,” tôi nói với nàng bằng giọng gay gắt,
gần như thù nghịch. “Nhưng tôi không yêu cô.”
Tôi nghĩ: chắc nàng biết. Tôi hoàn toàn không phải
là một vị thánh. Tôi sẽ làm tình mà không có bất cứ cam kết
nào. Một vị thánh thì cam kết toàn thân trong mỗi hành động.
Nàng xỏa tóc, tóc buông xuống vai. Ngực nàng phập
phồng lên xuống không theo nhịp bình thường.
“Nếu như tôi yêu anh thì sao?” nàng hỏi, làm ra vẻ ngây thơ.
“Chuyện họa hiếm! Cô sẽ thù hận tôi thì đúng hơn.”
Nét mặt nàng ánh chút u buồn hơn, chút đau đớn
hơn. “Tôi e rằng anh có lý.”
Đâu đó, bên trên thành phố, có dấu vết bình minh trong thế giới
mù sương.
“Nhìn tôi đây này,” tôi nói.
“Tôi đang nhìn anh.”
“Cô thấy gì?”
“Một vị thánh,” nàng trả lời.
Tôi lại cười. Đây chúng tôi đây, cả hai đều trần
truồng, và trong hai chúng tôi có một vị thánh sao? Thật kỳ cục! Tôi
thô bạo vồ chụp nàng, cố ý làm tổn thương nàng. Nàng cắn môi và
không thét lên. Chúng tôi ở bên nhau cho tới xế chiều hôm đó.
Không nói thêm một lời nào khác.
Không trao đổi một chiếc hôn nào.
Đột nhiên chứng sốt biến mất. Tên tôi được rút ra
khỏi danh sách bệnh nhân nguy kịch. Tôi vẫn đau đớn nhưng tính mạng
không còn lâm nguy. Tôi vẫn bị tiêm thuốc kháng sinh nhưng thưa
hơn. Bốn mũi một ngày. Rồi ba, rồi hai. Rồi dứt
hẳn.
Đến khi được phép tiếp khách thì tôi ở trong nhà thương đã gần
một tuần và bó bột được ba ngày.
“Bạn bè anh có thể vào thăm anh hôm nay,” chị y tá nói trong
khi lau người tôi.
“Tốt,” tôi nói.
“Anh phản ứng chỉ có vậy thôi sao? Có phải anh
không cảm thấy sung sướng vì có thể gặp các bạn của mình?”
“Tôi sung sướng Rất sung sướng.”
“Anh về lại từ một nơi rất xa,” chị nói.
“Rất xa.”
“Anh không hay nói.”
“Không.”
Tôi khám phá khi đang bệnh thì mình có một lợi thế độc đáo:
có thể giữ im lặng mà chẳng cần phải xin lỗi.
“Sau điểm tâm, tôi sẽ tới cạo râu cho anh,” chị y tá nói.
“Việc đó không cần thiết,” tôi trả lời.
“Không cần thiết?”
Chị có vẻ không tin: trong nhà thương không việc gì làm là
không cần thiết!
“Đúng vậy. Không cần thiết. Tôi muốn chừa
râu.”
Chị nhìn tôi một chút, rồi hạ lời phán quyết.
“Không. Anh cần cạo râu. Để như thế này
trông anh bệnh quá.”
“Nhưng tôi đang bệnh.”
“Anh đang bệnh. Nhưng nếu cạo râu anh sẽ cảm thấy
khá hơn.”
Và không để tôi có thì giờ trả lời, chị tiếp tục, “Anh sẽ cảm
thấy mình y như mới.”
Chị trẻ, bướng bỉnh, nước da sậm. Cao, áo đồng phục
trắng khuy cài kín cổ. Chị cao hơn hẳn tôi, không chỉ vì chị đứng mà
tôi nằm.
“Được rồi,” tôi nói, để chấm dứt cuộc tranh luận. “Trong
trường hợp này thì tốt.”
“Giỏi! Đúng là bé ngoan.”
Chị sung sướng với chiến thắng, miệng chị rộng để lộ ra hàm
răng trắng nuốt. Vui vẻ, chị kể đủ thứ chuyện, chuyện nào cũng dường
như có tính cách khuyên nhủ, thí dụ: thần chết e ngại tấn công những
kẻ làm cho mình có vẻ dễ thương vào buổi sáng. Có thể tìm thấy rõ
ràng bí quyết bất tử ấy trong kem cạo râu.
Sau khi giúp tôi lau người, chị mang bữa ăn sáng tới.
“Tôi sẽ đút cho anh ăn như thể anh là con nít. Anh
có mắc cở khi làm con nít ở tuổi này không?”
Chị bỏ đi và lập tức trở lại với dao cạo râu chạy điện.
“Chúng tôi muốn anh ngó có vẻ dễ thương. Tôi muốn
cậu con nít của tôi dễ thương!”
Dao cạo râu gây tiếng ồn khủng khiếp. Chị y tá tiếp
tục nói chuyện. Tôi không lắng nghe chị. Tôi đang nghĩ tới
đêm xảy ra tai nạn. Chiếc tắc xi phóng nhanh. Tôi không
nghĩ nó sẽ hất tôi văng vô nhà thương.
“Đây, anh đây rồi,” chị y tá vừa nói vừa cười. “Lúc
này trông anh thật dễ thương.”
“Tôi biết,” tôi nói. “Lúc này tôi giống con nít mới
sinh.”
“Chờ chút, tôi đem tới cho anh chiếc gương!”
Chị có đôi mắt rất to, tròng mắt đen nhánh, viền chung quanh
chúng toàn màu trắng rất trắng.
“Tôi không muốn gương,” tôi nói.
“Để tôi mang nó tới, anh sẽ thấy.”
“Nghe đây,” tôi hăm he, “nếu chị đưa tôi chiếc gương, tôi đập
vỡ nó ngay. Một chiếc gương bị vỡ thì mang lại bảy năm xui rủi! Có
phải chị muốn như vậy? Bảy năm xui xẻo?”
Trong một giây, chị đứng tròng, ngạc nhiên không biết tôi nói
giỡn hay nói thật.
“Thật đó. Ai cũng có thể nói cho chị biết: đừng
bao giờ làm vỡ gương.”
Chị vẫn cười nhưng lúc này tiếng cười của chị nghe có vẻ ái
ngại hơn trước. Chị chà tay vô bộ đồng phục trắng.
“Anh là bé hư,” chị nói. “Tôi không ưa anh.”
“Xui thật!” tôi trả lời. “Tôi ngưỡng mộ chị!”
Tôi đang ngó ra cửa sổ. Từ giường mình tôi có thể
nhìn ra Sông Đông. Có con thuyền nhỏ đang lướt qua: một chấm xám
nhàn nhạt trên toàn cảnh màu xanh thẩm. Một ảo tượng.
Ai đó gõ cửa phòng.
“Vào đi!”
Bác sĩ Paul Russel, hai tay thọc trong túi áo bờ-lu, trở lại
để nối tiếp cuộc nói chuyện ở chỗ chúng tôi bỏ dở.
“Sáng nay anh cảm thấy khá hơn chứ?”
“Vâng, thưa bác sĩ. Khá hơn nhiều.”
“Hết sốt rồi. Kẻ thù bị đánh bại.”
“Một kẻ thù bị đánh bại, cái đó nguy hiểm,” tôi lưu
ý. “Nó sẽ chỉ nghĩ tới chuyện phục thù thôi.”
Bác sĩ bỗng nghiêm nghị hơn. Anh rút ra một điếu
thuốc và mời tôi. Tôi từ chối. Anh châm lửa cho mình.
“Anh vẫn còn đau?”
“Vâng.”
“Nó sẽ kéo dài trong vài tuần nữa. Anh có sợ
không?”
“Sợ cái gì?”
“Sợ đau.”
“Không. Tôi không sợ đau.”
Anh nhìn thẳng vào mắt tôi. “Vậy, anh sợ gì?”
Thêm lần nữa tôi có cảm tưởng rằng anh đang giấu tôi điều gì
đó. Có thể anh thật sự đã biết? Có phải tôi đã nói ra
trong khi mê, trong khi giải phẫu.
“Tôi không sợ gì cả,” tôi trả lời, đăm đăm nhìn lại anh.
Im lặng.
Anh bước tới cửa sổ, đứng lại đó đôi chút. Lúc ấy,
tôi nghĩ: cái lưng người đó và dòng sông đó không còn hiện hữu. Địa
đàng khi không có gì xuất hiện giữa con mắt và cây cối.
“Anh có một phong cảnh đẹp tuyệt vời,” anh nói, không quay
người lại.
“Tuyệt đẹp. Dòng sông ấy giống tôi: nó gần như chẳng
nhúc nhích.”
“Hoàn toàn ảo giác! Nó chỉ lặng yên trên bề mặt. Hãy
xuống dưới bề mặt, anh sẽ thấy nó hiếu động biết bao...” Anh đột nhiên quay lại,
“...Thực tế, nó giống anh thôi.”
Chính xác thì anh biết cái gì, tôi tự hỏi, dù sao cũng cảm thấy
lo lắng. Anh nói như thể anh đã biết. Biết đâu có thể tôi
đã phản bội tôi?
“Đàn ông nào cũng giống dòng sông,” tôi nói, lái cuộc trò
chuyện tới những cái trừu tượng. “Các dòng sông chảy ra biển, biển
không bao giờ đầy. Loài người bị cái chết nuốt chửng, cái chết không
bao giờ no.”
Anh phác một cử chỉ chán nản, như thể nói: được rồi, anh
không muốn trò chuyện, anh đang né tránh, không sao, tôi chờ,
Chầm chậm anh đi tới cửa, rồi dừng lại.
“Tôi chuyển một lời nhắn cho anh. Từ
Kathleen. Bà ấy sẽ tới thăm anh xế chiều nay.”
“Anh đã gặp nàng?”
“Vâng, bà ấy ngày nào cũng tới. Bà ấy là một phụ nữ
cực kỳ dễ thương.”
“C-ự-c-k-ỳ.”
Anh đứng lại chỗ cửa đang mở. Giọng anh có vẻ rất
gần. Cửa hẳn ở sát giường tôi.
“Bà ấy yêu anh,” anh nói. Giọng nghiêm hẳn lại, gằn
tiếng, “Còn anh? Anh yêu bà ấy?”
Anh nhấn mạnh tiếng “anh”. Tôi thở dồn dập
hơn. Bác sĩ đã biết cái gì, tôi day dứt tự hỏi mình.
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời, cố làm ra vẻ bình
tĩnh. “Dĩ nhiên tôi yêu nàng.”
Chẳng có gì động đậy. Hoàn toàn yên lặng. Ngoài
hành lang, tiếng loa phóng thanh nghe mơ hồ: “Bác sĩ Braustein, điện thoại...
Bác sĩ Braustein, điện thoại...” Những âm vang ấy đến từ một thế giới
khác. Trong phòng này hoàn toàn yên lặng.
“Tốt,” bác sĩ Russel nói. “Tôi phải
đi. Sẽ gặp lại anh tối nay hoặc ngày mai.”
Một con thuyền khác lướt qua cửa sổ. Bên ngoài,
không gian sắc nét, sống động. Tôi nghĩ: ngay lúc này đây, đàn ông
đang bước đi trên đường phố, không cà vạt, mặc áo sơ-mi xăn tay. Họ
đang đọc, đang cãi nhau, đang ăn, đang uống, dừng chân tránh một chiếc xe,
chiêm ngưỡng một phụ nữ, nhìn lên các cửa sổ. Bên ngoài, ngay lúc
này đây, đàn ông đang bước đi.
Chớm chiều, vài đồng nghiệp của tôi xuất hiện. Họ
đi thành bọn, vui vẻ, cố làm cho tôi cảm thấy mình cũng vui như họ.
Họ kể tôi nghe chuyện đồn đãi vu vơ: ai đang làm gì, ai đang
nói gì, ai bất trung với ai. Lời nói mới nhất, sự mất quyền chủ động
mới nhất, câu chuyện mới nhất.
Rồi cuộc nói chuyện nhắc lại tai nạn.
“Anh phải thừa nhận là anh hên lắm mới chỉ bị có thế,” một
người trong bọn nói.
Và một người khác: “Không chừng anh có thể đã mất một cái
chân.”
“Hoặc kể cả bị mất trí nữa.”
“Anh sắp giàu,” Sander, một người Hungary,
nói. “Chính tôi có lần bị xe đụng. Công ti bảo hiểm bồi
thường cho tôi một ngàn đô-la. Anh may mắn vì đó là tắc
xi. Tắc xi lúc nào cũng đóng nhiều tiền bảo hiểm. Anh sẽ
giàu, anh sẽ thấy anh là một gã may mắn!”
Tôi đau khắp người. Tôi không nhúc nhích nổi. Tôi
gần như bại liệt. Nhưng tôi rất may mắn. Tôi sắp
giàu. Tôi sẽ có thể đi du lịch, lui tới các hộp đêm, bao tình nhân,
ngự trên đỉnh cao thế giới: thiệt là hên! Họ gần như nói là họ ganh
tị với tôi.
“Lúc nào tôi cũng nghe người ta nói là tại Mỹ, bạn thấy có
đô-la ngay trên đường phố,” tôi nói. “Điều đó đúng thật: anh chỉ việc
phải té xuống rồi lượm chúng lên.”
Họ lại rũ người ra cười và tôi cùng cười với họ. Một
hoặc hai lần, chị y tá đi vào mang theo cái gì đó cho tôi uống, và chị cũng cười
theo họ.
“Quí vị có biết sáng nay anh ấy còn không muốn cạo râu!” Chị
kể với họ.
“Anh ta giàu,” Sandor nói. “Người giàu có thể đủ
điều kiện để không cạo râu cũng chẳng sao.”
“Anh thật là khôi hài,” chị y tá vừa kêu lên vừa vỗ
tay. “Và anh ta có kể quí vị nghe chuyện chiếc gương không?”
“Không!” Họ la lên một lượt. “Chị kể cho nghe chuyện
chiếc gương đi!”
Chị kể với họ rằng sáng nay tôi không chịu nhìn mình trong
gương.
“Người giàu sợ mấy chiếc gương,” tôi nói. “Mấy chiếc
gương chẳng tôn trọng cái lộng lẫy. Chúng quen thuộc với cái đó quá
rồi.”
Căn phòng làm người nóng bức, còn nóng hơn bên trong bột
bó. Các bạn tôi tươm mồ hôi. Chị y tá lật lưng bàn tay
lau trán mình. Khi chị đi rồi, Sandor nháy mắt.
“Gào, không tới nổi tệ chớ?”
“Cô ta có lý lắm!” một người trong bọn nói thêm.“Chắc chắn ở
đây anh chẳng buồn chán gì mấy!”
“Không, tôi không thấy buồn chán,” tôi nói.
Chúng tôi ở với nhau khá lâu cho tới khi Sandor chợt nhớ ra
là có cuộc họp báo lúc bốn giờ.
“Đúng đó, suýt chút nữa quên.”
Họ vội vã đi ra, mang tiếng cười đi theo họ qua hành lang, ra
đường phố, và sau cùng, vào nơi đang gánh vác nhiệm vụ lịch sử, Trụ sở Liên hiệp
quốc.
Khi Kathleen tới thì đã gần bảy giờ. Nàng có vẻ
xanh xao hơn thường ngày, vui vẻ hơn, và còn có vẻ hớn hở nữa. Như
thể nàng đang sống trong khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời mình. Phong
cảnh đẹp quá! Anh nhìn kìa, dòng sông! Và căn phòng xinh ơi là
xinh! Rộng rải quá, sạch sẻ quá! Anh ngó thật là tuyệt!
Thiệt kỳ quặc, tôi nghĩ. Phòng nhà thương là nơi
vui vẻ nhất thế gian. Ai cũng trở thành diễn viên. Kể cả
người bệnh. Ai cũng mang thái độ mới, điểm trang mới, niềm vui mới.
Kathleen tiếp tục nói. Dù trước đây nàng không
thích những kẻ mở miệng ra mà chẳng nói lên điều gì, lúc này nàng lại làm đúng
y như vậy. Tại sao nàng sợ im lặng? Càng thắc mắc tôi
càng cảm thấy thêm căng thẳng. Có thể nàng cũng đã biết điều gì
đó? Nàng ở trong vị trí biết được điều đó. Nàng ở đó vào
thời điểm xảy ra tai nạn. Đằng trước tôi một tí. Nàng có
thể đã ngoái nhìn lui.
Tôi rất muốn lái cuộc nói chuyện tới vấn đề đó nhưng tôi
không thể chận lại những lời lẽ của nàng đang tuôn ra như suối. Nàng
tiếp tục nói, nói và nói. Isak làm thay cho anh ở tờ
báo. Tại toà soạn, điện thoại reo liên tục: đủ thứ người hỏi thăm
tình trạng anh ra sao rồi. Và anh biết đó, kể cả cái người - tên ông
ta là gì nhỉ? - anh biết cái người em đang có ý nói, người mập bự, mập như thể
có bầu, anh biết mà, người đang giận anh đó, cả người đó cũng điện thoại tới. Isak
kể với em. Và---
Có tiếng gõ cửa. Người y tá - một người mới, không
phải chị y tá sáng nay - mang vào cho tôi bữa ăn chiều. Đó là một phụ
nữ lớn tuổi, đeo kính, lãnh đạm một cách kiêu kỳ. Bà đề nghị giúp
tôi ăn.
“Bà đừng lo,” Kathleen nói. “Để tôi làm việc đó.”
“Tốt lắm,” bà y tá già nói. “Xin theo ý bà.”
Tôi không đói. Kathleen cứ nhất quyết:
chút cháo nghe? Đúng, đúng. Anh phải
ăn. Anh mất sức nhiều quá. Nào. Một muổng
thôi. Chỉ một thôi. Thêm muổng nữa nghe. Ăn vì
em mà. Này này, thêm muỗng nữa thôi. Tốt. Còn
chút xíu nữa thôi mà. Anh coi đây này: một miếng thịt. A!
Ngó miếng thịt ngon thiệt là ngon!
Tôi nhắm mắt lại, cố không nghe. Chỉ có cách độc
nhất đó thôi. Đột nhiên tôi cảm thấy muốn thét lên. Nhưng
tôi biết mình không nên thét. Dù sao thì cũng để làm gì?
Kathleen nói và nói.
“Em cũng đã thuê luật sư. Một luật sư rất giỏi. Ông
ta sắp kiện công ti tắc xi. Ông sẽ tới đây ngày mai. Ông
ta nói rất có triển vọng. Ông ta nói anh sẽ nhận được rất nhiều tiền.”
Khi tôi ăn xong, nàng cầm khay, đặt lên bàn. Tôi
có thể nhận ra khi làm cho mình bận rộn thì nàng mệt nhọc biết
bao. Lúc này, tôi đã hiểu tại sao nàng nói quá nhiều: nàng đang tới
hồi sức cùng lực kiệt. Đằng sau tính cách vui vẻ gượng gạo ấy là
tình trạng kiệt sức. Bảy ngày. Từ lúc xảy ra tai nạn tới
nay đã một tuần.
“Kathleen?” tôi gọi.
“Vâng?”
“Tới đây. Ngồi xuống.”
Nàng nghe lời, ngồi lên giường.
“Gì vậy?” nàng hỏi, lo lắng.
“Anh muốn hỏi em chút chuyện.”
Nàng nhíu mày. “Vâng?”
“Anh không nhận ra em. Em thay đổi. Em
nói nhiều quá. Tại sao?”
Có thoáng rùng mình lướt qua mi mắt nàng, qua đôi vai nàng.
“Quá nhiều việc xảy ra trong một tuần,” nàng nói, mặt hơi ửng
đỏ. “Em muốn kể hết cho anh nghe. Anh đừng quên là đã một
tuần em không nói chuyện với anh...”
Nàng nhìn tôi như thể nàng vừa bị đánh, và cúi đầu xuống. Rồi
chầm chậm, một cách máy móc, nàng lặp lại mấy lần bằng giọng đều đều, trầm trầm,
mỏi mệt, “Em không muốn khóc, em không muốn khóc, em không muốn...”
Kathleen khốn khổ, tôi nghĩ. Kathleen khốn khổ. Tôi
làm nàng thay đổi. Kathleen rất kiêu hãnh. Kathleen mà ý
chí của nàng mạnh hơn ý chí của những người khác, Kathleen mà sức mạnh của nàng
thuần khiết và là kẻ thật sự cứng cỏi, Kathleen chống lại đàn ông với một cá
tính và tâm trí ngoan cường của một người đàn ông, như thể đọ sức với họ;
Kathleen lúc này không còn chút sức lực nào để nén lại những giọt nước mắt, kềm
lại những lời lẽ của mình.
Tôi làm nàng biến tính. Và nàng làm tôi thay đổi! “Em
không thể nào thay đổi một con người.” tôi đã bảo nàng ngay tự thuở đầu, bảo một
lần, ngàn lần. “Em không thể làm thay đổi ý nghĩ của người ta, thái
độ của người ta, những ràng buộc của người ta. Em chỉ có thể làm
thay đổi khát vọng của người ta, thế thôi.” “Đối với em như thế là đủ,”
nàng trả lời.
Và cuộc chiến bắt đầu. Nàng muốn làm cho tôi hạnh
phúc, hạnh phúc trong mọi sự. Làm cho tôi thưởng thức những lạc thú
của cuộc đời. Làm cho tôi quên quá khứ. “Quá khứ của anh
đã chết. Chết rồi và chôn rồi,” nàng nói cả quyết. Và tôi
nằng nặc trả lời, “Anh là quá khứ của anh. Nếu nó bị chôn rồi thì
anh cũng đã bị chôn theo với nó.”
Nàng chiến đấu ngoan cường. “Em mạnh,” nàng nói dứt
khoát. “Em sẽ thắng.” Và tôi kiên quyết trả lời, “Em mạnh. Em
đẹp. Em có đủ mọi phẩm chất để chinh phục người đang sống. Nhưng
ở đây em đang chiến đấu chống một kẻ đã chết. Em không thể chinh phục
kẻ đã chết.” “Được, để rồi coi.”
“Em không muốn khóc,” nàng nói, đầu cúi xuống như thể bị đè nặng
bởi tất cả những kẻ đã chết từ tạo thiên lập địa.
Tôi đã nói con người không thể thay đổi ư? Tôi lầm. Họ
thay đổi: kẻ đã chết thì toàn năng. Đó là điều nàng không chịu hiểu:
rằng kẻ đã chết thì vô địch. Rằng qua tôi, nàng đang chiến đấu chống
họ.
Là con một và cha mẹ rất giàu, nàng có tính ngoan cố, ngang đầu
cứng cổ. Vẻ kiêu hãnh của nàng gần như ngây thơ. Nàng
không quen thua trận. Nàng nghĩ nàng có thể thay thế cho số phận của
tôi.
Có lần tôi hỏi nàng có yêu tôi không. “Không,”
nàng nóng nảy trả lời. Và điều đó đúng. Nàng không nói dối. Lòng
kiêu hãnh chân chính thì không dối trá.
Việc chúng tôi hiểu nhau chẳng liên quan gì tới tình
yêu. Thoạt đầu thì không. Về sau thì có. Nhưng
không ngay vào lúc mới bắt đầu. Cái làm chúng tôi không hiệp thành một
cũng là cái giữ chúng tôi cách xa nhau. Nàng thích cuộc sống và tình
yêu; tôi thì chỉ nghĩ tới cuộc sống và tình yêu với cảm giác hổ thẹn sâu
xa. Chúng tôi ở bên nhau. Nàng cần chiến đấu và tôi quan
sát nàng. Tôi quan sát lúc nàng chạm trán với một thực tại lạnh
lùng, bất di bất dịch, mà nàng phát hiện ban đầu trong những lời tôi nói, và
sau đó, trong sự im lặng của tôi.
Chúng tôi đi đây đi đó rất nhiều. Những ngày dư dật,
những giờ hối hả. Thêm lần nữa, thời gian là một cuộc phiêu
lưu. Hễ lúc nào Kathleen ngắm một rạng đông tuyệt vời thì nàng biết
cách khiến tôi chia sẻ sự hào hứng đó của nàng; trên đường phố, nàng là người
chỉ cho tôi thấy các phụ nữ xinh đẹp; ở nhà, nàng dạy tôi rằng thể xác cũng là
một nguồn hân hoan.
Ban đầu, ngay từ lúc đầu, tôi tránh những nụ hôn của
nàng. Chúng tôi chung sống với nhau nhưng miệng chúng tôi không bao
giờ gặp gỡ nhau. Trong tôi có điều gì đó làm tôi chùn lại không chạm
đến môi nàng. Như thể tôi sợ nếu tôi hôn lên môi nàng thì nàng sẽ đổi
khác. Nhiều lần nàng sắp sửa tính hỏi tại sao, nhưng nàng quá đổi
kiêu hãnh. Rồi dần dần, tôi buông thả mình. Mỗi chiếc hôn
lại mở một vết thương cũ ra. Và tôi nhận ra rằng mình vẫn còn khả
năng đau khổ. Rằng tôi vẫn đang đáp lại những tiếng gọi của quá khứ.
Đêm đó, hai chúng tôi không ai ngủ. Nằm dài bên
nhau, run rẩy, trong im lặng, chúng tôi chờ bình minh. Ngay trước
lúc rạng đông, nàng kéo tôi sát vô người nàng, và trong bóng tối, hai thể xác
làm tình lần cuối. Một giờ sau, trong thầm lặng, tôi chỗi dậy, mặc
quần áo, rời căn phòng không một lời từ giã, cũng chẳng ngoái đầu nhìn lui.
Bên ngoài, gió sáng sớm buốt giá quất lên các ngôi
nhà. Thành phố còn hoang vắng! Đâu đó tiếng cánh cửa kêu.
Một khung cửa sổ nào đó loé sáng, xanh xao và đơn độc. Trời lạnh. Chân
tôi muốn người tôi chạy. Tôi cố lê bước chầm chậm, rất chậm: tôi
không muốn chịu thua bất cứ sự yếu đuối nào. Mắt tôi trào lệ, có thể
vì lạnh.
“Em không muốn khóc,” Kathleen nói.
Nàng lắc lắc chiếc đầu đang trỉu xuống.
Kathleen khốn khổ, tôi nghĩ. Em cũng bị kẻ đã chết
làm cho thay đổi.
Tay luật sư đến vào hôm sau. Anh ta mang kính
trắng, người tầm thước, có cái vẻ tự mãn của một kẻ chưa đặt câu hỏi mà đã biết
trước người ta sẽ trả lời như thế nào.
Anh ta tự giới thiệu: Mark Brown. “Cứ gọi tôi là
Mark.”
Anh ta thoải mái ngồi xuống, tự nhiên như ở nhà mình, và rút
trong cặp ra một xấp giấy lớn màu vàng.
“Tôi đã nói chuyện với các bác sĩ của anh,” anh ta
nói. “Anh đang trong tình trạng thê thảm. Rất tốt.”
“Anh có lý, rất là tốt.”
Anh ta hiểu ý mĩa mai đó. “Dĩ nhiên tôi chỉ nói
theo quan điểm vụ kiện,” anh ta nói, nhíu mày với tôi.
“Tôi cũng vậy,” tôi trả lời. “Tôi nghe nói anh sắp
làm cho tôi giàu.”
“Tôi có nhiều hy vọng.”
“Hãy cẩn thận. Các kẻ thù của tôi sẽ không bao giờ
buông tha tôi, tôi sắp trở thành một ký giả giàu.”
Tay luật sư cười: “Ít ra có một lần luật pháp đứng về
phía văn chương!”
Anh ta bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi chi tiết: chính xác,
trong đêm tai nạn, xảy ra những gì? Có phải lúc đó tôi một mình?
Không. Ai cùng đi với tôi? Kathleen. Vâng, người phụ nữ
trẻ, kẻ đã gọi anh ta. Chúng tôi có cãi nhau không?
Không. Chúng tôi có chờ tới lúc đèn chuyển hẳn qua màu xanh rồi mới
băng qua đường không? Có. Chiếc tắc xi chạy tới từ bên trái, tôi có
thấy nó đang tới gần không?
Tôi tốn thời gian hơn một chút để trả lời câu hỏi chót
này. Mark lột kính xuống, vừa lau kính vừa lặp lại, “Anh có thấy nó
đang tới gần không?”
“Không,” tôi nói.
Anh ta nhìn tôi sắc bén hơn. “Anh trông có vẻ tần
ngần.”
“Tôi đang cố làm sống lại sự cố ấy, để nhìn nó thêm lần nữa.”
Mark thông minh, nhạy cảm. Để chuẩn bị một hồ sơ tốt,
anh ta quyết định thu thập nhiều chi tiết mà, về mặt nổi, có vẻ chẳng liên quan
trực tiếp tới tai nạn. Trước khi vạch chiến lược của mình, anh ta muốn
biết hết mọi sự. Cuộc phỏng vấn của anh ta kéo dài mấy tiếng đồng hồ. Anh
ta có vẻ hài lòng.
“Không có chút bóng tối ngờ vực nào,” anh ta dứt
khoát. “Người tài xế đó phạm tội lơ đãng.”
“Tôi hi vọng hắn sẽ không bị khổ sở vì việc này!” tôi
nói. “Tôi thật không muốn hắn bị trừng phạt. Nói cho
cùng, hắn không cố ý...”
“Đừng lo,” tay luật sư trấn an tôi, “hắn sẽ không phải trả tiền
bồi thường, công ti bảo hiểm trả. Chúng ta không kiện hắn gì cả, cái
thằng cha khốn khổ.”
“Anh có chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn, rằng sẽ không có gì xảy
ra cho hắn?”
Gã bất hạnh khốn khổ. Không phải lỗi của hắn. Hôm
qua vợ hắn gọi điện thoại cho tôi, xin tha thứ cho hắn. Bà gọi điện
nhân danh chồng. Hắn sợ. Hắn sợ cả cái việc yêu cầu tôi
tha thứ cho hắn.
“Tuyệt đối chắc chắn,” tay luật sư nói, miệng nở một nụ cười
khô khan. “Anh sẽ không giàu hơn và hắn cũng sẽ không nghèo hơn chút
nào. Vậy chẳng có gì phải áy náy.”
Tôi không thể dấu tiếng thở ra nhẹ nhỏm.
Sáng nào bác sĩ Paul Russel cũng tới trò chuyện. Anh
đã thành thói quen kết thúc vòng thăm bệnh hằng ngày bằng việc tới thăm
tôi. Anh thường ở lại một giờ hoặc hơn. Anh vào phòng,
không gõ cửa, ngồi lên thành cửa sổ, hai tay đút trong túi áo bờ-lu trắng, chân
bắt chéo, mắt phản chiếu màu sắc đang thay đổi của dòng sông.
Anh nói rất nhiều về mình, đời sống của anh trong quân đội -
anh từng tham dự Chiến tranh Triều tiên -, công việc của anh, những niềm vui và
những nỗi thất vọng theo cùng với nó. Giật được một nạn nhân khỏi
tay thần chết là anh hạnh phúc vô cùng, như thể đạt được một chiến công vạn
năng. Mỗi thất bại đều để lại dưới mắt anh những quầng
thâm. Tôi chỉ việc nhìn kỹ anh là biết đêm qua anh thắng trận hoặc
thua trận. Anh xem thần chết như kẻ thù riêng của mình.
Anh cay đắng kể cho tôi nghe, “Điều làm tôi thất vọng là vũ
khí của chúng tôi chênh lệch. Chiến thắng của tôi chỉ tạm thời. Thất
bại của tôi là vĩnh viễn. Lúc nào cũng vậy.”
Sáng hôm đó, anh có vẻ hạnh phúc hơn bình thường. Anh
rời chỗ anh thích đứng gần cửa, bắt đầu đi tới đi lui trong phòng như một kẻ
say rượu, vừa đi vừa lẩm bẩm với mình.
“Bác sĩ ạ, anh đang say!” tôi trêu chọc anh.
“Say!” anh kêu lên. “Dĩ nhiên tôi không
say. Tôi không uống rượu. Hôm nay, giản dị là tôi hạnh
phúc. Hạnh phúc kinh khủng. Tôi thắng! Vâng, lần
này tôi thắng...”
Chiến thắng của anh có mùi vị như rượu. Anh không
đứng yên một chỗ được. Để tỏ tường hạnh phúc của mình, anh muốn
trong cùng một lúc anh vừa là anh vừa là một người khác: kẻ chứng kiến
lẫn vị anh hùng. Anh muốn hát và muốn nghe mình đang hát, muốn nhảy
múa và muốn nhìn mình đang nhảy múa, muốn leo tới đỉnh núi cao nhất để thét
lên, la to lên hết sức mình rằng, “Tôi đã chiến thắng! Tôi đã chinh phục được
cái chết!”
Cuộc giải phẫu thật khó khăn và rất nguy hiểm: cơ hội sống
sót của cậu bé mười hai tuổi ấy hết sức mong manh. Các bác sĩ khác
đã buông rơi hy vọng. Nhưng anh, Paul Russel, anh quyết định thử điều
không thể làm được.
“Cậu bé ấy sẽ làm được!” anh gầm lên, mặt đỏ bừng như sáng rực
một mặt trời bên trong mình. “Anh biết không? Cậu bé sẽ sống!
Tuy mọi sự dường như đã tan biến! Nhiễm trùng đã ăn tới chân và đang
làm độc máu. Tôi cắt cái chân ấy. Các bác sĩ nói làm như
vậy chẳng ích lợi gì. Rằng đã quá trễ. Rằng cuộc chơi đã
thua. Nhưng tôi không ngần ngại. Tôi bắt đầu hành động. Trong
từng hơi thở, tôi phải chiến đấu với mọi vũ khí tôi có được. Nhưng
anh thấy đó: tôi đã thắng! Lần này tôi thật sự chiến thắng!”
Tôi nghĩ, thật là hân hoan khi cứu được một mạng người! Tôi
chưa bao giờ nếm trải nỗi hân hoan đó. Tôi còn không biết là nó hiện
hữu. Nắm trong tay mình mạng sống của cậu bé là thay thế vai trò của
Thượng đế. Tôi chưa bao giờ mơ mình vượt quá đẳng cấp loài người. Con
người được xác định không phải bởi những gì phủ định nó nhưng bởi những gì khẳng
định nó. Điều ấy được tìm thấy bên trong con người, không phải trước
mặt con người hoặc bên cạnh con người.
“Anh thấy,” Paul Russel nói bằng một giọng khác hẳn, “cái
khác nhau giữa anh và tôi là cái này đây. Mối tương quan giữa anh với
những gì chung quanh anh và những gì đánh dấu các giới hạn trong tầm nhìn của
anh phát triển theo một cách thức gián tiếp. Anh chỉ biết cuộc sống
qua ngôn từ, da thịt, diện mạo và các ý tưởng của nó. Sẽ luôn luôn
có một bức màn giữa anh và sự sống của người bên cạnh anh. Anh không
thoả mãn với việc biết con người còn sống; anh còn muốn biết nó đang làm gì với
sự sống của nó. Đối với tôi, điều này thì khác. Tôi ít
nghiêm khắc đối với đồng loại của tôi. Chúng ta có chung một kẻ thù,
kẻ thù đó chỉ có một cái tên: thần chết. Trước cái chết, chúng ta
hoàn toàn bình đẳng. Trong mắt của thần chết, không sự sống nào nặng
ký hơn sự sống nào. Xét theo quan điểm đó, tôi cũng giống như thần
chết. Trong con người, cái mê hoặc tôi nhất là khả năng sống của
nó. Các hành động chỉ là sự lặp đi lặp lại thôi. Nếu anh
từng giữ mạng sống của một người trong lòng bàn tay anh, anh cũng sẽ thấy rằng
tức thời thì hơn tương lai, cụ thể thì hơn lý tưởng, và sự sống thì hơn những vấn
đề mà nó mang theo với nó.”
Chương 3
3
Anh ngừng nói, dừng bước một chút nơi cửa sổ chỉ vừa đủ để mỉm
cười trước khi tiếp tục nói bằng giọng trầm lắng hơn.
“Anh bạn ạ, sự sống của anh bạn, tôi có nó ngay đây
này. Trong lòng bàn tay của tôi đây.”
Chầm chậm xoay người lại, anh rút bàn tay mình
ra. Từng chút từng chút một, mặt anh trở lại vẻ thường lệ, và các cử
động của anh ít gấp gáp hơn.
“Bác sĩ ạ, anh có tin vào Thượng đế không?”
Tôi thình lình túm lấy anh. Anh đột nhiên đứng lại,
nhăn trán.
“Có,” anh trả lời. “Nhưng không ở trong phòng giải
phẫu. Ở đó tôi chỉ trông mong nơi mình.”
Mắt anh nhìn sâu thẳm hơn. Anh thêm, “Nơi mình và
nơi người bệnh. Hoặc nếu anh thích thì, nơi sự sống của một cơ thể
đang bệnh. Sự sống muốn sống. Sự sống muốn tiếp tục. Nó
trái ngược với cái chết. Nó chiến đấu. Người bệnh là đồng
minh của tôi. Hắn chung chiến tuyến với tôi. Bên nhau
chúng tôi mạnh hơn kẻ thù. Hắn giúp tôi thắng trận
đánh. Hắn đang bám chặt, giữ chặt. Hắn đang mê, đang ngủ,
tuy thế hắn đang tham chiến...”
Vẫn không nhúc nhích, anh thêm lần nữa đăm đăm nhìn tôi một
cách dữ dội. Yên lặng lấn cấn. Thêm lần nữa, tôi có cảm
tưởng rằng anh đã biết, rằng việc anh đang nói chỉ cốt để xâm nhập vào sự bí mật
của tôi. Tôi dứt khoát: lúc này. Bây giờ hoặc không bao
giờ. Tôi phải dứt điểm bất cứ sự hoài nghi nào.
“Bác sĩ ạ, tôi xin hỏi anh một câu.”
Anh gật đầu.
“Trong khi giải phẫu, tôi đã nói gì?”
Anh suy nghĩ một chút. “Không có
gì. Anh chẳng nói gì cả.”
“Anh chắc chứ? Không có lấy một tiếng?”
“Không một tiếng nào.”
Tôi nhẹ nhỏm, không nén được nụ cười.
“Bây giờ tới lượt tôi,” Paul Russel trang trọng
nói. “Tôi cũng có một câu hỏi.”
Nụ cười của tôi đông cứng lại. “Anh hỏi đi,” tôi
nói.
Tôi phải cưỡng chống nỗi thúc bách nhắm đôi mắt mình lại. Đột
nhiên căn phòng có vẻ sáng quá. Cơn lo âu bám lấy giọng nói, hơi thở
và đôi mắt của tôi.
Người bác sĩ hơi nghiêng đầu xuống, gần như khó có thể nhận
thấy.
“Tại sao anh không thiết sống?” anh hỏi rất dịu dàng.
Phút chốc vạn vật rung chuyển. Ánh sáng cũng hóa
ra lung linh bập bùng và đổi màu. Trắng, đỏ, đen. Máu rần
rật trong màng tang tôi. Đầu tôi chẳng còn của tôi.
“Đừng chối điều đó,” Paul Russel tiếp tục, nói với giọng dịu
dàng hơn nữa. “Đừng chối điều đó. Tôi biết.”
Anh biết. Anh biết. Anh biết. Cổ
họng tôi bị siết bằng một chiếc kềm vô hình. Tôi có thể chết ngạt bất
cứ lúc nào.
Tôi hỏi một cách yếu ớt rằng ai đã nói với anh: Kathleen?
“Không. Không phải Kathleen. Không ai cả. Không
ai nói với tôi cả. Nhưng dù sao tôi cũng biết. Tôi đoán
ra. Trong lúc giải phẫu. Anh chẳng bao giờ giúp
tôi. Không lần nào cả. Anh bỏ rơi tôi. Tôi phải
tiến hành cuộc chiến đấu đơn độc, hoàn toàn một mình. Tệ hơn nữa. Anh
ở chiến tuyến đối nghịch với tôi, anh ở bên phía kẻ thù.”
Giọng anh trở nên khắc nghiệt, khắc nghiệt một cách đau đớn. “Hãy
trả lời tôi! Tại sao anh không muốn sống? Tại sao?”
Tôi bình tĩnh lại. Tôi nghĩ, anh không biết. Cái
chút xíu anh đoán ra đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Một cảm tưởng. Thế
thôi. Không có gì dứt khoát. Không có gì cụ thể. Tuy
thế, anh di chuyển đúng hướng. Chỉ có điều anh không đi trọn đường.
“Hãy trả lời tôi,” anh lặp lại. “Tại sao? Tại
sao?”
Anh càng lúc càng kiên quyết. Môi dưới của anh
căng thẳng rung rung. Phải chăng anh đã nhận ra điều ấy? Tôi
nghĩ: anh nổi cơn thịnh nộ với tôi vì tôi đã để anh đơn độc, vì ngay cả lúc
này, tôi vẫn đang chạy trốn anh, không biết ơn anh cũng chẳng ngưỡng mộ
anh. Đó là lý do khiến anh nổi xung. Anh đoán ra rằng tôi
không thiết sống, rằng sâu bên trong tôi, tôi không có khát vọng tiếp tục sống. Và
điều đó xói mòn căn bản triết lý lẫn hệ thống giá trị của anh. Theo
sách vở của anh thì con người phải sống và phải chiến đấu cho sự sống của
nó. Nó phải giúp các bác sĩ và đừng chống lại họ. Tôi đã
chống lại anh. Anh mang tôi về lại cuộc đời, trái với ý nguyện của
tôi. Tôi gần như sắp nhập đoàn với bà nội của tôi. Tôi đã
thật sự ở trên ngưỡng cửa. Paul Russel đứng sau lưng tôi và cản lại
không để tôi bước qua. Anh kéo tôi lùi về phía anh. Anh một
mình chống lại bà nội của tôi và những người khác. Và anh đã thắng. Một
chiến thắng khác cho anh. Một mạng sống. Tôi nên sung sướng
thét lớn lên và làm rung chuyển các tường thành vũ trụ. Nhưng thay
vì làm như thế, tôi lại quấy phá anh. Và đó là điều làm anh khổ sở.
Bác sĩ Russel rõ ràng là đang ra sức tự chế. Anh vẫn
nhìn tôi giận dữ, má đỏ tía, môi run rẩy.
“Tôi ra lệnh cho anh phải trả lời tôi!”
Như một quan toà không chút xót thương, anh cất cao giọng. Cơn
giận khô lạnh làm tay anh cứng đơ.
Tôi nghĩ: anh sắp hét lên, sắp đánh tôi. Ai biết? Anh
có thể bóp cổ tôi, ném tôi trở lại chiến trường. Bác sĩ Russel là một
con người nên vẫn có thể thù hận, vẫn có thể mất tự chủ. Anh có thể
dễ dàng giơ hai bàn tay lên túm cổ tôi và bóp lại. Về phía anh, việc
làm đó thông thường và thuận lý. Tôi tiêu biểu một nguy cơ cho
anh. Bất cứ ai từ chối sự sống cũng là một nguy cơ đối với anh và đối
với những gì anh đương cự trong thế giới này, nơi mạng sống có rất ít giá trị. Trong
mắt anh, tôi là một ung bướu phải bị loại trừ. Loài người sẽ ra sao
và luật pháp vô tư sẽ ra sao nếu hết thảy mọi người đều bắt đầu thèm chết?
Tôi cảm thấy rất bình tĩnh, hoàn toàn tự chủ. Nếu
soát xét sâu xa hơn tôi sẽ phát hiện ra rằng trạng thái trầm tĩnh của tôi còn
che dấu cả sự mãn nguyện, một nỗi hân hoan kỳ dị - hoặc đơn giản chỉ là một sự
buồn cười? - phát xuất từ sự hiểu rõ sức mạnh của mình, hiểu rõ tình trạng cô
đơn của mình. Tôi nhủ thầm: anh không biết. Và tôi tự quyết
định sẽ nói cho anh biết, để chuyển đổi tương lai của anh. Ngay lúc
này đây, tôi, chính tôi, là định mệnh của anh.
“Tôi đã kể cho anh nghe tôi mơ thấy gì trong lần giải phẫu đầu
tiên trong đời tôi chưa?” Tôi mỉm cười hỏi anh bằng giọng thích
thú. “Chưa ư? Anh muốn tôi kể không? Lúc đó tôi mười hai
tuổi. Mẹ tôi mang tôi tới bệnh xá của người anh họ của tôi, bác sĩ
giải phẫu Oscar Sreter, để cắt thịt dư trong cổ họng. Ông ấy đánh
thuốc mê cho tôi ngủ. Khi tôi tỉnh lại, Oscar Screter hỏi tôi, ỏCó
phải em khóc vì bị đau? Không, tôi trả lời. Em khóc vì em vừa gặp Thượng đế. Một
giấc mơ kỳ lạ. Tôi đi tới Thiên đàng. Thượng đế, ngồi
trên ngai, đang chủ tọa hội nghị các thiên thần. Giữa Ngài và tôi có
một khoảng cách vô tận nhưng tôi có thể thấy Ngài thật rõ, như thể Ngài ở sát
bên tôi. Thượng đế ra hiệu và tôi khởi sự bước tới. Tôi
bước suốt mấy đời nhưng không thu ngắn được chút nào khoảng cách
đó. Rồi hai thiên thần nâng tôi lên, và đột nhiên tôi thấy mình mặt
đối mặt với Thượng đế. Tôi nghĩ, cuối cùng thì cũng gặp. Lúc
này tôi có thể đặt cho Ngài những câu hỏi ám ảnh hết thảy các nhà thông thái
Israel: Đau khổ có ý nghĩa gì? Nhưng kinh sợ quá, tôi
không thốt ra được tiếng nào. Trong lúc ấy, những câu hỏi khác vẫn
lũ lượt nối tiếp nhau trong đầu tôi: Khi nào tới giờ giải phóng? Khi
nào Thượng đế chinh phục được Quỉ dữ, để cho sự hỗn độn bị xua tan vĩnh viễn? Nhưng
môi tôi không mấp máy nổi và lời nói mắc kẹt trong cổ họng tôi. Kế
đó, Thượng đế nói với tôi. Hoàn toàn yên lặng quá, thanh tịnh
quá, tới độ tim tôi cảm thấy xấu hổ vì đang đập thành tiếng. Yên lặng
tuyệt đối khi tôi nghe những lời phán bảo của Thượng đế. Với Ngài, lời
nói và im lặng không trái ngược nhau. Thượng đế trả lời hết tất cả
các câu hỏi của tôi và của những người khác. Kế đó, hai thiên thần
đưa tay nắm lấy tôi, mang tôi về lại chỗ cũ. Thiên thần này nói với
thiên thần kia, Cậu ta nặng hơn trước, và thiên thần kia trả lời, Cậu ta đang
mang trong mình một câu trả lời quan trọng. Và tới đó tôi tỉnh lại. Bác
sĩ Sreter nghiêng mình trên tôi với một nụ cười. Tôi muốn kể với ông
anh ấy tôi vừa nghe những lời phán bảo của Thượng đế thì tôi hãi hùng nhận ra
mình đã quên hết. Tôi không còn nhớ Thượng đế đã nói với tôi những
gì. Nước mắt tôi bắt đầu trào ra. Có phải em khóc vì bị
đau? bác sĩ tốt bụng Sreter hỏi tôi. ỏEm không thấy đau, tôi trả lời. Em
khóc vì em vừa gặp Thượng đế. Ngài trò chuyện với em và em quên tất
cả những gì Ngài nói.õ Ông anh bác sĩ bật cười thân thiện: Nếu em muốn,
anh sẽ làm cho em ngủ lại, và em có thể yêu cầu Ngài nói thêm lần nữa... Tôi
khóc còn ông anh họ của tôi thì cười thân thiện... Và bác sĩ Paul ạ, anh thấy
đó, lần này, nằm thẳng cẳng trên bàn giải phẫu của anh, ngủ mê đi thật nhanh,
tôi không thấy Thượng đế trong giấc mơ của tôi. Ngài không còn ở đó
nữa.”
Paul Russel chăm chú lắng nghe. Chúi người tới trước,
anh hình như đang tìm ý nghĩa ẩn dấu trong mỗi lời tôi nói. Mặt anh
biến đổi.
“Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi!” anh lưu ý, và vẫn còn
căng thẳng.
Vậy là anh không hiểu. Trả lời cho câu hỏi của anh
ư? Nhưng đấy là câu trả lời rồi. Bộ anh không thấy lần giải
phẫu thứ hai này khác ra sao với lần giải phẫu đầu tiên ư? Thế thì
đó chính là lỗi của anh. Anh không thể hiểu. Chúng ta
khác nhau quá, khác nhau vô vàn. Các ngón tay anh chạm vào sự sống. Các
ngón tay tôi chạm vào sự chết. Không một trung gian, không các vách
ngăn. Sự sống, sự chết, cái này cũng trơ trụi, cũng có thật như cái
kia. Vấn đề vượt quá chúng ta. Nó ở trong một bầu khí vô
hình, trên một màn ảnh xa xăm, giữa hai kẻ đầy quyền thế mà chúng ta chỉ là người
thay mặt họ.
Đứng trước giường tôi, anh làm cho căn phòng tràn ngập hình
bóng của anh. Anh đang chờ. Anh nghi ngờ có một bí mật
nào đó và việc đó làm anh thịnh nộ. Việc đó là cái làm anh lạc hướng. Hai
chúng tôi đều trẻ, và trên hết, chúng tôi còn sống. Anh nhìn tôi một
cách kiên trì, bướng bỉnh, để bắt cho được trong tôi cái đang né tránh
anh. Bằng cách thức giống y như thế, chắc con người thời sơ khai đã
quan sát ban ngày biến mất phía bên kia núi.
Tôi cảm thấy muốn bảo anh: đi đi. Paul Russel, anh
là một người bộc trực và can trường. Nghĩa vụ của anh là bỏ tôi mà
đi. Đừng yêu cầu tôi trò chuyện. Đừng tìm cách hiểu. Cả
cái việc tôi là ai lẫn việc anh là ai. Tôi là người kể chuyện. Các
chuyện cổ tích của tôi chỉ có thể kể lúc hoàng hôn. Ai từng lắng
nghe thì tra vấn cuộc đời mình. Đi, Paul Russel. Đi
đi. Trong truyện cổ tích của tôi các vị anh hùng đều hung bạo và
không chút xót thương. Họ có thể siết cổ anh. Anh thật muốn
biết tôi là ai ư? Tôi còn không biết mình là ai nữa. Đôi
khi tôi là Shmuel, kẻ sát sinh. Hãy nhìn kỹ tôi. Không, đừng
nhìn mặt tôi. Hãy nhìn hai bàn tay tôi.
Họ khoảng mười người trong hầm trú ẩn. Đêm liền
đêm, họ có thể nghe bầy quân khuyển Đức sục sạo trong các đống đổ nát, lùng cho
ra những người Do thái đang kiên gan ẩn núp trong các chỗ trốn dưới mặt đất. Shmuel
và những người khác trên thực tế đang sống không nước uống, không bánh mì và gần
như không có cả không khí. Họ đang dai dẳng chịu đựng. Họ
biết rằng ở bên dưới, trong chỗ tù túng chật hẹp này của mình, họ được tự do;
bên trên, thần chết đang chờ họ. Một đêm, suýt xảy ra thảm họa. Lỗi
tại Golda. Chị mang con theo mình. Đứa bé chỉ mới được mấy
tháng. Nó bắt đầu khóc, và như thế làm cho mạng sống của hết thảy mọi
người lâm nguy. Chị ra sức dỗ con nín, cố làm cho nó ngủ. Vô
ích. Thế là những người khác, kể cả chính Golda, quay qua Shmuel, bảo
anh: “Hãy làm cho nó câm miệng. Hãy chiếu cố tới nó, nghề của anh là
giết gà mà. Anh có thể làm được chuyện đó mà đứa bé không cảm thấy
đau lắm.” Và Shmuel chịu thua trước lý luận: mạng sống của đứa bé đổi
mạng sống của mọi người. Anh ẳm đứa bé. Trong bóng tối
các ngón tay của anh sờ soạng lần tìm cần cổ của đứa bé. Và rồi im lặng,
cả dưới trần gian cũng như cả trên thiên đàng. Chỉ có tiếng lũ chó sủa
xa xa.
Trên môi tôi thoáng mỉm cười. Shmuel cũng là một
bác sĩ, tôi nghĩ. Paul Russel vẫn chờ, không nhúc nhích.
Moishe là một gã buôn lậu. Hắn cũng sinh ra và lớn
lên ở Sighet. Chúng tôi là bạn nhau. Từ năm mới tám tuổi,
sáng nào cũng thế, cứ đúng sáu giờ là chúng tôi gặp nhau trên đường phố, tay
xách đèn lồng, chúng tôi cùng đi tới phòng đọc sách, nơi chúng tôi tìm thấy những
cuốn sách bự con hơn chúng tôi. Thuở đó, Moishe muốn thành một thầy
cả. Hiện nay hắn là một gã buôn lậu và bị tất cả các lực lượng cảnh
sát ở châu Âu truy nã. Trong trại tập trung hắn là người ngoan đạo,
dám đổi suất bánh mì suốt cả tuần của mình lấy một cuốn sách
kinh. Chưa đầy một tháng sau, con người ngoan đạo ấy chết
đi. Trước khi lâm chung, nó hôn lên cuốn sách quí báu ấy và thì thầm,
“Sách ơi sách, ngươi đã hủy hoại bao nhiêu con người rồi?” Hôm đó,
Moishe quyết định thay đổi dòng đời của mình. Và rồi như thế đó,
loài người có thêm một gã buôn lậu và mất đi một thầy cả. Cũng chẳng
tệ hơn chút nào.
Bác sĩ ạ, anh muốn biết tôi là ai ư? Tôi cũng là
Moishe gã buôn lậu. Nhưng trên hết, tôi là kẻ từng thấy bà nội của
mình lên các tầng trời. Giống một ngọn lửa, bà xua đuổi mặt trời và
thế vào chỗ của nó. Và mặt trời này mù loà, thay vì cho ánh sáng thì
lại bắt tôi cúi đầu lê bước. Nó đè nặng lên tương lai của con người. Nó
toả bóng tối ảm đạm lên các tâm hồn và cái nhìn của các thế hệ sắp tới.
Nếu tôi nói lớn tiếng với anh thì anh sẽ hiểu số phận bi thảm
của những kẻ hồi sinh, những kẻ bị để lại về sau, những kẻ đã chết mà vẫn đang
sống. Anh phải nhìn họ thật kỹ. Vẻ ngoài của họ chỉ là lừa
dối. Họ là những gã buôn lậu. Họ giống hết thảy những người
khác. Họ ăn, họ cười, họ yêu. Họ tìm kiếm tiền bạc, danh
vọng, tình yêu. Giống hết thảy những người khác. Nhưng
cái không thật là: họ đang đùa giỡn, và thỉnh thoảng còn không biết là mình
đang đùa giỡn. Ai từng thấy những gì họ đã thấy thì kẻ đó không còn
giống như những người khác, không thể cười, không thể yêu, mua bán mặc cả, đau
khổ, vui chơi hoặc quên lãng. Giống như những người
khác. Anh phải quan sát họ thật kỹ khi họ đi ngang một ống khói
trông có vẻ vô tội, hoặc khi họ đưa miếng bánh mì lên miệng họ. Có
cái gì đó trong họ làm anh rùng mình, quay mặt nhìn chỗ khác. Những
kẻ đó bị tật nguyền; họ mất chân hoặc mất mắt, chỉ còn lại ý chí và khả năng
thưởng ngoạn cuộc đời. Những gì họ thấy thì sẽ lại nổi lên trên bề mặt,
ngay liền đó hoặc về sau. Và lúc đó, thế giới sẽ run sợ, không dám
nhìn vào những què quặt tinh thần trong mắt họ.
Nếu tôi nói lớn tiếng với Paul Russel thì anh sẽ hiểu tại sao
người ta không nên đặt cho kẻ hồi sinh quá nhiều câu hỏi: họ không phải là con
người bình thường. Từ sau cơn choáng váng ấy, trong lòng họ có một
con suối đang róc rách chảy. Liền ngay đó hoặc về sau, đương nhiên
xuất hiện các hậu quả. Nhưng tôi không muốn anh hiểu. Tôi
không muốn anh đánh mất sự vô tư của anh; tôi muốn anh nhìn sự thật, cái sự thật
đang hăm he tự nó sẽ lộ ra bất cứ lúc nào.
Tôi bắt đầu thuyết phục anh rằng anh lầm, cho anh bỏ tôi mà
đi, cho anh để tôi yên thân. Dĩ nhiên tôi muốn sống, muốn sáng tạo,
muốn kéo dài mọi sự, giúp con người tiến tới đằng trước một bước, góp phần vào
sự tiến bộ của loài người, vào hạnh phúc của con người, vào sự viên mãn của con
người! Tôi nói hồi lâu, cố ý dùng những lời phức tạp và khoa trương,
những diễn tả trừu tượng. Và vì anh vẫn không bị thuyết phục hoàn
toàn, tôi thêm vào cuộc tranh luận một điều mà anh không thể bỏ qua: tình
yêu. Tôi yêu Kathleen. Tôi yêu nàng với tất cả con tim
tôi. Và, làm sao ta có thể yêu nếu cùng lúc đó ta không thiết sống,
nếu ta không tin vào cuộc sống hoặc vào tình yêu. Dần dần, nét mặt của
người bác sĩ trẻ lấy lại vẻ thường ngày. Anh đã nghe những lời anh
muốn nghe. Nhân sinh quan của anh không gặp nguy cơ. Mọi
sự lại ở trong trật tự. Không gì giống như tình bạn giữa người bệnh
và bác sĩ! Không gì thiêng liêng hơn hoặc lành mạnh, lớn lao hơn, hoặc
cao quí hơn sự sống. Khước từ sự sống là một tội; hành động đó ngu
xuẫn và điên khùng. Anh phải chấp nhận cuộc sống, ấp ủ nó, yêu
thương nó, chiến đấu cho nó như thể nó là một kho báu, một người đàn bà, một hạnh
phúc sâu kín.
Lúc này anh thân thiện trở lại. Anh mời tôi điếu
thuốc, khuyến khích tôi nhận nó. Anh không còn căng thẳng. Môi
anh có lại sắc màu bình thường. Trong mắt anh không còn ánh giận dữ.
“Tôi vui mừng,” sau cùng anh nói. “Ngay lúc mới đầu
tôi sợ... Tôi thừa nhận mình có lỗi. Tôi vui mừng. Vui mừng
thật sự.”
Tôi cũng vậy. Tôi vui mừng vì đã thuyết phục được
anh. Vui mừng thật sự.
Không gì dễ hơn. Anh chỉ muốn bị lừa dối và tôi
chơi trò chơi của anh. Tôi đọc lại bài vở anh đã thuộc
lòng. Tình yêu là một dấu hỏi, không là một dấu than. Nó
có thể cắt nghĩa mọi sự mà không khiến người ta, dựa vào lý luận, tranh cãi xem
ai mạnh ai yếu. Một thanh niên thiếu nữ đang yêu hiểu vũ trụ và cuộc
sáng thế còn hơn một học giả. Tại sao chúng ta phải chết? Vì
tôi yêu người, hỡi người tình của tôi. Và tại sao các đường thẳng
song song lại gặp nhau ở vô cực? Thật là một câu đáng hỏi! Chỉ
vì tôi yêu người, hỡi người yêu của tôi.
Và cái đó hiệu nghiệm. Đối với họ, đối với cậu
trai và cô gái đó, những người tù của một vòng tròn ma thuật, dường như câu trả
lời đó hoàn toàn có giá trị. Trong mắt họ, có mối quan hệ trực tiếp
giữa cuộc phiêu lưu của họ và những bí nhiệm của vũ trụ.
Vâng, thật dễ. Tôi yêu Kathleen. Vì thế
cuộc đời có ý nghĩa và con người không còn cô độc. Tình yêu chính là
bằng chứng cho sự hiện hữu của Thượng đế.
Kathleen, rốt cuộc tôi cũng phải cố thuyết phục
nàng. Thật ra, việc đó khó khăn hơn. Nàng hiểu tôi quá rõ
và nàng đang cảnh giác. Khác với người bác sĩ trẻ này, kẻ đang chạy
trốn khỏi những gì bất định, nàng cảm nhận được mọi sắc thái. Đối với
nàng, Hamlet chỉ là kẻ lãng mạn và câu hỏi anh ta đặt ra cho mình quá đơn giản. Vấn
đề không phải là: hiện hữu hoặc không hiện hữu. Mà đúng ra là: hiện
hữu lẫn không hiện hữu. Nó hạ thấp xuống tới chỗ con người sống
trong khi đang chết, tới chỗ tiêu biểu cho cái chết đối với người đang sống và
ngay tại chỗ đó, thảm kịch bắt đầu.
Tại sao nàng trở lại? Nàng không nên làm như thế. Tôi
cũng đã nói với nàng như thế. Nàng không hạnh phúc. Điều
làm tôi hết sức ngạc nhiên là tôi cảm thấy mình không thể bảo nàng đừng thêm lần
nữa mở cái dấu ngoặc đơn đó ra.
Nàng đang đau khổ. Ngay trên điện thoại, nàng bộc
lộ sự mệt mỏi của mình. Năm năm trôi qua kể từ lần thầm lặng ra đi của
tôi. Sáng hôm đó trời lạnh buốt. Hôm nay trời mùa
thu. Năm năm! Tôi nghe Shimon Yanai nói Kathleen đã quay
về Boston, kết hôn với một người lớn hơn nàng nhiều tuổi và khá giàu.
Chiều hôm đó, tại toà soạn. Công việc lút tận cổ: Đại
hội đồng Liên hiệp quốc họp kỳ hằng năm. Các diễn văn, cáo giác và
biện minh, nghị quyết và phản nghị quyết. Xét theo những gì được
phát biểu trên bục diễn giả thì hành tinh của chúng ta đang ốm đau trầm trọng.
Điện thoại reo.
Đầu dây bên kia, trong tiếng xào xạc, có giọng thì thầm,
“Kathleen đây.”
Nàng chỉ nói thế và im lặng hồi lâu. Tôi nhìn ống
liên hợp đang cầm trong tay, có cảm tưởng đầu dây bên kia vẫn giữ
máy. Tôi nghĩ: năm xưa, mùa đông; hôm nay, mùa thu.
“Em muốn gặp anh,” Kathleen nói thêm.
Giọng nàng có vẻ tuyệt vọng. Nghe như hư không.
“Em đang ở đâu vậy?” tôi hỏi nàng.
Nàng nói tên một khách sạn.
“Chờ anh chỗ đó,” tôi nói.
Chúng tôi đặt ống điện thoại xuống cùng một lượt.
Nàng đang ở tại một trong những khách sạn đắt tiền nhất và
trang nhã nhất New York. Khu phòng của nàng trên tầng mười
lăm. Yên lặng, tôi đẩy cánh cửa đã mở sẵn một nửa. Kathleen
đang đứng nhìn ra ngoài trời, in bóng lên khung cửa sổ. Mái tóc đen
tuyệt đẹp buông xuống vai. Nàng mặc áo đầm hở lưng. Tôi
xúc động.
“Chào Kathleen,” tôi vừa nói vừa đi vào.
“Chào anh,” nàng trả lời, không quay lại.
Tôi bước tới phía cửa sổ đang mở. Cửa sổ nhìn xuống
Công viên Trung tâm, vùng đất ban đêm không người; tại đô thị vĩ đại này, nơi
trú ngụ, lòng tử tế, các tội phạm và những người đang yêu, đều như
nhau. Cây cối đang chuyển sang màu vàng. Trời ẩm và nóng:
đợt nóng cuối cùng trước khi vào mùa đông. Xa bên dưới, hàng ngàn
chiếc xe chạy vào các tán lá rồi biến mất. Mặt trời phóng những tia
nắng vàng rực vào khung cửa sổ các cao ốc chọc trời.
“Giúp em với,” Kathleen nói, ánh mắt nàng không rời những chiếc
lá chết đang ngập đầy công viên.
Tôi len lén nhìn dáng người nàng đang nghiêng đứng, từ bên
trái. Qua đường cong ngấn cổ nàng, tôi cảm thấy nàng vẫn cực kỳ gợi
cảm.
“Anh sẽ giúp em, phải không anh?” nàng nói.
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời.
Tới lúc đó nàng mới quay mặt về phía tôi với ánh mắt biết
ơn. Nàng vẫn đẹp tuyệt vời, nhưng nhan sắc ấy đã đánh đi vẻ kiêu sa.
“Em đau khổ quá sức,” nàng nói.
“Đừng nói gì cả,” tôi trả lời. “Hãy để anh nhìn
em.”
Tôi ngồi xuống chiếc ghế có tay tựa và nàng bắt đầu đi quanh
phòng. Khi nàng nói, trên môi nàng lộ nét buồn rười rượi. Thỉnh
thoảng, mắt nàng ánh vẻ khắc nghiệt như toát ra từ một trạng thái bị sỉ nhục. Nàng
hút thuốc nhiều hơn trước. Tôi nghĩ: này đây, Kathleen, kẻ kiêu
hãnh, Kathleen kẻ ngoan cường, Kathleen một bà hoàng. Nhưng giờ đây,
là một người đàn bà gục ngã. Một phụ nữ đang chết đuối.
Nàng cũng ngồi xuống, trước mặt tôi, trên chiếc ghế có tay tựa. Nàng
thở nặng nhọc.
“Em muốn trò chuyện,”
“Em nói đi,” tôi bảo nàng.
“Em không hổ thẹn khi nói với anh rằng em muốn trò chuyện.”
“Em nói đi,” tôi bảo nàng.
“Em cũng không hổ thẹn khi nói với anh rằng em đau khổ quá.”
“Em nói đi, nói đi em.”
Nàng đang ra sức làm sống động trở lại hình ảnh nàng từng có
về mình. Nàng thường nói một cách nghiêm trang bằng những
lời khắc nghiệt. Nàng chưa quen nói tới những đau khổ của riêng
mình. Giờ đây, nàng nói. Lắng nghe nàng và nhìn nàng thật
gần mới thấy nhan sắc của nàng đã mất đi sức mạnh và sự bí nhiệm của nó.
Nàng nói rất lâu. Thỉnh thoảng mắt nàng ám bóng
mây. Nhưng nàng cố không khóc và tôi biết ơn nàng vì nàng không
khóc.
Nàng đã lập gia đình. Ông ta yêu
nàng. Nàng không yêu ông. Nàng cũng không yêu cái cảm
giác mà nàng đã gợi lên trong ông. Nàng đồng ý kết hôn với ông,
chính xác là vì nàng không quan tâm tới ông. Cái nàng muốn là chịu
đau khổ, chịu trả giá. Cuối cùng chồng nàng hiểu: Kathleen không thấy
trong ông một người bạn đường mà là một kẻ xét xử. Nàng không trông
mong hạnh phúc nơi ông, dù chỉ một hạnh phúc giới hạn, mà là một trừng phạt. Đó
là lý do chồng nàng cũng bắt đầu đau khổ. Cuộc sống chung của cả hai
trở thành một chốn hành hạ. Người này là kẻ dằn vặt và là nạn nhân của
người kia. Cứ thế kéo dài ba năm. Rồi tới một ngày, người
chồng cảm thấy vậy là đủ. Ông yêu cầu li dị. Nàng tới New
York. Để nghỉ ngơi, để tìm lại chính mình, để gặp tôi.
“Anh giúp em chứ?”
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời.
Nàng chỉ đòi hỏi một điều: ở bên tôi. Cuộc sống của
nàng trống rỗng. Nàng hy vọng leo lên trở lại. Bắt đầu sống
trở lại, sống mãnh liệt, như trước đây. Để cảm động đến ứa nước mắt
trước một cảnh trời chiều bảng lảng và trong trẻo, để cười vang trong nhà hát,
để chống lại sự ghê tởm. Tất cả những gì nàng muốn là được thêm lần
nữa trở thành cái từng là nàng.
Mình nên từ chối. Tôi hiểu. Kathleen -
kẻ tôi biết trước đây - đáng giá hơn sự ưng thuận của tôi. Giúp nàng
tức là sỉ nhục nàng, làm nàng bẻ mặt. Nhưng tôi chấp nhận. Nàng
bất hạnh quá và tôi thì nhu nhược quá, có lẽ hèn nhát quá, chẳng dám nói không
với một người đàn bà đang đập đầu vô vách, dù người đàn bà đó là Kathleen.
“Dĩ nhiên,” tôi lặp lại. “Anh sẽ giúp em.”
Nàng chúi người tới trước, như thể gieo mình vào đôi cánh tay
tôi, nhưng nàng kềm mình lại. Chúng tôi nhìn nhau lâu, trong im lặng.
Sarah là ai?”
Tôi không thể nói. Ngồi bên mép giường, Kathleen
chăm chú ngó tôi, môi mỉm cười. Mắt nàng không xét đoán tôi, chỉ tò
mò nhìn tôi.
“Anh kêu tên người đàn bà ấy trong ngày đầu tiên, khi anh mê
sảng. Anh không nói điều gì khác. Sarah.”
“Tại sao em chờ tới hôm nay mới hỏi anh?”
Tôi nằm nhà thương đã bốn tuần.
“Tính em rất tọc mạch. Nhưng em muốn chứng tỏ với
em rằng em có thể chờ.”
“Anh chỉ nói thế thôi ư?”
“Thế thôi.”
“Em có chắc không?”
“Chắc. Trong mấy ngày đầu tiên đó, em lúc nào cũng
ở bên anh. Anh chẳng nói cái gì khác. Anh không hé
răng. Nhưng một hay hai lần anh kêu cái tên ấy: Sarah.”
Đâu đây khuấy động một nỗi đớn đau đã cũ. Tôi
không hiểu chính xác là ở đâu.
“Sarah,” tôi kêu lên một cách cùng quẩn.
Kathleen vẫn mỉm cười. Mắt nàng không tỏ vẻ xốn
xang. Nhưng quanh đôi môi đang dẩu lên của nàng có nỗi thống khổ
đang chờ dịp trào dâng đầy mặt, chất ngất toàn thân nàng.
“Sarah là ai?” nàng hỏi thêm lần nữa.
“Sarah là tên của mẹ anh,” tôi nói.
Nụ cười biến mất. Nỗi thống khổ trần trụi lúc này
hoà trộn với sự đau đớn. Kathleen gần như mất thở.
Tôi bảo nàng: khi còn bé, tôi sống với nỗi sợ triền miên rằng
sau khi chết, tôi sẽ quên tên mẹ mình. Ở trường học, thầy giáo dạy
tôi: ba ngày sau đám ma của con, một thiên thần sẽ đến, gõ ba lần lên mộ
con. Thiên thần sẽ hỏi tên con. Con phải trả lời, “Tôi là Eliezer,
con trai của Sarah.” Nếu con quên thì thật thê thảm! Con
là một linh hồn chết, con sẽ bị chôn hoài chôn mãi tới thiên
thu. Con không thể đến trước toà phán xét để biết chỗ của con là ở
trên thiên đàng hay dưới địa ngục, nơi có những người đang chờ đợi rất lâu trước
khi được ăn năn sám hối. Con sẽ bị kết án lang thang trong cõi hỗn
mang, nơi không có gì hiện hữu, không trừng phạt cũng không đau khổ, không công
lý cũng không bất công, không quá khứ không tương lai, không hy vọng không thất
vọng. Quên tên mẹ mình là việc rất nghiêm trọng. Nó giống như quên cội
nguồn của mình. Hãy nhớ: “Eliezer, con trai của Sarah, con trai của
Sarah, Sarah, Sarah...”
“Sarah là tên của mẹ anh,” tôi nói. “Anh đã không
quên tên ấy.”
Người Kathleen vặn vẹo như thể đang bị trói vào một chiếc cột
vô hình. Nàng sợ đau khổ chưa đúng mức. Nhưng thế thì
nàng không nên lợi dụng trạng thái hôn mê của tôi để diễn giải sự im lặng của
tôi và để thu thập cái tên mà tôi giữ kín. Tên mẹ tôi là
Sarah. Tôi không bao giờ kể cho ai nghe. Tôi yêu bà nhưng
tôi chưa bao giờ kể điều đó với nàng. Tôi yêu bà điên cuồng tới độ
tôi dường như khắc nghiệt với bà nên nàng không đoán ra. Vâng. Bà đã
chết. Bà đã lên thiên đàng, ở bên cạnh bà nội của tôi.
“Sharah,” Kathleen nói bằng giọng rạn vỡ. “Em
thích tên đó. Nghe như thời Kinh thánh.”
“Tên mẹ anh là Sarah,” tôi nói thêm lần nữa. “Bà
đã chết.”
Bộ mặt Kathleen nhăn nhúm đau đớn. Nàng như mụ phù
thủy đánh mất bộ mặt thật của mình vì đã mang quá nhiều mặt nạ. Lửa
lớn bùng lên chung quanh nàng. Đột nhiên nàng thét lên và bắt đầu
khóc. Mẹ tôi, tôi chưa bao giờ thấy mẹ tôi khóc.
Sarah.
Đó cũng là tên một cô gái mắt xanh tóc vàng tôi gặp ở Paris rất
lâu trước ngày tôi quen Kathleen.
Tôi đang đọc báo dưới hàng hiên một quán cà phê gần Montparnasse. Nàng
ngồi uống nước chanh ở bàn kế bên. Nàng cố khiêu gợi cho tôi chú ý
và việc đó làm tôi thẹn đỏ mặt. Thấy thế, nàng mỉm cười.
Bối rối, tôi không biết phải làm sao. Không biết dấu
chiếc đầu và đôi bàn tay của mình vào đâu, dấu sự bối rối của mình vào
đâu. Sau cùng, không chịu đựng được nữa, tôi nói với nàng:
“Cô có biết tôi?”
“Không,” nàng vừa nói vừa lúc lắc đầu.
“Tôi có quen cô không nhỉ?”
“Tôi nghĩ là không,” nàng nói trêu ghẹo.
Tôi không thể giữ mình cho khỏi cà lăm, “Vậy...tại
sao? Tại sao... tại sao cô nhìn tôi chằm chặp như vậy?”
Nàng có vẻ sắp sửa rùng mình, để bật cười hoặc để thở
ra. “Thích thì nhìn thôi,” nàng trả lời.
Trong khi nguyền rủa tính rụt rè của mình, tôi cắm đầu vô tờ
báo, cố quên cô gái tóc vàng đó, cố tránh đôi mắt thơ ngây, thẳng thắn và
nét u sầu trong nụ cười của nàng. Những hàng chữ in nhảy múa dưới mắt
tôi. Chữ không nằm yên cho tôi đủ thì giờ bắt lấy nó. Tôi
sắp gọi người hầu bàn tới trả tiền để đi thì người thiếu nữ với nụ cười lạ lùng
đó bắt đầu nói chuyện với tôi.
“Có phải anh đang chờ người nào đó?”
“Không,” tôi nói.
“Tôi cũng vậy.”
Vừa nói nàng vừa bước sang bàn tôi, tay cầm theo ly nước
chanh.
“Anh có cô đơn không?” nàng hỏi tôi.
“Không,” tôi nói, mặt đỏ bừng.
“Anh không cảm thấy cô đơn sao?”
“Hoàn toàn không.”
“Thật ư?”
Nàng có vẻ không tin tôi. Và nụ cười của nàng ở
đó, đâu đó trên mặt nàng, như một hình bóng thứ ba. Trong mắt nàng?
Không. Mắt nàng lạnh lẽo, run rẩy. Trên môi nàng? Cũng
không. Đôi môi nàng gợi cảm, đắng cay, mỏi mệt. Nó ở
đâu? Đâu đó, giữa vầng trán và chiếc cằm của nàng, nhưng tôi không
thể nói chính xác nó ở nơi nào.
“Thật ư?” nàng lặp lại. “Anh không cảm thấy cô đơn
sao?”
“Không.”
“Làm sao anh đối phó nổi?”
Tôi hụt hẩng.
“Tôi không biết,” tôi buột miệng. “Tôi không biết. Tôi
đọc và đọc.”
Nàng chiêu một ngụm nước chanh, ngửng đầu lên, và bắt đầu cười
tôi ra mặt. Tôi để ý thấy lúc này nụ cười thật sự của nàng đã biến mất. Có
thể nàng đã nuốt nụ cười đó.
“Anh có muốn làm tình không?” nàng hỏi giọng thản nhiên.
“Vào giờ này sao?” tôi ngạc nhiên kêu lên. “Vào buổi
chiều?”
Trong tâm trí tôi, làm tình là việc về đêm. Làm
tình ban ngày đối với tôi có vẻ y như cởi trần truồng giữa đường phố.
“Ngay lúc này,” nàng trả lời. “Anh có muốn không?”
“Không,” tôi trả lời liền.
“Tại sao không?”
“Tôi... Tôi không có tiền.”
Nàng đăm đăm nhìn tôi trong một phút với thái độ khinh bạc và
tha thứ của một người biết hết và tha thứ hết.
“Không sao,” nàng nói sau một chút tần ngần. “Anh
sẽ trả cho tôi vào lần khác nào đó.”
Tôi mắc cở. Tôi sợ. Tôi trẻ và không có
chút kinh nghiệm nào. Tôi sợ không biết mình phải làm ra
sao. Và phần nhiều là tôi sợ về sau: sợ mình sẽ chẳng bao giờ còn
như cũ.
“Sao? Anh muốn không?”
Một lọn tóc đang buông lơi trên vầng trán
nàng. Thêm lần nữa xuất hiện một nụ cười. Lúc này, tôi
cũng không hiểu đó chính là nụ cười hồi nãy hay một nụ cười nào khác thay vào,
một nụ cười thật sự hay một nụ cười giả tạo.
“Gọi người hầu bàn đi,” nàng nói.
Tôi gọi người hầu bàn. Tôi trả tiền tách cà phê;
nàng trả tiền ly nước chanh. Chúng tôi đứng lên và bắt đầu cất bước. Tôi
cảm thấy thoải mái, không còn lúng túng, khó chịu. Nhỏ người hơn
tôi, nàng bước đi bên phải tôi, đầu nàng chỉ cao hơn vai tôi một
chút. Tôi không dám nhìn nàng.
Chỗ cô gái ấy ở không xa. Người gác cửa khách sạn
hình như đang ngủ. Nàng lấy chìa khóa, bảo tôi nàng ở tầng
ba. Tôi đi theo nàng. Nhìn từ sau lưng trông nàng có vẻ lớn
tuổi hơn.
Khi lên tới tầng ba, chúng tôi rẽ sang phải và vào phòng
nàng. Nàng bảo tôi đóng cửa. Tôi nhẹ nhàng khép cửa,
không muốn làm phát ra tiếng động nào.
“Đừng làm như thế,” cô gái nói. “Khóa cửa lại.”
Tôi xoay chìa khóa. Tôi bị tràn ngập bởi một thứ
lo lắng mới. Tôi không mở miệng vì tôi chắc chắn giọng mình sẽ run lẩy
bẩy. Một mình với một người đàn bà. Một mình trong khách
sạn với một phụ nữ. Với một gái giang hồ. Và liền ngay
đây chúng tôi sẽ làm tình. Tôi chắc chắn điều này: nàng là một gái
điếm. Nếu không, nàng đã cư xử khác hẳn.
Nàng kéo kín các mành cửa sổ, cởi giày, và chờ. Đứng
bên giường, nàng chờ. Tôi cảm thấy ngờ nghệch chẳng biết mình nên
làm gì. Cởi quần áo? Chỉ thế thôi sao? Tôi nghĩ: đầu tiên
mình nên hôn nàng. Trong xi nê, đàn ông luôn luôn hôn đàn bà trước
khi làm tình với họ. Tôi bước tới gần nàng, nhìn nàng chằm chặp, rồi
thô bạo kéo nàng vào mình, hôn lên môi nàng thật lâu. Theo phản ứng
tự nhiên, tôi nhắm mắt mình lại. Khi mở mắt ra, tôi nhìn thấy đôi mắt
nàng, và trong đôi mắt đó có nỗi kinh hoàng man dại. Tôi rùng mình
lùi lại một bước.
“Chuyện gì vậy?” tôi hỏi nàng, tim đập thình thịch.
“Không có gì,” nàng trả lời, tiếng nàng đến từ một thế giới
khác. “Không có gì. Tới đây. Mình làm tình.”
Thình lình nàng đưa tay lên miệng. Mặt nàng bỗng
trắng bệch như thể không còn chút sinh khí.
“Chuyện gì xảy ra cho cô vậy? Nói cái gì đi?”
Nàng không trả lời. Tay đặt lên miệng mình, nàng
nhìn xuyên qua người tôi như thể tôi trong suốt. Mắt nàng lạc thần,
như đôi mắt của một đứa bé mù.
“Có phải tôi đã xúc phạm cô?” tôi hỏi.
Nàng không nghe tôi nói.
“Có phải cô muốn tôi đi ngay?”
Nàng rất xa vời, đang ẩn trú nơi không người lạ nào được phép
lai vãng. Tôi chỉ có thể có mặt ở bên ngoài. Tôi hiểu rằng
bằng cử chỉ hôn nàng, tôi đã khởi động một chiếc máy không tên.
“Nói cái gì đi?” tôi năn nỉ nàng.
Lời cầu xin của tôi không chạm tới nàng. Nàng có vẻ
ngây dại, bị quỉ ám. Có thể mình chỉ sống thật sự nhờ cuộc gặp gỡ
này, tôi nghĩ. Nhờ cuộc gặp gỡ với một gái giang hồ, kẻ lưu giữ bên
trong nàng dấu vết thơ ngây như những người khật khùng lưu giữ dấu vết tinh
khôi trong cơn điên dại của họ.
Tình trạng đó kéo dài vài phút. Rồi dường như nàng
chợt tỉnh; cất tay khỏi mặt. Một nụ cười mệt mỏi và buồn bả vô hạn
thắp sáng khuôn mặt nàng.
“Anh tha lỗi cho tôi,” nàng nói dịu dàng. “Tôi làm
hỏng bét mọi sự. Tha lỗi cho tôi. Tôi thật ngu ngốc.”
Nàng bắt đầu cởi quần áo, nhưng tôi cảm thấy không còn muốn
làm tình với nàng. Lúc này, tôi chỉ muốn biết.
“Chờ chút,” tôi bảo nàng. “Chúng ta chuyện trò đôi
chút.”
“Anh không còn muốn làm tình ư?” nàng hỏi tôi, lo lắng.
“Để sau,” tôi trấn an nàng. “Trước hết, mình nói
chuyện đôi chút.”
“Anh muốn nói chuyện gì?”
“Về cô.”
“Anh muốn biết điều gì?”
Một cách máy móc, nàng gở khuy váy.
“Cô là ai?”
“Một cô gái. Một cô gái giống các cô gái khác.”
“Không,” tôi cãi lại. “Cô không giống các cô gái
khác.”
Nàng thả chiếc váy rơi xuống sàn nhà. Lúc này,
nàng mở nút áo.
“Làm sao anh biết?” nàng hỏi.
“Có thể là trực giác,” tôi trả lời lúng túng.
Giờ đây, nàng chỉ mang nịt ngực và quần lót. Chầm
chậm, nàng ngã người ra giường. Tôi ngồi bên nàng.
“Cô là ai?” tôi lại hỏi lần nữa.
“Tôi đã nói với anh. Một cô gái, một cô gái giống
các cô gái khác.”
Vô tình tôi vuốt tóc nàng.
“Tên cô là gì?”
“Cái đó không quan trọng.”
“Tên cô là gì?”
“Sarah.”
Một nỗi buồn quen thuộc úp chụp lên tôi.
“Sarah,” tôi nói. “Một cái tên tuyệt đẹp.”
“Tôi không thích tên đó.”
“Tại sao không?”
“Đôi khi nó làm tôi run rẩy.”
“Tôi thích nó,” tôi nói. “Đó là tên của mẹ tôi.”
“Bà đang ở đâu?”
Tôi vẫn vuốt tóc nàng. Tim tôi cảm thấy nặng nề. Mình
có nên kể nàng nghe không? Tôi không thể nói ra những tiếng rất giản
dị, rất đổi giản dị rằng: “Mẹ tôi đã chết.”
“Mẹ tôi đã chết,” sau cùng tôi nói.
“Mẹ tôi cũng vậy.”
Im lặng. Tôi đang nghĩ tới mẹ tôi. Nếu
mẹ tôi thấy tôi lúc này... Bà sẽ hỏi tôi:
Cô gái này là ai?
Vợ con, tôi sẽ nói.
Và tên cô ấy là gì?
Sarah, thưa mẹ.
Sarah?
Vâng, thưa mẹ, Sarah.
Con điên rồi sao? Có phải con đã quên rằng mẹ cũng
được gọi là Sarah?
Không, thưa mẹ. Con không quên.
Vậy, có phải con đã quên rằng đàn ông không có quyền cưới một
phụ nữ mang tên mẹ của hắn? Có phải con đã quên rằng việc đó đem lại
xui xẻo? Rằng việc đó khiến cho người mẹ phải chết.
Không, mẹ ơi. Con không quên. Nhưng mẹ
không còn có thể chết. Mẹ đã chết rồi.
Đúng vậy... Mẹ đã chết...
“Có phải anh thật sự muốn biết?”
Tiếng nói của Sarah mang tôi về lại dương
gian. Nàng đang nhìn thẳng tới trước như thể nhìn xuyên qua các bức
vách, qua hàng năm trường và qua các ký ức, để với tới nguồn cội, nơi bầu trời
chạm mặt đất, nơi sự sống kêu gọi tình yêu. Sarah đặt cho tôi câu hỏi
ấy, làm như thể tôi, bằng tự mình tôi, tạo dựng vũ trụ này.
“Anh thật sự muốn biết tôi là ai?”
Giọng nàng trở nên khắc nghiệt, không chút xót thương.
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời, che dấu nỗi sợ của mình.
“Trong trường hợp này...”
Từ lúc đó, nhiều lần tôi nguyền rủa mình. Tôi
không nên lắng nghe. Tôi nên bỏ chạy. Lắng nghe một câu
chuyện trong hoàn cảnh như thế đó là tham dự vào câu chuyện, là chọn một lập
trường, là nói có hoặc không, là xúc động cách này hoặc cách nọ. Kể
từ lúc đó là có trước đó và có sau đó. Và dù cho có quên lãng đi nữa
thì cũng đã thành một sự chấp nhận hèn nhát.
Tôi nên bỏ chạy. Hoặc bịt kín tai mình lại. Hoặc
nghĩ tới cái gì khác. Tôi nên la hét, hoặc hát, hoặc hôn lên môi
nàng để nàng ngừng nói. Làm tình với nàng. Nói với nàng rằng
tôi yêu nàng. Làm bất cứ điều gì, chỉ để nàng ngừng
nói. Để nàng ngừng nói.
Tôi đã không làm gì cả. Tôi lắng
nghe. Chăm chú. Tôi ngồi trên mép giường, kề bên thân thể
gần như trần truồng của nàng, lắng nghe câu chuyện của nàng. Các
ngón tay tôi siết chặt cổ họng mình như gọng kềm.
Bây giờ, hễ lúc nào nghĩ đến nàng là tôi nguyền rủa mình,
cũng như tôi nguyền rủa những ai không nghĩ đến nàng, không nghĩ đến nàng những
lúc nàng bị đọa đày. Bộ mặt khôn dò của nàng như bộ mặt của một đứa
bé đau ốm. Nàng nhìn thẳng tới trước không chút sợ hãi, nhìn xuyên
suốt các vách tường như thể nàng có thể thấy cuộc hỗn mang trước ngày sáng thế.
Tôi nghĩ tới nàng và tôi nguyền rủa mình, cũng như tôi nguyền
rủa lịch sử đã làm chúng tôi ra như thế này: một nguồn suối nguyền rủa. Lịch
sử xứng đáng với sự chết, sự hủy diệt. Bất cứ ai lắng nghe Sarah mà
không thay đổi, bất cứ ai đi vào thế giới của Sarah mà không khai phá những thần
linh mới và những tôn giáo mới, đều đáng chết và đáng bị hủy diệt. Một
mình Sarah có quyền quyết định cái gì là thiện cái gì là ác, có quyền tách bạch
chân lý khỏi những gì đang tiếm đoạt diện mạo của chân lý.
Và tôi lúc ấy ngồi bên hình hài gần như lõa lồ của nàng và lắng
nghe. Mỗi lời là mỗi siết thêm gọng kềm. Tôi sắp bóp cổ
tôi.
Tôi nên bỏ đi. Lẹ. Thật lẹ. Tôi
nên bỏ chạy lúc nàng mới mở miệng, ngay khi tôi nhìn thấy dấu hiệu đầu tiên.
Tôi đã ở lại. Có điều gì đó giữ tôi lại. Tôi
muốn đau khổ với nàng. Đau khổ theo cách nàng đau khổ. Tôi cảm thấy
nàng sắp tự mạ lị nàng. Có thể điều đó ngăn không cho tôi bỏ
đi. Tôi muốn tham dự vào cuộc lăng nhục của nàng. Tôi hi
vọng sự sỉ nhục của nàng cũng sẽ rơi trở lại trên tôi.
Tôi biết trong các trại tập trung có nhiều cô
Sarah. Tôi chưa hề gặp cô nào nhưng tôi từng nghe nói tới họ. Tôi
không biết nét mặt của họ là nét mặt của những đứa bé đau ốm. Tôi
cũng không ngờ một ngày nào đó tôi sẽ hôn lên môi một trong các cô gái đó.
Mười hai tuổi. Nàng mười hai tuổi vào lúc bị tách
khỏi cha mẹ mình và bị đưa vào ba-rắc đặc biệt để phục vụ thú vui xác thịt của
các viên chức trong trại. Cuộc sống của nàng bị tung hứng vì có những
viên chức Đức thích các cô bé cỡ tuổi nàng. Thích làm tình với những
cô bé cỡ tuổi nàng.
Đột nhiên nàng đưa đôi mắt đầy bóng tối về phía tôi: Thượng đế
vẫn ở trong đôi mắt đó. Thượng đế của hỗn mang và bất lực. Thượng
đế, kẻ hành hạ những đứa bé mười hai tuổi.
“Anh từng ngủ với một người đàn bà mười hai tuổi chưa?” nàng
hỏi tôi.
Giọng nàng bình tĩnh, điềm đạm, trần trụi. Tôi cố
không thét lên. Tôi không thể tự chứng minh cho mình. Ngủ
như thế thì dễ quá mà.
“Anh cũng thích việc đó, phải không?” nàng hỏi khi nàng nhận
thấy tôi im lặng. “Hết thảy đàn ông đều thích việc đó.”
Cái nhìn của nàng làm mắt tôi rừng rực. Tôi sợ
mình thét lên. Tôi không thể thanh minh cho mình. Không
phải thanh minh với nàng. Đặc biệt không phải là với
nàng. Nàng xứng đáng hơn thế nhiều.
“Hãy nói cho tôi biết,” nàng tiếp tục, dù sao thì cũng bằng
giọng dịu dàng hơn. “Có phải đó là lý do anh không làm tình với
tôi? Vì tôi không còn mười hai tuổi?”
Thượng đế của bất lực biến mắt nàng thành ngọn lửa. Mắt
tôi cũng vậy. Tôi nghĩ: mình sắp chết. Hể ai thấy Thượng
đế thì phải chết. Điều ấy được viết trong Kinh thánh. Tôi
chưa bao giờ hiểu tận tường rằng: tại sao Thượng đế lại bị liên kết với thần chết? Tại
sao Ngài muốn giết kẻ từng thấy Ngài? Lúc này, mọi sự sáng tỏ. Thượng
đế xấu hổ. Thượng đế thích ngủ với các cô bé mười hai tuổi. Và
Ngài không muốn chúng ta biết. Bất cứ ai thấy việc đó hoặc đoán ra
việc đó thì đều phải chết để bí mật đó không bị tiết lộ. Thần chết
chỉ là tên lính canh lo bảo vệ Thượng đế, kẻ gác cửa một nhà thổ mênh mông mà
chúng ta gọi là vũ trụ. Mình sắp chết, tôi nghĩ. Vì các
ngón tay của tôi đang kềm chặt cuống họng tôi và tiếp tục siết, càng lúc càng mạnh
hơn, trái với ý muốn của tôi.
Sarah quyết định để cho tôi thở một chút. Nàng lại
nhìn thẳng tới trước và tiếp tục nói như thể tôi không hiện hữu hoặc như thể chỉ
mình tôi hiện hữu, khắp nơi và mãi mãi.
“Hắn say rượu. Một con lợn bí tỉ. Hắn
cười hô hố. Hắn bốc mùi dâm ô. Đặc biệt tiếng cười của hắn. Hôm
nay sinh nhật của ta, hắn nói. Ta có một món quà. Một món
quà đặc biệt!õ Hắn lăm lăm nhìn tôi từ đầu tới ngón chân cái và cười
khèn khẹt. Ngươi sẽ là món quà sinh nhật của ta. Tôi
không hiểu ý nghĩa lời hắn nói. Tôi mười hai tuổi. Ở tuổi
đó, người ta chưa biết rằng thiếu nữ có thể bị đem tặng làm quà sinh nhật... Lúc
đó, tôi không một mình trong ba-rắc. Cả tá phụ nữ đứng quanh chúng
tôi. Bertha trắng. Những người đàn bà khác cũng vậy. Trắng. Trắng
như xác chết. Hắn, chỉ riêng hắn, tên say rượu ấy, thì đỏ. Bàn
tay của hắn cũng vậy, giống bàn tay tên đồ tể. Và tiếng cười của hắn
chạy từ miệng hắn lên mắt hắn. Ngươi sẽ là món quà sinh nhật của ta,
ngươi! hắn nói. Bertha cắn môi. Chị là bạn của tôi.”
Chị là một phụ nữ tuyệt đẹp với cái nhìn u buồn. Chị
lúc nào cũng ngẩng cao đầu như một nàng công chúa phương Đông. Ngay
đêm vừa tới trại, chị mất đứa con gái cùng tuổi với Sarah.
“Thưa ngài, nó quá trẻ,” chị xin giùm. “Nó chỉ là
đứa con nít.”
“Nếu nó đã ở đây tức là nó không còn con nít,” hắn quàu quạu
trả lời. “Nếu nó là con nít, thì ngươi đã biết nó phải ở đâu rồi. Trên
kia kìa..”
Ngón tay nung núc của hắn chỉ lên hướng quá trần nhà.
“Bertha là bạn của tôi,” Sarah nói. “Chị không chịu
thua. Chị chiến đấu tới cùng. Để cứu tôi chị sẵn sàng
thay vào chỗ của tôi. Những người khác cũng sẵn sàng làm như vậy.”
Sarah im lặng một lúc.
Trong ba-rắc tranh tối tranh sáng, Bertha cố đánh lạc hướng hắn. Không
nói một tiếng, chị bắt đầu cởi quần áo. Những người đàn bà khác -
tóc nâu, tóc vàng, tóc đỏ - không ai bảo ai cũng bắt đầu cởi quần
áo. Trong chớp mắt, tất cả đều khỏa thân như các bức tượng im lặng
và bất động. Sarah nghĩ rằng đây là một cơn mộng dữ, một giấc mơ bệnh
hoạn. Hoặc mình đang khật khùng. Một sự yên lặng phi nhân
bọc kín ba-rắc, hết sức trái ngược với sự căng thẳng trên mặt các phụ nữ. Bên
ngoài, mặt trời chuyển mình đằng sau đường chân trời, toả màu máu han gỉ của nó
tràn lên trên các hình bóng đang chuyển động. Dường như nếu quang cảnh
ấy còn tiếp diễn thì có điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra bất cứ lúc nào; điều
gì đó làm tan tành vũ trụ, làm thay đổi dòng thời gian, lột mặt nạ định mệnh và
cho con người thấy rốt cuộc cái gì đang chờ mình bên kia chân lý, bên kia cái
chết.
Chương 4
4
Ngay lúc ấy, tên say khướt đó dơ tay chộp con bé và tàn bạo
lôi nó ra khỏi ba-rắc. Trời sẩm tối. Một luồng ánh sáng
đo đỏ từ mặt đất bốc rực lên làm bầu trời ngập tràn màu đỏ sậm.
“Tên viên chức ấy thông minh,” Sarah nói. “Giữa hết
thảy những phụ nữ trần truồng trong ba-rắc, hắn lựa đúng tôi dù tôi đang mặc quần
áo. Vì tôi mười hai tuổi. Đàn ông thích làm tình với đàn
bà mười hai tuổi.”
Nàng lại xoay đầu về phía tôi, và gọng kềm lại siết chặt cổ họng
tôi với một sức mạnh mới.
“Anh cũng vậy,” nàng nói. “Nếu tôi mười hai tuổi,
anh sẽ làm tình với tôi.”
Tôi không thể lắng nghe nàng thêm nữa. Tôi đã tới
tận cùng hơi sức của mình, và tôi nghĩ: chỉ một lời nữa thôi tôi sẽ chết. Tôi
chết nơi đây, trên chiếc giường này, nơi đàn ông tới ngủ với một cô gái tóc
vàng nhưng thực tế, họ không biết rằng mình đang làm tình với một bé gái mười
hai tuổi,
Trong một thoáng, tôi có ý nghĩ rằng có lẽ tôi nên lập tức ngủ
với nàng. Làm ngay. Không một cử chỉ điệu bộ. Không
một lời lẽ vô ích. Để nàng thấy người ta vẫn còn có thể phải lòng
nhau. Rằng bùn thì ở khắp nơi và không đáy. Tôi chầm chậm
đứng lên, nâng bàn tay nàng, dịu dàng hôn. Tôi muốn nàng thấy. Tôi
muốn nàng nhận ra tôi thèm muốn nàng. Rằng tôi khao khát
nàng. Rằng tôi cũng không vượt qua được những giới hạn của xác thịt
mình. Tôi đặt môi mình lên bàn tay giá lạnh của nàng.
“Thế thôi ư?” nàng hỏi tôi. “Anh không muốn chơi
thêm gì nữa sao?”
Nàng cười thành tiếng. Nàng đang ra sức cười cho
giống một kẻ khác, giống tên say rượu trong ba-rắc. Nhưng nàng không
thành công. Nàng không say. Không có chút dâm ô nào trên
bàn tay của nàng hoặc trong giọng nói của nàng. Nàng thanh khiết tột
cùng, thanh khiết hết mức con người có thể thanh khiết.
“Muốn,” tôi trả lời, run rẩy.
Nghiêng mình trên người nàng, tôi hôn nàng lần nữa. Nàng
không đáp lại chiếc hôn của tôi. Môi tôi gắn chặt môi nàng, lưỡi tôi
tìm lưỡi nàng. Nàng vẫn ơ hờ, xa vắng.
Nàng cố nói nhưng tôi không cho nàng có dịp nói.
“...Em là một vị thánh. Chính em là một vị thánh.”
Một thoáng ngạc nhiên lướt qua bộ mặt trẻ thơ và đau ốm của
nàng. Mắt nàng tinh lanh hơn, nhìn tàn bạo hơn.
“Anh, đồ điên!” nàng nói một cách giận dữ. “Anh thật
là khùng!”
Và để lãng tránh, nàng lại cười. Nàng bắt chước ai
đó đang cười. Nhưng mắt nàng không cười. Miệng nàng cũng
không cười.
“Tôi, một vị thánh!” nàng nói. “Anh điên rồi. Tôi
đã kể cho anh nghe chưa, rằng tôi bao nhiêu tuổi khi ngủ với người đàn ông đầu
tiên? Tôi bao nhiêu tuổi khi tôi bắt đầu làm nghề này?”
Nàng nhấn mạnh tiếng “nghề”, trông có vẻ thách thức như khi
nàng đặt câu hỏi.
“Có,” tôi nói. “Cô có kể với tôi. Mười
hai. Lúc đó cô mười hai.”
Nàng càng lúc càng cười lớn. Đúng là tên say rượu
đó. Hắn chưa buông tha nàng.
“Và theo ý kiến của anh,” nàng tiếp tục. “Một người
đàn bà bắt đầu làm đĩ lúc mười hai tuổi là một vị thánh, đúng không?”
“Đúng,” tôi nói. “Một vị thánh.”
Tôi nghĩ: hãy để nàng khóc. Hãy để nàng la
hét. Hãy để nàng nhục mạ tôi. Bất cứ điều gì làm cũng tốt
hơn tiếng cười này, tiếng cười thuộc về ai đó khác, thuộc về một thể xác không
linh hồn, một cái đầu không mắt. Bất cứ việc gì làm cũng tốt hơn tiếng
cười xa lạ và đớn đau này, tiếng cười biến nàng thành một linh hồn bị quỉ ám.
“Anh khùng,” nàng nói bằng giọng cố làm ra vẻ vui mừng và
hoan hỉ. “Gã say rượu đó chỉ là kẻ đầu tiên. Sau hắn tới
những tên khác. Tất cả những tên khác. Tôi trở thành món
quà đặc biệt của ba-rắc. Món quà đặc biệt họ muốn tự tặng cho họ. Tôi
nổi tiếng hơn hết thảy những người đàn bà khác hợp lại. Hết thảy đàn
ông đều yêu tôi: người hạnh phúc và người bất hạnh, người tốt và người xấu, người
già và người trẻ, người hoạt bát và người lầm lì. Người rụt rè và
người sa đọa, người như chó sói và người như lợn, người trí thức và người hàng
thịt, hết thảy họ, anh nghe rõ không? Hết thảy họ đều đến với
tôi. Và anh cho rằng tôi là một vị thánh. Anh điên rồi.”
Và nàng lại cười lớn hơn nữa. Nhưng tiếng cười đó
chẳng dính dáng gì tới nàng. Toàn bộ con người nàng làm nhớ lại nỗi
thống khổ không tuổi, không tên. Tiếng nàng cười nghe có vẻ khô, phi
nhân: nó không phải là của nàng, mà là của Thượng đế hoặc của tên say rượu đó.
“Khốn khổ cho anh!” nàng nói. “Tôi thương hại
anh! Tôi muốn làm cái gì đó cho anh. Nói cho tôi biết,
sinh nhật của anh ngày nào? Tôi sẽ có một món quà cho
anh. Một món quà đặc biệt...”
Và tiếng cười của nàng lắng đọng trong tôi. Một
ngày nào đó tôi cũng sẽ bị quỉ ám. Sarah, trong bộ đồ lót màu đen của
nàng, chân co chân duỗi, thình lình ngừng cười. Tôi cảm thấy cú đấm
dứt điểm đang phóng tới. Phản ứng tự nhiên, tôi bắt đầu lùi về phía
cửa. Ở đó, tôi nghe tiếng nàng thét lớn.
“Đồ điên!”
“Im đi! Trời ơi! Im đi!” tôi la lên.
Tôi biết rằng nàng sẽ nói, rằng nàng sẽ kể với tôi điều gì đó
kinh khủng, tồi tệ, những lời lẽ mà tôi sẽ mãi mãi nghe âm vang trở lại vào lúc
nào tôi mưu tìm hạnh phúc trong thân thể của một người nữ.
“Im đi!” tôi van nài.
“Một vị thánh, tôi?” nàng hét lớn như một mụ
điên. “Tôi muốn anh biết điều này và nhớ điều này: đôi khi với họ
tôi cảm thấy sướng... Sau những lúc như vậy, tôi thù ghét mình, và kể cả trong
những lúc cơn sướng đó kéo dài và xác thịt của tôi đôi khi yêu họ... Và xác thịt
của tôi là tôi... Tôi, một vị thánh? Anh có biết tôi thật sự là cái
gì không? Tôi nói cho anh nghe đây. Tôi là----”
Tôi đã tới giới hạn. Tôi không chịu đựng nổi nữa. Tôi
sắp mửa. Vội vàng tôi vặn chìa khóa và mở cửa hết sức
nhanh. Tôi phải lập tức ra khỏi ngôi nhà này. Tầng
hai. Tầng một. Người gác cửa. Đường phố. Chạy. Lẹ
lên. Chạy.
Một lúc sau, trong khi đang chạy, tôi mới nhận ra các ngón
tay của tôi vẫn siết cổ họng mình.
“Sarah,” tôi kêu lên nghẹn giọng.
“Vâng,” Kathleen nói. “Đó là tên của mẹ
anh. Em biết.”
“Đó là tên của một vị thánh.”
Tôi bỏ ra nhiều ngày và nhiều tuần đi tìm
Sarah. Tôi trở lại quán cà phê nơi tôi đã gặp nàng. Tôi hỏi
mọi khách sạn trong khu vực đó. Vô ích. Dường như chẳng
ai từng thấy hoặc từng biết cô gái có mái tóc vàng, kẻ mang tên của mẹ
tôi. Người hầu bàn từng phục vụ chúng tôi cũng không nhớ. Những
người gác cửa khách sạn đó đều nói họ chưa bao giờ thấy nàng. Và tuy
thế, tôi không buông bỏ hy vọng. Thỉnh thoảng tôi nghĩ mình vẫn đang
đi tìm nàng. Tôi muốn gặp lại nàng, dù chỉ một lần. Để
làm cái việc tôi nên làm chiều đó: làm tình với nàng.
“Mẹ anh đã chết,” Kathleen nói.
Nàng muốn tự làm đau đớn mình. Đau khổ công
khai. Để cho tôi thấy. Để cho tôi biết rằng nàng đang đau
khổ với tôi, rằng chúng tôi ràng buộc vào nhau bởi khổ đau. Nàng có
thể làm thương tổn tôi chỉ để tỏ ra cho tôi thấy nàng cũng bất hạnh.
“Anh biết bà đã chết,” tôi nói. “Nhưng đôi khi anh
không chịu thừa nhận điều đó. Đôi khi anh nghĩ rằng các bà mẹ không
thể nào chết.”
Đúng thế. Tôi không thể tin mẹ tôi đã chết. Có lẽ
vì tôi không tận mắt thấy bà chết. Tôi thấy bà bước đi biền biệt với
hàng trăm người khác, bị bóng đêm nuốt chửng. Nếu bà nói với tôi,
“Vĩnh biệt, con trai của mẹ. Mẹ sắp chết,” có lẽ lúc này tôi đã có
thể tin.
Cha tôi đã chết. Tôi biết điều đó. Tôi
tận mắt thấy ông lìa đời: tôi không tìm ông giữa người ta trên đường phố. Nhưng
đôi khi tôi tìm mẹ tôi. Bà không chết. Thật sự không chết. Đó
đây tôi thấy có nét mặt của bà trong một phụ nữ nào đó trên xe điện ngầm, trên
xe đò, trong quán cà phê. Và tôi yêu những phụ nữ ấy, đồng thời tôi
cũng ghét họ.
Kathleen. Nước mắt đang trào lên trong đôi mắt
nàng. Mẹ tôi không khóc. Ít ra khi đang có mặt người
khác. Bà chỉ dâng những giọt nước mắt của bà lên Thượng đế.
Kathleen trông hơi giống mẹ tôi; nàng có vầng trán của bà,
chiếc cằm của bà, và cũng có những đường nét thanh khiết y như
bà. Nhưng Kathleen không chết. Và nàng đang khóc.
Lúc mới bắt đầu, nàng không khóc. Chúng tôi
không người nào hơn người nào. Chúng tôi đối xử với nhau ngang
hàng. Chúng tôi tự do. Người này không để mình bị vướng bận
và không làm vướng bận người kia. Hễ tôi cảm thấy không thích giữ
đúng hẹn thì không tới. Nàng cũng vậy. Và không ai trong
chúng tôi nổi giận hoặc cảm thấy bị thương tổn. Suốt đêm, nếu tôi cảm
thấy không thích trò chuyện thì nàng không có ý gài cho tôi phải giải
thích. Trong các cuộc nói chuyện của chúng tôi, không bao giờ có câu
hỏi mà người yêu nhau thường đặt ra cho nhau, “Anh/em đang nghĩ gì vậy?” Sự
cứng rắn đã trở thành tôn giáo của chúng tôi. Chỉ nói những gì thật
sự cần thiết. Chúng tôi cố làm cho nhau tin rằng mỗi người, tự riêng
mình, cũng có thể sống, hy vọng và tuyệt vọng. Mỗi chiếc hôn có thể
là nụ hôn cuối cùng. Ngôi đền của chúng tôi có thể sụp đổ bất cứ lúc
nào. Tương lai không hiện hữu vì nó chẳng ích lợi gì. Ban
đêm chúng tôi làm tình, giống như những người chứng của chính
mình. Người lạ quan sát chúng tôi trên đường phố có thể dễ dàng cho
rằng chúng tôi là hai kẻ thù của nhau. Có lẽ đúng như thế. Các
kẻ thù thật sự không phải là những kẻ bao giờ cũng căm ghét nhau.
Lý ra tôi đừng nói tôi muốn gặp lại nàng ở New
York. Tôi nên bảo nàng rằng thật chẳng đáng cho chúng ta mở cái ngoặc
đơn ra: không khí sẽ tràn vào và làm thối rữa mọi sự.
Nàng đã thay đổi. Kathleen không còn tự
do. Nàng chỉ làm theo một kẻ nào khác. Cuộc hôn nhân của
nàng đã tàn phá nội tâm nàng. Nàng hoàn toàn đánh mất niềm vui cuộc
sống. Ngày nào cũng giống ngày nấy. Người ta cũng chỉ nói
có một điều. Thay vì lắng nghe họ, ta có thể theo dõi các chương
trình vô tuyến truyền hình. Bạn hữu của chồng nàng và các đồng nghiệp
làm nàng buồn chán. Các bà vợ của họ cũng làm thần kinh nàng trĩu nặng,
nàng cảm thấy mình bị kết án sẽ trở thành người giống y như họ. Không
sớm thì muộn.
Tại New York, chúng tôi gặp nhau hằng
ngày. Nàng đến chỗ của tôi. Tôi đến chỗ của
nàng. Chúng tôi đi chỗ này chỗ nọ, đi nhiều nơi, tới nhà hát, tới
các buổi hòa nhạc. Chúng tôi thảo luận về văn chương, âm nhạc,
thơ. Tôi cố tỏ ra dễ thương. Tôi nhẫn nại, ân cần, hiểu
biết. Tôi xử sự với nàng như đối với một người đang đau ốm. Cuộc
chiến đấu đã kết thúc từ lâu. Lúc này, tôi ra sức giúp nàng đứng vững
trở lại trên đôi chân mình.
Chúng tôi hiếm khi gợi lại quá khứ; nếu có gợi lại thì hết sức
thận trọng để không khuấy đục nó lên. Nhiều lần, trong khi lắng nghe
một khúc nhạc của Bach, hoặc ngắm hình dáng của một đám mây đang nô đùa với mặt
trời, chúng tôi chung chia một xúc động. Nàng chạm vào bàn tay tôi
và hỏi tôi, “Anh có nhớ không?”
Và tôi sẽ trả lời, “Có, Kathleen ạ. Dĩ
nhiên. Anh nhớ.”
Trước kia, nàng không bao giờ cảm thấy muốn chứng minh cho
tôi thấy rằng nàng có nhớ. Ngược lại, hai chúng tôi đều cảm thấy hổ
thẹn vì làm con mồi ngã quị trước quá khứ, trước cảm xúc của một thuở đã
qua. Tôi hẳn quay đầu sang chỗ khác. Tôi hẳn nói tới điều
gì khác. Lúc này, chúng tôi đã thôi phấn đấu.
Rồi tới một ngày, nàng tự thú...
Chúng tôi đang uống cà phê trong phòng nàng. Qua
máy phát thanh, Isaac Stern đang chơi một hoà tấu khúc vĩ cầm của
Beethoven. Chúng tôi từng nghe khúc nhạc đó ở Paris tại nhà hát
Salle Pleyel. Tôi nhớ lại lúc đó, nàng nắm bàn tay tôi và tôi thô bạo
hất ra. Nếu nàng nắm bàn tay tôi lúc này, tôi nghĩ, tôi sẽ không đẩy
tay nàng ra.
“Nhìn em đi,” Kathleen nói.
Tôi nhìn nàng. Nàng đang cười ray rứt. Nàng
có vẻ mặt của một người đàn bà bị bỏ rơi và nàng ý thức điều
đó. Nàng gõ gõ các ngón tay của mình vào thành tách cà phê.
“Có,” tôi bảo nàng. “Anh có nhớ.”
Nàng đặt tách xuống, đứng lên và quì trước mặt
tôi. Kế đó, không cúi đầu, không rụt rè và bằng giọng trang trọng --
cũng gần giống trước kia -- nàng bảo tôi, “Em nghĩ là em yêu
anh.” Nàng sắp nói tiếp thì tôi ngắt ngang. “Yên nào!”
tôi bảo nàng một cách khắc nghiệt.
Tôi không muốn nghe nàng nói: Em yêu anh ngay lần đầu gặp gỡ!
Mặt nàng không ánh chút phản ứng nào trước sự khắc nghiệt của
tôi. Nhưng nụ cười của nàng sâu thẳm hơn một chút, héo hon hơn một
chút.
“Lỗi tại em,” nàng xin lỗi. “Em đã cố gắng. Em
đã chống chỏi.”
Beethoven, nhà hát Salle Pleyel, Stern, tình
yêu. Tình yêu làm mọi sự thành phức tạp. Ngược lại hận
thù làm mọi sự ra đơn giản. Hận thù phân biệt rõ rệt mọi sự và mọi
người và những gì tách bạch chúng. Tình yêu bôi xóa những minh định,
phân biệt. Tôi nghĩ: phút này đây sẽ đặt một dấu chấm lên cuộc đời
tôi.
“Anh buồn phải không?” Kathleen lo lắng hỏi.
“Không.”
Kathleen khốn khổ! Nàng không còn cố bắt chước cái
tôi kia của nàng. Mặt nàng chất ngất thống khổ. Mắt nàng
thu nhỏ lại một cách kì dị.
“Anh không sắp bỏ em mà đi chứ?”
Tình yêu và tuyệt vọng. Hai thứ đó chung đường. Cái
này ẩn chứa dấu vết của cái kia. Tôi nghĩ: nàng chắc sẽ đau khổ rất
nhiều. Tới lượt tôi ra sức sửa chữa sự thiệt hại. Tôi phải
cư xử với nàng như thể nàng đang đau yếu. Tôi biết. Làm
như vậy là nhục mạ cái tôi kia của nàng. Nhưng cái tôi kia không hiện
hữu. Không còn hiện hữu. Và nó là cái đang bị phá vỡ.
“Anh sẽ không bỏ em mà đi,” Tôi trả lời với giọng của một người
bạn trung thành.
Một giọt nước mắt lăn trên má nàng. “Anh thương hại em,”
Kathleen nói.
“Anh không thương hại em,” tôi nói tha thiết.
Tôi đang nói dối. Tôi phải nói dối. Rất
dối. Nàng đang đau yếu. Nói dối với người đang đau ốm thì
không sao. Tôi sẽ không nói dối với cái tôi kia của nàng.
Trong mấy tuần và mấy tháng kế đó, Kathleen sa sút hao gầy thấy
rõ.
Không có việc gì làm - nàng cảm thấy không thích làm việc
cũng như không có nhu cầu phải làm việc - nàng ở suốt ngày trong phòng, bên cửa
sổ, hoặc trước gương, một mình và không hạnh phúc, nhận biết tình trạng cô độc
của mình, tình trạng bất hạnh của mình.
Cũng như trước, chúng tôi tiếp tục gặp nhau mỗi tối. Đi
ăn tối, xem các buổi trình diễn, các cuộc hoà nhạc. Có lần tôi thử
lý luận với nàng: nàng lầm khi cảm thấy tội nghiệp cho mình. Cảm
giác đó bất xứng đối với nàng và đối với tôi. Nàng nên tìm một công
việc nào đó, để bận rộn, để lấp đầy thời gian của mình. Nàng phải
tìm mục đích cho cuộc sống.
“Một mục đích,” nàng vừa nói vừa nhún vai. “Một mục
đích. Mục đích gì? Hội Chữ thập đỏ? Làm người
bảo trợ các nghệ sĩ đang đói? Đi Ấn độ giúp người cùi? Một
mục đích? Em tìm nó ở đâu?”
Ngay khi đó tôi có một ý tưởng. Tôi nói với nàng rằng
tôi yêu nàng.
Nàng không chịu tin. Nàng đòi bằng chứng. Tôi
chứng minh cho nàng. Tất cả những gì xảy ra trong quá khứ cho thấy
giữa chúng ta không có tình yêu, nay đột nhiên, cho thấy ngược lại. “Tại
sao trong buổi hòa nhạc đó, anh giật bàn tay anh ra?” “Anh không muốn
phản bội mình.” “Tại sao anh chưa bao giờ nói với em rằng anh yêu
em?” “Vì anh yêu em.” “Tại sao lúc nào anh cũng chỉ nhìn
mắt em thôi?” “Để khám phá tình yêu của anh trong mắt em.”
Nàng cảnh giác suốt mấy tuần liền. Và tôi cũng vậy. Tôi
xem mình như y tá của nàng. Đôi khi tôi đùa giỡn với ý nghĩ rằng có
lẽ nàng cũng đối xử với tôi như với một người bệnh. Tới ngày nào đó,
chúng tôi sẽ bỏ mặt nạ của mình xuống. Một trong hai chúng tôi sẽ
nói: chỉ là đóng kịch thôi. Tôi cũng làm vậy, và người đồng diễn kia
sẽ trả lời. Và hẳn trên môi của chúng tôi có mùi vị cay đắng. Lúc
ấy, thật tội nghiệp, vì đó chỉ là một trò chơi.
Tuy vậy, nàng chẳng đóng kịch chút nào. Nếu ta đùa
giỡn thì ta đau khổ. Nhân vật của nàng đang quan sát chúng tôi đóng
kịch, và nó không đau khổ. Kathleen đau khổ. Bất chấp những
lập luận của tôi, nàng không tin. Nàng thường khóc những lúc không
có mặt tôi. Khi chúng tôi ở bên nhau, nàng hết sức hào hứng và vui vẻ.
Tôi không còn tự do. Sự tự do của tôi sẽ làm bẽ
bàng Kathleen, kẻ cũng không còn tự do. Tôi đã lập thành một thái độ
ứng xử với nàng và tôi chẳng còn có thể vứt bỏ thái độ đó.
Giá như việc ấy có thể đem lại ít nhiều hữu
ích! Giá như nó có lợi cho Kathleen! Nhưng
không. Nàng vẫn không hạnh phúc. Tiếng cười của nàng vẫn
không xuất phát tự đáy lòng.
Kathleen càng ngày càng bết bát hơn. Nàng bắt đầu
uống rượu. Nàng buông thả mình.
Tôi thảo luận tình trạng đó với nàng. “Em không có
quyền hành xử theo cách đó.”
“Tại sao không?” nàng nhấn mạnh, tròn xoe mắt với vẻ thơ ngây
giả tạo.
“Vì, Kathleen ạ, anh yêu em. Cuộc sống của em quan
trọng đối với anh.”
“Thôi đi! Anh không yêu em. Anh chỉ nói
cho có nói. Nếu yêu em thật sự thì anh đã không nói.”
“Anh đang nói điều đó vì nó có thật.”
“Anh đang nói điều đó từ lòng thương hại. Anh
không cần em. Em không làm cho anh cảm thấy thoải mái hoặc hạnh
phúc.”
Những cải vã như vậy chẳng đưa tới chút kết quả nào như tôi
trông đợi. Ngược lại, sau mỗi cuộc cải vã, Kathleen lại càng buông
thả mình hơn.
Rồi tới một buổi tối - trước hôm xảy ra tai nạn - nàng giải
thích với tôi rằng rốt cuộc nàng không tin tôi có chút nào thành thật yêu nàng.
“Anh cho là anh yêu em mà anh tiếp tục đau khổ. Anh
nói hiện tại anh yêu em mà anh vẫn đang sống trong quá khứ.
Anh bảo em rằng anh yêu em mà anh không chịu lãng
quên. Ban đêm anh có những cơn mộng dữ. Đôi khi trong lúc
ngủ anh rên rỉ. Sự thật đối với anh em chẳng là gì cả. Em
chẳng đáng kể gì. Cái đáng kể là quá khứ. Không phải quá
khứ của chúng ta mà là quá khứ của riêng mình anh thôi. Em cố làm
cho anh hạnh phúc nhưng có một hình ảnh khác đánh động anh và hình ảnh đó có mặt
khắp nơi. Có điều hiện nay anh không còn ở những nơi đó nữa. Hình
ảnh ấy mạnh hơn em. Anh nghĩ là em không biết ư? Anh nghĩ
sự im lặng của anh che dấu được cái hỏa ngục anh đang mang theo trong lòng anh
sao? Có lẽ anh cho rằng việc sống bên cạnh người cũng đang đau khổ
và cũng không chấp nhận bất cứ sự giúp đỡ nào là điều dễ dàng ư?”
Nàng không khóc. Đêm đó nàng không uống rượu. Chúng
tôi nằm trên giường. Đầu nàng gối trên cánh tay đang dang ra của
tôi. Một làn gió ấm thổi vào các cửa sổ đang mở. Chúng
tôi chỉ lên giường. Một trong các thói quen của chúng tôi là không
bao giờ làm tình ngay, nói chuyện trước đã.
Tôi cảm thấy tim mình nặng nề quá, như thể nó không còn dung
chứa nổi nó nữa. Nàng đoán rất đúng. Ta không thể che dấu
nỗi khổ đau và lòng thương xót quá lâu. Chúng sẽ lộ
ra. Đúng thật: tôi đang sống trong quá khứ. Bà nội của
tôi, với chiếc khăn đen trùm đầu, không buông tha tôi.
“Không phải lỗi tại anh,” tôi trả lời.
Tôi giải thích với nàng: khi một người đàn ông nói với một
người đàn bà rằng “Anh yêu em và anh yêu em mãi mãi; nếu không còn yêu em anh sẽ
chết,” thì hãy tin điều đó. Tuy thế, tới một ngày nào đó hắn gõ lên
tim mình và nghe nó trống trải. Và hắn vẫn sống. Đối với
những kẻ từng biết một thời để chết như chúng tôi thì khác. Chúng
tôi không thể nào quên. Những hình ảnh ấy vẫn ở đó, trước mắt chúng
tôi. Những hình ảnh ấy vẫn tồn tại dù mắt chúng tôi không còn ở
đó. Tôi nghĩ, nếu mình đã có thể quên được thì mình sẽ thù ghét
mình. Sự chịu đựng thuở đó của chúng tôi đã gài vào lòng chúng tôi
những quả bom định giờ. Thỉnh thoảng, một trong những quả bom đó
phát nổ. Lúc ấy, chúng tôi không là gì cả, chỉ là khổ đau, hổ thẹn
và đắc tội. Chúng tôi có mặc cảm hổ thẹn và đắc tội vì còn sống,
đang ăn nhiều bánh mì tùy thích và đang mang bít tất đẹp đẽ, ấm áp trong mùa
đông. Kathleen ạ, rõ ràng là một trong những quả bom ấy khiến chúng
tôi điên khùng. Không thể tránh được. Ai đã từng ở nơi đó
đều mang về theo với mình ít nhiều sự điên khùng của loài người. Tới
một ngày nọ hoặc một ngày kia, sự điên khùng đó sẽ trồi lên trên bề mặt.
Tối đó Kathleen điềm đạm và tỉnh táo. Tôi có cảm
tưởng cái tôi cũ của nàng đang tới thăm nàng. Nhưng tôi hiểu rằng nó
lại sẽ bỏ nàng mà đi. Rằng cuộc viếng thăm ấy chỉ ngắn ngủi và rằng
sẽ chỉ ở lại cái tôi mà nàng đang cố bắt chước. Và tới một ngày nào
đó, cái tôi đó sẽ không còn tìm kiếm. Lúc đó, cuộc ly thân sẽ dứt
khoát.
Đêm đó tôi hiểu rằng chẳng sớm thì muộn tôi sẽ bỏ Kathleen mà
đi. Việc ở lại với nàng đã trở thành vô nghĩa.
Tôi nói thầm với mình: đau khổ làm chúng tôi tách
biệt hẳn với những những người khác. Nó dựng lên bức tường làm bằng
than khóc và nhục nhã để cách ly chúng tôi. Loài người loại bỏ kẻ
nào từng biết tới sự khổ đau thuần khiết nếu họ không thể biến hắn thành thần
linh; hắn bảo loài người: Tôi đau khổ không phải vì tôi là Thượng đế
mà chỉ vì tôi là con người, con người giống quí vị, với những yếu đuối của quí
vị, những hèn nhát, những tội lỗi, những nổi loạn và những tham vọng tức cười của
quí vị; hắn làm loài người run sợ vì hắn làm họ cảm thấy hổ thẹn. Họ
rũ nhau bỏ rơi hắn, làm như thể hắn là kẻ đắc tội. Làm như thể hắn
tiếm đoạt địa vị của Thượng đế để chiếu sáng cõi chân không mênh mông mà chúng
ta tìm thấy vào cuối tất cả những cuộc phiêu lưu.
Trên thực tế, sự việc xảy ra như thế có lẽ là tốt. Kẻ
từng chịu khổ đau nhiều hơn và khác hơn những người khác thì nên sống biệt lập. Ở
bên ngoài bất cứ cuộc sống có tổ chức nào. Hắn làm không khí nhiễm độc. Hắn
biến không khí thành cái không thích hợp để hít thở. Hắn làm
cho sự hân hoan mất tính cách hồn nhiên và chính đáng của nó. Hắn huỷ
diệt lòng hy vọng và ý chí muốn sống. Hắn là sự nhập thể của thời
gian, phủ nhận hiện tại tương lai và chỉ thừa nhận luật lệ khắc nghiệt của ký ức. Hắn
đau khổ và sự khổ đau ấy truyền nhiễm, gây ra những âm vang chung quanh hắn.
Tôi đã quyết định, tới một ngày nào đó tôi sẽ bỏ Kathleen mà
đi. Làm như vậy tốt hơn cho nàng. Nếu tôi quên được thì
tôi sẽ ở lại. Tôi không quên được. Có những lúc con người
không được quyền đau khổ.
“Em đề nghị một giao kèo,” Kathleen nói. “Em sẽ để
anh giúp em với điều kiện anh để em giúp anh. Được chứ?”
Kathleen khốn khổ! tôi nghĩ. Để thay đổi, chúng ta
phải thay đổi quá khứ. Nhưng quá khứ nằm bên kia sức mạnh của chúng
ta. Cấu trúc của quá khứ thì rắn chắc, bất biến. Quá khứ
đó là chiếc khăn trùm đầu của bà nội tôi, đen hết sức đen, như mây nghĩa địa. Quên
đám mây đó ư? Đám mây đó chính là bà nội của tôi, là con trai của
bà, là mẹ tôi. Thời đại mà chúng ta đang sống đây ngu ngơ biết mấy! Mọi
sự đảo lộn. Các nghĩa địa bị đưa lên cao, lơ lửng lưng trời, thay vì
đào sâu dưới lòng đất ẩm. Chúng ta đang nằm trong giường, thân thể
trần truồng của anh tựa vào thân thể trần truồng của em, và chúng ta nói tới những
đám mây đen, tới những nghĩa trang bồng bềnh, tới tiếng cười ré lên của thần chết
và tới số phận, cái duy nhất và giống nhau. Kathleen ạ, em đang nói
tới hạnh phúc; em làm như thể hạnh phúc là cái có thể sở hữu. Nó còn
không được là một giấc mơ. Hạnh phúc cũng đã chết. Nó
cũng đã bị đưa lên cao. Mọi sự đã tìm nơi ẩn náu ở trên
cao. Và ở đây, bên dưới này, trống rỗng biết mấy! Cuộc sống
chính thì đang ở trên đó. Nơi đây, dưới này, chẳng có
gì. Kathleen ơi, chẳng có gì cả. Nơi đây chúng tôi có sa
mạc khô cằn. Một sa mạc chẳng có tới một ảo tượng. Nó là
một nhà ga nơi đứa bé bị bỏ lại trên sân ga, nhìn cha mẹ mình bị con tàu mang
đi biền biệt, và nơi họ đứng chỉ còn là khói đen. Họ là khói
đó. Hạnh phúc ư? Hạnh phúc, đối với đứa bé ấy, hẳn là việc
con tàu kia quay trở lại. Nhưng em biết các con tàu ra sao rồi:
chúng lúc nào cũng chạy tới phía trước. Chỉ có khói là quay trở lại. Vâng,
nhà ga của chúng tôi là nơi kinh khiếp! Những người như anh, kẻ từng
ở nơi đó, nên ở lại chỗ đó một mình, Kathleen ạ. Chớ để nỗi khổ đau
trong chúng tôi giao tiếp với người khác. Chúng tôi không nên cho họ
mùi vị chua chát, mùi khói mây mà chúng tôi đang có trong miệng
mình. Kathleen ạ, chúng tôi không được quyền làm vậy. Em
nói “yêu”. Và em không biết rằng tình yêu cũng đã bị con tàu đó mang
theo đi thẳng lên các tầng trời. Lúc này, mọi sự đã bị chuyển giao
lên đó. Tình yêu, hạnh phúc, chân lý, sự thanh khiết, các trẻ em với
những nụ cười vui tươi, các phụ nữ với những đôi mắt mơ huyền, những người già
bước đi chầm chậm, những em bé mồ côi mà lời cầu nguyện của chúng chan chứa khổ
đau. Đó là cuộc xuất hành chân chính. Cuộc xuất hành từ
thế giới này sang thế giới khác. Các dân tộc cổ đại có óc tưởng tượng
hạn chế. Người chết của chúng ta mang theo họ sang kiếp sau không chỉ
quần áo và thực phẩm mà còn tương lai của con cháu họ. Ở đây, bên dưới
này, không còn lại gì. Và em nói tới tình yêu? Và em nói
tới hạnh phúc hở Kathleen? Những kẻ khác nói tới công lý, tới đại đồng
hay không đại đồng, tới tự do, tới tình huynh đệ, tới tiến bộ. Họ
không biết rằng địa cầu này đang khô kiệt và rằng con tàu khổng lồ đó đã mang mọi
sự đi mất hút lên các tầng trời.
“Vậy, anh chấp nhận?” Kathleen hỏi.
“Chấp nhận cái gì?” tôi ngạc nhiên.
“Cái giao kèo em đề nghị.”
“Dĩ nhiên,” tôi lơ đãng trả lời. “Anh chấp nhận.”
“Và anh sẽ để em làm cho anh hạnh phúc?”
“Anh sẽ để em làm cho anh hạnh phúc.”
“Và anh hứa quên hết quá khứ đó?”
“Anh hứa quên hết quá khứ đó.”
“Và anh sẽ chỉ nghĩ đến tình yêu của chúng mình?”
“Vâng.”
Nàng đi từ đầu đến cuối bản câu hỏi của nàng. Nàng
ngừng lại lấy hơi thở rồi hỏi bằng một giọng khác, “Trước đây anh ở đâu?”
“Nơi nhà ga,” tôi nói.
“Em không hiểu.”
“Nơi nhà ga,” tôi nói. “Anh ở nơi nhà ga ấy. Nó
nhỏ lắm. Nhà ga của một tỉnh nhỏ. Con tàu vừa lăn
bánh. Anh bị bỏ lại một mình trên sân ga. Cha mẹ anh trên
con tàu đó. Họ quên anh rồi.”
Kathleen không nói gì.
“Đầu tiên, anh oán giận. Họ không nên bỏ anh lại đằng
sau một mình trên sân ga. Nhưng phút chốc, anh bỗng nhiên thấy ra một
điều lạ lùng: con tàu đó rời đường ray và leo lên các tầng trời mịt mù khói
xám. Anh bàng hoàng tới độ không thể gào lên với cha mẹ mình: Cha mẹ
đang làm gì thế? Quay lại đi! Nếu anh la lên được thì có
thể họ đã quay trở lại.”
Tôi bắt đầu cảm thấy mệt. Tôi đổ mồ
hôi. Trong giường nóng. Có chiếc xe vừa rít lên dừng lại
dưới cửa sổ.
“Anh đã hứa không nghĩ tới nó nữa,” Kathleen nói trong tuyệt
vọng.
“Tha lỗi cho anh. Anh sẽ không nghĩ tới nó nữa. Dù
sao đi nữa thời nay việc đi đây đi đó bằng tàu lửa lỗi thời rồi. Thế
giới đã tiến bộ.”
“Chắc chứ?”
“Chắc chắn.”
Nàng ép sát mình vô người tôi.
“Hễ khi nào ý nghĩ của anh mang anh tới nhà ga nhỏ đó thì anh
nói cho em biết. Chúng ta sẽ cùng nhau chiến đấu. Được chứ?”
“Được.”
“Em yêu anh.”
Tai nạn xảy ra ngày kế đó.
Mười tuần lễ trải qua trong thế giới bó bột đã làm tôi
phong phú hơn.
Tôi học được rằng con người phải sống cách khác, tùy vào vị
trí chiều ngang hoặc chiều dọc của mình. Bóng tối trên các bức vách
và trên các khuôn mặt không giống nhau.
Ba người đến thăm tôi hằng ngày. Paul Russel buổi
sáng; Kathleen buổi tối; Gyula buổi chiều. Anh đến một
mình. Anh là bạn của tôi.
Là một họa sĩ, gốc Hungary, Gyula như một tảng đá sống động. Một
con người to lớn đúng với mọi nghĩa của từ ngữ đó. Cao, lực lưỡng,
vui tính, tóc rối tơi bời, đôi mắt khinh bạc và nồng nàn; anh đẩy mọi sự chung
quanh anh qua một bên: các bàn thờ, các ý tưởng, các ngọn núi. Dưới
mắt nhìn của anh và khi tay anh chạm vào, vạn vật rung động.
Dù cách biệt tuổi tác, chúng tôi có rất nhiều điểm
chung. Tuần nào chúng tôi cũng đi ăn trưa với nhau tại một tiệm
Hungary ở Mé Đông. Chúng tôi khích lệ nhau chịu đựng tới cùng, không
tìm cách thỏa hiệp, không đi tới một thoả thuận nào với cuộc đời, không dễ dãi
chấp nhận chiến thắng. Những cuộc nói chuyện của chúng tôi có vẻ như
đang bông đùa. Chúng tôi ghét cay ghét đắng những biểu lộ tình cảm
có tính cách ủy mị. Chúng tôi tránh những kẻ coi bản thân một cách
trang trọng và đặc biệt, những kẻ đòi hỏi người khác cũng phải làm như vậy. Chúng
tôi không dung thứ nhau. Tuy thế, tình bạn của chúng tôi lành mạnh,
mộc mạc và sâu đậm.
Tôi đang dở sống dở chết khi anh ào vô phòng, dùng vai huých
người y tá qua một bên (cô đang sửa soạn chích cho tôi một mũi thuốc); không hỏi
tôi tiếng nào, anh tuyên bố với giọng trịnh trọng và dứt khoát rằng anh sắp vẽ
chân dung tôi.
Cô y tá tay đang cầm ống chích, nhìn anh mà khiếp vía.
“Anh làm gì vậy? Ai cho anh vô đây? Ra
ngay!”
Gyula nhìn cô với lòng trắc ẩn như thể cô là người khật
khùng.
“Cô đẹp tuyệt vời,” anh nói với cô. “Nhưng khùng!”
Anh ngắm nghía cô, tỏ vẻ thú vị.
“Thời nay, các phụ nữ đẹp khùng chưa tới nơi tới chốn,” anh
tiếp tục một cách tiếc rẻ. “Nhưng khùng như cô cũng vừa đủ. Tôi
thích cô.”
Cô y tá khốn khổ - một sinh viên trẻ - sắp trào nước mắt. Cô
lắp bắp:
“Chích thuốc... Đi ra... Tôi phải...”
“Để sau!” Gyula ra lệnh.
Và anh túm lấy cánh tay cô, đẩy cô ra cửa. Ở ngưỡng
cửa, cô thầm thì vào tai anh điều gì đó.
“Này! Anh bạn!” Guyla nói sau khi đóng cửa. “Cô ta
nói anh bệnh rất trầm trọng. Rằng anh sắp chết! Anh không
xấu hổ vì sắp chết sao?”
“Có,” tôi trả lời yếu ớt. “Tôi xấu hổ.”
Gyula đi quanh phòng làm quen với cảnh sắc, các bức vách, mùi
phòng bệnh. Rồi anh dừng lại bên giường, thách thức tôi:
“Không được chết trước khi tôi vẽ xong chân dung
anh. Anh nghe rõ chưa? Sau đó tôi cóc cần! Nhưng đừng chết
trước đó. Hiểu chưa?”
“Gyula ạ, anh là một quái vật,” tôi xúc động nói với anh.
“Anh không hiểu ư?” anh ngạc nhiên. “Các nghệ sĩ
là những quái vật tệ hại nhất: họ sống trên cuộc sống và cái chết của người
khác.”
Tôi nghĩ là anh sẽ hỏi tôi tai nạn xảy ra như thế
nào. Anh không hỏi. Tuy vậy, tôi muốn anh biết.
“Anh có muốn tôi kể chuyện đó cho anh nghe không?” tôi hỏi
anh.
“Anh không cần kể,” anh trả lời một cách bất cần. “Tôi
không cần lời giải thích của anh.”
Quanh mắt anh đậm đà những vòng tròn trìu mến.
“Tôi muốn anh biết,” tôi nói.
“Tôi sẽ biết.”
“Đó là một bí mật,” tôi nói. “Không ai biết bí mật
đó. Tôi muốn kể với anh.”
“Anh không cần kể,” anh trả lời khinh khỉnh. “Tôi
thích tự mình phát hiện mọi sự.”
Tôi rán cười. “Tôi có thể chết trước khi anh có cơ
hội.”
Anh bừng bừng với cơn thịnh nộ và hăm he. “Tôi đã
bảo anh, không được chết trước khi tôi vẽ xong chân dung anh. Vẽ
xong, anh có thể chết lui chết tới hay chết bất cứ lúc nào tùy thích.”
Tôi hãnh diện. Hãnh diện về anh, về tôi và về tình
bạn của chúng tôi. Về các lề luật khắc nghiệt mà chúng tôi lập
ra. Chúng tôi bảo vệ chúng tôi chống lại những thành công và những cố
định của kẻ yếu đuối. Chỉ xảy ra những trao đổi chân chính ở nơi đòi
hỏi những lời mộc mạc và ở nơi chúng tôi sắp xếp để làm thế nào nói tới vấn đề
bất tử của linh hồn bằng những câu tầm thường tới độ sửng sốt.
Chiều nào Gyula cũng quay lại nhà thương. Các y tá
biết rằng khi anh có mặt trong phòng tôi thì chớ quấy rầy chúng
tôi. Đối với họ anh là một sinh vật với những lời mắng nhiếc - bằng
tiếng Hungary - sẽ làm tới cả mặt của một cô gái da đen cũng phải ửng đỏ.
Trong khi phác thảo, Gyula kể với tôi nhiều chuyện. Anh
là người kể chuyện tuyệt vời. Cuộc đời anh đầy ắp vô số những cuộc
phiêu lưu và những nếm trải kích thích ảo giác. Anh từng chết đói ở
Paris, ban phát thời vận ở Hollywood, dạy ma thuật và thuật giả kim gần như khắp
nơi. Anh biết tất cả những nhân vật vĩ đại của văn học và nghệ thuật
đương thời; anh thích những yếu đuối của họ và bỏ qua những thành công của họ. Gyula
cũng có một nỗi ám ảnh: đem mình đọ sức với số phận, để buộc số phận phô ra cho
con người ý nghĩa sự tàn bạo của nó. Nhưng dĩ nhiên anh chỉ nói tới
điều đó một cách khinh bạc.
Ngày nọ, anh tới như thường lệ, lúc mới chớm buổi chiều, đứng
in hình lên khung cửa sổ và bắt đầu làm việc. Anh yên lặng. Khi
đi vào anh cũng chẳng chào tôi. Anh có vẻ ưu tư. Nửa giờ,
rồi một giờ. Đột nhiên anh thôi động đậy, và vẫn không nhúc nhích,
anh nhìn thẳng vào mắt tôi như thể anh vừa xé tan tành bức màn vô hình phủ lên
mắt tôi. Trong vài giây, chúng tôi đăm đăm nhìn nhau. Đôi
lông mày rậm của anh nhíu thành hai hình vòng cung: anh đã bắt đầu hiểu.
“Anh có muốn tôi kể cho anh nghe?” tôi bối rối.
“Không,” anh lạnh lùng trả lời. “Các câu chuyện của
anh chẳng ích lợi gì cho tôi cả.”
Và anh lại vùi đầu vào tác phẩm của mình, nơi anh tìm thấy
các câu trả lời cho mọi câu hỏi, và các câu hỏi cho mọi câu trả lời.
Một tuần sau, anh nói với tôi một điều không liên quan gì tới
đề tài chúng tôi đang thảo luận. Chúng tôi đang nói tới tình hình quốc
tế, nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ ba, vai trò quan trọng mà Trung hoa
không bao lâu nữa sẽ đóng. Đột nhiên, Gyula đổi đề tài.
“Mà này,” anh nói, “tôi đã kể anh nghe câu chuyện tôi suýt chết
đuối chưa nhỉ?”
“Chưa.” Tôi hỏi một cách chế giễu. “Nó xảy ra ở đâu vậy, ở
bên Tàu chắc?”
“Anh không việc gì phải ý kiến ý cò” anh nói. “Tốt
hơn là anh ngậm miệng mà nghe.”
Gyula anh bạn già tuyệt vời của
tôi! Tôi nghĩ. Anh tỏ tình với một phụ nữ như
thế nào? Anh sẽ làm như thể nhục mạ cô ta, nếu cô ta không hiểu kiểu
tỏ tình đó thì anh chỉ có việc là không còn yêu cô ta nữa. Gyula anh
bạn già tuyệt vời của tôi!
Mùa hè năm đó anh tới vùng Riviera thuộc Pháp để nghỉ hè, trốn
cái nóng. Anh thường ra biển. Sáng đó anh bơi ra rất
xa. Thình lình, anh bị vọp bẻ, cứng cả người. Không thể
nhúc nhích cả chân lẫn tay, người anh chìm dần.
“Tôi bắt đầu uống nước biển mặn,” anh nói. “Tôi
không cảm thấy sợ hãi chút nào. Tôi biết mình đang chết nhưng vẫn
bình tĩnh. Trong tôi chan chứa sự êm dịu thanh thản lạ thường. Tôi
nghĩ: cuối cùng tôi đã biết người đang chết đuối suy nghĩ gì. Đó là
ý nghĩ cuối cùng của tôi. Rồi tôi ngất đi.”
Anh được cứu. Có kẻ thấy anh đang chìm và cứu nạn
anh.
Trong khi nhìn theo những nét cọ của mình chạy trên khung vải,
Gyula tiếp tục, mỉm cười, một cách khó thấy.
“Khi tỉnh lại, tôi nhìn khắp chung quanh mình. Tôi
đang nằm trên cát, giữa một đám người hiếu kỳ. Có một ông già đầu
hói, bác sĩ, đang cúi xuống nhìn tôi và bắt mạch tôi. Trong vòng người
sát tôi nhất, một phụ nữ trẻ ngó tôi. Tôi mơ hồ thấy cô ta cười với
mình mà trên mặt vẫn còn vẻ kinh hoàng. Một phụ nữ kinh hãi đang nở
nụ cười, quang cảnh đó khốn khổ biết mấy. Tôi nghĩ: mình còn sống. Mình
qua mặt được thần chết. Thêm lần nữa thần chết không chộp nổi
mình. Bằng chứng đây: mình đang thấy một phụ nữ nhìn mình và mỉm cười. Mặt
cô ta còn hãi hùng vì thần chết vẫn còn quá gần, ở ngay đằng sau
tôi. Nụ cười của cô ta chỉ dành cho tôi, cho riêng tôi
thôi. Tôi tự bảo mình: mình có thể ở đây, đúng chỗ này, và không thấy
thiếu nữ đó, kẻ ngay lúc ấy yêu kiều và tuyệt đẹp hơn bất cứ người nào
khác. Mình có thể thấy một phụ nữ khác không cười với
mình. Thế mà mình đã thấy một phụ nữ cười với mình. Tôi tự
nhủ, mình phải coi mình là người hạnh phúc. Hạnh phúc được tự
do. Tự do để thêm lần nữa trêu ghẹo thần chết. Tự do để
chấp nhận hoặc từ khước tự do. Sự trì hoản này hẳn cho tôi cảm giác
hạnh phúc. Tuy thế, tôi không có cảm giác đó. Tôi cẩn thận
dò xét mình: không tìm được dấu vết vui mừng nào. Bác sĩ đang khám
tôi, người ta đang dành cho tôi những biểu lộ thiện cảm thầm lặng như một thứ của
bố thí, và nụ cười của người phụ nữ trẻ đó càng lúc càng tươi tắn hơn - đó là
cách người ta mỉm cười trước sự sống. Mặc dù có những cái đó, tôi vẫn
không cảm thấy hạnh phúc. Ngược lại, tôi cảm thấy buồn bã và thất vọng
kinh khủng. Sau này, lần suýt chết đuối ấy làm tôi ca hát và nhảy
múa. Nhưng vào lúc đó, tại đó, trên cát, dưới mặt trời chiếu đỏ nóng
rực, dưới đôi mắt của cô gái trẻ không quen ấy, tôi cảm thấy thất vọng, thất vọng
vì đã trở về cuộc sống.”
Gyula yên lặng làm việc trong một lúc lâu. Tôi
nghĩ anh vừa nhắm mắt vừa vẽ. Tôi không ngạc nhiên nếu anh vẫn thất
vọng. Và nếu sau ngày đó anh gặp lại người phụ nữ trẻ ấy. Nhưng
tôi chẳng nói gì. Paul Russel lại về trong tâm trí
tôi. Người bác sĩ ấy lầm, tôi suy nghĩ. Sống không nhất
thiết phải muốn sống. Cuộc sống chỉ thật sự quyến rũ bởi cái chết. Đời
sống chỉ rộn ràng khi nó tiếp xúc với cái chết.
“Anh nghe tôi nói đây! Gyula, anh có nghe không?” tôi thăm
dò.
Anh giật mình, như thể tôi vừa ép buộc anh mở mắt
ra. Anh cười thoáng có vẻ nhạo báng.
“Không, tôi không nghe đâu,” anh nói.
“Nhưng tôi muốn anh biết.”
“Biết cái gì?”
“Biết mọi sự.”
“Tôi không cần biết chỉ để mà biết các câu chuyện của anh.”
Gyula anh bạn già tuyệt vời! tôi nghĩ. Điều gì xảy
ra cho cô gái trẻ trên bãi biển ấy? Có phải sau đó anh đã sỉ nhục cô
ta? Có phải anh đã nói với cô ta, “Cô là một con chó cái tơ, một con
chó cái bẩn thỉu còn tơ”? Cô ta có hiểu đó là một lối tỏ tình?
“Gyula.” tôi hỏi anh, “điều gì xảy ra cho người phụ nữ không
quen đó?”
“Người phụ nữ không quen nào?”
“Cô gái trên bãi biển đó. Người đã mỉm cười với
anh đó?”
Anh gập người xuống rộ lên tiếng cười lớn, tiếng cười ấy chắc
là để che dấu một con sóng dịu dàng từ một quá khứ xa xăm đang trào dâng trong
lòng anh.
“—, cô gái đó ư?” anh nói bằng giọng cố làm ra vẻ dung tục. “Cô
ta là một con chó cái tơ, một con chó cái bẩn thỉu còn tơ!”.
Tôi không thể nhịn cười. “Anh đã nói với cô ta như
vậy?”
“Đương nhiên là tôi đã nói như vậy với cô ta!” anh nhận ra
tôi đang cười mỉm. “Anh đồ quái vật,” anh thét lớn với tôi bằng giọng
gớm ghiếc. “Để yên cho tôi làm việc. Tôi đập anh bây giờ.”
Hôm trước ngày tôi được phép xuất viện, Gyula đi vào, quanh
người anh ánh lên hào quang ngạo nghễ. Anh đứng ở chân giường, giữa
dòng sông và tôi, như một tướng lãnh vừa chiến thắng, tuyên bố một tin mừng: bức
chân dung đã xong.
“Và lúc này, anh chết được rồi,” anh nói.
Gyula đặt bức tranh dựa lên thành ghế. Anh tần ngần
một giây. Rồi xoay lưng lại với tôi, anh bước sang một
bên. Tim tôi đập dữ dội. Tôi ở đó, đang đối mặt tôi. Toàn
bộ quá khứ của tôi đang ở đó, đang đối mặt tôi. Bức tranh vẽ bằng
màu đen, lấm tấm nổi bật vài chấm đỏ. Bầu trời đen kịt. Mặt
trời xám xịt. Mắt tôi đỏ ngầu, giống con mắt của
Soutine. Đôi mắt ấy là mắt của kẻ đã thấy Thượng đế phạm một tội ác
nặng nề nhất, không thể tha thứ: giết người vô cớ.
“Anh thấy,” Gyula nói. “Anh không biết cách nói;
anh chỉ là anh khi anh im lặng.”
Người anh rung rung; không giấu nổi cảm xúc của mình.
“Đừng nói,” anh thêm. “Tôi chỉ yêu cầu anh vậy
thôi.”
Và để che dấu, anh bước tới cửa sổ, nhìn xuống những con sóng
của Sông Đông đang nô đùa, dịu dàng xao động chuyển dịch tới thời điểm chúng hẹn
hò với vĩnh cửu. Anh đã đoán ra. Nhìn bức tranh là đủ biết
anh đã nhận ra. Tai nạn chỉ là tai nạn theo nghĩa giới hạn nhất của
từ ngữ đó. Chiếc tắc xi, tôi có thấy chiếc tắc xi ấy chạy tới. Tuy
chỉ trong chớp mắt nhưng tôi có thấy nó, và tôi đã có thể tránh được nó.
Lúc này, diễn ra cuộc đối thoại trong im lặng giữa Gyula và
tôi.
“Anh thấy không? Có thể Thượng đế đã chết, nhưng
con người thì đang sống. Bằng chứng: con người có thể có tình bạn.”
“Nhưng về những người khác thì sao? Gyula ạ, những
người khác? Những kẻ đã chết? Họ thì sao? Ngoài tôi ra, họ không có ai là bạn.”
“Anh phải quên họ. Anh phải xua đuổi họ ra khỏi ký
ức của anh. Nếu cần thì dùng roi.”
“Xua đuổi họ, Gyula? Với cây roi, anh nói vậy
ư? Xua đuổi cha tôi bằng roi? Và bà nội của
tôi? Bà nội của tôi cũng vậy, xua đuổi bà bằng roi?”
“Đúng, đúng và đúng. Người chết không có chỗ ở
đây. Họ phải để chúng ta yên. Nếu họ không chịu đi, hãy
dùng tới roi.”
“Và Gyula ơi, bức tranh này thì sao? Họ đang ở
đó. Trong đôi mắt của bức tranh. Tại sao anh lại đặt họ
vào đó trong khi anh yêu cầu tôi xua đuổi họ?”
“Tôi đặt họ vào đó để xác định chỗ cho họ. Để anh
biết chỗ mà đánh.”
“Tôi không thể, Gyula ơi. Tôi không thể.”
Gyula xoay người lại, và thình linh, tôi thấy anh già nua hẳn. Đầu
anh bạc phơ, tóc anh lưa thưa hơn, mặt anh lấm tấm.
“Đau khổ là để cho người đang sống, không cho kẻ đã chết,”
anh nói, nhìn thật thẳng và nhìn xuyên suốt người tôi. “Nghĩa vụ của
con người là phải làm cho đau khổ chấm dứt chứ không phải là làm cho đau khổ
gia tăng. Bớt đau khổ đi được một giờ thì đã là một chiến thắng trên
số phận.”
Vâng, anh đã già nua hơn. Lúc này, chính người già
ấy đang nói chuyện với tôi, trao cho tôi kiến thức muôn thuở, cái cắt nghĩa tại
sao trần gian vẫn nổi loạn và tại sao con người vẫn hướng mắt nhìn tới tương
lai. Không kịp lấy hơi, anh tiếp tục nói, như thể từ lâu anh đã dành
sẵn những lời này cho tôi.
“Nếu nỗi đau khổ của anh vấy lên những người khác, những người
chung quanh anh, những người mà anh tiêu biểu cho lý do sống của họ, thì lúc ấy
anh phải giết nỗi đau khổ đó, bóp cổ nó cho nó chết. Nếu người chết
là nguồn gốc của nỗi đau khổ đó thì anh hãy giết họ thêm lần nữa, anh phải cắt
lưỡi họ, thường xuyên cắt lưỡi họ.”
Lòng tôi ngập tràn một nỗi buồn vô hạn. Tôi có cảm
tưởng mình đang mất một người bạn: anh ta đang phán xét tôi.
“Giả dụ không thể làm được việc đó?” tôi hỏi anh, cảm thấy vô
cùng chán nản. “Thì ta nên làm gì? Dối trá
ư? Tôi thích sự minh bạch.”
Anh chầm chậm lắc đầu.
“Sự minh bạch là chiến thắng của số phận, không phải là chiến
thắng của con người. Nó là một hành động tự do mang bên trong chính
nó sự phủ định tự do. Con người phải tiếp tục chuyển động, tìm kiếm,
cân nhắc, đưa tay mình ra, dâng hiến bản thân, khám phá bản thân.”
Đột nhiên tôi có cảm tưởng rằng chính ông thầy của tôi,
Kalman, nhà huyền học, đang nói chuyện với tôi. Giọng của ông cũng
kiểu này, một giọng đầy am hiểu. Nhưng Kalman là thầy tôi, không phải
là bạn tôi.
“Anh nên hiểu điều này,” Gyula tiếp tục, không đổi giọng,
không chớp mắt. “Anh nên biết rằng kẻ chết thì không còn tự do,
không còn có thể đau khổ. Chỉ người sống mới có thể tự do, có thể
đau khổ. Kathleen đang sống. Tôi đang sống. Anh
phải nghĩ tới chúng tôi. Đừng nghĩ tới họ.”
Anh ngưng lại để nhồi tẩu thuốc hoặc có thể vì chẳng còn gì để
nói thêm. Mọi sự đã được nói ra. Những lập luận tán thành
và những lập luận phản bác. Tôi phải chọn giữa người đang sống và kẻ
đã chết. Gyula hoặc Kalman.
Tôi nhìn bức chân dung, và ẩn chứa trong đôi mắt của nó, tôi
thấy bà nội tôi với chiếc khăn trùm đầu màu đen. Trên bộ mặt héo hắt
của bà mang vẻ đau khổ một cách bình an. Bà đang bảo
tôi: Cháu đừng sợ gì cả. Nội sẽ ở bất cứ nơi nào cháu ở. Nội
không bao giờ thêm lần nữa để cháu một mình trên sân ga. Hoặc một
mình trên góc đường ở một thành phố nước ngoài. Nội sẽ mang cháu
theo với nội. Trên con tàu lên các tầng trời. Và cháu sẽ
không còn thấy trần gian nữa. Nội sẽ dấu nó không để cho cháu thấy. Bằng
chiếc khăn trùm đầu màu đen của nội.
“Anh xuất viện ngày mai?” Gyula hỏi, bằng giọng có vẻ bình
thường trở lại.
“Vâng, ngày mai.”
“Kathleen sẽ chăm sóc anh?”
“Vâng.”
“Nàng yêu anh.”
“Tôi biết.”
Im lặng.
“Anh bước đi được chứ?”
“Với cặp nạng,” tôi trả lời. “Họ sẽ tháo băng bột. Nhưng
chân tôi hoàn toàn không chịu được sức nặng. Tôi phải đi nạng.”
“Anh có thể dựa vào Kathleen. Nàng sẽ hạnh phúc nếu
anh dựa vào nàng. Tiếp nhận là một hình thức cao nhất của lòng quảng
đại. Hãy làm cho nàng hạnh phúc. Một chút hạnh phúc đủ biện
hộ cho suốt một đời nỗ lực.”
Tôi đã quyết, Kathleen sẽ hạnh phúc. Tôi sẽ học
nói dối thật thành thạo và nàng sẽ hạnh phúc. Thật phi lý: những lời
nói dối có thể sinh ra hạnh phúc chân chính. Chừng nào mà hạnh phúc
đó còn kéo dài thì nó còn có vẻ thật. Người đang sống thích lời nói
dối, đó là cách họ thích tình bạn. Kẻ đã chết không thích lời nói dối. Bà
nội của tôi hẳn không chấp nhận những lời kể chưa đúng sự thật của người
khác. Tôi hứa với bà nội của tôi, lần sau cháu sẽ cẩn thận. Cháu
không để lỡ tàu thêm lần nữa.
Tôi phải chăm chú nhìn bức chân dung đó vì đột nhiên Gyula bắt
đầu cắn chặt răng. Với cử chỉ giận dữ và điên tiết, anh bật que
diêm, châm lửa bên dưới khung vải.
“Đừng!” tôi kêu lên tuyệt vọng. “Đừng làm vậy!
Gyula, đừng làm vậy! Đừng thiêu bà nội của tôi lần nữa! Ngừng tay lại, Gyula,
ngừng tay!”
Gyula đứng im, không phản ứng. Mặt anh khép lại và
trầm xuống, các đầu ngón tay anh cầm khung vải, xoay xoay đủ hướng và chờ nó
thu lại thành tro. Tôi muốn nhảy chồm lên người anh nhưng tôi quá yếu,
không ra khỏi giường được. Tôi không cầm được nước mắt. Tôi
khóc rất lâu sau khi Gyula đã đóng cửa lại sau lưng anh. Anh quên
mang theo tro
22/9/2010
Elie Wiesel Nguyễn Ước dịch |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét