Thứ Năm, 20 tháng 2, 2025

Về từ cõi chết 3: Tai nạn

Về từ cõi chết 3: Tai nạn

Chương 1
1. Tai nạn xảy ra vào một tối tháng Bảy, ngay trung tâm thành phố New York, lúc tôi cùng Kathleen băng qua đường để tới xem phim Anh em nhà Karamazov.
Trời oi bức, ngột ngạt: cái nóng ngấm vào xương, vào mạch máu, vào phổi.  Khó mở miệng nói, thở cũng khó.  Vạn vật bị phủ trùm một tấm vải to lớn và nhớp nháp.  Cái nóng bám vào da, như một lời nguyền rủa.
Người ta bước quờ quạng, nhìn phờ phạc, miệng khô rang như miệng người già đang nhìn sự suy sụp của đời mình, đang hi vọng vứt bỏ mọi hành trang của chính mình để khỏi nổi điên.  Hình hài họ tràn ngập sự gớm ghiếc.
Tôi mệt. Tôi vừa làm xong công việc của mình: một bức điện tín dài năm trăm chữ. Năm trăm chữ chẳng nói lên điều gì. Chỉ để làm cho đầy một ngày trống rỗng. Đây là một trong những ngày Chúa nhật đều đều và yên tĩnh, không để lại dấu vết trên thời gian. Washington: không có gì. Liên hiệp quốc: không có gì. New York: không có gì. Cả Hollywood cũng nói: không có gì.  Các ngôi sao màn bạc đã bỏ rơi tin tức.
Thật chẳng dễ dùng năm trăm chữ để nói rằng không có gì nói.  Sau hai giờ làm việc cực nhọc, tôi kiệt sức.
“Bây giờ mình làm gì đây?” Kathleen hỏi.
“Gì cũng được, tùy ý em,” tôi trả lời.
Chúng tôi đang đứng ở góc Đường Bảy Mươi Tư, ngay đằng trước Sheraton-Astor.  Tôi cảm thấy chóng mặt, nặng nề và trong đầu có màn sương dày.  Một cử động nhẹ nhàng nhất cũng có vẻ như đang cố sức cử một hành tinh lên.  Có chì trong hai cánh tay và hai chân tôi.
Tôi có thể thấy cơn lốc người phía bên phải mình, trong Quảng trường Times.  Người ta đi ở đó như đi ra biển: không phải để chống lại sự chán chường của một căn phòng đầy ứ các giấc mơ tàn lụi, mà là để cảm thấy ít cô độc hơn hoặc cô độc nhiều hơn.
Thế giới thu mình trong một chuyển động chầm chậm dưới sức nặng của cái nóng.  Cảnh vật dường như không thật.  Trong ánh đèn nê-ong muôn màu như ngày hội, người ta đi lui đi tới, cười, hát, la hét, mắng nhau, làm tất cả những việc ấy với vẻ lừ đừ cáu kỉnh.
Ba thủy thủ từ một khách sạn bước ra.  Khi thấy Kathleen, họ chửng lại, đồng thanh huýt lên tiếng sáo dài ngưỡng mộ.
“Mình đi thôi,” Kathleen vừa nói vừa kéo tay tôi.  Rõ ràng nàng khổ sở.
“Em bực họ làm gì?” tôi hỏi.  “Họ nghĩ là em đẹp.”
“Em không thích họ huýt sáo như vậy.”
Tôi nói bằng giọng giảng giải.  “Đó là cách họ nhìn phụ nữ: không bằng mắt mà bằng miệng.  Các thủy thủ để dành mắt mình cho biển: khi lên đất liền, họ để mắt lại đằng sau như những biểu hiện của tình yêu.”
Ba người ngưỡng mộ ấy đi đã một lúc.
“Còn anh?” Kathleen hỏi.  “Anh nhìn em bằng cái gì?”
Nàng thích qui hướng mọi sự vào chúng tôi.  Trong vũ trụ của nàng, chúng tôi là tâm điểm.  Đối với nàng, người khác có sống thì chỉ là để cho nàng đem ra so sánh với chúng tôi.
“Anh? Anh không nhìn em,” tôi trả lời, hơi cực lòng.  Im lặng.  Tôi đang cắn lưỡi mình.  “Nhưng anh yêu em.  Em biết điều đó mà.”
“Anh yêu em sao anh không nhìn em?” nàng rầu rỉ hỏi.  “Cám ơn lời xưng tụng.”
“Em không hiểu,” tôi tiếp lời ngay.  “Người ta không nhất thiết phải loại bỏ kẻ khác.  Em có thể yêu Thượng đế nhưng em không nhìn được Ngài.”
Nàng có vẻ hài lòng với sự so sánh đó.  Tôi sẽ tập nói dối.
“Khi anh yêu Thượng đế thì anh nhìn ai?” nàng hỏi sau một chút im lặng.
“Em chứ ai.  Nếu con người có thể ngắm nghía bộ mặt của Thượng đế thì hẳn sẽ thôi yêu ngài.  Thượng đế cần tình yêu; ngài không cần sự am hiểu.”
“Còn anh?”
Với Kathleen thì ngay cả Thượng đế cũng không phải là một đề tài để thảo luận mà chỉ là một lối đẩy đưa cuộc nói chuyện về lại chúng tôi.
“Anh cũng vậy,” tôi nói dối.  “Anh cũng vậy, anh cần tình yêu của em...”
Chúng tôi vẫn đứng tại chỗ.  Tại sao chúng tôi không cất bước.  Tôi không biết.  Có lẽ chúng tôi đang chờ tai nạn.
Tôi tiếp tục suy nghĩ, mình phải học cách nói dối.  Dù có phải bỏ ra một ít thời giờ.  Để nói dối như thật.  Cho đến lúc này, mình nói dối quá dở.  Tôi ngượng nghịu, nét mặt tôi phản lại tôi và chắc là tôi bắt đầu đỏ mặt.
“Mình chờ gì đây?” Kathleen bắt đầu nóng ruột.
“Không gì cả,” tôi nói.
Tôi đang nói dối mà không biết: chúng tôi đang chờ tai nạn.
“Anh vẫn không thấy đói?”
“Không,” tôi trả lời.
“Nhưng từ sáng tới bây giờ anh chưa ăn gì,” nàng nói một cách hờn trách.
“Không.”
Kathleen thở dài.
“Anh nghĩ là anh chịu đựng được bao lâu nữa?  Anh đang giết anh dần mòn...”
Gần đó có một tiệm ăn nhỏ.  Chúng tôi bước vào.  Được rồi, tôi tự nhủ.  Mình cũng phải học ăn.  Và học yêu.  Ngươi có thể học bất cứ cái gì.
Mười hoặc mười hai người ngồi trên ghế cao màu đỏ trước quầy đang im lặng ăn.  Kathleen lúc này thấy mình lọt vào một vùng đầy những cái liếc nhìn chằm chặp của họ.  Nàng đẹp.  Khuôn mặt nàng, đặc biệt quanh đôi môi, tỏ lộ những dấu hiệu nguyên sơ của một nỗi sợ hãi đang chờ dịp biến thành niềm thống khổ tươi rói.  Tôi muốn thêm lần nữa nói với nàng tôi yêu nàng.
Chúng tôi gọi hai chiếc bánh mì khoanh kẹp thịt bò và hai ly nước nho.
“Ăn đi anh,” Kathleen nói, ngước mắt nhìn tôi, nài nỉ.
Tôi bẻ một miếng đưa lên miệng.  Mùi máu làm dạ dày tôi đảo lộn.  Tôi cảm thấy buồn nôn.  Có lần tôi thấy một người ăn hết sức ngon lành một lát thịt mà không kèm với bánh mì.  Thèm thuồng, tôi đứng ngó hắn rất lâu.  Tôi như thể bị thôi miên, mắt dán vào những chuyển động của các ngón tay và quai hàm của hắn.  Tôi hy vọng nếu hắn nhìn thấy tôi ở đó, trước mặt hắn, hắn sẽ vứt cho tôi một miếng.  Hắn không nhìn lên.  Hôm sau, hắn bị những người chung ba-rắc treo cổ: hắn đã ăn thịt người.  Để bào chữa cho mình, hắn la lớn: “Tôi có làm gì hại đâu: hắn ta đã chết sẵn rồi.”  Khi thấy xác hắn đong đưa trên đài xử giảo, tôi tự hỏi, “Nếu như lúc đó hắn trông thấy mình.”
“Ăn đi,” Kathleen nói.
Tôi uống chút nước trái cây.
“Anh không đói,” tôi gượng gạo nói.
Vài giờ sau, các bác sĩ bảo Kathleen, “Anh ta hên.  Anh ta ít đau đớn vì dạ dày rỗng.  Anh ta sẽ không ói nhiều lắm.”
“Mình đi,” tôi vừa bảo Kathleen vừa xoay người cất bước.
Tôi trả tiền hai chiếc bánh mì và chúng tôi đi.  Quảng trường Times không thay đổi.  Ánh sáng giả, bóng tối nhân tạo.  Vẫn đám đông không quen biết đó lượn quanh và không lượn quanh.  Trong các quán rượu và các cửa tiệm, vẫn điệu nhạc kích động đập thẳng vào màng tang ta với hàng ngàn chiếc búa nhỏ vô hình.  Các bảng quảng cáo nê-ong vẫn tuyên bố rằng uống cái này hay cái nọ thì có ích cho sức khoẻ, cho hạnh phúc của người đời, cho bình an của thế giới, của linh hồn và của cái gì khác nữa tôi không biết.
“Anh muốn đi đâu?”
Nàng giả bộ như không để ý tới vẻ xanh xao của tôi.  Ai cần, tôi nghĩ.  Có lẽ nàng cũng phải học cách nói dối.
“Xa,” tôi trả lời.  “Thật xa.”
“Em sẽ cùng đi với anh,” nàng tuyên bố.
Sự buồn bã và cay đắng trong giọng nói nàng làm tôi chan chứa xót thương.  Tôi tự nhủ, Kathleen đã thay đổi.  Nàng, kẻ trước đây tin vào sự thách đố, vào hành động chiến đấu, vào hận thù, lúc này chọn lựa sự thuần phục.  Nàng, kẻ trước đây không chịu đi theo bất cứ lời kêu gọi nào không phát xuất từ bản thân nàng, lúc này thừa nhận bị đánh bại.  Tôi đã hiểu đau khổ của tôi làm tôi thay đổi nhưng tôi không biết rằng nó cũng có thể hủy hoại kẻ khác.
“Đương nhiên,” tôi nói.  “Anh sẽ không đi mà không có em.”
Tôi đang ngẫm nghĩ: đi xa thật xa, nơi con đường dẫn tới sự mộc mạc không những chỉ có một nhóm được chọn mới biết tới mà còn hết thảy mọi người đều biết; nơi tình yêu, tiếng cười, các bài ca và những lời cầu nguyện không mang theo với chúng hận thù hoặc hổ thẹn; nơi tôi có thể nghĩ về mình mà không khổ sở, không nhục nhã; nơi rượu nho và Kathleen tinh tuyền, không bị pha trộn với nước rĩ ra từ tử thi; nơi người chết sống trong nghĩa trang chứ không sống trong con tim và trí nhớ của loài người.
“Vậy?” Kathleen vừa hỏi vừa dõi theo ý tưởng của nàng. “Mình đi đâu đây?  Mình không thể đứng suốt đêm ở chỗ này.”
“Mình đi xem xi-nê,” tôi nói.
Đó vẫn là nơi tốt nhất.  Sẽ chỉ có hai chúng tôi thôi.  Chúng tôi sẽ nghĩ tới cái gì khác.  Chúng tôi sẽ ở nơi nào khác.
Kathleen đồng ý.  Chắc nàng muốn về chỗ tôi ở hay chỗ của nàng nhưng nàng biết tôi sẽ không chịu: hai chỗ đó quá nóng trong khi rạp chiếu bóng có máy lạnh.  Tôi đi tới kết luận rằng nói dối cũng chẳng khó lắm.
“Mình xem phim gì?”
Kathleen đưa mắt rảo nhìn quanh các phim chung quanh Quảng trường Times.  Rồi nàng kêu lên háo hức, “Anh em nhà Karamazov.”
Phim đó chiếu ở mé bên kia quảng trường.  Chúng tôi phải băng ngang hai đường phố.  Một biển cả xe hơi và tiếng ồn ngăn cách chúng tôi với cuốn phim đó.
“Anh thích xem một phim nào khác,” tôi nói. “Tuy anh rất thích Dostoevski.”
Kathleen nhất quyết: đó là một phim hay tuyệt, vĩ đại, đặc biệt.  Yul Brynner đóng vai Dmitri.  Nó là một cuốn phim người ta phải xem.
“Anh thích xem một phim trinh thám bình thường,” tôi nói.  “Một phim gì đó không có triết lý, không có siêu hình.  Trời quá nóng không hợp với việc thao tác trí tuệ.  Em coi kìa, Kẻ giết người ở Rio đang chiếu mé bên này.  Mình tới đó đi.  Anh muốn biết tại Brazil người ta trở thành kẻ giết người như thế nào.”
Kathleen vốn bướng bỉnh.  Thêm lần nữa, nàng muốn thử nghiệm tình yêu của chúng tôi.  Nếu Dostoevski thắng: tôi yêu nàng; nếu ngược lại: tôi không yêu nàng.  Tôi liếc nàng.  Quanh đôi môi nàng còn nguyên nỗi sợ hãi .  Nỗi sợ hãi ấy sắp biến thành niềm thống khổ. Kathleen đẹp tuyệt vời khi nàng đau khổ; mắt nàng sâu thẳm hơn, giọng ấm áp hơn, tròn đầy hơn; nhan sắc đậm đà của nàng mộc mạc hơn và người hơn.  Niềm thống khổ của nàng mang phẩm chất thánh thiện.  Đó là cách nàng trao hiến bản thân.  Tôi không thể nhìn Kathleen đau khổ mà không nói với nàng rằng tôi yêu nàng, làm như tình yêu là sự phủ định cái ác.  Tôi phải làm cho nàng không còn đau khổ nữa.
“Có thật là em rất quan tâm tới phim đó?” tôi hỏi nàng.  “Có thật là em khao khát muốn nhìn những anh em nhà Karamazov tốt lành bị đối xử tệ bạc?”
Rõ ràng là nàng muốn.  Yul Brynner hoặc tình yêu của chúng tôi.
“Vậy mình đi.”
Một nụ cười khải hoàn, kéo dài trong chỉ một giây, làm sáng rở khuôn mặt nàng.  Các ngón tay nàng níu chặt cánh tay tôi như thể nói: lúc này em tin vào điều đang xảy ra cho chúng mình.
Chúng tôi bước vài bước tới lề đường.  Chúng tôi phải chờ một chút.  Chờ đèn đỏ đổi qua xanh, chờ dòng xe ngừng lại, chờ người cảnh sát điều khiển lưu thông đưa cánh tay mặt lên, chờ người tài xế tắc xi, kẻ không nhận ra vai trò phải đóng trong khoảnh khắc đó, dừng xe đúng vạch qui định.  Tôi phải chờ tín hiệu của người đạo diễn.
Tôi nhìn quanh.  Đồng hồ nơi cửa sổ toà nhà TWA chỉ 10:25.
“Lẹ lên,” Kathleen quyết định, kéo tay tôi.  “Đèn xanh.”
Chúng tôi bắt đầu băng qua đường.  Kathleen bước lẹ hơn tôi.  Nàng đi bên phải tôi, nhiều lắm là hơn vài bước ngay trước mặt tôi.  Anh em nhà Karamazov không còn ở xa nữa, nhưng đêm đó tôi không gặp họ.
Tôi nghe cái gì trước?  Tiếng phanh xe rít lên kỳ dị hoặc tiếng phụ nữ thét thất thanh?  Tôi vẫn không nhớ.
Trong ánh chớp một phần nghìn giây, tôi tỉnh lại trong khi nằm ngữa giữa đường phố.  Trong ánh lờ mờ, vô số đầu người cúi xuống nhìn tôi.  Đầu người khắp nơi.  Phải, trái, trên và cả dưới nữa.  Mọi cái đầu đều giống nhau.  Những con mắt mở lớn giống nhau phản chiếu sự kinh hoàng và tọc mạch.  Những đôi môi cùng thì thầm giống nhau những lời tôi không hiểu nổi.
Một người lớn tuổi hình như đang nói điều gì đó với tôi.  Tôi nghĩ không phải là lời thương cảm.  Ông tóc cắt rất ngắn và có ria mép.  Kathleen không còn mái tóc đen đẹp tuyệt vời mà nàng rất tự hào.  Bộ mặt nàng biến dạng, mất vẻ thanh xuân.  Như thể trong sự có mặt của thần chết, mắt nàng càng lúc càng to ra, và lạ lùng hơn nữa, nàng cũng để ria mép.
Tôi nhủ thầm, một giấc mơ.  Chỉ là mơ thôi và khi thức giấc mình sẽ quên ngay.  Nếu không là mơ, tại sao mình lại ở đây, bên vệ đường?  Tại sao những người này vây quanh như thể mình sắp chết?  Và tại sao bỗng dưng Kathleen có bộ ria?
Tiếng ồn, đến từ mọi hướng, ép chặt lên bức màn sương mù dày đặc mà chúng không thể thẩm thấu.  Tôi muốn bảo người ta đừng nói vì tôi không thể nghe họ.  Tôi đang nằm mơ còn họ thì không.  Nhưng tôi không thể thốt lên  được lấy một tiếng, dù nhỏ nhất.  Giấc mơ làm tôi câm và điếc.
Một bài thơ của Dylan Thomas -- lúc nào cũng vẫn chỉ bài thơ ấy -- lại trở về với tôi.  Bài thơ không nói về bước đi êm ái vào đêm mà về “Hãy nổi cơn thịnh nộ, hãy nổi cơn thịnh nộ trước sự lâm chung của ánh sáng.”
Thét lên ư?  Người câm điếc không thét lên.  Họ đi êm ái vào đêm, nhẹ nhàng và rụt rè.  Họ không thét lên trước sự lâm chung của ánh sáng.  Thét lên khi miệng ứ máu là điều vô ích: người ta nhìn máu chứ không nghe ra tiếng thét.  Đó là lý do tôi im lặng.  Và cũng vì tôi đang mơ một đêm hè trong khi thân thể mình đông cứng.  Cái nóng làm phát bệnh, những bộ mặt cúi xuống tôi ròng ròng mồ hôi -- mồ hôi đang nhỏ những giọt nhịp nhàng -- và tuy thế, tôi đang mơ là tôi lạnh quá tôi đang chết.  Làm sao ta có thể thét lên cưỡng lại giấc mơ?  Làm sao ta có thể thét lên cưỡng lại sự lâm chung của ánh sáng, cưỡng lại sự sống đang dần dần lạnh giá, cưỡng lại máu đang chảy ra ngoài?
Chỉ về sau, sau rất lâu, khi tôi đã qua khỏi tình trạng nguy kịch, Kathleen mới kể cho tôi nghe hoàn cảnh xảy ra tai nạn.
Một chiếc tắc xi đang phóng rất nhanh từ bên trái và tông vào tôi, kéo lê tôi mấy thước.  Kathleen thình lình nghe tiếng phanh xe rít lên và tiếng thét thất thanh của một phụ nữ.
Khi nàng kịp thời quành người lại thì đám đông đã bu quanh tôi.  Ban đầu, nàng không biết người nằm dưới chân những kẻ đang ngó đó là tôi.
Rồi có cảm giác mãnh liệt rằng người đó chính là tôi, nàng vẹt đám đông lấn vào và thấy tôi: tả tơi đau đớn, quằn quại, đầu chúi giữa hai đầu gối.
Và người ta thì đang nói, nói liên tu bất tận...
“Hắn chết rồi,” một người nói.
“Không, hắn chưa chết.  Nhìn kìa, hắn nhúc nhích.”
Mở đường với còi hụ, xe cứu thương tới trong vòng hai mươi phút.  Trong thời gian đó tôi tỏ ra có vài dấu hiệu còn sống.  Tôi không thét, tôi không la, tôi chẳng nói gì cả.
Trên xe cứu thương, chỉ trong vài giây tôi tỉnh lại mấy lần.  Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, tôi nói cho Kathleen những chỉ dẫn chính xác đáng kinh ngạc về những việc tôi muốn nàng làm cho tôi: báo tin cho tờ báo; điện thoại cho một trong các bạn tôi yêu cầu tạm thời tới làm dùm; hủy nhiều cuộc hẹn khác nhau; trả tiền nhà, hoá đơn điện thoại, giặt quần áo.  Sau khi giao nàng việc cuối cùng trong ba việc cần làm gấp đó, tôi nhắm mắt, và suốt năm ngày, không mở mắt ra lại.
Kathleen còn kể với tôi là: nhà thương đầu tiên xe cứu thương chở tôi tới không chịu nhận tôi.  Hết thảy các giường đều đã có người.  Ít ra đó là điều họ nói.  Nhưng Kathleen nghĩ đó chỉ là kiếm cớ.  Các bác sĩ, sau khi liếc sơ tôi, quyết định là không hy vọng.  Tốt hơn là buông rơi kẻ hấp hối nhanh hết sức có thể được.
Xe cứu thương chở tôi tới Nhà thương New York.  Ở đây hình như họ không sợ người sắp chết.  Bác sĩ trực, một người nội trú trẻ, điềm tĩnh và trông có vẻ thiện cảm, lập tức vừa cấp cứu tôi vừa định bệnh.
“Thế nào, thưa bác sĩ?” Kathleen hỏi.
Nhờ phép lạ nào đó nàng không bị đuổi ra khỏi phòng cấp cứu trong khi bác sĩ Paul Russel đang săn sóc tôi.
“Mới nhìn thì hơi tệ,” người bác sĩ trẻ trả lời.
Và anh giải thích bằng giọng nghề nghiệp, “Hết thảy xương bên trái người anh ấy đều gãy; chảy máu bên trong; chấn động não; tôi chưa thể nói gì về mắt anh ấy; không biết chúng có bị ảnh hưởng hay không.  Cũng vậy đối với não: hãy cứ hi vọng là nó không bị hỏng.”
Kathleen cố nín khóc.
“Có thể làm gì bây giờ, thưa bác sĩ?”
“Cầu nguyện.”
“Có phải là nặng?”
“Rất nặng.”
Người bác sĩ trẻ, kẻ có giọng nói hết sức dè dặt như giọng nói của một người già, nhìn nàng một lúc rồi hỏi, “Bà là ai? Vợ anh ấy?”
Gần như mê sảng, Kathleen chỉ lắc đầu thay cho lời nói.
“Hôn thê của anh ấy?”
“Không,” nàng thầm thì.
“Bạn gái của anh ấy?”
“Vâng.”
Sau một chút ngại ngần, anh dịu dàng hỏi nàng. “Bà yêu anh ấy?”
“Vâng,” Kathleen thầm thì.
“Trong trường hợp này, có lý do tốt lành để không mất hy vọng.  Tình yêu có giá trị không kém gì lời cầu nguyện.  Có khi hơn nữa.”
Liền đó, Kathleen òa lên khóc.
Sau ba ngày hội chẩn và chờ đợi, các bác sĩ quyết định rằng trường hợp của tôi hoàn toàn đáng để giải phẫu.  Dù có ra sao đi nữa, tôi cũng chẳng mất mát gì nhiều.  Ngược lại, nếu may mắn, biết đâu mọi sự sẽ diễn ra tốt đẹp...
Cuộc giải phẫu kéo dài rất lâu.  Hơn năm giờ.  Hai bác sĩ phẫu thuật thay phiên nhau.  Nhịp tim tôi xuống thấp một cách đáng sợ.  Tôi gần như đầu hàng cái chết.  Với tiếp máu, tiêm và truyền dưỡng khí, họ mang tôi về lại cuộc sống.
Sau cùng, các bác sĩ phẫu thuật quyết định chỉ giải phẫu tới hông.  Mắt cá, xương sườn và các chỗ gãy nhỏ khác để về sau.  Lúc này điều quan trọng là làm ngưng chảy máu, khâu các động mạch, làm kín các vết nứt.
Tôi được mang về lại phòng mình và trong hai ngày, tôi đong đưa giữa sự sống và cái chết.  Bác sĩ Russel, người hết lòng chăm sóc tôi, vẫn lạc quan về kết quả sau cùng.  Tôi sốt cao và mất nhiều máu.
Sau cùng, tới ngày thứ năm tôi tỉnh lại.
Tôi nhớ mãi: tôi mở mắt mình ra và phải nhắm lại ngay, bị lóa mắt vì màu sắc trắng xoá của phòng bệnh.  Vài phút trôi qua tôi mới có thể mở mắt ra lại và xác định được thời gian và không gian.
Hai bên giường tôi là các chai huyết tương treo trên giá gắn vào vách phòng.  Tôi không thể nhúc nhích tay mình: mỗi cánh tay có một cây kim lớn gắn chặt vào bằng băng keo giải phẫu.  Mọi sự dàn sẵn để phòng khi tiếp máu cấp tốc.
Tôi cố cựa quậy chân: thể xác tôi không còn nghe lời tôi.  Bất chợt tôi cảm thấy hãi hùng rằng mình bị bại liệt.  Tôi cố gắng kinh người để thét thành tiếng, gọi bác sĩ, y tá hay người nào đó, hỏi cho ra sự thật.  Nhưng tôi quá yếu.  Âm thanh nghẹt lại trong cổ họng.  Tôi nghĩ, có thể mình mất luôn giọng nói.
Tôi cảm thấy cô độc, bị bỏ rơi.  Sâu trong lòng, tôi phát hiện một nỗi hối tiếc: thà mình chết còn hơn.
Một giờ sau, bác sĩ Russel vô phòng và nói với tôi là tôi sẽ sống.  Chân tôi không bị cưa.  Tôi không nhúc nhích được vì khắp người bó bột.  Chỉ có thể nhìn thấy đầu, cánh tay và hai ngón chân cái của mình.
“Anh trở về từ một nơi rất xa,” người bác sĩ trẻ nói.
Tôi không trả lời.  Tôi cảm thấy tiếc là từ một nơi xa xăm như thế sao mình lại trở về.
“Anh phải cám ơn Thượng đế,” anh tiếp tục.
Tôi nhìn anh kỹ hơn.  Ngồi bên mép giường tôi, các ngón tay xoắn vào nhau, mắt anh đầy vẻ tò mò.
“Sao mà người ta phải cám ơn Thượng đế?” tôi hỏi anh.
Giọng nói của tôi chỉ là tiếng thì thào.  Nhưng tôi đã có thể nói.  Việc này làm tôi vô cùng vui sướng tới nổi lệ trào lên mắt.  Tôi thờ ơ, hoặc hầu như thờ ơ đối với việc tôi còn sống.  Nhưng khi biết được rằng mình vẫn có thể nói được, tôi xúc động rưng rưng, không che giấu nổi.
Người bác sĩ cau bộ mặt trẻ thơ của anh lại.  Tóc anh màu hung.  Đôi mắt xanh nhạt biểu lộ lòng tốt vô hạn.  Anh nhìn tôi chằm chặp.  Nhưng tôi không bực mình về cái nhìn đó.  Tôi quá yếu.
“Sao mà người ta phải cám ơn Thượng đế?” tôi lặp lại.
Tôi muốn nói thêm: tại sao cám ơn ông ấy?  Trong một thời gian rất dài, tôi không thể hiểu nổi trên thế gian này Thượng đế đã làm gì để xứng đáng với con người.
Người bác sĩ tiếp tục nhìn tôi thật gần, rất gần.  Trong mắt anh lập lòe ánh kỳ lạ -- cũng có thể là một bóng tối kỳ dị.
Thình lình tim tôi giật thót.  Kinh sợ, tôi nghĩ: anh ta đã biết ra  điều gì đó.
“Anh lạnh phải không?” anh hỏi, vẫn nhìn tôi.
“Vâng,” tôi trả lời.  “Tôi lạnh.”
Thể xác tôi đang run lẩy bẩy.
“Đó là vì sốt,” anh giải thích.
Như thường lệ, họ sẽ lấy nhịp tim.  Hoặc thêm nữa, họ sẽ đặt mu bàn tay lên trán tôi.  Nhưng người bác sĩ này chẳng làm gì.  Anh không làm gì cả.  Anh đã biết rồi.
“Chúng ta sẽ ra sức chống trả cơn sốt,” anh tiếp tục giảng giải.  “Chúng tôi sẽ tiêm thuốc cho anh.  Tiêm nhiều lần.  Mỗi giờ.  Suốt ngày suốt đêm.  Kẻ thù lúc này là cơn sốt.”
Anh ngừng nói, nhìn tôi một lúc rồi tiếp tục.  Hình như anh đang tìm tín hiệu, dấu chỉ, giải pháp cho một vấn đề mà tôi không thể đoán ra các chi tiết của nó.
“Chúng tôi sợ anh bị nhiễm trùng,” anh nói tiếp.  “Nếu cơn sốt tăng cao, anh thua.”
“Và kẻ thù sẽ thắng,” tôi nói bằng giọng có ý mỉa mai.  “Bác sĩ ạ, anh thấy, điều người ta nói là đúng sự thật: con người mang trong mình kẻ thù ác liệt nhất của nó.  Hoả ngục không phải là người khác.  Hỏa ngục là chính chúng ta.  Hoả ngục là cơn sốt đang nung nấu tới độ làm ta cảm thấy lạnh.”
Giữa chúng tôi đã dăng ra một dây liên kết không xác định được.  Chúng tôi nói bằng ngôn ngữ chín chắn của những người đang liên hệ trực tiếp với cái chết.  Tôi cố nở nụ cười nhưng lạnh quá, tôi chỉ nhếch được mép.  Đó là lý do tại sao tôi không thích mùa đông: các nụ cười lúc đó trở nên mơ hồ.
Bác sĩ Russel đứng dậy.
“Tôi sẽ phái y tá tới.  Tới giờ tiêm thuốc rồi.”
Anh chạm ngón tay vào môi mình, như để cân nhắc kỹ lưỡng hơn, rồi thêm, “Khi nào anh cảm thấy khá hơn, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều.”
Thêm lần nữa tôi có cảm tưởng bứt rứt là anh đã biết -- hay ít ra, anh đang ngờ ngợ -- điều gì đó.
Tôi nhắm mắt.  Đột nhiên tôi ý thức được sự đau đớn đang hành hạ mình.  Trước đây tôi không nhận ra nó.  Thế nhưng, cơn đau vẫn ở đó.  Nó là không khí tôi đang thở, những lời lẽ đang hình thành trong óc, bột bó cơ thể như da tôi đang nóng bừng bừng.  Làm sao đến lúc này bản thân tôi vẫn không cảm nhận được nó?  Có thể vì tôi quá chú tâm vào cuộc trò chuyện với bác sĩ.  Anh có biết tôi đang đau đớn, đau đớn kinh khủng?  Anh có biết tôi lạnh?  Anh có biết sự đau đớn đang nung nấu da thịt tôi và trong cùng lúc đó, tôi run rẩy với cơn lạnh hết chịu đựng nổi, như thể tôi đầu tiên bị nhận chìm vào một lò nung và tiếp đó, vào một bồn nước đá.  Rõ ràng anh hiểu.  Anh biết.  Paul Russel là một bác sĩ có cảm tính.  Anh có thể thấy tôi đang điên cuồng cắn môi mình.
“Anh đang đau,” anh lên tiếng.
Anh đứng yên ở chân giường.  Tôi hổ thẹn vì răng mình đánh lập cập trước mặt anh.
“Thường thôi,” anh tiếp tục mà không chờ câu trả lời.  “Khắp người anh chỗ nào cũng bị thương.  Cơ thể anh đang dấy loạn.  Đau đớn là cách chống đối của cơ thể.  Nhưng tôi nói để anh biết:  đau đớn không là kẻ thù, chính cơn sốt mới là kẻ thù.  Nếu nó tăng cao, anh thua.”
Chết.  Tôi ngẫm nghĩ: anh nghĩ rằng cái chết là kẻ thù ấy của tôi.  Anh lầm.  Cái chết không là kẻ thù ấy của tôi.  Nếu anh không biết điều đó thì anh chẳng biết gì cả.  Hay ít ra, anh không biết hết mọi sự.  Anh đã nhìn tôi trở về với cuộc đời, nhưng anh không biết tôi nghĩ gì về sống và chết.  Hoặc anh có thể biết nhưng không để lộ ra?  Sự nghi ngại, như tiếng ong vo ve kêu lui kêu tới bên trong tôi đã khích động tột độ thần kinh của tôi.
Tôi có thể cảm thấy cơn sốt khi nó toả ra, siết tôi từng sợi tóc giống như cây đuốc đang cháy.  Cơn sốt ném tôi từ thế giới này sang thế giới khác, lên rồi xuống, lên rất cao và xuống rất sâu, như thể nó có ý chỉ dạy cho tôi biết cái lạnh ở những nơi cao và cái nóng ở những vực sâu.
“Anh có muốn dùng thuốc giảm đau không?” người bác sĩ thăm dò.
Tôi lắc đầu.  Không, tôi chẳng muốn chút nào.  Tôi chẳng cần chút nào.  Tôi không sợ.
Tôi nghe tiếng chân anh bước ra phía cửa, hẳn nó ở đâu đó đằng sau tôi.  Cứ để anh ấy đi, tôi nghĩ.  Tôi không sợ tình trạng sống cô độc, tình trạng bước đi trong khoảng cách giữa cái sống và cái chết.  Nên tôi không cần anh.  Tôi không sợ.  Cứ để anh ấy đi!
Anh mở cửa, lưỡng lự trước khi khép lại.  Anh dừng bước,  Có phải anh đang quay lại.
“Thật bất ngờ,” anh nói dịu dàng tới độ hầu như không nghe được.  “Thật bất ngờ.  Tôi suýt quên nói với anh... Kathleen...bà ấy là một phụ nữ rất duyên dáng... cực kỳ quyến rũ...”
Với lời đó, anh lặng lẽ rời phòng.  Lúc này tôi cô độc.  Cô độc tận cùng có thể của một người liệt giường và đang đau đớn.  Chẳng bao lâu y tá sẽ đến với thuốc trụ sinh trên tay, để chiến đấu với kẻ thù ấy.  Thật dễ nổi khùng:  chống lại kẻ thù ấy bằng một một mũi tiêm.  Thật khôi hài.  Nhưng tôi không cười.  Các bắp thịt trên mặt tôi tê liệt, đông cứng.
Chút nữa đây y tá sẽ tới.  Bác sĩ đã nói như vậy, bác sĩ, kẻ có giọng nói trầm tĩnh như giọng nói của một người già, vừa mới khám phá ra rằng lòng tốt của con người mang theo phần thưởng của chính nó.  Anh đã nói với tôi điều gì khác nữa?  Điều gì đó về Kathleen.  Vâng: anh đã nói tới tên nàng.  Một phụ nữ trẻ trung và duyên dáng.  Không, không phải như thế.  Anh đã nói điều gì khác: cực kỳ quyến rũ.  Vâng, đúng vậy.  Đó là điều anh đã nói: Kathleen là một phụ nữ trẻ trung và quyến rũ.  Tôi nhớ lại chính xác: cực kỳ quyến rũ.
Kathleen... Có thể nàng ở đâu lúc này?  Trong thế giới nào?  Trong thế giới bên trên hay trong thế giới bên dưới?  Tôi hy vọng nàng sẽ không đến đây.  Tôi hy vọng nàng sẽ không xuất hiện trong phòng này.  Tôi không muốn nàng trông thấy tôi như thế này.  Tôi hy vọng rằng nàng sẽ không cùng đến với y tá.  Và rằng nàng sẽ không cho tôi thuốc trụ sinh.  Tôi không muốn nàng giúp tôi chiến đấu với kẻ thù ấy.  Nàng là một phụ nữ duyên dáng, cực kỳ quyến rũ, nhưng nàng không hiểu.  Nàng không hiểu rằng cái chết không phải là kẻ thù ấy.  Điều đó thật không dễ.  Nàng không hiểu.  Nàng tin hết sức tin vào sức mạnh, vào khả năng tuyệt đối của tình yêu.  Yêu đi và sẽ được bảo vệ.  Yêu nhau đi và mọi sự sẽ tốt lành: đau khổ sẽ mãi mãi rời bỏ trần gian của con người.  Ai nói vậy?  Có thể là Đức Kitô.  Ngài cũng tin hết sức tin vào tình yêu.  Về phần tôi, tình yêu hoặc cái chết, tôi bất cần.  Tôi có thể bật cười khi nghĩ tới tình yêu lẫn cái chết.  Lúc nào cũng vậy, tôi có thể phá lên cười.  Vâng, nhưng các bắp thịt trên mặt tôi không nghe lời tôi.  Tôi lạnh quá.  Trời lạnh vào hôm đó -- không, vào tối đó -- buổi tối lần đầu tôi gặp Kathleen
Một tối mùa đông.  Từ bên trong vách nhà nghe rõ tiếng gióđang rít xuyên cây cối ở ngoài trời.
“Đi với tôi,” Shimon Yanai bảo tôi.  “Tôi muốn anh gặp Halina.”
“Hãy để tôi nghe gió,” tôi trả lời (tôi đang trong tâm trạng không thích trò chuyện).  Gió có nhiều điều nói với tôi hơn Halina của anh.  Trong gió có những hối tiếc và lời cầu nguyện của linh hồn kẻ đã chết.  Linh hồn kẻ đã chết có nhiều điều để nói hơn người đang sống.
Shimon Yanai - người có bộ ria đẹp nhất xứ Palestine, nếu không muốn nói đẹp nhất toàn cõi Trung Đông - chẳng để ý chút gì đến điều tôi có ý nói.
“Đi nào,” anh nói, hai tay thọc trong túi quần.  “Halina đang chờ chúng ta.”
Tôi chịu thua.  Tôi nghĩ: có thể Halina cũng là một linh hồn kẻ đã chết.
Chúng tôi đang đứng trong khách sảnh vào giờ giải lao giữa một buổi trình diễn vũ ba-lê tại Paris, đoàn Roland Petit Company hoặc Marquis de Cuevas, nay tôi không còn nhớ rõ.
“Halina hẳn là một phụ nữ quyến rũ,” tôi nói khi băng ngang khách sảnh để tới phòng bán rượu.
“Điều gì khiến anh nghĩ như vậy?” Shimon Yanai hỏi, có vẻ thú vị.
“Cách anh ăn mặc tối nay.  Ngó anh như một gã lãng tử”
Tôi thích trêu ghẹo anh.  Shimon đang tuổi tứ tuần, cao, tóc rậm, mắt xanh mơ màng. Anh không bao giờ muốn được đón tiếp trang trọng.  Tôi thường nói với anh bằng giọng mỉa mai nhưng chan chứa thương cảm, “Anh bỏ ra hàng giờ trước gương để đánh bù tóc, làm lệch gút cà vạt, làm nhăn nhúm quần.”  Có điều gì đó thống thiết trong tình mến cảm anh dành cho người du mục bô-hê-miên.
Tôi hiểu rõ anh vì anh thường đến Paris và cho tôi những mánh lới khôn khéo về tờ báo tin tức tôi đang làm.  Anh thích ở với các ký giả.  Anh cần họ.  Anh là đại diện tại Paris của Phong trào Kháng chiến Do thái - lúc này nước Israel chưa ra đời - và anh không ngần ngại thú nhận rằng đối với anh báo chí rất có lợi.
Halina đứng chờ chúng tôi ở phòng giải khát, trên tay cầm ly rượu.  Chị mới ngoài ba mươi.  Gầy, mặt nhỏ, xanh xao, với cái nhìn ẩn chứa nỗi sợ hãi của một phụ nữ đang vật lộn với quá khứ của mình.
Chúng tôi bắt tay nhau.
“Tôi tưởng anh lớn tuổi hơn.” Chị cười ngượng nghịu.
“Tôi già rồi,” tôi nói.  “Đôi khi tôi già như gió.”
Chị cười.  Thật ra chị không biết cười như thế nào.  Khi cười, chị có thể làm con tim ta nứt rạn.  Nụ cười của chị như mang vẻ bảng lảng của linh hồn kẻ đã chết.
“Tôi nói thật đấy,” chị nói.  “Tôi có đọc các bài báo của anh.  Chúng được viết bởi một người đang đi tới cuối cuộc đời của mình, tới tận cùng những hy vọng của mình.”
“Đó là dấu hiệu của tuổi trẻ,” tôi trả lời.  “Tuổi trẻ ngày nay không nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ già: họ tin là họ sẽ chết yểu.  Trong thời đại chúng ta người già là người trẻ tuổi thật sự.  Họ ít ra cũng có thể khoe khoang việc họ có cái mà chúng ta không có: một khoanh mỏng của cuộc đời mà họ gọi đó là tuổi trẻ.”
Bộ mặt của người phụ nữ ấy lại càng tái nhợt hơn.  “Điều anh nói thật khủng khiếp.”
Tôi bật cười, nhưng có lẽ tiếng cười của tôi gượng gạo quá: tôi cảm thấy mình không thích cười.  Tôi không thích cười, chẳng kém gì không thích trò chuyện.
“Chị đừng nghe tôi,” tôi nói.  “Shimon sẽ nói cho chị biết: tôi không bao giờ ăn nói trịnh trọng.  Tôi giỡn, thế thôi.  Tôi đang giả bộ dọa cho chị sợ.  Nhưng chị đừng để ý.  Những gì tôi nói chỉ là gió.”
Tôi sắp rời họ - viện cớ như thường lệ là phải đi gọi gấp một cú điện thoại khẩn cấp - ngay lúc đó tôi thấy trong mắt Halina có cái nhìn bối rối.
“Shimon!” chị kêu lên mà không cất cao giọng.  “Coi ai đó kìa: Kathleen!”
Shimon nhìn theo tay chỉ của Halina, và trong một giây - chỉ một giây - mặt anh như ám bóng mây.  Má anh tối lại, như thoạt nhớ tới điều gì đó đau đớn.
“Anh tới yêu cầu cô ấy nhập bọn mình đi.” Halina nói.
“Nhưng cô ấy không đi một mình...”
“Chờ một phút! Cô ấy sẽ tới đây.”
Nàng tới.  Và đó là lúc khởi đầu mọi chuyện.
Thật ra tôi có thể dễ dàng bỏ đi trong lúc Shimon đang nói chuyện với nàng ở phía đầu kia khách sảnh.  Lúc ấy cú điện thoại của tôi vẫn còn khẩn cấp không kém trước đây.  Tôi không muốn ở lại chút nào.  Mới nhìn nó giống một tình thế cổ điển.  Ba nhân vật: Shimon, Halina, Kathleen.  Halina yêu Shimon, kẻ không yêu chị; Shimon yêu Kathleen, kẻ không yêu anh; Kathleen yêu...  Tôi không biết nàng yêu ai và tôi không cần biết.  Tôi có ý nghĩ: họ đang làm khổ nhau trong một vòng tròn chật kín mít.  Tốt hơn mình chớ có dính vào chút nào, dù chỉ như một người chứng.  Tôi không bao giờ quan tâm tới sự khổ đau cùng kiệt.  Đau khổ của người khác chỉ hấp dẫn tôi trong chừng mực nó khiến người ta nhận ra cái mạnh và cái yếu của bản thân, trong bầu khí hướng tới sự nổi loạn.  Tình yêu của Halina và Shimon hoàn toàn không đưa tới điều gì thuộc loại đó.
“Tôi phải đi thôi,” tôi bảo Halina.
Chị nhìn tôi nhưng không nghe; chị đang quan sát Shimon và Kathleen ở phía đằng kia khách sảnh.  “Xin anh đừng đi,” chị yêu cầu tôi với giọng khiêm tốn, gần như hạ mình.  Kế đó, chị nói tiếp, để thêm phần thuyết phục hoặc để tỏ rõ sự hờ hửng của chị.  “Anh sắp gặp Kathleen.  Cô ấy là một cô gái khác thường.  Anh sẽ thấy.”
Chống cự cũng vô ích: Kathleen và Shimon đây rồi.
“Chào Halina,” Kathleen nói, bằng tiếng Pháp nặng giọng nhấn Mỹ.
“Chào Kathleen.” Halina trả lời, rõ ràng đang che dấu sự căng thẳng trong lòng.  “Để tôi giới thiệu một người bạn...”
Không một cử chỉ, không một chuyển động, không một tiếng nói, Kathleen và tôi nhìn nhau hồi lâu như thể lập thành một giao cảm trực tiếp.  Nàng có khuôn mặt trái xoan, cân đối, đẹp lạ thường và não nùng.  Mũi hênh hếch làm nổi bật đôi môi gợi cảm.  Đôi mắt hạnh nhân của nàng ngun ngút lửa câm nín, thầm lặng: một hoả diệm sơn đang yên ngủ.  Với nàng, đây có thể là giao cảm thật sự.  Và trong khoảnh khắc đó, hốt nhiên tôi hiểu ra tại sao tiếng cười của Halina không còn tự nhiên nữa.
“Hai người quen nhau rồi sao?” Halina hỏi nàng với nụ cười gượng gạo.  “Hai người nhìn nhau như thể đã quen nhau.”
Shimon im lặng.  Anh đang nhìn Kathleen.
“Vâng,” tôi trả lời.
“Cái gì?” Halina kêu lên, không tin hoàn toàn.  “Cả hai từng gặp nhau rồi ư?”
“Không,” tôi trả lời.  “Nhưng chúng tôi đã biết nhau.”
Hàng ria của Shimon gờn gợn sóng, khó có thể nhận ra.  Tình hình đang hồi hết sức căng thẳng thì đột nhiên chuông báo reo lên.  Đã hết giờ nghỉ.  Khách sảnh bắt đầu thưa người.
“Sau buổi diễn này chúng ta đi xem gì nữa?” Halina hỏi.
“Chắc tôi không đi được,” Kathleen trả lời.  “Có người đang chờ tôi.”
“Còn anh?” Halina nhìn tôi, mắt mở lớn hun hút nỗi buồn cô lạnh.
“Không,” tôi trả lời.  “Tôi phải gọi điện thoại.  Chuyện khẩn cấp.”
Halina và Shimon đi.  Chỉ còn hai chúng tôi, Kathleen và tôi.
“Anh nói được tiếng Anh không?” nàng hỏi tôi bằng tiếng Anh, có vẻ gấp rút.
“Được.”
“Chờ tôi chút,” nàng nói.
Nàng bước lẹ tới người đàn ông đang đứng chờ phía đầu kia khách sảnh, nói với người ấy mấy lời.  Tôi vẫn còn cơ hội đi.  Nhưng tại sao tôi bỏ chạy?  Và chạy đi đâu?  Sa mạc nơi nào cũng giống nhau thôi.  Các linh hồn kẻ chết ở đó.  Và đôi khi chúng giả bộ dọa giết linh hồn những kẻ chưa chết.
Vài giây sau Kathleen quay lại.  Tôi thấy mặt nàng thoáng vẻ bất cần và cả quyết, như thể nàng vừa thực hiện một hành động quan trọng nhất đời mình.  Người đàn ông vừa bị bỏ rơi và bị làm bẻ mặt vẫn đứng đó, ngây người, không nhúc nhích, như bị một lời nguyền rủa giáng xuống.
Bên trong, màn đã kéo lên.
“Chúng ta đi,” Kathleen nói bằng tiếng Anh.
Tôi muốn hỏi nàng những câu bất tận, nhưng quyết định dành chúng lại về sau.
“Vâng,” tôi nói.  “Chúng ta đi.”
Chúng tôi vội vàng rời khách sảnh.  Bỏ người đàn ông ấy lại đằng sau, một mình.  Rất lâu sau đêm ấy, tôi không dám quay lại rạp hát này.  Tôi sợ thấy người ấy vẫn đứng đó, đúng ngay chỗ chúng tôi đã bỏ lại.
Chúng tôi bắt đầu cất bước.  Trời lạnh.  Cả hai đi chầm chậm như để tỏ ra mình mạnh mẽ và cái lạnh chẳng thấm vào đâu.
Kathleen không khoác tay tôi và tôi không khoác tay nàng.  Nàng không nhìn tôi và tôi không nhìn nàng.  Chân chúng tôi bước đều nhịp, dù có lúc một trong hai đứa phải đột nhiên dừng lại, để suy nghĩ hay để cầu nguyện.
Sau khi im lặng đi dọc bờ sông Seine trong một hoặc hai giờ, chúng tôi băng qua cầu Châtelet, rồi khi tới giữa cầu Saint-Michel, tôi đứng lại, nhìn xuống dòng sông.  Kathleen bước thêm hai bước rồi cũng đứng lại.
Sông Seine in hình bầu trời và các cột đèn, lúc này để lộ cho chúng tôi thấy bộ mặt mùa đông bí nhiệm của nó, cái sâu kín trầm lặng của nó, nơi sự sống nào cũng tiêu tan, nơi ánh sáng nào cũng tắt lịm.  Tôi nhìn dòng sông và nghĩ tới ngày nào đó tôi sẽ lìa đời.
Kathleen tới sát tôi hơn, nàng sắp nói điều gì đó.  Tôi lắc đầu ra hiệu nàng đừng nói.
Chút sau tôi bảo nàng, “Đừng nói.”
Tôi còn đang nghĩ tới cái chết và tôi không muốn nàng nói với tôi.  Chỉ trong im lặng, nghiêng mình trên dòng sông mùa đông, lúc ấy con người mới có thể thật sự nghĩ tới cái chết.
Ngày nọ, tôi hỏi bà nội mình, “Bà ơi, trong mùa đông, làm thế nào kẻ dưới mồ giữ mình cho khỏi lạnh?”
Nội tôi là một phụ nữ mộc mạc, ngoan đạo, thường nói với tôi rằng Thượng đế ở khắp mọi nơi, cả trong sự dữ, cả trong sự trừng phạt, cả trong sự bất công.  Không chuyện gì mà bà không cầu nguyện.  Da bà trắng như cát sa mạc.  Đầu bà trùm chiếc khăn màu đen lớn thật lớn mà dường như bà chẳng bao giờ cởi ra.
“Kẻ không quên Thượng đế thì chẳng bao giờ thấy lạnh trong mồ của mình,” bà nói.
“Cái gì làm kẻ đó ấm?” tôi nằng nặc hỏi.
Giọng nói nhỏ nhẹ của bà trở thành tiếng thì thầm: bí mật đây.  “Chính Thượng đế.”  Nụ cười làm khắp nơi trên khuôn mặt bà sáng lên, sáng cho tới mép khăn trùm đầu đang rũ xuống giữa trán.  Bà vẫn cười như thế mỗi khi tôi đặt cho bà một câu hỏi có câu trả lời rõ ràng.
“Vậy nghĩa là Thượng đế ở trong mồ với những người đàn ông và đàn bà đang bị chôn dưới đó?”
“Đúng,” nội tôi quả quyết với tôi.  “Chính ngài giữ cho họ ấm.”
Tôi nhớ lúc ấy tôi chợt buồn lạ thường.  Tôi cảm thấy thương hại Thượng đế.  Tôi nghĩ: ngài vô phước hơn con người, con người chỉ chết một lần, con người chỉ bị chôn một lần trong mồ.
“Nội ơi, nói cho con biết, Thượng đế cũng chết sao?”
“Không.  Thượng đế không bao giờ chết.”
Câu trả lời của bà như một cú trời giáng.  Tôi cảm thấy muốn khóc thét lên.  Thượng đế bị chôn sống!  Lúc đó tôi thích đảo ngược các vai trò; tôi thích nghĩ rằng Thượng đế thì chết còn con người thì không.  Tôi thích nghĩ rằng, khi con người đóng kịch như thể mình đang chết thì chính Thượng đế lại bị đất phủ lấp.
Kathleen chạm cánh tay tôi.  Tôi giật nảy người.
“Đừng chạm tôi,” tôi bảo nàng.  Tôi đang nghĩ tới bà nội của tôi và ta không thể thật sự nhớ tới bà nội mình đã chết nếu ta không cô độc, nếu một cô gái có mái tóc đen, đen như chiếc khăn trùm đầu của bà nội tôi -- chạm vào cánh tay ta.

Bỗng dưng tôi nảy ra ý nghĩ rằng nụ cười của bà nội tôi có ý nghĩa tương lai sắp lộ ra: bà biết rằng câu hỏi của tôi không dính dáng gì tới bà, rằng bà sẽ không biết tới cái lạnh lẽo của nấm mồ.  Thân xác bà sẽ không bị chôn mà là được phó cho gió mang đi mọi hướng.  Và chính thân xác của bà -- thân xác màu trắng và đen của nội tôi -- quất lên mặt tôi, như một trừng phạt vì  tôi đang quên lãng.  Không, nội ơi! Không, cháu không quên.  Hễ lúc nào lạnh là cháu nghĩ tới nội, cháu chỉ nghĩ tới nội thôi.
“Nào,” Kathleen nói.  “Chúng ta đi.  Tôi lạnh rồi.”
Chúng tôi lại cất bước.  Gió cắt mặt mình nhưng chúng tôi tiếp tục đi.  Chúng tôi không bước nhanh hơn.  Sau cùng, chúng tôi dừng chân ở Đại lộ Saint Germain, phía trước Deux-Magots.
“Tới nơi rồi,” nàng nói.
“Cô ở chỗ này?”
“Vâng.  Anh muốn vào không?”
Tôi phải cưỡng lại mình để đừng nói không.  Tôi rất muốn ở bên nàng, cùng nàng trò chuyện, sờ vào tóc nàng, ngắm nàng lịm vào giấc ngủ.  Nhưng tôi sợ mình bị thất vọng.
“Vào đi,” Kathleen cả quyết.
Nàng mở cánh cửa nặng nề và chúng tôi bước lên cầu thang dẫn tới căn hộ của nàng.
Tôi lạnh.  Và tôi nghĩ tới bà nội của tôi, bộ mặt bà trắng như cát sa mạc trong suốt, và chiếc khăn trùm đầu của bà đen như đêm nghĩa trang tối mịt mùng.
Chương 2
2
Ai đó?”
Tôi gần như không nghe ra giọng nói của chính mình.  Hàng ngàn mũi kim đang tiêm lửa vào máu tôi.  Tôi khát.  Tôi cảm thấy nóng bừng bừng.  Cổ họng tôi khô rang.  Mạch máu tôi sắp nổ tung.  Tuy thế cái lạnh không bỏ tôi mà đi.  Thể xác tôi, rúng động vì chứng co giật, run rẩy như cây trong bão, như lá trong gió, như gió giữa biển, như biển trong đầu một gã khật khùng, một tên say rượu, một kẻ hấp hối.
“Ai đó?” tôi hỏi thêm lần nữa trong khi răng đánh lập cập.  Tôi cảm thấy có ai đó trong phòng.
“Y tá,” một giọng không quen nói.
“Nước.” tôi nói.  “Tôi khát.  Cho tôi chút nước.”
“Anh không được uống,” giọng ấy nói.  “Anh sẽ cảm thấy tệ hơn.  Nếu uống vào anh sẽ ói ra.”
Bị trái ý, tôi thầm lặng khóc.
“Nào, bây giờ,” người y tá nói, “Tôi sắp dấp nước lên mặt anh.”
Chị lau trán tôi, rồi lau môi tôi bằng khăn ướt.  Chiếc khăn bắt lửa khi chạm vào da tôi.
“Mấy giờ rồi?” tôi hỏi.
“Sáu giờ.”
“Ban đêm?”
“Vâng.”
Tôi nghĩ: lúc bác sĩ Russel tới gặp tôi trời mới sắp trưa.  Sáu mũi thuốc trụ sinh rồi mà tôi không để ý.
“Anh đau lắm phải không?” người y tá hỏi.
“Tôi khát.”
“Chính cơn sốt làm anh khát.”
“Có phải tôi vẫn sốt cao?”
“Phải.”
“Cao tới đâu?”
“Cao.”
“Tôi muốn biết.”
“Tôi không được phép nói cho anh biết.  Đó là luật.”
Cửa mở.  Ai đó vào.  Tiếng thì thầm.
“Sao, anh bạn?  Anh nói gì đây?”
Bác sĩ Russel cố làm ra vẻ tình cờ.
“Tôi khát, thưa bác sĩ.”
“Kẻ thù không chịu rút lui,” anh nói.  “Nhượng bộ hay không là tùy anh.”
“Anh ta sẽ thắng, thưa bác sĩ.  Anh ta không chết vì khát đâu.”
Tôi nghĩ: chắc bà nội của tôi hiểu.  Chính cái nóng trong căn phòng khô nước, không dưỡng khí.  Chính cái nóng trong căn phòng mà thể xác sống động của bà bị các thể xác sống động khác xô tới đẩy lui.  Cũng như tôi, chắc bà đã há miệng để hớp không khí, để uống nước.  Nhưng chỗ của bà không nước cũng chẳng không khí.  Bà chỉ đang uống, đang hớp cái chết, như ta uống nước, hớp không khí, miệng há ra, mắt nhắm lại, các ngón tay co quặp vào nhau.
Đột nhiên tôi cảm thấy cần nói lớn tiếng, cần lạ lùng.  Để kể lại câu chuyện cuộc sống và cái chết của bà nội tôi, để tả lại chiếc khăn trùm đầu màu đen mà bà thường dọa cho tới lúc tôi hoàn hồn nhờ vẻ mặt mộc mạc và ân cần của bà.  Bà nội tôi là nơi lánh nạn của tôi.  Hễ bao giờ tôi bị cha tôi gắt gỏng là bà can thiệp: mấy ông bố đều như thế cả, bà vừa cắt nghĩa vừa cười.  Họ nổi giận chẳng đâu vào đâu.
Ngày nọ cha tôi bạt tai tôi.  Tôi ăn cắp ít tiền trong hộc tiền nơi quầy hàng, để cho một bạn học cùng lớp.  Nó là một đứa trẻ nghèo khổ bệnh tật.  Chúng bạn gọi nó là Haim trẻ mồ côi.  Thấy mặt nó là tôi cảm thấy người mình xốn xang khó chịu.  Tôi biết mình hạnh phúc hơn nó và điều đó khiến tôi cảm thấy mình có tội.  Mắc cái tội cha mẹ mình còn sống.  Vì thế tôi ăn cắp tiền.  Nhưng khi cha tôi căn vặn, cố tìm cho ra tôi dùng tiền đó để làm gì thì tôi không nói cho ông biết.  Nói cho cùng, tôi không thể kể với cha tôi rằng tôi cảm thấy mình có tội vì ông còn sống!  Ông vã vào mặt tôi và tôi chạy tới bà nội.  Tôi có thể kể cho bà nghe hết sự thật.  Bà không gắt gỏng tôi.  Đang ngồi giữa phòng, bà kéo tôi lên đùi bà và bà bắt đầu khóc rấm rứt.  Nước mắt bà nhỏ xuống đầu tôi dù bà đang cố nén lại trong lồng ngực mình, và tôi ngạc nhiên khám phá ra rằng những giọt nước mắt của bà nội tôi nóng hổi, chúng lăn qua nơi nào là đốt cháy mọi sự ở nơi đó.
“Bà ấy tới,” bác sĩ nói.  “Bà ấy đang ở bên ngoài.  Trong hành lang.  Anh có muốn bà ấy vào không?”
Với sức mạnh phát xuất từ lòng sợ hãi của mình, tôi kêu lên, “Không, tôi không muốn, tôi không muốn.”
Tôi nghĩ là bác sĩ đang nói tới bà nội của tôi.  Tôi không muốn gặp bà.  Tôi biết bà đã chết -- có thể là chết  khát -- và tôi sợ bà sẽ không giống như trong trí nhớ của tôi.  Tôi sợ bà sẽ không quấn chiếc khăn trùm đầu màu đen, cũng sẽ không có những giọt nước mắt nóng hổi trong mắt, không có vẻ mặt sáng sủa, tĩnh lặng làm ta quên rằng mình đang lạnh,
“Anh nên gặp bà ấy,” người bác sĩ nói, giọng dịu dàng.
“Không!  Không phải lúc này.”
Nước mắt của tôi đóng thành vệt trên má tôi, trên môi tôi, trên cằm tôi.  Thỉnh thoảng, chúng còn cố chui xuống dưới khuôn mặt tôi.  Tại sao tôi khóc?  Tôi không biết.  Tôi nghĩ đó là vì bà nội của tôi.  Bà hay khóc.  Bà khóc khi bà hạnh phúc và khóc cả khi bà không hạnh phúc.  Khi bà không hạnh phúc hoặc không bất hạnh thì bà khóc vì bà không còn cảm thấy mọi sự đem tới hạnh phúc hay bất hạnh.  Tôi muốn chứng tỏ với bà là tôi thừa hưởng những giọt nước mắt của bà, như đã được di chúc, chuyện gì cũng khóc.
“Tùy anh,” người bác sĩ nói.  “Ngày mai Kathleen trở lại cũng được.”
Kathleen! Nàng dính dáng gì tới chuyện này?  Làm sao nàng gặp bà nội của tôi?  Bộ nàng cũng chết rồi sao?
“Kathleen?” tôi nói, ngã đầu xuống gối.  “Cô ấy đâu?”
“Bên ngoài,” người bác sĩ nói, có vẻ ngạc nhiên.  “Nơi hành lang.”
“Để cô ấy vào đi.”
Cửa mở và tiếng chân nhè nhẹ bước tới bên giường.  Thêm lần nữa tôi cố hết sức mở mắt nhưng cảm thấy mi mắt mình bị may dính lại.
“Em khoẻ không, Kathleen?” tôi hỏi bằng giọng rành mạch.
“Khoẻ.”
“Em thấy: anh là nạn nhân mới nhất của Dmitri Karamazov.”
Nàng cố hé miệng cười.
“Anh có lý.  Cuốn phim đó dở.”
“Thà chết còn hơn xem nó.”
Tiếng cười của Kathleen có vẻ giả tạo.
“Em đang nói quá...”
Tôi thì thầm.  Bác sĩ đang nói với nàng, rất dịu dàng.
“Em phải rời anh,” Kathleen nói, giọng rất luyến tiếc.
“Cẩn thận khi băng qua đường.”
Nàng cúi xuống hôn tôi.  Nỗi sợ xưa cũ chụp lên tôi.
“Em đừng hôn anh, Kathleen!”
Nàng đột ngột rụt đầu lại.  Trong thoáng chốc, căn phòng yên lặng.  Kế đó tôi cảm thấy bàn tay nàng trên trán tôi.  Tôi sắp nói với nàng hãy rụt tay lại, đừng liều mà phỏng lửa, nhưng nàng đã rụt tay lại rồi.
Kathleen nhón bước ra khỏi phòng, theo chân bác sĩ.  Người y tá ở lại với tôi.  Tôi thật sự muốn biết người y tá trông ra sao: già hay trẻ, đẹp hay ủ rũ, tóc hung hay ngăm đen... Nhưng tôi vẫn không động đậy nổi mi mắt.  Mọi cố gắng mở chúng ra đều vô ích.  Có lúc tôi tự nhủ rằng ra sức nhướng lên thì không đủ, mình phải dùng tới hai bàn tay.  Nhưng tay tôi bị cột chặt vào hai bên giường và vẫn còn đó các cây kim lớn.
“Tôi sẽ tiêm cho anh hai mũi thuốc,” người y tá tuyên bố bằng một giọng mà khi nghe tôi chẳng đoán ra được gì.
“Hai? Tại sao hai?”
“Mũi thứ nhất, trụ sinh.  Và mũi thứ hai, giúp anh thiếp ngủ...”
“Chị không có mũi thứ ba trị cơn khát sao?”  Lúc này tôi khó thở.  Phổi tôi sắp nổ tung, như chiếc ấm khô nước bị bỏ quên trên bếp lửa.
“Anh sẽ ngủ.  Anh sẽ không khát.”
“Tôi sẽ không mơ thấy mình khát ư?”
Người y tá kéo mền lên.  “Tôi sẽ cho anh một mũi trị các giấc mơ.”
Chị thật dễ thương, tôi nghĩ.  Tim chị làm bằng vàng.  Chị đau khổ khi tôi đau khổ.  Chị yên lặng khi tôi khát.  Chị yên lặng khi tôi ngủ.  Có lẽ chị tươi trẻ, xinh đẹp, quyến rũ.  Chị có nét mặt nghiêm trang và có đôi mắt đang cười.  Chị có cái miệng gợi cảm, được tạo ra để hôn, không để chuyện trò.  Giống như đôi mắt của bà nội tôi, đôi mắt ấy không dùng để nhìn, không dùng để ngỡ ngàng, mà chỉ dùng để khóc.
Mũi thứ nhất.  Không có gì.  Tôi không cảm thấy nó.  Mũi thứ hai, mũi này ở cánh tay.  Vẫn không có gì,  Tôi đau trong người quá tới độ không cảm nhận được mũi thuốc tiêm vào.
Người y tá sửa lại mền, đặt các mũi kim vô hộp thiếc, dời ghế và xoay núm đèn.
“Tôi tắt đèn đây,” chị nói.  “Anh sẽ ngủ ngay thôi.”
Đột nhiên tôi có ý nghĩ chắc chị cũng muốn hôn tôi trước khi đi ra.  Chỉ là một nụ hôn thoáng chút ý nghĩa trên trán hoặc trên má, cũng có thể trên mi mắt.  Người ta thường làm như thế ở nhà thương.  Một nữ y tá tốt bụng hôn người bệnh khi chị chúc ngủ ngon.  Không phải trên miệng.  Trên trán, trên má.  Nụ hôn ấy làm yên lòng người bệnh.  Người bệnh nghĩ rằng nếu có một phụ nữ muốn hôn mình tức là bệnh mình không tới nổi tệ lắm.  Người bệnh không biết rằng miệng của người nữ y tá được tạo ra không để nói, cũng không để khóc mà là để giữ im lặng và để hôn người bệnh, cho họ thiếp ngủ mà không sợ hãi, không sợ hãi bóng tối.
Thêm lần nữa, khắp người tôi ướt đẫm mồ hôi.
“Chị đừng hôn tôi,” tôi thì thào.
Người y tá cười thân thiện.
“Dĩ nhiên không.  Nó làm anh khát.”
Rồi chị rời phòng.  Và tôi chờ mình thiếp ngủ.
Kể cho tôi nghe đôi chút về anh,” Kathleen nói,
Chúng tôi ngồi trong căn phòng ấm áp dễ chịu của nàng.  Chúng tôi lắng nghe một bài ca vãn điệu Gregorian đang trào dâng trong lòng mình.  Nhạc đó và lời đó chan chứa sự an bình không bão tố nào có thể lay động.
Trên bàn nhỏ, hai chiếc tách của chúng tôi vẫn chưa cạn.  Cà phê đã nguội.  Khung cảnh nửa tối nửa sáng làm tôi nhắm mắt mình lại.  Cảm giác mệt lã đè nặng lên người tôi từ lúc chập tối nay hoàn toàn tan biến.  Thần kinh tôi căng thẳng, tôi biết rằng một khi thời khắc này đã đi qua cuộc đời tôi thì sẽ mang theo với nó một phần con người tôi.
“Kể cho tôi nghe,” Kathleen nói.  “Tôi muốn biết về anh.”
Nàng ngồi bên phải tôi, chân xếp bằng tròn, trên ghế xa-long màu nâu nhạt.  Trong không khí bềnh bồng một giấc mơ đang tìm chỗ đậu.
“Tôi cảm thấy không thích làm như vậy,” tôi trả lời.  “Tôi cảm thấy không thích nói về mình.”
Nói về mình, thật sự nói về mình, tôi chắc phải kể câu chuyện bà nội của tôi.  Tôi cảm thấy không thích diễn tả câu chuyện đó thành lời nói: chỉ có thể diễn tả bà bằng những câu kinh.
Sau chiến tranh, khi tôi tới Paris, tôi thường, rất thường, bị thúc giục kể lại.  Tôi từ chối.  Tôi tự bảo mình rằng những kẻ đã chết không cần qua chúng tôi mới được nghe tới.  Họ ít rụt rè hơn chúng tôi.  Hổ thẹn không bám riết lấy họ trong khi tôi thì rụt rè và hổ thẹn.  Sự hổ thẹn không dằn vặt những kẻ hành quyết mà dằn vặt những nạn nhân của họ, đó là cách đã và đang xảy ra cho chúng tôi.  Hổ thẹn lớn lao nhất là mình bị số mệnh chọn lựa.  Con người ưa qui trách cho mình hết thảy những tội lỗi và tội ác có thể xảy tới cho mình hơn là rút ra kết luận rằng chính Thượng đế là cái khả năng bất công hiển nhiên nhất.  Tôi vẫn đỏ mặt hổ thẹn mỗi lần nghĩ đến cách mà Thượng đế đùa cợt loài người, những đồ chơi ưu ái của ngài.
Có lần tôi hỏi Kalman nhà huyền học, ông thầy của tôi, câu hỏi như sau:  Thượng đế tạo dựng con người vì mục đích gì?  Con hiểu rằng con người cần Thượng đế, nhưng Thượng đế cần gì nơi con người?
Ông thầy của tôi nhắm đôi mắt lại, và một ngàn vết thương, các mạch máu bị tê liệt vì những sự thật làm choáng váng kinh hoàng, vẽ thành cung mê mờ mịt trên vầng trán ông.  Sau đôi phút trầm ngâm, môi ông hé mở thành một nụ cười tinh tế và rất xa vời.
“Sách Thánh dạy chúng ta,” ông nói, “rằng khi con người ý thức những quyền năng của nó thì nó sẽ mất đức tin hoặc mất lý trí của nó.  Vì con người mang trong nó một vai trò vượt quá chính nó.  Thượng đế cần con người để là đấng độc nhất.  Đấng Cứu thế, kẻ được kêu mời đến để giải phóng con người, chỉ có thể được giải phóng bởi con người.  Chúng ta biết rằng không chỉ con người và vũ trụ được giải phóng mà còn đấng độc nhất lập ra các lề luật của con người và các quan hệ của con người cũng được giải phóng.  Đấng ấy đi theo con người -- kẻ không là gì cả ngoài một nắm đất -- kẻ có khả năng tái hiệp nhất thời gian và cội nguồn của thời gian, và trả lại cho Thượng đế hình ảnh thật của chính ngài.”
Thuở đó, tôi quá trẻ, không hiểu nổi ý nghĩa những lời nói đó của thầy tôi.  Ý nghĩ rằng sự hiện hữu của Thượng đế có thể kết chặt với sự hiện hữu của tôi làm lòng tôi chan chứa nỗi tự hào khốn khổ cùng với niềm thương cảm sâu xa.
Vài năm sau, tôi thấy những người công chính và ngoan đạo vừa bước tới cái chết của chính mình vừa hát, “Với lửa của chúng tôi, chúng tôi sắp bẻ gãy xiềng xích của Đấng Cứu thế nơi lưu đày.”  Chính lúc ấy, những ngụ ý có tính cách tượng trưng trong những gì thầy tôi nói đó làm tôi choáng váng.  Vâng, Thượng đế cần con người.  Bị kết án cô đơn vĩnh viễn, ngài tạo ra con người để dùng nó làm đồ chơi, để làm mình thích thú.  Đó là điều mà các nhà triết lý và các nhà thơ không chịu thừa nhận: từ thuở bắt đầu, đã không có Ngôi Lời, không có Tình Yêu, chỉ có tiếng cười náo nhiệt, bất tận mà các âm vang của nó còn giả tạo hơn cả những ảo tượng trong sa mạc.
“Tôi muốn biết về anh”, Kathleen nói.
Nét mặt nàng ảm đạm.  Giấc mơ tan loảng rồi vì tìm không ra chỗ đậu.  Tôi nghĩ: giấc mơ đó có thể đã nhập vào đôi mắt đang mở lớn của nàng.  Nhưng các giấc mơ thì không bao giờ từ bên ngoài nhập vào.
“Cô có thể kết thúc với lòng thù hận tôi,” tôi bảo nàng.
Nàng lại càng siết cái bằng tròn vô chặt hơn dưới người mình.  Cả con người nàng co rút lại, thành nhỏ hơn, như thể thân thể nàng muốn đi theo giấc mơ đó và cùng tan biến với nó.
“Tôi sẽ có dịp,” nàng trả lời.
Nàng sẽ thù hận tôi, tôi nghĩ.  Chuyện đó không tránh được.  Cái đã xảy ra thì rồi lại xảy ra.  Nguyên nhân giống nhau thì đưa tới hậu quả giống nhau và hận thù giống nhau.  Sự lặp lại là một thành tố quyết định trong khía cạnh bi thảm của thân phận chúng ta.
Tôi không biết tên người đàn ông đầu tiên công khai thét lên là thù hận tôi, cũng chẳng biết ông ta là ai.  Ông tiêu biểu cho hết thảy những người không tên không mặt sống trong vũ trụ của linh hồn những kẻ đã chết.
Lúc đó, tôi đang trên con tàu vượt biển đi Nam Phi.  Chuyến đầu tiên tôi gặp gỡ biển cả.  Hầu hết thời gian, tôi ở trên boong, đăm đăm nhìn những con sóng không mệt mỏi đào những huyệt mộ xong chỉ để lại lấp đầy.  Khi còn bé, tôi tìm kiếm Thượng đế vì tôi mường tượng ngài vĩ đại và quyền uy, bao la và vô tận.  Biển cho tôi hình ảnh đó.  Giờ đây, tôi đã hiểu Narcissus: hắn không té xuống giếng.  Hắn nhảy vào lòng giếng.  Vào lúc khát vọng của tôi được làm một với biển trở nên mãnh liệt thì tôi chỉ muốn nhảy từ mạn tàu xuống lòng biển.
Tôi chẳng có gì để mất, chẳng có gì để tiếc.  Tôi không ràng buộc vào thế giới của loài người.  Tất cả những gì tôi quan tâm đã bị tan thành khói.  Ngôi nhà nhỏ với tường vách rạn nứt, nơi lũ trẻ và người già lầm rầm khấn nguyện hoặc học bài dưới ánh sáng hiu hắt của ngọn nến, đã không còn gì nữa ngoài tro than.  Ông thầy của tôi, người đầu tiên dạy tôi rằng sự sống là một mầu nhiệm, rằng bên kia ngôn từ là sự im lặng, ông thầy của tôi, người lúc nào cũng phải nâng đầu mình lên như thể không dám đối mặt với thiên đàng -- vị thầy của tôi đã từ lâu bị thu lại thành một nhúm tro tàn.  Và em gái của tôi, đứa em chế giễu tôi vì tôi không bao giờ nô đùa với nó, vì tôi rất đạo mạo, quá đạo mạo, đứa em gái đó không còn cười giỡn nữa.
Chính người lạ ấy, kẻ không quen biết, kẻ không chủ ý, đêm đó đã ngăn tôi không bỏ cuộc.  Khi tôi đang đứng bên lan can trên boong thì ông - từ một nơi nào đó tôi không biết - bước tới đằng sau tôi, và bắt đầu trò chuyện với tôi.  Ông là một người Anh.
“Đêm đẹp quá,” ông nói, tì người vào lan can ngay bên phải tôi, gần như chạm vào người tôi.
“Rất đẹp,” tôi trả lời lạnh lẽo.
Tôi nghĩ: đêm tuyệt đẹp để nói lời vĩnh biệt với những kẻ lừa đảo, với những trung kiên đã trở thành dao động, với những lý tưởng đang hàm ý phản bội, với thế giới này nơi không còn chỗ cho những gì mang tính người, với lịch sử dẫn đến sự hủy hoại của linh hồn thay vì phát huy các uy lực của nó!
Người lạ ấy không cảm thấy sợ bởi trạng thái rầu rĩ buồn bực của tôi.  Ông tiếp tục: “Bầu trời gần với biển quá tới độ thật khó nói cái nào phản ánh trong cái nào, cái nào cần tới cái nào, vì cái này đang chế ngự cái kia.”
“Đúng vậy,” tôi lại thờ ơ trả lời.
Ông ngừng một chút.  Tôi có thể thấy nét mặt nhìn nghiêng của ông: gầy, sắc, thanh nhã.
“Nếu bầu trời và biển cả lâm chiến,” ông tiếp tục, “tôi hẳn về phe của biển.  Bầu trời chỉ tạo hứng cho các họa sĩ.  Không gây hứng khởi cho các nhạc sĩ.  Trong khi biển... Anh có cảm thấy biển tới gần con người qua âm nhạc của nó?”
“Có thể,” tôi trả lời với vẻ thù nghịch.
Ông lại ngừng nói, như thể đang tự hỏi có nên để tôi ở lại một mình.  Rồi ông quyết định mở miệng.
“Làm điếu thuốc?” ông hỏi, móc bao thuốc lá ra.
“Không, cám ơn.  Tôi cảm thấy không thích hút.”
Ông thắp thuốc và ném que diêm qua mạn tàu: một ngôi sao băng bị bóng tối nuốt chửng.
“Họ đang khiêu vũ bên trong,” ông nói.  “Sao anh không tham gia với họ?”
“Tôi cảm thấy không thích khiêu vũ.”
“Anh thích ở một mình với biển, phải không?”
Giọng ông đột nhiên biến đổi.  Nó trở thành riêng tư hơn, ít đại loại hơn.  Tôi không nhận ra là con người có thể thay đổi giọng nói của mình như thể thay đổi mặt nạ.
“Vâng, tôi thích được ở một mình với biển,” tôi cáu kỉnh trả lời, nhấn mạnh tiếng “một mình.”
Ông bập bập mấy hơi thuốc.
“Biển.  Biển khiến anh nghĩ tới cái gì?”
Tôi lưỡng lự.  Sự kiện rằng ông được bóng tối bao che, rằng tôi không biết ông, rằng có thể sáng mai trong phòng ăn tôi không còn nhận ra ông, đã tạo thế thượng phong cho ông.  Nói chuyện với một người lạ thì cũng như nói chuyện với các ngôi sao: nó không gây hệ lụy cho ta.
“Biển,” tôi nói, “khiến tôi nghĩ tới cái chết.”
Tôi có cảm tưởng ông mỉm cười.
“Tôi biết điều đó.”
“Làm sao ông biết?” tôi hỏi, chưng hửng.
“Biển có sức mê hoặc rất mạnh.  Tôi năm mươi tuổi và đi du lịch đã ba mươi năm.  Tôi biết tất cả các đại dương trên thế giới.  Tôi biết.  Người ta không nên nhìn sóng biển quá lâu.  Nhất là vào ban đêm.  Nhất là khi một mình.”
Ông kể tôi nghe chuyến đi đầu tiên của ông.  Vợ ông cùng đi với ông.  Cả hai mới thành hôn.  Một đêm để lại vợ mình đang ngủ, ông lên boong tìm chút khí trời.  Ở đó, ông nhận ra được sức mạnh kinh hoàng của biển trên những kẻ đang nhìn thấy trong biển hình bóng biến chất của mình.  Ông đang hạnh phúc và trẻ; tuy thế ông cảm thấy có một nhu cầu không cưỡng nổi là nhảy xuống biển, để được mang đi hoài đi mãi theo các con sóng đang gầm thét, đang gợi lên sự vĩnh cữu, bình an, bất tận, hơn bất cứ cái gì khác.
“Tôi có ý nói với anh,” ông lặp lại rất dịu dàng.  “Người ta không nên nhìn biển quá lâu.  Không một mình và không vào ban đêm.”
Lúc đó tôi cũng bắt đầu kể cho ông nghe những gì về bản thân tôi.  Biết rằng ông từng nghĩ tới cái chết và từng bị quyến rũ bởi bí mật của nó, tôi cảm thấy gần gủi ông hơn.   Tôi kể cho ông nghe những gì tôi chưa hề kể với ai.  Thời thơ ấu, các giấc mơ bí nhiệm, những đam mê tôn giáo, các hồi ức của tôi về những trại tập trung của Đức, niềm tin của tôi rằng mình lúc này chính là sứ giả của kẻ đã chết giữa những người đang sống...
Tôi nói hàng giờ.  Ông lắng nghe, ép sát người vô lan can, không ngắt lời tôi, không nhúc nhích, không rời mắt khỏi bóng tối đang chạy theo con tàu.  Thỉnh thoảng ông đốt thuốc, và cả những lúc tôi dừng lại giữa một ý nghĩ hoặc một câu, ông cũng không nói gì.
Thỉnh thoảng tôi bỏ lửng một câu, nhảy từ đoạn chuyện này qua đoạn chuyện khác, hoặc mô tả một nhân vật bằng chỉ một chữ mà không đề cập gì tới tình tiết liên quan đến nhân vật đó.  Người lạ ấy cũng không yêu cầu tôi giải thích.  Đôi khi, tôi nói rất nhỏ, quá nhỏ tới độ ông không thể nào nghe ra một tiếng trong điều tôi đang nói; nhưng ông vẫn bất động và im lặng.  Ông dường như không dám để mình hiện hữu ngoài cõi im lặng.
Chỉ đến lúc tàn đêm ông mới lấy lại được khả năng nói.  Giọng nói của ông, sau một thời gian câm nín, nay hóa ra khàn đục.  Giọng nói của một người đàn ông, một mình trong đêm, nhìn xuống biển, nhìn vào cái chết của chính mình.
“Anh phải biết điều này,” sau cùng ông nói.  “Tôi nghĩ tôi sắp căm thù anh.”
Người lạ ấy ngữa đầu ra sau như thể để lấy làm chắc chắn rằng bầu trời vẫn còn ở đó.  Đột nhiên, ông bắt đầu đấm mạnh lên lan can bằng nắm tay siết thật chặt.  Và với giọng nói sâu thẳm, bị nén lại, ông lặp đi lặp lại mãi chỉ một câu, “Tôi sắp căm thù anh... Tôi sắp căm thù anh...”
Rồi ông quay lưng đi thẳng.
Một luồng sáng làm chân trời rạng lên.  Biển trầm lặng, con tàu lơ mơ ngủ.  Sao trời bắt đầu biến mất.  Đã tới rạng đông.
Tôi ở trên boong tàu suốt ngày. Đêm sau, tôi trở lại đúng chỗ đó.  Người lạ ấy không bao giờ đến với tôi nữa.
“Tôi sẽ có dịp,” Kathleen nói.
Tôi đứng lên, đi mấy bước quanh phòng cho giãn chân.  Tôi dừng lại bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.  Lối đi băng qua đường phủ đầy tuyết.  Một nỗi khổ não lạ lùng bao phủ lấy tôi.  Mồ hôi lạnh ướt đẫm trán.  Thêm lần nữa, đêm cất gánh nặng lên và ngày sẽ tới.  Tôi sợ ban ngày.  Trong đêm. tôi nhận thấy mọi bộ mặt đều quen thuộc, mọi âm thanh đều giống những gì tôi đã từng nghe.  Suốt ngày, tôi chỉ đụng phải những cái xa lạ.
“Anh có biết Shimon Yanai kể gì với tôi về anh không?” Kathleen hỏi.
“Tôi không có ý kiến.”
Shimon có thể đã kể gì với nàng?  Anh ấy biết gì về tôi?  Không gì cả.  Anh ấy không hiểu rằng hễ bao giờ tôi cảm thấy mình bị hoàng hôn cuốn đi thì tâm hồn tôi chất ngất những hoài tưởng về Sighet, thành phố nhỏ thời thơ ấu của tôi; tim tôi đập thình thình, rất mạnh, rất nhanh, tới độ suốt tuần lễ sau đó tôi vẫn không lấy lại được nhịp thở bình thường; anh không biết rằng tôi xúc động bởi một giai điệu Do thái, nó mang con người tôi về lại cội nguồn của mình còn hơn tất cả Bach, Beethoven và Mozart cộng lại; anh không thể biết rằng khi tôi nhìn một phụ nữ thì lúc nào tôi cũng thấy trong đó hình ảnh của bà nội mình.
“Shimon Yanai nghĩ rằng anh là một vị thánh,” Kathleen nói.
Câu trả lời của tôi là một chuỗi cười lớn, không nín lại được.
“Shimon nói rằng anh đã đau khổ vô vàn.  Chỉ có các vị thánh mới đau khổ vô vàn.”
Tôi không thể ngừng cười.  Tôi xoay người về phía Kathleen, về đôi mắt nàng, đôi mắt được tạo ra không phải để nhìn, không phải để khóc, nhưng để nói, và có lẽ để làm người ta cười.  Nàng rụt cằm vào trong cổ áo len, dấu đôi môi đang run rẩy.
“Tôi, một vị thánh? Thật tức cười...”
“Tại sao anh cười...”
“Tôi đang cười,” tôi trả lời mà người vẫn còn rung.  “Tôi cười vì tôi không phải là một vị thánh.  Các vị thánh không cười.  Các vị thánh là những kẻ đã chết.  Bà nội của tôi là một vị thánh: bà đã chết.  Ông thầy của tôi là một vị thánh: ông đã chết.  Còn tôi, nhìn tôi đây, tôi hãy còn sống.  Và tôi đang cười.  Tôi còn sống và tôi đang cười vì tôi không phải là một vị thánh...”
Ban đầu, có một thời gian khó khăn lắm tôi mới quen được với ý tưởng rằng mình còn sống.  Tôi nghĩ về mình như một kẻ đã chết.  Tôi không ăn được, đọc được, khóc được: tôi thấy bản thân mình đã chết.  Tôi nghĩ rằng mình đã chết, tới độ trong các giấc mơ, tôi tưởng tượng bản thân mình còn sống.  Tôi biết tôi không còn hiện hữu, rằng cái tôi thật sự của tôi đã ở lại nơi đó, rằng cái tôi hiện tại của tôi không có gì giống với cái tôi kia, cái con người thật sự.  Tôi nay như rắn đã lột da.
Rồi ngày nọ, trên đường phố, một phụ nữ lớn tuổi yêu cầu tôi đến phòng bà.  Bà quá già, quá khô kiệt, tới độ tôi không nén nổi tiếng cười.  Bà già ấy tái người và tôi nghĩ rằng bà sắp ngã quị dưới chân tôi.
“Cậu không có chút lòng thương xót nào sao?” bà nói bằng giọng nghẹn ngào.
Lúc đó, bỗng dưng thực tại làm tôi choáng váng: tôi còn sống, đang cười, đang giễu cợt một bà già bất hạnh, tôi có thể sỉ nhục và làm tổn thương một bà già, giống như các vị thánh, khạc nhổ trên hình hài của chính họ,
“Đau khổ dẫn tới nơi nào?” Kathleen hỏi một cách căng thẳng.  “Không dẫn tới thánh tính sao?”
“Không!” tôi la lớn.
Tiếng la làm cơn cười của tôi ngưng lại.  Tôi đang nổi giận.  Tôi rời cửa sổ và bước tới đứng trước mặt nàng; nàng lúc này ngồi bệt dưới sàn nhà, đầu tì trên hai cánh tay đang bó gối.
“Những kẻ nói như vậy là tiên tri giả,” tôi nói.
Tôi phải cố gắng lắm mới không thét lên, không đánh thức cả ngôi nhà và những kẻ đã chết đang chờ bên ngoài, trong gió và trong mưa tuyết.  Tôi tiếp tục:
“Đau khổ phơi ra tính cách hèn hạ nhất, tính cách khiếp nhược  nhất trong con người.  Đau khổ có một giai đoạn mà qua tới bên kia giai đoạn đó, cô trở thành kẻ tàn bạo: bên kia giai đoạn đó,  cô bán linh hồn cô -- và tệ hơn nữa, linh hồn các bằng bữu của cô -- vì một miếng bánh mì, một chút ấm áp, vì một khoảnh khắc lãng quên, một giấc ngủ.  Các vị thánh là những kẻ đã chết trước giờ phút câu chuyện kết thúc.  Những người khác, những người mà số mệnh để cho sống sót, họ không còn dám soi mình trong gương, họ sợ mình có thể thấy một hình ảnh bên trong con người của chính mình: một con quái vật đang nhạo báng các phụ nữ bất hạnh và các vị thánh, những kẻ đã chết...”
Kathleen lắng nghe, sửng sờ, mắt mở to.  Khi tôi nói, nàng khòm lưng xuống sâu hơn.  Đôi môi tái nhợt thầm thì không ngừng chỉ một câu, “Nói tiếp đi! Tôi muốn biết thêm nữa. Nói nữa đi!”
Kế đó tôi rủ người xuống, ôm đầu nàng trong hai lòng bàn tay mình và nhìn thẳng vào mắt nàng, tôi kể nàng nghe câu chuyện của bà nội tôi, rồi câu chuyện của em gái tôi, của cha tôi và của mẹ tôi; bằng những lời rất mộc mạc, tôi tả lại cho nàng làm thế nào người ta trở thành một nấm mồ cho kẻ đã chết mà chưa chôn.
Tôi tiếp tục nói.  Trong từng chi tiết, tôi tả lại những tiếng thét và những ác mộng tôi thường nghe thường thấy khi đêm về.  Và Kathleen, xanh xao tái nhợt, đôi mắt ửng đỏ, tiếp tục van nài:
“Nữa! Tiếp tục đi! Nữa!”
Nàng nói tiếng “Nữa” bằng giọng rạo rực của một phụ nữ muốn kéo dài cơn khoái cảm của mình, nài nỉ người đàn ông nàng yêu đừng ngưng lại, đừng buông nàng, đừng làm nàng thất vọng, đừng bỏ rơi nàng lưng chừng giữa con đường ngất ngây và hư không.  “Nữa...Nữa...”
Tôi tiếp tục nhìn nàng và giữ nàng trong tay.  Tôi muốn vứt bỏ tất cả rác rưởi ở trong tôi, ghép nó lên đôi con ngươi và đôi môi nàng, mắt môi nàng tinh khiết quá, thơ ngây quá và đẹp tuyệt vời.
Tôi thổ lộ linh hồn tôi.  Những ý nghĩ và những dục vọng đê tiện nhất, những phản bội đau đớn nhất, những điêu ngoa mập mờ nhất của tôi.  Tôi bóc trần chúng ra khỏi bên trong tôi và đặt chúng xuống trước mặt nàng, như một hiến vật uế tạp, để nàng có thể nhìn ngó chúng và ngửi mùi thối rửa của chúng.
Nhưng Kathleen đang uống từng tiếng trong lời tôi nói như thể nàng muốn tự trừng phạt vì trước đây mình chưa từng đau khổ.  Thỉnh thoảng, nàng nhắc lui nhấn tới, cũng bằng một giọng rạo rực đó, rất giống tiếng kêu của một kỹ nữ về già, “Nữa...Nữa...”
Cuối cùng, tôi dừng lại, mệt lã.  Tôi ngã vật người trên thảm và nhắm mắt.

Trong một khoảng thời gian rất lâu chúng tôi không nói năng: một giờ, có lẽ hai giờ.  Tôi hết hơi.  Người tôi ướt đẫm mồ hôi, áo sơ-mi dán sát người.  Kathleen không nhúc nhích. Bên ngoài, đêm đang nhẹ nhàng xê dịch.
Đột nhiên chúng tôi nghe tiếng động chiếc xe của người giao sữa tới trên đường phố.  Xe dừng lại gần cửa.
Kathleen thở vào thật sâu và nói, “Tôi cảm thấy muốn xuống đường hôn người giao sữa.”
Tôi không trả lời.  Tôi chẳng còn hơi sức.
“Tôi muốn hôn ông ta,” Kathleen nói, “chỉ để cám ơn ông ta.  Cám ơn ông ta vì mình còn sống.”
Tôi im lặng.
“Anh không nói gì cả.” Giọng nàng có vẻ ngạc nhiên.  “Anh không cười sao?”
Và trong lúc tôi vẫn không nói gì, nàng bắt đầu vỗ về tóc tôi, rồi các ngón tay của nàng mân mê những đường nét trên khuôn mặt tôi.  Tôi thích cách nàng đang vuốt ve tôi.
“Tôi thích cô chạm vào người tôi,” tôi bảo nàng, mắt vẫn nhắm.  Sau một chút ngại ngần, tôi thêm, “Cô thấy, đây là bằng chứng tốt nhất rằng tôi không phải là một vị thánh.  Về mặt này, các thánh giống như những kẻ đã chết, họ không biết thèm muốn.”
Tiếng nói của Kathleen nhẹ hơn, nghe như gợi cảm hơn.  “Còn anh, anh thèm muốn tôi?”
“Vâng.”
Tôi lại cảm thấy buồn cười: một vị thánh, tôi? Thật khôi hài kỳ lạ!  Tôi, một vị thánh!  Vị thánh ấy có cảm thấy thèm muốn thân thể phụ nữ không?  Hắn có cảm thấy cần ôm nàng trong tay, phủ nàng với những nụ hôn, cắn vào da thịt nàng, chiếm hữu thể xác nàng, sự sống nàng, bộ ngực nàng?  Không, vị thánh ấy hẳn không muốn làm tình với một phụ nữ trong lúc bà nội đã chết của hắn đang quan sát, đang đội chiếc khăn trùm đầu màu đen như ôm ấp ngày và đêm của vũ trụ này.
Tôi ngồi xuống.  Và tôi nói một cách giận dữ, “Tôi không phải là một vị thánh!”
“Không ư?” Kathleen hỏi, cười không nổi.
“Không,” tôi lặp lại.
Tôi mở mắt và nhận ra nàng đang thật sự đau khổ.  Nàng cắn môi; trên mặt nàng có nỗi tuyệt vọng.
“Tôi sẽ chứng mình cho cô thấy rằng tôi không phải là một vị thánh,” tôi lẩm bẩm một cách giận dữ.
Không nói một lời, tôi bắt đầu cởi quần áo nàng.  Nàng không chống cự.  Khi trên người không còn manh vải nào, nàng lại ngồi xuống như trước.  Đầu tựa trên hai đầu gối, nàng đau đớn nhìn tôi trong khi tôi cũng cởi quần áo mình.  Lúc này môi nàng mím lại thành một vệt thẳng trên miệng.  Tôi có thể thấy trong mắt nàng có nỗi sợ hãi.  Tôi hài lòng; nàng sợ tôi, vậy là tốt.  Những kẻ, giống như tôi, đã để lại linh hồn của mình nơi địa ngục, và tại trần gian này chỉ làm kẻ khác sợ hãi bằng hình bóng trong gương của mình.
“Tôi sẽ làm tình với cô,” tôi nói với nàng bằng giọng gay gắt, gần như thù nghịch.  “Nhưng tôi không yêu cô.”
Tôi nghĩ: chắc nàng biết.  Tôi hoàn toàn không phải là một vị thánh.  Tôi sẽ làm tình mà không có bất cứ cam kết nào.  Một vị thánh thì cam kết toàn thân trong mỗi hành động.
Nàng xỏa tóc, tóc buông xuống vai.  Ngực nàng phập phồng lên xuống không theo nhịp bình thường.
“Nếu như tôi yêu anh thì sao?” nàng hỏi, làm ra vẻ ngây thơ.
“Chuyện họa hiếm! Cô sẽ thù hận tôi thì đúng hơn.”
Nét mặt nàng ánh chút u buồn hơn, chút đau đớn hơn.  “Tôi e rằng anh có lý.”
Đâu đó, bên trên thành phố, có dấu vết bình minh trong thế giới mù sương.
“Nhìn tôi đây này,” tôi nói.
“Tôi đang nhìn anh.”
“Cô thấy gì?”
“Một vị thánh,” nàng trả lời.
Tôi lại cười.  Đây chúng tôi đây, cả hai đều trần truồng, và trong hai chúng tôi có một vị thánh sao?  Thật kỳ cục!  Tôi thô bạo vồ chụp nàng, cố ý làm tổn thương nàng. Nàng cắn môi và không thét lên.  Chúng tôi ở bên nhau cho tới xế chiều hôm đó.
Không nói thêm một lời nào khác.
Không trao đổi một chiếc hôn nào.
Đột nhiên chứng sốt biến mất.  Tên tôi được rút ra khỏi danh sách bệnh nhân nguy kịch.  Tôi vẫn đau đớn nhưng tính mạng không còn lâm nguy.  Tôi vẫn bị tiêm thuốc kháng sinh nhưng thưa hơn.  Bốn mũi một ngày.  Rồi ba, rồi hai.  Rồi dứt hẳn.
Đến khi được phép tiếp khách thì tôi ở trong nhà thương đã gần một tuần và bó bột được ba ngày.
“Bạn bè anh có thể vào thăm anh hôm nay,” chị y tá nói trong khi lau người tôi.
“Tốt,” tôi nói.
“Anh phản ứng chỉ có vậy thôi sao?  Có phải anh không cảm thấy sung sướng vì có thể gặp các bạn của mình?”
“Tôi sung sướng  Rất sung sướng.”
“Anh về lại từ một nơi rất xa,” chị nói.
“Rất xa.”
“Anh không hay nói.”
“Không.”
Tôi khám phá khi đang bệnh thì mình có một lợi thế độc đáo: có thể giữ im lặng mà chẳng cần phải xin lỗi.
“Sau điểm tâm, tôi sẽ tới cạo râu cho anh,” chị y tá nói.
“Việc đó không cần thiết,” tôi trả lời.
“Không cần thiết?”
Chị có vẻ không tin: trong nhà thương không việc gì làm là không cần thiết!
“Đúng vậy.  Không cần thiết.  Tôi muốn chừa râu.”
Chị nhìn tôi một chút, rồi hạ lời phán quyết.
“Không.  Anh cần cạo râu.  Để như thế này trông anh bệnh quá.”
“Nhưng tôi đang bệnh.”
“Anh đang bệnh.  Nhưng nếu cạo râu anh sẽ cảm thấy khá hơn.”
Và không để tôi có thì giờ trả lời, chị tiếp tục, “Anh sẽ cảm thấy mình y như mới.”
Chị trẻ, bướng bỉnh, nước da sậm.  Cao, áo đồng phục trắng khuy cài kín cổ.  Chị cao hơn hẳn tôi, không chỉ vì chị đứng mà tôi nằm.
“Được rồi,” tôi nói, để chấm dứt cuộc tranh luận.  “Trong trường hợp này thì tốt.”
“Giỏi!  Đúng là bé ngoan.”
Chị sung sướng với chiến thắng, miệng chị rộng để lộ ra hàm răng trắng nuốt.  Vui vẻ, chị kể đủ thứ chuyện, chuyện nào cũng dường như có tính cách khuyên nhủ, thí dụ:  thần chết e ngại tấn công những kẻ làm cho mình có vẻ dễ thương vào buổi sáng.  Có thể tìm thấy rõ ràng bí quyết bất tử ấy trong kem cạo râu.
Sau khi giúp tôi lau người, chị mang bữa ăn sáng tới.
“Tôi sẽ đút cho anh ăn như thể anh là con nít.  Anh có mắc cở khi làm con nít ở tuổi này không?”
Chị bỏ đi và lập tức trở lại với dao cạo râu chạy điện.
“Chúng tôi muốn anh ngó có vẻ dễ thương.  Tôi muốn cậu con nít của tôi dễ thương!”
Dao cạo râu gây tiếng ồn khủng khiếp.  Chị y tá tiếp tục nói chuyện.  Tôi không lắng nghe chị.  Tôi đang nghĩ tới đêm xảy ra tai nạn.  Chiếc tắc xi phóng nhanh.  Tôi không nghĩ nó sẽ hất tôi văng vô nhà thương.
“Đây, anh đây rồi,” chị y tá vừa nói vừa cười.  “Lúc này trông anh thật dễ thương.”
“Tôi biết,” tôi nói.  “Lúc này tôi giống con nít mới sinh.”
“Chờ chút, tôi đem tới cho anh chiếc gương!”
Chị có đôi mắt rất to, tròng mắt đen nhánh, viền chung quanh chúng toàn màu trắng rất trắng.
“Tôi không muốn gương,” tôi nói.
“Để tôi mang nó tới, anh sẽ thấy.”
“Nghe đây,” tôi hăm he, “nếu chị đưa tôi chiếc gương, tôi đập vỡ nó ngay.  Một chiếc gương bị vỡ thì mang lại bảy năm xui rủi!  Có phải chị muốn như vậy?  Bảy năm xui xẻo?”
Trong một giây, chị đứng tròng, ngạc nhiên không biết tôi nói giỡn hay nói thật.
“Thật đó.  Ai cũng có thể nói cho chị biết: đừng bao giờ làm vỡ gương.”
Chị vẫn cười nhưng lúc này tiếng cười của chị nghe có vẻ ái ngại hơn trước.  Chị chà tay vô bộ đồng phục trắng.
“Anh là bé hư,” chị nói.  “Tôi không ưa anh.”
“Xui thật!” tôi trả lời.  “Tôi ngưỡng mộ chị!”
Tôi đang ngó ra cửa sổ.  Từ giường mình tôi có thể nhìn ra Sông Đông.  Có con thuyền nhỏ đang lướt qua: một chấm xám nhàn nhạt trên toàn cảnh màu xanh thẩm.  Một ảo tượng.
Ai đó gõ cửa phòng.
“Vào đi!”
Bác sĩ Paul Russel, hai tay thọc trong túi áo bờ-lu, trở lại để nối tiếp cuộc nói chuyện ở chỗ chúng tôi bỏ dở.
“Sáng nay anh cảm thấy khá hơn chứ?”
“Vâng, thưa bác sĩ.  Khá hơn nhiều.”
“Hết sốt rồi.  Kẻ thù bị đánh bại.”
“Một kẻ thù bị đánh bại, cái đó nguy hiểm,” tôi lưu ý.  “Nó sẽ chỉ nghĩ tới chuyện phục thù thôi.”
Bác sĩ bỗng nghiêm nghị hơn.  Anh rút ra một điếu thuốc và mời tôi.  Tôi từ chối.  Anh châm lửa cho mình.
“Anh vẫn còn đau?”
“Vâng.”
“Nó sẽ kéo dài trong vài tuần nữa.  Anh có sợ không?”
“Sợ cái gì?”
“Sợ đau.”
“Không.  Tôi không sợ đau.”
Anh nhìn thẳng vào mắt tôi.  “Vậy, anh sợ gì?”
Thêm lần nữa tôi có cảm tưởng rằng anh đang giấu tôi điều gì đó.  Có thể anh thật sự đã biết?  Có phải tôi đã nói ra trong khi mê, trong khi giải phẫu.
“Tôi không sợ gì cả,” tôi trả lời, đăm đăm nhìn lại anh.
Im lặng.
Anh bước tới cửa sổ, đứng lại đó đôi chút.  Lúc ấy, tôi nghĩ: cái lưng người đó và dòng sông đó không còn hiện hữu.  Địa đàng khi không có gì xuất hiện giữa con mắt và cây cối.
“Anh có một phong cảnh đẹp tuyệt vời,” anh nói, không quay người lại.
“Tuyệt đẹp.  Dòng sông ấy giống tôi: nó gần như chẳng nhúc nhích.”
“Hoàn toàn ảo giác!  Nó chỉ lặng yên trên bề mặt.  Hãy xuống dưới bề mặt, anh sẽ thấy nó hiếu động biết bao...” Anh đột nhiên quay lại, “...Thực tế, nó giống anh thôi.”
Chính xác thì anh biết cái gì, tôi tự hỏi, dù sao cũng cảm thấy lo lắng.  Anh nói như thể anh đã biết.  Biết đâu có thể tôi đã phản bội tôi?
“Đàn ông nào cũng giống dòng sông,” tôi nói, lái cuộc trò chuyện tới những cái trừu tượng.  “Các dòng sông chảy ra biển, biển không bao giờ đầy.  Loài người bị cái chết nuốt chửng, cái chết không bao giờ no.”
Anh phác một cử chỉ chán nản, như thể nói: được rồi, anh không muốn trò chuyện, anh đang né tránh, không sao, tôi chờ,
Chầm chậm anh đi tới cửa, rồi dừng lại.
“Tôi chuyển một lời nhắn cho anh.  Từ Kathleen.  Bà ấy sẽ tới thăm anh xế chiều nay.”
“Anh đã gặp nàng?”
“Vâng, bà ấy ngày nào cũng tới.  Bà ấy là một phụ nữ cực kỳ dễ thương.”
“C-ự-c-k-ỳ.”
Anh đứng lại chỗ cửa đang mở.  Giọng anh có vẻ rất gần.  Cửa hẳn ở sát giường tôi.
“Bà ấy yêu anh,” anh nói.  Giọng nghiêm hẳn lại, gằn tiếng, “Còn anh? Anh yêu bà ấy?”
Anh nhấn mạnh tiếng “anh”.  Tôi thở dồn dập hơn.  Bác sĩ đã biết cái gì, tôi day dứt tự hỏi mình.
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời, cố làm ra vẻ bình tĩnh.  “Dĩ nhiên tôi yêu nàng.”
Chẳng có gì động đậy.  Hoàn toàn yên lặng.  Ngoài hành lang, tiếng loa phóng thanh nghe mơ hồ: “Bác sĩ Braustein, điện thoại... Bác sĩ Braustein, điện thoại...”  Những âm vang ấy đến từ một thế giới khác.  Trong phòng này hoàn toàn yên lặng.
“Tốt,” bác sĩ Russel nói.  “Tôi phải đi.  Sẽ gặp lại anh tối nay hoặc ngày mai.”
Một con thuyền khác lướt qua cửa sổ.  Bên ngoài, không gian sắc nét, sống động.  Tôi nghĩ: ngay lúc này đây, đàn ông đang bước đi trên đường phố, không cà vạt, mặc áo sơ-mi xăn tay.  Họ đang đọc, đang cãi nhau, đang ăn, đang uống, dừng chân tránh một chiếc xe, chiêm ngưỡng một phụ nữ, nhìn lên các cửa sổ.  Bên ngoài, ngay lúc này đây, đàn ông đang bước đi.
Chớm chiều, vài đồng nghiệp của tôi xuất hiện.  Họ đi thành bọn, vui vẻ, cố làm cho tôi cảm thấy mình cũng vui như họ.
Họ kể tôi nghe chuyện đồn đãi vu vơ: ai đang làm gì, ai đang nói gì, ai bất trung với ai.  Lời nói mới nhất, sự mất quyền chủ động mới nhất, câu chuyện mới nhất.
Rồi cuộc nói chuyện nhắc lại tai nạn.
“Anh phải thừa nhận là anh hên lắm mới chỉ bị có thế,” một người trong bọn nói.
Và một người khác: “Không chừng anh có thể đã mất một cái chân.”
“Hoặc kể cả bị mất trí nữa.”
“Anh sắp giàu,” Sander, một người Hungary, nói.  “Chính tôi có lần bị xe đụng.  Công ti bảo hiểm bồi thường cho tôi một ngàn đô-la.  Anh may mắn vì đó là tắc xi.  Tắc xi lúc nào cũng đóng nhiều tiền bảo hiểm.  Anh sẽ giàu, anh sẽ thấy anh là một gã may mắn!”
Tôi đau khắp người.  Tôi không nhúc nhích nổi.  Tôi gần như bại liệt.  Nhưng tôi rất may mắn.  Tôi sắp giàu.  Tôi sẽ có thể đi du lịch, lui tới các hộp đêm, bao tình nhân, ngự trên đỉnh cao thế giới: thiệt là hên!  Họ gần như nói là họ ganh tị với tôi.
“Lúc nào tôi cũng nghe người ta nói là tại Mỹ, bạn thấy có đô-la ngay trên đường phố,” tôi nói.  “Điều đó đúng thật: anh chỉ việc phải té xuống rồi lượm chúng lên.”
Họ lại rũ người ra cười và tôi cùng cười với họ.  Một hoặc hai lần, chị y tá đi vào mang theo cái gì đó cho tôi uống, và chị cũng cười theo họ.
“Quí vị có biết sáng nay anh ấy còn không muốn cạo râu!” Chị kể với họ.
“Anh ta giàu,” Sandor nói.  “Người giàu có thể đủ điều kiện để không cạo râu cũng chẳng sao.”
“Anh thật là khôi hài,” chị y tá vừa kêu lên vừa vỗ tay.  “Và anh ta có kể quí vị nghe chuyện chiếc gương không?”
“Không!” Họ la lên một lượt.  “Chị kể cho nghe chuyện chiếc gương đi!”
Chị kể với họ rằng sáng nay tôi không chịu nhìn mình trong gương.
“Người giàu sợ mấy chiếc gương,” tôi nói.  “Mấy chiếc gương chẳng tôn trọng cái lộng lẫy.  Chúng quen thuộc với cái đó quá rồi.”
Căn phòng làm người nóng bức, còn nóng hơn bên trong bột bó.  Các bạn tôi tươm mồ hôi.  Chị y tá lật lưng bàn tay lau trán mình.  Khi chị đi rồi, Sandor nháy mắt.
“Gào, không tới nổi tệ chớ?”
“Cô ta có lý lắm!” một người trong bọn nói thêm.“Chắc chắn ở đây anh chẳng buồn chán gì mấy!”
“Không, tôi không thấy buồn chán,” tôi nói.
Chúng tôi ở với nhau khá lâu cho tới khi Sandor chợt nhớ ra là có cuộc họp báo lúc bốn giờ.
“Đúng đó, suýt chút nữa quên.”
Họ vội vã đi ra, mang tiếng cười đi theo họ qua hành lang, ra đường phố, và sau cùng, vào nơi đang gánh vác nhiệm vụ lịch sử, Trụ sở Liên hiệp quốc.
Khi Kathleen tới thì đã gần bảy giờ.  Nàng có vẻ xanh xao hơn thường ngày, vui vẻ hơn, và còn có vẻ hớn hở nữa.  Như thể nàng đang sống trong khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời mình.  Phong cảnh đẹp quá! Anh nhìn kìa, dòng sông! Và căn phòng xinh ơi là xinh!  Rộng rải quá, sạch sẻ quá!  Anh ngó thật là tuyệt!
Thiệt kỳ quặc, tôi nghĩ.  Phòng nhà thương là nơi vui vẻ nhất thế gian.  Ai cũng trở thành diễn viên.  Kể cả người bệnh.  Ai cũng mang thái độ mới, điểm trang mới, niềm vui mới.
Kathleen tiếp tục nói.  Dù trước đây nàng không thích những kẻ mở miệng ra mà chẳng nói lên điều gì, lúc này nàng lại làm đúng y như vậy.  Tại sao nàng sợ im lặng?  Càng thắc mắc tôi càng cảm thấy thêm căng thẳng.  Có thể nàng cũng đã biết điều gì đó?  Nàng ở trong vị trí biết được điều đó.  Nàng ở đó vào thời điểm xảy ra tai nạn.  Đằng trước tôi một tí.  Nàng có thể đã ngoái nhìn lui.
Tôi rất muốn lái cuộc nói chuyện tới vấn đề đó nhưng tôi không thể chận lại những lời lẽ của nàng đang tuôn ra như suối.  Nàng tiếp tục nói, nói và nói.  Isak làm thay cho anh ở tờ báo.  Tại toà soạn, điện thoại reo liên tục: đủ thứ người hỏi thăm tình trạng anh ra sao rồi.  Và anh biết đó, kể cả cái người - tên ông ta là gì nhỉ? - anh biết cái người em đang có ý nói, người mập bự, mập như thể có bầu, anh biết mà, người đang giận anh đó, cả người đó cũng điện thoại tới.  Isak kể với em.  Và---
Có tiếng gõ cửa.  Người y tá - một người mới, không phải chị y tá sáng nay - mang vào cho tôi bữa ăn chiều.  Đó là một phụ nữ lớn tuổi, đeo kính, lãnh đạm một cách kiêu kỳ.  Bà đề nghị giúp tôi ăn.
“Bà đừng lo,” Kathleen nói.  “Để tôi làm việc đó.”
“Tốt lắm,” bà y tá già nói.  “Xin theo ý bà.”
Tôi không đói.  Kathleen cứ nhất quyết: chút  cháo nghe?  Đúng, đúng.  Anh phải ăn.  Anh mất sức nhiều quá.  Nào.  Một muổng thôi.  Chỉ một thôi.  Thêm muổng nữa nghe.  Ăn vì em mà.  Này này, thêm muỗng nữa thôi.  Tốt.  Còn chút xíu nữa thôi mà.  Anh coi đây này: một miếng thịt.  A! Ngó miếng thịt ngon thiệt là ngon!
Tôi nhắm mắt lại, cố không nghe.  Chỉ có cách độc nhất đó thôi.  Đột nhiên tôi cảm thấy muốn thét lên.  Nhưng tôi biết mình không nên thét.  Dù sao thì cũng để làm gì?
Kathleen nói và nói.
“Em cũng đã thuê luật sư.  Một luật sư rất giỏi.  Ông ta sắp kiện công ti tắc xi.  Ông sẽ tới đây ngày mai.  Ông ta nói rất có triển vọng.  Ông ta nói anh sẽ nhận được rất nhiều tiền.”
Khi tôi ăn xong, nàng cầm khay, đặt lên bàn.  Tôi có thể nhận ra khi làm cho mình bận rộn thì nàng mệt nhọc biết bao.  Lúc này, tôi đã hiểu tại sao nàng nói quá nhiều: nàng đang tới hồi sức cùng lực kiệt.  Đằng sau tính cách vui vẻ gượng gạo ấy là tình trạng kiệt sức.  Bảy ngày.  Từ lúc xảy ra tai nạn tới nay đã một tuần.
“Kathleen?” tôi gọi.
“Vâng?”
“Tới đây.  Ngồi xuống.”
Nàng nghe lời, ngồi lên giường.
“Gì vậy?” nàng hỏi, lo lắng.
“Anh muốn hỏi em chút chuyện.”
Nàng nhíu mày.  “Vâng?”
“Anh không nhận ra em.  Em thay đổi.  Em nói nhiều quá.  Tại sao?”
Có thoáng rùng mình lướt qua mi mắt nàng, qua đôi vai nàng.
“Quá nhiều việc xảy ra trong một tuần,” nàng nói, mặt hơi ửng đỏ.  “Em muốn kể hết cho anh nghe.  Anh đừng quên là đã một tuần em không nói chuyện với anh...”
Nàng nhìn tôi như thể nàng vừa bị đánh, và cúi đầu xuống.  Rồi chầm chậm, một cách máy móc, nàng lặp lại mấy lần bằng giọng đều đều, trầm trầm, mỏi mệt, “Em không muốn khóc, em không muốn khóc, em không muốn...”
Kathleen khốn khổ, tôi nghĩ.  Kathleen khốn khổ.  Tôi làm nàng thay đổi.  Kathleen rất kiêu hãnh.  Kathleen mà ý chí của nàng mạnh hơn ý chí của những người khác, Kathleen mà sức mạnh của nàng thuần khiết và là kẻ thật sự cứng cỏi, Kathleen chống lại đàn ông với một cá tính và tâm trí ngoan cường của một người đàn ông, như thể đọ sức với họ; Kathleen lúc này không còn chút sức lực nào để nén lại những giọt nước mắt, kềm lại những lời lẽ của mình.
Tôi làm nàng biến tính.  Và nàng làm tôi thay đổi!  “Em không thể nào thay đổi một con người.” tôi đã bảo nàng ngay tự thuở đầu, bảo một lần, ngàn lần.  “Em không thể làm thay đổi ý nghĩ của người ta, thái độ của người ta, những ràng buộc của người ta.  Em chỉ có thể làm thay đổi khát vọng của người ta, thế thôi.”  “Đối với em như thế là đủ,” nàng trả lời.
Và cuộc chiến bắt đầu.  Nàng muốn làm cho tôi hạnh phúc, hạnh phúc trong mọi sự.  Làm cho tôi thưởng thức những lạc thú của cuộc đời.  Làm cho tôi quên quá khứ.  “Quá khứ của anh đã chết.  Chết rồi và chôn rồi,” nàng nói cả quyết.  Và tôi nằng nặc trả lời, “Anh là quá khứ của anh.  Nếu nó bị chôn rồi thì anh cũng đã bị chôn theo với nó.”
Nàng chiến đấu ngoan cường.  “Em mạnh,” nàng nói dứt khoát.  “Em sẽ thắng.” Và tôi kiên quyết trả lời, “Em mạnh.  Em đẹp.  Em có đủ mọi phẩm chất để chinh phục người đang sống.  Nhưng ở đây em đang chiến đấu chống một kẻ đã chết.  Em không thể chinh phục kẻ đã chết.”  “Được, để rồi coi.”
“Em không muốn khóc,” nàng nói, đầu cúi xuống như thể bị đè nặng bởi tất cả những kẻ đã chết từ tạo thiên lập địa.
Tôi đã nói con người không thể thay đổi ư?  Tôi lầm.  Họ thay đổi: kẻ đã chết thì toàn năng.  Đó là điều nàng không chịu hiểu: rằng kẻ đã chết thì vô địch.  Rằng qua tôi, nàng đang chiến đấu chống họ.
Là con một và cha mẹ rất giàu, nàng có tính ngoan cố, ngang đầu cứng cổ.  Vẻ kiêu hãnh của nàng gần như ngây thơ.  Nàng không quen thua trận.  Nàng nghĩ nàng có thể thay thế cho số phận của tôi.
Có lần tôi hỏi nàng có yêu tôi không.  “Không,” nàng nóng nảy trả lời.  Và điều đó đúng.  Nàng không nói dối.  Lòng kiêu hãnh chân chính thì không dối trá.
Việc chúng tôi hiểu nhau chẳng liên quan gì tới tình yêu.  Thoạt đầu thì không.  Về sau thì có.  Nhưng không ngay vào lúc mới bắt đầu.  Cái làm chúng tôi không hiệp thành một cũng là cái giữ chúng tôi cách xa nhau.  Nàng thích cuộc sống và tình yêu; tôi thì chỉ nghĩ tới cuộc sống và tình yêu với cảm giác hổ thẹn sâu xa.  Chúng tôi ở bên nhau.  Nàng cần chiến đấu và tôi quan sát nàng.  Tôi quan sát lúc nàng chạm trán với một thực tại lạnh lùng, bất di bất dịch, mà nàng phát hiện ban đầu trong những lời tôi nói, và sau đó, trong sự im lặng của tôi.
Chúng tôi đi đây đi đó rất nhiều.  Những ngày dư dật, những giờ hối hả.  Thêm lần nữa, thời gian là một cuộc phiêu lưu.  Hễ lúc nào Kathleen ngắm một rạng đông tuyệt vời thì nàng biết cách khiến tôi chia sẻ sự hào hứng đó của nàng; trên đường phố, nàng là người chỉ cho tôi thấy các phụ nữ xinh đẹp; ở nhà, nàng dạy tôi rằng thể xác cũng là một nguồn hân hoan.
Ban đầu, ngay từ lúc đầu, tôi tránh những nụ hôn của nàng.  Chúng tôi chung sống với nhau nhưng miệng chúng tôi không bao giờ gặp gỡ nhau. Trong tôi có điều gì đó làm tôi chùn lại không chạm đến môi nàng. Như thể tôi sợ nếu tôi hôn lên môi nàng thì nàng sẽ đổi khác. Nhiều lần nàng sắp sửa tính hỏi tại sao, nhưng nàng quá đổi kiêu hãnh.  Rồi dần dần, tôi buông thả mình.  Mỗi chiếc hôn lại mở một vết thương cũ ra.  Và tôi nhận ra rằng mình vẫn còn khả năng đau khổ.  Rằng tôi vẫn đang đáp lại những tiếng gọi của quá khứ.
Đêm đó, hai chúng tôi không ai ngủ.  Nằm dài bên nhau, run rẩy, trong im lặng, chúng tôi chờ bình minh.  Ngay trước lúc rạng đông, nàng kéo tôi sát vô người nàng, và trong bóng tối, hai thể xác làm tình lần cuối.  Một giờ sau, trong thầm lặng, tôi chỗi dậy, mặc quần áo, rời căn phòng không một lời từ giã, cũng chẳng ngoái đầu nhìn lui.
Bên ngoài, gió sáng sớm buốt giá quất lên các ngôi nhà.  Thành phố còn hoang vắng!  Đâu đó tiếng cánh cửa kêu. Một khung cửa sổ nào đó loé sáng, xanh xao và đơn độc.  Trời lạnh.  Chân tôi muốn người tôi chạy.  Tôi cố lê bước chầm chậm, rất chậm: tôi không muốn chịu thua bất cứ sự yếu đuối nào.  Mắt tôi trào lệ, có thể vì lạnh.
“Em không muốn khóc,” Kathleen nói.
Nàng lắc lắc chiếc đầu đang trỉu xuống.
Kathleen khốn khổ, tôi nghĩ.  Em cũng bị kẻ đã chết làm cho thay đổi.
Tay luật sư đến vào hôm sau.  Anh ta mang kính trắng, người tầm thước, có cái vẻ tự mãn của một kẻ chưa đặt câu hỏi mà đã biết trước người ta sẽ trả lời như thế nào.
Anh ta tự giới thiệu: Mark Brown.  “Cứ gọi tôi là Mark.”
Anh ta thoải mái ngồi xuống, tự nhiên như ở nhà mình, và rút trong cặp ra một xấp giấy lớn màu vàng.
“Tôi đã nói chuyện với các bác sĩ của anh,” anh ta nói.  “Anh đang trong tình trạng thê thảm.  Rất tốt.”
“Anh có lý, rất là tốt.”
Anh ta hiểu ý mĩa mai đó.  “Dĩ nhiên tôi chỉ nói theo quan điểm vụ kiện,” anh ta nói, nhíu mày với tôi.
“Tôi cũng vậy,” tôi trả lời.  “Tôi nghe nói anh sắp làm cho tôi giàu.”
“Tôi có nhiều hy vọng.”
“Hãy cẩn thận.  Các kẻ thù của tôi sẽ không bao giờ buông tha tôi, tôi sắp trở thành một ký giả giàu.”
Tay luật sư cười: “Ít ra có một lần luật pháp đứng về phía văn chương!”
Anh ta bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi chi tiết: chính xác, trong đêm tai nạn, xảy ra những gì?  Có phải lúc đó tôi một mình? Không.  Ai cùng đi với tôi? Kathleen.  Vâng, người phụ nữ trẻ, kẻ đã gọi anh ta.  Chúng tôi có cãi nhau không? Không.  Chúng tôi có chờ tới lúc đèn chuyển hẳn qua màu xanh rồi mới băng qua đường không? Có.  Chiếc tắc xi chạy tới từ bên trái, tôi có thấy nó đang tới gần không?
Tôi tốn thời gian hơn một chút để trả lời câu hỏi chót này.  Mark lột kính xuống, vừa lau kính vừa lặp lại, “Anh có thấy nó đang tới gần không?”
“Không,” tôi nói.
Anh ta nhìn tôi sắc bén hơn.  “Anh trông có vẻ tần ngần.”
“Tôi đang cố làm sống lại sự cố ấy, để nhìn nó thêm lần nữa.”
Mark thông minh, nhạy cảm.  Để chuẩn bị một hồ sơ tốt, anh ta quyết định thu thập nhiều chi tiết mà, về mặt nổi, có vẻ chẳng liên quan trực tiếp tới tai nạn.  Trước khi vạch chiến lược của mình, anh ta muốn biết hết mọi sự.  Cuộc phỏng vấn của anh ta kéo dài mấy tiếng đồng hồ.  Anh ta có vẻ hài lòng.
“Không có chút bóng tối ngờ vực nào,” anh ta dứt khoát.  “Người tài xế đó phạm tội lơ đãng.”
“Tôi hi vọng hắn sẽ không bị khổ sở vì việc này!” tôi nói.  “Tôi thật không muốn hắn bị trừng phạt.  Nói cho cùng, hắn không cố ý...”
“Đừng lo,” tay luật sư trấn an tôi, “hắn sẽ không phải trả tiền bồi thường, công ti bảo hiểm trả.  Chúng ta không kiện hắn gì cả, cái thằng cha khốn khổ.”
“Anh có chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn, rằng sẽ không có gì xảy ra cho hắn?”
Gã bất hạnh khốn khổ.  Không phải lỗi của hắn.  Hôm qua vợ hắn gọi điện thoại cho tôi, xin tha thứ cho hắn.  Bà gọi điện nhân danh chồng.  Hắn sợ.  Hắn sợ cả cái việc yêu cầu tôi tha thứ cho hắn.
“Tuyệt đối chắc chắn,” tay luật sư nói, miệng nở một nụ cười khô khan.  “Anh sẽ không giàu hơn và hắn cũng sẽ không nghèo hơn chút nào.  Vậy chẳng có gì phải áy náy.”
Tôi không thể dấu tiếng thở ra nhẹ nhỏm.
Sáng nào bác sĩ Paul Russel cũng tới trò chuyện.  Anh đã thành thói quen kết thúc vòng thăm bệnh hằng ngày bằng việc tới thăm tôi.  Anh thường ở lại một giờ hoặc hơn.  Anh vào phòng, không gõ cửa, ngồi lên thành cửa sổ, hai tay đút trong túi áo bờ-lu trắng, chân bắt chéo, mắt phản chiếu màu sắc đang thay đổi của dòng sông.
Anh nói rất nhiều về mình, đời sống của anh trong quân đội - anh từng tham dự Chiến tranh Triều tiên -, công việc của anh, những niềm vui và những nỗi thất vọng theo cùng với nó.  Giật được một nạn nhân khỏi tay thần chết là anh hạnh phúc vô cùng, như thể đạt được một chiến công vạn năng.  Mỗi thất bại đều để lại dưới mắt anh những quầng thâm.  Tôi chỉ việc nhìn kỹ anh là biết đêm qua anh thắng trận hoặc thua trận.  Anh xem thần chết như kẻ thù riêng của mình.
Anh cay đắng kể cho tôi nghe, “Điều làm tôi thất vọng là vũ khí của chúng tôi chênh lệch.  Chiến thắng của tôi chỉ tạm thời.  Thất bại của tôi là vĩnh viễn.  Lúc nào cũng vậy.”
Sáng hôm đó, anh có vẻ hạnh phúc hơn bình thường.  Anh rời chỗ anh thích đứng gần cửa, bắt đầu đi tới đi lui trong phòng như một kẻ say rượu, vừa đi vừa lẩm bẩm với mình.
“Bác sĩ ạ, anh đang say!” tôi trêu chọc anh.
“Say!” anh kêu lên.  “Dĩ nhiên tôi không say.  Tôi không uống rượu.  Hôm nay, giản dị là tôi hạnh phúc.  Hạnh phúc kinh khủng.  Tôi thắng!  Vâng, lần này tôi thắng...”
Chiến thắng của anh có mùi vị như rượu.  Anh không đứng yên một chỗ được.  Để tỏ tường hạnh phúc của mình, anh muốn trong cùng một lúc anh vừa là anh vừa là một người khác:  kẻ chứng kiến lẫn vị anh hùng.  Anh muốn hát và muốn nghe mình đang hát, muốn nhảy múa và muốn nhìn mình đang nhảy múa, muốn leo tới đỉnh núi cao nhất để thét lên, la to lên hết sức mình rằng, “Tôi đã chiến thắng! Tôi đã chinh phục được cái chết!”
Cuộc giải phẫu thật khó khăn và rất nguy hiểm: cơ hội sống sót của cậu bé mười hai tuổi ấy hết sức mong manh.  Các bác sĩ khác đã buông rơi hy vọng.  Nhưng anh, Paul Russel, anh quyết định thử điều không thể làm được.
“Cậu bé ấy sẽ làm được!” anh gầm lên, mặt đỏ bừng như sáng rực một mặt trời bên trong mình.  “Anh biết không?  Cậu bé sẽ sống! Tuy mọi sự dường như đã tan biến!  Nhiễm trùng đã ăn tới chân và đang làm độc máu.  Tôi cắt cái chân ấy.  Các bác sĩ nói làm như vậy chẳng ích lợi gì.  Rằng đã quá trễ.  Rằng cuộc chơi đã thua.  Nhưng tôi không ngần ngại.  Tôi bắt đầu hành động.  Trong từng hơi thở, tôi phải chiến đấu với mọi vũ khí tôi có được.  Nhưng anh thấy đó: tôi đã thắng! Lần này tôi thật sự chiến thắng!”
Tôi nghĩ, thật là hân hoan khi cứu được một mạng người!  Tôi chưa bao giờ nếm trải nỗi hân hoan đó.  Tôi còn không biết là nó hiện hữu.  Nắm trong tay mình mạng sống của cậu bé là thay thế vai trò của Thượng đế.  Tôi chưa bao giờ mơ mình vượt quá đẳng cấp loài người.  Con người được xác định không phải bởi những gì phủ định nó nhưng bởi những gì khẳng định nó.  Điều ấy được tìm thấy bên trong con người, không phải trước mặt con người hoặc bên cạnh con người.
“Anh thấy,” Paul Russel nói bằng một giọng khác hẳn, “cái khác nhau giữa anh và tôi là cái này đây.  Mối tương quan giữa anh với những gì chung quanh anh và những gì đánh dấu các giới hạn trong tầm nhìn của anh phát triển theo một cách thức gián tiếp.  Anh chỉ biết cuộc sống qua ngôn từ, da thịt, diện mạo và các ý tưởng của nó.  Sẽ luôn luôn có một bức màn giữa anh và sự sống của người bên cạnh anh.  Anh không thoả mãn với việc biết con người còn sống; anh còn muốn biết nó đang làm gì với sự sống của nó.  Đối với tôi, điều này thì khác.  Tôi ít nghiêm khắc đối với đồng loại của tôi.  Chúng ta có chung một kẻ thù, kẻ thù đó chỉ có một cái tên: thần chết.  Trước cái chết, chúng ta hoàn toàn bình đẳng.  Trong mắt của thần chết, không sự sống nào nặng ký hơn sự sống nào.  Xét theo quan điểm đó, tôi cũng giống như thần chết.  Trong con người, cái mê hoặc tôi nhất là khả năng sống của nó.  Các hành động chỉ là sự lặp đi lặp lại thôi.  Nếu anh từng giữ mạng sống của một người trong lòng bàn tay anh, anh cũng sẽ thấy rằng tức thời thì hơn tương lai, cụ thể thì hơn lý tưởng, và sự sống thì hơn những vấn đề mà nó mang theo với nó.”
Chương 3
3
Anh ngừng nói, dừng bước một chút nơi cửa sổ chỉ vừa đủ để mỉm cười trước khi tiếp tục nói bằng giọng trầm lắng hơn.
“Anh bạn ạ, sự sống của anh bạn, tôi có nó ngay đây này.  Trong lòng bàn tay của tôi đây.”
Chầm chậm xoay người lại, anh rút bàn tay mình ra.  Từng chút từng chút một, mặt anh trở lại vẻ thường lệ, và các cử động của anh ít gấp gáp hơn.
“Bác sĩ ạ, anh có tin vào Thượng đế không?”
Tôi thình lình túm lấy anh.  Anh đột nhiên đứng lại, nhăn trán.
“Có,” anh trả lời.  “Nhưng không ở trong phòng giải phẫu.  Ở đó tôi chỉ trông mong nơi mình.”
Mắt anh nhìn sâu thẳm hơn.  Anh thêm, “Nơi mình và nơi người bệnh.  Hoặc nếu anh thích thì, nơi sự sống của một cơ thể đang bệnh.  Sự sống muốn sống.  Sự sống muốn tiếp tục.  Nó trái ngược với cái chết.  Nó chiến đấu.  Người bệnh là đồng minh của tôi.  Hắn chung chiến tuyến với tôi.  Bên nhau chúng tôi mạnh hơn kẻ thù.  Hắn giúp tôi thắng trận đánh.  Hắn đang bám chặt, giữ chặt.  Hắn đang mê, đang ngủ, tuy thế hắn đang tham chiến...”
Vẫn không nhúc nhích, anh thêm lần nữa đăm đăm nhìn tôi một cách dữ dội.  Yên lặng lấn cấn.  Thêm lần nữa, tôi có cảm tưởng rằng anh đã biết, rằng việc anh đang nói chỉ cốt để xâm nhập vào sự bí mật của tôi.  Tôi dứt khoát: lúc này.  Bây giờ hoặc không bao giờ.  Tôi phải dứt điểm bất cứ sự hoài nghi nào.
“Bác sĩ ạ, tôi xin hỏi anh một câu.”
Anh gật đầu.
“Trong khi giải phẫu, tôi đã nói gì?”
Anh suy nghĩ một chút.  “Không có gì.  Anh chẳng nói gì cả.”
“Anh chắc chứ?  Không có lấy một tiếng?”
“Không một tiếng nào.”
Tôi nhẹ nhỏm, không nén được nụ cười.
“Bây giờ tới lượt tôi,” Paul Russel trang trọng nói.  “Tôi cũng có một câu hỏi.”
Nụ cười của tôi đông cứng lại.  “Anh hỏi đi,” tôi nói.
Tôi phải cưỡng chống nỗi thúc bách nhắm đôi mắt mình lại.  Đột nhiên căn phòng có vẻ sáng quá.  Cơn lo âu bám lấy giọng nói, hơi thở và đôi mắt của tôi.
Người bác sĩ hơi nghiêng đầu xuống, gần như khó có thể nhận thấy.
“Tại sao anh không thiết sống?” anh hỏi rất dịu dàng.
Phút chốc vạn vật rung chuyển.  Ánh sáng cũng hóa ra lung linh bập bùng và đổi màu.  Trắng, đỏ, đen.  Máu rần rật trong màng tang tôi.  Đầu tôi chẳng còn của tôi.
“Đừng chối điều đó,” Paul Russel tiếp tục, nói với giọng dịu dàng hơn nữa.  “Đừng chối điều đó.  Tôi biết.”
Anh biết.  Anh biết.  Anh biết.  Cổ họng tôi bị siết bằng một chiếc kềm vô hình.  Tôi có thể chết ngạt bất cứ lúc nào.
Tôi hỏi một cách yếu ớt rằng ai đã nói với anh: Kathleen?
“Không.  Không phải Kathleen.  Không ai cả.  Không ai nói với tôi cả.  Nhưng dù sao tôi cũng biết.  Tôi đoán ra.  Trong lúc giải phẫu.  Anh chẳng bao giờ giúp tôi.  Không lần nào cả.  Anh bỏ rơi tôi.  Tôi phải tiến hành cuộc chiến đấu đơn độc, hoàn toàn một mình.  Tệ hơn nữa.  Anh ở chiến tuyến đối nghịch với tôi, anh ở bên phía kẻ thù.”
Giọng anh trở nên khắc nghiệt, khắc nghiệt một cách đau đớn.  “Hãy trả lời tôi!  Tại sao anh không muốn sống?  Tại sao?”
Tôi bình tĩnh lại.  Tôi nghĩ, anh không biết.  Cái chút xíu anh đoán ra đó chẳng có ý nghĩa gì cả.  Một cảm tưởng.  Thế thôi.  Không có gì dứt khoát.  Không có gì cụ thể.  Tuy thế, anh di chuyển đúng hướng.  Chỉ có điều anh không đi trọn đường.
“Hãy trả lời tôi,” anh lặp lại.  “Tại sao? Tại sao?”
Anh càng lúc càng kiên quyết.  Môi dưới của anh căng thẳng rung rung.  Phải chăng anh đã nhận ra điều ấy?  Tôi nghĩ: anh nổi cơn thịnh nộ với tôi vì tôi đã để anh đơn độc, vì ngay cả lúc này, tôi vẫn đang chạy trốn anh, không biết ơn anh cũng chẳng ngưỡng mộ anh.  Đó là lý do khiến anh nổi xung.  Anh đoán ra rằng tôi không thiết sống, rằng sâu bên trong tôi, tôi không có khát vọng tiếp tục sống.  Và điều đó xói mòn căn bản triết lý lẫn hệ thống giá trị của anh.  Theo sách vở của anh thì con người phải sống và phải chiến đấu cho sự sống của nó.  Nó phải giúp các bác sĩ và đừng chống lại họ.  Tôi đã chống lại anh.  Anh mang tôi về lại cuộc đời, trái với ý nguyện của tôi.  Tôi gần như sắp nhập đoàn với bà nội của tôi.  Tôi đã thật sự ở trên ngưỡng cửa.  Paul Russel đứng sau lưng tôi và cản lại không để tôi bước qua.  Anh kéo tôi lùi về phía anh.  Anh một mình chống lại bà nội của tôi và những người khác.  Và anh đã thắng.  Một chiến thắng khác cho anh.  Một mạng sống.  Tôi nên sung sướng thét lớn lên và làm rung chuyển các tường thành vũ trụ.  Nhưng thay vì làm như thế, tôi lại quấy phá anh.  Và đó là điều làm anh khổ sở.
Bác sĩ Russel rõ ràng là đang ra sức tự chế.  Anh vẫn nhìn tôi giận dữ, má đỏ tía, môi run rẩy.
“Tôi ra lệnh cho anh phải trả lời tôi!”
Như một quan toà không chút xót thương, anh cất cao giọng.  Cơn giận khô lạnh làm tay anh cứng đơ.
Tôi nghĩ: anh sắp hét lên, sắp đánh tôi.  Ai biết?  Anh có thể bóp cổ tôi, ném tôi trở lại chiến trường.  Bác sĩ Russel là một con người nên vẫn có thể thù hận, vẫn có thể mất tự chủ.  Anh có thể dễ dàng giơ hai bàn tay lên túm cổ tôi và bóp lại.  Về phía anh, việc làm đó thông thường và thuận lý.  Tôi tiêu biểu một nguy cơ cho anh.  Bất cứ ai từ chối sự sống cũng là một nguy cơ đối với anh và đối với những gì anh đương cự trong thế giới này, nơi mạng sống có rất ít giá trị.  Trong mắt anh, tôi là một ung bướu phải bị loại trừ.  Loài người sẽ ra sao và luật pháp vô tư sẽ ra sao nếu hết thảy mọi người đều bắt đầu thèm chết?
Tôi cảm thấy rất bình tĩnh, hoàn toàn tự chủ.  Nếu soát xét sâu xa hơn tôi sẽ phát hiện ra rằng trạng thái trầm tĩnh của tôi còn che dấu cả sự mãn nguyện, một nỗi hân hoan kỳ dị - hoặc đơn giản chỉ là một sự buồn cười? - phát xuất từ sự hiểu rõ sức mạnh của mình, hiểu rõ tình trạng cô đơn của mình.  Tôi nhủ thầm: anh không biết.  Và tôi tự quyết định sẽ nói cho anh biết, để chuyển đổi tương lai của anh.  Ngay lúc này đây, tôi, chính tôi, là định mệnh của anh.

“Tôi đã kể cho anh nghe tôi mơ thấy gì trong lần giải phẫu đầu tiên trong đời tôi chưa?” Tôi mỉm cười hỏi anh bằng giọng thích thú.  “Chưa ư? Anh muốn tôi kể không?  Lúc đó tôi mười hai tuổi.  Mẹ tôi mang tôi tới bệnh xá của người anh họ của tôi, bác sĩ giải phẫu Oscar Sreter, để cắt thịt dư trong cổ họng.  Ông ấy đánh thuốc mê cho tôi ngủ.  Khi tôi tỉnh lại, Oscar Screter hỏi tôi, ỏCó phải em khóc vì bị đau? Không, tôi trả lời. Em khóc vì em vừa gặp Thượng đế. Một giấc mơ kỳ lạ.  Tôi đi tới Thiên đàng.  Thượng đế, ngồi trên ngai, đang chủ tọa hội nghị các thiên thần.  Giữa Ngài và tôi có một khoảng cách vô tận nhưng tôi có thể thấy Ngài thật rõ, như thể Ngài ở sát bên tôi.  Thượng đế ra hiệu và tôi khởi sự bước tới.  Tôi bước suốt mấy đời nhưng không thu ngắn được chút nào khoảng cách đó.  Rồi hai thiên thần nâng tôi lên, và đột nhiên tôi thấy mình mặt đối mặt với Thượng đế.  Tôi nghĩ, cuối cùng thì cũng gặp.  Lúc này tôi có thể đặt cho Ngài những câu hỏi ám ảnh hết thảy các nhà thông thái Israel:  Đau khổ có ý nghĩa gì?  Nhưng kinh sợ quá, tôi không thốt ra được tiếng nào.  Trong lúc ấy, những câu hỏi khác vẫn lũ lượt nối tiếp nhau trong đầu tôi: Khi nào tới giờ giải phóng?  Khi nào Thượng đế chinh phục được Quỉ dữ, để cho sự hỗn độn bị xua tan vĩnh viễn?  Nhưng môi tôi không mấp máy nổi và lời nói mắc kẹt trong cổ họng tôi.  Kế đó, Thượng đế nói với tôi.   Hoàn toàn yên lặng quá, thanh tịnh quá, tới độ tim tôi cảm thấy xấu hổ vì đang đập thành tiếng.  Yên lặng tuyệt đối khi tôi nghe những lời phán bảo của Thượng đế.  Với Ngài, lời nói và im lặng không trái ngược nhau.  Thượng đế trả lời hết tất cả các câu hỏi của tôi và của những người khác.  Kế đó, hai thiên thần đưa tay nắm lấy tôi, mang tôi về lại chỗ cũ.  Thiên thần này nói với thiên thần kia, Cậu ta nặng hơn trước, và thiên thần kia trả lời, Cậu ta đang mang trong mình một câu trả lời quan trọng.  Và tới đó tôi tỉnh lại.  Bác sĩ Sreter nghiêng mình trên tôi với một nụ cười.  Tôi muốn kể với ông anh ấy tôi vừa nghe những lời phán bảo của Thượng đế thì tôi hãi hùng nhận ra mình đã quên hết.  Tôi không còn nhớ Thượng đế đã nói với tôi những gì.  Nước mắt tôi bắt đầu trào ra.  Có phải em khóc vì bị đau? bác sĩ tốt bụng Sreter hỏi tôi. ỏEm không thấy đau, tôi trả lời.  Em khóc vì em vừa gặp Thượng đế.  Ngài trò chuyện với em và em quên tất cả những gì Ngài nói.õ  Ông anh bác sĩ bật cười thân thiện: Nếu em muốn, anh sẽ làm cho em ngủ lại, và em có thể yêu cầu Ngài nói thêm lần nữa... Tôi khóc còn ông anh họ của tôi thì cười thân thiện... Và bác sĩ Paul ạ, anh thấy đó, lần này, nằm thẳng cẳng trên bàn giải phẫu của anh, ngủ mê đi thật nhanh, tôi không thấy Thượng đế trong giấc mơ của tôi.  Ngài không còn ở đó nữa.”

Paul Russel chăm chú lắng nghe.  Chúi người tới trước, anh hình như đang tìm ý nghĩa ẩn dấu trong mỗi lời tôi nói.  Mặt anh biến đổi.
“Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi!” anh lưu ý, và vẫn còn căng thẳng.
Vậy là anh không hiểu.  Trả lời cho câu hỏi của anh ư?  Nhưng đấy là câu trả lời rồi.  Bộ anh không thấy lần giải phẫu thứ hai này khác ra sao với lần giải phẫu đầu tiên ư?  Thế thì đó chính là lỗi của anh.  Anh không thể hiểu.  Chúng ta khác nhau quá, khác nhau vô vàn.  Các ngón tay anh chạm vào sự sống.  Các ngón tay tôi chạm vào sự chết.  Không một trung gian, không các vách ngăn.  Sự sống, sự chết, cái này cũng trơ trụi, cũng có thật như cái kia.  Vấn đề vượt quá chúng ta.  Nó ở trong một bầu khí vô hình, trên một màn ảnh xa xăm, giữa hai kẻ đầy quyền thế mà chúng ta chỉ là người thay mặt họ.
Đứng trước giường tôi, anh làm cho căn phòng tràn ngập hình bóng của anh.  Anh đang chờ.  Anh nghi ngờ có một bí mật nào đó và việc đó làm anh thịnh nộ.  Việc đó là cái làm anh lạc hướng.  Hai chúng tôi đều trẻ, và trên hết, chúng tôi còn sống.  Anh nhìn tôi một cách kiên trì, bướng bỉnh, để bắt cho được trong tôi cái đang né tránh anh.  Bằng cách thức giống y như thế, chắc con người thời sơ khai đã quan sát ban ngày biến mất phía bên kia núi.
Tôi cảm thấy muốn bảo anh: đi đi.  Paul Russel, anh là một người bộc trực và can trường.  Nghĩa vụ của anh là bỏ tôi mà đi.  Đừng yêu cầu tôi trò chuyện.  Đừng tìm cách hiểu.  Cả cái việc tôi là ai lẫn việc anh là ai.  Tôi là người kể chuyện.  Các chuyện cổ tích của tôi chỉ có thể kể lúc hoàng hôn.  Ai từng lắng nghe thì tra vấn cuộc đời mình.  Đi, Paul Russel. Đi đi.  Trong truyện cổ tích của tôi các vị anh hùng đều hung bạo và không chút xót thương.  Họ có thể siết cổ anh.  Anh thật muốn biết tôi là ai ư? Tôi còn không biết mình là ai nữa.  Đôi khi tôi là Shmuel, kẻ sát sinh.  Hãy nhìn kỹ tôi.  Không, đừng nhìn mặt tôi.  Hãy nhìn hai bàn tay tôi.
Họ khoảng mười người trong hầm trú ẩn. Đêm liền đêm, họ có thể nghe bầy quân khuyển Đức sục sạo trong các đống đổ nát, lùng cho ra những người Do thái đang kiên gan ẩn núp trong các chỗ trốn dưới mặt đất.  Shmuel và những người khác trên thực tế đang sống không nước uống, không bánh mì và gần như không có cả không khí.  Họ đang dai dẳng chịu đựng.  Họ biết rằng ở bên dưới, trong chỗ tù túng chật hẹp này của mình, họ được tự do; bên trên, thần chết đang chờ họ.  Một đêm, suýt xảy ra thảm họa.  Lỗi tại Golda.  Chị mang con theo mình.  Đứa bé chỉ mới được mấy tháng.  Nó bắt đầu khóc, và như thế làm cho mạng sống của hết thảy mọi người lâm nguy.  Chị ra sức dỗ con nín, cố làm cho nó ngủ.  Vô ích.  Thế là những người khác, kể cả chính Golda, quay qua Shmuel, bảo anh: “Hãy làm cho nó câm miệng.  Hãy chiếu cố tới nó, nghề của anh là giết gà mà.  Anh có thể làm được chuyện đó mà đứa bé không cảm thấy đau lắm.”  Và Shmuel chịu thua trước lý luận: mạng sống của đứa bé đổi mạng sống của mọi người.  Anh ẳm đứa bé.  Trong bóng tối các ngón tay của anh sờ soạng lần tìm cần cổ của đứa bé.  Và rồi im lặng, cả dưới trần gian cũng như cả trên thiên đàng.  Chỉ có tiếng lũ chó sủa xa xa.
Trên môi tôi thoáng mỉm cười. Shmuel cũng là một bác sĩ, tôi nghĩ.  Paul Russel vẫn chờ, không nhúc nhích.
Moishe là một gã buôn lậu. Hắn cũng sinh ra và lớn lên ở Sighet.  Chúng tôi là bạn nhau. Từ năm mới tám tuổi, sáng nào cũng thế, cứ đúng sáu giờ là chúng tôi gặp nhau trên đường phố, tay xách đèn lồng, chúng tôi cùng đi tới phòng đọc sách, nơi chúng tôi tìm thấy những cuốn sách bự con hơn chúng tôi.  Thuở đó, Moishe muốn thành một thầy cả.  Hiện nay hắn là một gã buôn lậu và bị tất cả các lực lượng cảnh sát ở châu Âu truy nã.  Trong trại tập trung hắn là người ngoan đạo, dám đổi suất bánh mì suốt cả tuần của mình lấy một cuốn sách kinh.  Chưa đầy một tháng sau, con người ngoan đạo ấy chết đi.  Trước khi lâm chung, nó hôn lên cuốn sách quí báu ấy và thì thầm, “Sách ơi sách, ngươi đã hủy hoại bao nhiêu con người rồi?”  Hôm đó, Moishe quyết định thay đổi dòng đời của mình.  Và rồi như thế đó, loài người có thêm một gã buôn lậu và mất đi một thầy cả.  Cũng chẳng tệ hơn chút nào.
Bác sĩ ạ, anh muốn biết tôi là ai ư?  Tôi cũng là Moishe gã buôn lậu.  Nhưng trên hết, tôi là kẻ từng thấy bà nội của mình lên các tầng trời.  Giống một ngọn lửa, bà xua đuổi mặt trời và thế vào chỗ của nó.  Và mặt trời này mù loà, thay vì cho ánh sáng thì lại bắt tôi cúi đầu lê bước.  Nó đè nặng lên tương lai của con người.  Nó toả bóng tối ảm đạm lên các tâm hồn và cái nhìn của các thế hệ sắp tới.
Nếu tôi nói lớn tiếng với anh thì anh sẽ hiểu số phận bi thảm của những kẻ hồi sinh, những kẻ bị để lại về sau, những kẻ đã chết mà vẫn đang sống.  Anh phải nhìn họ thật kỹ.  Vẻ ngoài của họ chỉ là lừa dối.  Họ là những gã buôn lậu.  Họ giống hết thảy những người khác.  Họ ăn, họ cười, họ yêu.  Họ tìm kiếm tiền bạc, danh vọng, tình yêu.  Giống hết thảy những người khác.  Nhưng cái không thật là: họ đang đùa giỡn, và thỉnh thoảng còn không biết là mình đang đùa giỡn.  Ai từng thấy những gì họ đã thấy thì kẻ đó không còn giống như những người khác, không thể cười, không thể yêu, mua bán mặc cả, đau khổ, vui chơi hoặc quên lãng.  Giống như những người khác.  Anh phải quan sát họ thật kỹ khi họ đi ngang một ống khói trông có vẻ vô tội, hoặc khi họ đưa miếng bánh mì lên miệng họ.  Có cái gì đó trong họ làm anh rùng mình, quay mặt nhìn chỗ khác.  Những kẻ đó bị tật nguyền; họ mất chân hoặc mất mắt, chỉ còn lại ý chí và khả năng thưởng ngoạn cuộc đời.  Những gì họ thấy thì sẽ lại nổi lên trên bề mặt, ngay liền đó hoặc về sau.  Và lúc đó, thế giới sẽ run sợ, không dám nhìn vào những què quặt tinh thần trong mắt họ.
Nếu tôi nói lớn tiếng với Paul Russel thì anh sẽ hiểu tại sao người ta không nên đặt cho kẻ hồi sinh quá nhiều câu hỏi: họ không phải là con người bình thường.  Từ sau cơn choáng váng ấy, trong lòng họ có một con suối đang róc rách chảy.  Liền ngay đó hoặc về sau, đương nhiên xuất hiện các hậu quả.  Nhưng tôi không muốn anh hiểu.  Tôi không muốn anh đánh mất sự vô tư của anh; tôi muốn anh nhìn sự thật, cái sự thật đang hăm he tự nó sẽ lộ ra bất cứ lúc nào.
Tôi bắt đầu thuyết phục anh rằng anh lầm, cho anh bỏ tôi mà đi, cho anh để tôi yên thân.  Dĩ nhiên tôi muốn sống, muốn sáng tạo, muốn kéo dài mọi sự, giúp con người tiến tới đằng trước một bước, góp phần vào sự tiến bộ của loài người, vào hạnh phúc của con người, vào sự viên mãn của con người!  Tôi nói hồi lâu, cố ý dùng những lời phức tạp và khoa trương, những diễn tả trừu tượng.  Và vì anh vẫn không bị thuyết phục hoàn toàn, tôi thêm vào cuộc tranh luận một điều mà anh không thể bỏ qua: tình yêu.  Tôi yêu Kathleen.  Tôi yêu nàng với tất cả con tim tôi.  Và, làm sao ta có thể yêu nếu cùng lúc đó ta không thiết sống, nếu ta không tin vào cuộc sống hoặc vào tình yêu.  Dần dần, nét mặt của người bác sĩ trẻ lấy lại vẻ thường ngày.  Anh đã nghe những lời anh muốn nghe.  Nhân sinh quan của anh không gặp nguy cơ.  Mọi sự lại ở trong trật tự.  Không gì giống như tình bạn giữa người bệnh và bác sĩ!  Không gì thiêng liêng hơn hoặc lành mạnh, lớn lao hơn, hoặc cao quí hơn sự sống.  Khước từ sự sống là một tội; hành động đó ngu xuẫn và điên khùng.  Anh phải chấp nhận cuộc sống, ấp ủ nó, yêu thương nó, chiến đấu cho nó như thể nó là một kho báu, một người đàn bà, một hạnh phúc sâu kín.
Lúc này anh thân thiện trở lại.  Anh mời tôi điếu thuốc, khuyến khích tôi nhận nó.  Anh không còn căng thẳng.  Môi anh có lại sắc màu bình thường.  Trong mắt anh không còn ánh giận dữ.
“Tôi vui mừng,” sau cùng anh nói.  “Ngay lúc mới đầu tôi sợ... Tôi thừa nhận mình có lỗi.  Tôi vui mừng.  Vui mừng thật sự.”
Tôi cũng vậy.  Tôi vui mừng vì đã thuyết phục được anh.  Vui mừng thật sự.
Không gì dễ hơn.  Anh chỉ muốn bị lừa dối và tôi chơi trò chơi của anh.  Tôi đọc lại bài vở anh đã thuộc lòng.  Tình yêu là một dấu hỏi, không là một dấu than.  Nó có thể cắt nghĩa mọi sự mà không khiến người ta, dựa vào lý luận, tranh cãi xem ai mạnh ai yếu.  Một thanh niên thiếu nữ đang yêu hiểu vũ trụ và cuộc sáng thế còn hơn một học giả.  Tại sao chúng ta phải chết?  Vì tôi yêu người, hỡi người tình của tôi.  Và tại sao các đường thẳng song song lại gặp nhau ở vô cực?  Thật là một câu đáng hỏi!  Chỉ vì tôi yêu người, hỡi người yêu của tôi.
Và cái đó hiệu nghiệm.  Đối với họ, đối với cậu trai và cô gái đó, những người tù của một vòng tròn ma thuật, dường như câu trả lời đó hoàn toàn có giá trị.  Trong mắt họ, có mối quan hệ trực tiếp giữa cuộc phiêu lưu của họ và những bí nhiệm của vũ trụ.
Vâng, thật dễ.  Tôi yêu Kathleen.  Vì thế cuộc đời có ý nghĩa và con người không còn cô độc.  Tình yêu chính là bằng chứng cho sự hiện hữu của Thượng đế.
Kathleen, rốt cuộc tôi cũng phải cố thuyết phục nàng.  Thật ra, việc đó khó khăn hơn.  Nàng hiểu tôi quá rõ và nàng đang cảnh giác.  Khác với người bác sĩ trẻ này, kẻ đang chạy trốn khỏi những gì bất định, nàng cảm nhận được mọi sắc thái.  Đối với nàng, Hamlet chỉ là kẻ lãng mạn và câu hỏi anh ta đặt ra cho mình quá đơn giản.  Vấn đề không phải là: hiện hữu hoặc không hiện hữu.  Mà đúng ra là: hiện hữu lẫn không hiện hữu.  Nó hạ thấp xuống tới chỗ con người sống trong khi đang chết, tới chỗ tiêu biểu cho cái chết đối với người đang sống và ngay tại chỗ đó, thảm kịch bắt đầu.
Tại sao nàng trở lại?  Nàng không nên làm như thế.  Tôi cũng đã nói với nàng như thế.  Nàng không hạnh phúc.  Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là tôi cảm thấy mình không thể bảo nàng đừng thêm lần nữa mở cái dấu ngoặc đơn đó ra.
Nàng đang đau khổ.  Ngay trên điện thoại, nàng bộc lộ sự mệt mỏi của mình.  Năm năm trôi qua kể từ lần thầm lặng ra đi của tôi.  Sáng hôm đó trời lạnh buốt.  Hôm nay trời mùa thu.  Năm năm!  Tôi nghe Shimon Yanai nói Kathleen đã quay về Boston, kết hôn với một người lớn hơn nàng nhiều tuổi và khá giàu.
Chiều hôm đó, tại toà soạn.  Công việc lút tận cổ:  Đại hội đồng Liên hiệp quốc họp kỳ hằng năm.  Các diễn văn, cáo giác và biện minh, nghị quyết và phản nghị quyết.  Xét theo những gì được phát biểu trên bục diễn giả thì hành tinh của chúng ta đang ốm đau trầm trọng.
Điện thoại reo.
Đầu dây bên kia, trong tiếng xào xạc, có giọng thì thầm, “Kathleen đây.”
Nàng chỉ nói thế và im lặng hồi lâu.  Tôi nhìn ống liên hợp đang cầm trong tay, có cảm tưởng đầu dây bên kia vẫn giữ máy.  Tôi nghĩ: năm xưa, mùa đông; hôm nay, mùa thu.
“Em muốn gặp anh,” Kathleen nói thêm.
Giọng nàng có vẻ tuyệt vọng.  Nghe như hư không.
“Em đang ở đâu vậy?” tôi hỏi nàng.
Nàng nói tên một khách sạn.
“Chờ anh chỗ đó,” tôi nói.
Chúng tôi đặt ống điện thoại xuống cùng một lượt.
Nàng đang ở tại một trong những khách sạn đắt tiền nhất và trang nhã nhất New York.  Khu phòng của nàng trên tầng mười lăm.  Yên lặng, tôi đẩy cánh cửa đã mở sẵn một nửa.  Kathleen đang đứng nhìn ra ngoài trời, in bóng lên khung cửa sổ.  Mái tóc đen tuyệt đẹp buông xuống vai.  Nàng mặc áo đầm hở lưng.  Tôi xúc động.
“Chào Kathleen,” tôi vừa nói vừa đi vào.
“Chào anh,” nàng trả lời, không quay lại.
Tôi bước tới phía cửa sổ đang mở.  Cửa sổ nhìn xuống Công viên Trung tâm, vùng đất ban đêm không người; tại đô thị vĩ đại này, nơi trú ngụ, lòng tử tế, các tội phạm và những người đang yêu, đều như nhau.  Cây cối đang chuyển sang màu vàng.  Trời ẩm và nóng: đợt nóng cuối cùng trước khi vào mùa đông.  Xa bên dưới, hàng ngàn chiếc xe chạy vào các tán lá rồi biến mất.  Mặt trời phóng những tia nắng vàng rực vào khung cửa sổ các cao ốc chọc trời.
“Giúp em với,” Kathleen nói, ánh mắt nàng không rời những chiếc lá chết đang ngập đầy công viên.
Tôi len lén nhìn dáng người nàng đang nghiêng đứng, từ bên trái.  Qua đường cong ngấn cổ nàng, tôi cảm thấy nàng vẫn cực kỳ gợi cảm.
“Anh sẽ giúp em, phải không anh?” nàng nói.
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời.
Tới lúc đó nàng mới quay mặt về phía tôi với ánh mắt biết ơn.  Nàng vẫn đẹp tuyệt vời, nhưng nhan sắc ấy đã đánh đi vẻ kiêu sa.
“Em đau khổ quá sức,” nàng nói.
“Đừng nói gì cả,” tôi trả lời.  “Hãy để anh nhìn em.”
Tôi ngồi xuống chiếc ghế có tay tựa và nàng bắt đầu đi quanh phòng.  Khi nàng nói, trên môi nàng lộ nét buồn rười rượi.  Thỉnh thoảng, mắt nàng ánh vẻ khắc nghiệt như toát ra từ một trạng thái bị sỉ nhục.  Nàng hút thuốc nhiều hơn trước.  Tôi nghĩ: này đây, Kathleen, kẻ kiêu hãnh, Kathleen kẻ ngoan cường, Kathleen một bà hoàng.  Nhưng giờ đây, là một người đàn bà gục ngã.  Một phụ nữ đang chết đuối.
Nàng cũng ngồi xuống, trước mặt tôi, trên chiếc ghế có tay tựa.  Nàng thở nặng nhọc.
“Em muốn trò chuyện,”
“Em nói đi,” tôi bảo nàng.
“Em không hổ thẹn khi nói với anh rằng em muốn trò chuyện.”
“Em nói đi,” tôi bảo nàng.
“Em cũng không hổ thẹn khi nói với anh rằng em đau khổ quá.”
“Em nói đi, nói đi em.”
Nàng đang ra sức làm sống động trở lại hình ảnh nàng từng có về mình.  Nàng thường nói một cách nghiêm trang bằng  những lời khắc nghiệt.  Nàng chưa quen nói tới những đau khổ của riêng mình.  Giờ đây, nàng nói.  Lắng nghe nàng và nhìn nàng thật gần mới thấy nhan sắc của nàng đã mất đi sức mạnh và sự bí nhiệm của nó.
Nàng nói rất lâu.  Thỉnh thoảng mắt nàng ám bóng mây.  Nhưng nàng cố không khóc và tôi biết ơn nàng vì nàng không khóc.
Nàng đã lập gia đình.  Ông ta yêu nàng.  Nàng không yêu ông.  Nàng cũng không yêu cái cảm giác mà nàng đã gợi lên trong ông.  Nàng đồng ý kết hôn với ông, chính xác là vì nàng không quan tâm tới ông.  Cái nàng muốn là chịu đau khổ, chịu trả giá.  Cuối cùng chồng nàng hiểu: Kathleen không thấy trong ông một người bạn đường mà là một kẻ xét xử.  Nàng không trông mong hạnh phúc nơi ông, dù chỉ một hạnh phúc giới hạn, mà là một trừng phạt.  Đó là lý do chồng nàng cũng bắt đầu đau khổ.  Cuộc sống chung của cả hai trở thành một chốn hành hạ.  Người này là kẻ dằn vặt và là nạn nhân của người kia.  Cứ thế kéo dài ba năm.  Rồi tới một ngày, người chồng cảm thấy vậy là đủ.  Ông yêu cầu li dị.  Nàng tới New York.  Để nghỉ ngơi, để tìm lại chính mình, để gặp tôi.
“Anh giúp em chứ?”
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời.
Nàng chỉ đòi hỏi một điều: ở bên tôi.  Cuộc sống của nàng trống rỗng.  Nàng hy vọng leo lên trở lại.  Bắt đầu sống trở lại, sống mãnh liệt, như trước đây.  Để cảm động đến ứa nước mắt trước một cảnh trời chiều bảng lảng và trong trẻo, để cười vang trong nhà hát, để chống lại sự ghê tởm.  Tất cả những gì nàng muốn là được thêm lần nữa trở thành cái từng là nàng.
Mình nên từ chối.  Tôi hiểu.  Kathleen - kẻ tôi biết trước đây - đáng giá hơn sự ưng thuận của tôi.  Giúp nàng tức là sỉ nhục nàng, làm nàng bẻ mặt.  Nhưng tôi chấp nhận.  Nàng bất hạnh quá và tôi thì nhu nhược quá, có lẽ hèn nhát quá, chẳng dám nói không với một người đàn bà đang đập đầu vô vách, dù người đàn bà đó là Kathleen.
“Dĩ nhiên,” tôi lặp lại.  “Anh sẽ giúp em.”
Nàng chúi người tới trước, như thể gieo mình vào đôi cánh tay tôi, nhưng nàng kềm mình lại.  Chúng tôi nhìn nhau lâu, trong im lặng.
Sarah là ai?”
Tôi không thể nói.  Ngồi bên mép giường, Kathleen chăm chú ngó tôi, môi mỉm cười.  Mắt nàng không xét đoán tôi, chỉ tò mò nhìn tôi.
“Anh kêu tên người đàn bà ấy trong ngày đầu tiên, khi anh mê sảng.  Anh không nói điều gì khác.  Sarah.”
“Tại sao em chờ tới hôm nay mới hỏi anh?”
Tôi nằm nhà thương đã bốn tuần.
“Tính em rất tọc mạch.  Nhưng em muốn chứng tỏ với em rằng em có thể chờ.”
“Anh chỉ nói thế thôi ư?”
“Thế thôi.”
“Em có chắc không?”
“Chắc.  Trong mấy ngày đầu tiên đó, em lúc nào cũng ở bên anh.  Anh chẳng nói cái gì khác.  Anh không hé răng.  Nhưng một hay hai lần anh kêu cái tên ấy: Sarah.”
Đâu đây khuấy động một nỗi đớn đau đã cũ.  Tôi không hiểu chính xác là ở đâu.
“Sarah,” tôi kêu lên một cách cùng quẩn.
Kathleen vẫn mỉm cười.  Mắt nàng không tỏ vẻ xốn xang.  Nhưng quanh đôi môi đang dẩu lên của nàng có nỗi thống khổ đang chờ dịp trào dâng đầy mặt, chất ngất toàn thân nàng.
“Sarah là ai?” nàng hỏi thêm lần nữa.
“Sarah là tên của mẹ anh,” tôi nói.
Nụ cười biến mất.  Nỗi thống khổ trần trụi lúc này hoà trộn với sự đau đớn.  Kathleen gần như mất thở.
Tôi bảo nàng: khi còn bé, tôi sống với nỗi sợ triền miên rằng sau khi chết, tôi sẽ quên tên mẹ mình.  Ở trường học, thầy giáo dạy tôi: ba ngày sau đám ma của con, một thiên thần sẽ đến, gõ ba lần lên mộ con.  Thiên thần sẽ hỏi tên con. Con phải trả lời, “Tôi là Eliezer, con trai của Sarah.”  Nếu con quên thì thật thê thảm!  Con là một linh hồn chết, con sẽ bị chôn hoài chôn mãi tới thiên thu.  Con không thể đến trước toà phán xét để biết chỗ của con là ở trên thiên đàng hay dưới địa ngục, nơi có những người đang chờ đợi rất lâu trước khi được ăn năn sám hối.  Con sẽ bị kết án lang thang trong cõi hỗn mang, nơi không có gì hiện hữu, không trừng phạt cũng không đau khổ, không công lý cũng không bất công, không quá khứ không tương lai, không hy vọng không thất vọng. Quên tên mẹ mình là việc rất nghiêm trọng.  Nó giống như quên cội nguồn của mình.  Hãy nhớ: “Eliezer, con trai của Sarah, con trai của Sarah, Sarah, Sarah...”
“Sarah là tên của mẹ anh,” tôi nói.  “Anh đã không quên tên ấy.”
Người Kathleen vặn vẹo như thể đang bị trói vào một chiếc cột vô hình.  Nàng sợ đau khổ chưa đúng mức.  Nhưng thế thì nàng không nên lợi dụng trạng thái hôn mê của tôi để diễn giải sự im lặng của tôi và để thu thập cái tên mà tôi giữ kín.  Tên mẹ tôi là Sarah.  Tôi không bao giờ kể cho ai nghe.  Tôi yêu bà nhưng tôi chưa bao giờ kể điều đó với nàng.  Tôi yêu bà điên cuồng tới độ tôi dường như khắc nghiệt với bà nên nàng không đoán ra. Vâng.  Bà đã chết.  Bà đã lên thiên đàng, ở bên cạnh bà nội của tôi.
“Sharah,” Kathleen nói bằng giọng rạn vỡ.  “Em thích tên đó.  Nghe như thời Kinh thánh.”
“Tên mẹ anh là Sarah,” tôi nói thêm lần nữa.  “Bà đã chết.”
Bộ mặt Kathleen nhăn nhúm đau đớn.  Nàng như mụ phù thủy đánh mất bộ mặt thật của mình vì đã mang quá nhiều mặt nạ.  Lửa lớn bùng lên chung quanh nàng.  Đột nhiên nàng thét lên và bắt đầu khóc.  Mẹ tôi, tôi chưa bao giờ thấy mẹ tôi khóc.
Sarah.
Đó cũng là tên một cô gái mắt xanh tóc vàng tôi gặp ở Paris rất lâu trước ngày tôi quen Kathleen.
Tôi đang đọc báo dưới hàng hiên một quán cà phê gần Montparnasse.  Nàng ngồi uống nước chanh ở bàn kế bên.  Nàng cố khiêu gợi cho tôi chú ý và việc đó làm tôi thẹn đỏ mặt.  Thấy thế, nàng mỉm cười.
Bối rối, tôi không biết phải làm sao.  Không biết dấu chiếc đầu và đôi bàn tay của mình vào đâu, dấu sự bối rối của mình vào đâu.  Sau cùng, không chịu đựng được nữa, tôi nói với nàng:
“Cô có biết tôi?”
“Không,” nàng vừa nói vừa lúc lắc đầu.
“Tôi có quen cô không nhỉ?”
“Tôi nghĩ là không,” nàng nói trêu ghẹo.
Tôi không thể giữ mình cho khỏi cà lăm, “Vậy...tại sao?  Tại sao... tại sao cô nhìn tôi chằm chặp như vậy?”
Nàng có vẻ sắp sửa rùng mình, để bật cười hoặc để thở ra.  “Thích thì nhìn thôi,” nàng trả lời.
Trong khi nguyền rủa tính rụt rè của mình, tôi cắm đầu vô tờ báo, cố quên cô gái tóc vàng đó, cố tránh đôi mắt thơ ngây, thẳng thắn  và nét u sầu trong nụ cười của nàng.  Những hàng chữ in nhảy múa dưới mắt tôi.  Chữ không nằm yên cho tôi đủ thì giờ bắt lấy nó.  Tôi sắp gọi người hầu bàn tới trả tiền để đi thì người thiếu nữ với nụ cười lạ lùng đó bắt đầu nói chuyện với tôi.
“Có phải anh đang chờ người nào đó?”
“Không,” tôi nói.
“Tôi cũng vậy.”
Vừa nói nàng vừa bước sang bàn tôi, tay cầm theo ly nước chanh.
“Anh có cô đơn không?” nàng hỏi tôi.
“Không,” tôi nói, mặt đỏ bừng.
“Anh không cảm thấy cô đơn sao?”
“Hoàn toàn không.”
“Thật ư?”
Nàng có vẻ không tin tôi.  Và nụ cười của nàng ở đó, đâu đó trên mặt nàng, như một hình bóng thứ ba.  Trong mắt nàng? Không.  Mắt nàng lạnh lẽo, run rẩy.  Trên môi nàng? Cũng không.  Đôi môi nàng gợi cảm, đắng cay, mỏi mệt.  Nó ở đâu?  Đâu đó, giữa vầng trán và chiếc cằm của nàng, nhưng tôi không thể nói chính xác nó ở nơi nào.
“Thật ư?” nàng lặp lại.  “Anh không cảm thấy cô đơn sao?”
“Không.”
“Làm sao anh đối phó nổi?”
Tôi hụt hẩng.
“Tôi không biết,” tôi buột miệng.  “Tôi không biết.  Tôi đọc và đọc.”
Nàng chiêu một ngụm nước chanh, ngửng đầu lên, và bắt đầu cười tôi ra mặt.  Tôi để ý thấy lúc này nụ cười thật sự của nàng đã biến mất.  Có thể nàng đã nuốt nụ cười đó.
“Anh có muốn làm tình không?” nàng hỏi giọng thản nhiên.
“Vào giờ này sao?” tôi ngạc nhiên kêu lên.  “Vào buổi chiều?”
Trong tâm trí tôi, làm tình là việc về đêm.  Làm tình ban ngày đối với tôi có vẻ y như cởi trần truồng giữa đường phố.
“Ngay lúc này,” nàng trả lời.  “Anh có muốn không?”
“Không,” tôi trả lời liền.
“Tại sao không?”
“Tôi... Tôi không có tiền.”
Nàng đăm đăm nhìn tôi trong một phút với thái độ khinh bạc và tha thứ của một người biết hết và tha thứ hết.
“Không sao,” nàng nói sau một chút tần ngần.  “Anh sẽ trả cho tôi vào lần khác nào đó.”
Tôi mắc cở.  Tôi sợ.  Tôi trẻ và không có chút kinh nghiệm nào.  Tôi sợ không biết mình phải làm ra sao.  Và phần nhiều là tôi sợ về sau: sợ mình sẽ chẳng bao giờ còn như cũ.
“Sao?  Anh muốn không?”
Một lọn tóc đang buông lơi trên vầng trán nàng.  Thêm lần nữa xuất hiện một nụ cười.  Lúc này, tôi cũng không hiểu đó chính là nụ cười hồi nãy hay một nụ cười nào khác thay vào, một nụ cười thật sự hay một nụ cười giả tạo.
“Gọi người hầu bàn đi,” nàng nói.
Tôi gọi người hầu bàn.  Tôi trả tiền tách cà phê; nàng trả tiền ly nước chanh.  Chúng tôi đứng lên và bắt đầu cất bước.  Tôi cảm thấy thoải mái, không còn lúng túng, khó chịu.  Nhỏ người hơn tôi, nàng bước đi bên phải tôi, đầu nàng chỉ cao hơn vai tôi một chút.  Tôi không dám nhìn nàng.
Chỗ cô gái ấy ở không xa.  Người gác cửa khách sạn hình như đang ngủ. Nàng lấy chìa khóa, bảo tôi nàng ở tầng ba.  Tôi đi theo nàng.  Nhìn từ sau lưng trông nàng có vẻ lớn tuổi hơn.
Khi lên tới tầng ba, chúng tôi rẽ sang phải và vào phòng nàng.  Nàng bảo tôi đóng cửa.  Tôi nhẹ nhàng khép cửa, không muốn làm phát ra tiếng động nào.
“Đừng làm như thế,” cô gái nói.  “Khóa cửa lại.”
Tôi xoay chìa khóa.  Tôi bị tràn ngập bởi một thứ lo lắng mới.  Tôi không mở miệng vì tôi chắc chắn giọng mình sẽ run lẩy bẩy.  Một mình với một người đàn bà.  Một mình trong khách sạn với một phụ nữ.  Với một gái giang hồ.  Và liền ngay đây chúng tôi sẽ làm tình.  Tôi chắc chắn điều này: nàng là một gái điếm.  Nếu không, nàng đã cư xử khác hẳn.
Nàng kéo kín các mành cửa sổ, cởi giày, và chờ.  Đứng bên giường, nàng chờ.  Tôi cảm thấy ngờ nghệch chẳng biết mình nên làm gì.  Cởi quần áo? Chỉ thế thôi sao?  Tôi nghĩ: đầu tiên mình nên hôn nàng. Trong xi nê, đàn ông luôn luôn hôn đàn bà trước khi làm tình với họ. Tôi bước tới gần nàng, nhìn nàng chằm chặp, rồi thô bạo kéo nàng vào mình, hôn lên môi nàng thật lâu.  Theo phản ứng tự nhiên, tôi nhắm mắt mình lại.  Khi mở mắt ra, tôi nhìn thấy đôi mắt nàng, và trong đôi mắt đó có nỗi kinh hoàng man dại.  Tôi rùng mình lùi lại một bước.
“Chuyện gì vậy?” tôi hỏi nàng, tim đập thình thịch.
“Không có gì,” nàng trả lời, tiếng nàng đến từ một thế giới khác.  “Không có gì.  Tới đây.  Mình làm tình.”
Thình lình nàng đưa tay lên miệng.  Mặt nàng bỗng trắng bệch như thể không còn chút sinh khí.
“Chuyện gì xảy ra cho cô vậy?  Nói cái gì đi?”
Nàng không trả lời.  Tay đặt lên miệng mình, nàng nhìn xuyên qua người tôi như thể tôi trong suốt.  Mắt nàng lạc thần, như đôi mắt của một đứa bé mù.
“Có phải tôi đã xúc phạm cô?” tôi hỏi.
Nàng không nghe tôi nói.
“Có phải cô muốn tôi đi ngay?”
Nàng rất xa vời, đang ẩn trú nơi không người lạ nào được phép lai vãng. Tôi chỉ có thể có mặt ở bên ngoài.  Tôi hiểu rằng bằng cử chỉ hôn nàng, tôi đã khởi động một chiếc máy không tên.
“Nói cái gì đi?” tôi năn nỉ nàng.
Lời cầu xin của tôi không chạm tới nàng.  Nàng có vẻ ngây dại, bị quỉ ám.  Có thể mình chỉ sống thật sự nhờ cuộc gặp gỡ này, tôi nghĩ.  Nhờ cuộc gặp gỡ với một gái giang hồ, kẻ lưu giữ bên trong nàng dấu vết thơ ngây như những người khật khùng lưu giữ dấu vết tinh khôi trong cơn điên dại của họ.
Tình trạng đó kéo dài vài phút.  Rồi dường như nàng chợt tỉnh; cất tay khỏi mặt.  Một nụ cười mệt mỏi và buồn bả vô hạn thắp sáng khuôn mặt nàng.
“Anh tha lỗi cho tôi,” nàng nói dịu dàng.  “Tôi làm hỏng bét mọi sự.  Tha lỗi cho tôi.  Tôi thật ngu ngốc.”
Nàng bắt đầu cởi quần áo, nhưng tôi cảm thấy không còn muốn làm tình với nàng.  Lúc này, tôi chỉ muốn biết.
“Chờ chút,” tôi bảo nàng.  “Chúng ta chuyện trò đôi chút.”
“Anh không còn muốn làm tình ư?” nàng hỏi tôi, lo lắng.
“Để sau,” tôi trấn an nàng.  “Trước hết, mình nói chuyện đôi chút.”
“Anh muốn nói chuyện gì?”
“Về cô.”
“Anh muốn biết điều gì?”
Một cách máy móc, nàng gở khuy váy.
“Cô là ai?”
“Một cô gái.  Một cô gái giống các cô gái khác.”
“Không,” tôi cãi lại.  “Cô không giống các cô gái khác.”
Nàng thả chiếc váy rơi xuống sàn nhà.  Lúc này, nàng mở nút áo.
“Làm sao anh biết?” nàng hỏi.
“Có thể là trực giác,” tôi trả lời lúng túng.
Giờ đây, nàng chỉ mang nịt ngực và quần lót.  Chầm chậm, nàng ngã người ra giường.  Tôi ngồi bên nàng.
“Cô là ai?” tôi lại hỏi lần nữa.
“Tôi đã nói với anh.  Một cô gái, một cô gái giống các cô gái khác.”
Vô tình tôi vuốt tóc nàng.
“Tên cô là gì?”
“Cái đó không quan trọng.”
“Tên cô là gì?”
“Sarah.”
Một nỗi buồn quen thuộc úp chụp lên tôi.
“Sarah,” tôi nói.  “Một cái tên tuyệt đẹp.”
“Tôi không thích tên đó.”
“Tại sao không?”
“Đôi khi nó làm tôi run rẩy.”
“Tôi thích nó,” tôi nói.  “Đó là tên của mẹ tôi.”
“Bà đang ở đâu?”
Tôi vẫn vuốt tóc nàng.  Tim tôi cảm thấy nặng nề.  Mình có nên kể nàng nghe không?  Tôi không thể nói ra những tiếng rất giản dị, rất đổi giản dị rằng: “Mẹ tôi đã chết.”
“Mẹ tôi đã chết,” sau cùng tôi nói.
“Mẹ tôi cũng vậy.”
Im lặng.  Tôi đang nghĩ tới mẹ tôi.  Nếu mẹ tôi thấy tôi lúc này... Bà sẽ hỏi tôi:
Cô gái này là ai?
Vợ con, tôi sẽ nói.
Và tên cô ấy là gì?
Sarah, thưa mẹ.
Sarah?
Vâng, thưa mẹ, Sarah.
Con điên rồi sao?  Có phải con đã quên rằng mẹ cũng được gọi là Sarah?
Không, thưa mẹ.  Con không quên.
Vậy, có phải con đã quên rằng đàn ông không có quyền cưới một phụ nữ mang tên mẹ của hắn?  Có phải con đã quên rằng việc đó đem lại xui xẻo?  Rằng việc đó khiến cho người mẹ phải chết.
Không, mẹ ơi.  Con không quên.  Nhưng mẹ không còn có thể chết.  Mẹ đã chết rồi.
Đúng vậy... Mẹ đã chết...
“Có phải anh thật sự muốn biết?”
Tiếng nói của Sarah mang tôi về lại dương gian.  Nàng đang nhìn thẳng tới trước như thể nhìn xuyên qua các bức vách, qua hàng năm trường và qua các ký ức, để với tới nguồn cội, nơi bầu trời chạm mặt đất, nơi sự sống kêu gọi tình yêu.  Sarah đặt cho tôi câu hỏi ấy, làm như thể tôi, bằng tự mình tôi, tạo dựng vũ trụ này.
“Anh thật sự muốn biết tôi là ai?”
Giọng nàng trở nên khắc nghiệt, không chút xót thương.
“Dĩ nhiên,” tôi trả lời, che dấu nỗi sợ của mình.
“Trong trường hợp này...”
Từ lúc đó, nhiều lần tôi nguyền rủa mình.  Tôi không nên lắng nghe.  Tôi nên bỏ chạy.  Lắng nghe một câu chuyện trong hoàn cảnh như thế đó là tham dự vào câu chuyện, là chọn một lập trường, là nói có hoặc không, là xúc động cách này hoặc cách nọ.  Kể từ lúc đó là có trước đó và có sau đó.  Và dù cho có quên lãng đi nữa thì cũng đã thành một sự chấp nhận hèn nhát.
Tôi nên bỏ chạy.  Hoặc bịt kín tai mình lại.  Hoặc nghĩ tới cái gì khác.  Tôi nên la hét, hoặc hát, hoặc hôn lên môi nàng để nàng ngừng nói.  Làm tình với nàng.  Nói với nàng rằng tôi yêu nàng.  Làm bất cứ điều gì, chỉ để nàng ngừng nói.  Để nàng ngừng nói.
Tôi đã không làm gì cả.  Tôi lắng nghe.  Chăm chú.  Tôi ngồi trên mép giường, kề bên thân thể gần như trần truồng của nàng, lắng nghe câu chuyện của nàng.  Các ngón tay tôi siết chặt cổ họng mình như gọng kềm.
Bây giờ, hễ lúc nào nghĩ đến nàng là tôi nguyền rủa mình, cũng như tôi nguyền rủa những ai không nghĩ đến nàng, không nghĩ đến nàng những lúc nàng bị đọa đày.  Bộ mặt khôn dò của nàng như bộ mặt của một đứa bé đau ốm.  Nàng nhìn thẳng tới trước không chút sợ hãi, nhìn xuyên suốt các vách tường như thể nàng có thể thấy cuộc hỗn mang trước ngày sáng thế.
Tôi nghĩ tới nàng và tôi nguyền rủa mình, cũng như tôi nguyền rủa lịch sử đã làm chúng tôi ra như thế này: một nguồn suối nguyền rủa.  Lịch sử xứng đáng với sự chết, sự hủy diệt.  Bất cứ ai lắng nghe Sarah mà không thay đổi, bất cứ ai đi vào thế giới của Sarah mà không khai phá những thần linh mới và những tôn giáo mới, đều đáng chết và đáng bị hủy diệt.  Một mình Sarah có quyền quyết định cái gì là thiện cái gì là ác, có quyền tách bạch chân lý khỏi những gì đang tiếm đoạt diện mạo của chân lý.
Và tôi lúc ấy ngồi bên hình hài gần như lõa lồ của nàng và lắng nghe.  Mỗi lời là mỗi siết thêm gọng kềm.  Tôi sắp bóp cổ tôi.
Tôi nên bỏ đi.  Lẹ.  Thật lẹ.  Tôi nên bỏ chạy lúc nàng mới mở miệng, ngay khi tôi nhìn thấy dấu hiệu đầu tiên.
Tôi đã ở lại.  Có điều gì đó giữ tôi lại.  Tôi muốn đau khổ với nàng.  Đau khổ theo cách nàng đau khổ. Tôi cảm thấy nàng sắp tự mạ lị nàng.  Có thể điều đó ngăn không cho tôi bỏ đi.  Tôi muốn tham dự vào cuộc lăng nhục của nàng.  Tôi hi vọng sự sỉ nhục của nàng cũng sẽ rơi trở lại trên tôi.
Tôi biết trong các trại tập trung có nhiều cô Sarah.  Tôi chưa hề gặp cô nào nhưng tôi từng nghe nói tới họ.  Tôi không biết nét mặt của họ là nét mặt của những đứa bé đau ốm.  Tôi cũng không ngờ một ngày nào đó tôi sẽ hôn lên môi một trong các cô gái đó.
Mười hai tuổi.  Nàng mười hai tuổi vào lúc bị tách khỏi cha mẹ mình và bị đưa vào ba-rắc đặc biệt để phục vụ thú vui xác thịt của các viên chức trong trại.  Cuộc sống của nàng bị tung hứng vì có những viên chức Đức thích các cô bé cỡ tuổi nàng.  Thích làm tình với những cô bé cỡ tuổi nàng.
Đột nhiên nàng đưa đôi mắt đầy bóng tối về phía tôi: Thượng đế vẫn ở trong đôi mắt đó.  Thượng đế của hỗn mang và bất lực.  Thượng đế, kẻ hành hạ những đứa bé mười hai tuổi.
“Anh từng ngủ với một người đàn bà mười hai tuổi chưa?” nàng hỏi tôi.
Giọng nàng bình tĩnh, điềm đạm, trần trụi.  Tôi cố không thét lên.  Tôi không thể tự chứng minh cho mình.  Ngủ như thế thì  dễ quá mà.
“Anh cũng thích việc đó, phải không?” nàng hỏi khi nàng nhận thấy tôi im lặng.  “Hết thảy đàn ông đều thích việc đó.”
Cái nhìn của nàng làm mắt tôi rừng rực.  Tôi sợ mình thét lên.  Tôi không thể thanh minh cho mình.  Không phải thanh minh với nàng. Đặc biệt không phải là với nàng.  Nàng xứng đáng hơn thế nhiều.
“Hãy nói cho tôi biết,” nàng tiếp tục, dù sao thì cũng bằng giọng dịu dàng hơn.  “Có phải đó là lý do anh không làm tình với tôi?  Vì tôi không còn mười hai tuổi?”
Thượng đế của bất lực biến mắt nàng thành ngọn lửa.  Mắt tôi cũng vậy. Tôi nghĩ: mình sắp chết.  Hể ai thấy Thượng đế thì phải chết.  Điều ấy được viết trong Kinh thánh.  Tôi chưa bao giờ hiểu tận tường rằng: tại sao Thượng đế lại bị liên kết với thần chết?  Tại sao Ngài muốn giết kẻ từng thấy Ngài?  Lúc này, mọi sự sáng tỏ.  Thượng đế xấu hổ.  Thượng đế thích ngủ với các cô bé mười hai tuổi.  Và Ngài không muốn chúng ta biết.  Bất cứ ai thấy việc đó hoặc đoán ra việc đó thì đều phải chết để bí mật đó không bị tiết lộ.  Thần chết chỉ là tên lính canh lo bảo vệ Thượng đế, kẻ gác cửa một nhà thổ mênh mông mà chúng ta gọi là vũ trụ.  Mình sắp chết, tôi nghĩ.  Vì các ngón tay của tôi đang kềm chặt cuống họng tôi và tiếp tục siết, càng lúc càng mạnh hơn, trái với ý muốn của tôi.
Sarah quyết định để cho tôi thở một chút.  Nàng lại nhìn thẳng tới trước và tiếp tục nói như thể tôi không hiện hữu hoặc như thể chỉ mình tôi hiện hữu, khắp nơi và mãi mãi.
“Hắn say rượu.  Một con lợn bí tỉ.  Hắn cười hô hố.  Hắn bốc mùi dâm ô. Đặc biệt tiếng cười của hắn.  Hôm nay sinh nhật của ta, hắn nói.  Ta có một món quà.  Một món quà đặc biệt!õ  Hắn lăm lăm nhìn tôi từ đầu tới ngón chân cái và cười khèn khẹt.  Ngươi sẽ là món quà sinh nhật của ta.  Tôi không hiểu ý nghĩa lời hắn nói.  Tôi mười hai tuổi.  Ở tuổi đó, người ta chưa biết rằng thiếu nữ có thể bị đem tặng làm quà sinh nhật...  Lúc đó, tôi không một mình trong ba-rắc.  Cả tá phụ nữ đứng quanh chúng tôi.  Bertha trắng.  Những người đàn bà khác cũng vậy.  Trắng.  Trắng như xác chết.  Hắn, chỉ riêng hắn, tên say rượu ấy, thì đỏ.  Bàn tay của hắn cũng vậy, giống bàn tay tên đồ tể.  Và tiếng cười của hắn chạy từ miệng hắn lên mắt hắn.  Ngươi sẽ là món quà sinh nhật của ta, ngươi! hắn nói.  Bertha cắn môi.  Chị là bạn của tôi.”
Chị là một phụ nữ tuyệt đẹp với cái nhìn u buồn.  Chị lúc nào cũng ngẩng cao đầu như một nàng công chúa phương Đông.  Ngay đêm vừa tới trại, chị mất đứa con gái cùng tuổi với Sarah.
“Thưa ngài, nó quá trẻ,” chị xin giùm.  “Nó chỉ là đứa con nít.”
“Nếu nó đã ở đây tức là nó không còn con nít,” hắn quàu quạu trả lời. “Nếu nó là con nít, thì ngươi đã biết nó phải ở đâu rồi.  Trên kia kìa..”
Ngón tay nung núc của hắn chỉ lên hướng quá trần nhà.
“Bertha là bạn của tôi,” Sarah nói.  “Chị không chịu thua. Chị chiến đấu tới cùng.  Để cứu tôi chị sẵn sàng thay vào chỗ của tôi.  Những người khác cũng sẵn sàng làm như vậy.”
Sarah im lặng một lúc.
Trong ba-rắc tranh tối tranh sáng, Bertha cố đánh lạc hướng hắn.  Không nói một tiếng, chị bắt đầu cởi quần áo.  Những người đàn bà khác - tóc nâu, tóc vàng, tóc đỏ - không ai bảo ai cũng bắt đầu cởi quần áo.  Trong chớp mắt, tất cả đều khỏa thân như các bức tượng im lặng và bất động.  Sarah nghĩ rằng đây là một cơn mộng dữ, một giấc mơ bệnh hoạn.  Hoặc mình đang khật khùng.  Một sự yên lặng phi nhân bọc kín ba-rắc, hết sức trái ngược với sự căng thẳng trên mặt các phụ nữ.  Bên ngoài, mặt trời chuyển mình đằng sau đường chân trời, toả màu máu han gỉ của nó tràn lên trên các hình bóng đang chuyển động.  Dường như nếu quang cảnh ấy còn tiếp diễn thì có điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra bất cứ lúc nào; điều gì đó làm tan tành vũ trụ, làm thay đổi dòng thời gian, lột mặt nạ định mệnh và cho con người thấy rốt cuộc cái gì đang chờ mình bên kia chân lý, bên kia cái chết.
Chương 4
4
Ngay lúc ấy, tên say khướt đó dơ tay chộp con bé và tàn bạo lôi nó ra khỏi ba-rắc.  Trời sẩm tối.  Một luồng ánh sáng đo đỏ từ mặt đất bốc rực lên làm bầu trời ngập tràn màu đỏ sậm.
“Tên viên chức ấy thông minh,” Sarah nói. “Giữa hết thảy những phụ nữ trần truồng trong ba-rắc, hắn lựa đúng tôi dù tôi đang mặc quần áo.  Vì tôi mười hai tuổi.  Đàn ông thích làm tình với đàn bà mười hai tuổi.”
Nàng lại xoay đầu về phía tôi, và gọng kềm lại siết chặt cổ họng tôi với một sức mạnh mới.
“Anh cũng vậy,” nàng nói.  “Nếu tôi mười hai tuổi, anh sẽ làm tình với tôi.”
Tôi không thể lắng nghe nàng thêm nữa.  Tôi đã tới tận cùng hơi sức của mình, và tôi nghĩ: chỉ một lời nữa thôi tôi sẽ chết.  Tôi chết nơi đây, trên chiếc giường này, nơi đàn ông tới ngủ với một cô gái tóc vàng nhưng thực tế, họ không biết rằng mình đang làm tình với một bé gái mười hai tuổi,
Trong một thoáng, tôi có ý nghĩ rằng có lẽ tôi nên lập tức ngủ với nàng.  Làm ngay.  Không một cử chỉ điệu bộ.  Không một lời lẽ vô ích.  Để nàng thấy người ta vẫn còn có thể phải lòng nhau.  Rằng bùn thì ở khắp nơi và không đáy.  Tôi chầm chậm đứng lên, nâng bàn tay nàng, dịu dàng hôn.  Tôi muốn nàng thấy.  Tôi muốn nàng nhận ra tôi thèm muốn nàng.  Rằng tôi khao khát nàng.  Rằng tôi cũng không vượt qua được những giới hạn của xác thịt mình.  Tôi đặt môi mình lên bàn tay giá lạnh của nàng.
“Thế thôi ư?” nàng hỏi tôi.  “Anh không muốn chơi thêm gì nữa sao?”
Nàng cười thành tiếng.  Nàng đang ra sức cười cho giống một kẻ khác, giống tên say rượu trong ba-rắc.  Nhưng nàng không thành công.  Nàng không say.  Không có chút dâm ô nào trên bàn tay của nàng hoặc trong giọng nói của nàng.  Nàng thanh khiết tột cùng, thanh khiết hết mức con người có thể thanh khiết.
“Muốn,” tôi trả lời, run rẩy.
Nghiêng mình trên người nàng, tôi hôn nàng lần nữa.  Nàng không đáp lại chiếc hôn của tôi.  Môi tôi gắn chặt môi nàng, lưỡi tôi tìm lưỡi nàng.  Nàng vẫn ơ hờ, xa vắng.
Nàng cố nói nhưng tôi không cho nàng có dịp nói.
“...Em là một vị thánh.  Chính em là một vị thánh.”
Một thoáng ngạc nhiên lướt qua bộ mặt trẻ thơ và đau ốm của nàng.  Mắt nàng tinh lanh hơn, nhìn tàn bạo hơn.
“Anh, đồ điên!” nàng nói một cách giận dữ.  “Anh thật là khùng!”
Và để lãng tránh, nàng lại cười.  Nàng bắt chước ai đó đang cười.  Nhưng mắt nàng không cười.  Miệng nàng cũng không cười.
“Tôi, một vị thánh!” nàng nói.  “Anh điên rồi.  Tôi đã kể cho anh nghe chưa, rằng tôi bao nhiêu tuổi khi ngủ với người đàn ông đầu tiên?  Tôi bao nhiêu tuổi khi tôi bắt đầu làm nghề này?”
Nàng nhấn mạnh tiếng “nghề”, trông có vẻ thách thức như khi nàng đặt câu hỏi.
“Có,” tôi nói.  “Cô có kể với tôi.  Mười hai.  Lúc đó cô mười hai.”
Nàng càng lúc càng cười lớn.  Đúng là tên say rượu đó.  Hắn chưa buông tha nàng.
“Và theo ý kiến của anh,” nàng tiếp tục.  “Một người đàn bà bắt đầu làm đĩ lúc mười hai tuổi là một vị thánh, đúng không?”
“Đúng,” tôi nói.  “Một vị thánh.”
Tôi nghĩ: hãy để nàng khóc.  Hãy để nàng la hét.  Hãy để nàng nhục mạ tôi.  Bất cứ điều gì làm cũng tốt hơn tiếng cười này, tiếng cười thuộc về ai đó khác, thuộc về một thể xác không linh hồn, một cái đầu không mắt.  Bất cứ việc gì làm cũng tốt hơn tiếng cười xa lạ và đớn đau này, tiếng cười biến nàng thành một linh hồn bị quỉ ám.
“Anh khùng,” nàng nói bằng giọng cố làm ra vẻ vui mừng và hoan hỉ.  “Gã say rượu đó chỉ là kẻ đầu tiên.  Sau hắn tới những tên khác.  Tất cả những tên khác.  Tôi trở thành món quà đặc biệt của ba-rắc.  Món quà đặc biệt họ muốn tự tặng cho họ.  Tôi nổi tiếng hơn hết thảy những người đàn bà khác hợp lại.  Hết thảy đàn ông đều yêu tôi: người hạnh phúc và người bất hạnh, người tốt và người xấu, người già và người trẻ, người hoạt bát và người lầm lì.  Người rụt rè và người sa đọa, người như chó sói và người như lợn, người trí thức và người hàng thịt, hết thảy họ, anh nghe rõ không?  Hết thảy họ đều đến với tôi.  Và anh cho rằng tôi là một vị thánh.  Anh điên rồi.”
Và nàng lại cười lớn hơn nữa.  Nhưng tiếng cười đó chẳng dính dáng gì tới nàng.  Toàn bộ con người nàng làm nhớ lại nỗi thống khổ không tuổi, không tên.  Tiếng nàng cười nghe có vẻ khô, phi nhân: nó không phải là của nàng, mà là của Thượng đế hoặc của tên say rượu đó.
“Khốn khổ cho anh!” nàng nói.  “Tôi thương hại anh!  Tôi muốn làm cái gì đó cho anh.  Nói cho tôi biết, sinh nhật của anh ngày nào?  Tôi sẽ có một món quà cho anh.  Một món quà đặc biệt...”
Và tiếng cười của nàng lắng đọng trong tôi.  Một ngày nào đó tôi cũng sẽ bị quỉ ám.  Sarah, trong bộ đồ lót màu đen của nàng, chân co chân duỗi, thình lình ngừng cười.  Tôi cảm thấy cú đấm dứt điểm đang phóng tới.  Phản ứng tự nhiên, tôi bắt đầu lùi về phía cửa.  Ở đó, tôi nghe tiếng nàng thét lớn.
“Đồ điên!”
“Im đi! Trời ơi! Im đi!” tôi la lên.
Tôi biết rằng nàng sẽ nói, rằng nàng sẽ kể với tôi điều gì đó kinh khủng, tồi tệ, những lời lẽ mà tôi sẽ mãi mãi nghe âm vang trở lại vào lúc nào tôi mưu tìm hạnh phúc trong thân thể của một người nữ.
“Im đi!” tôi van nài.
“Một vị thánh, tôi?” nàng hét lớn như một mụ điên.  “Tôi muốn anh biết điều này và nhớ điều này: đôi khi với họ tôi cảm thấy sướng... Sau những lúc như vậy, tôi thù ghét mình, và kể cả trong những lúc cơn sướng đó kéo dài và xác thịt của tôi đôi khi yêu họ... Và xác thịt của tôi là tôi... Tôi, một vị thánh?  Anh có biết tôi thật sự là cái gì không?  Tôi nói cho anh nghe đây.  Tôi là----”
Tôi đã tới giới hạn.  Tôi không chịu đựng nổi nữa.  Tôi sắp mửa.  Vội vàng tôi vặn chìa khóa và mở cửa hết sức nhanh.  Tôi phải lập tức ra khỏi ngôi nhà này.  Tầng hai.  Tầng một.  Người gác cửa.  Đường phố.  Chạy.  Lẹ lên.  Chạy.
Một lúc sau, trong khi đang chạy, tôi mới nhận ra các ngón tay của tôi vẫn siết cổ họng mình.
“Sarah,” tôi kêu lên nghẹn giọng.
“Vâng,” Kathleen nói.  “Đó là tên của mẹ anh.  Em biết.”
“Đó là tên của một vị thánh.”
Tôi bỏ ra nhiều ngày và nhiều tuần đi tìm Sarah.  Tôi trở lại quán cà phê nơi tôi đã gặp nàng.  Tôi hỏi mọi khách sạn trong khu vực đó.  Vô ích.  Dường như chẳng ai từng thấy hoặc từng biết cô gái có mái tóc vàng, kẻ mang tên của mẹ tôi.  Người hầu bàn từng phục vụ chúng tôi cũng không nhớ.  Những người gác cửa khách sạn đó đều nói họ chưa bao giờ thấy nàng.  Và tuy thế, tôi không buông bỏ hy vọng.  Thỉnh thoảng tôi nghĩ mình vẫn đang đi tìm nàng.  Tôi muốn gặp lại nàng, dù chỉ một lần.  Để làm cái việc tôi nên làm chiều đó: làm tình với nàng.
“Mẹ anh đã chết,” Kathleen nói.
Nàng muốn tự làm đau đớn mình.  Đau khổ công khai.  Để cho tôi thấy.  Để cho tôi biết rằng nàng đang đau khổ với tôi, rằng chúng tôi ràng buộc vào nhau bởi khổ đau.  Nàng có thể làm thương tổn tôi chỉ để tỏ ra cho tôi thấy nàng cũng bất hạnh.
“Anh biết bà đã chết,” tôi nói.  “Nhưng đôi khi anh không chịu thừa nhận điều đó.  Đôi khi anh nghĩ rằng các bà mẹ không thể nào chết.”
Đúng thế.  Tôi không thể tin mẹ tôi đã chết. Có lẽ vì tôi không tận mắt thấy bà chết.  Tôi thấy bà bước đi biền biệt với hàng trăm người khác, bị bóng đêm nuốt chửng.  Nếu bà nói với tôi, “Vĩnh biệt, con trai của mẹ.  Mẹ sắp chết,” có lẽ lúc này tôi đã có thể tin.
Cha tôi đã chết.  Tôi biết điều đó.  Tôi tận mắt thấy ông lìa đời: tôi không tìm ông giữa người ta trên đường phố.  Nhưng đôi khi tôi tìm mẹ tôi.  Bà không chết.  Thật sự không chết.  Đó đây tôi thấy có nét mặt của bà trong một phụ nữ nào đó trên xe điện ngầm, trên xe đò, trong quán cà phê.  Và tôi yêu những phụ nữ ấy, đồng thời tôi cũng ghét họ.
Kathleen.  Nước mắt đang trào lên trong đôi mắt nàng.  Mẹ tôi không khóc.  Ít ra khi đang có mặt người khác.  Bà chỉ dâng những giọt nước mắt của bà lên Thượng đế.
Kathleen trông hơi giống mẹ tôi; nàng có vầng trán của bà, chiếc cằm của bà, và cũng có những đường nét thanh khiết y như bà.  Nhưng Kathleen không chết.  Và nàng đang khóc.
Lúc mới bắt đầu, nàng không khóc.  Chúng tôi không người nào hơn người nào.  Chúng tôi đối xử với nhau ngang hàng.  Chúng tôi tự do.  Người này không để mình bị vướng bận và không làm vướng bận người kia.  Hễ tôi cảm thấy không thích giữ đúng hẹn thì không tới.  Nàng cũng vậy.  Và không ai trong chúng tôi nổi giận hoặc cảm thấy bị thương tổn.  Suốt đêm, nếu tôi cảm thấy không thích trò chuyện thì nàng không có ý gài cho tôi phải giải thích.  Trong các cuộc nói chuyện của chúng tôi, không bao giờ có câu hỏi mà người yêu nhau thường đặt ra cho nhau, “Anh/em đang nghĩ gì vậy?”  Sự cứng rắn đã trở thành tôn giáo của chúng tôi.  Chỉ nói những gì thật sự cần thiết.  Chúng tôi cố làm cho nhau tin rằng mỗi người, tự riêng mình, cũng có thể sống, hy vọng và tuyệt vọng.  Mỗi chiếc hôn có thể là nụ hôn cuối cùng.  Ngôi đền của chúng tôi có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.  Tương lai không hiện hữu vì nó chẳng ích lợi gì.  Ban đêm chúng tôi làm tình, giống như những người chứng của chính mình.  Người lạ quan sát chúng tôi trên đường phố có thể dễ dàng cho rằng chúng tôi là hai kẻ thù của nhau.  Có lẽ đúng như thế.  Các kẻ thù thật sự không phải là những kẻ bao giờ cũng căm ghét nhau.
Lý ra tôi đừng nói tôi muốn gặp lại nàng ở New York.  Tôi nên bảo nàng rằng thật chẳng đáng cho chúng ta mở cái ngoặc đơn ra: không khí sẽ tràn vào và làm thối rữa mọi sự.
Nàng đã thay đổi. Kathleen không còn tự do.  Nàng chỉ làm theo một kẻ nào khác. Cuộc hôn nhân của nàng đã tàn phá nội tâm nàng.  Nàng hoàn toàn đánh mất niềm vui cuộc sống.  Ngày nào cũng giống ngày nấy.  Người ta cũng chỉ nói có một điều.  Thay vì lắng nghe họ, ta có thể theo dõi các chương trình vô tuyến truyền hình.  Bạn hữu của chồng nàng và các đồng nghiệp làm nàng buồn chán.  Các bà vợ của họ cũng làm thần kinh nàng trĩu nặng, nàng cảm thấy mình bị kết án sẽ trở thành người giống y như họ.  Không sớm thì muộn.
Tại New York, chúng tôi gặp nhau hằng ngày.  Nàng đến chỗ của tôi.  Tôi đến chỗ của nàng.  Chúng tôi đi chỗ này chỗ nọ, đi nhiều nơi, tới nhà hát, tới các buổi hòa nhạc.  Chúng tôi thảo luận về văn chương, âm nhạc, thơ.  Tôi cố tỏ ra dễ thương.  Tôi nhẫn nại, ân cần, hiểu biết.  Tôi xử sự với nàng như đối với một người đang đau ốm.  Cuộc chiến đấu đã kết thúc từ lâu.  Lúc này, tôi ra sức giúp nàng đứng vững trở lại trên đôi chân mình.
Chúng tôi hiếm khi gợi lại quá khứ; nếu có gợi lại thì hết sức thận trọng để không khuấy đục nó lên.  Nhiều lần, trong khi lắng nghe một khúc nhạc của Bach, hoặc ngắm hình dáng của một đám mây đang nô đùa với mặt trời, chúng tôi chung chia một xúc động.  Nàng chạm vào bàn tay tôi và hỏi tôi, “Anh có nhớ không?”
Và tôi sẽ trả lời, “Có, Kathleen ạ.  Dĩ nhiên.  Anh nhớ.”
Trước kia, nàng không bao giờ cảm thấy muốn chứng minh cho tôi thấy rằng nàng có nhớ.  Ngược lại, hai chúng tôi đều cảm thấy hổ thẹn vì làm con mồi ngã quị trước quá khứ, trước cảm xúc của một thuở đã qua. Tôi hẳn quay đầu sang chỗ khác.  Tôi hẳn nói tới điều gì khác.  Lúc này, chúng tôi đã thôi phấn đấu.
Rồi tới một ngày, nàng tự thú...
Chúng tôi đang uống cà phê trong phòng nàng.  Qua máy phát thanh, Isaac Stern đang chơi một hoà tấu khúc vĩ cầm của Beethoven.  Chúng tôi từng nghe khúc nhạc đó ở Paris tại nhà hát Salle Pleyel.  Tôi nhớ lại lúc đó, nàng nắm bàn tay tôi và tôi thô bạo hất ra.  Nếu nàng nắm bàn tay tôi lúc này, tôi nghĩ, tôi sẽ không đẩy tay nàng ra.
“Nhìn em đi,” Kathleen nói.
Tôi nhìn nàng.  Nàng đang cười ray rứt.  Nàng có vẻ mặt của một người đàn bà bị bỏ rơi và nàng ý thức điều đó.  Nàng gõ gõ các ngón tay của mình vào thành tách cà phê.
“Có,” tôi bảo nàng.  “Anh có nhớ.”
Nàng đặt tách xuống, đứng lên và quì trước mặt tôi.  Kế đó, không cúi đầu, không rụt rè và bằng giọng trang trọng -- cũng gần giống trước kia -- nàng bảo tôi, “Em nghĩ là em yêu anh.”  Nàng sắp nói tiếp thì tôi ngắt ngang.  “Yên nào!” tôi bảo nàng một cách khắc nghiệt.
Tôi không muốn nghe nàng nói: Em yêu anh ngay lần đầu gặp gỡ!
Mặt nàng không ánh chút phản ứng nào trước sự khắc nghiệt của tôi.  Nhưng nụ cười của nàng sâu thẳm hơn một chút, héo hon hơn một chút.
“Lỗi tại em,” nàng xin lỗi.  “Em đã cố gắng.  Em đã chống chỏi.”
Beethoven, nhà hát Salle Pleyel, Stern, tình yêu.  Tình yêu làm mọi sự thành phức tạp.  Ngược lại hận thù làm mọi sự ra đơn giản.  Hận thù phân biệt rõ rệt mọi sự và mọi người và những gì tách bạch chúng.  Tình yêu bôi xóa những minh định, phân biệt.  Tôi nghĩ: phút này đây sẽ đặt một dấu chấm lên cuộc đời tôi.
“Anh buồn phải không?” Kathleen lo lắng hỏi.
“Không.”
Kathleen khốn khổ!  Nàng không còn cố bắt chước cái tôi kia của nàng.  Mặt nàng chất ngất thống khổ.  Mắt nàng thu nhỏ lại một cách kì dị.
“Anh không sắp bỏ em mà đi chứ?”
Tình yêu và tuyệt vọng.  Hai thứ đó chung đường.  Cái này ẩn chứa dấu vết của cái kia.  Tôi nghĩ: nàng chắc sẽ đau khổ rất nhiều.  Tới lượt tôi ra sức sửa chữa sự thiệt hại.  Tôi phải cư xử với nàng như thể nàng đang đau yếu.  Tôi biết.  Làm như vậy là nhục mạ cái tôi kia của nàng.  Nhưng cái tôi kia không hiện hữu.  Không còn hiện hữu.  Và nó là cái đang bị phá vỡ.
“Anh sẽ không bỏ em mà đi,” Tôi trả lời với giọng của một người bạn trung thành.
Một giọt nước mắt lăn trên má nàng. “Anh thương hại em,” Kathleen nói.
“Anh không thương hại em,” tôi nói tha thiết.
Tôi đang nói dối.  Tôi phải nói dối.  Rất dối.  Nàng đang đau yếu.  Nói dối với người đang đau ốm thì không sao.  Tôi sẽ không nói dối với cái tôi kia của nàng.
Trong mấy tuần và mấy tháng kế đó, Kathleen sa sút hao gầy thấy rõ.
Không có việc gì làm - nàng cảm thấy không thích làm việc cũng như không có nhu cầu phải làm việc - nàng ở suốt ngày trong phòng, bên cửa sổ, hoặc trước gương, một mình và không hạnh phúc, nhận biết tình trạng cô độc của mình, tình trạng bất hạnh của mình.
Cũng như trước, chúng tôi tiếp tục gặp nhau mỗi tối.  Đi ăn tối, xem các buổi trình diễn, các cuộc hoà nhạc.  Có lần tôi thử lý luận với nàng: nàng lầm khi cảm thấy tội nghiệp cho mình.  Cảm giác đó bất xứng đối với nàng và đối với tôi.  Nàng nên tìm một công việc nào đó, để bận rộn, để lấp đầy thời gian của mình.  Nàng phải tìm mục đích cho cuộc sống.
“Một mục đích,” nàng vừa nói vừa nhún vai.  “Một mục đích.  Mục đích gì?  Hội Chữ thập đỏ?  Làm người bảo trợ các nghệ sĩ đang đói?  Đi Ấn độ giúp người cùi?  Một mục đích?  Em tìm nó ở đâu?”
Ngay khi đó tôi có một ý tưởng.  Tôi nói với nàng rằng tôi yêu nàng.
Nàng không chịu tin.  Nàng đòi bằng chứng.  Tôi chứng minh cho nàng.  Tất cả những gì xảy ra trong quá khứ cho thấy giữa chúng ta không có tình yêu, nay đột nhiên, cho thấy ngược lại.  “Tại sao trong buổi hòa nhạc đó, anh giật bàn tay anh ra?”  “Anh không muốn phản bội mình.”  “Tại sao anh chưa bao giờ nói với em rằng anh yêu em?” “Vì anh yêu em.”  “Tại sao lúc nào anh cũng chỉ nhìn mắt em thôi?”  “Để khám phá tình yêu của anh trong mắt em.”
Nàng cảnh giác suốt mấy tuần liền.  Và tôi cũng vậy.  Tôi xem mình như y tá của nàng.  Đôi khi tôi đùa giỡn với ý nghĩ rằng có lẽ nàng cũng đối xử với tôi như với một người bệnh.  Tới ngày nào đó, chúng tôi sẽ bỏ mặt nạ của mình xuống.  Một trong hai chúng tôi sẽ nói: chỉ là đóng kịch thôi.  Tôi cũng làm vậy, và người đồng diễn kia sẽ trả lời.  Và hẳn trên môi của chúng tôi có mùi vị cay đắng.  Lúc ấy, thật tội nghiệp, vì đó chỉ là một trò chơi.
Tuy vậy, nàng chẳng đóng kịch chút nào.  Nếu ta đùa giỡn thì ta đau khổ.  Nhân vật của nàng đang quan sát chúng tôi đóng kịch, và nó không đau khổ.  Kathleen đau khổ.  Bất chấp những lập luận của tôi, nàng không tin.  Nàng thường khóc những lúc không có mặt tôi.  Khi chúng tôi ở bên nhau, nàng hết sức hào hứng và vui vẻ.
Tôi không còn tự do.  Sự tự do của tôi sẽ làm bẽ bàng Kathleen, kẻ cũng không còn tự do.  Tôi đã lập thành một thái độ ứng xử với nàng và tôi chẳng còn có thể vứt bỏ thái độ đó.
Giá như việc ấy có thể đem lại ít nhiều hữu ích!  Giá như nó có lợi cho Kathleen!  Nhưng không.  Nàng vẫn không hạnh phúc.  Tiếng cười của nàng vẫn không xuất phát tự đáy lòng.
Kathleen càng ngày càng bết bát hơn.  Nàng bắt đầu uống rượu.  Nàng buông thả mình.
Tôi thảo luận tình trạng đó với nàng.  “Em không có quyền hành xử theo cách đó.”
“Tại sao không?” nàng nhấn mạnh, tròn xoe mắt với vẻ thơ ngây giả tạo.
“Vì, Kathleen ạ, anh yêu em.  Cuộc sống của em quan trọng đối với anh.”
“Thôi đi!  Anh không yêu em.  Anh chỉ nói cho có nói.  Nếu yêu em thật sự thì anh đã không nói.”
“Anh đang nói điều đó vì nó có thật.”
“Anh đang nói điều đó từ lòng thương hại.  Anh không cần em.  Em không làm cho anh cảm thấy thoải mái hoặc hạnh phúc.”
Những cải vã như vậy chẳng đưa tới chút kết quả nào như tôi trông đợi.  Ngược lại, sau mỗi cuộc cải vã, Kathleen lại càng buông thả mình hơn.
Rồi tới một buổi tối - trước hôm xảy ra tai nạn - nàng giải thích với tôi rằng rốt cuộc nàng không tin tôi có chút nào thành thật yêu nàng.
“Anh cho là anh yêu em  mà anh tiếp tục đau khổ.  Anh nói hiện tại anh yêu em mà anh vẫn đang sống trong quá khứ.
Anh bảo em rằng anh yêu em mà anh không chịu lãng quên.  Ban đêm anh có những cơn mộng dữ.  Đôi khi trong lúc ngủ anh rên rỉ.  Sự thật đối với anh em chẳng là gì cả.  Em chẳng đáng kể gì.  Cái đáng kể là quá khứ.  Không phải quá khứ của chúng ta mà là quá khứ của riêng mình anh thôi.  Em cố làm cho anh hạnh phúc nhưng có một hình ảnh khác đánh động anh và hình ảnh đó có mặt khắp nơi.  Có điều hiện nay anh không còn ở những nơi đó nữa.  Hình ảnh ấy mạnh hơn em.  Anh nghĩ là em không biết ư?  Anh nghĩ sự im lặng của anh che dấu được cái hỏa ngục anh đang mang theo trong lòng anh sao?  Có lẽ anh cho rằng việc sống bên cạnh người cũng đang đau khổ và cũng không chấp nhận bất cứ sự giúp đỡ nào là điều dễ dàng ư?”
Nàng không khóc. Đêm đó nàng không uống rượu.  Chúng tôi nằm trên giường.  Đầu nàng gối trên cánh tay đang dang ra của tôi.  Một làn gió ấm thổi vào các cửa sổ đang mở.  Chúng tôi chỉ lên giường.  Một trong các thói quen của chúng tôi là không bao giờ làm tình ngay, nói chuyện trước đã.
Tôi cảm thấy tim mình nặng nề quá, như thể nó không còn dung chứa nổi nó nữa.  Nàng đoán rất đúng.  Ta không thể che dấu nỗi khổ đau và lòng thương xót quá lâu.  Chúng sẽ lộ ra.  Đúng thật: tôi đang sống trong quá khứ.  Bà nội của tôi, với chiếc khăn đen trùm đầu, không buông tha tôi.
“Không phải lỗi tại anh,” tôi trả lời.
Tôi giải thích với nàng: khi một người đàn ông nói với một người đàn bà rằng “Anh yêu em và anh yêu em mãi mãi; nếu không còn yêu em anh sẽ chết,” thì hãy tin điều đó.  Tuy thế, tới một ngày nào đó hắn gõ lên tim mình và nghe nó trống trải.  Và hắn vẫn sống.  Đối với những kẻ từng biết một thời để chết như chúng tôi thì khác.  Chúng tôi không thể nào quên.  Những hình ảnh ấy vẫn ở đó, trước mắt chúng tôi. Những hình ảnh ấy vẫn tồn tại dù mắt chúng tôi không còn ở đó.  Tôi nghĩ, nếu mình đã có thể quên được thì mình sẽ thù ghét mình.  Sự chịu đựng thuở đó của chúng tôi đã gài vào lòng chúng tôi những quả bom định giờ. Thỉnh thoảng, một trong những quả bom đó phát nổ. Lúc ấy, chúng tôi không là gì cả, chỉ là khổ đau, hổ thẹn và đắc tội.  Chúng tôi có mặc cảm hổ thẹn và đắc tội vì còn sống, đang ăn nhiều bánh mì tùy thích và đang mang bít tất đẹp đẽ, ấm áp trong mùa đông.  Kathleen ạ, rõ ràng là một trong những quả bom ấy khiến chúng tôi điên khùng.  Không thể tránh được.  Ai đã từng ở nơi đó đều mang về theo với mình ít nhiều sự điên khùng của loài người.  Tới một ngày nọ hoặc một ngày kia, sự điên khùng đó sẽ trồi lên trên bề mặt.
Tối đó Kathleen điềm đạm và tỉnh táo.  Tôi có cảm tưởng cái tôi cũ của nàng đang tới thăm nàng.  Nhưng tôi hiểu rằng nó lại sẽ bỏ nàng mà đi.  Rằng cuộc viếng thăm ấy chỉ ngắn ngủi và rằng sẽ chỉ ở lại cái tôi mà nàng đang cố bắt chước.  Và tới một ngày nào đó, cái tôi đó sẽ không còn tìm kiếm.  Lúc đó, cuộc ly thân sẽ dứt khoát.
Đêm đó tôi hiểu rằng chẳng sớm thì muộn tôi sẽ bỏ Kathleen mà đi.  Việc ở lại với nàng đã trở thành vô nghĩa.
Tôi nói thầm với mình:  đau khổ làm chúng tôi tách biệt hẳn với những những người khác.  Nó dựng lên bức tường làm bằng than khóc và nhục nhã để cách ly chúng tôi.  Loài người loại bỏ kẻ nào từng biết tới sự khổ đau thuần khiết nếu họ không thể biến hắn thành thần linh;  hắn bảo loài người: Tôi đau khổ không phải vì tôi là Thượng đế mà chỉ vì tôi là con người, con người giống quí vị, với những yếu đuối của quí vị, những hèn nhát, những tội lỗi, những nổi loạn và những tham vọng tức cười của quí vị; hắn làm loài người run sợ vì hắn làm họ cảm thấy hổ thẹn.  Họ rũ nhau bỏ rơi hắn, làm như thể hắn là kẻ đắc tội.  Làm như thể hắn tiếm đoạt địa vị của Thượng đế để chiếu sáng cõi chân không mênh mông mà chúng ta tìm thấy vào cuối tất cả những cuộc phiêu lưu.
Trên thực tế, sự việc xảy ra như thế có lẽ là tốt.  Kẻ từng chịu khổ đau nhiều hơn và khác hơn những người khác thì nên sống biệt lập.  Ở bên ngoài bất cứ cuộc sống có tổ chức nào.  Hắn làm không khí nhiễm độc.  Hắn biến không khí thành cái không thích hợp để hít thở.   Hắn làm cho sự hân hoan mất tính cách hồn nhiên và chính đáng của nó.  Hắn huỷ diệt lòng hy vọng và ý chí muốn sống.  Hắn là sự nhập thể của thời gian, phủ nhận hiện tại tương lai và chỉ thừa nhận luật lệ khắc nghiệt của ký ức.  Hắn đau khổ và sự khổ đau ấy truyền nhiễm, gây ra những âm vang chung quanh hắn.
Tôi đã quyết định, tới một ngày nào đó tôi sẽ bỏ Kathleen mà đi.  Làm như vậy tốt hơn cho nàng.  Nếu tôi quên được thì tôi sẽ ở lại.  Tôi không quên được.  Có những lúc con người không được quyền đau khổ.
“Em đề nghị một giao kèo,” Kathleen nói.  “Em sẽ để anh giúp em với điều kiện anh để em giúp anh.  Được chứ?”
Kathleen khốn khổ! tôi nghĩ.  Để thay đổi, chúng ta phải thay đổi quá khứ.  Nhưng quá khứ nằm bên kia sức mạnh của chúng ta.  Cấu trúc của quá khứ thì rắn chắc, bất biến.  Quá khứ đó là chiếc khăn trùm đầu của bà nội tôi, đen hết sức đen, như mây nghĩa địa.  Quên đám mây đó ư?  Đám mây đó chính là bà nội của tôi, là con trai của bà, là mẹ tôi.  Thời đại mà chúng ta đang sống đây ngu ngơ biết mấy!  Mọi sự đảo lộn.  Các nghĩa địa bị đưa lên cao, lơ lửng lưng trời, thay vì đào sâu dưới lòng đất ẩm.  Chúng ta đang nằm trong giường, thân thể trần truồng của anh tựa vào thân thể trần truồng của em, và chúng ta nói tới những đám mây đen, tới những nghĩa trang bồng bềnh, tới tiếng cười ré lên của thần chết và tới số phận, cái duy nhất và giống nhau.  Kathleen ạ, em đang nói tới hạnh phúc; em làm như thể hạnh phúc là cái có thể sở hữu.  Nó còn không được là một giấc mơ.  Hạnh phúc cũng đã chết.  Nó cũng đã bị đưa lên cao.  Mọi sự đã tìm nơi ẩn náu ở trên cao.  Và ở đây, bên dưới này, trống rỗng biết mấy!  Cuộc sống chính thì đang ở trên đó.  Nơi đây, dưới này, chẳng có gì.  Kathleen ơi, chẳng có gì cả.  Nơi đây chúng tôi có sa mạc khô cằn.  Một sa mạc chẳng có tới một ảo tượng.  Nó là một nhà ga nơi đứa bé bị bỏ lại trên sân ga, nhìn cha mẹ mình bị con tàu mang đi biền biệt, và nơi họ đứng chỉ còn là khói đen.  Họ là khói đó.  Hạnh phúc ư?  Hạnh phúc, đối với đứa bé ấy, hẳn là việc con tàu kia quay trở lại.  Nhưng em biết các con tàu ra sao rồi: chúng lúc nào cũng chạy tới phía trước.  Chỉ có khói là quay trở lại.  Vâng, nhà ga của chúng tôi là nơi kinh khiếp!  Những người như anh, kẻ từng ở nơi đó, nên ở lại chỗ đó một mình, Kathleen ạ.  Chớ để nỗi khổ đau trong chúng tôi giao tiếp với người khác.  Chúng tôi không nên cho họ mùi vị chua chát, mùi khói mây mà chúng tôi đang có trong miệng mình.  Kathleen ạ, chúng tôi không được quyền làm vậy.  Em nói “yêu”.  Và em không biết rằng tình yêu cũng đã bị con tàu đó mang theo đi thẳng lên các tầng trời.  Lúc này, mọi sự đã bị chuyển giao lên đó.  Tình yêu, hạnh phúc, chân lý, sự thanh khiết, các trẻ em với những nụ cười vui tươi, các phụ nữ với những đôi mắt mơ huyền, những người già bước đi chầm chậm, những em bé mồ côi mà lời cầu nguyện của chúng chan chứa khổ đau.  Đó là cuộc xuất hành chân chính.  Cuộc xuất hành từ thế giới này sang thế giới khác.  Các dân tộc cổ đại có óc tưởng tượng hạn chế.  Người chết của chúng ta mang theo họ sang kiếp sau không chỉ quần áo và thực phẩm mà còn tương lai của con cháu họ.  Ở đây, bên dưới này, không còn lại gì.  Và em nói tới tình yêu?  Và em nói tới hạnh phúc hở Kathleen?  Những kẻ khác nói tới công lý, tới đại đồng hay không đại đồng, tới tự do, tới tình huynh đệ, tới tiến bộ.  Họ không biết rằng địa cầu này đang khô kiệt và rằng con tàu khổng lồ đó đã mang mọi sự đi mất hút lên các tầng trời.
“Vậy, anh chấp nhận?” Kathleen hỏi.
“Chấp nhận cái gì?” tôi ngạc nhiên.
“Cái giao kèo em đề nghị.”
“Dĩ nhiên,” tôi lơ đãng trả lời.  “Anh chấp nhận.”
“Và anh sẽ để em làm cho anh hạnh phúc?”
“Anh sẽ để em làm cho anh hạnh phúc.”
“Và anh hứa quên hết quá khứ đó?”
“Anh hứa quên hết quá khứ đó.”
“Và anh sẽ chỉ nghĩ đến tình yêu của chúng mình?”
“Vâng.”
Nàng đi từ đầu đến cuối bản câu hỏi của nàng.  Nàng ngừng lại lấy hơi thở rồi hỏi bằng một giọng khác, “Trước đây anh ở đâu?”
“Nơi nhà ga,” tôi nói.
“Em không hiểu.”
“Nơi nhà ga,” tôi nói.  “Anh ở nơi nhà ga ấy.  Nó nhỏ lắm.  Nhà ga của một tỉnh nhỏ.  Con tàu vừa lăn bánh.  Anh bị bỏ lại một mình trên sân ga.  Cha mẹ anh trên con tàu đó.  Họ quên anh rồi.”
Kathleen không nói gì.
“Đầu tiên, anh oán giận.  Họ không nên bỏ anh lại đằng sau một mình trên sân ga.  Nhưng phút chốc, anh bỗng nhiên thấy ra một điều lạ lùng: con tàu đó rời đường ray và leo lên các tầng trời mịt mù khói xám.  Anh bàng hoàng tới độ không thể gào lên với cha mẹ mình: Cha mẹ đang làm gì thế?  Quay lại đi!  Nếu anh la lên được thì có thể họ đã quay trở lại.”
Tôi bắt đầu cảm thấy mệt.  Tôi đổ mồ hôi.  Trong giường nóng.  Có chiếc xe vừa rít lên dừng lại dưới cửa sổ.
“Anh đã hứa không nghĩ tới nó nữa,” Kathleen nói trong tuyệt vọng.
“Tha lỗi cho anh.  Anh sẽ không nghĩ tới nó nữa.  Dù sao đi nữa thời nay việc đi đây đi đó bằng tàu lửa lỗi thời rồi.  Thế giới đã tiến bộ.”
“Chắc chứ?”
“Chắc chắn.”
Nàng ép sát mình vô người tôi.
“Hễ khi nào ý nghĩ của anh mang anh tới nhà ga nhỏ đó thì anh nói cho em biết.  Chúng ta sẽ cùng nhau chiến đấu.  Được chứ?”
“Được.”
“Em yêu anh.”
Tai nạn xảy ra ngày kế đó.
Mười tuần lễ trải qua trong thế giới bó bột đã làm tôi phong phú hơn.
Tôi học được rằng con người phải sống cách khác, tùy vào vị trí chiều ngang hoặc chiều dọc của mình.  Bóng tối trên các bức vách và trên các khuôn mặt không giống nhau.
Ba người đến thăm tôi hằng ngày.  Paul Russel buổi sáng; Kathleen buổi tối; Gyula buổi chiều.  Anh đến một mình.  Anh là bạn của tôi.
Là một họa sĩ, gốc Hungary, Gyula như một tảng đá sống động.  Một con người to lớn đúng với mọi nghĩa của từ ngữ đó.  Cao, lực lưỡng, vui tính, tóc rối tơi bời, đôi mắt khinh bạc và nồng nàn; anh đẩy mọi sự chung quanh anh qua một bên: các bàn thờ, các ý tưởng, các ngọn núi.  Dưới mắt nhìn của anh và khi tay anh chạm vào, vạn vật rung động.
Dù cách biệt tuổi tác, chúng tôi có rất nhiều điểm chung.  Tuần nào chúng tôi cũng đi ăn trưa với nhau tại một tiệm Hungary ở Mé Đông.  Chúng tôi khích lệ nhau chịu đựng tới cùng, không tìm cách thỏa hiệp, không đi tới một thoả thuận nào với cuộc đời, không dễ dãi chấp nhận chiến thắng.  Những cuộc nói chuyện của chúng tôi có vẻ như đang bông đùa.  Chúng tôi ghét cay ghét đắng những biểu lộ tình cảm có tính cách ủy mị.  Chúng tôi tránh những kẻ coi bản thân một cách trang trọng và đặc biệt, những kẻ đòi hỏi người khác cũng phải làm như vậy.  Chúng tôi không dung thứ nhau.  Tuy thế, tình bạn của chúng tôi lành mạnh, mộc mạc và sâu đậm.
Tôi đang dở sống dở chết khi anh ào vô phòng, dùng vai huých người y tá qua một bên (cô đang sửa soạn chích cho tôi một mũi thuốc); không hỏi tôi tiếng nào, anh tuyên bố với giọng trịnh trọng và dứt khoát rằng anh sắp vẽ chân dung tôi.
Cô y tá tay đang cầm ống chích, nhìn anh mà khiếp vía.
“Anh làm gì vậy?  Ai cho anh vô đây?  Ra ngay!”
Gyula nhìn cô với lòng trắc ẩn như thể cô là người khật khùng.
“Cô đẹp tuyệt vời,” anh nói với cô.  “Nhưng khùng!”
Anh ngắm nghía cô, tỏ vẻ thú vị.
“Thời nay, các phụ nữ đẹp khùng chưa tới nơi tới chốn,” anh tiếp tục một cách tiếc rẻ.  “Nhưng khùng như cô cũng vừa đủ.  Tôi thích cô.”
Cô y tá khốn khổ - một sinh viên trẻ - sắp trào nước mắt.  Cô lắp bắp:
“Chích thuốc... Đi ra... Tôi phải...”
“Để sau!” Gyula ra lệnh.
Và anh túm lấy cánh tay cô, đẩy cô ra cửa.  Ở ngưỡng cửa, cô thầm thì vào tai anh điều gì đó.
“Này! Anh bạn!” Guyla nói sau khi đóng cửa.  “Cô ta nói anh bệnh rất trầm trọng.  Rằng anh sắp chết!  Anh không xấu hổ vì sắp chết sao?”
“Có,” tôi trả lời yếu ớt.  “Tôi xấu hổ.”
Gyula đi quanh phòng làm quen với cảnh sắc, các bức vách, mùi phòng bệnh.  Rồi anh dừng lại bên giường, thách thức tôi:
“Không được chết trước khi tôi vẽ xong chân dung anh.  Anh nghe rõ chưa?  Sau đó tôi cóc cần! Nhưng đừng chết trước đó.  Hiểu chưa?”
“Gyula ạ, anh là một quái vật,” tôi xúc động nói với anh.
“Anh không hiểu ư?” anh ngạc nhiên.  “Các nghệ sĩ là những quái vật tệ hại nhất: họ sống trên cuộc sống và cái chết của người khác.”
Tôi nghĩ là anh sẽ hỏi tôi tai nạn xảy ra như thế nào.  Anh không hỏi.  Tuy vậy, tôi muốn anh biết.
“Anh có muốn tôi kể chuyện đó cho anh nghe không?” tôi hỏi anh.
“Anh không cần kể,” anh trả lời một cách bất cần.  “Tôi không cần lời giải thích của anh.”
Quanh mắt anh đậm đà những vòng tròn trìu mến.
“Tôi muốn anh biết,” tôi nói.
“Tôi sẽ biết.”
“Đó là một bí mật,” tôi nói.  “Không ai biết bí mật đó.  Tôi muốn kể với anh.”
“Anh không cần kể,” anh trả lời khinh khỉnh.  “Tôi thích tự mình phát hiện mọi sự.”
Tôi rán cười.  “Tôi có thể chết trước khi anh có cơ hội.”
Anh bừng bừng với cơn thịnh nộ và hăm he.  “Tôi đã bảo anh, không được chết trước khi tôi vẽ xong chân dung anh.  Vẽ xong, anh có thể chết lui chết tới hay chết bất cứ lúc nào tùy thích.”
Tôi hãnh diện.  Hãnh diện về anh, về tôi và về tình bạn của chúng tôi. Về các lề luật khắc nghiệt mà chúng tôi lập ra.  Chúng tôi bảo vệ chúng tôi chống lại những thành công và những cố định của kẻ yếu đuối.  Chỉ xảy ra những trao đổi chân chính ở nơi đòi hỏi những lời mộc mạc và ở nơi chúng tôi sắp xếp để làm thế nào nói tới vấn đề bất tử của linh hồn bằng những câu tầm thường tới độ sửng sốt.
Chiều nào Gyula cũng quay lại nhà thương.  Các y tá biết rằng khi anh có mặt trong phòng tôi thì chớ quấy rầy chúng tôi.  Đối với họ anh là một sinh vật với những lời mắng nhiếc - bằng tiếng Hungary - sẽ làm tới cả mặt của một cô gái da đen cũng phải ửng đỏ.
Trong khi phác thảo, Gyula kể với tôi nhiều chuyện.  Anh là người kể chuyện tuyệt vời.  Cuộc đời anh đầy ắp vô số những cuộc phiêu lưu và những nếm trải kích thích ảo giác.  Anh từng chết đói ở Paris, ban phát thời vận ở Hollywood, dạy ma thuật và thuật giả kim gần như khắp nơi.  Anh biết tất cả những nhân vật vĩ đại của văn học và nghệ thuật đương thời; anh thích những yếu đuối của họ và bỏ qua những thành công của họ.  Gyula cũng có một nỗi ám ảnh: đem mình đọ sức với số phận, để buộc số phận phô ra cho con người ý nghĩa sự tàn bạo của nó.  Nhưng dĩ nhiên anh chỉ nói tới điều đó một cách khinh bạc.
Ngày nọ, anh tới như thường lệ, lúc mới chớm buổi chiều, đứng in hình lên khung cửa sổ và bắt đầu làm việc.  Anh yên lặng.  Khi đi vào anh cũng chẳng chào tôi.  Anh có vẻ ưu tư.  Nửa giờ, rồi một giờ.  Đột nhiên anh thôi động đậy, và vẫn không nhúc nhích, anh nhìn thẳng vào mắt tôi như thể anh vừa xé tan tành bức màn vô hình phủ lên mắt tôi.  Trong vài giây, chúng tôi đăm đăm nhìn nhau.  Đôi lông mày rậm của anh nhíu thành hai hình vòng cung: anh đã bắt đầu hiểu.
“Anh có muốn tôi kể cho anh nghe?” tôi bối rối.
“Không,” anh lạnh lùng trả lời.  “Các câu chuyện của anh chẳng ích lợi gì cho tôi cả.”
Và anh lại vùi đầu vào tác phẩm của mình, nơi anh tìm thấy các câu trả lời cho mọi câu hỏi, và các câu hỏi cho mọi câu trả lời.
Một tuần sau, anh nói với tôi một điều không liên quan gì tới đề tài chúng tôi đang thảo luận.  Chúng tôi đang nói tới tình hình quốc tế, nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ ba, vai trò quan trọng mà Trung hoa không bao lâu nữa sẽ đóng.  Đột nhiên, Gyula đổi đề tài.
“Mà này,” anh nói, “tôi đã kể anh nghe câu chuyện tôi suýt chết đuối chưa nhỉ?”
“Chưa.” Tôi hỏi một cách chế giễu. “Nó xảy ra ở đâu vậy, ở bên Tàu chắc?”
“Anh không việc gì phải  ý kiến ý cò” anh nói. “Tốt hơn là anh ngậm miệng mà nghe.”
Gyula anh bạn già tuyệt vời của tôi!  Tôi  nghĩ.  Anh tỏ tình với một phụ nữ như thế nào?  Anh sẽ làm như thể nhục mạ cô ta, nếu cô ta không hiểu kiểu tỏ tình đó thì anh chỉ có việc là không còn yêu cô ta nữa.  Gyula anh bạn già tuyệt vời của tôi!
Mùa hè năm đó anh tới vùng Riviera thuộc Pháp để nghỉ hè, trốn cái nóng.  Anh thường ra biển.  Sáng đó anh bơi ra rất xa.  Thình lình, anh bị vọp bẻ, cứng cả người.  Không thể nhúc nhích cả chân lẫn tay, người anh chìm dần.
“Tôi bắt đầu uống nước biển mặn,” anh nói.  “Tôi không cảm thấy sợ hãi chút nào.  Tôi biết mình đang chết nhưng vẫn bình tĩnh.  Trong tôi chan chứa sự êm dịu thanh thản lạ thường.  Tôi nghĩ: cuối cùng tôi đã biết người đang chết đuối suy nghĩ gì.  Đó là ý nghĩ cuối cùng của tôi.  Rồi tôi ngất đi.”
Anh được cứu.  Có kẻ thấy anh đang chìm và cứu nạn anh.
Trong khi nhìn theo những nét cọ của mình chạy trên khung vải, Gyula tiếp tục, mỉm cười, một cách khó thấy.
“Khi tỉnh lại, tôi nhìn khắp chung quanh mình.  Tôi đang nằm trên cát, giữa một đám người hiếu kỳ.  Có một ông già đầu hói, bác sĩ, đang cúi xuống nhìn tôi và bắt mạch tôi.  Trong vòng người sát tôi nhất, một phụ nữ trẻ ngó tôi.  Tôi mơ hồ thấy cô ta cười với mình mà trên mặt vẫn còn vẻ kinh hoàng.  Một phụ nữ kinh hãi đang nở nụ cười, quang cảnh đó khốn khổ biết mấy.  Tôi nghĩ: mình còn sống.  Mình qua mặt được thần chết. Thêm lần nữa thần chết không chộp nổi mình.  Bằng chứng đây: mình đang thấy một phụ nữ nhìn mình và mỉm cười.  Mặt cô ta còn hãi hùng vì thần chết vẫn còn quá gần, ở ngay đằng sau tôi.  Nụ cười của cô ta chỉ dành cho tôi, cho riêng tôi thôi.  Tôi tự bảo mình: mình có thể ở đây, đúng chỗ này, và không thấy thiếu nữ đó, kẻ ngay lúc ấy yêu kiều và tuyệt đẹp hơn bất cứ người nào khác.  Mình có thể thấy một phụ nữ khác không cười với mình.  Thế mà mình đã thấy một phụ nữ cười với mình.  Tôi tự nhủ, mình phải coi mình là người hạnh phúc.  Hạnh phúc được tự do.  Tự do để thêm lần nữa trêu ghẹo thần chết.  Tự do để chấp nhận hoặc từ khước tự do.  Sự trì hoản này hẳn cho tôi cảm giác hạnh phúc.  Tuy thế, tôi không có cảm giác đó.  Tôi cẩn thận dò xét mình: không tìm được dấu vết vui mừng nào.  Bác sĩ đang khám tôi, người ta đang dành cho tôi những biểu lộ thiện cảm thầm lặng như một thứ của bố thí, và nụ cười của người phụ nữ trẻ đó càng lúc càng tươi tắn hơn - đó là cách người ta mỉm cười trước sự sống. Mặc dù có những cái đó, tôi vẫn không cảm thấy hạnh phúc.  Ngược lại, tôi cảm thấy buồn bã và thất vọng kinh khủng.  Sau này, lần suýt chết đuối ấy làm tôi ca hát và nhảy múa.  Nhưng vào lúc đó, tại đó, trên cát, dưới mặt trời chiếu đỏ nóng rực, dưới đôi mắt của cô gái trẻ không quen ấy, tôi cảm thấy thất vọng, thất vọng vì đã trở về cuộc sống.”
Gyula yên lặng làm việc trong một lúc lâu.  Tôi nghĩ anh vừa nhắm mắt vừa vẽ.  Tôi không ngạc nhiên nếu anh vẫn thất vọng.  Và nếu sau ngày đó anh gặp lại người phụ nữ trẻ ấy.  Nhưng tôi chẳng nói gì.  Paul Russel lại về trong tâm trí tôi.  Người bác sĩ ấy lầm, tôi suy nghĩ.  Sống không nhất thiết phải muốn sống.  Cuộc sống chỉ thật sự quyến rũ bởi cái chết.  Đời sống chỉ rộn ràng khi nó tiếp xúc với cái chết.
“Anh nghe tôi nói đây! Gyula, anh có nghe không?” tôi thăm dò.
Anh giật mình, như thể tôi vừa ép buộc anh mở mắt ra.  Anh cười thoáng có vẻ nhạo báng.
“Không, tôi không nghe đâu,” anh nói.
“Nhưng tôi muốn anh biết.”
“Biết cái gì?”
“Biết mọi sự.”
“Tôi không cần biết chỉ để mà biết các câu chuyện của anh.”
Gyula anh bạn già tuyệt vời! tôi nghĩ.  Điều gì xảy ra cho cô gái trẻ trên bãi biển ấy?  Có phải sau đó anh đã sỉ nhục cô ta?  Có phải anh đã nói với cô ta, “Cô là một con chó cái tơ, một con chó cái bẩn thỉu còn tơ”?  Cô ta có hiểu đó là một lối tỏ tình?
“Gyula.” tôi hỏi anh, “điều gì xảy ra cho người phụ nữ không quen đó?”
“Người phụ nữ không quen nào?”
“Cô gái trên bãi biển đó.  Người đã mỉm cười với anh đó?”
Anh gập người xuống rộ lên tiếng cười lớn, tiếng cười ấy chắc là để che dấu một con sóng dịu dàng từ một quá khứ xa xăm đang trào dâng trong lòng anh.
“—, cô gái đó ư?” anh nói bằng giọng cố làm ra vẻ dung tục.  “Cô ta là một con chó cái tơ, một con chó cái bẩn thỉu còn tơ!”.
Tôi không thể nhịn cười.  “Anh đã nói với cô ta như vậy?”
“Đương nhiên là tôi đã nói như vậy với cô ta!” anh nhận ra tôi đang cười mỉm.  “Anh đồ quái vật,” anh thét lớn với tôi bằng giọng gớm ghiếc.  “Để yên cho tôi làm việc.  Tôi đập anh bây giờ.”
Hôm trước ngày tôi được phép xuất viện, Gyula đi vào, quanh người anh ánh lên hào quang ngạo nghễ.  Anh đứng ở chân giường, giữa dòng sông và tôi, như một tướng lãnh vừa chiến thắng, tuyên bố một tin mừng: bức chân dung đã xong.
“Và lúc này, anh chết được rồi,” anh nói.
Gyula đặt bức tranh dựa lên thành ghế.  Anh tần ngần một giây.  Rồi xoay lưng lại với tôi, anh bước sang một bên.  Tim tôi đập dữ dội. Tôi ở đó, đang đối mặt tôi.  Toàn bộ quá khứ của tôi đang ở đó, đang đối mặt tôi.  Bức tranh vẽ bằng màu đen, lấm tấm nổi bật vài chấm đỏ.  Bầu trời đen kịt.  Mặt trời xám xịt.  Mắt tôi đỏ ngầu, giống con mắt của Soutine.  Đôi mắt ấy là mắt của kẻ đã thấy Thượng đế phạm một tội ác nặng nề nhất, không thể tha thứ: giết người vô cớ.
“Anh thấy,” Gyula nói.  “Anh không biết cách nói; anh chỉ là anh khi anh im lặng.”
Người anh rung rung; không giấu nổi cảm xúc của mình.
“Đừng nói,” anh thêm.  “Tôi chỉ yêu cầu anh vậy thôi.”
Và để che dấu, anh bước tới cửa sổ, nhìn xuống những con sóng của Sông Đông đang nô đùa, dịu dàng xao động chuyển dịch tới thời điểm chúng hẹn hò với vĩnh cửu.  Anh đã đoán ra.  Nhìn bức tranh là đủ biết anh đã nhận ra.  Tai nạn chỉ là tai nạn theo nghĩa giới hạn nhất của từ ngữ đó.  Chiếc tắc xi, tôi có thấy chiếc tắc xi ấy chạy tới.  Tuy chỉ trong chớp mắt nhưng tôi có thấy nó, và tôi đã có thể tránh được nó.
Lúc này, diễn ra cuộc đối thoại trong im lặng giữa Gyula và tôi.
“Anh thấy không?  Có thể Thượng đế đã chết, nhưng con người thì đang sống.  Bằng chứng: con người có thể có tình bạn.”
“Nhưng về những người khác thì sao?  Gyula ạ, những người khác? Những kẻ đã chết? Họ thì sao? Ngoài tôi ra, họ không có ai là bạn.”
“Anh phải quên họ.  Anh phải xua đuổi họ ra khỏi ký ức của anh.  Nếu cần thì dùng roi.”
“Xua đuổi họ, Gyula?  Với cây roi, anh nói vậy ư?  Xua đuổi cha tôi bằng roi? Và bà nội của tôi?  Bà nội của tôi cũng vậy, xua đuổi bà bằng roi?”
“Đúng, đúng và đúng.  Người chết không có chỗ ở đây.  Họ phải để chúng ta yên.  Nếu họ không chịu đi, hãy dùng tới roi.”
“Và Gyula ơi, bức tranh này thì sao? Họ đang ở đó.  Trong đôi mắt của bức tranh.  Tại sao anh lại đặt họ vào đó trong khi anh yêu cầu tôi xua đuổi họ?”
“Tôi đặt họ vào đó để xác định chỗ cho họ.  Để anh biết chỗ mà đánh.”
“Tôi không thể, Gyula ơi.  Tôi không thể.”
Gyula xoay người lại, và thình linh, tôi thấy anh già nua hẳn.  Đầu anh bạc phơ, tóc anh lưa thưa hơn, mặt anh lấm tấm.
“Đau khổ là để cho người đang sống, không cho kẻ đã chết,” anh nói, nhìn thật thẳng và nhìn xuyên suốt người tôi.  “Nghĩa vụ của con người là phải làm cho đau khổ chấm dứt chứ không phải là làm cho đau khổ gia tăng.  Bớt đau khổ đi được một giờ thì đã là một chiến thắng trên số phận.”
Vâng, anh đã già nua hơn.  Lúc này, chính người già ấy đang nói chuyện với tôi, trao cho tôi kiến thức muôn thuở, cái cắt nghĩa tại sao trần gian vẫn nổi loạn và tại sao con người vẫn hướng mắt nhìn tới tương lai.  Không kịp lấy hơi, anh tiếp tục nói, như thể từ lâu anh đã dành sẵn những lời này cho tôi.
“Nếu nỗi đau khổ của anh vấy lên những người khác, những người chung quanh anh, những người mà anh tiêu biểu cho lý do sống của họ, thì lúc ấy anh phải giết nỗi đau khổ đó, bóp cổ nó cho nó chết.  Nếu người chết là nguồn gốc của nỗi đau khổ đó thì anh hãy giết họ thêm lần nữa, anh phải cắt lưỡi họ, thường xuyên cắt lưỡi họ.”
Lòng tôi ngập tràn một nỗi buồn vô hạn.  Tôi có cảm tưởng mình đang mất một người bạn: anh ta đang phán xét tôi.
“Giả dụ không thể làm được việc đó?” tôi hỏi anh, cảm thấy vô cùng chán nản.  “Thì ta nên làm gì?  Dối trá ư?  Tôi thích sự minh bạch.”
Anh chầm chậm lắc đầu.
“Sự minh bạch là chiến thắng của số phận, không phải là chiến thắng của con người.  Nó là một hành động tự do mang bên trong chính nó sự phủ định tự do.  Con người phải tiếp tục chuyển động, tìm kiếm, cân nhắc, đưa tay mình ra, dâng hiến bản thân, khám phá bản thân.”
Đột nhiên tôi có cảm tưởng rằng chính ông thầy của tôi, Kalman, nhà huyền học, đang nói chuyện với tôi.  Giọng của ông cũng kiểu này, một giọng đầy am hiểu.  Nhưng Kalman là thầy tôi, không phải là bạn tôi.
“Anh nên hiểu điều này,” Gyula tiếp tục, không đổi giọng, không chớp mắt.  “Anh nên biết rằng kẻ chết thì không còn tự do, không còn có thể đau khổ.  Chỉ người sống mới có thể tự do, có thể đau khổ.  Kathleen đang sống.  Tôi đang sống.  Anh phải nghĩ tới chúng tôi.  Đừng nghĩ tới họ.”
Anh ngưng lại để nhồi tẩu thuốc hoặc có thể vì chẳng còn gì để nói thêm.  Mọi sự đã được nói ra.  Những lập luận tán thành và những lập luận phản bác.  Tôi phải chọn giữa người đang sống và kẻ đã chết.  Gyula hoặc Kalman.
Tôi nhìn bức chân dung, và ẩn chứa trong đôi mắt của nó, tôi thấy bà nội tôi với chiếc khăn trùm đầu màu đen.  Trên bộ mặt héo hắt của bà mang vẻ đau khổ một cách bình an.  Bà đang bảo tôi:  Cháu đừng sợ gì cả.  Nội sẽ ở bất cứ nơi nào cháu ở.  Nội không bao giờ thêm lần nữa để cháu một mình trên sân ga.  Hoặc một mình trên góc đường ở một thành phố nước ngoài.  Nội sẽ mang cháu theo với nội.  Trên con tàu lên các tầng trời.  Và cháu sẽ không còn thấy trần gian nữa.  Nội sẽ dấu nó không để cho cháu thấy.  Bằng chiếc khăn trùm đầu màu đen của nội.
“Anh xuất viện ngày mai?” Gyula hỏi, bằng giọng có vẻ bình thường trở lại.
“Vâng, ngày mai.”
“Kathleen sẽ chăm sóc anh?”
“Vâng.”
“Nàng yêu anh.”
“Tôi biết.”
Im lặng.
“Anh bước đi được chứ?”
“Với cặp nạng,” tôi trả lời.  “Họ sẽ tháo băng bột.  Nhưng chân tôi hoàn toàn không chịu được sức nặng.  Tôi phải đi nạng.”
“Anh có thể dựa vào Kathleen.  Nàng sẽ hạnh phúc nếu anh dựa vào nàng.  Tiếp nhận là một hình thức cao nhất của lòng quảng đại.  Hãy làm cho nàng hạnh phúc.  Một chút hạnh phúc đủ biện hộ cho suốt một đời nỗ lực.”
Tôi đã quyết, Kathleen sẽ hạnh phúc. Tôi sẽ học nói dối thật thành thạo và nàng sẽ hạnh phúc. Thật phi lý: những lời nói dối có thể sinh ra hạnh phúc chân chính. Chừng nào mà hạnh phúc đó còn kéo dài thì nó còn có vẻ thật. Người đang sống thích lời nói dối, đó là cách họ thích tình bạn. Kẻ đã chết không thích lời nói dối. Bà nội của tôi hẳn không chấp nhận những lời kể chưa đúng sự thật của người khác.  Tôi hứa với bà nội của tôi, lần sau cháu sẽ cẩn thận.  Cháu không để lỡ tàu thêm lần nữa.
Tôi phải chăm chú nhìn bức chân dung đó vì đột nhiên Gyula bắt đầu cắn chặt răng. Với cử chỉ giận dữ và điên tiết, anh bật que diêm, châm lửa bên dưới khung vải.
“Đừng!” tôi kêu lên tuyệt vọng. “Đừng làm vậy! Gyula, đừng làm vậy! Đừng thiêu bà nội của tôi lần nữa! Ngừng tay lại, Gyula, ngừng tay!”
Gyula đứng im, không phản ứng. Mặt anh khép lại và trầm xuống, các đầu ngón tay anh cầm khung vải, xoay xoay đủ hướng và chờ nó thu lại thành tro. Tôi muốn nhảy chồm lên người anh nhưng tôi quá yếu, không ra khỏi giường được.  Tôi không cầm được nước mắt.  Tôi khóc rất lâu sau khi Gyula đã đóng cửa lại sau lưng anh. Anh quên mang theo tro
22/9/2010

Elie Wiesel

Nguyễn Ước dịch

Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Biết Làm Gì? Một người bạn gái vui mừng báo tin được sắp sang Mỹ không phải theo diện HO hay theo diện đoàn tụ gia đình mà lập gia đìn...