Về từ cõi chết 2: Rạng sáng
Chương 1
Đâu đó đứa bé bắt đầu khóc. Trong ngôi nhà
ngay bên kia đường, bà lão sập các cánh cửa lá sách. Trời buổi tối
mùa thu Palestine nóng tột cùng độ nóng.
Đứng bên cửa sổ, tôi nhìn hoàng hôn trong vắt đang xuống làm
thành phố dường như yên lặng, im lìm, mờ ảo và rất đổi xa vời. Ngày
mai, tôi suy nghĩ tới lần thứ một trăm, ngày mai tôi sẽ giết một người, và tôi
tự hỏi không biết đứa bé đang khóc kia và người đàn bà bên đường kia có biết
hay không.
Tôi không biết hắn. Dưới mắt tôi, hắn không mặt; hắn
cũng không hiện hữu vì tôi chẳng biết gì về hắn. Tôi chẳng biết hắn
có gãi mũi khi ăn không, lúc làm tình hắn nói phô hay im lặng, hắn có tự hào về
lòng thù hận, hắn có phản bội vợ hắn, hoặc Thượng đế của hắn hoặc chính tương
lai của hắn không. Tôi chỉ biết rằng hắn là một người Anh và là kẻ
thù của tôi. Hai cách gọi đó mang cùng một ý nghĩa.
“Cậu đừng dằn vặt mình,” Gad nói giọng trầm trầm. “Đây
là chiến tranh.”
Hiếm khi nghe rõ lời anh nói, và tôi tính bảo anh nói lớn hơn
vì chẳng ai có thể nghe được. Tiếng khóc của đứa bé át mọi thanh
âm. Nhưng tôi không thể mở miệng vì tôi đang nghĩ tới hắn, kẻ bị buộc
phải chết. Ngày mai, tôi tự nhủ, chúng tôi sẽ bị cột chặt vào nhau tới
tận cùng thiên thu bằng sợi dây kết dính nạn nhân và kẻ hành quyết.
“Trời đang tối dần,” Gad nói. “Tôi bật đèn được chứ?”
Tôi lắc đầu. Trời chưa tối hẳn. Chưa có
bộ mặt nào nơi cửa sổ để đánh dấu chính xác thời điểm ngày đã chuyển sang đêm.
Trước đây rất lâu, một người ăn mày đã dạy tôi cách phân biệt
giữa ngày và đêm. Tôi gặp ông vào một tối tại thành phố chôn nhau cắt
rốn của tôi khi tôi đang đọc kinh trong hội đường nóng bức. Ông dáng
người hốc hác, xơ xác, mặc quần áo đen sờn rách, với cái nhìn trong mắt như
không thuộc về thế giới này. Thuở đó mới bắt đầu thế chiến. Tôi
mười hai tuổi, cha mẹ tôi còn sống, và Thượng đế còn trú ngụ trong thành phố của
chúng tôi.
“Có phải ông là người lạ?” tôi hỏi ông.
“Tôi không tới từ vùng quanh đây,” ông nói bằng giọng có vẻ lắng
nghe hơn là phát biểu.
Những người ăn mày thường làm dậy lên trong tôi các cảm xúc hỗn
hợp, vừa thương vừa sợ. Tôi biết rằng mình phải tử tế với họ vì họ
không giống như vẻ người bề ngoài của họ. Văn chương Do thái dạy
chúng tôi rằng một người ăn mày có thể là ngôn sứ Ê-li-a giả dạng, viếng thăm
thế gian và con tim loài người, trao phần thưởng hằng sống cho những ai đối xử
tốt với ngài. Không phải chỉ có ngôn sứ Ê-li-a mặc quần áo ăn
mày. Thần chết cũng thích dọa dẫm loài người bằng cách giống như thế. Cư
xử sai trái với hắn lại càng nguy hiểm hơn; hắn có thể trả đũa bằng cách lấy mạng
sống hoặc lấy linh hồn của ta.
Và vì thế, người lạ ấy trong hội đường làm lòng tôi nổi cơn sợ
hãi. Tôi hỏi ông có đói không, ông nói không. Tôi cố tìm
hiểu xem ông muốn gì nhưng vô ích. Tôi bị thúc bách phải làm cho ông
cái gì đó, nhưng tôi không biết cái đó là cái gì.
Hội đường vắng vẻ. Các ngọn nến bắt đầu
tàn. Hoàn toàn chỉ có hai chúng tôi, và nỗi khắc khoải càng lúc càng
tăng làm tôi hụt hơi. Tôi biết mình không nên ở đây với ông vào lúc
nửa đêm vì đó là giờ kẻ chết đứng lên khỏi mồ và đi tới đây cầu nguyện. Bất
cứ ai gặp họ trong hội đường đều có nguy cơ bị mang đi luôn vì họ sợ người ấy
tiết lộ bí mật của họ.
“Tới nhà tôi đi,” tôi nói với người ăn mày. “Tại
nhà tôi, ông có thể tìm thấy thức ăn và giường ngủ.”
“Tôi chẳng bao giờ ngủ,” ông trả lời.
Lúc ấy, tôi chắc chắn rằng ông không thật sự là người ăn
mày. Tôi bảo ông tôi phải về nhà, và ông đề nghị cùng đi với
tôi. Khi chúng tôi bước dọc con đường tuyết phủ, ông hỏi tôi có sợ
bóng tối không.
“Có, tôi sợ,” tôi nói, tôi muốn thêm rằng tôi cũng sợ ông
nhưng tôi cảm thấy ông đã biết điều đó.
“Cậu đừng sợ bóng tối,” ông vừa nói vừa dịu dàng nắm cánh tay
tôi, làm tôi rùng mình. “Đêm tinh khiết hơn ngày; đêm tốt cho việc
suy nghĩ, yêu thương và mơ mộng. Ban đêm, mọi sự mãnh liệt hơn, chân
chính hơn. Âm vang của các lời nói được thốt ra ban ngày thì trong
đêm sẽ mang ý nghĩa mới mẻ và sâu xa hơn. Thảm kịch của con người là
không biết cách phân biệt giữa ngày và đêm. Ban đêm, con người nói
những điều mà lý ra chỉ nên nói ban ngày.”
Ông dừng bước trước nhà tôi. Tôi thêm lần nữa hỏi
ông có muốn vào nhà không, nhưng ông nói không, ông phải tiếp tục
đi. Tôi nghĩ, vậy là ông sắp trở lại hội đường để nghênh đón kẻ chết.
“Hãy nghe đây,” ông nói, các ngón tay ông siết cánh tay
tôi. “Ta sắp dạy cậu nghệ thuật phân biệt giữa ngày và
đêm. Hãy luôn luôn nhìn qua cửa sổ, và lướt cái nhìn của mình tìm mắt
một người. Nếu cậu thấy một bộ mặt, bất cứ bộ mặt nào, thì cậu có thể
chắc chắn rằng đó là lúc đêm đang nối tiếp ngày. Và hãy tin ta, đêm
có một bộ mặt.”
Rồi không để tôi có thì giờ trả lời, ông chào từ giã và biến
mất trong tuyết.
Kể từ ngày đó, tối nào tôi cũng đứng bên cửa sổ để chứng kiến
lúc đêm đến. Và tối nào tôi cũng thấy một bộ mặt bên
ngoài. Không phải luôn luôn cũng chỉ một bộ mặt, vì đêm này không giống
đêm khác. Lúc mới bắt đầu, tôi thấy bộ mặt của người ăn
mày. Rồi sau cái chết của cha tôi, tôi thấy bộ mặt của ông, đối mắt
mở lớn với chết chóc và nhớ tưởng. Đôi khi, những người hoàn toàn xa
lạ cho đêm mượn bộ mặt đầm đìa nước mắt và nụ cười đã quên của họ. Tôi
chẳng biết chút gì về họ, chỉ biết là họ đã chết.
“Cậu đừng dằn vặt mình trong bóng tối,” Gad
nói. “Đây là chiến tranh.”
Tôi nghĩ tới kẻ mà tôi sẽ giết lúc rạng sáng và người ăn
mày. Bỗng nhiên tôi có một ý nghĩ phi lý: nếu người ăn mày ấy là kẻ
tôi sắp giết thì sao?
Bên ngoài, hoàng hôn chợt nhạt nhòa như thường lệ tại Trung
Đông. Đứa bé vẫn khóc, dường như với tôi còn ai oán hơn trước. Thành
phố như chiếc thuyền ma bị đêm im lìm nuốt chửng.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, từ chốn sâu thẳm của đêm hiện thành
hình dáng một bộ mặt lờ mờ. Cổ họng tôi đau thốc buốt
nhói. Tôi không thể rời ánh mắt khỏi bộ mặt đó. Nó là bộ
mặt của chính tôi.
Một giờ trước đây, Gad báo cho tôi biết quyết định của Ông
Già. Cuộc hành quyết sắp xảy ra, lúc rạng sáng, như hết thảy các cuộc
hành quyết trên đời này đều xảy ra lúc rạng sáng. Thông điệp đó
không làm ai ngạc nhiên; giống như tất cả những người khác, tôi cũng đang đợi
nó. Mọi người ở Palestine đều biết Phong trào lúc nào cũng
giữ lời. Và người Anh cũng biết như vậy.
Tháng trước, một trong các chiến sĩ của chúng tôi bị thương
trong một cuộc hành quân khủng bố. Cảnh sát phăng ra anh và khám thấy
trên người anh có vũ khí. Toà án quân sự tuyên xử hình phạt đúng
theo quân luật: treo cổ. Đó là bản án tử hình thứ mười mà nhà cầm
quyền ủy nhiệm tại Palestine đã áp đặt trên chúng tôi. Ông
Già quyết định rằng mọi sự đã đi đủ độ xa của chúng; ông sẽ không để cho người
Anh biến Đất Thánh thành đài xử giảo. Và như thế, ông tuyên bố một
đường lối hành động mới: trả đũa.
Bằng các phương tiện như bích chương và các chương trình phát
thanh bí mật, ông đưa ra lời cảnh cáo nghiêm trọng: Không được treo cổ David
ben Moshe; cái chết của anh ta sẽ khiến các người trả giá đắt. Kể từ
lúc này, hễ một chiến sĩ Do thái bị treo cổ thì có một bà mẹ Anh khóc than cho
cái chết của con trai mình. Để tăng thêm sức nặng cho lời mình nói,
Ông Già hạ lệnh cho chúng tôi bắt một con tin, tốt nhất là một viên chức quân sự. Hẳn
định mệnh đã muốn nạn nhân của chúng tôi là đại úy John Dawson. Đêm
nọ hắn đi bộ một mình, và việc đó biến hắn thành con mồi ngon của người chúng
tôi đang canh các sĩ quan Anh đi bộ một mình trong đêm.
Việc bắt cóc John Dawson nhận chìm xứ sở này vào trạng thái hồi
hộp căng thẳng. Quân đội Anh ban hành thiết quân luật hăm bốn trên
hăm bốn giờ, lùng sục từng nhà và bắt hàng trăm người bị tình
nghi. Xe bọc sắt đóng chốt các ngã tư, súng đại liên chỉa thẳng các
nóc nhà và rào chặn bằng kẽm gai được dựng lên ở các góc đường. Toàn
bộ Palestine là một trại tù vĩ đại; bên trong trại tù đó có một nhà
giam khác, nhỏ hơn, nơi con tin bị dấu một cách chắc chắn.
Sau cùng, bản tuyên cáo hãi hùng của Cao ủy Palestine loan
báo rằng toàn thể dân chúng liên đới trách nhiệm nếu viên đại úy hoàng gia John
Dawson bị quân khủng bố giết. Sợ hãi ngự trị và tiếng tàn sát Do
thái ghê rợn ở đầu môi mọi người.
“Bạn có nghĩ là họ có thiệt sự làm chuyện đó không?”
“Tại sao không?”
“Người Anh? Người Anh mà có thể tổ chức một cuộc
tàn sát Do thái ư?”
“Tại sao không?”
“Họ sẽ không dám.”
“Tại sao không?”
“Công luận thế giới sẽ không khoan nhượng việc đó.”
“Tại sao không? Hãy nhớ lại Hitler; công luận thế
giới đã khoan nhượng hắn trong một thời gian khá lâu.”
Tình hình thật ảm đạm. Các thủ lãnh của Phong trào
Phục quốc Do thái khuyên hãy khôn ngoan; họ liên hệ với Ông Già, năn nỉ ông vì
lợi ích đất nước, đừng đi quá xa: đã có nói đến trả thù, đến tàn sát, và điều
đó có nghĩa sẽ có những người nam và những người nữ vô tội bị trả giá.
Ông Già trả lời: Nếu David ben Moshe bị treo cổ
thì John Dawson phải chết. Nếu Phong trào nhượng bộ, người Anh sẽ
lên chân. Họ sẽ coi đó như một dấu hiệu nhu nhược và bất lực bên
phía chúng ta, như thể chúng ta có ý nói với họ rằng: Hãy tiến tới
và hãy treo cổ hết thảy những thanh niên Do thái đang kiên cường chống lại các
người. Không, Phong trào không nhượng bộ. Bạo động là
ngôn ngữ độc nhất mà người Anh có thể hiểu. Mạng đền mạng. Chết
đổi chết.
Chẳng mất chốc khắp thế giới báo động. Các tờ báo
lớn ở Luân đôn, Paris, Nữu ước đăng câu chuyện này lên trang đầu, với
David ben Moshe chia sẻ vinh dự, và cả chục đặc phái viên bay tới
Lidda. Thêm lần nữa, Giêrusalem là tâm điểm của hoàn vũ.
Tại Luân đôn, mẹ của John Dawson đến thăm Bộ Thuộc địa, yêu cầu
ân xá cho David ben Moshe, kẻ mà sự sống kết chặt vào sự sống của con trai
bà. Với nụ cười ảm đạm, Bộ trưởng Thuộc địa bảo bà: Đừng sợ. Người
Do thái sẽ không bao giờ làm điều đó. Bà biết họ như thế nào; họ la
hét và làm om sòm rối rít, nhưng họ đang run rẩy vì ý nghĩa những lời nói của
chính họ. Đừng lo; con trai của bà sẽ không chết.
Cao ủy ít lạc quan hơn. Ông gởi điện tín cho Bộ
Thuộc địa khuyến cáo nên khoan hồng. Khuyến cáo đó được thảo luận
trong phiên họp Nội các. Hai thành viên của Nội các chấp thuận, những
thành viên khác nói không. Họ viện dẫn không chỉ các lý do chính trị
mà còn uy tín của hoàng gia. Ân xá sẽ được diễn giải như một dấu hiệu
nhu nhược; nó còn có thể mớm ý cho những người trẻ tuổi tự cho là có lý tưởng tại
những vùng khác của Đế quốc. Dân chúng sẽ nói: Tại Palestine, một
nhóm những tên khủng bố đã bảo Vương quốc Anh nơi nào phải từ bỏ. Và
vị bộ trưởng ấy nói thêm, nhân danh bản thân ông: “Chúng ta sẽ làm trò cười cho
thế giới. Và hãy nghĩ đến tiếng dội của việc ân xá đó tại Hạ nghị viện. Phía
đối lập đang chờ đúng cơ hội này để quét sạch chúng ta.”
“Như thế, câu trả lời là không?” ông Cao ủy hỏi.
“Đúng.”
“Và thế nào về John Dawson, thưa ngài?”
“Họ sẽ không xúc tiến việc đó.”
“Thưa ngài, tôi xin phép không đồng ý.”
“Ngài có quyền có ý kiến.”
Vài giờ sau, đài phát thanh chính thức Giêrusalem loan báo rằng
cuộc treo cổ David ben Moshe sẽ diễn ra tại nhà giam ở Acre vào sáng
mai. Gia đình của người bị kết án được phép vào thăm vĩnh biệt anh
và toàn thể dân chúng được chỉ thị phải bình tĩnh.
Sau đó tới tin tức trong ngày. Tại Liên hiệp quốc,
sắp nổ ra cuộc tranh luận về Palestine. Tại Địa trung hải, hai
chiếc tàu chở di dân bất hợp pháp bị bắt giữ và những người đi trên tàu bị đưa
tới giam tại đảo Síp. Tai nạn xe hơi tại Natanya: một người chết,
hai bị thương... Chúng tôi xin lặp lại bản thông báo đầu tiên: David
ben Moshe, bị kết án tử hình vì các hoạt động khủng bố, sẽ bị treo cổ...
Người loan tin không đề cập tới John Dawson. Nhưng
các thính giả đau đáu của đài đã biết rồi. John Dawson, cũng như
David ben Moshe, sẽ chết. Phong trào sẽ giữ lời.
“Ai sẽ giết hắn?” tôi hỏi Gad.
“Cậu chứ ai,” Gad trả lời.
“Tôi ư?” tôi nói, không tin vào tai mình.
“Cậu chứ ai,” Gad lặp lại. “Đó là lệnh của Ông
Già.”
Tôi cảm thấy như có một nắm đấm dộng vô mặt
mình. Mặt đất hoác ra dưới chân tôi, tôi dường như đang rơi xuống một
cái hố không đáy, nơi cuộc sinh tồn là ác mộng.
“Đây là chiến tranh,” Gad nói.
Tiếng nói của anh như phát đi từ cõi xa xăm nào đó, nhưng tôi
nghe rõ mồn một.
“Đây là chiến tranh. Cậu đừng dằn vặt mình.”
“Ngày mai tôi sẽ giết một người,” tôi nhủ thầm, lảo đảo trong
cơn rơi rụng của mình. “Tôi sẽ giết một người, ngày mai.”
Elisha là tên tôi. Lúc xảy ra câu chuyện này, tôi
mười tám tuổi. Gad tuyển mộ tôi vào Phong trào và đem tôi tới Palestine. Anh
biến tôi thành một kẻ khủng bố.
Tôi gặp Gad ở Paris, nơi tôi từ Buchenwald đi
thẳng tới ngay sau thế chiến. Khi người Mỹ giải
phóng Buchenwald, họ đề nghị gởi tôi về quê cũ nhưng tôi từ chối đề nghị ấy. Tôi
không muốn sống lại thời thơ ấu, nhìn ngôi nhà mình trong tay người nước ngoài.
Tôi biết rằng cha mẹ tôi đã qua đời và thành phố chôn nhau cắt
rún của tôi đang bị người Nga chiếm đóng. Vậy ích lợi gì mà trở về? “Không,
cám ơn,” tôi nói; “tôi không muốn về nhà.”
“Vậy cậu muốn đi đâu?”
Tôi nói tôi không biết; đi đâu không thật sự thành vấn đề.
Sau khi ở lại năm tuần lễ tại Buchenwald, tôi lên xe lửa
đi Paris. Nước Pháp cho tôi qui chế tạm dung. Tôi vừa tới Paris thì
một ủy ban giải cứu gởi tôi đến dự trại thanh niên tại Normandy trong
vòng một tháng.
Khi tôi từ Normandy về lại, cũng chính cơ quan ấy cấp cho tôi
một căn phòng có trang bị đồ đạc ở đường de Marois và trợ cấp một ngân khoản đủ
tiêu dùng và đủ đóng tiền các bài học tiếng Pháp mà tôi theo học hằng ngày, trừ
Thứ Bảy và Chúa Nhật, dạy bởi một người thanh nhã có bộ râu mép nay tôi đã quên
tên. Tôi muốn nắm vững ngôn ngữ đó, đủ để ghi tên theo học một
giảng khóa về triết tại đại học Sorbonne.
Việc học triết hấp dẫn tôi vì tôi muốn hiểu ý nghĩa của những
biến cố mà tôi là nạn nhân. Tại trại tập trung, tôi đã thét lớn
trong đau thương và uất hận chống lại Thượng đế và cũng chống lại con người, kẻ
hình như chỉ thừa hưởng sự tàn bạo của đấng tạo dựng ra nó. Tôi khắc
khoải ao ước xét lại sự nổi loạn của mình trong một bầu khí suy xét độc lập, để
nhìn nó theo con mắt hiện tại.
Tôi bị quá nhiều câu hỏi ám ảnh. Tìm Thượng đế ở
nơi nào? Nơi đau thương hay nơi nổi loạn? Khi nào con người đúng là
người nhất? Khi hắn vâng phục hay khi hắn từ chối? Đau khổ
dẫn hắn tới đâu? Tới sự thanh khiết hay thú tính? Tôi hi
vọng triết lý sẽ cho tôi câu trả lời. Nó sẽ giải thoát tôi khỏi các
ký ức, hoài nghi, mặc cảm phạm tội của mình. Nó sẽ cuốn sạch chúng,
hoặc ít ra, làm chúng lộ rõ trong hình thức cụ thể dưới ánh sáng ban
ngày. Mục đích của tôi là ghi danh vào đại học Sorbonne và tận hiến
đời mình cho nỗ lực ấy.
Nhưng tôi không chút nào thực hiện được ý định đó và Gad là
người đã khiến tôi bỏ rơi mục đích nguyên thủy ấy của mình. Nếu hôm
nay tôi chỉ là một dấu hỏi thì chính anh là kẻ chịu trách nhiệm.
Một buổi tối, có tiếng gõ cửa phòng tôi. Tôi bước
tới mở, tự hỏi không biết là ai đây. Tại Paris, tôi không có bạn hoặc
người quen nào, và hầu hết thời gian tôi ở trong phòng đọc sách hoặc ngồi lấy
tay che mắt mình nghĩ về quá khứ.
“Tôi muốn nói chuyện với cậu.”
Người đàn ông đứng ở ngưỡng cửa, trẻ, cao, mảnh khảnh. Với
chiếc áo măng tô đang mang, anh ta có bộ dạng một thám tử hoặc một nhà thám hiểm.
“Vào đi,” tôi nói sau khi anh đã bước vô rồi.
Anh không cởi áo măng tô. Im lặng, anh bước tới
bàn, cầm lên vài cuốn sách, lướt vội ít trang rồi đặt xuống. Xong
anh quay về phía tôi.
“Tôi biết cậu là ai,” anh nói. “Tôi biết hết về cậu.”
Mặt anh rám nắng, đầy ấn tượng. Tóc anh không thẳng
nếp, một mái rủ hẳn xuống trán. Miệng anh cứng cỏi, gần như tàn nhẫn,
tuy thế, trong đôi mắt anh nổi bật vẻ thân thiện, sự mãnh liệt và một trí tuệ nồng
ấm.
“Anh may mắn hơn tôi nhiều, vì tôi biết về mình quá ít.”
Trên môi anh hiện lên nụ cười, “Tôi không tới đây để nói về
quá khứ của cậu.”
“Tương lai,” tôi trả lời, “Tôi chỉ quan tâm tới nó vừa phải
thôi.”
Anh tiếp tục cười.
“Tương lai,” anh hỏi, “cậu có bị ràng buộc vào nó không?”
Tôi cảm thấy lấn cấn. Tôi không hiểu
anh. Ý nghĩa của câu hỏi anh làm tôi hụt hẩng. Trong anh
có cái gì đó làm tôi gai người. Có thể đó là lợi thế của sự am hiểu
đầy thượng phong của anh vì anh đã biết tôi là ai, còn tôi, tên anh là gì tôi
cũng chẳng biết. Anh nhìn tôi thân mật, kỳ vọng sâu xa, và trong
thoáng chốc tôi nghĩ rằng anh đã lầm tôi với người nào khác, tôi không phải
đúng là kẻ anh đến gặp.
“Anh là ai?” tôi hỏi. “Anh muốn gì nơi tôi?”
“Tôi là Gad,” anh nói, bằng một giọng đầy âm vang, như thể
anh thốt ra một câu nào đó trong Cabbala, cuốn sách huyền nghĩa chứa đựng câu
trả lời cho mọi câu hỏi. Anh nói, “Tôi là Gad” theo cùng một cách mà
Đức Giêhôva đã nói, “Ta là cái ta là.”
“Tốt lắm,” tôi nói, vừa tò mò vừa pha lẫn sợ
hãi. “Anh tên là Gad. Hân hạnh được biết
anh. Và anh đã giới thiệu anh, vậy tôi xin phép hỏi, mục đích kêu cửa
của anh là gì? Anh muốn gì nơi tôi?”
Đôi mắt sắc của anh có vẻ như đang chọc thủng
tôi. Sau một lúc nhìn chằm chặp xuyên suốt, anh nói theo kiểu hoàn
toàn như thật:
“Tôi muốn cậu cho tôi tương lai của cậu.”
Được nuôi dạy theo truyền thống Do thái, tôi từng nghe những
chuyện lạ lùng về Meshulah, vị sứ giả bí nhiệm của định mệnh mà không ai cưỡng
lại nổi. Giọng nói của vị ấy làm người ta run rẩy vì thông điệp được
mang tới có uy lực vượt lên trên kẻ mang tới lẫn người tiếp nhận. Dường
như mỗi lời vị ấy nói đều phát xuất từ tuyệt đối, từ vô hạn và có ý nghĩa vừa
đáng sợ vừa mê mẩn. Tôi tự nhủ, Gad là một
Meshulah. Không phải vẻ ngoài của anh cho tôi ấn tượng đó mà đúng
hơn chính điều anh nói và cách anh nói lên điều đó.
“Anh là ai?” tôi lại hỏi, trong kinh hoàng.
Có điều gì đó bảo tôi rằng ở cuối đường mà chúng tôi sắp cùng
nhau đi, tôi sẽ tìm thấy một người khác rất giống bản thân tôi, kẻ mà tôi sẽ
căm ghét.
“Tôi là một sứ giả,” anh nói.
Tôi tái người. Linh cảm của tôi chính
xác. Anh là sứ giả, người được định mệnh sai tới, kẻ tôi hoàn toàn
không thể từ khước. Tôi phải hiến cho anh mọi sự, kể cả hi vọng, nếu
anh đòi hỏi.
“Anh muốn tương lai của tôi?” tôi hỏi. “Anh sẽ làm
gì với nó?”
Anh lại cười, nhưng bằng thái độ lạnh lùng xa cách như một kẻ
đang sở hữu quyền lực trên loài người.
“Tôi sẽ biến nó thành tiếng thét,” anh nói, và có ánh sáng kỳ
dị trong đôi mắt sâu đậm của anh. “Một tiếng thét ban đầu là của tuyệt
vọng và rồi là của hy vọng.”
Tôi ngồi trên giường, nhường anh chiếc ghế duy nhất trong
phòng nhưng anh vẫn đứng. Trong truyền thuyết Do thái, sứ giả được
miêu tả là đang đứng, như thể cơ thể của vị ấy lúc nào cũng được dùng làm mối
liên kết giữa trời và đất. Đứng như thế, trong chiếc áo măng tô lòng
thòng như thể chưa bao giờ cởi ra và thuộc phần toàn bộ của thể xác anh, với
chiếc đầu lệch qua một bên vai phải và nhiệt tình ánh lên trong mắt, anh bắt đầu
nói với tôi về Phong trào.
Anh hút thuốc liên miên. Nhưng dù có dừng lại để
châm thuốc, anh vẫn tiếp tục liếc tôi chằm chặp và nói không ngừng. Anh
nói cho tới rạng sáng, còn tôi lắng nghe với đôi mắt và tâm hồn rộng mở. Tựa
thuở bé, tôi lắng nghe ông thầy tóc hoa râm vén lộ cho tôi vũ trụ huyền nhiệm của
Cabbala, nơi mỗi ý tưởng là một câu chuyện và mọi câu chuyện đều là những tia lửa
xẹt lên từ vĩnh cửu, kể cả trong những câu chuyện đôi khi chỉ liên quan tới cuộc
sống của ma quỉ.
Đêm đó, Gad kể tôi nghe về Palestine và giấc mơ lâu đời của
người Do thái nhằm tái tạo một quê nhà độc lập, nơi mọi hành động của con người
được tự do. Anh cũng kể tôi nghe về cuộc chiến đấu dữ dội của Phong
trào chống lại người Anh.
“Chính phủ Anh phái tới một trăm ngàn lính để duy trì cái-gọi-là
trật tự. Phong trào không hơn trăm người nhưng chúng ta làm họ khiếp
vía. Cậu hiểu tôi có ý nói gì chứ? Chúng ta làm người Anh
-- đúng, người Anh -- run lẩy bẩy!” những tia lửa trong đôi mắt sẩm màu của anh
chiếu sáng nỗi sợ hãi của một trăm ngàn người mặc quân phục.
Đây là lần đầu trong đời tôi nghe một câu chuyện trong đó người
Do thái không là kẻ sợ hãi. Cho tới giờ phút đó, tôi vẫn tin rằng sứ
mạng của người Do thái là tiêu biểu cho tình trạng sợ hãi của lịch sử hơn là ngọn
gió làm cho lịch sử sợ hãi.
“Lính nhảy dù, quân khuyển, xe bọc sắt, máy bay, súng liên
thanh, các đao phủ -- hết thảy mọi thứ đều run sợ. Đối với chúng, Đất
Thánh trở thành đất sợ hãi. Chúng không dám ra đường ban đêm hoặc
nhìn vào mặt một cô gái vì sợ cô ta có thể bắn lủng bụng, hoặc không dám xoa đầu
một đứa bé vì sợ có thể bị nó ném lựu đạn vô mặt. Chúng không dám hó
hé cũng chẳng dám nín thinh. Chúng sợ.”
Hết giờ này sang giờ khác, Gad nói với tôi về những đêm
xanh Palestine, về vẻ đẹp tĩnh mịch và trời quang mây tạnh của
chúng. Buổi tối, cậu đi dạo với một phụ nữ, cậu nói rằng nàng đẹp và
cậu yêu nàng, và hai mươi thể kỷ lắng nghe những lời cậu nói. Nhưng
đối với người Anh, đêm không còn đẹp. Đối với họ, đêm mở ra và khép
lại như một trái bom. Từng đêm, từng đêm, hai rồi ba rồi cả chục
lính bị bóng đêm nuốt chửng và không ai gặp lại họ nữa.
Kế đó Gad nói với tôi về vai trò anh kỳ vọng tôi
đóng. Tôi sẽ bỏ hết mọi sự, đi với anh tham dự cuộc chiến đấu. Phong
trào cần các thành viên mới và cần gia tăng sức mạnh. Nó cần các
thanh niên tự nguyện dâng hiến tương lai mình cho nó. Tương lai của
những người tuổi trẻ đó cộng lại sẽ thành nền tự do của Israel, thành
tương lai của Palestine.
Đó là lần đầu tiên tôi nghe đôi chút về điều
này. Cha mẹ tôi không theo Phong trào Phục quốc Do
thái. Đối với tôi Phục quốc là lý tưởng thiêng liêng, một hy vọng Cứu
thế, một lời kinh nguyện, nhịp đập của con tim, nhưng không phải là một địa
danh trên bản đồ hoặc một khẩu hiệu chính trị, một nguyên cớ khiến cho con người
giết và chết.
Các câu chuyện của Gad vô cùng quyến rũ. Tôi thấy
trong anh một hoàng tử của lịch sử Do thái, một sứ giả truyền kỳ được định mệnh
phái tới để đánh thức óc tưởng tượng của tôi, để nói với dân chúng, những người
mà quá khứ lúc nào cũng là niềm tin tôn giáo của mình: Hãy đến, hãy
đến; tương lai đang dang tay chờ ngươi. Từ nay về sau ngươi sẽ không
còn bị sỉ nhục, bị ngược đãi hoặc ngay cả được thương hại. Ngươi sẽ
không là những người lạ tạm trú trong một thời đại và tại một nơi không thuộc về
ngươi. Hãy đến, hỡi các anh chị em, hãy đến!
Gad ngừng nói và bước tới cửa sổ lúc trời đang dần
sáng. Bóng tối tan loảng từ từ và ánh sáng xanh xao, nhàn nhạt, có
màu ao tù nước đọng uà vào xâm chiếm căn phòng nhỏ của tôi.
“Tôi chấp nhận lời đề nghị của anh,” tôi nói.
Tôi nói câu đó rất nhẹ tới độ Gad hình như không
nghe. Anh vẫn đứng bên cửa sổ và sau một lúc lặng im, anh xoay người
và nói:
“Đã rạng sáng. Trên đất của chúng ta, nó rất
khác. Nơi đây bình minh màu xám, tại Palestine, bình minh đỏ
như lửa.”
“Tôi chấp nhận, Gad,” tôi lặp lại.
“Tôi nghe cậu rồi,” anh nói, với nụ cười của sớm
mai Paris. “Cậu sẽ rời khỏi đây nội trong ba tuần lễ.”
Gió thu nhè nhẹ thổi qua cửa sổ làm tôi rùng
mình. Ba tuần, tôi ngẫm nghĩ, trước khi lao mình vào chốn chưa biết. Có
thể cơn rùng mình của tôi không hoàn toàn do bởi luồng gió nhẹ mà bởi sự ngẫm
nghĩ ấy. Tôi tin rằng, dù vô thức, tôi biết cuối con đường cùng đi với
Gad, sẽ có một người đang chờ, một người sẽ được triệu tới để giết một người
khác, đó là bản thân tôi.
Đài phát thanh Giêrusalem... Tin nhanh giờ
chót. Cuộc hành quyết David ben Moshe sẽ diễn ra vào rạng sáng ngày
mai. Cao ủy đưa lời kêu gọi bình tĩnh. Thiết quân luật
lúc chín giờ. Không ai được phép ra đường. Tôi lặp lại,
không ai được phép ra đường. Quân đội được lệnh bắn tại chỗ...
Giọng của người xướng ngôn không phản ánh trung thực cảm xúc
của anh ta. Khi nhắc tới tên David ben Moshe hẳn trong mắt anh ta có
những giọt lệ.
Khắp thế giới, người chiến sĩ Do thái trẻ tuổi ấy là anh hùng
trong ngày. Các phong trào kháng chiến của châu Âu thời thế chiến tổ
chức những cuộc diễu hành trước các sứ quán Anh; các thầy cả trưởng của những
đô thành trên thế giới gởi bản kiến nghị tập thể tới Nữ hoàng
Anh. Điện tín của họ -- với khoảng ba mươi chữ ký bên dưới -- chạy
hàng chữ: “Không được treo cổ một thanh niên mà tội duy nhất của anh ta là
trung thành với lý tưởng của mình.” Toà Bạch Ốc tiếp một phái đoàn
Do thái và Tổng thống Mỹ hứa can thiệp. Hôm nay, con tim của loài
người làm một với David ben Moshe.
Đã tám giờ và trời tối mịt. Gad bật
đèn. Bên ngoài đứa bé vẫn khóc. “Lũ chó bẩn thỉu,” Gad
nói; “chúng sắp treo cổ anh ấy.”
Bộ mặt và bàn tay anh ửng đỏ, đẫm mồ hôi. Anh đi
đi lại lại trong phòng, mồi hết điếu thuốc này tới điếu nọ, chỉ để vứt đi.
“Chúng sắp treo cổ anh ấy,” anh lặp lại. “Lũ khốn
kiếp!”
Chương trình tin tức tới hồi chấm dứt. Tiếp theo
là một chương trình hợp xướng. Tôi khởi sự vặn tắt máy phát thanh
thì Gad cản lại.
“Tám giờ mươi lăm rồi,” anh nói. “Cậu thử coi có bắt
được đài của mình không.”
Tôi quá căng thẳng không xoay được núm rà đài.
“Để tôi rà cho,” Gad nói.
Chương trình phát thanh mới bắt đầu. Người xướng
ngôn là một cô gái với giọng rền vang, lanh lãnh, quen thuộc với chúng
tôi. Mỗi tối đúng giờ này, đàn ông, đàn bà và trẻ con tạm ngừng công
việc hoặc trò chơi để lắng nghe giọng nói kỳ bí và ngân vang đó, giọng nói bắt
đầu với tám tiếng: Các bạn đang nghe Tiếng nói Tự do...
Người Do thái ở Palestine yêu mến cô gái hay người
phụ nữ trẻ này mà không biết chị là ai. Người Anh sẵn sàng trả bất cứ
giá nào để túm cho được chị. Dưới mắt họ, chị nguy hiểm không kém
Ông Già: chị cũng là thành phần của Truyền kỳ. Chỉ rất ít người,
không quá năm người, biết nhân dạng của chị, Gad và tôi ở trong số mấy người
đó. Tên chị là Ilana; chị và Gad yêu nhau, còn tôi là bạn của cả
hai. Tình yêu của họ là một thành phần cốt tủy của cuộc sống
tôi. Tôi cần biết rằng trên đời có cái như thế là tình yêu và nó
mang những nụ cười và nỗi hân hoan trong những dấu vết nó để lại đằng sau.
Các bạn đang nghe Tiếng nói Tự do, Ilana lặp lại.
Bộ mặt sẩm màu của Gad rung rung. Anh gần như gập
người trên chiếc máy phát thanh, như thể muốn tay và mắt mình chạm vào giọng
nói cảm xúc sâu lắng và rõ ràng của Ilana, mà đêm nay, là giọng nói của anh của
tôi và của toàn xứ sở.
“Hai người đang sửa soạn gặp thần chết vào rạng sáng ngày
mai,” Ilana nói, như thể chị đang đọc một đoạn Kinh thánh. “Một
trong hai người xứng đáng với lòng ngưỡng mộ của chúng ta, còn người kia thì xứng
đáng với lòng xót thương của chúng ta. Cả hai đều cường tráng và
thông minh, đang trên ngưỡng cửa của cuộc sống và của hạnh phúc. Họ
có thể là bạn của nhau nhưng bây giờ việc đó không bao giờ có thể xảy
ra. Rạng sáng ngày mai, đúng vào giờ này, đúng vào phút này, cả hai
đều chết -- nhưng không chết bên nhau vì giữa họ có một vực sâu. Cái
chết của David ben Moshe thì đầy ý nghĩa; cái chết của John Dawson thì
không. David là một anh hùng, John là một nạn nhân...”
Suốt hai mươi phút, Ilana tiếp tục nói. Phần cuối
chương trình phát thanh của chị được đặc biệt dành riêng cho John Dawson vì hắn
cần được vỗ về và an ủi sâu xa hơn.
Tôi không biết cả David lẫn John nhưng tôi cảm thấy mình bị
ràng buộc vào họ và số phận của họ. Trong tâm trí tôi loé lên ánh chớp
rằng, bằng việc nói về cái chết sắp tới của John Dawson, Ilana cũng đang nói với
tôi vì tôi là kẻ sắp giết hắn. Ai sắp giết David ben
Moshe? Trong một thoáng, tôi có cảm tưởng rằng tôi sắp giết cả hai
và giết hết thảy những người mang tên John, tên David trên cõi đời
này. Tôi là kẻ hành quyết. Và tôi mười tám tuổi. Mười
tám năm tìm kiếm và đau khổ, học hành và nổi loạn, rồi hết thảy những việc đó cộng
thêm vào việc này. Tôi muốn thấu hiểu cái cốt tủy thuần khiết của bản
tính con người. Tôi đi tìm chân lý, và thế rồi, tôi sắp trở thành kẻ
giết người, kẻ tham dự vào thế giới của thần chết và của Thượng đế. Tôi
đi tới chiếc gương treo trên vách, nhìn vô bộ mặt mình. Tôi gần như
thét lên vì chỗ nào tôi cũng thấy những con mắt của chính mình.
Khi còn bé, tôi sợ thần chết. Tôi không sợ chết
nhưng hễ nghĩ tới thần chết là tôi rùng mình. “Thần chết,” Kalman, vị
thầy cả già tóc hoa râm, nói với tôi, “là một hữu thể không tay không miệng
không đầu, chỉ toàn mắt với mắt. Nếu bao giờ con gặp một sinh vật chỗ
nào cũng chỉ mắt với mắt thì con có thể chắc chắn rằng đó là thần chết.”
Gad vẫn gập người trên máy phát thanh.
“Nhìn tôi đây này,” tôi nói, nhưng anh không nghe.
“John Dawson ạ, anh có một người mẹ,” Ilana đang
nói. “Giờ này hẳn bà đang khóc hoặc gặm nhấm tim mình trong nỗi tuyệt
vọng lặng câm. Đêm nay bà sẽ chẳng vào giường ngủ. Bà sẽ
ngồi trong ghế bên song cửa, nhìn lòng bàn tay, chờ rạng sáng. Tim
bà sẽ hụt hẩng một nhịp khi tim anh vĩnh viễn thôi đập. Họ đang giết con tôi,
bà nói. Lũ giết người kia! Nhưng chúng tôi không là những kẻ giết
người, thưa bà Dawson...”
“Nhìn tôi đây này, Gad,” tôi lặp lại.
Anh ngước mắt, liếc tôi một cái, nhún vai rồi lại quay về với
tiếng nói của Ilana.
Tôi tự nhủ, Gad không biết rằng tôi đang là thần chết. Nhưng
mẹ của John Dawson, đang ngồi bên song cửa trong ngôi nhà ở Luân đôn, chắc chắn
là biết. Bà đang đăm đăm nhìn vào bóng đêm, và đêm nay có một ngàn
con mắt, một ngàn con mắt đó là mắt của tôi.
“Không, thưa bà Dawson, chúng tôi không phải là những kẻ
giết người. Các bộ trưởng của bà mới là những kẻ giết người, họ chịu
trách nhiệm về cái chết của con trai bà. Chúng tôi muốn được nhận
con trai bà như một người anh em, để hiến cho anh ấy bánh mì và sữa và phô bày
cho anh ấy những vẻ đẹp của quê hương chúng tôi. Nhưng chính phủ của
bà biến anh ấy thành kẻ thù của chúng tôi, và như thế, đã ký vào lệnh tử thần của
anh ấy. Không, chúng tôi không phải là lũ giết người.”
Tôi vùi đầu vào hai bàn tay. Đứa bé bên ngoài đã
thôi khóc.
Chắc chắn trước đây tôi có giết người nhưng trong những
hoàn cảnh khác hẳn. Hành động giết người ấy có những chiều kích
khác, những nhân chứng khác. Kể từ lúc đến Palestine mấy
tháng trước, tôi đã tham dự vào những chiến dịch quấy rối trị an dưới nhiều
hình thức, vào những cuộc hành quân phá hoại, vào những cuộc tấn công các đoàn
quân xa đang băng ngang những cánh đồng xanh vùng Galilee hoặc sa mạc
trắng xóa. Đôi bên đều có thương vong nhưng lợi thế nghiêng về phía
chúng tôi vì bóng đêm là đồng minh của chúng tôi. Trong bóng đêm che
chở, chúng tôi đột kích kẻ thù; chúng tôi đốt trại quân, giết cả chục lính rồi
biến mất chẳng để lại dấu vết nào đằng sau mình. Mục tiêu của Phong
trào là giết càng nhiều lính càng tốt. Rất giản dị.
Ngay ngày đầu mới đến, ngay từ những bước chân đầu tiên của
chúng tôi trên đất Palestine, ý tưởng đó đã khắc sâu trong óc
tôi. Khi tôi từ con tàu đặt chân lên cảng Haifa, hai đồng chí
đón tôi bằng xe hơi và chở tôi đến một ngôi nhà hai tầng nằm đâu đó giữa
Ramal-Gan và Tel Aviv. Ngôi nhà này bề ngoài là nơi cư trú của một
giáo sư ngôn ngữ, để hợp thức hóa số thanh niên ra vào đông đảo. Các
thanh niên đó, cũng như tôi, thật ra là những kẻ đang theo học một trường dạy kỹ
thuật khủng bố. Có buồng nhỏ được dùng làm căn hầm, nơi chúng tôi
giam các tù nhân, các con tin và dấu đồng chí nào của chúng tôi đang bị cảnh
sát tầm nã. Chính tại đây, John Dawson đang chờ cuộc hành quyết. Chỗ
ẩn dấu tuyệt đối an toàn. Nhiều lần lính Anh lùng sục ngôi nhà này từ
nóc tới đáy; quân khuyển của họ đã tới cách John Dawson một gang tay nhưng giữa
chó và người có một bức vách.
Gad chỉ huy việc huấn luyện khủng bố. Các giảng
viên khác, mang mặt nạ, dạy chúng tôi cách sử dụng súng lục, súng máy, ném lựu
đạn. Chúng tôi cũng học dùng dao găm, siết cổ người ta từ đằng sau
mà không gây tiếng động hoặc thực tập vượt thoát bất cứ nhà giam
nào. Khóa học kéo dài sáu tuần lễ. Mỗi ngày hai giờ Gad
làm chúng tôi thấm nhuần lý thuyết của Phong trào. Mục tiêu thật giản
dị, là loại người Anh khỏi vòng chiến; phương pháp là hăm dọa, khủng bố và đột
kích quyết tử.
“Tới ngày người Anh hiểu ra rằng sự chiếm đóng của họ trả bằng
giá máu của chính họ, họ sẽ không còn muốn ở lại,” Gad nói với chúng
tôi. “Nó tàn bạo, bất nhân, nếu bạn muốn gọi nó như thế. Nhưng
chúng ta không có chọn lựa nào khác. Qua nhiều thế hệ, chúng ta muốn
sống tốt lành hơn, thuần khiết tâm hồn hơn những kẻ ngược đãi chúng
ta. Hết thảy chúng ta đã thấy hậu quả: Hitler và các trại diệt chủng
ở Đức. Chúng ta đã cố gắng để sống công chính hơn những kẻ tự cho
mình có quyền phát biểu nhân danh công lý; và cố gắng ngang mức đó đủ rồi. Khi
lũ Quốc xã giết một phần ba dân tộc Do thái thì mọi người làm thinh; hai mươi
thế kỷ lịch sử đã chứng minh điều đó. Chúng ta chỉ còn có thể trông
cậy vào chính mình. Nếu phải trở nên bất công và bất nhân hơn những
kẻ đã và đang đối xử bất công và bất nhân với chúng ta, thì chúng ta sẽ trở nên
như vậy. Chúng ta không muốn là những người mang lại chết chóc; cho
tới giờ phút này, chúng ta thà làm nạn nhân hơn là làm kẻ hành quyết. Giới
răn Ngươi không được giết người đã được truyền từ đỉnh một trong các ngọn núi ở
đây, và chúng ta là những người duy nhất tuân giữ giới răn đó. Nhưng
việc đó đã thành quá khứ, chúng ta nay phải giống mọi người khác. Giết
người nay không phải là nghề nghiệp của chúng ta mà là nghĩa vụ của chúng
ta. Trong những ngày, những tuần, những tháng sắp tới, bạn
chỉ có một mục đích: giết kẻ đã và đang biến chúng ta thành kẻ sát
nhân. Chúng ta giết để thêm lần nữa chúng ta được làm người...”
Vào ngày kết thúc khóa học, một người lạ đến đọc huấn từ cho
chúng tôi. Ông nói tới điều mà các thủ lãnh của chúng tôi gọi là giới
răn thứ mười một: Hãy thù hận kẻ thù của ngươi. Ông có giọng nói
chan chứa tình cảm, dịu dàng và rụt rè. Tôi nghĩ ông là Ông
Già. Tôi không chắc lắm, có điều những lời ông làm bùng lên ngọn lửa
thiện cảm và khiến chúng tôi run rẩy vì xúc động. Ông ra về đã lâu
nhưng tôi cảm thấy chúng vẫn ngân vang trong lòng mình. Vì ông, tôi
trở nên một phần tử của thế giới Cứu thế, nơi định mệnh mang bộ mặt của người
ăn mày đeo mặt nạ, nơi không một cử chỉ nào phí phạm hoặc không một liếc mắt
nào thừa thải.
Tôi nhớ lại ông thầy tóc hoa râm đã giải thích cho tôi như thế
nào về giới răn thứ sáu. Tại sao con người không có quyền giết người. Vì
bằng hành động sát nhân, hắn đã dành cho mình chức năng của Thượng đế. Và
đóng vai đó thật ra là một việc không dễ chút nào. Được, tôi nói với
chính mình, nếu để làm biến đổi dòng lịch sử của chúng tôi mà chúng tôi phải trở
nên Thượng đế thì chúng tôi sẽ trở thành Ngài. Chúng tôi sẽ thấy rằng
việc đó hết sức dễ dàng. Không, không dễ.
Lần đầu tiên tham dự một cuộc hành quân khủng bố, tôi phải cố
gắng kinh người mới không nổi cơn đau dạ dày. Tôi thấy mình hoàn
toàn đáng ghét. Nhìn bản thân mình với con mắt quá khứ, tôi tưởng tượng
rằng mình đang mang bộ quân phục màu xám đậm của một tên viên chức
SS. Lần đầu tiên...
Chúng vọt như những con thỏ, những con thỏ say rượu, chạy
tìm hang hốc của mình trong cây cối. Hình như chúng chẳng có đầu, chẳng
có tay, chỉ toàn chân với chân. Và các chân ấy chạy như những con thỏ
say khướt vì rượu và khiếp hãi. Nhưng chúng tôi vây chặt chúng, làm
thành một vòng tròn hỏa lực bọc kín, không con thỏ nào thoát ra nổi. Chúng
tôi ở đó với súng tiểu liên, và đạn của chúng tôi làm thành một bức tường rực lửa,
trên bức tường đó, mạng sống của chúng văng tan tác thành những tiếng thét rùng
rợn mà tôi sẽ còn nghe cho tới ngày cuối cuộc đời mình.
Chúng tôi sáu người. Tôi không nhớ tên năm người
kia nhưng trong số đó không có Gad. Hôm ấy anh ở lại trường như để tỏ
ra rằng anh hoàn toàn tin tưởng chúng tôi, như thể anh có ý nói, “Hãy đạt mục
tiêu; các bạn có thể tiến hành mà không cần tôi.” Năm đồng chí của
tôi và tôi lên đường, để giết hoặc để bị giết.
“Chúc may mắn!” anh vừa nói vừa bắt tay từng người trước khi
chúng tôi ra đi. “Tôi sẽ đứng đây chờ các bạn trở về.”
Đó là lần đầu tiên tôi được lệnh tham gia hành quân, và tôi
biết rằng khi trở về -- nếu còn sống mà trở về -- tôi sẽ biến thành một con người
khác. Tôi đang trải qua cuộc thanh tẩy mình bằng lửa, cuộc thanh tẩy
mình bằng máu. Tôi biết sẽ cảm thấy mình rất đổi khác, nhưng tôi
không nghĩ ra được rằng nên chuẩn bị là mình sẽ ói mửa.
Nhiệm vụ của chúng tôi là phục kích một đoàn quân xa trên đường
từ Haifa đi Tel Aviv. Địa điểm chính xác là khúc đường vòng gần làng
Gedera; thời điểm là xế chiều. Ngụy trang làm những công nhân về nhà
sau khi lao động xong, chúng tôi đến địa điểm đã định ba mươi phút trước giờ
H. Nếu đến sớm hơn một chút thì sự có mặt của chúng tôi có thể gây
chú ý. Chúng tôi gài mìn ở phía mặt đường bên kia của khúc quẹo, và
tiến vào vị trí đã tính trước. Cách đó năm mươi thước, một chiếc xe
đang chờ sẵn để chở chúng tôi rút về Petach Tirka, ở đó chúng tôi sẽ tách nhau
ra và được ba chiếc xe khác chở về lại căn cứ của chúng tôi là trường học này.
Đoàn quân xa đến hiện trường đúng giờ: ba chiếc xe tải không
mui chở chừng hai chục lính. Gió thổi tóc chúng bay phất phơ và mặt
trời lấp lánh trên mặt chúng. Tại khúc quẹo, chiếc xe đầu tiên trúng
mìn nổ tung, hai chiếc kia đột ngột thắng lại, tiếng phanh xe rít
lên. Lính nhảy xuống đất và bị mắc kẹt trong hỏa lực chéo từ các họng
súng của chúng tôi bắn ra. Chúng chạy lung tung, đầu chúi nhủi,
nhưng chân chúng bị những tràng đạn của chúng tôi, như lưỡi hái sắc lẽm, phạt
ngang, và chúng rú lên, ngã xuống đất.
Từ đầu đến cuối cuộc tấn công kéo dài chưa tới một
phút. Chúng tôi rút lui trong trật tự và mọi sự diễn ra đúng kế hoạch. Chúng
tôi hoàn thành nhiệm vụ. Gad chờ chúng tôi nơi trường học, chúng tôi
báo cáo với anh. Nét mặt anh rực sáng hãnh diện.
“Công tác tốt,” anh nói. “Ông Già sẽ không tin.”
Đúng lúc đó cơn nôn mửa đánh gục tôi. Tôi thấy
chân với chân đang chạy như những con thỏ hãi hùng và tôi thấy tôi vô cùng khả ố. Tôi
nhớ lại những tên lính canh SS kinh tởm trong các ghetto, các biệt khu Do thái ở
Ba lan. Ngày tiếp ngày, đêm liền đêm, chúng đã giết người Do thái
cũng bằng cách thức tôi vừa làm. Súng tiểu liên lia ngang quét dọc,
và một tên sĩ quan cười hô hố hoặc đang ăn uống như điên, quát lên một lệnh: Bắn! Lúc
đó cái lưỡi hái làm việc. Vài người Do thái cố phá vòng lửa nhưng họ
chỉ chúi đầu vào bức tường rực cháy, không thoát ra nổi. Họ cũng đã
chạy như những con thỏ, những con thỏ say khướt vì rượu và khiếp hãi, và thần
chết phang ngang lưỡi hái, họ chết như rạ.
Đúng, đóng vai Thượng đế là việc không dễ, đặc biệt khi việc
đó có nghĩa là khoác bộ quân phục màu xám trận mạc của lính
SS. Nhưng như thế vẫn dễ hơn việc giết một con tin.
Trong lần hành quân đầu tiên và những lần kế tiếp, tôi không
một mình. Chắc chắn tôi có giết người nhưng tôi tham gia chung trong
một toán. Với John Dawson, tôi chỉ một mình tôi thôi. Tôi sẽ nhìn
vào mặt hắn, hắn sẽ nhìn vào mặt tôi và hắn sẽ thấy tôi chỉ toàn là mắt với mắt.
“Cậu đừng dằn vặt mình, Elisha,” Gad nói. Anh đã tắt
máy phát thanh và đang đăm đăm nhìn tôi. “Đây là chiến tranh.”
Tôi muốn hỏi anh không biết Thượng đế của chiến tranh có mặc
quân phục hay không. Nhưng tôi muốn giữ im lặng. Thượng đế
không mặc quân phục, tôi tự nhủ. Thượng đế là thành viên của Phong
trào Kháng chiến, là một kẻ khủng bố.
Trước giờ thiết quân luật vài phút, Ilana tới với hai cận vệ
của chị, Gideon và Joab. Chị bồn chồn, ảm đạm, đẹp hơn bao giờ. Vóc
dáng thanh tú của chị dường như được tạc từ một khối đá hoa cương nâu, và nét mặt
chị toát ra vẻ sầu muộn não lòng. Chị mặc chiếc váy màu xám, áo bờ-lu
trắng, đôi môi tái nhợt.
“Không sao quên được...cái chương trình phát thanh của em,”
Gad thì thầm.
“Ông Già viết bài đó,” Ilana nói.
“Nhưng giọng của em...”
“Cái đó cũng do Ông Già tạo ra,” Ilana nói, rủ người mệt lã
xuống ghế. Sau một lúc hoàn toàn yên lặng, chị thêm: “Hôm
nay em thấy Ông Già khóc. Em nghĩ rằng Ông Già thường khóc hơn là
chúng ta biết.”
Ông ấy thật may mắn, tôi tự nhủ. Ít nhất ông có thể
khóc. Khi một người đàn ông khóc thì hắn biết rằng sẽ có ngày nào đó
hắn không còn khóc.
Joab báo cho chúng tôi tin mới nhất của Tel Aviv, về bầu khí
khắc khoải và chờ đợi đầy cảnh giác. Dân chúng đang lo sợ sẽ có các
cuộc trả thù tập thể, hết thảy các báo đều kêu gọi Ông Già hoản lại cuộc hành
quyết John Dawson. Trên môi mọi người, tên của John Dawson được nhắc
đến nhiều hơn tên của David ben Moshe.
“Đó là lý do khiến Ông Già khóc,” Gad nói, đưa tay vuốt và hất
mái tóc ngang ngược ra đằng sau đầu. “Người Do thái chưa thoát ra được
tính phản xạ cam chịu ngược đãi của mình. Họ không có bụng dạ trả
đũa.”
“Tại Luân đôn, Nội các đang họp,” Joab tiếp tục. Tại New
York, các thành viên Phong trào Phục quốc Do thái đang tổ chức một cuộc biểu
tình khổng lồ ở Quảng trường Madison. Liên hiệp quốc quan tâm sâu xa.”
“Tôi hi vọng là David biết,” Ilana
nói. Bộ mặt xanh xao của chị ửng chút màu hồng.
“Chắc chắn người xử giảo có kể cho anh ấy biết,” Gad nói.
Tôi hiểu nỗi cay đắng trong giọng nói của
anh. David là bạn thiếu thời của anh và cả hai cùng gia nhập Phong
trào một lượt. Điều đó Gad chỉ kể cho tôi nghe sau khi David bị bắt,
vì trước đó, tiết lộ như thế không an toàn. Nguyên tắc căn bản của bất
cứ tổ chức bí mật nào là các thành viên biết nhau càng ít càng tốt.
Gad có mặt khi David ben Moshe bị thương. Thực tế, anh chỉ
huy cuộc hành quân đó. Cuộc hành quân đó đã được coi là một “chuyện
ngọt xớt”. Nhưng sự gan dạ ngu ngốc của tên lính gác đã làm hỏng
chuyện. Chính lỗi của hắn mà David có thể sắp bị treo cổ ngày
mai. Dù bị thương và trong cơn co giật với một viên đạn trong bụng,
hắn tiếp tục trườn dưới đất và bắn tới hết đạn. Một tên xuẩn ngốc
can đảm và cực kỳ ngoan cố lại có thể tạo ra tổn thất này!
Lúc ấy đêm. Một chiếc xe tải nhà binh dừng trước cổng
trại lính nhảy dù mũ đỏ gần Gedera ở miền Nam. Trong xe có một
thiếu tá và ba người lính.
“Chúng tôi tới lãnh vũ khí,” viên thiếu tá nói với tên lính
gác cổng. “Có dự kiến là tối nay sẽ xảy ra một cuộc tấn công khủng bố.”
“Lũ khủng bố khốn nạn!” tên lính gác làm ràm trong bộ ria của
hắn, đưa lại viên thiếu tá các giấy tờ chứng minh.
“Cám ơn,” viên thiếu tá nói. “Dãy nhà kho chỗ
nào?”
“Đi thẳng, rồi quẹo trái hai lần.”
Xe chạy vào cổng, đi theo chỉ dẫn và dừng lại trước một toà
nhà bằng đá.
“Đây rồi,” viên thiếu tá nói.
Họ xuống xe. Một trung sĩ chào viên thiếu tá, mở cửa. Viên
thiếu tá chào lại, trao anh ta sứ vụ lệnh có chữ ký của một đại tá ở mé dưới. Sứ
vụ lệnh ủy cho người cầm nó lãnh năm súng trung liên, hai chục súng tiểu liên,
hai chục súng lục và đạn dược cần thiết.
“Chúng tôi đang dàn chào một cuộc tấn công khủng bố,” viên
thiếu tá hạ mình giải thích.
“Lũ khủng bố khốn nạn!” viên trung sĩ nói.
“Chúng tôi không có nhiều thì giờ,” viên thiếu tá
thêm. “Trung sĩ làm lẹ cho.”
“Xong ngay, thưa Thiếu tá,” viên trung sĩ
nói. “Tôi biết mà.”
Anh ta chỉ vũ khí và đạn dược cho ba người lính. Họ
im lặng, lẹ làng đem chất chúng lên xe tải. Chỉ trong ít phút, mọi sự
xong xuôi.
“Tôi phải giữ lại sứ vụ lệnh, thưa Thiếu tá,” viên trung sĩ
nói khi xe tải bắt đầu nổ máy.
“Đương nhiên, Trung sĩ,” viên thiếu tá nói.
Tên lính gác sắp mở cổng thì trong vọng gác chuông điện thoại
reo. Vội vã xin lỗi, hắn bước vào nhấc máy. Viên thiếu tá
và người của mình hồi hộp chờ.
“Xin lỗi, thưa Thiếu tá,” tên lính gác bước ra khỏi vọng gác,
nói. “Ông trung sĩ muốn gặp Thiếu tá. Ông ấy nói sứ vụ lệnh
mà Thiếu tá đưa hồi nãy không thoả đáng.”Viên thiếu tá bước xuống xe tải.
“Tôi sẽ làm rõ với anh ta qua điện thoại,” ông nói.
Khi tên lính gác quay mình đi trở lại vọng gác, viên thiếu tá
cung tay đấm vô gáy hắn. Hắn gục xuống đất không một tiếng động. Gad
bước tới mở cổng, ra hiệu tài xế lái xe qua. Đúng lúc đó, tên lính
gác tỉnh lại và bắt đầu bắn. Dan thẩy một viên đạn vô bụng hắn trong
khi Gad nhảy lên xe tải, la lớn:“Vọt! Lẹ lên!”
Tên lính gác tuy bị thương vẫn tiếp tục bắn. Một
viên đạn của hắn trúng bánh xe. Gad vẫn bình tĩnh, quyết định phải
thay bánh.“David và Dan, che chúng tôi,” anh nói giọng trầm tĩnh tự
tin.
David và Ben chụp hai khẩu súng máy vừa lãnh, đứng canh.
Nhưng lúc này toàn trại báo động. Lệnh vang lên,
liền đó rền tiếng súng. Quí từng giây. Nhờ David và Dan bắn
che, Gad thay bánh xe. Nhưng lính dù kéo tới gần. Gad hiểu
bây giờ việc quan trọng nhất là chuồn đi với vũ khí.“David với Dan,” anh nói, “ở lại tại chỗ. Chúng
tôi đi. Liệu chận chúng thêm ba phút nữa trong khi chúng tôi chuồn. Sau
đó các cậu dông luôn. Cố tới Gedera, các bạn sẽ lo chỗ trốn cho các
cậu. Nơi liên lạc với họ các cậu biết rồi.”“Vâng, tôi biết,” David nói, tiếp tục bắn. “Chuồn
lẹ lên!”
Súng đạn được bảo toàn nhưng David và Dan phải trả
giá. Dan bị giết và David bị thương. Mọi sự chỉ là vì tên
lính gác gan dạ một cách ngu ngốc, với viên đạn ghim trong bụng!“David đã là một người bạn tuyệt diệu,” Ilana
nói. Chị nói tới David như thể anh đã thuộc về quá khứ.“Hy vọng người xử giảo biết điều ấy!” Gad đáp trả.
Tôi hiểu nỗi cay đắng của anh; thật ra tôi đang ganh tị. Anh
mất một người bạn và việc đó làm anh đau lòng. Nhưng khi ta mỗi ngày
đều mất một người bạn thì việc đó lại không đau lòng lắm. Trong thời
buổi của tôi, tôi mất rất nhiều bạn; đôi khi tôi nghĩ mình là một bãi tha ma
đang sống. Đó là lý do thật sự khiến tôi theo Gad tới Palestine và
trở thành một kẻ khủng bố: tôi chẳng còn người bạn nào nữa để mất.“Người ta nói kẻ xử giảo luôn luôn mang mặt nạ,” Joab nói,
anh đang đứng không nhúc nhích trước cửa nhà bếp. “Tôi thắc mắc
không biết có đúng như vậy không?”“Tôi nghĩ là đúng,” tôi nói. “Người treo cổ mang mặt
nạ. Anh không thể thấy gì ngoài đôi mắt của hắn.”Ilana bước tới phía Gad, vuốt ve mái tóc anh và nói giọng buồn
bã:
“Gad, anh đừng dằn vặt mình. Đây là chiến tranh.”
Chương 2
Suốt một giờ kế đó, chẳng ai nói với ai lời nào. Tất
cả đều đang nghĩ tới David ben Moshe. David không cô đơn trong tử ngục
của mình, các bạn của anh đang ở với anh. Tất cả, trừ
tôi. Tôi chỉ nghĩ đến David lúc nào họ nhắc tên anh. Khi
họ im lặng, tôi tiếp tục nghĩ tới một người khác, tới một người tôi không quen
biết, không hơn gì tôi biết về David, nhưng đó là người tôi bị định phận phải
biết. David ben Moshe của riêng tôi có cái tên và bộ mặt của một người
Anh, đại úy John Dawson. Chúng tôi ngồi quanh bàn và Ilana dọn ra cho chúng tôi những
tách trà bốc khói. Trong một lúc, chúng tôi nhắp trà, chẳng nói năng
gì. Chúng tôi nhìn vào thứ nước màu vàng trong tách của mình như thể
tìm trong đó bước kế tiếp sẽ làm sau khi chúng tôi im lặng, và ý nghĩa của các
biến cố dẫn đến sự việc này. Kế đó, nhằm giết thì giờ, chúng tôi nhắc
tới các hồi tưởng của mình, và mọi nghĩ tưởng ấy đều tập trung về cái chết.“Cái chết đã cứu mạng tôi,” Joab bắt đầu.Anh có bộ mặt trẻ trung, ngây thơ và khắc khổ; đôi mắt sẫm
màu, lờ đờ, tóc bạc phơ như tóc một ông lão. Anh mang vẻ ngái ngủ suốt
đời và ngáp hết ngày này qua ngày khác.“Một người hàng xóm vì lập trường chủ hoà của anh ta, đã tố
cáo tôi với cảnh sát,” anh tiếp tục. “Tôi trốn vào một nhà thương
điên mà người quản lý là bạn học cũ. Tôi ở đó hai tuần lễ, cho tới
khi cảnh sát phăng ra dấu vết của tôi. Có phải hắn đang ở đây? chúng
hỏi người quản lý. Đúng, anh bạn tôi thừa nhận. Hắn đang ở
đây; hắn bệnh rất nặng. Việc gì xảy ra cho hắn? chúng hỏi. Hắn
tưởng tượng hắn là kẻ chết rồi, người quản lý bảo chúng. Nhưng chúng
nhất quyết đòi gặp tôi. Tôi bị mang tới phòng quản lý, ở đó chờ sẵn
hai viên cảnh sát có phần hành trong chiến dịch chống khủng bố. Chúng
nói với tôi nhưng tôi không trả lời. Chúng hỏi tôi nhiều câu nhưng
tôi giả bộ không nghe. Tuy vậy, chúng không tin tôi
điên. Không thèm đếm xỉa đến sự phản đối của người quản lý, chúng
đem tôi đi, thẩm vấn tôi liên tục hai mươi bốn giờ. Tôi đóng vai người
chết, và đóng một cách có hiệu quả. Tôi không chịu ăn chịu uống; khi
chúng đập vô tay tôi hoặc tát vô mặt tôi, tôi không phản ứng. Người
chết không cảm thấy đau và vì thế không kêu không la. Sau bốn mươi
tám giờ, tôi được đem trả lại nhà thương điên.”Trong khi tôi lắng nghe Joab, các ý nghĩ khác nhau nổi bồng bềnh
trên bề mặt tâm trí tôi. Tôi nhớ mình có nghe vài đồng chí nhắc tới
Joab như một Gã khật khùng.“Thật tức cười, phải không?” anh nói. “Cái chết đã
thật sự cứu sống tôi.”Trong vài phút chúng tôi giữ im lặng, như thể để tỏ lòng kính
trọng cái chết vì đã cứu mạng anh và ban cái tên Gã khật khùng cho người bạn có
bộ mặt thơ ngây và khắc khổ.“Vài ngày sau đó, khi rời nhà thương điên, tôi thấy tóc mình
đã bạc trắng,” Joab kết luận.“Đó là một trong những trò vặt của thần chết,” tôi xen
vào. “Thần chết khoái thay đổi màu tóc của người ta. Thần
chết không có tóc; hắn chỉ toàn mắt với mắt. Ngược lại, Thượng đế
hoàn toàn không có mắt.”“Thượng đế cứu tôi thoát chết,” Gideon nói.Chúng tôi gọi Gideon là Ông Thánh. Trước hết vì
anh là một ông thánh, sau nữa vì anh trông giống một vị thánh. Anh
là một chàng trai vạm vỡ, kém ăn nói, tuổi chừng hai mươi, luôn ra công ra sức
để che dấu mình và lúc nào cũng lầm bầm đọc kinh. Anh chừa râu và
tóc xoăn một bên đầu, đi đâu cũng mang theo trong túi cuốn sách
kinh. Cha anh là một thầy cả, khi nghe con mình có ý thành một tên
khủng bố, ông chúc lành cho anh. Có những lúc, ông nói, ngôn từ và lời
cầu nguyện không đủ. Thượng đế của ân sủng cũng là Thượng đế của chiến
tranh. Và chiến tranh không phải là chuyện chỉ có nói qua nói lại.“Thượng đế cứu tôi thoát chết,” Gideon lặp lại. “Mắt
của Ngài đã cứu tôi. Tôi cũng bị bắt và bị tra tấn. Họ giựt
râu tôi, đốt diêm dưới các móng tay tôi và đánh vô mặt tôi, để làm cho tôi phải
tự thú rằng mình đã dự phần vào âm mưu lấy mạng Cao Ủy. Nhưng cho dù
đau đớn, tôi không hé răng. Hơn một lần tôi thèm được thét lên nhưng
tôi nín lại được vì tôi cảm thấy mắt của Thượng đế đang ở trên
tôi. Thượng đế đang nhìn tôi, tôi tự nhủ, mình chớ làm Ngài thất vọng. Lũ
tra tấn tôi không ngừng la hét, nhưng tôi tập trung ý nghĩ mình vào Thượng đế
và vào đôi mắt của Ngài. Sau cùng, vì thiếu bằng chứng, chúng phải
thả tôi ra. Nếu tôi nhận tội của mình thì chắc chắn tôi đã chết.”“Và kế đó,” tôi xen vào, “hẳn Thượng đế nhắm mắt của Ngài lại.”Ilana rót thêm trà vào tách của chúng tôi.“Còn Ilana, chị thì sao?” tôi hỏi. “Cái gì cứu mạng
chị?”“Nhức đầu sổ mũi,” chị trả lời.Tôi bật cười thành tiếng, nhưng chẳng có ai cười
theo. Tiếng cười của tôi khàn khàn và gượng gạo.“Nhức đầu sổ mũi à?” tôi lặp lại.“Đúng,” Ilana nói, hoàn toàn nghiêm chỉnh. “Người
Anh không có bản mô tả nhân dạng của tôi; họ chỉ biết giọng nói của
tôi. Ngày nọ, họ tóm được một nhóm toàn là phụ nữ, trong đó có
tôi. Tại đồn cảnh sát, một kỹ sư về âm thanh so sánh từng giọng nói
của chúng tôi với giọng nói của người xướng ngôn kỳ bí của chương trình Tiếng
nói Tự do. Vì thực tế, tôi đang bị cảm nặng nên nhanh chóng được loại
ra, và bốn phụ nữ khác bị giam để thẩm vấn thêm.”Thêm lần nữa, tôi thèm bật cười thành tiếng, nhưng mọi người
đang rầu rĩ im lặng. Cảm cúm, tôi nghĩ thầm. Trong trường
hợp này nó còn thật sự hữu ích hơn cả đức tin lẫn lòng can đảm. Kế
đó, hết thảy chúng tôi nhìn Gad, người gần như đang bóp dẹp tách trà trong các
ngón tay của mình.“Ba người Anh đã cứu mạng tôi,” anh nói. Với chiếc
đầu gần như ở trên vai phải và mắt nhìn chằm chặp vào tách trà, anh có vẻ như
nói với tách trà đang nguội rất nhanh. “Đó là lúc mới bắt đầu cuộc
chơi này,” anh tiếp tục. “Vì các lý do chỉ có ý nghĩa vào thời đó,
Ông Già hạ lệnh bắt ba con tin. Cả ba đều là trung sĩ và tôi được lệnh
giết một trong ba người, ai cũng được, tùy tôi chọn. Lúc ấy tôi còn
trẻ, khoảng tuổi của Elisha bây giờ, và trong lòng hết sức đau đớn vì bị bắt phải
lãnh vai trò mà mình chẳng muốn chút nào. Tôi tự nguyện đóng vai người
hành quyết chứ không phải là đóng vai quan toà xử ai chết ai
không. Rủi thay, suốt đêm đó, tôi mất liên lạc với Ông Già và không
thể cắt nghĩa sự miễn cưỡng của mình. Bản án phải được thi hành lúc
rạng sáng, và làm thế nào tôi chọn nạn nhân đây? Cuối cùng, tôi có một
ý tưởng. Tôi xuống hầm giam, bảo ba người trung sĩ ấy rằng tôi để
tùy các người chọn lựa. Nếu các người không chọn ra một người, tôi
nói, thì cả ba đều sẽ bị bắn. Họ quyết định rút thăm, và khi trời rạng
sáng, tôi nã một viên đạn vô gáy của người bạc phước ấy.”Vô tình tôi ngó hai bàn tay và bộ mặt của Gad, bàn tay và bộ
mặt quen thuộc của người bạn tôi, kẻ đã nã một viên đạn vào gáy của một đồng loại,
và lúc này, kể lại chuyện đó một cách lạnh lùng, dễ dàng. Có phải từ
tách nước trà màu vàng nguội lạnh, bộ mặt của người trung sĩ ấy đang nhìn lên
anh?“Giả dụ cả ba người trung sĩ không chịu tự họ quyết định?”
tôi hỏi. “Thì sao?”Gad siết mạnh chiếc tách hơn nữa, gần như thể ra sức bóp vỡ
nó.“Tôi cho rằng thay vào đó tôi sẽ tự giết mình,” anh nói giọng
đều đều. Và sau một lúc im lặng nặng nề, anh thêm. “Tôi nói với cậu
là lúc đó tôi còn trẻ và rất mềm lòng.”Mọi con mắt đều hướng về tôi, chờ câu chuyện của
tôi. Tôi nuốt chửng một ngụm nước trà đắng chát và lau mồ hôi đang
toát ra trên trán mình.“Tôi thoát chết nhờ tiếng cười,” tôi nói. “Lúc đó,
vào một mùa đông tại Buchenwald. Chúng tôi quần áo như giẻ
rách, ngày nào cũng có hàng trăm người chết rét. Buổi sáng chúng tôi
phải ra khỏi ba-rắc, đứng bên ngoài tuyết lâu tới hai giờ chờ cho đến khi làm vệ
sinh ba-rắc xong. Ngày nọ, tôi cảm thấy mình đau nặng tới độ tôi chắc
chắn mình sẽ chết vì phơi lạnh, vì vậy, tôi ở lại trốn trong ba-rắc. Dĩ
nhiên là tôi bị phát hiện, và toán vệ sinh lôi tôi tới trước mặt một trong các
tên phụ tá ba-rắc trưởng. Hắn vừa cật vấn tôi tới tấp vừa túm cổ họng
tôi, nói không chút xót thương: ỏTao bóp cổ mày chết.õ Hai bàn tay cứng
như thép của hắn chẹn họng tôi, và trong tình trạng suy nhược của mình, tôi
không chống cự được chút nào. Tốt lắm, tôi tự nhủ, mọi sự thế là
xong. Tôi cảm thấy máu dồn lại trong đầu và đầu tôi phình ra to gấp
mấy lần bình thường, tới độ tôi chắc mình giống một hình hoạt họa, một thằng hề
khốn khổ. Tôi chắc chắn chỉ phút nữa thôi, đầu tôi sẽ nổ tung thành
cả ngàn mảnh như trái bong bóng trẻ con chơi. Đúng lúc đó, tên phụ
tá ba-rắc trưởng nhìn thẳng vô mặt tôi, thấy cái đầu tôi quá dị hợm nên nó
buông tay ra, phá lên cười ngặt nghẻo. Nó cười lâu tới độ quên mất ý
định giết người. Nhờ vậy tôi lành lặn thoát thân. Thật tức
cười, không phải sao? Rằng tôi giữ được mạng mình nhờ một tên giết
người có máu hài hước?”Tôi có ý chờ những người đang nghe sẽ nhìn kỹ đầu tôi coi nó
đã thật sự trở lại kích thước bình thường chưa, nhưng họ chẳng chút nào để
ý Họ tiếp tục đăm đăm nhìn tách nước trà đang nguội lạnh như đá trước
mắt mình. Trong vài phút sau đó, không ai hé môi. Chúng
tôi không còn mong muốn gợi lại quá khứ hoặc lắng nghe người bạn của mình kể lại
chuyện đời rối rắm của mỗi người. Chúng tôi ngồi quanh bàn, im lặng
khắc khoải. Tôi chắc chắn rằng ai trong chúng tôi cũng đang tự hỏi
mình thoát chết được thật sự là nhờ vào cái gì? Gideon là người đầu
tiên lên tiếng.
“Chúng ta phải mang cái gì đó cho người Anh ấy ăn,” anh nói.
Đúng, tôi tự nhủ, Gideon cũng đang buồn bã. Anh đang nghĩ tới John
Dawson. Chắc chắn anh buồn, tránh sao được.
“Tôi không tưởng tượng ra được là hắn đói,” tôi nói lớn. “Anh không
thể trông mong một người bị buộc phải chết lại cảm thấy ăn ngon miệng.” Và
để nói với chính mình, tôi thêm. “Hoặc một người bị bắt buộc phải giết cũng thế.”
Hẳn giọng nói của tôi có âm điệu kỳ quái vì những người khác đều ngẩng đầu lên,
và tôi cảm thấy trong cái nhìn của họ có điều gì đó ái ngại.
“Không,” tôi nói một cách ngang bướng, “một người bị buộc phải chết thì không
thể nào đói.”
Họ không nhúc nhích mà ngồi ngay đơ như từng giây đồng hồ đang trôi qua là bất
tận. “Bữa ăn chót theo truyền thống của tử tội là một trò hề,” tôi
nói lớn tiếng, “một trò cười vị giác tồi bại nhất, một sự nhục mạ cái thi hài
mà hắn sắp trở thành. Hắn đâu thiết tới việc chết mà dạ dày đầy hay
rỗng?”
Trong mắt Gad lộ vẻ ngạc nhiên ray rứt, còn Ilana ngó tôi với lòng trắc ẩn và
Gideon thì với tình thân thiện. Joab chẳng chút nhìn
tôi. Mắt anh cụp xuống, nhưng có thể đó là cách anh thường nhìn.
“Hắn không biết,” Gideon nhận xét.
“Hắn không biết cái gì?” tôi hỏi mà không ý thức được tại sao mình cao giọng. Có
thể vì tôi muốn nghe mình nói lớn để khuấy động cơn giận của mình và thấy cơn
giận ấy phản chiếu trong những hình bóng bất động trong gương và trên
vách. Hoặc có thể xuất phát từ sự hoàn toàn yếu đuối của
mình. Tôi cảm thấy mình không có quyền sức để thay đổi bất cứ điều
gì, ít nhất là bản thân mình, mặc dầu thực tế tôi muốn đưa vào căn phòng một sự
chuyển biến để lập lại thứ tự của sự tạo thành này. Tôi muốn biến
Ông Thánh thành Gã khật khùng, muốn làm cho Gad mang tên John Dawson và muốn
David mang số phận của Gad. Nhưng tôi biết mình chẳng làm được
gì. Để có quyền sức như thế, tôi phải đưa tới cái chết, không phải
chỉ cái chết cá nhân của Dawson, viên đại úy người Anh, kẻ cũng như tôi không
còn biết ngon miệng.
“Hắn không biết cái gì?” tôi lanh lãnh lặp lại.
“Hắn không biết mình sắp chết,” Gideon nói bằng giọng ảo não mơ hồ.
“Dạ dày hắn biết,” tôi đáp trả. “Người sắp chết chỉ lắng nghe dạ dày
của mình. Hắn không chú ý tới trái tim của hắn hoặc dĩ vãng của hắn
và cũng chẳng quan tâm tới những thứ đó của anh. Hắn lắng nghe dạ
dày của hắn và dạ dày của hắn nói cho hắn biết rằng hắn sắp chết và rằng hắn
không đói.”
Tôi nói nhanh quá và lớn quá khiến nói xong tôi thở hổn hển. Tôi muốn
bỏ chạy nhưng mắt nhìn đăm đăm của các bạn ghim tôi tại chỗ. Thần chết
vây chặn mọi lối ra và khắp nơi chỉ toàn mắt với mắt.
“Tôi sắp xuống hầm giam đây,” Gideon nói. “Tôi sẽ hỏi hắn có muốn ăn
chút gì không?”
“Đừng hỏi hắn gì cả,” tôi nói. “Hãy chỉ giản dị nói với hắn rằng
ngày mai, lúc mặt trời lên quá đường chân trời đỏ như máu thì hắn, John Dawson,
sẽ nói lời vĩnh biệt cuộc đời, vĩnh biệt dạ dày của mình. Hãy nói với
hắn rằng hắn sắp chết.”
Gideon đứng lên, mắt không rời tôi, bắt đầu đi về phía nhà bếp và lối xuống hầm
giam. Tới cửa, anh dừng lại.
“Tôi sẽ nói cho hắn biết,” anh thốt lên với nụ cười bất chợt và héo
úa. Rồi anh trở gót và tôi nghe bước chân anh đi xuống cầu thang.
Tôi biết ơn sự ưng thuận của anh. Anh, chứ không phải tôi, báo cho
John Dawson về cái chết đang tới gần của hắn. Tôi không thể nào làm
được việc đó. Giết một người thì dễ hơn là báo cho người ấy biết tin
rằng hắn sắp chết.
“Nửa đêm,” Joab nói.
“Nửa đêm,” tôi ngẫm nghĩ, đây là giờ người chết đứng lên khỏi mồ, tới đọc kinh
trong hội đường, đây là giờ chính Bản thân Thượng đế khóc than sự sụp đổ của Đền
Thánh, đây là giờ con người có thể thăm dò những chốn sâu thẳm trong lòng mình và
nhận ra Đền Thánh trong các tàn tích. Thượng đế thì khóc và người chết
thì cầu nguyện.
“Cậu bé khốn khổ!” Ilana thì thầm.
Chị không nhìn tôi, nhưng lệ của chị long lanh soi quá gần vào khuôn
mặt tôi. Không phải đôi mắt của chị mà nước mắt của chị đang vỗ về
tôi.
“Đừng gọi như vậy, Ilana. Đừng gọi tôi là cậu bé khốn khổ.”
Mắt chị đầy ngấn nước mắt, đúng hơn, những giọt lệ tại nơi có đôi mắt của chị,
những ngấn nước mắt mà mỗi giây trôi qua, nó mọng nước hơn, nằng nặng hơn, chực
trào ra và nhỏ xuống... Tôi sợ rằng bỗng dưng sẽ xảy tới điều tệ hại nhất:
không còn ở đó một Ilana lung linh mờ ảo nữa; chị sẽ chết đuối trong nước mắt của
mình. Tôi muốn chạm vào cánh tay chị và nói đừng khóc. Muốn
gì thì nói nhưng đừng khóc.
Nhưng chị không khóc. Chỉ đôi mắt khóc, và chị không còn mắt, nơi của
đôi mắt chỉ là những giọt lệ.
“Cậu bé khốn khổ!” chị lặp lại.
Rồi bỗng dưng trở thành sự thật điều tôi đã đoán trước. Ilana biến mất,
và Catherine thay vào chỗ đó. Tôi tự hỏi làm sao mà Catherine lại đến
nơi này, nhưng việc chị hiện ra không làm tôi đặc biệt ngạc
nhiên. Chị thích người khác phái, và cách riêng, chị thích những cậu
bé đang nghĩ tới cái chết. Chị thích nói chuyện tình yêu với các cậu
bé ấy; và vì những người sắp chết ấy chỉ là những cậu bé, chị thích nói với
chúng về tình yêu. Vì lý do đó, thật không ngạc nhiên chút nào về sự
có mặt của chị trong căn phòng bí nhiệm này -- bí nhiệm vì nó vượt quá những
cái khác biệt -- những mối dây ràng buộc giữa nạn nhân và kẻ hành quyết, giữa
hiện tại và quá khứ.
Tôi gặp Catherine tại Paris năm 1945, khi tôi vừa tới đó từ trại Buchenwald,
một địa điểm bí nhiệm, nơi biến người sống thành kẻ chết và tương lai của họ
thành bóng tối. Tôi mất sức và gần như chết đói. Một
trong các ủy ban giải cứu gởi tôi tới một trại đang có hàng trăm thiếu niên và
thiếu nữ trải qua kỳ nghỉ hè. Trại ở Normandy, nơi sáng sớm có
gió nhẹ xào xạc thổi, giống như ngọn gió sớm ở Palestine.
Vì không biết tiếng Pháp, tôi không thể trao đổi được với các cậu trai và các
cô gái khác. Tôi ngồi ăn và tắm nắng với họ nhưng tôi không làm thế
nào chuyện trò được. Catherine là người duy nhất hình như biết ít
nhiều tiếng Đức và đôi khi chúng tôi trao đổi vài câu. Thỉnh thoảng
chị tới gặp tôi tại bàn ăn tối, hỏi tôi có ngủ ngon không, có thích thú bữa ăn
không hoặc hôm đó có thấy thoải mái không.
Chị hai mươi sáu hoặc hai mươi bảy tuổi; nhỏ nhắn, ẻo lã, cởi mở, với mái tóc
màu hung lóng lánh như lụa, đôi mắt xanh mơ màng chưa từng biết
khóc. Chị là người phụ nữ đầu tiên mà tôi nhìn thật gần. Trước
đó -- có nghĩa trước chiến tranh -- tôi không nhìn phụ nữ. Trên đường
tới trường học hay tới hội đường, tôi đi sát vách nhà người ta và mắt nhìn xuống
đất. Tôi biết rằng phụ nữ có mặt trên đời và tại sao họ có mặt trên
đời nhưng tôi không biết rằng thực tế phụ nữ có một thân thể, bộ ngực,
chân, tay và môi mà khi chạm vào là trái tim đàn ông đập mạnh. Catherine
vén lộ điều ấy cho tôi.
Trại ở ven một cụm rừng, và sau bữa ăn khuya, tôi thường một mình tới đó, trò
chuyện với ngọn gió nhẹ thì thầm và ngắm nhìn bầu trời chuyển màu càng lúc càng
xanh thẳm. Tôi thích được một mình.
Một buổi tối, Catherine hỏi tôi rằng chị có thể cùng đi với tôi không, tôi rụt
rè quá, chẳng biết nói gì ngoài tiếng được. Suốt nửa giờ, rồi một giờ,
chúng tôi bước đi trong hoàn toàn im lặng. Đầu tiên tôi nhận thấy sự
im lặng đó làm mình bối rối, nhưng rồi tôi ngạc nhiên thấy mình bắt đầu thú vị
nó. Im lặng của hai người thì sâu lắng hơn im lặng của một người. Bất
chợt, tôi bắt đầu lên tiếng.
“Hãy nhìn bầu trời trên kia đang mở ra như thế nào kìa,” tôi nói.
Chị ngửng đầu nhìn lên. Đúng như tôi nói, bầu trời đang mở
ra. Ban đầu chầm chậm, như có ngọn gió vô hình lướt qua, các ngôi
sao túa ra từ đỉnh trời, một số trôi sang phải, một số dạt về trái, cho tới khi
trung tâm bầu trời là một không gian trống vắng, xanh tới sững sờ và dần dần đạt
tới sâu thẳm, đậm đà.
“Hãy nhìn thật kỹ,” tôi nói. “Ở chỗ đó không có gì cả.”
Từ phía sau tôi, Catherine nhìn lên, chẳng nói một lời.
Chúng tôi tiếp tục bước và tôi nói chị nghe về truyền thuyết về bầu trời mở
ra. Khi tôi còn bé, ông thầy già kể với tôi rằng có những đêm bầu trời
mở ra dọn đường lên cho lời cầu nguyện của các trẻ em bất hạnh. Vào
một đêm như thế, bên cạnh người cha đang hấp hối, một cậu bé nói với Thượng đế: “Lạy
Cha, con thơ dại quá, chẳng biết làm sao cầu nguyện. Nhưng con xin
Ngài chữa lành người cha bệnh tật của con.” Thượng đế làm điều cậu
bé xin, nhưng bản thân cậu bé thì biến thành lời cầu nguyện và được mang lên trời. Từ
đó trở đi, ông thầy già bảo tôi, thỉnh thoảng Thượng đế biểu lộ Ngài cho chúng
ta bằng bộ mặt một cậu bé.
“Đó là lý do tôi nhìn bầu trời vào những phút giây riêng tư này,” tôi bảo
Catherine. “Tôi hi vọng thấy cậu bé ấy. Nhưng chị là người
làm chứng cho sự thật này nhé. Ở trên đó không có gì cả. Cậu
bé ấy chỉ là một chuyện kể thôi.”
Chính lúc đó, lần đầu tiên trong buổi tối đó, Catherine mở miệng.
“Cậu bé khốn khổ!” chị kêu lên. “Cậu bé khốn khổ!”
Tôi tự nhủ, chị đang nghĩ tới cậu bé trong câu chuyện ấy. Và tôi yêu
chị vì lòng trắc ẩn của chị.
Từ đó, Catherine thường đi dạo với tôi. Chị hỏi về thời thơ ấu và
quá khứ gần đây nhất của tôi, nhưng không phải lúc nào tôi cũng trả lời. Một
tối, chị hỏi tại sao tôi giữ mình xa cách với các cô và các cậu khác cùng trại.
“Vì họ nói thứ tiếng tôi không hiểu được,” tôi bảo chị.
“Vài thiếu nữ biết tiếng Đức,” chị nói.
“Nhưng tôi chẳng có gì để nói với họ.”
“Cậu chẳng cần nói gì cả,” chị nói chầm chậm, với một nụ cười. “Việc
duy nhất cậu phải làm là yêu họ.”
Tôi không biết chị có ý định gì và tôi bảo chị như vậy. Nụ cười chị
rộng mở và chị bắt đầu nói với tôi về tình yêu. Chị nói dễ dàng và
nghe thật hay. Tình yêu là thế này và tình yêu là thế nọ; đàn ông
sinh ra để yêu; hắn chỉ còn sống khi hắn ở trong hình bóng của một phụ nữ nào
đó mà hắn yêu hoặc muốn yêu. Tôi nói với chị rằng tôi chẳng biết gì
về tình yêu, rằng tôi không biết tình yêu có hiện hữu hoặc có quyền hiện hữu
hay không.
“Tôi sẽ chứng minh cho cậu thấy,” chị nói.
Tối hôm sau, khi đi bên trái tôi, chị nắm cánh tay tôi. Lúc đầu tôi
nghĩ chị cần tôi nâng đỡ nhưng thật ra chị làm như vậy vì muốn tôi cảm thấy hơi
ấm của thân thể chị. Rồi chị than mệt và nói thật dễ chịu nếu ngồi
xuống trên cỏ dưới tàng cây. Vừa ngồi xuống, chị bắt đầu vuốt ve
khuôn mặt và mái tóc tôi. Rồi chị hôn tôi vài lần; ban đầu môi chị chạm môi tôi
và rồi lưỡi chị nóng bỏng trong miệng tôi. Các đêm sau, chúng tôi đều
trở lại nơi đó, chị nói với tôi về tình yêu, khát khao và những bí nhiệm của
con tim. Chị cầm tay tôi, đặt lên ngực chị và đùi chị, và tôi nhận
ra rằng phụ nữ có ngực và đùi và bàn tay có thể khiến trái tim đàn ông đập mạnh
và biến máu đàn ông thành lửa.
Rồi tới buổi tối sau cùng. Tháng nghỉ hè đã hết và ngày mai tôi phải
về Paris. Ngay khi xong bữa ăn khuya, chúng tôi ngồi với nhau lần
chót dưới tàng cây. Tôi cảm thấy cô đơn buồn bã, và Catherine ủ bàn
tay tôi trong đôi bàn tay chị, không chút nói năng. Đêm đẹp và tĩnh
mịch. Từng đợt rồi từng đợt, gió như hơi ấm mơn man trên mặt chúng
tôi. Lúc ấy, đã tới một hay hai giờ sáng, và Catherine phá tan sự im
lặng, hướng bộ mặt sầu muộn của chị sang phía tôi và nói:
“Bây giờ mình sẽ làm tình.”
Những lời ấy làm tôi run rẩy. Tôi sắp làm tình lần đầu
tiên. Trước chị, trên trái đất này chưa có người phụ nữ
nào. Tôi không biết nói gì hay làm gì; tôi sợ nói điều nào đó lạc lỏng
hoặc làm cử chỉ nào đó không xứng hợp. Ngượng ngịu, tôi chờ chị khởi
sự. Với vẻ mặt đột nhiên trang trọng, chị bắt đầu cởi y phục. Chị
mở áo mình ra và dưới ánh sao, tôi thấy bộ ngực chị trắng như ngà. Rồi
chị cởi hết những gì còn lại, hoàn toàn khoả thân trước mặt tôi.
“Cởi áo cậu ra,” chị ra lệnh.
Tôi tê liệt; trong cổ họng tôi có sắt và trong mạch máu tôi có chì; cánh tay và
bàn tay tôi không nghe lời tôi. Tôi chỉ biết nhìn chị từ đầu tới
chân và phập phồng theo nhịp thở của bộ ngực chị. Tôi bị thôi miên bởi
sự mời gọi của thân thể chị trần truồng và phơi mở.
“Cởi áo cậu ra,” chị lặp lại.
Kế đó, vì tôi không nhúc nhích, chị bắt đầu cởi y phục cho tôi. Chị
khoan thai cởi chiếc áo sơ-mi và chiếc quần soóc của tôi. Rồi chị ngữa
người trên cỏ và nói:
“Yêu tôi đi.”
Tôi quì xuống. Đăm đăm nhìn chị thật lâu và tôi hôn khắp châu thân
chị. Xa vắng và không nói một lời, chị vuốt tóc tôi.
“Catherine,” tôi nói, “trước hết, tôi có điều phải nói...”
Mặt chị lộ vẻ bối rối thống khổ, và có nỗi thống khổ trong tiếng gió xào xạc
trên cây.
“Không, không!” chị kêu lên. “Đừng nói gì cả. Yêu tôi đi,
đừng nói gì cả.”
Không để ý tới sự phản đối của chị, tôi nói:
“Trước hết, Catherine, tôi phải nói...”
Môi chị mím lại đau đớn, và có nỗi đau đớn trong tiếng gió xào xạc.
“Không, không, không!” chị van nài. “Đừng nói gì với
tôi. Hãy lặng thinh. Nhanh lên, hãy yêu tôi mà đừng nói.”
“Điều tôi phải nói là thế này,” tôi nhất quyết, “Chị đã thắng cuộc
chơi. Tôi yêu chị, Catherine... Tôi yêu chị.”
Chị bật khóc và nói đi nói lại mãi:
“Cậu bé khốn khổ! Cậu, cậu bé khốn khổ!”
Tôi lượm áo sơ-mi và quần soóc lên rồi bỏ chạy. Lúc này tôi đã hiểu
ra. Chị không có ý nói tới cậu bé trên trời mà là nói tới
tôi. Chị nói với tôi về tình yêu vì chị biết rằng tôi là cậu bé ấy, kẻ
đã bị biến thành lời cầu nguyện và bị mang lên Thiên đàng. Chị biết
rằng tôi đã chết và trở về trần gian, chết chóc. Đó là lý do chị nói
với tôi về tình yêu và muốn làm tình với tôi. Tôi hoàn toàn thấy rõ
điều đó. Chị thích làm tình với những cậu bé sắp chết; chị thú vị
làm bạn với những kẻ bị cái chết ám ảnh. Như thế, đêm nay chị có mặt
tại Palestine là điều không có gì đáng ngạc nhiên.
“Cậu bé khốn khổ!” Ilana nói lần sau chót, bằng giọng rất trầm lặng. Và
từ lồng ngực chị thoát ra tiếng thở dài thật sâu làm những giọt lệ của chị trào
ra, rơi lả chả, tiếp tục và tiếp tục tuôn rơi cho tới tận cùng thời gian.
Đột nhiên tôi nhận ra căn phòng ngột ngạt, ngộp quá tới độ tôi gần như khờ
người. Rõ ràng. Căn phòng nhỏ, hết sức nhỏ, mà đang tiếp
nhận quá nhiều khách trong cùng một lúc. Từ nửa đêm, khách tuôn đến. Trong
số họ, có người tôi quen, có người tôi ghét, ngưỡng mộ hoặc đã
quên. Khi đưa mắt rảo nhìn quanh phòng, tôi nhận thấy ở đây có mặt hết
thảy những người đã góp phần vào việc hình thành ra tôi, hình thành bản sắc thường
trực của tôi. Một số người quen thuộc nhưng tôi không thể xếp họ vào
loại nào: họ có tên nhưng không mặt hoặc có mặt nhưng không tên. Tuy
thế, tôi biết là họ đã đi ngang một thời điểm nào đó trong đời tôi.
Nơi đây, dĩ nhiên có cha tôi, mẹ tôi và người ăn mày. Và ông thầy
già tóc hoa râm. Nơi đây cũng có những lính Anh trên đoàn quân xa
chúng tôi đã phục kích tại Gedera. Và chung quanh họ là các bạn hữu,
anh em và đồng chí, một số xuất xứ từ thời thơ ấu của tôi, một số tôi từng thấy
họ sống và đau khổ, hy vọng và nguyền rủa tại Buchenwald
và Auschwitz. Bên cạnh cha tôi, có một cậu bé trông giống tôi lạ
lùng vào thời trước chiến tranh, trước trại tập trung, trước mọi sự. Cha
tôi mỉm cười với nó, cậu bé đón nhận nụ cười ấy và gởi nó cho tôi qua vô số chiếc
đầu đang ngăn cách hai chúng tôi.
Lúc này tôi đã hiểu tại sao căn phòng quá ngột ngạt. Nó quá nhỏ lại
trong cùng một lúc chứa quá nhiều người như thế này. Tôi rẽ lối đi
xuyên qua đám đông cho tới khi đến được trước mặt cậu bé và cám ơn nó vì nụ cười
ấy. Tôi muốn hỏi nó rằng hết thảy những người này đang làm gì, nhưng
nghĩ lại tôi thấy hỏi như vậy sẽ bất kính với cha tôi. Vì ông đang
có mặt ở đây nên trước hết tôi phải trình với ông câu hỏi ấy.
“Cha ơi, tại sao hết thảy những người này lại ở đây?”
Mẹ tôi đứng bên ông, trông rất xanh xao và môi bà không ngừng thì thầm: “Đứa
con trai nhỏ nhoi khốn khổ, đứa con trai nhỏ nhoi khốn khổ!...”
“Cha ơi,” tôi lặp lại, “Xin cha trả lời con. Cha và hết thảy mọi người
đang làm gì ở đây?”
Đôi mắt ông to, trong đó tôi đã thường thấy bầu trời mở ra; đôi mắt ấy nhìn tôi
nhưng ông không trả lời. Tôi xoay người và thấy mình đối mặt với vị
thầy cả, râu ông lốm đốm bạc hơn bao giờ.
“Thưa thầy,” tôi nói. “Cái gì mang hết thảy những người này tới đây
đêm nay vậy?”
Tôi nghe mẹ tôi thì thầm sau lưng tôi, “Đứa con trai nhỏ nhoi khốn khổ, đứa con
trai nhỏ nhoi khốn khổ của tôi!”
“Vâng thưa thầy,” tôi lặp lại, “hãy trả lời con đi, con van xin thầy.”
Nhưng ông cũng chẳng trả lời tôi; thật sự hình như ông còn không nghe ra câu hỏi
của tôi, và sự im lặng của ông làm tôi sợ hãi. Trước đây, tôi biết
rõ rằng hể bao giờ tôi cần đến là ông luôn luôn có mặt. Thuở đó, sự
im lặng của ông làm tôi an lòng. Lúc này, tôi cố nhìn vào mắt ông,
nhưng chúng là hai quả cầu lửa, hai mặt trời đốt cháy mặt mày
tôi. Tôi trở bộ và đi từ người khách này sang người khách khác, tìm
câu trả lời cho câu hỏi của mình, nhưng sự có mặt của tôi làm họ lặng người
kinh hãi. Sau cùng, tôi tới người ăn mày; ông đang đứng vai và đầu
nhô cao hơn hết thảy mọi người. Và ông nói với tôi, hết sức bình thản.
“Đây là đêm của nhiều bộ mặt,” ông nói.
Tôi u buồn và mệt mỏi.
“Vâng,” tôi nói rã rời, “đây là đêm của nhiều bộ mặt, và tôi muốn biết lý do tại
sao. Nếu ông đúng là kẻ tôi nghĩ, kẻ soi sáng và an ủi
tôi. Hãy nói cho tôi biết ý nghĩa của những cái nhìn này, của sự câm
lặng này, của những hình bóng này. Hãy nói cho tôi biết, tôi van
ông, vì tôi không thể chịu đựng chúng thêm được nữa.”
Ông nắm cánh tay tôi, dịu dàng vỗ về và nói:
“Cậu có thấy cậu bé đằng kia không?” và ông chỉ vào cậu bé giống tôi mà tôi vừa
thấy.
“Vâng, tôi có thấy nó,” tôi trả lời.
“Nó sẽ trả lời mọi câu hỏi của cậu,” người ăn mày nói. “Hãy tới hỏi
nó.”
Lúc này tôi hoàn toàn chắc chắn rằng ông không phải là kẻ ăn
mày. Thêm lần nữa, tôi thúc khuỷu tay đi lách qua đám đông các bóng
ma. Thở hổn hển vì quá mệt, tôi tới chỗ cậu bé.
“Hãy nói cho tôi biết,” tôi nói giọng van nài, “cậu đang làm gì ở đây? Và hết
thảy những người này?”
Nó trố mắt kinh ngạc.
“Anh không biết ư?” nó hỏi.
Tôi thú thật mình không biết.
“Ngày mai một người sẽ chết, phải không?”
“Phải,” tôi nói, “vào rạng sáng ngày mai.”
“Và anh sẽ giết người ấy, phải không?”
“Phải, đúng vậy; tôi phụ trách việc hành quyết hắn.”
“Và anh không hiểu, phải không?”
“Không.”
“Nhưng cái đó hoàn toàn giản dị,” nó kêu lên. “Chúng tôi ở đây để có
mặt tại cuộc hành quyết. Chúng tôi muốn nhìn anh tiến hành việc
đó. Chúng tôi muốn nhìn anh thành kẻ giết người. Điều ấy
cũng khá tự nhiên, phải không?”
“Tại sao lại tự nhiên? Việc giết John Dawson thì liên quan gì tới
các người?”
“Anh là tổng kết của tất cả những gì chúng tôi là,” cậu bé giống tôi ngày trước
nói. “Bằng cách đó, chúng tôi là những người sắp hành quyết John
Dawson. Vì anh không thể nào làm được việc đó mà không có chúng
tôi. Lúc này, anh hiểu chưa?”
Tôi bắt đầu hiểu. Một hành động cực kỳ tuyệt đối như hành động giết
người thì không chỉ can dự tới kẻ giết người mà còn can dự tới hết thảy những
người đã và đang góp phần hình thành ra tên giết người đó. Bằng hành
động giết một người, tôi biến họ trở thành những kẻ giết người.
“Được,” cậu bé nói, “anh hiểu chưa?”
“Vâng, tôi hiểu,” tôi nói.
“Đứa con trai khốn khổ, đứa con trai khốn khổ!” mẹ tôi thì thầm, đôi môi bà lúc
này trắng nhợt như mái tóc bạc của ông thầy già.
“Hắn đói” giọng nói của Gideon bất chợt vang lên.
Tôi không nghe tiếng chân anh trở lại cầu thang. Các Vị thánh có
cách làm chưng hửng người ta mà chẳng gây tiếng động. Họ đi, cười,
ăn uống và cầu nguyện, làm tất cả mà không phát ra âm thanh nào.
“Không thể được,” tôi phản đối.
Tôi cho rằng hắn không thể biết đói. Hắn sắp chết mà người chết thì
không thể biết đói.
“Chính hắn nói vậy,” Gideon quả quyết với giọng hơi run run.
Mọi người đăm đăm nhìn tôi. Ilana đã thôi khóc, Joab không còn săm
soi móng tay và Gad trông có vẻ mỏi mệt. Hết thảy các bóng ma cũng
thế, dường như đang chờ đợi nơi tôi cái gì đó, có thể là một dấu hiệu hoặc một
tiếng gào thét.
“Hắn biết chứ?” tôi hỏi.
“Có, hắn biết,” và chút sau anh thêm: “Tôi đã nói với hắn.”
“Hắn phản ứng ra sao?”
Đối với tôi, điều quan trọng là biết phản ứng của hắn. Tin đó có là
một cú sốc không? Hắn bình thản hoặc phản đối rằng hắn vô tội?
“Hắn mỉm cười,” Gideon nói. “Hắn nói hắn biết rồi. Dạ dày
của hắn đã nói cho hắn biết.”
“Và hắn nói rằng hắn đói?”
Gideon dấu hai bàn tay đang xoắn lại ra sau lưng mình.
“Vâng, đó là cái hắn nói. Hắn nói rằng hắn đói và rằng hắn có quyền
hưởng bữa ăn ngon cuối cùng.”
Gad cười, nhưng giọng cười của anh trống rỗng.
“Một người Anh điển hình,” anh nhận xét. “Kiên cường cứng cỏi.”
Nhận xét của anh lơ lửng giữa không khí trên đầu chúng tôi: không ai mở lòng tiếp
đón nó. Cha tôi liếc tôi bằng tia nhìn khắc nghiệt, như thể nói một
người sắp chết và anh ta đói.
“Cũng có thể thừa nhận như thế,” Gad nói. “Người Anh có bộ tiêu hóa
bằng thép.”
Thêm lần nữa chẳng ai để ý tới nhận xét của anh. Tôi cảm thấy thình
lình đau thốc trong dạ dày. Suốt ngày nay, tôi chưa ăn
gì. Ilana đứng dậy đi vô bếp.
“Tôi dọn chút gì cho hắn ăn,” chị tuyên bố.
Tôi nghe cử động của chị vang ra, xắt lát ổ bánh mì, mở ngăn nước đá, bắt đầu
pha cà phê. Ít phút sau, chị trở ra, một tay cầm tách cà phê, tay
kia cầm chiếc dĩa.
“Tôi chỉ kiếm được có thế này thôi,” chị nói. “Bánh mì kẹp phó mát với
cà phê đen. Không có đường... Một bữa ăn chẳng nhiều nhặn gì, nhưng
tôi đã cố hết sức.” Và sau vài giây im lặng, chị hỏi, “Ai sẽ mang
cái này xuống?”
Cậu bé đứng bên cha tôi chăm bẳm nhìn tôi không chút xót thương. Cái
nhìn chòng chọc của nó mang một giọng nói, giọng ấy nói:
“Đi đi. Mang cho hắn cái gì ăn. Anh biết là hắn đói mà.”
“Không,” tôi trả lời. “Không phải tôi. Tôi không muốn gặp
hắn. Trước hết, tôi không muốn nhìn hắn ăn. Sau nữa, tôi
muốn nghĩ tới hắn như nghĩ tới một người không hề ăn.”
Tôi muốn thêm rằng tôi đang bị co thắt dạ dày nhưng tôi nhận thấy điều đó không
quan trọng. Thay vào đó, tôi nói, “Tôi không muốn ở một mình với hắn. Chưa
tới lúc.”
“Chúng tôi sẽ đi với anh,” cậu bé nói. “Thật sai lầm nếu giữ lại thực
phẩm không cho người đói ăn. Anh biết điều ấy mà.”
Vâng. Tôi biết. Tôi luôn luôn cho người đói thức
ăn. Ông, người ăn mày, ông nhớ chứ. Có phải tôi đã đề nghị
hiến ông bánh mì? Nhưng đêm nay thì không. Đêm nay tôi
không thể làm việc đó.
“Đúng vậy,” cậu bé ấy nói, thúc tăng vận tốc con tàu nghĩ tưởng của
tôi. “Đêm nay thì khác và anh cũng khác, hay ít ra, anh đang
khác. Nhưng cái đó chẳng dính dáng gì tới việc có người đang đói và
phải có gì ăn.”
“Nhưng hắn sắp chết vào ngày mai,” tôi phản đối. “Hắn chết với một dạ
dày đầy hay rỗng thì quan trọng gì chớ?”
“Vì lúc này hắn còn sống,” cậu bé lên giọng dạy dỗ. Cha tôi gật đầu
đồng tình và hết thảy những người khác làm theo ông. “Hắn còn sống
và đói, và có phải anh không chịu cho hắn cái gì ăn?”
Hết thảy mọi cái đầu ấy đều gật, tựa những ngọn cây tối thui, làm tôi rùng
mình. Tôi muốn nhắm mắt lại nhưng tôi hổ thẹn. Tôi không
thể nhắm mắt trước sự có mặt của cha tôi.
“Thôi được,” tôi nói cam chịu. “Tôi chấp nhận. Tôi sẽ đem
cái gì đó cho hắn ăn.” Như thể tuân theo chiếc gậy của một nhạc trưởng
vô hình, những cái đầu đang gật đó bỗng ở yên. “Tôi sẽ đem cho hắn
cái gì đó ăn,” tôi lặp lại. “Nhưng này cậu bé, trước hết hãy nói cho
tôi biết. Người chết có đói không?”
Nó nhìn tôi kinh ngạc.
“Cái gì----bộ anh không biết?” nó kêu lên. “Dĩ nhiên họ
đói.”
“Và chúng ta có nên cho họ cái gì ăn?”
“Tại sao anh lại hỏi vậy? Dĩ nhiên anh nên cho họ cái gì
ăn. Chỉ khó khăn...”
“Khó khăn...khó khăn...khó khăn...,” các bóng ma cất giọng đồng thanh.
Cậu bé nhìn tôi và mỉm cười.
“Tôi nói với anh một bí mật,” nó thì thầm. “Anh đã biết vào lúc nửa
đêm người chết rời nấm mồ của họ, phải không?”
Tôi nói với nó rằng tôi biết; người ta bảo tôi như thế.
“Có phải người ta bảo anh rằng họ từ nghĩa địa đi tới hội đường?”
Vâng, người ta bảo tôi như thế.
“Đúng, đúng vậy,” cậu bé nói. Rồi sau một chút im lặng để làm nổi bật
điều sắp nói, nó tiếp tục bằng giọng chửng chạc, một giọng nói chưa từng có bên
trong tôi và tôi chưa bao giờ nghe giọng nói đó: “Vâng, điều đó
đúng. Đêm đêm họ tụ họp ở hội đường. Nhưng không vì mục
đích như anh tưởng. Họ tới đó không phải để cầu nguyện mà là để
ăn---”
Mọi thứ trong phòng -- các bức vách, ghế, đầu người -- bắt đầu xoay xoay chung
quanh tôi, nhảy múa theo một nhịp điệu đã định sẵn, không khuấy động không khí
cũng chẳng đặt chân xuống đất. Tôi là tâm điểm của vô số vòng tròn
đó. Tôi muốn nhắm mắt bịt tai lại, nhưng cha tôi đang ở đây, và ở
đây còn có mẹ tôi, ông thầy già, người ăn mày và cậu bé. Chung quanh
tôi đang có hết thảy những người đã hình thành ra tôi, tôi không có quyền bịt
tai nhắm mắt.
“Đưa cái đó cho tôi,” tôi nói với Ilana. “Tôi mang xuống cho hắn.”
Những thứ đang nhảy múa ấy chửng lại, như thể tôi là nhạc trưởng và lời tôi là
chiếc gậy. Tôi bước tới chỗ Ilana vẫn đứng ở nhà bếp. Thình
lình, Gad lướt tới nơi chị ấy đứng, trước cả tôi.
“Tôi làm việc này,” anh nói.
Gần như tàn bạo, anh giật chiếc khay và cái dĩa trong tay Ilana và lật đật bước
xuống cầu thang.
Joab nhìn đồng hồ đeo tay. “Hai giờ hơn.”
“Thế thôi ư?” Ilana hỏi. “Đêm nay dài quá. Đêm
dài nhất tôi từng sống.”
“Vâng, đêm nay dài thật.”
Ilana cắn môi. “Có những khoảnh khắc tôi nghĩ nó sẽ không bao giờ kết
thúc và sẽ kéo dài bất tận. Nó như mưa. Trời mưa ở đây,
cũng như mọi cái khác, gợi ra sự thường hằng và vĩnh hằng. Tôi nói với
mình: Trời mưa hôm nay và mưa ngày mai và ngày kia, tuần sau và thế
kỷ sau. Lúc này, tôi nhủ thầm: có đêm bây giờ và sẽ có đêm mai và
đêm kia và đêm tuần kia và đêm thế kỷ kia.”
Chị bỗng ngừng nói, rút từ cổ tay áo bờ-lu ra chiếc khăn tay và lau vầng trán đẫm
mồ hôi của chị.
“Tôi không biết tại sao trong này ngột ngạt quá,” chị nói. “Nhất lại
là vào lúc khuya khoắt như thế này.”
“Sáng mai trời dịu hơn,” Joab đoan chắc.
“Hi vọng là vậy,” Ilana nói. “Mấy giờ mặt trời mọc?”
“Chừng năm giờ.”
“Và lúc này mấy giờ rồi?”
“Hai giờ hai mươi,” Joab nói, lại ngó đồng hồ của mình.
“Elisha, cậu không nực sao?” Ilana trả lời.
“Có, tôi cảm thấy nóng,” tôi trả lời.
Ilana về lại chỗ của chị bên bàn. Tôi bước tới cửa sổ, nhìn
ra. Thành phố dường như xa xôi và không thật. Sâu trong
giấc ngủ, thành phố sinh hạ những giấc mơ khắc khoải, những giấc mơ hi vọng, những
giấc mơ đưa tới những giấc mơ khác thêm nữa vào ngày kế tiếp. Và tới
lượt chúng, những giấc mơ ấy sinh hạ các vị anh hùng mới, những kẻ sống qua đêm
và sẵn sàng chết lúc rạng sáng, để chết và để gây ra cái chết.
“Có, tôi nực, Ilana,” tôi nói. “Tôi không cực cựa nổi.”
Chương 3
Người mướt mồ hôi, tôi không biết mình đứng bên cửa sổ đã bao lâu cho đến khi
có một bàn tay ấm, run run và vỗ về, đặt lên vai tôi. Bàn tay của
Ilana.
“Cậu đang nghĩ gì?” chị hỏi.
“Tôi đang nghĩ về đêm nay,” tôi bảo chị. “Lúc nào cũng chỉ một cái
đó---”
“Và về John Dawson?”
“Vâng, về John Dawson.”
Đâu đó trong thành phố, ánh sáng loé lên bên trong một khung cửa sổ rồi lịm tắt. Chắc
hẳn có người đàn ông nào đó coi đồng hồ hoặc một người mẹ nào đó đi xem con
mình có cười trong giấc ngủ không.
“Nhưng cậu không muốn gặp hắn,” Ilana nói.
“Tôi không muốn gặp hắn.”
Tôi đang nghĩ tới một ngày kia con trai của tôi sẽ nói: “Tự nhiên
sao cha có vẻ buồn. Có chuyện gì vậy?” “Vì trong mắt cha đang có hình
ảnh viên đại úy người Anh tên là John Dawson, hiện lên đúng y như lúc hắn chết
ngay trước mắt cha...” Có lẽ tôi phải trùm mặt nạ lên hắn; một mặt nạ
thì dễ giết và dễ quên hơn.
“Có phải cậu sợ?” Ilana hỏi.
“Đúng.”
Tôi muốn nói cho chị biết rằng sợ hãi chẳng là gì cả. Sợ hãi chỉ là
một sắc màu, một phông màn, một quang cảnh. Cái đó không là vấn đề. Không
quan trọng gì nỗi sợ hãi của nạn nhân hoặc của kẻ hành quyết. Cái
quan trọng là trong thực tế, cả hai kẻ đó, mỗi kẻ đều đang đóng vai trò người
ta dàn dựng cho mình. Và cả hai vai trò đó đều cực kỳ bất hạnh cho đẳng
cấp làm người. Cái bi thảm chính là sự dàn dựng.
“Cậu, Elisha, cậu mà sợ ư?”
Tôi hiểu tại sao chị hỏi vậy. Ngươi, Elisha, có phải ngươi từng sống
qua Auschwitz và Buchenwald? Ngươi, kẻ đã vô số lần thấy Thượng
đế chết? Ngươi sợ ư?
“Thế mà, tôi đang sợ, Ilana ạ,” tôi lặp lại.
Quả thật, chị hiểu hết, hiểu rất rõ rằng sợ hãi không thật sự là vấn đề. Giống
như cái chết, nó chỉ là một phông màn, một màu sắc địa phương.
“Cái gì làm cậu sợ?”
Bàn tay chị ấm áp, sống động vẫn còn trên vai tôi, ngực chị chạm nhẹ người tôi
và tôi có thể cảm thấy hơi thở chị trên cổ tôi. Chiếc áo bờ-lu của
chị đẫm mồ hôi và nét mặt chị cùng quẫn. Tôi nhủ thầm: chị không hiểu.
“Tôi sợ hắn sẽ làm tôi cười,” tôi nói. “Chị thấy, Ilana, hắn hoàn
toàn có thể phình to đầu ra và để nó nổ tung thành ngàn mảnh, chỉ nhằm chọc cho
tôi phá lên cười. Đó là điều làm tôi sợ.”
Nhưng chị vẫn không hiểu. Chị rút khăn tay từ trong cổ tay áo ra,
lau cổ và thái dương cho tôi. Rồi chị hôn nhẹ lên trán tôi và nói:
“Cậu dằn vặt mình quá, Elisha. Con tin không phải là thằng hề. Nơi
họ không có chút gì đáng cười cả.”
Ilana khốn khổ. Giọng chị tinh tuyền như chân lý, vô cùng buồn bã
như sự thanh khiết. Nhưng chị không hiểu. Chị bị xao lạc
vì những vẻ bên ngoài và không nhận ra cái nằm đằng sau chúng.
“Chị có thể có lý,” tôi nói bằng giọng cam chịu. “Chúng ta có thể
làm họ phá lên cười. Họ cười khi họ là người chết.”
Chị vỗ về mặt, cổ và tóc tôi và tôi vẫn cảm thấy sức ép của ngực chị lên cơ thể
mình. Rồi chị bắt đầu nói, với giọng buồn bã nhưng rõ ràng, như thể
nói với một đứa bé đang bệnh.
“Cậu dằn vặt mình quá, cậu em yêu quí ạ,” chị nói đi nói lại vài lần như thế. Ít
ra chị cũng không còn gọi tôi là “cậu bé khốn khổ,” và tôi biết ơn chị. “Cậu
đừng làm vậy. Cậu trẻ, thông minh và cậu chịu đau khổ đủ rồi. Chẳng
bao lâu chuyện này sẽ qua hết. Người Anh sẽ rút về và chúng ta sẽ trồi
lên trên bề mặt và sẽ được sống một cuộc sống giản dị, bình thường. Cậu
sẽ lập gia đình, có con cái. Cậu sẽ kể chuyện chúng nghe và làm
chúng bật cười thành tiếng. Cậu sẽ hạnh phúc vì chúng hạnh
phúc. Cậu sẽ được hạnh phúc, tôi đoan chắc với cậu như vậy. Bằng
không, làm sao chúng có thể sống với một người cha như cậu? Cậu sẽ
quên đêm nay, quên căn phòng này và quên mọi sự khác---”
Khi nói “mọi sự khác” chị đưa tay vạch lơ lửng một nửa vòng
tròn. Làm tôi nhớ tới mẹ mình. Mẹ tôi cũng đã nói với giọng
xúc động như vậy và gần như dùng đúng những chữ đó vào đúng những chỗ đó trong
câu nói. Tôi rất yêu thương bà. Cho tới khi tôi lên chín
hoặc lên mười, tối nào bà cũng ru tôi ngủ với những bài hát ru con hoặc các mẩu
chuyện. Bên giường mẹ tôi có một con dê, bà thường bảo tôi, con dê ấy
bằng vàng. Mọi nơi con đi trong đời, con dê ấy sẽ hướng dẫn con và
che chở con. Dù con đã khôn lớn hoặc rất giàu, dù tới lúc con đã biết
tất cả những gì một người đàn ông có thể biết và làm chủ tất cả những gì một
người đàn ông nên sở hữu, thì con dê ấy vẫn ở gần con.
“Ilana, chị nói như thể chị là mẹ tôi,” tôi nói.
Mẹ tôi cũng vậy, có một giọng nói thật êm, còn dịu êm hơn cả giọng
nói của Ilana. Giống như giọng nói của Thượng đế, giọng nói đó có sức
mạnh xua tan hỗn độn và truyền đạt cái nhìn thấu suốt về tương lai, mà tương
lai đó có thể là của tôi, với con dê vàng ấy hướng dẫn, con dê tôi đã thất lạc
trên đường tới Buchenwald.
“Cậu đang đau khổ,” Ilana nói. “Khi đau khổ, người ta nhắc tới mẹ
mình.”
“Không, Ilana,” tôi nói. “Lúc này, chính mẹ tôi là người đau khổ.”
Những vỗ về của Ilana bỗng nhẹ hơn, lơi hơn. Chị đang bắt đầu hiểu. Bộ
mặt chị tối lại. Chị im lặng hồi lâu, rồi chị cùng tôi nhìn vào bàn
tay đêm đang vói tới chúng tôi qua cửa sổ.
“Chiến tranh như đêm,” chị nói. “Nó phủ trùm mọi sự.”
Vâng, chị đã bắt đầu hiểu. Tôi hầu như không còn cảm thấy các ngón
tay của chị xoa nhẹ trên cổ mình.
“Chúng ta nói rằng cuộc chiến tranh của chúng ta là thần thánh,” chị tiếp tục,
“rằng chúng ta đang chiến đấu chống lại cái gì đó và vì cái gì đó -- chống lại
người Anh và vì nền độc lập của Palestine. Đó là cái chúng ta
nói. Nhưng những cái đó là ngôn từ; và vì thế chúng được dùng để chỉ
đem lại ý nghĩa cho các hành động của chúng ta. Chúng ta nói: đây là
chiến tranh, chúng ta phải giết. Có những kẻ như cậu, giết bằng bàn
tay của mình, và có những kẻ như tôi, giết bằng giọng nói của
mình. Mỗi người có cách giết riêng của mình. Và liệu
chúng ta có thể làm gì khác hơn? Chiến tranh có những qui luật của
nó và nếu cậu phủ định một qui luật tức là cậu phủ định toàn bộ mục đích, và
trao cho kẻ thù sự chiến thắng đặt trên chiếc mâm bằng bạc. Đó là cái chúng ta
không thể trao cho họ. Trong cuộc chiến này, chúng ta cần chiến thắng,
để sống còn, để nổi lên bềnh bồng trên bề mặt của thời gian.”
Chị không cất cao giọng. Chị như thể đang hát một bài ru con, đang kể
chuyện bên giường ngủ. Trong cung giọng của chị, không đam mê, không
thất vọng, cũng chẳng lo âu.
Chị hoàn toàn có lý. Mọi sự đã được cân nhắc. Chúng ta
đang lâm chiến; chúng ta có lý tưởng, có mục đích -- trong lúc đó kẻ thù đứng
chắn ngang giữa chúng ta và sự đạt tới lý tưởng, mục đích đó. Kẻ thù
đó phải bị loại trừ. Và, bằng cách nào? Bằng hết thảy và
bất cứ phương tiện nào chúng ta có được. Không quan trọng gì việc
nên sử dụng phương tiện này hay không nên sử dụng phương tiện khác, và dùng
xong thì quên ngay. Mục đích, cứu cánh, đó là tất cả những gì trường
tồn. Có thể Ilana đúng khi nói rằng tới một ngày nào đó tôi sẽ quên
đêm nay. Nhưng, người chết không bao giờ quên, họ nhớ
hoài. Trong mắt họ, tôi vĩnh viễn bị đóng dấu bằng sắt nung rằng tôi
là kẻ giết người. Không có ngàn cách là kẻ giết người; hoặc là kẻ giết
người hoặc không là kẻ giết người, thế thôi. Hắn không thể nói với
tôi rằng hắn chỉ giết mười người hoặc chỉ giết hai mươi sáu người thôi, rằng
tôi chỉ giết năm phút hoặc chỉ giết một ngày thôi. Hắn, kẻ dù chỉ giết
một người, cũng là kẻ giết người suốt đời. Hắn có thể sẽ chọn một
công việc khác, sẽ dấu mình dưới một nhân dạng khác, nhưng sẽ ở mãi mãi trong hắn
kẻ hành quyết hoặc ít nhất, chiếc mặt nạ của kẻ hành quyết. Cái đó nằm
trong vấn đề này, trong ảnh hưởng của phông màn vở kịch lên diễn
viên. Chiến tranh làm tôi thành một kẻ hành quyết, và tôi mãi mãi vẫn
là kẻ hành quyết dù sau đó phông màn đã đổi và tôi đóng một vở kịch khác trên một
sân khấu khác.
“Tôi không muốn làm kẻ giết người,” tôi nói, lướt thật nhanh câu nói đó như thể
nôn thốc nó ra.
“Ai làm?” Ilana hỏi.
Chị vẫn vỗ về cổ tôi, tóc tôi nhưng không biết tại sao tôi có cảm tưởng rằng
cái mà các ngón tay của chị đang ve vuốt không phải là chiếc cổ của tôi, tóc của
tôi. Người phụ nữ thanh nhã nhất thế gian sẽ ngần ngại chạm vào da của
một kẻ giết người, của một người đàn ông mà suốt cuộc đời dài của hắn mang nhãn
hiệu kẻ giết người.
Tôi liếc vội ra đằng sau mình xem những người kia còn đó
không. Gideon và Joab đang lơ mơ ngủ, đầu gối lên cánh tay tì trên
bàn. Dù trong giấc ngủ, Gideon cũng có vẻ như đang đọc
kinh. Gad vẫn ở trong hầm giam, và tôi tự hỏi sao anh ở trong đó lâu
quá. Còn các bóng ma thì đang theo dõi cuộc nói chuyện nhưng tôi lấy
làm lạ là họ không dự phần vào. Ilana im lặng.
“Chị đang nghĩ gì vậy?” tôi thì thầm.
Chị không trả lời. Ít phút sau tôi lại hỏi. Vẫn không có
câu trả lời. Hai chúng tôi im lặng. Và đám đông sau lưng
tôi, đám đông những người im lặng đang chết điếng ấy, bóng họ hút ánh sáng và
biến nó thành cái gì đó u sầu, thê thảm, thù nghịch và lặng câm. Tổng
số của những im lặng ấy làm tôi ngập tràn sợ hãi. Im lặng của họ
không giống im lặng của tôi; họ khắc nghiệt, lạnh lùng, bất động, không sinh
khí và không thể thay đổi.
Khi còn bé, tôi sợ người chết và nghĩa địa, vương quốc âm u của họ. Sự
im lặng vây quanh họ làm trong tôi dấy lên cơn hãi hùng. Tôi biết rằng
lúc này sau lưng tôi, sát cánh nhau thành hàng thành lớp như thể giữ cho mình
khỏi lạnh, họ đang ngồi trong tư thế xét xử tôi. Trong thế giới băng
giá của mình, người chết chẳng biết làm gì hơn là xét xử; và vì họ không có cảm
giác về quá khứ hoặc tương lai nên họ xét xử không chút xót
thương. Họ không kết án bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ mà bằng chính
sự hiện hữu của họ.
Họ đang ngồi sau lưng tôi, trong địa vị xét xử tôi. Tôi cảm thấy sự
im lặng của họ đang xét xử tôi. Tôi muốn quay mình lại nhưng người
tôi chỉ ngập tràn với mỗi một ý tưởng là sợ hãi. Chẳng bao lâu nữa,
Gad sẽ từ hầm giam đi lên, rồi sau đó tới lượt tôi đi xuống. Sẽ tới
rạng sáng và đám đông này sẽ tan loảng trong ánh sáng ban ngày. Tạm
thời, tôi hãy cứ ở bên Ilana, nơi cửa sổ, quay lưng lại với họ.
Một phút sau, tôi đổi ý. Cha tôi, mẹ tôi, ông thầy và người ăn mày,
tất cả đều đang có mặt ở đây. Tôi không thể sỉ nhục họ tột cùng bằng
cách quay lưng với họ. Tôi phải nhìn họ, mặt đối mặt. Tôi
thận trọng xoay người lại. Trong phòng lúc này có hai loại ánh sáng:
một trắng bao phủ chỗ Gideon và Joab đang ngủ; và một đen vây bọc các bóng ma.
Bỏ lại Ilana bên cửa sổ đang đắm chìm trong suy nghĩ, hoặc cũng có thể trong hối
tiếc, tôi bắt đầu rảo bước quanh căn phòng, lâu lâu dừng lại trước một bộ mặt
thân thuộc, một thống khổ thiết thân. Tôi biết rằng những thống khổ,
những bộ mặt này đang ngồi trong tư thế xét xử tôi. Họ là người chết
và họ đói. Khi người chết mà đói thì họ xét xử người sống không chút
xót thương. Họ không chờ cho đến khi người ta làm xong một hành động,
phạm xong một tội ác. Họ xét xử trước.
Chỉ khi tôi nhận biết được sự im lặng của cậu bé, một im lặng đầy hùng biện
trong mắt, tôi mới quyết định nói ra. Cậu bé có cái nhìn khắc khoải
khiến nó có vẻ lớn tuổi hơn, chín chắn hơn. Tôi tự nhủ, mình sẽ nói
ra. Họ không có quyền kết án cậu bé ấy.
Khi tới gần cha tôi, tôi thấy nỗi thống khổ trên mặt ông. Trước khi
Thần chết đến bắt cha tôi, ông đã lẻn đi một phút bằng cách lừa dối Thần chết rằng
ông phải mang theo mình nỗi thống khổ con người mà ông đã chịu thuở còn sống.
“Cha ơi,” tôi nói, “xin đừng xét xử con. Cha hãy xét xử Thượng đế. Ngài
đã tạo dựng vũ trụ này và chiết cành công lý từ những bất công. Ngài
đã khiến cho một dân tộc phải đạt tới hạnh phúc qua nước mắt, cho tự do của một
quốc gia cũng như tự do của một con người phải là một đài kỷ niệm dựng lên trên
một cái nền chất chồng hàng hàng lớp lớp xác chết...”
Tôi đứng trước mặt ông, không biết làm gì với đầu mình, mắt mình và tay
mình. Tôi muốn biến máu huyết của tôi thành giọng nói của
tôi. Có lúc tôi tưởng mình đã làm được điều đó. Tôi nói một
hồi lâu, kể với ông những điều mà rõ ràng ông đã hiểu vì chính ông đã dạy tôi
những điều đó. Nếu tôi có lặp lại thì chỉ để chứng tỏ với ông rằng
tôi không quên.
“Đừng xét xử con, cha ơi,” tôi van nài ông, run rẩy vì tuyệt vọng. “Cha
phải xét xử Thượng đế. Ngài là căn nguyên thứ nhất, là kẻ khởi xướng
đầu tiên; Ngài đã thai nghén loài người và vạn vật theo cách chúng đang
là. Cha ơi, cha là người đã chết, và chỉ có người chết mới có thể
xét xử Thượng đế.”
Nhưng cha tôi không phản ứng. Nỗi thống khổ hằn ghi trên bộ mặt hốc
hác, râu ria lởm chởm của ông đã mang nhiều tính người hơn trước. Tôi
rời ông và bước sang mẹ tôi đang đứng cạnh ông. Nhưng nỗi đau của
tôi quá lớn, làm sao bày tỏ hết với bà. Tôi tưởng mình đang nghe tiếng
bà thì thầm, “Đứa con trai khốn khổ, đứa con trai khốn khổ?!” và mắt tôi đẫm lệ. Sau
cùng, tôi nói rằng con không là kẻ giết người, rằng mẹ không sinh ra một kẻ giết
người mà sinh ra một người lính, một kẻ chiến đấu cho tự do, một người lý tưởng
đang hiến dâng sự bình an của tâm trí -- tài sản quí báu hơn chính mạng sống --
cho dân tộc mình, cho quyền của dân tộc đối với ánh sáng ban ngày, đối với nỗi
hân hoan, đối với tiếng cười của trẻ thơ. Đó là tất cả những gì tôi
có thể nói, bằng giọng ngập ngừng, thổn thức như đang lên cơn sốt.
Khi bà yếu nhược quá không phản ứng được, tôi rời bà và bước tới ông thầy
già. Trong số những người có mặt nơi đây, ông là kẻ ít bị cái chết
làm cho thay đổi nhất. Khi còn sống, ông hầu như giống hệt bây giờ;
chúng tôi thường nói rằng ông không thuộc về thế giới này, và lúc này điều đó
đúng không sai một chữ.
“Con không phản bội thầy,” tôi nói như thể mình đã thực hiện xong công
tác. “Nếu con không chịu tuân lệnh, con sẽ phản bội các bạn đang sống
của con. Và người sống thì có quyền trên chúng ta hơn người chết. Chính
thầy đã dạy con điều đó. Do đó, hãy chọn sự sống, câu đó được viết
trong Kinh thánh. Con tán thành căn nguyên của sự sống và do đó, con
không là kẻ phản bội.”
Đứng bên ông thầy là Yerachmiel, người bạn, người cùng chí hướng và là người em
bà con của tôi. Yerachmiel là con một người đánh xe ngựa, với hai
bàn tay của người lao động và linh hồn của một ông thánh. Hai chúng tôi là học
trò cưng của ông thầy; tối nào nó cũng cùng chúng tôi nghiên cứu huyền nghĩa của
sách bí pháp Cabbala. Tôi không biết Yerachmiel cũng đã chết. Tôi
chỉ nhận ra điều đó khi thấy nó trong đám đông này, ở cạnh ông thầy -- hoặc
đúng hơn, đứng cung kính ngay đằng sau ông thầy một bước.
“Yerachmiel, chú em,” tôi nói, “...có nhớ...?”
Chúng tôi đã cùng nhau vẽ lên những giấc mơ không thể nào xảy ra được. Theo
sách Cabbala, nếu linh hồn của một người đủ thanh khiết và tình yêu của người ấy
đủ thâm sâu, thì người ấy có thể mang Đấng Cứu thế tới trần
gian. Yerachmiel và tôi quyết định làm thử. Dĩ nhiên
chúng tôi có ý thức mối nguy hiểm ấy: không ai có thể cưỡng bách bàn tay của
Thượng đế mà được miễn hình phạt. Những người lớn tuổi hơn, thông
thái hơn và chín chắn hơn chúng tôi đã hoài công phí sức trong việc giật Thượng
đế khỏi chuỗi mắt xích của tương lai; không đạt được mục đích ấy, họ đánh mất đức
tin, lý trí và kể cả cuộc đời mình. Yerachmiel và tôi biết rõ chuyện
đó nhưng chúng tôi kiên quyết thực hiện kế hoạch của mình bất chấp các chướng
ngại đang chờ trên đường. Chúng tôi hứa sát cánh bên nhau cho dù có
xảy tới việc gì đi nữa. Và như thế, chúng tôi chuẩn bị cho cuộc hành
trình đi vào chốn thẳm sâu. Chúng tôi thanh tẩy linh hồn và thể xác
của mình, ăn chay ban ngày và cầu nguyện ban đêm. Nhằm làm tinh sạch
miệng lưỡi cùng lời ăn tiếng nói của nó, chúng tôi nói càng ít càng tốt và
trong ngày hưu lễ Sa-bát, chúng tôi tịnh khẩu.
Có thể những nỗ lực của chúng tôi đang đạt kết quả. Nhưng chiến
tranh bùng nổ và chúng tôi bị xua khỏi nhà mình. Tôi thấy Yerachmiel
lần cuối khi nó ở trong hàng dài dằng dặc những người Do thái đang bước đi, bị
trục xuất sang Đức. Một tuần sau, chính tôi cũng bị đưa sang Đức. Yerachmiel
ở trại này và tôi ở trại khác. Tôi thường tự hỏi không biết nó có một
mình tiếp tục các nỗ lực ấy không. Lúc này tôi hiểu: nó đã tiếp tục
và nó đang là người chết.
“Yerachmiel,” tôi nói; “Yerachmiel, chú em...có nhớ...”
Có điều gì đó ở nó đã thay đổi: bàn tay của nó. Lúc này là hai bàn
tay của một vị thánh.
“Chúng tôi cũng làm giống như thế,” tôi nói, “các đồng chí trong phong trào và
tôi, chúng tôi cũng đang cưỡng bách bàn tay của Thượng đế. Các người,
những kẻ đã chết, nên giúp chúng tôi, đừng cản trở...”
Nhưng Yerachmiel và hai bàn tay của nó lặng thinh. Và đâu đó trong
vũ trụ của thời gian, Đấng Cứu thế cũng lặng thinh. Tôi rời nó và bước
tới cậu bé là tôi trước kia.
“Có phải cậu đang xét xử tôi?” tôi hỏi. “Cậu là một trong những người
ít có quyền xét xử tôi nhất. Cậu may mắn: cậu chết yểu. Nếu
còn sống tới hôm nay, cậu sẽ ở vào chỗ của tôi lúc này.”
Khi ấy cậu bé cất tiếng. Giọng nói của nó đầy âm vang xao xuyến và
khắc khoải.
“Tôi không đang xét xử anh,” nó nói. “Chúng tôi không ngồi đây trong
địa vị xét xử. Chúng tôi ở đây là vì anh ở đây. Chúng tôi
có mặt tại bất cứ chỗ nào anh đi; chúng tôi là cái anh làm. Khi anh
hướng đôi mắt lên Thiên đàng, chúng tôi chia sẻ cái nhìn của đôi mắt ấy; khi
anh xoa đầu đứa bé đang đói, một ngàn bàn tay chúng tôi đặt lên đầu nó; khi anh
cho người ăn mày bánh mì, chúng tôi cho người ấy hương vị của địa đàng mà chỉ
có người nghèo mới có thể thưởng thức. Tại sao chúng tôi im lặng? Vì
im lặng không chỉ là nơi cư trú của chúng tôi mà còn là chính bản thân chúng
tôi. Chúng tôi là im lặng. Và sự im lặng của anh là chúng
tôi. Anh mang chúng tôi theo cùng anh. Đôi khi anh có thể
thấy chúng tôi, nhưng hầu hết mọi lúc, đối với anh chúng tôi vô
hình. Khi anh nhìn thấy chúng tôi, anh tưởng tượng chúng tôi đang ngồi
trong tư thế xét xử anh. Anh lầm. Sự im lặng của anh là
quan toà của anh.”
Đột nhiên, cánh tay của người ăn mày chạm nhẹ vào tôi. Tôi quay lại
và thấy ông đứng sau lưng. Tôi đã biết ông không phải Thần chết mà
là ngôn sứ Ê-li-a.
“Tôi nghe tiếng bước chân của Gad,” ông nói. “Anh ấy đang lên cầu
thang.”
“Tôi nghe tiếng bước chân của Gad,” Ilana vừa nói vừa chạm vào cánh tay tôi.
“Anh ấy đang lên cầu thang.”
Chầm chậm, với vẻ trống rỗng trên mặt, Gad bước vào phòng. Ilana chạy
lại phía anh và hôn lên môi anh nhưng anh dịu dàng đẩy chị ra.
“Anh ở dưới đó lâu quá,” chị nói. “Cái gì giữ anh lại vậy?”
Một nụ cười thảm khốc và buồn bã lướt qua mặt anh.
“Không gì cả,” anh nói. “Tôi ngó hắn ăn.”
“Hắn ăn?” tôi kinh ngạc hỏi. “Anh có ý nói là hắn có thể ăn?”
“Đúng, hắn ăn,” Gad nói. “Và ăn ngon lành.”
Tôi hiểu không ra.
“Cái gì?” tôi kêu lên. “Anh có ý nói là hắn đói?”
“Tôi không nói là hắn đói,” Gad đáp trả. “Tôi nói là hắn ăn ngon
lành.”
“Vậy là hắn không đói,” tôi cả quyết.
Mặt Gad sa sầm.
“Không, hắn không đói.”
“Thế tại sao hắn ăn?”
“Tôi không biết,” Gad nói một cách căng thẳng. “Có lẽ để cho tôi thấy
rằng hắn có thể ăn dù không đói.”
Ilana nhìn chăm chú bộ mặt anh, Chị cố gắng bắt cho được ánh mắt anh
nhưng anh đang đăm đăm nhìn vào khoảng không.
“Sau đó anh làm gì?” chị ngại ngần hỏi.
“Sau cái gì?” Gad sẳng giọng.
“Sau khi hắn ăn xong.”
Gad nhún vai.
“Không gì cả,” anh nói.
“Không gì cả. Anh có ý nói gì?”
“Không gì cả. Hắn kể chuyện.”
Ilana day day cánh tay anh.
Gad thở ra, cam chịu.
“Chỉ các mẩu chuyện,” anh lặp lại, rõ ràng mệt mỏi vì phải trả lời những câu hỏi
mà anh cho là kỳ cục.
Tôi muốn hỏi hắn có phá lên cười không, con tin ấy có bật ra tiếng cười nào
không. Nhưng tôi kềm lại được. Câu trả lời hẳn chỉ là phi
lý.
Sự xuất hiện trở lại của Gad làm Gideon và Joab thức giấc. Với vẻ mặt
phờ phạc, cả hai nhìn quanh như thể để lấy làm chắc rằng mình không đang
mơ. Đờ người ra ngáp, Joab hỏi giờ Gad.
“Bốn giờ,” Gad vừa trả lời vừa xem đồng hồ.
“Trễ vậy sao? Tôi không nghĩ là vậy.”
Gad vẫy ta ra hiệu tôi tới gần.
“Chẳng bao lâu nữa là ngày,” anh thăm dò.
“Tôi biết.”
“Cậu biết cậu phải làm gì chứ?”
“Vâng, tôi biết.”
Anh rút súng lục ra khỏi túi quần, đưa tôi. Tôi ngần ngại.
“Cầm nó,” anh nói.
Khẩu súng lục đen tuyền, gần như mới. Tôi sợ cả cái việc sờ vào nó,
vì nó đang chứa trọn vẹn sự khác biệt toàn bộ giữa cái tôi đang là và cái tôi sắp
là.
“Cậu chờ gì?” Gad sốt ruột hỏi.
Tôi đưa tay cầm súng. Tôi xem xét nó hồi lâu như thể tôi không biết
nó dùng cho mục đích gì. Sau cùng, tôi nhét nó vô túi quần mình.
“Tôi muốn hỏi anh một câu,” tôi bảo Gad.
“Hỏi đi.”
“Hắn có làm anh cười thành tiếng không?”
Gad lạnh lùng chăm chú nhìn tôi như thể anh không hiểu câu hỏi của tôi hoặc anh
không màng tới câu hỏi đó. Lông mày anh nhíu lại, băn khoăn.
“John Dawson,” tôi nói. “Hắn có làm anh bật cười không?”
Mắt Gad nhìn tôi chòng chọc; tôi cảm thấy hai con mắt đó xuyên thủng người tôi,
ra tới đằng sau gáy. Hẳn anh thắc mắc cái gì đang diễn ra trong tâm
trí tôi, tại sao tôi hỏi lui hỏi tới câu hỏi không quan trọng ấy. Tại
sao tôi không có vẻ khổ sở hoặc che dấu sự khổ sở của mình, hoặc khổ sở không
đúng mức.
“Không,” cuối cùng anh nói, “hắn không làm tôi cười.”
Chiếc mặt nạ của anh đang nứt ra một cách khó thấy. Mọi cố gắng của
anh là kiểm soát cho bằng được những biểu lộ trong đôi mắt mình, nhưng anh đã
lơ là cái miệng của mình, và chính ở đó lộ ra vết rạn. Môi trên của
anh đang có nét cay đắng và giận dữ.
“Anh đối phó với việc đó ra sao?” tôi hỏi anh với sự ngưỡng mộ giả tạo. “Những
chuyện hắn kể có tức cười không?”
Gad phát ra một thanh âm kỳ dị, giống mà không giống tiếng cười. Sự
im lặng tiếp theo làm nổi bật nỗi buồn bã mà một bàn tay vô hình nào đó đã vạch
dấu trên môi anh.
“—, chúng hoàn toàn khôi hài, rất buồn cười. Nhưng chúng không làm
tôi cười.”
Anh rút từ túi áo ra một điếu thuốc, châm lửa, hít mấy hơi và rồi không chờ tôi
hỏi thêm, anh tiếp tục:
“Tôi đang nghĩ tới David, thế thôi.”
Tôi ngẫm nghĩ, mình cũng sẽ nghĩ tới David. Anh ấy sẽ hộ vệ
tôi. John Dawson có thể sẽ cố chọc cho tôi cười nhưng tôi sẽ không
cười. David sẽ tới giải cứu tôi.
“Trễ rồi,” Joab nói, đờ người ra trong một cái ngáp khác.
Đêm vẫn còn ở thăm chúng tôi. Nhưng thật rõ ràng là nó đang sẵn sàng
đi hẳn. Đột nhiên tôi quyết định:
“Tôi đi xuống đó,” tôi nói.
“Sớm vậy sao?” Gad nói, bằng giọng nói có vẻ vừa xúc động vừa hết sức ngạc
nhiên. “Cậu còn nhiều thì giờ. Còn tới một giờ...”
Tôi nói rằng tôi muốn đi xuống đó dù chưa đến giờ, để gặp gã ấy và trò chuyện,
để biết hắn. Tôi nói, giết một người hoàn toàn xa lạ thì thật hèn
nhát. Nó giống như chiến tranh ở chỗ anh không bắn vào những con người
mà bắn vào đêm, và đêm bị thương kêu lên đau đớn như thể con người. Anh
bắn vào bóng tối và anh không bao giờ biết rõ có con người nào, có kẻ thù nào bị
giết hay không. Hành quyết một người xa lạ là việc giống y như thế. Nếu
chỉ gặp hắn khi hắn chết, tôi sẽ cảm thấy như thể mình bắn vào người đã chết.
Đó là lý do tôi đưa ra quyết định ấy. Tôi không chắc nó chính xác
hay không. Nghĩ lại, tôi thấy dường như mình bị kích động bởi tò
mò. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy một con tin. Tôi muốn
gặp một con tin, kẻ bị buộc phải chết và là kẻ kể các câu chuyện khôi
hài. Tò mò hay làm ra vẻ can đảm? Có thể mỗi thứ một
chút.
“Cậu có muốn tôi đi với cậu không?” Gad hỏi. Một nhúm tóc của anh xỏa
xuống trán nhưng anh không hất nó lên.
“Không, Gad,” tôi nói. “Tôi muốn ở một mình với hắn.”
Gad mỉm cười. Anh là người chỉ huy, tự hào về thuộc cấp của mình và
biểu lộ niềm hãnh diện đó bằng nụ cười. Anh đặt bàn tay trìu mến lên
vai tôi.
“Cậu có muốn ai đó cùng đi với cậu không?” người ăn mày hỏi.
“Không,” tôi lặp lại. “Tôi thích một mình hơn.”
Mắt ông ân cần vô hạn.
“Cậu không thể làm việc đó mà không có họ,” ông nói, ngoái đầu về phía đám đông
đằng sau chúng tôi.
“Họ có thể xuống sau,” tôi nhượng bộ.
Người ăn mày ôm đầu tôi trong hai bàn tay ông và nhìn vào mắt
tôi. Cái nhìn của ông quyền uy quá đổi, tới độ trong phút giây đó,
tôi đâm ra hoài nghi bản sắc của mình. Tôi tự nhủ, mình là cái nhìn
đó. Mình đâu thể là cái gì khác. Người ăn mày ấy có nhiều
cái nhìn và tôi là một trong những cái nhìn đó. Nhưng trong biểu lộ
của ông toả sáng vẻ ân cần và tôi hiểu rằng ông không thể nhìn một cách ân cần
bằng cái nhìn của chính ông. Đó là cách mà bản sắc của tôi về lại với
tôi.
“Thôi được,” ông nói, “họ sẽ xuống sau.”
Lúc này cậu bé, nhìn qua những chiếc đầu và những hình hài âm u giữa nó và tôi,
đề nghị đi với tôi. “Để sau,” tôi nói. Câu trả lời của
tôi làm nó buồn nhưng tôi chỉ có thể lặp lại: “Để sau, tôi muốn ở một mình với
hắn.”
“Cũng được,” cậu bé nói. “Chúng tôi sẽ tới sau.”
Tôi thả cái nhìn của mình chỗ này chỗ nọ khắp phòng, hi vọng để nó lại ở đó và
sẽ lấy lại nói khi tôi trở lên.
Ilana đang nói với Gad và anh không lắng nghe. Joab đang
ngáp. Gideon xoa xoa trán như thể đang nhức đầu.
Trong một giờ nữa, mọi sự sẽ khác, tôi ngẫm nghĩ. Tôi sẽ không nhìn
mọi sự theo cách giống y như thế này nữa. Bàn, ghế, các bức vách, cửa
sổ, hết thảy chúng đều sẽ thay đổi. Chỉ có những người chết -- cha
tôi và mẹ tôi, ông thầy và Yerachmiel -- vẫn y như cũ, vì hết thảy chúng tôi
cùng thay đổi, theo một cách giống như thế, cùng làm một việc giống như thế.
Tôi vỗ vỗ túi quần để biết chắc khẩu súng lục còn ở đó. Nó đang ở
đó; thật ra, tôi có cảm tưởng lạ lùng rằng nó đang sống, rằng cuộc sống của nó
là thành phần của tôi, rằng nó có chung số phận hiện tại và tương lai với bản
thân tôi. Tôi là số phận của nó và nó là số phận của
tôi. Tôi ngẫm nghĩ, trong một giờ nữa, nó cũng sẽ thay đổi.
“Trễ rồi,” Joab vừa nói vừa duỗi chân.
Bằng mắt mình, tôi nói lời vĩnh biệt với căn phòng, với Ilana, với Gideon và những
lời cầu nguyện của anh, với Joab và những biểu lộ lờ quờ của anh, với bàn, cửa
sổ, các bức vách và đêm. Kế đó, tôi vội vàng đi vào nhà bếp như thể
sắp đi vào cuộc hành quyết chính mình. Khi tôi bước xuống cầu thang,
bước chân tôi chùng lại và hóa ra nặng nề.
John Dawson là người đẹp trai. Dù mặt không cạo, tóc rối và áo sơ-mi
nhăn, người hắn vẫn có cái gì đó đặc biệt.
Hắn hình như khoảng tứ tuần -- rõ ràng là một quân nhân chuyên nghiệp -- với
đôi mắt sắc sảo, cằm cương nghị, môi mỏng, trán rộng và bàn tay
thon. Khi đẩy cửa vào, tôi thấy hắn đang nằm trên sạp, đăm đăm nhìn
trần hầm. Chiếc sạp là đồ vật bị duy nhất trong hầm giam chật hẹp
màu trắng. Vì chúng tôi gắn hệ thống lọc không khí rất tốt nên hầm
giam tuy không có cửa sổ vẫn thoáng hơn căn phòng bên trên.
Lúc nhận ra sự có mặt của tôi, John Dawson không tỏ vẻ ngạc nhiên hoặc sợ
hãi. Hắn không đứng lên mà chỉ nhỏm mình ngồi dậy. Hắn
chăm chú nhìn tôi khá lâu, không nói một lời, như thể cân đo mức độ im lặng của
tôi. Cái nhìn đăm đăm của hắn phủ lấy toàn thân tôi, và tôi tự hỏi hắn
có thấy là tôi chỉ toàn mắt với mắt.
“Mấy giờ rồi?” hắn đột ngột hỏi.
Bằng giọng không chắc lắm, tôi trả lời bốn giờ. Hắn nhíu mày, như thể
cố nắm bắt ý nghĩa ẩn dấu đằng sau những tiếng tôi vừa nói.
“Khi nào mặt trời mọc?” hắn hỏi.
“Một giờ nữa,” tôi trả lời. Và tôi nói thêm mà không biết tại sao:
“Khoảng đó.”
Chúng tôi nhìn nhau chằm chặp hồi lâu, và đột nhiên tôi nhận ra rằng thời gian
đang không chuyển động theo nhịp bình thường của nó. Tôi nghĩ, một
giờ nữa, mình sẽ giết hắn. Và tuy vậy, tôi không thật sự tin điều
đó. Một giờ này, giờ phân cách tôi với kẻ giết người sẽ dài hơn một
đời. Nó sẽ gắn liền mãi mãi vào một tương lai xa xăm; nó sẽ không
bao giờ làm một với quá khứ.
Trong hoàn cảnh này của chúng tôi có điều gì đó đã lâu đời. Không phải
chỉ có hai chúng tôi trong hầm giam này mà còn chỉ có hai chúng tôi trên thế giới
này, hắn ngồi, tôi đứng, nạn nhân và kẻ hành quyết. Chúng tôi là những
người đầu tiên -- hay là những người sau cùng -- của cuộc sáng thế; rõ ràng là
chỉ có hai chúng tôi thôi. Và Thượng đế? Ngài đang có mặt
đâu đó. Có thể Ngài hiện thân trong sự ưa thích mà John
Dawson lúc này tạo ra nơi tôi. Có thể Thượng đế là sự này, sự thiếu
hận thù giữa kẻ hành quyết và nạn nhân.
Chỉ hai chúng tôi trong hầm giam chật hẹp. Hắn ngồi trên sạp và tôi
đứng trước mặt hắn, chằm chặp nhìn nhau. Tôi thèm được nhìn mình qua
đôi mắt hắn. Có thể hắn cũng đang thèm nhìn hắn qua đôi mắt
tôi. Tôi cảm thấy không hận thù, không oán ghét cũng chẳng xót
thương; tôi thích hắn, thế thôi. Tôi thích cách hắn nhíu mày mỗi khi
suy nghĩ, cách hắn nhìn xuống móng tay mình khi cố sắp xếp các ý
nghĩ. Trong hoàn cảnh khác, hắn có thể là bạn của tôi.
“Có phải anh là kẻ đó?” hắn đột ngột hỏi.
Làm sao hắn đoán ra? Có thể là do khứu giác. Cái chết thì
có mùi và tôi mang mùi đó theo mình vào đây. Hoặc có thể tôi vừa bước
qua cửa thì hắn đã thấy tôi không tay không chân không vai mà chỉ toàn mắt với
mắt.
“Đúng,” tôi nói.
Tôi cảm thấy bình tĩnh. Cái bước trước bước cuối này là bước khắc
nghiệt; bước cuối này đưa tới tỉnh táo và an lòng.
“Anh tên gì?” hắn hỏi.
Câu hỏi làm tôi bối rối. Có phải mọi kẻ bị kết án đều buộc lòng phải
hỏi câu đó? Tại sao hắn muốn biết tên kẻ hành quyết
mình? Nhằm mang tên đó theo cùng hắn sang thế giới bên
kia? Để làm gì? Có lẽ tôi chẳng nên nói cho hắn biết,
nhưng tôi không thể từ chối đối với người đã bị lên án chết.
“Elisha,” tôi nói.
“Đầy nhạc tính,” hắn nhận xét.
“Đó là tên người đệ tử của E-li-a. Ông ấy đã làm cho một cậu bé sống
lại bằng cách nằm ấp lên người và hà hơi vào miệng cậu bé ấy.”
“Anh đang làm điều ngược lại,” hắn nói với một nụ cười.
Không có dấu vết căm ghét hoặc hận thù nào trong giọng nói của hắn. Có
lẽ hắn cũng cảm thấy tỉnh táo và an lòng.
“Anh bao nhiêu tuổi?” hắn hỏi, giọng quan tâm.
Mười tám, tôi nói với hắn. Và vì lý do nào đó, tôi thêm: “Gần mười
chín.”
Hắn ngẩng đầu lên, trên bộ mặt gầy và đột nhiên đanh lại của hắn lộ vẻ thương
xót. Hắn chăm chú nhìn tôi trong vài giây, rồi gật đầu buồn bã:
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” hắn nói.
Tôi cảm thấy lòng thương xót của hắn xuyên suốt người tôi. Tôi biết
rằng nó đang lan toả khắp châu thân tôi và rằng ngày kế tiếp đây, tôi sẽ lấy
làm buồn cho chính mình.
“Hãy kể chuyện cho tôi nghe,” tôi nói. “Một chuyện khôi hài, nếu anh
có thể.”
Tôi cảm thấy thân xác mình trở nên nặng nề. Ngày kế tiếp đây sẽ nặng
nề hơn, tôi ngẫm nghĩ. Ngày kế tiếp đây sẽ nặng trĩu vì sực sống của
tôi và cái chết của hắn. “Tôi là kẻ cuối cùng anh thấy trước khi anh
chết,” tôi tiếp tục. “Hãy cố làm cho kẻ đó cười.”
Thêm lần nữa tôi bị vây bọc bởi cái nhìn thương xót của hắn. Tôi tự
hỏi không biết có phải mọi kẻ bị kết án chết đều nhìn người cuối cùng theo cách
giống như hắn đang nhìn, không biết có phải mọi nạn nhân đều thương xót kẻ hành
quyết mình.
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” John Dawson lặp lại.
Tôi cố hết sức để khỏi cười thành tiếng.
“Đó không phải là chuyện nực cười,” tôi nhận xét.
Tới lượt hắn cười tôi, trong hai nụ cười của chúng tôi, nụ nào buồn hơn?
“Anh có chắc nó không buồn cười?”
Không, tôi không chắc. Có thể nó có cái gì đó tức cười. Nạn
nhân ngồi, kẻ hành quyết đứng -- đang cười và sẽ hiểu nhau rõ hơn nếu cả hai
cùng là bạn thiếu thời. Đó là công việc của thời
gian. Quét sạch lớp vỏ ngoài của những thái độ qui ước. Mỗi
lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ, là một sự thật trần trụi thay vì chỉ là một
trong những bề mặt của nó. Giữa hai chúng tôi có sự hoà điệu; nụ cười
của tôi đáp trả nụ cười của hắn; lòng thương xót của hắn là lòng thương xót của
tôi. Chưa ai từng hiểu tôi như hắn hiểu trong giờ
này. Tuy thế, tôi biết rằng đây hoàn toàn là do vai trò mà chúng tôi
bị bắt phải gánh vác. Điều đó biến nó thành khôi hài.
“Ngồi xuống đi,” John Dawson nói, nhích qua một bên dành chỗ cho tôi ngồi sát
bên trái hắn, trên sạp. Tôi ngồi xuống. Lúc ấy tôi mới nhận
ra hắn cao hơn hẳn tôi một cái đầu. Và chân hắn dài hơn hai chân
không chạm được tới đất của tôi.
“Tôi có đứa con trai bằng tuổi anh,” hắn bắt đầu. “Nhưng nó không giống
anh chút nào. Nó tóc vàng hoe, mạnh và khoẻ. Nó thích ăn,
uống, đi xinê, cười, hát và đi chơi với các cô gái. Nó hoàn toàn
không có cái khắc khoải, bất hạnh của anh.”
Và hắn tiếp tục kể thêm với tôi về đứa con trai của hắn “đang học đại học Cambridge.” Mỗi
câu là một ngọn lửa nung nấu thể xác tôi. Tôi vỗ bàn tay vào khẩu
súng lục trong túi quần mình. Khẩu súng cũng nóng rực và đốt cháy
các ngón tay tôi.
Tôi nói với tôi, mình đừng nghe hắn. Hắn là kẻ thù của tôi, và kẻ
thù thì không có chuyện này chuyện nọ. Tôi phải nghĩ tới cái gì
khác. Đó là lý do tôi muốn gặp hắn, để nghĩ tới cái gì khác trong
khi hắn đang nói. Cái gì khác...cái gì đây? Tới Ilana? Tới Gad?
Vâng, tôi nên nghĩ tới Gad, kẻ đang nghĩ tới David. Tôi nên nghĩ tới
vị anh hùng của chúng tôi, David ben Moshe.
Tôi nhắm mắt lại để nhìn David rõ hơn nhưng vô ích vì tôi chưa bao giờ gặp
anh. Một cái tên thì không đủ, tôi nghĩ. Người ta phải có
một bộ mặt, một giọng nói, một hình hài, và gắn cái tên David ben Moshe lên những
cái đó. Tốt hơn là hãy nghĩ tới một bộ mặt, một giọng nói, một hình
hài mà tôi thật sự biết. Gad? Không, thật khó tưởng tượng
Gad làm một kẻ bị buộc phải chết. Bị buộc phải chết...vậy
đó. Tại sao trước đây tôi không nghĩ tới việc ấy. John
Dawson bị buộc phải chết, tại sao tôi không gắn lên hắn cái tên David ben
Moshe? Vì trong năm phút nữa, ngươi là David ben Moshe...trong ánh
sáng trắng, lạnh và ẩm của tử ngục tại nhà tù ở Acre. Có tiếng
gõ cửa, rồi vị thầy cả bước vào hát Thánh vịnh với anh và nghe anh đọc kinh
Vidui, lời tự thú kinh hoàng trong đó anh thừa nhận trách nhiệm của mình không
chỉ về những tội lỗi anh đã phạm mà còn về những người mà có thể anh đã khiến
cho họ phạm tội bằng lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ của anh. Vị thầy cả
ban phép lành truyền thống cho anh: “Thiên Chúa ban ơn phúc cho con và gìn giữ
con...” và cổ vũ anh đừng sợ. Anh trả lời rằng anh không sợ, rằng nếu
có cơ hội, anh lại sẽ làm cái việc giống y như thế, làm đầy đủ từ đầu tới cuối. Vị
thầy cả mỉm cười và nói rằng mọi người bên ngoài đều hãnh diện về
anh. David quá đổi xúc động và xúc động sâu xa tới độ rõ ràng là
đang cố kềm lại những giọt nước mắt của anh; sau cùng vì cố gắng đó vượt quá sức
mình, anh thổn thức thành tiếng. Nhưng anh, David, anh đừng
khóc. Anh nên dành những cảm xúc đằm thắm cho vị thầy cả vì ông ấy
là người sau cùng trong cuộc đời (không tính kẻ hành quyết và những phụ tá của
y) mà anh thấy trước khi anh chết. Vì ông ấy đang thổn thức nên anh
cố an ủi ông. “Đừng khóc,” anh nói; “con không sợ. Thầy
không cần phải lấy làm buồn cho con.”
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” John David nói. “Anh làm tôi lo nghĩ, chứ
không phải là con trai tôi.”
Hắn đặt chân xuống sàn. Hắn cao quá tới độ khi đứng lên, phải khom
người để đầu khỏi đụng trần. Hắn đút tay vô túi quần kaki nhăn nhúm
và bắt đầu đi tới đi lui trong hầm giam: năm bước theo hướng này, năm bước theo
hướng ngược lại.
“Tôi công nhận cái đó tức cười thật,” tôi nhận xét.
Hắn có vẻ không nghe mà tiếp tục đi giáp vách này tới giáp vách
kia. Tôi nhìn đồng hồ; bốn giờ hai mươi. Đột nhiên hắn dừng
lại trước mặt tôi, hỏi thuốc lá. Trong túi tôi có một gói và tôi muốn
cho hắn hết. Nhưng hắn không chịu lấy cả gói, nói hết sức điềm tĩnh
rằng hắn không có thì giờ hút hết.
Rồi với giọng bỗng nhiên nôn nóng, hắn hỏi tôi:
“Anh có viết chì và giấy không?”
Tôi xé vài trang trong cuốn sổ tay, đưa cho hắn với cây viết chì.
“Tôi muốn gởi cho con trai tôi ít chữ thôi,” hắn bày tỏ. “Tôi sẽ ghi
lại địa chỉ.”
Tôi đưa hắn cuốn sổ tay để kê. Hắn đặt cuốn sổ lên mặt sạp, và trong
tư thế đứng, hắn cúi người xuống viết. Trong vài phút, chỉ có tiếng
bút chì sột soạt trên giấy khua động sự yên lặng.
Tôi nhìn không chớp mắt vào bàn tay mịn màng của hắn với những ngón tay dài,
thon và thanh tú. Với đôi bàn tay như thế này, tôi nghĩ, thì người
ta dễ kết bạn. Không cần phải cúi đầu, mỉm cười, trò chuyện, xưng tụng
hoặc tặng hoa. Đôi tay như thế này làm thay hết tất cả những cái
đó. Rodin hẳn thích tạc đôi tay này...
Ý nghĩ về Rodin khiến tôi nhớ tới Stefan, một người Đức tôi quen tại Buchenwald. Trước
chiến tranh, anh là nhà điêu khắc, nhưng khi tôi gặp anh thì lũ Quốc xã đã cắt
sạch các ngón tay phải của anh.
Tại Berlin, vào những năm đầu thời Hitler mới cầm quyền, Stefan cùng một số
bạn hữu tổ chức một nhóm kháng chiến. Sau một thời gian ngắn thành lập,
nhóm còn đang phôi thai thì bị Gestapo phát hiện. Stefan bị bắt, bị
hỏi cung và bị tra tấn. Chúng nói, mầy hãy khai báo cho chúng tao
tên mấy đứa kia rồi tao sẽ thả mầy ra. Chúng đánh anh, bỏ đói anh
nhưng anh không khai. Ngày tiếp ngày, đêm liền đêm, chúng không cho
anh ngủ nhưng anh vẫn không chịu thua. Cuối cùng anh bị dẫn tới trước
viên chỉ huy trưởng Gestapo ở Berlin. Tên xếp ấy là người ngọt
ngào, cả thẹn. Với cung cách một người cha có giọng nói dịu dàng,
tên xếp khuyên anh chấm dứt cung cách ngớ ngẩn dại dột đó. Nhà điêu
khắc nghe hắn bằng thái độ câm nín như đá. “Mau mắn lên chút chứ,”
tên xếp nói, “Anh chỉ cần nói cho ta biết tên một đứa thôi, như một dấu hiệu
thiện chí.” Stefan vẫn không nói. “Tệ thật,” tên xếp nói,
“Anh ép chúng tôi phải làm đau anh.”
Theo mật hiệu của tên xếp, hai lính SS dẫn người tù vào nơi giống như một phòng
mỗ. Tại đó có chiếc ghế chữa răng kê gần cửa sổ. Bên cạnh
ghế, trên mặt bàn phủ vải dầu trắng, sắp ngay ngắn các y cụ giải phẫu. Chúng
đóng cửa sổ, cột Stefan vô ghế rồi châm thuốc hút. Viên xếp có phong
thái ngọt ngào đó vào phòng, mặc áo khoác trắng của bác sĩ.
“Anh đừng sợ,” hắn nói; “ta từng là bác sĩ giải phẫu.”
Hắn lúi húi sửa soạn đồ nghề, xong ngồi xuống ghế trước mặt người
tù. “Anh đưa ta bàn tay phải của anh,” hắn nói. Nhìn săm
soi tỉ mỉ bàn tay, hắn thêm: “Ta được biết anh là nhà điêu khắc. Anh
chẳng có điều gì khai, phải không? Được. Ta cũng biết như
vậy. Ta có thể phát hiện chúng từ bàn tay anh. Bàn tay của
con người nói cho biết nhiều điều về hắn. Thí dụ bàn tay của
ta. Chẳng bao giờ anh coi chúng là bàn tay của một bác sĩ giải phẫu,
phải không? Sự thật là ta chẳng bao giờ muốn làm bác
sĩ. Ta chỉ muốn làm họa sĩ hay nhạc sĩ. Tuy ta không bao
giờ trở thành kẻ ta muốn nhưng ta vẫn có bàn tay của một nghệ
sĩ. Anh nhìn chúng đây này.”
“Tôi nhìn chúng và mê mẩn,” Stefan kể với tôi. “Hắn có
bàn tay tuyệt đẹp, đẹp nhất, thiên thần nhất tôi chưa từng thấy. Anh
phải tin rằng bàn tay của hắn là của một người nhạy cảm và thanh cao.”
“Là nhà điêu khắc, anh cần bàn tay của anh,” tên xếp Gestapo tiếp tục. “Rủi
thay, chúng ta không cần tới chúng,” và vừa nói hắn vừa cắt một ngón tay của
anh.
Ngày tiếp đó, hắn cắt ngón tay thứ nhì, và ngày kia nữa, hắn cắt ngón tay thứ
ba. Năm ngày, năm ngón tay. Trọn năm ngón tay của bàn tay
phải ra đi.
“Anh đừng lo gì cả,” tên xếp trấn an. “Xét theo quan điểm y học, mọi
sự đang diễn ra trong trật tự. Không có nguy cơ làm độc.”
“Tôi gặp hắn năm lần,” Stefan kể với tôi. (Vì lý do nào đó không cắt
nghĩa được, anh không bị giết mà chỉ bị tống vào trại tập
trung). “Suốt năm ngày, lần nào tôi cũng thấy hắn thật gần. Mỗi
lần như thế, tôi không thể không nhìn vào hai bàn tay của hắn, đôi bàn tay có
hình dáng tuyệt vời, đẹp nhất tôi chưa từng thấy...”
John Dawson viết xong mấy hàng chữ, đưa tờ giấy cho tôi nhưng tôi hầu như không
nhìn nó. Mắt tôi đang dán chặt vào đôi bàn tay mịn màng, thanh nhã của
hắn.
“Anh có phải là một nghệ sĩ?” tôi hỏi hắn.
Hắn lắc đầu.
“Anh có từng vẽ hoặc chơi một nhạc cụ, hoặc ít ra từng muốn làm việc đó?”
Hắn im lặng nhìn tôi chằm chặp rồi nói với giọng khô rang:
“Không.”
“Vậy có thể anh từng học ngành y.”
“Tôi chưa bao giờ học y,” hắn nói, gần như nổi cáu.
“Tệ thật.”
“Tệ thật? Tại sao?”
“Hãy nhìn hai bàn tay anh. Chúng là bàn tay của một bác sĩ giải phẫu. Loại
bàn tay để cắt các ngón tay.”
Hắn khoan thai đặt các tờ giấy xuống.
“Có phải đây là một chuyện khôi hài?” hắn hỏi.
“Vâng, rất khôi hài. Cái gã kể chuyện đó cho tôi nghe đã nghĩ như vậy. Hắn
thường cười chuyện đó miết cho tới khi hắn khóc.”
John Dawson lúc lắc đầu và nói bằng giọng buồn vô hạn.
“Anh căm thù tôi, phải không?”
Tôi chẳng chút nào căm thù hắn, nhưng tôi muốn căm thù hắn. Hận thù
biến việc này trở thành hoàn toàn dễ thực hiện. Hận thù -- cũng giống
như đức tin hoặc tình yêu hoặc chiến tranh -- biện hộ cho mọi sự.
“Elisha, tại sao ngươi giết John Dawson?”
“Hắn là kẻ thù của tôi.”
“John Dawson? Kẻ thù của ngươi? Ngươi phải giải thích điều ấy rõ hơn.”
“Được lắm. John Dawson là một người Anh. Người Anh là kẻ
thù của người Do thái tại Palestine. Vậy John Dawson là kẻ thù
của tôi.”
“Nhưng Elisha, ta vẫn không hiểu được tại sao ngươi giết hắn. Phải
chăng ngươi là kẻ thù độc nhất của hắn?”
“Không, nhưng tôi có lệnh trên. Ngươi đã biết cái đó nghĩa là gì rồi.”
“Và có phải lệnh trên biến hắn thành kẻ thù độc nhất của
ngươi? Ngươi nói đi, Elisha. Tại sao ngươi giết John
Dawson?”
Nếu tôi viện lẽ thù hận thì tất cả những câu hỏi ấy đều thừa thải. Tại
sao tôi giết John Dawson. Vì tôi căm thù hắn, thế
thôi. Tính cách tuyệt đối của hận thù cắt nghĩa được cho bất cứ hành
động nào của con người dù hành động đó có mang trong nó điều gì đó bất nhân.
Chắc chắn là tôi muốn căm thù hắn. Đó là phần nào lý do khiến tôi dấn
mình vào cuộc chuyện trò với hắn trước khi tôi giết hắn. Về phía tôi
điều đó thật phi lý, nhưng thực tế, trong khi đôi bên trò chuyện, tôi hy vọng sẽ
tìm thấy trong hắn hoặc trong tôi điều gì đó làm phát sinh thù hận.
Một người căm thù kẻ thù của mình vì hắn căm thù sự thù hận của chính
mình. Người ấy tự nhủ: Gã này, kẻ thù của tôi, đã khiến
cho tôi có thể thù hận. Tôi căm thù hắn không phải vì hắn là kẻ thù
của tôi, cũng không phải vì hắn căm thù tôi nhưng là vì hắn làm lòng tôi dậy
lên thù hận. Tôi tự nhủ, John Dawson đã khiến cho tôi thành kẻ giết
người. Hắn đã biến tôi thành một kẻ giết tên John
Dawson. Hắn xứng đáng với lòng căm thù của tôi. Nếu không
do hắn thì tôi vẫn là kẻ giết người, nhưng tôi không là kẻ giết tên John
Dawson.
Vâng, tôi bước xuống hầm giam để tiếp dưỡng sự thù hận. Chuyện này
hình như khá dễ dàng. Các quân đội và các chính phủ trên thế giới có
kỹ thuật cụ thể để kích thích thù hận. Bằng các diễn văn và các loại
tuyên truyền muôn hình muôn vẻ, họ tạo ra hình ảnh của kẻ thù trong đó kẻ thù
lúc nào cũng là hiện thân của cái ác, biểu tượng của đau khổ, nguồn gốc của tàn
bạo và bất công. Tôi tự nhủ, kỹ thuật đó chắc ăn, và tôi sẽ áp dụng
nó trên nạn nhân của tôi.
Tôi đã cố gắng qui chiếu nó. Mọi kẻ thù đều chẳng hơn kém gì nhau,
tôi nói. Kẻ này chịu trách nhiệm về tội ác kẻ kia phạm. Chúng
có những bộ mặt khác nhau nhưng bàn tay chúng đều giống nhau, những bàn tay cắt
lưỡi và chặt tay các bạn tôi.
Khi bước xuống cầu thang, tôi chắc chắn mình sẽ gặp kẻ đang bắt David ben Moshe
phải chết, kẻ đã giết cha mẹ tôi, kẻ đã xuất hiện chắn ngang giữa tôi và con
người tôi muốn trở thành, và kẻ lúc này sẵn sàng giết con người ấy trong
tôi. Tôi cảm thấy chắc chắn một trăm phần trăm rằng tôi sẽ căm thù hắn.
Việc ngó thấy bộ quân phục của hắn châm thêm dầu vào lửa của tôi. Để
làm bốc thêm thù hận của tôi thì không gì hơn một bộ quân phục. Khi
nhìn đôi bàn tay thon của hắn, tôi nói với mình: Stefan sẽ vì đôi bàn tay ấy mà
tạo ra lòng thù hận của tôi. Còn nữa, khi hắn cúi xuống viết những
hàng chữ vĩnh biệt cho con trai của hắn, đứa con trai “đang học đại học
Cambridge”, đứa con trai “thích cười và đi chơi với các cô gái”, tôi nghĩ,
David cũng đang viết lá thư cuối cùng, có thể là cho Ông Già, trước khi đút đầu
mình vào dây thòng lọng treo cổ. Và trong khi hắn nói, tim tôi lang
thang tới David, kẻ đang không có người nào để trò chuyện trừ vị thầy cả. Anh
không thể trò chuyện với thầy cả vì anh còn lo sửa soạn những lời sau chót mà
anh sắp nói với Thượng đế. Anh có thể thú nhận tội lỗi của anh, hát
Thánh vịnh hoặc đọc những câu kinh dành cho kẻ chết, tiếp nhận lời an ủi của thầy
cả hoặc làm khuây khoả thầy cả, nhưng anh không thể trò chuyện, thật ra là
không thể.
Tôi nghĩ tới David, kẻ tôi chưa bao giờ gặp và sẽ không bao giờ
quen. Vì anh không phải người đầu tiên trong chúng tôi bị treo cổ
nên chúng tôi biết chính xác anh chết vào lúc nào và chết như thế
nào. Khoảng năm giờ sáng, cửa xà lim mở và quản đốc nhà giam sẽ nói:
David ben Moshe, chuẩn bị; thời gian tới rồi. “Thời gian tới rồi”,
đây là câu nói có tính cách nghi thức, như thể chỉ có thời gian này mới có ý
nghĩa, các thời gian khác đều vô nghĩa. David sẽ đưa mắt nhìn quanh
phòng, và vị thầy cả sẽ nói: “Đến đây, con của ta.” Họ sẽ cùng đi ra
để lại đằng sau mình cửa xà lim vẫn mở (vì lý do nào đó, chẳng bao giờ có ai nhớ
đóng nó lại) và bắt đầu bước vào một hành lang dài dẫn tới phòng hành quyết. Vì
là người quan trọng nhất trong giờ đó và thấy rõ rằng những người kia tới đây
chỉ vì mình, David sẽ đi chính giữa nhóm người đó. Anh sẽ bước đi,
ngẩng cao đầu -- mọi anh hùng của chúng tôi đều ngẩng cao đầu -- và một nụ cười
kỳ dị trên môi. Bên phía khác của hành lang, một trăm cặp mắt cặp
tai đang chờ anh đi qua, và tù nhân đầu tiên trong số các tù nhân, thấy anh tới
gần, sẽ xướng bài Hatikva, bài ca hi vọng. Nhóm người đó càng tiến
bước thì bài ca càng vang lên lớn hơn, đầy tình người hơn, mạnh mẽ hơn, cho tới
khi âm thanh của nó ngang với tiếng của các bước chân.
Khi John Dawson nói tới con trai của hắn, tôi nghe đang vang lên tiếng bước
chân của David và âm thanh của bài ca đó. Với lời lẽ của mình, John
Dawson cố khỏa lấp các bước chân ấy, cố xóa sạch quang cảnh David đang bước vào
hành lang với nụ cười kỳ dị trên môi anh, cố nhận chìm âm thanh ảo nảo của
Hatikva, bài ca hi vọng.
Tôi muốn căm thù hắn. Hận thù sẽ làm mọi sự trở nên giản dị... Tại
sao ngươi giết John Dawson? Tôi giết hắn vì tôi căm thù hắn. Tôi
căm thù hắn vì David ben Moshe căm thù hắn; và David ben Moshe căm thù hắn vì hắn
trò chuyện trong khi David bước vào hành lang ảm đạm đi tới tận đầu mút đằng
kia của nó để gặp cái chết của chính mình.
“Elisha, anh căm thù tôi, phải không?” John Dawson hỏi. Trong mắt hắn
có cái nhìn chan chứa dịu dàng.
“Tôi đang ra sức căm thù anh,” tôi trả lời.
“Elisha, tại sao anh phải ra sức căm thù tôi?”
Hắn nói bằng giọng nồng ấm, thoáng buồn và rõ ràng là không có chút tò mò nào.
Tại sao? Tôi tự hỏi. Thật là một câu đáng hỏi! Không
có hận thù thì tất cả những gì các đồng chí của tôi và tôi đang làm đều vô
ích. Không có hận thù thì chúng tôi không hy vọng đạt chiến thắng. Tại
sao tôi ra sức căm thù anh, John Dawson? Vì dân tộc của chúng tôi
không bao giờ biết cách căm thù. Suốt những thế kỷ qua, thảm kịch của
họ xuất phát từ sự họ không có khả năng căm thù những kẻ sỉ nhục họ và thỉnh
thoảng diệt chủng họ. Lúc này, cơ hội độc nhất của chúng tôi nằm
trong sự căm thù anh. Bằng không, John Dawson ạ, tương lai của chúng
tôi sẽ chỉ là sự tiếp nối quá khứ ấy và Đấng Cứu thế sẽ không chờ đến vô tận
cho cuộc giải phóng của ngài.
“Tại sao anh phải ra sức căm thù tôi?” John Dawson hỏi thêm lần nữa.
“Để cho hành động của tôi mang một ý nghĩa dù gì đi nữa cũng vượt lên trên nó.”
Thêm lần nữa, hắn chầm chậm lúc lắc đầu.
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” hắn lặp lại.
Tôi nhìn đồng hồ mình. Năm giờ thiếu mười. Mười phút nữa. Trong
mười phút nữa tôi sẽ thực hiện hành động quyết định nhất và quan trọng nhất đời
tôi. Tôi đứng lên khỏi giường.
“Chuẩn bị đi, John Dawson,” tôi nói.
“Tới giờ rồi ư?” hắn hỏi.
“Sắp tới rồi,” tôi trả lời.
Hắn ngẩng lên và dựa đầu vào vách, có lẽ là để tom góp các ý nghĩ hoặc để cầu
nguyện hay để làm điều gì đó đại loại như thế.
Năm giờ thiếu tám phút. Tám phút nữa. Tôi rút khẩu súng lục
ra khỏi túi quần. Tôi sẽ làm gì nếu hắn tính giật súng khỏi tay
tôi? Hắn sẽ không có cơ hội thoát. Ngôi nhà này được canh
gác chặt chẽ và không có lối nào ra khỏi hầm giam này trừ ngả đi qua nhà bếp. Gad,
Gideon, Joab và Ilana đang canh chừng cầu thang, và John Dawson biết chuyện đó.
Năm giờ thiếu sáu phút. Sáu phút nữa. Đột nhiên tôi cảm
thấy hoàn toàn tỉnh táo. Có ánh sáng bất ngờ trong hầm này; những lằn
ranh đã vạch, các vai trò đã được xác định rõ rệt. Thời gian hoài
nghi, tra vấn và bất định đã qua rồi. Tôi là bàn tay đang cầm khẩu
súng lục; tôi là khẩu súng lục đang được cầm trong tay tôi.
Năm giờ thiếu năm phút. Năm phút nữa.
“Đừng sợ, con,” vị thầy cả nói với David ben Moshe. “Thiên Chúa ở
cùng con.”
“Đừng lo, ta là bác sĩ giải phẫu,” tên xếp Gestapo có phong thái ngọt ngào nói
với Stefan.
“Tờ giấy tôi viết,” John Dawson vừa nói vừa xoay người lại, “Anh sẽ gởi nó cho
con trai tôi, phải không?”
Hắn đang đứng dựa vách; hắn là bức vách. Năm giờ kém ba
phút. Ba phút nữa.
“Thiên Chúa ở cùng con,” vị thầy cả nói. Ông đang khóc nhưng lúc này
David không thấy ông.
“Tờ giấy tôi viết, anh sẽ không quên, phải không?” John Dawson nằng nặc.
“Tôi sẽ gởi nó,” tôi hứa, và vì lý do nào đó tôi thêm: “Tôi sẽ gởi hôm nay, qua
bưu điện.”
“Cám ơn,” John Dawson nói.
David đang đi vào căn phòng nơi anh khi ra sẽ không còn sống nữa. Người
treo cổ đang chờ anh. Hắn chỉ toàn mắt với mắt. Davit leo
tới thòng lọng. Người treo cổ hỏi anh có muốn bịt mắt
không. David kiên quyết trả lời không. Chiến sĩ Do thái
chết với đôi mắt mở, muốn nhìn tận mặt cái chết.
Năm giờ thiếu hai phút. Tôi rút chiếc khăn tay ra khỏi túi nhưng
John Dawson ra lệnh cho tôi nhét vào lại. Người Anh chết với đôi mắt
mở, muốn nhìn tận mặt cái chết.
Năm giờ thiếu sáu mươi giây. Một phút nữa.
Cửa hầm giam mở ra không một tiếng động, và những người chết kéo nhau vào, làm
căn hầm tràn ngập sự im lặng của họ. Hầm giam chật hẹp trở thành ngột
ngạt gần như không chịu đựng nổi.
Người ăn mày chạm vai tôi và nói:
“Ngày đã gần kề.”
Và cậu bé, kẻ nhìn theo cách tôi từng nhìn, nói với vẻ lấn cấn lộ rõ trên mặt:
“Đây là lần đầu tiên --” giọng nói của nó lê thê, và rồi như thể nhớ ra mình đã
buông lửng câu nói, nó níu lại, nói tiếp, “lần đầu tiên tôi nhìn một cuộc
hành quyết.”
Cha tôi và mẹ tôi cũng có mặt, và ông thầy tóc hoa râm, và
Yerachmiel. Sự im lặng của họ nhìn tôi chằm chặp.
David cứng người và bắt đầu hát bài Hatikva.
John Dawson mỉm cười, với cái đầu dựa vào vách và thân người thẳng thật thẳng
như thể đang chào một tướng lãnh.
“Tại sao anh mỉm cười?” tôi hỏi.
“Cậu chớ bao giờ hỏi một người đang nhìn cậu về lý do nụ cười của hắn,” người
ăn mày nói.
“Tôi đang mỉm cười,” John Dawson nói, “vì bỗng dưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng,
tôi không biết tại sao tôi sắp chết.” Và sau một chút im lặng, hắn
thêm: “Anh có biết không?”
“Cậu thấy chứ?” người ăn mày nói. “Tôi đã bảo cậu chớ đặt câu hỏi
nào cho người sắp chết.”
Hai mươi giây. Phút này dài hơn sáu mươi giây.
“Đừng cười,” tôi nói với John Dawson. Điều tôi có ý nói
là: “Tôi không thể bắn người đang cười.”
Mười giây.
“Tôi muốn kể anh nghe một câu chuyện,” hắn nói, “một câu chuyện tức cười.”
Tôi nâng cánh tay phải lên.
Năm giây.
“Elisha---”
Hai giây. Hắn vẫn mỉm cười.
“Tệ thật,” cậu bé nói. “Tôi muốn nghe câu chuyện của hắn.”
Một giây.
“Elisha---” con tin nói.
Tôi bắn. Khi hắn nói lên tên tôi thì hắn đã chết; viên đạn đã xuyên
tim hắn. Một người chết, môi người ấy vẫn ấm, đã nói lên tên tôi:
Elisha.
Hắn té chầm chậm xuống đất, như thể hắn tuột người xuôi theo bức
vách. Thi thể hắn vẫn trong tư thế ngồi, đầu cúi xuống giữa hai đầu
gối như thể hắn vẫn đang ngồi chờ bị giết. Tôi ở lại một chút bên hắn. Đầu
tôi nhức và thân xác tôi hóa ra nặng nề. Phát súng nổ, để lại tôi điếc
tai và đờ đẩn. Thế thôi, tôi nói với mình. Xong rồi. Tôi
đã và đang giết. Tôi đã và đang giết Elisha.
Các bóng ma bắt đầu rời căn hầm, mang John Dawson theo với họ. Cậu
bé đi một bên hắn như thể hướng dẫn hắn. Tôi nghe hình như mẹ tôi
nói: “Đứa con trai khốn khổ! Đứa con trai khốn khổ!”
Rồi với bước chân nặng nề, tôi lần theo cầu thang dẫn lên nhà bếp. Tôi
bước vào căn phòng, nhưng căn phòng không giống như cũ nữa. Các bóng
ma đã đi. Joab không còn ngáp. Gideon đang nhìn xuống
móng tay mình và cầu nguyện cho người chết được an nghỉ. Ilana đưa bộ
mặt sầu muộn về phía tôi; Gad châm thuốc lá. Họ im lặng, nhưng sự im
lặng lúc này khác sự im lặng suốt đêm dài đã đè nặng lên tôi. Đằng
chân trời, mặt trời đang mọc.
Tôi bước tới cửa sổ. Thành phố còn ngủ. Đâu đó đứa bé thức
giấc và bắt đầu khóc. Tôi thèm nghe có con chó nào đó cất tiếng sủa
nhưng quanh đây không chỗ nào có chó.
Đêm cuốn đi, để lại đằng sau ánh sáng xam xám màu ao tù nước đọng. Chẳng
bao lâu chỉ còn lại mảnh tả tơi của bóng tối lơ lửng giữa không trung phía bên
kia cửa sổ. Mảnh tả tơi của bóng tối đó có một bộ mặt. Nhìn
vào bộ mặt đó tôi hiểu lý do sự sợ hãi của tôi. Bộ mặt đó là bộ mặt
của chính tôi.
Xem tiếp phần ba trong những ngày tới.
22/9/2010
Elie Wiesel
Nguyễn Ước dịch
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Suốt một giờ kế đó, chẳng ai nói với ai lời nào. Tất
cả đều đang nghĩ tới David ben Moshe. David không cô đơn trong tử ngục
của mình, các bạn của anh đang ở với anh. Tất cả, trừ
tôi. Tôi chỉ nghĩ đến David lúc nào họ nhắc tên anh. Khi
họ im lặng, tôi tiếp tục nghĩ tới một người khác, tới một người tôi không quen
biết, không hơn gì tôi biết về David, nhưng đó là người tôi bị định phận phải
biết. David ben Moshe của riêng tôi có cái tên và bộ mặt của một người
Anh, đại úy John Dawson.
“Chúng ta phải mang cái gì đó cho người Anh ấy ăn,” anh nói.
Đúng, tôi tự nhủ, Gideon cũng đang buồn bã. Anh đang nghĩ tới John Dawson. Chắc chắn anh buồn, tránh sao được.
“Tôi không tưởng tượng ra được là hắn đói,” tôi nói lớn. “Anh không thể trông mong một người bị buộc phải chết lại cảm thấy ăn ngon miệng.” Và để nói với chính mình, tôi thêm. “Hoặc một người bị bắt buộc phải giết cũng thế.”
Hẳn giọng nói của tôi có âm điệu kỳ quái vì những người khác đều ngẩng đầu lên, và tôi cảm thấy trong cái nhìn của họ có điều gì đó ái ngại.
“Không,” tôi nói một cách ngang bướng, “một người bị buộc phải chết thì không thể nào đói.”
Họ không nhúc nhích mà ngồi ngay đơ như từng giây đồng hồ đang trôi qua là bất tận. “Bữa ăn chót theo truyền thống của tử tội là một trò hề,” tôi nói lớn tiếng, “một trò cười vị giác tồi bại nhất, một sự nhục mạ cái thi hài mà hắn sắp trở thành. Hắn đâu thiết tới việc chết mà dạ dày đầy hay rỗng?”
Trong mắt Gad lộ vẻ ngạc nhiên ray rứt, còn Ilana ngó tôi với lòng trắc ẩn và Gideon thì với tình thân thiện. Joab chẳng chút nhìn tôi. Mắt anh cụp xuống, nhưng có thể đó là cách anh thường nhìn.
“Hắn không biết,” Gideon nhận xét.
“Hắn không biết cái gì?” tôi hỏi mà không ý thức được tại sao mình cao giọng. Có thể vì tôi muốn nghe mình nói lớn để khuấy động cơn giận của mình và thấy cơn giận ấy phản chiếu trong những hình bóng bất động trong gương và trên vách. Hoặc có thể xuất phát từ sự hoàn toàn yếu đuối của mình. Tôi cảm thấy mình không có quyền sức để thay đổi bất cứ điều gì, ít nhất là bản thân mình, mặc dầu thực tế tôi muốn đưa vào căn phòng một sự chuyển biến để lập lại thứ tự của sự tạo thành này. Tôi muốn biến Ông Thánh thành Gã khật khùng, muốn làm cho Gad mang tên John Dawson và muốn David mang số phận của Gad. Nhưng tôi biết mình chẳng làm được gì. Để có quyền sức như thế, tôi phải đưa tới cái chết, không phải chỉ cái chết cá nhân của Dawson, viên đại úy người Anh, kẻ cũng như tôi không còn biết ngon miệng.
“Hắn không biết cái gì?” tôi lanh lãnh lặp lại.
“Hắn không biết mình sắp chết,” Gideon nói bằng giọng ảo não mơ hồ.
“Dạ dày hắn biết,” tôi đáp trả. “Người sắp chết chỉ lắng nghe dạ dày của mình. Hắn không chú ý tới trái tim của hắn hoặc dĩ vãng của hắn và cũng chẳng quan tâm tới những thứ đó của anh. Hắn lắng nghe dạ dày của hắn và dạ dày của hắn nói cho hắn biết rằng hắn sắp chết và rằng hắn không đói.”
Tôi nói nhanh quá và lớn quá khiến nói xong tôi thở hổn hển. Tôi muốn bỏ chạy nhưng mắt nhìn đăm đăm của các bạn ghim tôi tại chỗ. Thần chết vây chặn mọi lối ra và khắp nơi chỉ toàn mắt với mắt.
“Tôi sắp xuống hầm giam đây,” Gideon nói. “Tôi sẽ hỏi hắn có muốn ăn chút gì không?”
“Đừng hỏi hắn gì cả,” tôi nói. “Hãy chỉ giản dị nói với hắn rằng ngày mai, lúc mặt trời lên quá đường chân trời đỏ như máu thì hắn, John Dawson, sẽ nói lời vĩnh biệt cuộc đời, vĩnh biệt dạ dày của mình. Hãy nói với hắn rằng hắn sắp chết.”
Gideon đứng lên, mắt không rời tôi, bắt đầu đi về phía nhà bếp và lối xuống hầm giam. Tới cửa, anh dừng lại.
“Tôi sẽ nói cho hắn biết,” anh thốt lên với nụ cười bất chợt và héo úa. Rồi anh trở gót và tôi nghe bước chân anh đi xuống cầu thang.
Tôi biết ơn sự ưng thuận của anh. Anh, chứ không phải tôi, báo cho John Dawson về cái chết đang tới gần của hắn. Tôi không thể nào làm được việc đó. Giết một người thì dễ hơn là báo cho người ấy biết tin rằng hắn sắp chết.
“Nửa đêm,” Joab nói.
“Nửa đêm,” tôi ngẫm nghĩ, đây là giờ người chết đứng lên khỏi mồ, tới đọc kinh trong hội đường, đây là giờ chính Bản thân Thượng đế khóc than sự sụp đổ của Đền Thánh, đây là giờ con người có thể thăm dò những chốn sâu thẳm trong lòng mình và nhận ra Đền Thánh trong các tàn tích. Thượng đế thì khóc và người chết thì cầu nguyện.
“Cậu bé khốn khổ!” Ilana thì thầm.
Chị không nhìn tôi, nhưng lệ của chị long lanh soi quá gần vào khuôn mặt tôi. Không phải đôi mắt của chị mà nước mắt của chị đang vỗ về tôi.
“Đừng gọi như vậy, Ilana. Đừng gọi tôi là cậu bé khốn khổ.”
Mắt chị đầy ngấn nước mắt, đúng hơn, những giọt lệ tại nơi có đôi mắt của chị, những ngấn nước mắt mà mỗi giây trôi qua, nó mọng nước hơn, nằng nặng hơn, chực trào ra và nhỏ xuống... Tôi sợ rằng bỗng dưng sẽ xảy tới điều tệ hại nhất: không còn ở đó một Ilana lung linh mờ ảo nữa; chị sẽ chết đuối trong nước mắt của mình. Tôi muốn chạm vào cánh tay chị và nói đừng khóc. Muốn gì thì nói nhưng đừng khóc.
Nhưng chị không khóc. Chỉ đôi mắt khóc, và chị không còn mắt, nơi của đôi mắt chỉ là những giọt lệ.
“Cậu bé khốn khổ!” chị lặp lại.
Rồi bỗng dưng trở thành sự thật điều tôi đã đoán trước. Ilana biến mất, và Catherine thay vào chỗ đó. Tôi tự hỏi làm sao mà Catherine lại đến nơi này, nhưng việc chị hiện ra không làm tôi đặc biệt ngạc nhiên. Chị thích người khác phái, và cách riêng, chị thích những cậu bé đang nghĩ tới cái chết. Chị thích nói chuyện tình yêu với các cậu bé ấy; và vì những người sắp chết ấy chỉ là những cậu bé, chị thích nói với chúng về tình yêu. Vì lý do đó, thật không ngạc nhiên chút nào về sự có mặt của chị trong căn phòng bí nhiệm này -- bí nhiệm vì nó vượt quá những cái khác biệt -- những mối dây ràng buộc giữa nạn nhân và kẻ hành quyết, giữa hiện tại và quá khứ.
Tôi gặp Catherine tại Paris năm 1945, khi tôi vừa tới đó từ trại Buchenwald, một địa điểm bí nhiệm, nơi biến người sống thành kẻ chết và tương lai của họ thành bóng tối. Tôi mất sức và gần như chết đói. Một trong các ủy ban giải cứu gởi tôi tới một trại đang có hàng trăm thiếu niên và thiếu nữ trải qua kỳ nghỉ hè. Trại ở Normandy, nơi sáng sớm có gió nhẹ xào xạc thổi, giống như ngọn gió sớm ở Palestine.
Vì không biết tiếng Pháp, tôi không thể trao đổi được với các cậu trai và các cô gái khác. Tôi ngồi ăn và tắm nắng với họ nhưng tôi không làm thế nào chuyện trò được. Catherine là người duy nhất hình như biết ít nhiều tiếng Đức và đôi khi chúng tôi trao đổi vài câu. Thỉnh thoảng chị tới gặp tôi tại bàn ăn tối, hỏi tôi có ngủ ngon không, có thích thú bữa ăn không hoặc hôm đó có thấy thoải mái không.
Chị hai mươi sáu hoặc hai mươi bảy tuổi; nhỏ nhắn, ẻo lã, cởi mở, với mái tóc màu hung lóng lánh như lụa, đôi mắt xanh mơ màng chưa từng biết khóc. Chị là người phụ nữ đầu tiên mà tôi nhìn thật gần. Trước đó -- có nghĩa trước chiến tranh -- tôi không nhìn phụ nữ. Trên đường tới trường học hay tới hội đường, tôi đi sát vách nhà người ta và mắt nhìn xuống đất. Tôi biết rằng phụ nữ có mặt trên đời và tại sao họ có mặt trên đời nhưng tôi không biết rằng thực tế phụ nữ có một thân thể, bộ ngực, chân, tay và môi mà khi chạm vào là trái tim đàn ông đập mạnh. Catherine vén lộ điều ấy cho tôi.
Trại ở ven một cụm rừng, và sau bữa ăn khuya, tôi thường một mình tới đó, trò chuyện với ngọn gió nhẹ thì thầm và ngắm nhìn bầu trời chuyển màu càng lúc càng xanh thẳm. Tôi thích được một mình.
Một buổi tối, Catherine hỏi tôi rằng chị có thể cùng đi với tôi không, tôi rụt rè quá, chẳng biết nói gì ngoài tiếng được. Suốt nửa giờ, rồi một giờ, chúng tôi bước đi trong hoàn toàn im lặng. Đầu tiên tôi nhận thấy sự im lặng đó làm mình bối rối, nhưng rồi tôi ngạc nhiên thấy mình bắt đầu thú vị nó. Im lặng của hai người thì sâu lắng hơn im lặng của một người. Bất chợt, tôi bắt đầu lên tiếng.
“Hãy nhìn bầu trời trên kia đang mở ra như thế nào kìa,” tôi nói.
Chị ngửng đầu nhìn lên. Đúng như tôi nói, bầu trời đang mở ra. Ban đầu chầm chậm, như có ngọn gió vô hình lướt qua, các ngôi sao túa ra từ đỉnh trời, một số trôi sang phải, một số dạt về trái, cho tới khi trung tâm bầu trời là một không gian trống vắng, xanh tới sững sờ và dần dần đạt tới sâu thẳm, đậm đà.
“Hãy nhìn thật kỹ,” tôi nói. “Ở chỗ đó không có gì cả.”
Từ phía sau tôi, Catherine nhìn lên, chẳng nói một lời.
Chúng tôi tiếp tục bước và tôi nói chị nghe về truyền thuyết về bầu trời mở ra. Khi tôi còn bé, ông thầy già kể với tôi rằng có những đêm bầu trời mở ra dọn đường lên cho lời cầu nguyện của các trẻ em bất hạnh. Vào một đêm như thế, bên cạnh người cha đang hấp hối, một cậu bé nói với Thượng đế: “Lạy Cha, con thơ dại quá, chẳng biết làm sao cầu nguyện. Nhưng con xin Ngài chữa lành người cha bệnh tật của con.” Thượng đế làm điều cậu bé xin, nhưng bản thân cậu bé thì biến thành lời cầu nguyện và được mang lên trời. Từ đó trở đi, ông thầy già bảo tôi, thỉnh thoảng Thượng đế biểu lộ Ngài cho chúng ta bằng bộ mặt một cậu bé.
“Đó là lý do tôi nhìn bầu trời vào những phút giây riêng tư này,” tôi bảo Catherine. “Tôi hi vọng thấy cậu bé ấy. Nhưng chị là người làm chứng cho sự thật này nhé. Ở trên đó không có gì cả. Cậu bé ấy chỉ là một chuyện kể thôi.”
Chính lúc đó, lần đầu tiên trong buổi tối đó, Catherine mở miệng.
“Cậu bé khốn khổ!” chị kêu lên. “Cậu bé khốn khổ!”
Tôi tự nhủ, chị đang nghĩ tới cậu bé trong câu chuyện ấy. Và tôi yêu chị vì lòng trắc ẩn của chị.
Từ đó, Catherine thường đi dạo với tôi. Chị hỏi về thời thơ ấu và quá khứ gần đây nhất của tôi, nhưng không phải lúc nào tôi cũng trả lời. Một tối, chị hỏi tại sao tôi giữ mình xa cách với các cô và các cậu khác cùng trại.
“Vì họ nói thứ tiếng tôi không hiểu được,” tôi bảo chị.
“Vài thiếu nữ biết tiếng Đức,” chị nói.
“Nhưng tôi chẳng có gì để nói với họ.”
“Cậu chẳng cần nói gì cả,” chị nói chầm chậm, với một nụ cười. “Việc duy nhất cậu phải làm là yêu họ.”
Tôi không biết chị có ý định gì và tôi bảo chị như vậy. Nụ cười chị rộng mở và chị bắt đầu nói với tôi về tình yêu. Chị nói dễ dàng và nghe thật hay. Tình yêu là thế này và tình yêu là thế nọ; đàn ông sinh ra để yêu; hắn chỉ còn sống khi hắn ở trong hình bóng của một phụ nữ nào đó mà hắn yêu hoặc muốn yêu. Tôi nói với chị rằng tôi chẳng biết gì về tình yêu, rằng tôi không biết tình yêu có hiện hữu hoặc có quyền hiện hữu hay không.
“Tôi sẽ chứng minh cho cậu thấy,” chị nói.
Tối hôm sau, khi đi bên trái tôi, chị nắm cánh tay tôi. Lúc đầu tôi nghĩ chị cần tôi nâng đỡ nhưng thật ra chị làm như vậy vì muốn tôi cảm thấy hơi ấm của thân thể chị. Rồi chị than mệt và nói thật dễ chịu nếu ngồi xuống trên cỏ dưới tàng cây. Vừa ngồi xuống, chị bắt đầu vuốt ve khuôn mặt và mái tóc tôi. Rồi chị hôn tôi vài lần; ban đầu môi chị chạm môi tôi và rồi lưỡi chị nóng bỏng trong miệng tôi. Các đêm sau, chúng tôi đều trở lại nơi đó, chị nói với tôi về tình yêu, khát khao và những bí nhiệm của con tim. Chị cầm tay tôi, đặt lên ngực chị và đùi chị, và tôi nhận ra rằng phụ nữ có ngực và đùi và bàn tay có thể khiến trái tim đàn ông đập mạnh và biến máu đàn ông thành lửa.
Rồi tới buổi tối sau cùng. Tháng nghỉ hè đã hết và ngày mai tôi phải về Paris. Ngay khi xong bữa ăn khuya, chúng tôi ngồi với nhau lần chót dưới tàng cây. Tôi cảm thấy cô đơn buồn bã, và Catherine ủ bàn tay tôi trong đôi bàn tay chị, không chút nói năng. Đêm đẹp và tĩnh mịch. Từng đợt rồi từng đợt, gió như hơi ấm mơn man trên mặt chúng tôi. Lúc ấy, đã tới một hay hai giờ sáng, và Catherine phá tan sự im lặng, hướng bộ mặt sầu muộn của chị sang phía tôi và nói:
“Bây giờ mình sẽ làm tình.”
Những lời ấy làm tôi run rẩy. Tôi sắp làm tình lần đầu tiên. Trước chị, trên trái đất này chưa có người phụ nữ nào. Tôi không biết nói gì hay làm gì; tôi sợ nói điều nào đó lạc lỏng hoặc làm cử chỉ nào đó không xứng hợp. Ngượng ngịu, tôi chờ chị khởi sự. Với vẻ mặt đột nhiên trang trọng, chị bắt đầu cởi y phục. Chị mở áo mình ra và dưới ánh sao, tôi thấy bộ ngực chị trắng như ngà. Rồi chị cởi hết những gì còn lại, hoàn toàn khoả thân trước mặt tôi.
“Cởi áo cậu ra,” chị ra lệnh.
Tôi tê liệt; trong cổ họng tôi có sắt và trong mạch máu tôi có chì; cánh tay và bàn tay tôi không nghe lời tôi. Tôi chỉ biết nhìn chị từ đầu tới chân và phập phồng theo nhịp thở của bộ ngực chị. Tôi bị thôi miên bởi sự mời gọi của thân thể chị trần truồng và phơi mở.
“Cởi áo cậu ra,” chị lặp lại.
Kế đó, vì tôi không nhúc nhích, chị bắt đầu cởi y phục cho tôi. Chị khoan thai cởi chiếc áo sơ-mi và chiếc quần soóc của tôi. Rồi chị ngữa người trên cỏ và nói:
“Yêu tôi đi.”
Tôi quì xuống. Đăm đăm nhìn chị thật lâu và tôi hôn khắp châu thân chị. Xa vắng và không nói một lời, chị vuốt tóc tôi.
“Catherine,” tôi nói, “trước hết, tôi có điều phải nói...”
Mặt chị lộ vẻ bối rối thống khổ, và có nỗi thống khổ trong tiếng gió xào xạc trên cây.
“Không, không!” chị kêu lên. “Đừng nói gì cả. Yêu tôi đi, đừng nói gì cả.”
Không để ý tới sự phản đối của chị, tôi nói:
“Trước hết, Catherine, tôi phải nói...”
Môi chị mím lại đau đớn, và có nỗi đau đớn trong tiếng gió xào xạc.
“Không, không, không!” chị van nài. “Đừng nói gì với tôi. Hãy lặng thinh. Nhanh lên, hãy yêu tôi mà đừng nói.”
“Điều tôi phải nói là thế này,” tôi nhất quyết, “Chị đã thắng cuộc chơi. Tôi yêu chị, Catherine... Tôi yêu chị.”
Chị bật khóc và nói đi nói lại mãi:
“Cậu bé khốn khổ! Cậu, cậu bé khốn khổ!”
Tôi lượm áo sơ-mi và quần soóc lên rồi bỏ chạy. Lúc này tôi đã hiểu ra. Chị không có ý nói tới cậu bé trên trời mà là nói tới tôi. Chị nói với tôi về tình yêu vì chị biết rằng tôi là cậu bé ấy, kẻ đã bị biến thành lời cầu nguyện và bị mang lên Thiên đàng. Chị biết rằng tôi đã chết và trở về trần gian, chết chóc. Đó là lý do chị nói với tôi về tình yêu và muốn làm tình với tôi. Tôi hoàn toàn thấy rõ điều đó. Chị thích làm tình với những cậu bé sắp chết; chị thú vị làm bạn với những kẻ bị cái chết ám ảnh. Như thế, đêm nay chị có mặt tại Palestine là điều không có gì đáng ngạc nhiên.
“Cậu bé khốn khổ!” Ilana nói lần sau chót, bằng giọng rất trầm lặng. Và từ lồng ngực chị thoát ra tiếng thở dài thật sâu làm những giọt lệ của chị trào ra, rơi lả chả, tiếp tục và tiếp tục tuôn rơi cho tới tận cùng thời gian.
Đột nhiên tôi nhận ra căn phòng ngột ngạt, ngộp quá tới độ tôi gần như khờ người. Rõ ràng. Căn phòng nhỏ, hết sức nhỏ, mà đang tiếp nhận quá nhiều khách trong cùng một lúc. Từ nửa đêm, khách tuôn đến. Trong số họ, có người tôi quen, có người tôi ghét, ngưỡng mộ hoặc đã quên. Khi đưa mắt rảo nhìn quanh phòng, tôi nhận thấy ở đây có mặt hết thảy những người đã góp phần vào việc hình thành ra tôi, hình thành bản sắc thường trực của tôi. Một số người quen thuộc nhưng tôi không thể xếp họ vào loại nào: họ có tên nhưng không mặt hoặc có mặt nhưng không tên. Tuy thế, tôi biết là họ đã đi ngang một thời điểm nào đó trong đời tôi.
Nơi đây, dĩ nhiên có cha tôi, mẹ tôi và người ăn mày. Và ông thầy già tóc hoa râm. Nơi đây cũng có những lính Anh trên đoàn quân xa chúng tôi đã phục kích tại Gedera. Và chung quanh họ là các bạn hữu, anh em và đồng chí, một số xuất xứ từ thời thơ ấu của tôi, một số tôi từng thấy họ sống và đau khổ, hy vọng và nguyền rủa tại Buchenwald và Auschwitz. Bên cạnh cha tôi, có một cậu bé trông giống tôi lạ lùng vào thời trước chiến tranh, trước trại tập trung, trước mọi sự. Cha tôi mỉm cười với nó, cậu bé đón nhận nụ cười ấy và gởi nó cho tôi qua vô số chiếc đầu đang ngăn cách hai chúng tôi.
Lúc này tôi đã hiểu tại sao căn phòng quá ngột ngạt. Nó quá nhỏ lại trong cùng một lúc chứa quá nhiều người như thế này. Tôi rẽ lối đi xuyên qua đám đông cho tới khi đến được trước mặt cậu bé và cám ơn nó vì nụ cười ấy. Tôi muốn hỏi nó rằng hết thảy những người này đang làm gì, nhưng nghĩ lại tôi thấy hỏi như vậy sẽ bất kính với cha tôi. Vì ông đang có mặt ở đây nên trước hết tôi phải trình với ông câu hỏi ấy.
“Cha ơi, tại sao hết thảy những người này lại ở đây?”
Mẹ tôi đứng bên ông, trông rất xanh xao và môi bà không ngừng thì thầm: “Đứa con trai nhỏ nhoi khốn khổ, đứa con trai nhỏ nhoi khốn khổ!...”
“Cha ơi,” tôi lặp lại, “Xin cha trả lời con. Cha và hết thảy mọi người đang làm gì ở đây?”
Đôi mắt ông to, trong đó tôi đã thường thấy bầu trời mở ra; đôi mắt ấy nhìn tôi nhưng ông không trả lời. Tôi xoay người và thấy mình đối mặt với vị thầy cả, râu ông lốm đốm bạc hơn bao giờ.
“Thưa thầy,” tôi nói. “Cái gì mang hết thảy những người này tới đây đêm nay vậy?”
Tôi nghe mẹ tôi thì thầm sau lưng tôi, “Đứa con trai nhỏ nhoi khốn khổ, đứa con trai nhỏ nhoi khốn khổ của tôi!”
“Vâng thưa thầy,” tôi lặp lại, “hãy trả lời con đi, con van xin thầy.”
Nhưng ông cũng chẳng trả lời tôi; thật sự hình như ông còn không nghe ra câu hỏi của tôi, và sự im lặng của ông làm tôi sợ hãi. Trước đây, tôi biết rõ rằng hể bao giờ tôi cần đến là ông luôn luôn có mặt. Thuở đó, sự im lặng của ông làm tôi an lòng. Lúc này, tôi cố nhìn vào mắt ông, nhưng chúng là hai quả cầu lửa, hai mặt trời đốt cháy mặt mày tôi. Tôi trở bộ và đi từ người khách này sang người khách khác, tìm câu trả lời cho câu hỏi của mình, nhưng sự có mặt của tôi làm họ lặng người kinh hãi. Sau cùng, tôi tới người ăn mày; ông đang đứng vai và đầu nhô cao hơn hết thảy mọi người. Và ông nói với tôi, hết sức bình thản.
“Đây là đêm của nhiều bộ mặt,” ông nói.
Tôi u buồn và mệt mỏi.
“Vâng,” tôi nói rã rời, “đây là đêm của nhiều bộ mặt, và tôi muốn biết lý do tại sao. Nếu ông đúng là kẻ tôi nghĩ, kẻ soi sáng và an ủi tôi. Hãy nói cho tôi biết ý nghĩa của những cái nhìn này, của sự câm lặng này, của những hình bóng này. Hãy nói cho tôi biết, tôi van ông, vì tôi không thể chịu đựng chúng thêm được nữa.”
Ông nắm cánh tay tôi, dịu dàng vỗ về và nói:
“Cậu có thấy cậu bé đằng kia không?” và ông chỉ vào cậu bé giống tôi mà tôi vừa thấy.
“Vâng, tôi có thấy nó,” tôi trả lời.
“Nó sẽ trả lời mọi câu hỏi của cậu,” người ăn mày nói. “Hãy tới hỏi nó.”
Lúc này tôi hoàn toàn chắc chắn rằng ông không phải là kẻ ăn mày. Thêm lần nữa, tôi thúc khuỷu tay đi lách qua đám đông các bóng ma. Thở hổn hển vì quá mệt, tôi tới chỗ cậu bé.
“Hãy nói cho tôi biết,” tôi nói giọng van nài, “cậu đang làm gì ở đây? Và hết thảy những người này?”
Nó trố mắt kinh ngạc.
“Anh không biết ư?” nó hỏi.
Tôi thú thật mình không biết.
“Ngày mai một người sẽ chết, phải không?”
“Phải,” tôi nói, “vào rạng sáng ngày mai.”
“Và anh sẽ giết người ấy, phải không?”
“Phải, đúng vậy; tôi phụ trách việc hành quyết hắn.”
“Và anh không hiểu, phải không?”
“Không.”
“Nhưng cái đó hoàn toàn giản dị,” nó kêu lên. “Chúng tôi ở đây để có mặt tại cuộc hành quyết. Chúng tôi muốn nhìn anh tiến hành việc đó. Chúng tôi muốn nhìn anh thành kẻ giết người. Điều ấy cũng khá tự nhiên, phải không?”
“Tại sao lại tự nhiên? Việc giết John Dawson thì liên quan gì tới các người?”
“Anh là tổng kết của tất cả những gì chúng tôi là,” cậu bé giống tôi ngày trước nói. “Bằng cách đó, chúng tôi là những người sắp hành quyết John Dawson. Vì anh không thể nào làm được việc đó mà không có chúng tôi. Lúc này, anh hiểu chưa?”
Tôi bắt đầu hiểu. Một hành động cực kỳ tuyệt đối như hành động giết người thì không chỉ can dự tới kẻ giết người mà còn can dự tới hết thảy những người đã và đang góp phần hình thành ra tên giết người đó. Bằng hành động giết một người, tôi biến họ trở thành những kẻ giết người.
“Được,” cậu bé nói, “anh hiểu chưa?”
“Vâng, tôi hiểu,” tôi nói.
“Đứa con trai khốn khổ, đứa con trai khốn khổ!” mẹ tôi thì thầm, đôi môi bà lúc này trắng nhợt như mái tóc bạc của ông thầy già.
“Hắn đói” giọng nói của Gideon bất chợt vang lên.
Tôi không nghe tiếng chân anh trở lại cầu thang. Các Vị thánh có cách làm chưng hửng người ta mà chẳng gây tiếng động. Họ đi, cười, ăn uống và cầu nguyện, làm tất cả mà không phát ra âm thanh nào.
“Không thể được,” tôi phản đối.
Tôi cho rằng hắn không thể biết đói. Hắn sắp chết mà người chết thì không thể biết đói.
“Chính hắn nói vậy,” Gideon quả quyết với giọng hơi run run.
Mọi người đăm đăm nhìn tôi. Ilana đã thôi khóc, Joab không còn săm soi móng tay và Gad trông có vẻ mỏi mệt. Hết thảy các bóng ma cũng thế, dường như đang chờ đợi nơi tôi cái gì đó, có thể là một dấu hiệu hoặc một tiếng gào thét.
“Hắn biết chứ?” tôi hỏi.
“Có, hắn biết,” và chút sau anh thêm: “Tôi đã nói với hắn.”
“Hắn phản ứng ra sao?”
Đối với tôi, điều quan trọng là biết phản ứng của hắn. Tin đó có là
một cú sốc không? Hắn bình thản hoặc phản đối rằng hắn vô tội?
“Hắn mỉm cười,” Gideon nói. “Hắn nói hắn biết rồi. Dạ dày
của hắn đã nói cho hắn biết.”
“Và hắn nói rằng hắn đói?”
Gideon dấu hai bàn tay đang xoắn lại ra sau lưng mình.
“Vâng, đó là cái hắn nói. Hắn nói rằng hắn đói và rằng hắn có quyền
hưởng bữa ăn ngon cuối cùng.”
Gad cười, nhưng giọng cười của anh trống rỗng.
“Một người Anh điển hình,” anh nhận xét. “Kiên cường cứng cỏi.”
Nhận xét của anh lơ lửng giữa không khí trên đầu chúng tôi: không ai mở lòng tiếp
đón nó. Cha tôi liếc tôi bằng tia nhìn khắc nghiệt, như thể nói một
người sắp chết và anh ta đói.
“Cũng có thể thừa nhận như thế,” Gad nói. “Người Anh có bộ tiêu hóa
bằng thép.”
Thêm lần nữa chẳng ai để ý tới nhận xét của anh. Tôi cảm thấy thình
lình đau thốc trong dạ dày. Suốt ngày nay, tôi chưa ăn
gì. Ilana đứng dậy đi vô bếp.
“Tôi dọn chút gì cho hắn ăn,” chị tuyên bố.
Tôi nghe cử động của chị vang ra, xắt lát ổ bánh mì, mở ngăn nước đá, bắt đầu
pha cà phê. Ít phút sau, chị trở ra, một tay cầm tách cà phê, tay
kia cầm chiếc dĩa.
“Tôi chỉ kiếm được có thế này thôi,” chị nói. “Bánh mì kẹp phó mát với
cà phê đen. Không có đường... Một bữa ăn chẳng nhiều nhặn gì, nhưng
tôi đã cố hết sức.” Và sau vài giây im lặng, chị hỏi, “Ai sẽ mang
cái này xuống?”
Cậu bé đứng bên cha tôi chăm bẳm nhìn tôi không chút xót thương. Cái
nhìn chòng chọc của nó mang một giọng nói, giọng ấy nói:
“Đi đi. Mang cho hắn cái gì ăn. Anh biết là hắn đói mà.”
“Không,” tôi trả lời. “Không phải tôi. Tôi không muốn gặp
hắn. Trước hết, tôi không muốn nhìn hắn ăn. Sau nữa, tôi
muốn nghĩ tới hắn như nghĩ tới một người không hề ăn.”
Tôi muốn thêm rằng tôi đang bị co thắt dạ dày nhưng tôi nhận thấy điều đó không
quan trọng. Thay vào đó, tôi nói, “Tôi không muốn ở một mình với hắn. Chưa
tới lúc.”
“Chúng tôi sẽ đi với anh,” cậu bé nói. “Thật sai lầm nếu giữ lại thực
phẩm không cho người đói ăn. Anh biết điều ấy mà.”
Vâng. Tôi biết. Tôi luôn luôn cho người đói thức
ăn. Ông, người ăn mày, ông nhớ chứ. Có phải tôi đã đề nghị
hiến ông bánh mì? Nhưng đêm nay thì không. Đêm nay tôi
không thể làm việc đó.
“Đúng vậy,” cậu bé ấy nói, thúc tăng vận tốc con tàu nghĩ tưởng của
tôi. “Đêm nay thì khác và anh cũng khác, hay ít ra, anh đang
khác. Nhưng cái đó chẳng dính dáng gì tới việc có người đang đói và
phải có gì ăn.”
“Nhưng hắn sắp chết vào ngày mai,” tôi phản đối. “Hắn chết với một dạ
dày đầy hay rỗng thì quan trọng gì chớ?”
“Vì lúc này hắn còn sống,” cậu bé lên giọng dạy dỗ. Cha tôi gật đầu
đồng tình và hết thảy những người khác làm theo ông. “Hắn còn sống
và đói, và có phải anh không chịu cho hắn cái gì ăn?”
Hết thảy mọi cái đầu ấy đều gật, tựa những ngọn cây tối thui, làm tôi rùng
mình. Tôi muốn nhắm mắt lại nhưng tôi hổ thẹn. Tôi không
thể nhắm mắt trước sự có mặt của cha tôi.
“Thôi được,” tôi nói cam chịu. “Tôi chấp nhận. Tôi sẽ đem
cái gì đó cho hắn ăn.” Như thể tuân theo chiếc gậy của một nhạc trưởng
vô hình, những cái đầu đang gật đó bỗng ở yên. “Tôi sẽ đem cho hắn
cái gì đó ăn,” tôi lặp lại. “Nhưng này cậu bé, trước hết hãy nói cho
tôi biết. Người chết có đói không?”
Nó nhìn tôi kinh ngạc.
“Cái gì----bộ anh không biết?” nó kêu lên. “Dĩ nhiên họ
đói.”
“Và chúng ta có nên cho họ cái gì ăn?”
“Tại sao anh lại hỏi vậy? Dĩ nhiên anh nên cho họ cái gì
ăn. Chỉ khó khăn...”
“Khó khăn...khó khăn...khó khăn...,” các bóng ma cất giọng đồng thanh.
Cậu bé nhìn tôi và mỉm cười.
“Tôi nói với anh một bí mật,” nó thì thầm. “Anh đã biết vào lúc nửa
đêm người chết rời nấm mồ của họ, phải không?”
Tôi nói với nó rằng tôi biết; người ta bảo tôi như thế.
“Có phải người ta bảo anh rằng họ từ nghĩa địa đi tới hội đường?”
Vâng, người ta bảo tôi như thế.
“Đúng, đúng vậy,” cậu bé nói. Rồi sau một chút im lặng để làm nổi bật
điều sắp nói, nó tiếp tục bằng giọng chửng chạc, một giọng nói chưa từng có bên
trong tôi và tôi chưa bao giờ nghe giọng nói đó: “Vâng, điều đó
đúng. Đêm đêm họ tụ họp ở hội đường. Nhưng không vì mục
đích như anh tưởng. Họ tới đó không phải để cầu nguyện mà là để
ăn---”
Mọi thứ trong phòng -- các bức vách, ghế, đầu người -- bắt đầu xoay xoay chung
quanh tôi, nhảy múa theo một nhịp điệu đã định sẵn, không khuấy động không khí
cũng chẳng đặt chân xuống đất. Tôi là tâm điểm của vô số vòng tròn
đó. Tôi muốn nhắm mắt bịt tai lại, nhưng cha tôi đang ở đây, và ở
đây còn có mẹ tôi, ông thầy già, người ăn mày và cậu bé. Chung quanh
tôi đang có hết thảy những người đã hình thành ra tôi, tôi không có quyền bịt
tai nhắm mắt.
“Đưa cái đó cho tôi,” tôi nói với Ilana. “Tôi mang xuống cho hắn.”
Những thứ đang nhảy múa ấy chửng lại, như thể tôi là nhạc trưởng và lời tôi là
chiếc gậy. Tôi bước tới chỗ Ilana vẫn đứng ở nhà bếp. Thình
lình, Gad lướt tới nơi chị ấy đứng, trước cả tôi.
“Tôi làm việc này,” anh nói.
Gần như tàn bạo, anh giật chiếc khay và cái dĩa trong tay Ilana và lật đật bước
xuống cầu thang.
Joab nhìn đồng hồ đeo tay. “Hai giờ hơn.”
“Thế thôi ư?” Ilana hỏi. “Đêm nay dài quá. Đêm
dài nhất tôi từng sống.”
“Vâng, đêm nay dài thật.”
Ilana cắn môi. “Có những khoảnh khắc tôi nghĩ nó sẽ không bao giờ kết
thúc và sẽ kéo dài bất tận. Nó như mưa. Trời mưa ở đây,
cũng như mọi cái khác, gợi ra sự thường hằng và vĩnh hằng. Tôi nói với
mình: Trời mưa hôm nay và mưa ngày mai và ngày kia, tuần sau và thế
kỷ sau. Lúc này, tôi nhủ thầm: có đêm bây giờ và sẽ có đêm mai và
đêm kia và đêm tuần kia và đêm thế kỷ kia.”
Chị bỗng ngừng nói, rút từ cổ tay áo bờ-lu ra chiếc khăn tay và lau vầng trán đẫm
mồ hôi của chị.
“Tôi không biết tại sao trong này ngột ngạt quá,” chị nói. “Nhất lại
là vào lúc khuya khoắt như thế này.”
“Sáng mai trời dịu hơn,” Joab đoan chắc.
“Hi vọng là vậy,” Ilana nói. “Mấy giờ mặt trời mọc?”
“Chừng năm giờ.”
“Và lúc này mấy giờ rồi?”
“Hai giờ hai mươi,” Joab nói, lại ngó đồng hồ của mình.
“Elisha, cậu không nực sao?” Ilana trả lời.
“Có, tôi cảm thấy nóng,” tôi trả lời.
Ilana về lại chỗ của chị bên bàn. Tôi bước tới cửa sổ, nhìn
ra. Thành phố dường như xa xôi và không thật. Sâu trong
giấc ngủ, thành phố sinh hạ những giấc mơ khắc khoải, những giấc mơ hi vọng, những
giấc mơ đưa tới những giấc mơ khác thêm nữa vào ngày kế tiếp. Và tới
lượt chúng, những giấc mơ ấy sinh hạ các vị anh hùng mới, những kẻ sống qua đêm
và sẵn sàng chết lúc rạng sáng, để chết và để gây ra cái chết.
“Có, tôi nực, Ilana,” tôi nói. “Tôi không cực cựa nổi.”
Chương 3
Người mướt mồ hôi, tôi không biết mình đứng bên cửa sổ đã bao lâu cho đến khi
có một bàn tay ấm, run run và vỗ về, đặt lên vai tôi. Bàn tay của
Ilana.
“Cậu đang nghĩ gì?” chị hỏi.
“Tôi đang nghĩ về đêm nay,” tôi bảo chị. “Lúc nào cũng chỉ một cái
đó---”
“Và về John Dawson?”
“Vâng, về John Dawson.”
Đâu đó trong thành phố, ánh sáng loé lên bên trong một khung cửa sổ rồi lịm tắt. Chắc
hẳn có người đàn ông nào đó coi đồng hồ hoặc một người mẹ nào đó đi xem con
mình có cười trong giấc ngủ không.
“Nhưng cậu không muốn gặp hắn,” Ilana nói.
“Tôi không muốn gặp hắn.”
Tôi đang nghĩ tới một ngày kia con trai của tôi sẽ nói: “Tự nhiên
sao cha có vẻ buồn. Có chuyện gì vậy?” “Vì trong mắt cha đang có hình
ảnh viên đại úy người Anh tên là John Dawson, hiện lên đúng y như lúc hắn chết
ngay trước mắt cha...” Có lẽ tôi phải trùm mặt nạ lên hắn; một mặt nạ
thì dễ giết và dễ quên hơn.
“Có phải cậu sợ?” Ilana hỏi.
“Đúng.”
Tôi muốn nói cho chị biết rằng sợ hãi chẳng là gì cả. Sợ hãi chỉ là
một sắc màu, một phông màn, một quang cảnh. Cái đó không là vấn đề. Không
quan trọng gì nỗi sợ hãi của nạn nhân hoặc của kẻ hành quyết. Cái
quan trọng là trong thực tế, cả hai kẻ đó, mỗi kẻ đều đang đóng vai trò người
ta dàn dựng cho mình. Và cả hai vai trò đó đều cực kỳ bất hạnh cho đẳng
cấp làm người. Cái bi thảm chính là sự dàn dựng.
“Cậu, Elisha, cậu mà sợ ư?”
Tôi hiểu tại sao chị hỏi vậy. Ngươi, Elisha, có phải ngươi từng sống
qua Auschwitz và Buchenwald? Ngươi, kẻ đã vô số lần thấy Thượng
đế chết? Ngươi sợ ư?
“Thế mà, tôi đang sợ, Ilana ạ,” tôi lặp lại.
Quả thật, chị hiểu hết, hiểu rất rõ rằng sợ hãi không thật sự là vấn đề. Giống
như cái chết, nó chỉ là một phông màn, một màu sắc địa phương.
“Cái gì làm cậu sợ?”
Bàn tay chị ấm áp, sống động vẫn còn trên vai tôi, ngực chị chạm nhẹ người tôi
và tôi có thể cảm thấy hơi thở chị trên cổ tôi. Chiếc áo bờ-lu của
chị đẫm mồ hôi và nét mặt chị cùng quẫn. Tôi nhủ thầm: chị không hiểu.
“Tôi sợ hắn sẽ làm tôi cười,” tôi nói. “Chị thấy, Ilana, hắn hoàn
toàn có thể phình to đầu ra và để nó nổ tung thành ngàn mảnh, chỉ nhằm chọc cho
tôi phá lên cười. Đó là điều làm tôi sợ.”
Nhưng chị vẫn không hiểu. Chị rút khăn tay từ trong cổ tay áo ra,
lau cổ và thái dương cho tôi. Rồi chị hôn nhẹ lên trán tôi và nói:
“Cậu dằn vặt mình quá, Elisha. Con tin không phải là thằng hề. Nơi
họ không có chút gì đáng cười cả.”
Ilana khốn khổ. Giọng chị tinh tuyền như chân lý, vô cùng buồn bã
như sự thanh khiết. Nhưng chị không hiểu. Chị bị xao lạc
vì những vẻ bên ngoài và không nhận ra cái nằm đằng sau chúng.
“Chị có thể có lý,” tôi nói bằng giọng cam chịu. “Chúng ta có thể
làm họ phá lên cười. Họ cười khi họ là người chết.”
Chị vỗ về mặt, cổ và tóc tôi và tôi vẫn cảm thấy sức ép của ngực chị lên cơ thể
mình. Rồi chị bắt đầu nói, với giọng buồn bã nhưng rõ ràng, như thể
nói với một đứa bé đang bệnh.
“Cậu dằn vặt mình quá, cậu em yêu quí ạ,” chị nói đi nói lại vài lần như thế. Ít
ra chị cũng không còn gọi tôi là “cậu bé khốn khổ,” và tôi biết ơn chị. “Cậu
đừng làm vậy. Cậu trẻ, thông minh và cậu chịu đau khổ đủ rồi. Chẳng
bao lâu chuyện này sẽ qua hết. Người Anh sẽ rút về và chúng ta sẽ trồi
lên trên bề mặt và sẽ được sống một cuộc sống giản dị, bình thường. Cậu
sẽ lập gia đình, có con cái. Cậu sẽ kể chuyện chúng nghe và làm
chúng bật cười thành tiếng. Cậu sẽ hạnh phúc vì chúng hạnh
phúc. Cậu sẽ được hạnh phúc, tôi đoan chắc với cậu như vậy. Bằng
không, làm sao chúng có thể sống với một người cha như cậu? Cậu sẽ
quên đêm nay, quên căn phòng này và quên mọi sự khác---”
Khi nói “mọi sự khác” chị đưa tay vạch lơ lửng một nửa vòng
tròn. Làm tôi nhớ tới mẹ mình. Mẹ tôi cũng đã nói với giọng
xúc động như vậy và gần như dùng đúng những chữ đó vào đúng những chỗ đó trong
câu nói. Tôi rất yêu thương bà. Cho tới khi tôi lên chín
hoặc lên mười, tối nào bà cũng ru tôi ngủ với những bài hát ru con hoặc các mẩu
chuyện. Bên giường mẹ tôi có một con dê, bà thường bảo tôi, con dê ấy
bằng vàng. Mọi nơi con đi trong đời, con dê ấy sẽ hướng dẫn con và
che chở con. Dù con đã khôn lớn hoặc rất giàu, dù tới lúc con đã biết
tất cả những gì một người đàn ông có thể biết và làm chủ tất cả những gì một
người đàn ông nên sở hữu, thì con dê ấy vẫn ở gần con.
“Ilana, chị nói như thể chị là mẹ tôi,” tôi nói.
Mẹ tôi cũng vậy, có một giọng nói thật êm, còn dịu êm hơn cả giọng
nói của Ilana. Giống như giọng nói của Thượng đế, giọng nói đó có sức
mạnh xua tan hỗn độn và truyền đạt cái nhìn thấu suốt về tương lai, mà tương
lai đó có thể là của tôi, với con dê vàng ấy hướng dẫn, con dê tôi đã thất lạc
trên đường tới Buchenwald.
“Cậu đang đau khổ,” Ilana nói. “Khi đau khổ, người ta nhắc tới mẹ
mình.”
“Không, Ilana,” tôi nói. “Lúc này, chính mẹ tôi là người đau khổ.”
Những vỗ về của Ilana bỗng nhẹ hơn, lơi hơn. Chị đang bắt đầu hiểu. Bộ
mặt chị tối lại. Chị im lặng hồi lâu, rồi chị cùng tôi nhìn vào bàn
tay đêm đang vói tới chúng tôi qua cửa sổ.
“Chiến tranh như đêm,” chị nói. “Nó phủ trùm mọi sự.”
Vâng, chị đã bắt đầu hiểu. Tôi hầu như không còn cảm thấy các ngón
tay của chị xoa nhẹ trên cổ mình.
“Chúng ta nói rằng cuộc chiến tranh của chúng ta là thần thánh,” chị tiếp tục,
“rằng chúng ta đang chiến đấu chống lại cái gì đó và vì cái gì đó -- chống lại
người Anh và vì nền độc lập của Palestine. Đó là cái chúng ta
nói. Nhưng những cái đó là ngôn từ; và vì thế chúng được dùng để chỉ
đem lại ý nghĩa cho các hành động của chúng ta. Chúng ta nói: đây là
chiến tranh, chúng ta phải giết. Có những kẻ như cậu, giết bằng bàn
tay của mình, và có những kẻ như tôi, giết bằng giọng nói của
mình. Mỗi người có cách giết riêng của mình. Và liệu
chúng ta có thể làm gì khác hơn? Chiến tranh có những qui luật của
nó và nếu cậu phủ định một qui luật tức là cậu phủ định toàn bộ mục đích, và
trao cho kẻ thù sự chiến thắng đặt trên chiếc mâm bằng bạc. Đó là cái chúng ta
không thể trao cho họ. Trong cuộc chiến này, chúng ta cần chiến thắng,
để sống còn, để nổi lên bềnh bồng trên bề mặt của thời gian.”
Chị không cất cao giọng. Chị như thể đang hát một bài ru con, đang kể
chuyện bên giường ngủ. Trong cung giọng của chị, không đam mê, không
thất vọng, cũng chẳng lo âu.
Chị hoàn toàn có lý. Mọi sự đã được cân nhắc. Chúng ta
đang lâm chiến; chúng ta có lý tưởng, có mục đích -- trong lúc đó kẻ thù đứng
chắn ngang giữa chúng ta và sự đạt tới lý tưởng, mục đích đó. Kẻ thù
đó phải bị loại trừ. Và, bằng cách nào? Bằng hết thảy và
bất cứ phương tiện nào chúng ta có được. Không quan trọng gì việc
nên sử dụng phương tiện này hay không nên sử dụng phương tiện khác, và dùng
xong thì quên ngay. Mục đích, cứu cánh, đó là tất cả những gì trường
tồn. Có thể Ilana đúng khi nói rằng tới một ngày nào đó tôi sẽ quên
đêm nay. Nhưng, người chết không bao giờ quên, họ nhớ
hoài. Trong mắt họ, tôi vĩnh viễn bị đóng dấu bằng sắt nung rằng tôi
là kẻ giết người. Không có ngàn cách là kẻ giết người; hoặc là kẻ giết
người hoặc không là kẻ giết người, thế thôi. Hắn không thể nói với
tôi rằng hắn chỉ giết mười người hoặc chỉ giết hai mươi sáu người thôi, rằng
tôi chỉ giết năm phút hoặc chỉ giết một ngày thôi. Hắn, kẻ dù chỉ giết
một người, cũng là kẻ giết người suốt đời. Hắn có thể sẽ chọn một
công việc khác, sẽ dấu mình dưới một nhân dạng khác, nhưng sẽ ở mãi mãi trong hắn
kẻ hành quyết hoặc ít nhất, chiếc mặt nạ của kẻ hành quyết. Cái đó nằm
trong vấn đề này, trong ảnh hưởng của phông màn vở kịch lên diễn
viên. Chiến tranh làm tôi thành một kẻ hành quyết, và tôi mãi mãi vẫn
là kẻ hành quyết dù sau đó phông màn đã đổi và tôi đóng một vở kịch khác trên một
sân khấu khác.
“Tôi không muốn làm kẻ giết người,” tôi nói, lướt thật nhanh câu nói đó như thể
nôn thốc nó ra.
“Ai làm?” Ilana hỏi.
Chị vẫn vỗ về cổ tôi, tóc tôi nhưng không biết tại sao tôi có cảm tưởng rằng
cái mà các ngón tay của chị đang ve vuốt không phải là chiếc cổ của tôi, tóc của
tôi. Người phụ nữ thanh nhã nhất thế gian sẽ ngần ngại chạm vào da của
một kẻ giết người, của một người đàn ông mà suốt cuộc đời dài của hắn mang nhãn
hiệu kẻ giết người.
Tôi liếc vội ra đằng sau mình xem những người kia còn đó
không. Gideon và Joab đang lơ mơ ngủ, đầu gối lên cánh tay tì trên
bàn. Dù trong giấc ngủ, Gideon cũng có vẻ như đang đọc
kinh. Gad vẫn ở trong hầm giam, và tôi tự hỏi sao anh ở trong đó lâu
quá. Còn các bóng ma thì đang theo dõi cuộc nói chuyện nhưng tôi lấy
làm lạ là họ không dự phần vào. Ilana im lặng.
“Chị đang nghĩ gì vậy?” tôi thì thầm.
Chị không trả lời. Ít phút sau tôi lại hỏi. Vẫn không có
câu trả lời. Hai chúng tôi im lặng. Và đám đông sau lưng
tôi, đám đông những người im lặng đang chết điếng ấy, bóng họ hút ánh sáng và
biến nó thành cái gì đó u sầu, thê thảm, thù nghịch và lặng câm. Tổng
số của những im lặng ấy làm tôi ngập tràn sợ hãi. Im lặng của họ
không giống im lặng của tôi; họ khắc nghiệt, lạnh lùng, bất động, không sinh
khí và không thể thay đổi.
Khi còn bé, tôi sợ người chết và nghĩa địa, vương quốc âm u của họ. Sự
im lặng vây quanh họ làm trong tôi dấy lên cơn hãi hùng. Tôi biết rằng
lúc này sau lưng tôi, sát cánh nhau thành hàng thành lớp như thể giữ cho mình
khỏi lạnh, họ đang ngồi trong tư thế xét xử tôi. Trong thế giới băng
giá của mình, người chết chẳng biết làm gì hơn là xét xử; và vì họ không có cảm
giác về quá khứ hoặc tương lai nên họ xét xử không chút xót
thương. Họ không kết án bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ mà bằng chính
sự hiện hữu của họ.
Họ đang ngồi sau lưng tôi, trong địa vị xét xử tôi. Tôi cảm thấy sự
im lặng của họ đang xét xử tôi. Tôi muốn quay mình lại nhưng người
tôi chỉ ngập tràn với mỗi một ý tưởng là sợ hãi. Chẳng bao lâu nữa,
Gad sẽ từ hầm giam đi lên, rồi sau đó tới lượt tôi đi xuống. Sẽ tới
rạng sáng và đám đông này sẽ tan loảng trong ánh sáng ban ngày. Tạm
thời, tôi hãy cứ ở bên Ilana, nơi cửa sổ, quay lưng lại với họ.
Một phút sau, tôi đổi ý. Cha tôi, mẹ tôi, ông thầy và người ăn mày,
tất cả đều đang có mặt ở đây. Tôi không thể sỉ nhục họ tột cùng bằng
cách quay lưng với họ. Tôi phải nhìn họ, mặt đối mặt. Tôi
thận trọng xoay người lại. Trong phòng lúc này có hai loại ánh sáng:
một trắng bao phủ chỗ Gideon và Joab đang ngủ; và một đen vây bọc các bóng ma.
Bỏ lại Ilana bên cửa sổ đang đắm chìm trong suy nghĩ, hoặc cũng có thể trong hối
tiếc, tôi bắt đầu rảo bước quanh căn phòng, lâu lâu dừng lại trước một bộ mặt
thân thuộc, một thống khổ thiết thân. Tôi biết rằng những thống khổ,
những bộ mặt này đang ngồi trong tư thế xét xử tôi. Họ là người chết
và họ đói. Khi người chết mà đói thì họ xét xử người sống không chút
xót thương. Họ không chờ cho đến khi người ta làm xong một hành động,
phạm xong một tội ác. Họ xét xử trước.
Chỉ khi tôi nhận biết được sự im lặng của cậu bé, một im lặng đầy hùng biện
trong mắt, tôi mới quyết định nói ra. Cậu bé có cái nhìn khắc khoải
khiến nó có vẻ lớn tuổi hơn, chín chắn hơn. Tôi tự nhủ, mình sẽ nói
ra. Họ không có quyền kết án cậu bé ấy.
Khi tới gần cha tôi, tôi thấy nỗi thống khổ trên mặt ông. Trước khi
Thần chết đến bắt cha tôi, ông đã lẻn đi một phút bằng cách lừa dối Thần chết rằng
ông phải mang theo mình nỗi thống khổ con người mà ông đã chịu thuở còn sống.
“Cha ơi,” tôi nói, “xin đừng xét xử con. Cha hãy xét xử Thượng đế. Ngài
đã tạo dựng vũ trụ này và chiết cành công lý từ những bất công. Ngài
đã khiến cho một dân tộc phải đạt tới hạnh phúc qua nước mắt, cho tự do của một
quốc gia cũng như tự do của một con người phải là một đài kỷ niệm dựng lên trên
một cái nền chất chồng hàng hàng lớp lớp xác chết...”
Tôi đứng trước mặt ông, không biết làm gì với đầu mình, mắt mình và tay
mình. Tôi muốn biến máu huyết của tôi thành giọng nói của
tôi. Có lúc tôi tưởng mình đã làm được điều đó. Tôi nói một
hồi lâu, kể với ông những điều mà rõ ràng ông đã hiểu vì chính ông đã dạy tôi
những điều đó. Nếu tôi có lặp lại thì chỉ để chứng tỏ với ông rằng
tôi không quên.
“Đừng xét xử con, cha ơi,” tôi van nài ông, run rẩy vì tuyệt vọng. “Cha
phải xét xử Thượng đế. Ngài là căn nguyên thứ nhất, là kẻ khởi xướng
đầu tiên; Ngài đã thai nghén loài người và vạn vật theo cách chúng đang
là. Cha ơi, cha là người đã chết, và chỉ có người chết mới có thể
xét xử Thượng đế.”
Nhưng cha tôi không phản ứng. Nỗi thống khổ hằn ghi trên bộ mặt hốc
hác, râu ria lởm chởm của ông đã mang nhiều tính người hơn trước. Tôi
rời ông và bước sang mẹ tôi đang đứng cạnh ông. Nhưng nỗi đau của
tôi quá lớn, làm sao bày tỏ hết với bà. Tôi tưởng mình đang nghe tiếng
bà thì thầm, “Đứa con trai khốn khổ, đứa con trai khốn khổ?!” và mắt tôi đẫm lệ. Sau
cùng, tôi nói rằng con không là kẻ giết người, rằng mẹ không sinh ra một kẻ giết
người mà sinh ra một người lính, một kẻ chiến đấu cho tự do, một người lý tưởng
đang hiến dâng sự bình an của tâm trí -- tài sản quí báu hơn chính mạng sống --
cho dân tộc mình, cho quyền của dân tộc đối với ánh sáng ban ngày, đối với nỗi
hân hoan, đối với tiếng cười của trẻ thơ. Đó là tất cả những gì tôi
có thể nói, bằng giọng ngập ngừng, thổn thức như đang lên cơn sốt.
Khi bà yếu nhược quá không phản ứng được, tôi rời bà và bước tới ông thầy
già. Trong số những người có mặt nơi đây, ông là kẻ ít bị cái chết
làm cho thay đổi nhất. Khi còn sống, ông hầu như giống hệt bây giờ;
chúng tôi thường nói rằng ông không thuộc về thế giới này, và lúc này điều đó
đúng không sai một chữ.
“Con không phản bội thầy,” tôi nói như thể mình đã thực hiện xong công
tác. “Nếu con không chịu tuân lệnh, con sẽ phản bội các bạn đang sống
của con. Và người sống thì có quyền trên chúng ta hơn người chết. Chính
thầy đã dạy con điều đó. Do đó, hãy chọn sự sống, câu đó được viết
trong Kinh thánh. Con tán thành căn nguyên của sự sống và do đó, con
không là kẻ phản bội.”
Đứng bên ông thầy là Yerachmiel, người bạn, người cùng chí hướng và là người em
bà con của tôi. Yerachmiel là con một người đánh xe ngựa, với hai
bàn tay của người lao động và linh hồn của một ông thánh. Hai chúng tôi là học
trò cưng của ông thầy; tối nào nó cũng cùng chúng tôi nghiên cứu huyền nghĩa của
sách bí pháp Cabbala. Tôi không biết Yerachmiel cũng đã chết. Tôi
chỉ nhận ra điều đó khi thấy nó trong đám đông này, ở cạnh ông thầy -- hoặc
đúng hơn, đứng cung kính ngay đằng sau ông thầy một bước.
“Yerachmiel, chú em,” tôi nói, “...có nhớ...?”
Chúng tôi đã cùng nhau vẽ lên những giấc mơ không thể nào xảy ra được. Theo
sách Cabbala, nếu linh hồn của một người đủ thanh khiết và tình yêu của người ấy
đủ thâm sâu, thì người ấy có thể mang Đấng Cứu thế tới trần
gian. Yerachmiel và tôi quyết định làm thử. Dĩ nhiên
chúng tôi có ý thức mối nguy hiểm ấy: không ai có thể cưỡng bách bàn tay của
Thượng đế mà được miễn hình phạt. Những người lớn tuổi hơn, thông
thái hơn và chín chắn hơn chúng tôi đã hoài công phí sức trong việc giật Thượng
đế khỏi chuỗi mắt xích của tương lai; không đạt được mục đích ấy, họ đánh mất đức
tin, lý trí và kể cả cuộc đời mình. Yerachmiel và tôi biết rõ chuyện
đó nhưng chúng tôi kiên quyết thực hiện kế hoạch của mình bất chấp các chướng
ngại đang chờ trên đường. Chúng tôi hứa sát cánh bên nhau cho dù có
xảy tới việc gì đi nữa. Và như thế, chúng tôi chuẩn bị cho cuộc hành
trình đi vào chốn thẳm sâu. Chúng tôi thanh tẩy linh hồn và thể xác
của mình, ăn chay ban ngày và cầu nguyện ban đêm. Nhằm làm tinh sạch
miệng lưỡi cùng lời ăn tiếng nói của nó, chúng tôi nói càng ít càng tốt và
trong ngày hưu lễ Sa-bát, chúng tôi tịnh khẩu.
Có thể những nỗ lực của chúng tôi đang đạt kết quả. Nhưng chiến
tranh bùng nổ và chúng tôi bị xua khỏi nhà mình. Tôi thấy Yerachmiel
lần cuối khi nó ở trong hàng dài dằng dặc những người Do thái đang bước đi, bị
trục xuất sang Đức. Một tuần sau, chính tôi cũng bị đưa sang Đức. Yerachmiel
ở trại này và tôi ở trại khác. Tôi thường tự hỏi không biết nó có một
mình tiếp tục các nỗ lực ấy không. Lúc này tôi hiểu: nó đã tiếp tục
và nó đang là người chết.
“Yerachmiel,” tôi nói; “Yerachmiel, chú em...có nhớ...”
Có điều gì đó ở nó đã thay đổi: bàn tay của nó. Lúc này là hai bàn
tay của một vị thánh.
“Chúng tôi cũng làm giống như thế,” tôi nói, “các đồng chí trong phong trào và
tôi, chúng tôi cũng đang cưỡng bách bàn tay của Thượng đế. Các người,
những kẻ đã chết, nên giúp chúng tôi, đừng cản trở...”
Nhưng Yerachmiel và hai bàn tay của nó lặng thinh. Và đâu đó trong
vũ trụ của thời gian, Đấng Cứu thế cũng lặng thinh. Tôi rời nó và bước
tới cậu bé là tôi trước kia.
“Có phải cậu đang xét xử tôi?” tôi hỏi. “Cậu là một trong những người
ít có quyền xét xử tôi nhất. Cậu may mắn: cậu chết yểu. Nếu
còn sống tới hôm nay, cậu sẽ ở vào chỗ của tôi lúc này.”
Khi ấy cậu bé cất tiếng. Giọng nói của nó đầy âm vang xao xuyến và
khắc khoải.
“Tôi không đang xét xử anh,” nó nói. “Chúng tôi không ngồi đây trong
địa vị xét xử. Chúng tôi ở đây là vì anh ở đây. Chúng tôi
có mặt tại bất cứ chỗ nào anh đi; chúng tôi là cái anh làm. Khi anh
hướng đôi mắt lên Thiên đàng, chúng tôi chia sẻ cái nhìn của đôi mắt ấy; khi
anh xoa đầu đứa bé đang đói, một ngàn bàn tay chúng tôi đặt lên đầu nó; khi anh
cho người ăn mày bánh mì, chúng tôi cho người ấy hương vị của địa đàng mà chỉ
có người nghèo mới có thể thưởng thức. Tại sao chúng tôi im lặng? Vì
im lặng không chỉ là nơi cư trú của chúng tôi mà còn là chính bản thân chúng
tôi. Chúng tôi là im lặng. Và sự im lặng của anh là chúng
tôi. Anh mang chúng tôi theo cùng anh. Đôi khi anh có thể
thấy chúng tôi, nhưng hầu hết mọi lúc, đối với anh chúng tôi vô
hình. Khi anh nhìn thấy chúng tôi, anh tưởng tượng chúng tôi đang ngồi
trong tư thế xét xử anh. Anh lầm. Sự im lặng của anh là
quan toà của anh.”
Đột nhiên, cánh tay của người ăn mày chạm nhẹ vào tôi. Tôi quay lại
và thấy ông đứng sau lưng. Tôi đã biết ông không phải Thần chết mà
là ngôn sứ Ê-li-a.
“Tôi nghe tiếng bước chân của Gad,” ông nói. “Anh ấy đang lên cầu
thang.”
“Tôi nghe tiếng bước chân của Gad,” Ilana vừa nói vừa chạm vào cánh tay tôi.
“Anh ấy đang lên cầu thang.”
Chầm chậm, với vẻ trống rỗng trên mặt, Gad bước vào phòng. Ilana chạy
lại phía anh và hôn lên môi anh nhưng anh dịu dàng đẩy chị ra.
“Anh ở dưới đó lâu quá,” chị nói. “Cái gì giữ anh lại vậy?”
Một nụ cười thảm khốc và buồn bã lướt qua mặt anh.
“Không gì cả,” anh nói. “Tôi ngó hắn ăn.”
“Hắn ăn?” tôi kinh ngạc hỏi. “Anh có ý nói là hắn có thể ăn?”
“Đúng, hắn ăn,” Gad nói. “Và ăn ngon lành.”
Tôi hiểu không ra.
“Cái gì?” tôi kêu lên. “Anh có ý nói là hắn đói?”
“Tôi không nói là hắn đói,” Gad đáp trả. “Tôi nói là hắn ăn ngon
lành.”
“Vậy là hắn không đói,” tôi cả quyết.
Mặt Gad sa sầm.
“Không, hắn không đói.”
“Thế tại sao hắn ăn?”
“Tôi không biết,” Gad nói một cách căng thẳng. “Có lẽ để cho tôi thấy
rằng hắn có thể ăn dù không đói.”
Ilana nhìn chăm chú bộ mặt anh, Chị cố gắng bắt cho được ánh mắt anh
nhưng anh đang đăm đăm nhìn vào khoảng không.
“Sau đó anh làm gì?” chị ngại ngần hỏi.
“Sau cái gì?” Gad sẳng giọng.
“Sau khi hắn ăn xong.”
Gad nhún vai.
“Không gì cả,” anh nói.
“Không gì cả. Anh có ý nói gì?”
“Không gì cả. Hắn kể chuyện.”
Ilana day day cánh tay anh.
Gad thở ra, cam chịu.
“Chỉ các mẩu chuyện,” anh lặp lại, rõ ràng mệt mỏi vì phải trả lời những câu hỏi
mà anh cho là kỳ cục.
Tôi muốn hỏi hắn có phá lên cười không, con tin ấy có bật ra tiếng cười nào
không. Nhưng tôi kềm lại được. Câu trả lời hẳn chỉ là phi
lý.
Sự xuất hiện trở lại của Gad làm Gideon và Joab thức giấc. Với vẻ mặt
phờ phạc, cả hai nhìn quanh như thể để lấy làm chắc rằng mình không đang
mơ. Đờ người ra ngáp, Joab hỏi giờ Gad.
“Bốn giờ,” Gad vừa trả lời vừa xem đồng hồ.
“Trễ vậy sao? Tôi không nghĩ là vậy.”
Gad vẫy ta ra hiệu tôi tới gần.
“Chẳng bao lâu nữa là ngày,” anh thăm dò.
“Tôi biết.”
“Cậu biết cậu phải làm gì chứ?”
“Vâng, tôi biết.”
Anh rút súng lục ra khỏi túi quần, đưa tôi. Tôi ngần ngại.
“Cầm nó,” anh nói.
Khẩu súng lục đen tuyền, gần như mới. Tôi sợ cả cái việc sờ vào nó,
vì nó đang chứa trọn vẹn sự khác biệt toàn bộ giữa cái tôi đang là và cái tôi sắp
là.
“Cậu chờ gì?” Gad sốt ruột hỏi.
Tôi đưa tay cầm súng. Tôi xem xét nó hồi lâu như thể tôi không biết
nó dùng cho mục đích gì. Sau cùng, tôi nhét nó vô túi quần mình.
“Tôi muốn hỏi anh một câu,” tôi bảo Gad.
“Hỏi đi.”
“Hắn có làm anh cười thành tiếng không?”
Gad lạnh lùng chăm chú nhìn tôi như thể anh không hiểu câu hỏi của tôi hoặc anh
không màng tới câu hỏi đó. Lông mày anh nhíu lại, băn khoăn.
“John Dawson,” tôi nói. “Hắn có làm anh bật cười không?”
Mắt Gad nhìn tôi chòng chọc; tôi cảm thấy hai con mắt đó xuyên thủng người tôi,
ra tới đằng sau gáy. Hẳn anh thắc mắc cái gì đang diễn ra trong tâm
trí tôi, tại sao tôi hỏi lui hỏi tới câu hỏi không quan trọng ấy. Tại
sao tôi không có vẻ khổ sở hoặc che dấu sự khổ sở của mình, hoặc khổ sở không
đúng mức.
“Không,” cuối cùng anh nói, “hắn không làm tôi cười.”
Chiếc mặt nạ của anh đang nứt ra một cách khó thấy. Mọi cố gắng của
anh là kiểm soát cho bằng được những biểu lộ trong đôi mắt mình, nhưng anh đã
lơ là cái miệng của mình, và chính ở đó lộ ra vết rạn. Môi trên của
anh đang có nét cay đắng và giận dữ.
“Anh đối phó với việc đó ra sao?” tôi hỏi anh với sự ngưỡng mộ giả tạo. “Những
chuyện hắn kể có tức cười không?”
Gad phát ra một thanh âm kỳ dị, giống mà không giống tiếng cười. Sự
im lặng tiếp theo làm nổi bật nỗi buồn bã mà một bàn tay vô hình nào đó đã vạch
dấu trên môi anh.
“—, chúng hoàn toàn khôi hài, rất buồn cười. Nhưng chúng không làm
tôi cười.”
Anh rút từ túi áo ra một điếu thuốc, châm lửa, hít mấy hơi và rồi không chờ tôi
hỏi thêm, anh tiếp tục:
“Tôi đang nghĩ tới David, thế thôi.”
Tôi ngẫm nghĩ, mình cũng sẽ nghĩ tới David. Anh ấy sẽ hộ vệ
tôi. John Dawson có thể sẽ cố chọc cho tôi cười nhưng tôi sẽ không
cười. David sẽ tới giải cứu tôi.
“Trễ rồi,” Joab nói, đờ người ra trong một cái ngáp khác.
Đêm vẫn còn ở thăm chúng tôi. Nhưng thật rõ ràng là nó đang sẵn sàng
đi hẳn. Đột nhiên tôi quyết định:
“Tôi đi xuống đó,” tôi nói.
“Sớm vậy sao?” Gad nói, bằng giọng nói có vẻ vừa xúc động vừa hết sức ngạc
nhiên. “Cậu còn nhiều thì giờ. Còn tới một giờ...”
Tôi nói rằng tôi muốn đi xuống đó dù chưa đến giờ, để gặp gã ấy và trò chuyện,
để biết hắn. Tôi nói, giết một người hoàn toàn xa lạ thì thật hèn
nhát. Nó giống như chiến tranh ở chỗ anh không bắn vào những con người
mà bắn vào đêm, và đêm bị thương kêu lên đau đớn như thể con người. Anh
bắn vào bóng tối và anh không bao giờ biết rõ có con người nào, có kẻ thù nào bị
giết hay không. Hành quyết một người xa lạ là việc giống y như thế. Nếu
chỉ gặp hắn khi hắn chết, tôi sẽ cảm thấy như thể mình bắn vào người đã chết.
Đó là lý do tôi đưa ra quyết định ấy. Tôi không chắc nó chính xác
hay không. Nghĩ lại, tôi thấy dường như mình bị kích động bởi tò
mò. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy một con tin. Tôi muốn
gặp một con tin, kẻ bị buộc phải chết và là kẻ kể các câu chuyện khôi
hài. Tò mò hay làm ra vẻ can đảm? Có thể mỗi thứ một
chút.
“Cậu có muốn tôi đi với cậu không?” Gad hỏi. Một nhúm tóc của anh xỏa
xuống trán nhưng anh không hất nó lên.
“Không, Gad,” tôi nói. “Tôi muốn ở một mình với hắn.”
Gad mỉm cười. Anh là người chỉ huy, tự hào về thuộc cấp của mình và
biểu lộ niềm hãnh diện đó bằng nụ cười. Anh đặt bàn tay trìu mến lên
vai tôi.
“Cậu có muốn ai đó cùng đi với cậu không?” người ăn mày hỏi.
“Không,” tôi lặp lại. “Tôi thích một mình hơn.”
Mắt ông ân cần vô hạn.
“Cậu không thể làm việc đó mà không có họ,” ông nói, ngoái đầu về phía đám đông
đằng sau chúng tôi.
“Họ có thể xuống sau,” tôi nhượng bộ.
Người ăn mày ôm đầu tôi trong hai bàn tay ông và nhìn vào mắt
tôi. Cái nhìn của ông quyền uy quá đổi, tới độ trong phút giây đó,
tôi đâm ra hoài nghi bản sắc của mình. Tôi tự nhủ, mình là cái nhìn
đó. Mình đâu thể là cái gì khác. Người ăn mày ấy có nhiều
cái nhìn và tôi là một trong những cái nhìn đó. Nhưng trong biểu lộ
của ông toả sáng vẻ ân cần và tôi hiểu rằng ông không thể nhìn một cách ân cần
bằng cái nhìn của chính ông. Đó là cách mà bản sắc của tôi về lại với
tôi.
“Thôi được,” ông nói, “họ sẽ xuống sau.”
Lúc này cậu bé, nhìn qua những chiếc đầu và những hình hài âm u giữa nó và tôi,
đề nghị đi với tôi. “Để sau,” tôi nói. Câu trả lời của
tôi làm nó buồn nhưng tôi chỉ có thể lặp lại: “Để sau, tôi muốn ở một mình với
hắn.”
“Cũng được,” cậu bé nói. “Chúng tôi sẽ tới sau.”
Tôi thả cái nhìn của mình chỗ này chỗ nọ khắp phòng, hi vọng để nó lại ở đó và
sẽ lấy lại nói khi tôi trở lên.
Ilana đang nói với Gad và anh không lắng nghe. Joab đang
ngáp. Gideon xoa xoa trán như thể đang nhức đầu.
Trong một giờ nữa, mọi sự sẽ khác, tôi ngẫm nghĩ. Tôi sẽ không nhìn
mọi sự theo cách giống y như thế này nữa. Bàn, ghế, các bức vách, cửa
sổ, hết thảy chúng đều sẽ thay đổi. Chỉ có những người chết -- cha
tôi và mẹ tôi, ông thầy và Yerachmiel -- vẫn y như cũ, vì hết thảy chúng tôi
cùng thay đổi, theo một cách giống như thế, cùng làm một việc giống như thế.
Tôi vỗ vỗ túi quần để biết chắc khẩu súng lục còn ở đó. Nó đang ở
đó; thật ra, tôi có cảm tưởng lạ lùng rằng nó đang sống, rằng cuộc sống của nó
là thành phần của tôi, rằng nó có chung số phận hiện tại và tương lai với bản
thân tôi. Tôi là số phận của nó và nó là số phận của
tôi. Tôi ngẫm nghĩ, trong một giờ nữa, nó cũng sẽ thay đổi.
“Trễ rồi,” Joab vừa nói vừa duỗi chân.
Bằng mắt mình, tôi nói lời vĩnh biệt với căn phòng, với Ilana, với Gideon và những
lời cầu nguyện của anh, với Joab và những biểu lộ lờ quờ của anh, với bàn, cửa
sổ, các bức vách và đêm. Kế đó, tôi vội vàng đi vào nhà bếp như thể
sắp đi vào cuộc hành quyết chính mình. Khi tôi bước xuống cầu thang,
bước chân tôi chùng lại và hóa ra nặng nề.
John Dawson là người đẹp trai. Dù mặt không cạo, tóc rối và áo sơ-mi
nhăn, người hắn vẫn có cái gì đó đặc biệt.
Hắn hình như khoảng tứ tuần -- rõ ràng là một quân nhân chuyên nghiệp -- với
đôi mắt sắc sảo, cằm cương nghị, môi mỏng, trán rộng và bàn tay
thon. Khi đẩy cửa vào, tôi thấy hắn đang nằm trên sạp, đăm đăm nhìn
trần hầm. Chiếc sạp là đồ vật bị duy nhất trong hầm giam chật hẹp
màu trắng. Vì chúng tôi gắn hệ thống lọc không khí rất tốt nên hầm
giam tuy không có cửa sổ vẫn thoáng hơn căn phòng bên trên.
Lúc nhận ra sự có mặt của tôi, John Dawson không tỏ vẻ ngạc nhiên hoặc sợ
hãi. Hắn không đứng lên mà chỉ nhỏm mình ngồi dậy. Hắn
chăm chú nhìn tôi khá lâu, không nói một lời, như thể cân đo mức độ im lặng của
tôi. Cái nhìn đăm đăm của hắn phủ lấy toàn thân tôi, và tôi tự hỏi hắn
có thấy là tôi chỉ toàn mắt với mắt.
“Mấy giờ rồi?” hắn đột ngột hỏi.
Bằng giọng không chắc lắm, tôi trả lời bốn giờ. Hắn nhíu mày, như thể
cố nắm bắt ý nghĩa ẩn dấu đằng sau những tiếng tôi vừa nói.
“Khi nào mặt trời mọc?” hắn hỏi.
“Một giờ nữa,” tôi trả lời. Và tôi nói thêm mà không biết tại sao:
“Khoảng đó.”
Chúng tôi nhìn nhau chằm chặp hồi lâu, và đột nhiên tôi nhận ra rằng thời gian
đang không chuyển động theo nhịp bình thường của nó. Tôi nghĩ, một
giờ nữa, mình sẽ giết hắn. Và tuy vậy, tôi không thật sự tin điều
đó. Một giờ này, giờ phân cách tôi với kẻ giết người sẽ dài hơn một
đời. Nó sẽ gắn liền mãi mãi vào một tương lai xa xăm; nó sẽ không
bao giờ làm một với quá khứ.
Trong hoàn cảnh này của chúng tôi có điều gì đó đã lâu đời. Không phải
chỉ có hai chúng tôi trong hầm giam này mà còn chỉ có hai chúng tôi trên thế giới
này, hắn ngồi, tôi đứng, nạn nhân và kẻ hành quyết. Chúng tôi là những
người đầu tiên -- hay là những người sau cùng -- của cuộc sáng thế; rõ ràng là
chỉ có hai chúng tôi thôi. Và Thượng đế? Ngài đang có mặt
đâu đó. Có thể Ngài hiện thân trong sự ưa thích mà John
Dawson lúc này tạo ra nơi tôi. Có thể Thượng đế là sự này, sự thiếu
hận thù giữa kẻ hành quyết và nạn nhân.
Chỉ hai chúng tôi trong hầm giam chật hẹp. Hắn ngồi trên sạp và tôi
đứng trước mặt hắn, chằm chặp nhìn nhau. Tôi thèm được nhìn mình qua
đôi mắt hắn. Có thể hắn cũng đang thèm nhìn hắn qua đôi mắt
tôi. Tôi cảm thấy không hận thù, không oán ghét cũng chẳng xót
thương; tôi thích hắn, thế thôi. Tôi thích cách hắn nhíu mày mỗi khi
suy nghĩ, cách hắn nhìn xuống móng tay mình khi cố sắp xếp các ý
nghĩ. Trong hoàn cảnh khác, hắn có thể là bạn của tôi.
“Có phải anh là kẻ đó?” hắn đột ngột hỏi.
Làm sao hắn đoán ra? Có thể là do khứu giác. Cái chết thì
có mùi và tôi mang mùi đó theo mình vào đây. Hoặc có thể tôi vừa bước
qua cửa thì hắn đã thấy tôi không tay không chân không vai mà chỉ toàn mắt với
mắt.
“Đúng,” tôi nói.
Tôi cảm thấy bình tĩnh. Cái bước trước bước cuối này là bước khắc
nghiệt; bước cuối này đưa tới tỉnh táo và an lòng.
“Anh tên gì?” hắn hỏi.
Câu hỏi làm tôi bối rối. Có phải mọi kẻ bị kết án đều buộc lòng phải
hỏi câu đó? Tại sao hắn muốn biết tên kẻ hành quyết
mình? Nhằm mang tên đó theo cùng hắn sang thế giới bên
kia? Để làm gì? Có lẽ tôi chẳng nên nói cho hắn biết,
nhưng tôi không thể từ chối đối với người đã bị lên án chết.
“Elisha,” tôi nói.
“Đầy nhạc tính,” hắn nhận xét.
“Đó là tên người đệ tử của E-li-a. Ông ấy đã làm cho một cậu bé sống
lại bằng cách nằm ấp lên người và hà hơi vào miệng cậu bé ấy.”
“Anh đang làm điều ngược lại,” hắn nói với một nụ cười.
Không có dấu vết căm ghét hoặc hận thù nào trong giọng nói của hắn. Có
lẽ hắn cũng cảm thấy tỉnh táo và an lòng.
“Anh bao nhiêu tuổi?” hắn hỏi, giọng quan tâm.
Mười tám, tôi nói với hắn. Và vì lý do nào đó, tôi thêm: “Gần mười
chín.”
Hắn ngẩng đầu lên, trên bộ mặt gầy và đột nhiên đanh lại của hắn lộ vẻ thương
xót. Hắn chăm chú nhìn tôi trong vài giây, rồi gật đầu buồn bã:
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” hắn nói.
Tôi cảm thấy lòng thương xót của hắn xuyên suốt người tôi. Tôi biết
rằng nó đang lan toả khắp châu thân tôi và rằng ngày kế tiếp đây, tôi sẽ lấy
làm buồn cho chính mình.
“Hãy kể chuyện cho tôi nghe,” tôi nói. “Một chuyện khôi hài, nếu anh
có thể.”
Tôi cảm thấy thân xác mình trở nên nặng nề. Ngày kế tiếp đây sẽ nặng
nề hơn, tôi ngẫm nghĩ. Ngày kế tiếp đây sẽ nặng trĩu vì sực sống của
tôi và cái chết của hắn. “Tôi là kẻ cuối cùng anh thấy trước khi anh
chết,” tôi tiếp tục. “Hãy cố làm cho kẻ đó cười.”
Thêm lần nữa tôi bị vây bọc bởi cái nhìn thương xót của hắn. Tôi tự
hỏi không biết có phải mọi kẻ bị kết án chết đều nhìn người cuối cùng theo cách
giống như hắn đang nhìn, không biết có phải mọi nạn nhân đều thương xót kẻ hành
quyết mình.
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” John Dawson lặp lại.
Tôi cố hết sức để khỏi cười thành tiếng.
“Đó không phải là chuyện nực cười,” tôi nhận xét.
Tới lượt hắn cười tôi, trong hai nụ cười của chúng tôi, nụ nào buồn hơn?
“Anh có chắc nó không buồn cười?”
Không, tôi không chắc. Có thể nó có cái gì đó tức cười. Nạn
nhân ngồi, kẻ hành quyết đứng -- đang cười và sẽ hiểu nhau rõ hơn nếu cả hai
cùng là bạn thiếu thời. Đó là công việc của thời
gian. Quét sạch lớp vỏ ngoài của những thái độ qui ước. Mỗi
lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ, là một sự thật trần trụi thay vì chỉ là một
trong những bề mặt của nó. Giữa hai chúng tôi có sự hoà điệu; nụ cười
của tôi đáp trả nụ cười của hắn; lòng thương xót của hắn là lòng thương xót của
tôi. Chưa ai từng hiểu tôi như hắn hiểu trong giờ
này. Tuy thế, tôi biết rằng đây hoàn toàn là do vai trò mà chúng tôi
bị bắt phải gánh vác. Điều đó biến nó thành khôi hài.
“Ngồi xuống đi,” John Dawson nói, nhích qua một bên dành chỗ cho tôi ngồi sát
bên trái hắn, trên sạp. Tôi ngồi xuống. Lúc ấy tôi mới nhận
ra hắn cao hơn hẳn tôi một cái đầu. Và chân hắn dài hơn hai chân
không chạm được tới đất của tôi.
“Tôi có đứa con trai bằng tuổi anh,” hắn bắt đầu. “Nhưng nó không giống
anh chút nào. Nó tóc vàng hoe, mạnh và khoẻ. Nó thích ăn,
uống, đi xinê, cười, hát và đi chơi với các cô gái. Nó hoàn toàn
không có cái khắc khoải, bất hạnh của anh.”
Và hắn tiếp tục kể thêm với tôi về đứa con trai của hắn “đang học đại học Cambridge.” Mỗi
câu là một ngọn lửa nung nấu thể xác tôi. Tôi vỗ bàn tay vào khẩu
súng lục trong túi quần mình. Khẩu súng cũng nóng rực và đốt cháy
các ngón tay tôi.
Tôi nói với tôi, mình đừng nghe hắn. Hắn là kẻ thù của tôi, và kẻ
thù thì không có chuyện này chuyện nọ. Tôi phải nghĩ tới cái gì
khác. Đó là lý do tôi muốn gặp hắn, để nghĩ tới cái gì khác trong
khi hắn đang nói. Cái gì khác...cái gì đây? Tới Ilana? Tới Gad?
Vâng, tôi nên nghĩ tới Gad, kẻ đang nghĩ tới David. Tôi nên nghĩ tới
vị anh hùng của chúng tôi, David ben Moshe.
Tôi nhắm mắt lại để nhìn David rõ hơn nhưng vô ích vì tôi chưa bao giờ gặp
anh. Một cái tên thì không đủ, tôi nghĩ. Người ta phải có
một bộ mặt, một giọng nói, một hình hài, và gắn cái tên David ben Moshe lên những
cái đó. Tốt hơn là hãy nghĩ tới một bộ mặt, một giọng nói, một hình
hài mà tôi thật sự biết. Gad? Không, thật khó tưởng tượng
Gad làm một kẻ bị buộc phải chết. Bị buộc phải chết...vậy
đó. Tại sao trước đây tôi không nghĩ tới việc ấy. John
Dawson bị buộc phải chết, tại sao tôi không gắn lên hắn cái tên David ben
Moshe? Vì trong năm phút nữa, ngươi là David ben Moshe...trong ánh
sáng trắng, lạnh và ẩm của tử ngục tại nhà tù ở Acre. Có tiếng
gõ cửa, rồi vị thầy cả bước vào hát Thánh vịnh với anh và nghe anh đọc kinh
Vidui, lời tự thú kinh hoàng trong đó anh thừa nhận trách nhiệm của mình không
chỉ về những tội lỗi anh đã phạm mà còn về những người mà có thể anh đã khiến
cho họ phạm tội bằng lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ của anh. Vị thầy cả
ban phép lành truyền thống cho anh: “Thiên Chúa ban ơn phúc cho con và gìn giữ
con...” và cổ vũ anh đừng sợ. Anh trả lời rằng anh không sợ, rằng nếu
có cơ hội, anh lại sẽ làm cái việc giống y như thế, làm đầy đủ từ đầu tới cuối. Vị
thầy cả mỉm cười và nói rằng mọi người bên ngoài đều hãnh diện về
anh. David quá đổi xúc động và xúc động sâu xa tới độ rõ ràng là
đang cố kềm lại những giọt nước mắt của anh; sau cùng vì cố gắng đó vượt quá sức
mình, anh thổn thức thành tiếng. Nhưng anh, David, anh đừng
khóc. Anh nên dành những cảm xúc đằm thắm cho vị thầy cả vì ông ấy
là người sau cùng trong cuộc đời (không tính kẻ hành quyết và những phụ tá của
y) mà anh thấy trước khi anh chết. Vì ông ấy đang thổn thức nên anh
cố an ủi ông. “Đừng khóc,” anh nói; “con không sợ. Thầy
không cần phải lấy làm buồn cho con.”
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” John David nói. “Anh làm tôi lo nghĩ, chứ
không phải là con trai tôi.”
Hắn đặt chân xuống sàn. Hắn cao quá tới độ khi đứng lên, phải khom
người để đầu khỏi đụng trần. Hắn đút tay vô túi quần kaki nhăn nhúm
và bắt đầu đi tới đi lui trong hầm giam: năm bước theo hướng này, năm bước theo
hướng ngược lại.
“Tôi công nhận cái đó tức cười thật,” tôi nhận xét.
Hắn có vẻ không nghe mà tiếp tục đi giáp vách này tới giáp vách
kia. Tôi nhìn đồng hồ; bốn giờ hai mươi. Đột nhiên hắn dừng
lại trước mặt tôi, hỏi thuốc lá. Trong túi tôi có một gói và tôi muốn
cho hắn hết. Nhưng hắn không chịu lấy cả gói, nói hết sức điềm tĩnh
rằng hắn không có thì giờ hút hết.
Rồi với giọng bỗng nhiên nôn nóng, hắn hỏi tôi:
“Anh có viết chì và giấy không?”
Tôi xé vài trang trong cuốn sổ tay, đưa cho hắn với cây viết chì.
“Tôi muốn gởi cho con trai tôi ít chữ thôi,” hắn bày tỏ. “Tôi sẽ ghi
lại địa chỉ.”
Tôi đưa hắn cuốn sổ tay để kê. Hắn đặt cuốn sổ lên mặt sạp, và trong
tư thế đứng, hắn cúi người xuống viết. Trong vài phút, chỉ có tiếng
bút chì sột soạt trên giấy khua động sự yên lặng.
Tôi nhìn không chớp mắt vào bàn tay mịn màng của hắn với những ngón tay dài,
thon và thanh tú. Với đôi bàn tay như thế này, tôi nghĩ, thì người
ta dễ kết bạn. Không cần phải cúi đầu, mỉm cười, trò chuyện, xưng tụng
hoặc tặng hoa. Đôi tay như thế này làm thay hết tất cả những cái
đó. Rodin hẳn thích tạc đôi tay này...
Ý nghĩ về Rodin khiến tôi nhớ tới Stefan, một người Đức tôi quen tại Buchenwald. Trước
chiến tranh, anh là nhà điêu khắc, nhưng khi tôi gặp anh thì lũ Quốc xã đã cắt
sạch các ngón tay phải của anh.
Tại Berlin, vào những năm đầu thời Hitler mới cầm quyền, Stefan cùng một số
bạn hữu tổ chức một nhóm kháng chiến. Sau một thời gian ngắn thành lập,
nhóm còn đang phôi thai thì bị Gestapo phát hiện. Stefan bị bắt, bị
hỏi cung và bị tra tấn. Chúng nói, mầy hãy khai báo cho chúng tao
tên mấy đứa kia rồi tao sẽ thả mầy ra. Chúng đánh anh, bỏ đói anh
nhưng anh không khai. Ngày tiếp ngày, đêm liền đêm, chúng không cho
anh ngủ nhưng anh vẫn không chịu thua. Cuối cùng anh bị dẫn tới trước
viên chỉ huy trưởng Gestapo ở Berlin. Tên xếp ấy là người ngọt
ngào, cả thẹn. Với cung cách một người cha có giọng nói dịu dàng,
tên xếp khuyên anh chấm dứt cung cách ngớ ngẩn dại dột đó. Nhà điêu
khắc nghe hắn bằng thái độ câm nín như đá. “Mau mắn lên chút chứ,”
tên xếp nói, “Anh chỉ cần nói cho ta biết tên một đứa thôi, như một dấu hiệu
thiện chí.” Stefan vẫn không nói. “Tệ thật,” tên xếp nói,
“Anh ép chúng tôi phải làm đau anh.”
Theo mật hiệu của tên xếp, hai lính SS dẫn người tù vào nơi giống như một phòng
mỗ. Tại đó có chiếc ghế chữa răng kê gần cửa sổ. Bên cạnh
ghế, trên mặt bàn phủ vải dầu trắng, sắp ngay ngắn các y cụ giải phẫu. Chúng
đóng cửa sổ, cột Stefan vô ghế rồi châm thuốc hút. Viên xếp có phong
thái ngọt ngào đó vào phòng, mặc áo khoác trắng của bác sĩ.
“Anh đừng sợ,” hắn nói; “ta từng là bác sĩ giải phẫu.”
Hắn lúi húi sửa soạn đồ nghề, xong ngồi xuống ghế trước mặt người
tù. “Anh đưa ta bàn tay phải của anh,” hắn nói. Nhìn săm
soi tỉ mỉ bàn tay, hắn thêm: “Ta được biết anh là nhà điêu khắc. Anh
chẳng có điều gì khai, phải không? Được. Ta cũng biết như
vậy. Ta có thể phát hiện chúng từ bàn tay anh. Bàn tay của
con người nói cho biết nhiều điều về hắn. Thí dụ bàn tay của
ta. Chẳng bao giờ anh coi chúng là bàn tay của một bác sĩ giải phẫu,
phải không? Sự thật là ta chẳng bao giờ muốn làm bác
sĩ. Ta chỉ muốn làm họa sĩ hay nhạc sĩ. Tuy ta không bao
giờ trở thành kẻ ta muốn nhưng ta vẫn có bàn tay của một nghệ
sĩ. Anh nhìn chúng đây này.”
“Tôi nhìn chúng và mê mẩn,” Stefan kể với tôi. “Hắn có
bàn tay tuyệt đẹp, đẹp nhất, thiên thần nhất tôi chưa từng thấy. Anh
phải tin rằng bàn tay của hắn là của một người nhạy cảm và thanh cao.”
“Là nhà điêu khắc, anh cần bàn tay của anh,” tên xếp Gestapo tiếp tục. “Rủi
thay, chúng ta không cần tới chúng,” và vừa nói hắn vừa cắt một ngón tay của
anh.
Ngày tiếp đó, hắn cắt ngón tay thứ nhì, và ngày kia nữa, hắn cắt ngón tay thứ
ba. Năm ngày, năm ngón tay. Trọn năm ngón tay của bàn tay
phải ra đi.
“Anh đừng lo gì cả,” tên xếp trấn an. “Xét theo quan điểm y học, mọi
sự đang diễn ra trong trật tự. Không có nguy cơ làm độc.”
“Tôi gặp hắn năm lần,” Stefan kể với tôi. (Vì lý do nào đó không cắt
nghĩa được, anh không bị giết mà chỉ bị tống vào trại tập
trung). “Suốt năm ngày, lần nào tôi cũng thấy hắn thật gần. Mỗi
lần như thế, tôi không thể không nhìn vào hai bàn tay của hắn, đôi bàn tay có
hình dáng tuyệt vời, đẹp nhất tôi chưa từng thấy...”
John Dawson viết xong mấy hàng chữ, đưa tờ giấy cho tôi nhưng tôi hầu như không
nhìn nó. Mắt tôi đang dán chặt vào đôi bàn tay mịn màng, thanh nhã của
hắn.
“Anh có phải là một nghệ sĩ?” tôi hỏi hắn.
Hắn lắc đầu.
“Anh có từng vẽ hoặc chơi một nhạc cụ, hoặc ít ra từng muốn làm việc đó?”
Hắn im lặng nhìn tôi chằm chặp rồi nói với giọng khô rang:
“Không.”
“Vậy có thể anh từng học ngành y.”
“Tôi chưa bao giờ học y,” hắn nói, gần như nổi cáu.
“Tệ thật.”
“Tệ thật? Tại sao?”
“Hãy nhìn hai bàn tay anh. Chúng là bàn tay của một bác sĩ giải phẫu. Loại
bàn tay để cắt các ngón tay.”
Hắn khoan thai đặt các tờ giấy xuống.
“Có phải đây là một chuyện khôi hài?” hắn hỏi.
“Vâng, rất khôi hài. Cái gã kể chuyện đó cho tôi nghe đã nghĩ như vậy. Hắn
thường cười chuyện đó miết cho tới khi hắn khóc.”
John Dawson lúc lắc đầu và nói bằng giọng buồn vô hạn.
“Anh căm thù tôi, phải không?”
Tôi chẳng chút nào căm thù hắn, nhưng tôi muốn căm thù hắn. Hận thù
biến việc này trở thành hoàn toàn dễ thực hiện. Hận thù -- cũng giống
như đức tin hoặc tình yêu hoặc chiến tranh -- biện hộ cho mọi sự.
“Elisha, tại sao ngươi giết John Dawson?”
“Hắn là kẻ thù của tôi.”
“John Dawson? Kẻ thù của ngươi? Ngươi phải giải thích điều ấy rõ hơn.”
“Được lắm. John Dawson là một người Anh. Người Anh là kẻ
thù của người Do thái tại Palestine. Vậy John Dawson là kẻ thù
của tôi.”
“Nhưng Elisha, ta vẫn không hiểu được tại sao ngươi giết hắn. Phải
chăng ngươi là kẻ thù độc nhất của hắn?”
“Không, nhưng tôi có lệnh trên. Ngươi đã biết cái đó nghĩa là gì rồi.”
“Và có phải lệnh trên biến hắn thành kẻ thù độc nhất của
ngươi? Ngươi nói đi, Elisha. Tại sao ngươi giết John
Dawson?”
Nếu tôi viện lẽ thù hận thì tất cả những câu hỏi ấy đều thừa thải. Tại
sao tôi giết John Dawson. Vì tôi căm thù hắn, thế
thôi. Tính cách tuyệt đối của hận thù cắt nghĩa được cho bất cứ hành
động nào của con người dù hành động đó có mang trong nó điều gì đó bất nhân.
Chắc chắn là tôi muốn căm thù hắn. Đó là phần nào lý do khiến tôi dấn
mình vào cuộc chuyện trò với hắn trước khi tôi giết hắn. Về phía tôi
điều đó thật phi lý, nhưng thực tế, trong khi đôi bên trò chuyện, tôi hy vọng sẽ
tìm thấy trong hắn hoặc trong tôi điều gì đó làm phát sinh thù hận.
Một người căm thù kẻ thù của mình vì hắn căm thù sự thù hận của chính
mình. Người ấy tự nhủ: Gã này, kẻ thù của tôi, đã khiến
cho tôi có thể thù hận. Tôi căm thù hắn không phải vì hắn là kẻ thù
của tôi, cũng không phải vì hắn căm thù tôi nhưng là vì hắn làm lòng tôi dậy
lên thù hận. Tôi tự nhủ, John Dawson đã khiến cho tôi thành kẻ giết
người. Hắn đã biến tôi thành một kẻ giết tên John
Dawson. Hắn xứng đáng với lòng căm thù của tôi. Nếu không
do hắn thì tôi vẫn là kẻ giết người, nhưng tôi không là kẻ giết tên John
Dawson.
Vâng, tôi bước xuống hầm giam để tiếp dưỡng sự thù hận. Chuyện này
hình như khá dễ dàng. Các quân đội và các chính phủ trên thế giới có
kỹ thuật cụ thể để kích thích thù hận. Bằng các diễn văn và các loại
tuyên truyền muôn hình muôn vẻ, họ tạo ra hình ảnh của kẻ thù trong đó kẻ thù
lúc nào cũng là hiện thân của cái ác, biểu tượng của đau khổ, nguồn gốc của tàn
bạo và bất công. Tôi tự nhủ, kỹ thuật đó chắc ăn, và tôi sẽ áp dụng
nó trên nạn nhân của tôi.
Tôi đã cố gắng qui chiếu nó. Mọi kẻ thù đều chẳng hơn kém gì nhau,
tôi nói. Kẻ này chịu trách nhiệm về tội ác kẻ kia phạm. Chúng
có những bộ mặt khác nhau nhưng bàn tay chúng đều giống nhau, những bàn tay cắt
lưỡi và chặt tay các bạn tôi.
Khi bước xuống cầu thang, tôi chắc chắn mình sẽ gặp kẻ đang bắt David ben Moshe
phải chết, kẻ đã giết cha mẹ tôi, kẻ đã xuất hiện chắn ngang giữa tôi và con
người tôi muốn trở thành, và kẻ lúc này sẵn sàng giết con người ấy trong
tôi. Tôi cảm thấy chắc chắn một trăm phần trăm rằng tôi sẽ căm thù hắn.
Việc ngó thấy bộ quân phục của hắn châm thêm dầu vào lửa của tôi. Để
làm bốc thêm thù hận của tôi thì không gì hơn một bộ quân phục. Khi
nhìn đôi bàn tay thon của hắn, tôi nói với mình: Stefan sẽ vì đôi bàn tay ấy mà
tạo ra lòng thù hận của tôi. Còn nữa, khi hắn cúi xuống viết những
hàng chữ vĩnh biệt cho con trai của hắn, đứa con trai “đang học đại học
Cambridge”, đứa con trai “thích cười và đi chơi với các cô gái”, tôi nghĩ,
David cũng đang viết lá thư cuối cùng, có thể là cho Ông Già, trước khi đút đầu
mình vào dây thòng lọng treo cổ. Và trong khi hắn nói, tim tôi lang
thang tới David, kẻ đang không có người nào để trò chuyện trừ vị thầy cả. Anh
không thể trò chuyện với thầy cả vì anh còn lo sửa soạn những lời sau chót mà
anh sắp nói với Thượng đế. Anh có thể thú nhận tội lỗi của anh, hát
Thánh vịnh hoặc đọc những câu kinh dành cho kẻ chết, tiếp nhận lời an ủi của thầy
cả hoặc làm khuây khoả thầy cả, nhưng anh không thể trò chuyện, thật ra là
không thể.
Tôi nghĩ tới David, kẻ tôi chưa bao giờ gặp và sẽ không bao giờ
quen. Vì anh không phải người đầu tiên trong chúng tôi bị treo cổ
nên chúng tôi biết chính xác anh chết vào lúc nào và chết như thế
nào. Khoảng năm giờ sáng, cửa xà lim mở và quản đốc nhà giam sẽ nói:
David ben Moshe, chuẩn bị; thời gian tới rồi. “Thời gian tới rồi”,
đây là câu nói có tính cách nghi thức, như thể chỉ có thời gian này mới có ý
nghĩa, các thời gian khác đều vô nghĩa. David sẽ đưa mắt nhìn quanh
phòng, và vị thầy cả sẽ nói: “Đến đây, con của ta.” Họ sẽ cùng đi ra
để lại đằng sau mình cửa xà lim vẫn mở (vì lý do nào đó, chẳng bao giờ có ai nhớ
đóng nó lại) và bắt đầu bước vào một hành lang dài dẫn tới phòng hành quyết. Vì
là người quan trọng nhất trong giờ đó và thấy rõ rằng những người kia tới đây
chỉ vì mình, David sẽ đi chính giữa nhóm người đó. Anh sẽ bước đi,
ngẩng cao đầu -- mọi anh hùng của chúng tôi đều ngẩng cao đầu -- và một nụ cười
kỳ dị trên môi. Bên phía khác của hành lang, một trăm cặp mắt cặp
tai đang chờ anh đi qua, và tù nhân đầu tiên trong số các tù nhân, thấy anh tới
gần, sẽ xướng bài Hatikva, bài ca hi vọng. Nhóm người đó càng tiến
bước thì bài ca càng vang lên lớn hơn, đầy tình người hơn, mạnh mẽ hơn, cho tới
khi âm thanh của nó ngang với tiếng của các bước chân.
Khi John Dawson nói tới con trai của hắn, tôi nghe đang vang lên tiếng bước
chân của David và âm thanh của bài ca đó. Với lời lẽ của mình, John
Dawson cố khỏa lấp các bước chân ấy, cố xóa sạch quang cảnh David đang bước vào
hành lang với nụ cười kỳ dị trên môi anh, cố nhận chìm âm thanh ảo nảo của
Hatikva, bài ca hi vọng.
Tôi muốn căm thù hắn. Hận thù sẽ làm mọi sự trở nên giản dị... Tại
sao ngươi giết John Dawson? Tôi giết hắn vì tôi căm thù hắn. Tôi
căm thù hắn vì David ben Moshe căm thù hắn; và David ben Moshe căm thù hắn vì hắn
trò chuyện trong khi David bước vào hành lang ảm đạm đi tới tận đầu mút đằng
kia của nó để gặp cái chết của chính mình.
“Elisha, anh căm thù tôi, phải không?” John Dawson hỏi. Trong mắt hắn
có cái nhìn chan chứa dịu dàng.
“Tôi đang ra sức căm thù anh,” tôi trả lời.
“Elisha, tại sao anh phải ra sức căm thù tôi?”
Hắn nói bằng giọng nồng ấm, thoáng buồn và rõ ràng là không có chút tò mò nào.
Tại sao? Tôi tự hỏi. Thật là một câu đáng hỏi! Không
có hận thù thì tất cả những gì các đồng chí của tôi và tôi đang làm đều vô
ích. Không có hận thù thì chúng tôi không hy vọng đạt chiến thắng. Tại
sao tôi ra sức căm thù anh, John Dawson? Vì dân tộc của chúng tôi
không bao giờ biết cách căm thù. Suốt những thế kỷ qua, thảm kịch của
họ xuất phát từ sự họ không có khả năng căm thù những kẻ sỉ nhục họ và thỉnh
thoảng diệt chủng họ. Lúc này, cơ hội độc nhất của chúng tôi nằm
trong sự căm thù anh. Bằng không, John Dawson ạ, tương lai của chúng
tôi sẽ chỉ là sự tiếp nối quá khứ ấy và Đấng Cứu thế sẽ không chờ đến vô tận
cho cuộc giải phóng của ngài.
“Tại sao anh phải ra sức căm thù tôi?” John Dawson hỏi thêm lần nữa.
“Để cho hành động của tôi mang một ý nghĩa dù gì đi nữa cũng vượt lên trên nó.”
Thêm lần nữa, hắn chầm chậm lúc lắc đầu.
“Tôi lấy làm buồn cho anh,” hắn lặp lại.
Tôi nhìn đồng hồ mình. Năm giờ thiếu mười. Mười phút nữa. Trong
mười phút nữa tôi sẽ thực hiện hành động quyết định nhất và quan trọng nhất đời
tôi. Tôi đứng lên khỏi giường.
“Chuẩn bị đi, John Dawson,” tôi nói.
“Tới giờ rồi ư?” hắn hỏi.
“Sắp tới rồi,” tôi trả lời.
Hắn ngẩng lên và dựa đầu vào vách, có lẽ là để tom góp các ý nghĩ hoặc để cầu
nguyện hay để làm điều gì đó đại loại như thế.
Năm giờ thiếu tám phút. Tám phút nữa. Tôi rút khẩu súng lục
ra khỏi túi quần. Tôi sẽ làm gì nếu hắn tính giật súng khỏi tay
tôi? Hắn sẽ không có cơ hội thoát. Ngôi nhà này được canh
gác chặt chẽ và không có lối nào ra khỏi hầm giam này trừ ngả đi qua nhà bếp. Gad,
Gideon, Joab và Ilana đang canh chừng cầu thang, và John Dawson biết chuyện đó.
Năm giờ thiếu sáu phút. Sáu phút nữa. Đột nhiên tôi cảm
thấy hoàn toàn tỉnh táo. Có ánh sáng bất ngờ trong hầm này; những lằn
ranh đã vạch, các vai trò đã được xác định rõ rệt. Thời gian hoài
nghi, tra vấn và bất định đã qua rồi. Tôi là bàn tay đang cầm khẩu
súng lục; tôi là khẩu súng lục đang được cầm trong tay tôi.
Năm giờ thiếu năm phút. Năm phút nữa.
“Đừng sợ, con,” vị thầy cả nói với David ben Moshe. “Thiên Chúa ở
cùng con.”
“Đừng lo, ta là bác sĩ giải phẫu,” tên xếp Gestapo có phong thái ngọt ngào nói
với Stefan.
“Tờ giấy tôi viết,” John Dawson vừa nói vừa xoay người lại, “Anh sẽ gởi nó cho
con trai tôi, phải không?”
Hắn đang đứng dựa vách; hắn là bức vách. Năm giờ kém ba
phút. Ba phút nữa.
“Thiên Chúa ở cùng con,” vị thầy cả nói. Ông đang khóc nhưng lúc này
David không thấy ông.
“Tờ giấy tôi viết, anh sẽ không quên, phải không?” John Dawson nằng nặc.
“Tôi sẽ gởi nó,” tôi hứa, và vì lý do nào đó tôi thêm: “Tôi sẽ gởi hôm nay, qua
bưu điện.”
“Cám ơn,” John Dawson nói.
David đang đi vào căn phòng nơi anh khi ra sẽ không còn sống nữa. Người
treo cổ đang chờ anh. Hắn chỉ toàn mắt với mắt. Davit leo
tới thòng lọng. Người treo cổ hỏi anh có muốn bịt mắt
không. David kiên quyết trả lời không. Chiến sĩ Do thái
chết với đôi mắt mở, muốn nhìn tận mặt cái chết.
Năm giờ thiếu hai phút. Tôi rút chiếc khăn tay ra khỏi túi nhưng
John Dawson ra lệnh cho tôi nhét vào lại. Người Anh chết với đôi mắt
mở, muốn nhìn tận mặt cái chết.
Năm giờ thiếu sáu mươi giây. Một phút nữa.
Cửa hầm giam mở ra không một tiếng động, và những người chết kéo nhau vào, làm
căn hầm tràn ngập sự im lặng của họ. Hầm giam chật hẹp trở thành ngột
ngạt gần như không chịu đựng nổi.
Người ăn mày chạm vai tôi và nói:
“Ngày đã gần kề.”
Và cậu bé, kẻ nhìn theo cách tôi từng nhìn, nói với vẻ lấn cấn lộ rõ trên mặt:
“Đây là lần đầu tiên --” giọng nói của nó lê thê, và rồi như thể nhớ ra mình đã
buông lửng câu nói, nó níu lại, nói tiếp, “lần đầu tiên tôi nhìn một cuộc
hành quyết.”
Cha tôi và mẹ tôi cũng có mặt, và ông thầy tóc hoa râm, và
Yerachmiel. Sự im lặng của họ nhìn tôi chằm chặp.
David cứng người và bắt đầu hát bài Hatikva.
John Dawson mỉm cười, với cái đầu dựa vào vách và thân người thẳng thật thẳng
như thể đang chào một tướng lãnh.
“Tại sao anh mỉm cười?” tôi hỏi.
“Cậu chớ bao giờ hỏi một người đang nhìn cậu về lý do nụ cười của hắn,” người
ăn mày nói.
“Tôi đang mỉm cười,” John Dawson nói, “vì bỗng dưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng,
tôi không biết tại sao tôi sắp chết.” Và sau một chút im lặng, hắn
thêm: “Anh có biết không?”
“Cậu thấy chứ?” người ăn mày nói. “Tôi đã bảo cậu chớ đặt câu hỏi
nào cho người sắp chết.”
Hai mươi giây. Phút này dài hơn sáu mươi giây.
“Đừng cười,” tôi nói với John Dawson. Điều tôi có ý nói
là: “Tôi không thể bắn người đang cười.”
Mười giây.
“Tôi muốn kể anh nghe một câu chuyện,” hắn nói, “một câu chuyện tức cười.”
Tôi nâng cánh tay phải lên.
Năm giây.
“Elisha---”
Hai giây. Hắn vẫn mỉm cười.
“Tệ thật,” cậu bé nói. “Tôi muốn nghe câu chuyện của hắn.”
Một giây.
“Elisha---” con tin nói.
Tôi bắn. Khi hắn nói lên tên tôi thì hắn đã chết; viên đạn đã xuyên
tim hắn. Một người chết, môi người ấy vẫn ấm, đã nói lên tên tôi:
Elisha.
Hắn té chầm chậm xuống đất, như thể hắn tuột người xuôi theo bức
vách. Thi thể hắn vẫn trong tư thế ngồi, đầu cúi xuống giữa hai đầu
gối như thể hắn vẫn đang ngồi chờ bị giết. Tôi ở lại một chút bên hắn. Đầu
tôi nhức và thân xác tôi hóa ra nặng nề. Phát súng nổ, để lại tôi điếc
tai và đờ đẩn. Thế thôi, tôi nói với mình. Xong rồi. Tôi
đã và đang giết. Tôi đã và đang giết Elisha.
Các bóng ma bắt đầu rời căn hầm, mang John Dawson theo với họ. Cậu
bé đi một bên hắn như thể hướng dẫn hắn. Tôi nghe hình như mẹ tôi
nói: “Đứa con trai khốn khổ! Đứa con trai khốn khổ!”
Rồi với bước chân nặng nề, tôi lần theo cầu thang dẫn lên nhà bếp. Tôi
bước vào căn phòng, nhưng căn phòng không giống như cũ nữa. Các bóng
ma đã đi. Joab không còn ngáp. Gideon đang nhìn xuống
móng tay mình và cầu nguyện cho người chết được an nghỉ. Ilana đưa bộ
mặt sầu muộn về phía tôi; Gad châm thuốc lá. Họ im lặng, nhưng sự im
lặng lúc này khác sự im lặng suốt đêm dài đã đè nặng lên tôi. Đằng
chân trời, mặt trời đang mọc.
Tôi bước tới cửa sổ. Thành phố còn ngủ. Đâu đó đứa bé thức
giấc và bắt đầu khóc. Tôi thèm nghe có con chó nào đó cất tiếng sủa
nhưng quanh đây không chỗ nào có chó.
Đêm cuốn đi, để lại đằng sau ánh sáng xam xám màu ao tù nước đọng. Chẳng
bao lâu chỉ còn lại mảnh tả tơi của bóng tối lơ lửng giữa không trung phía bên
kia cửa sổ. Mảnh tả tơi của bóng tối đó có một bộ mặt. Nhìn
vào bộ mặt đó tôi hiểu lý do sự sợ hãi của tôi. Bộ mặt đó là bộ mặt
của chính tôi.
Xem tiếp phần ba trong những ngày tới.
22/9/2010
Elie Wiesel Nguyễn Ước dịch |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét