Vai trò của Hải Phỉ trong
chiến thắng Kỷ Dậu
Chính sử Việt Nam cũng như của Trung Hoa khi chép về trận
đánh mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) thường chỉ miêu tả như một cuộc giao binh thuần
tuý giữa hai quân đội nhà Thanh và Đại Việt, nhấn mạnh vào tài cầm quân, ưu và
khuyết điểm của hai bên. Dù yêu hay ghét nhà Tây Sơn, sửû cũng chỉ nhấn mạnh đến
khía cạnh chính qui của quân đội - nhiều chỗ huyền thoại hoá, khen phò mã tốt
áo, phóng đại kết quả mà quên đi sự phức tạp của thời đại trên cả chính trị,
kinh tế, kỹ thuật lẫn hoàn cảnh xã hội.
Những chi tiết cụ thể của chiến thắng này đã được khá nhiều
tác giả Việt Nam miêu tả với đầy đủ chi tiết, lên đến hàng ngàn bài viết và
biên khảo, hàng chục cuốn sách dày. Ở đây chúng tôi chỉ muốn đưa ra một góc cạnh
xưa nay ít sử gia đề cập. Đó là vai trò của thành phần thương nhân trên mặt biển,
đời sống gắn liền với đại dương nhưng trong nhiều thế kỷ bị loại ra khỏi thành
phần xã hội. Vô hình chung họ biến thành những kẻ sống ngoài vòng pháp luật,
gió chiều nào che chiều ấy, nghiêng ngả tuỳ theo cách đối xử của nhà cầm quyền,
có khi là kẻ thù chung của mọi triều đình từ Nhật Bản xuống đến Đông Nam Á, có
khi được nuôi dưỡng để trở thành một chính quyền nho nhỏ như họ Trịnh ở Đài
Loan thời Minh mạt Thanh sơ, hoặc được tập hợp để trở thành một cánh quân đắc lực
như thời Tây Sơn vào cuối thế kỷ thứ 18.
Vai trò của họ không những góp phần khá nhiều vào những biến
chuyển chính trị tại Việt Nam mà còn quan trọng trong chiến thắng đánh bại quân
Thanh, trở thành một chỗ dựa đáng kể để Nguyễn Huệ tính toán những bước ngoại
giao sau trận đánh và nếu như ông không mất sớm, rất có thể Việt Nam đã trở
thành một trong những cường quốc trên biển cả vào đầu thế kỷ thứ 19.
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CUỐI THẾ KỶ 18
Nhu cầu trao đổi của thế giới gia tăng khiến con người cần có
những tàu thuyền lớn để vượt qua những vùng biển đầy sóng to gió cả, nổi tiếng
là nguy hiểm ở châu Phi và châu Á. Nhiều dân tộc biết đóng những tàu lớn có thể
ra khơi nhưng vẫn phải dựa vào sức chèo tay, rất khó giữ được cho đúng hướng
trên mặt biển.
Người Trung Hoa cũng đóng nhiều thuyền lớn nhưng vẫn chạy bằng
buồm nên phải men theo bờ biển, không dám ra xa ngoài khơi. Tuy dưới đời Minh
có những chuyến viễn du nhưng chỉ đến những quốc gia mà họ đã biết, không phải
là những chuyến hải hành tìm ra những vùng đất lạ. Thuyền của họ cũng cồng kềnh,
thuận tiện cho việc chở hàng nhưng thiếu ưu điểm dùng trong chiến đấu. Đến thế
kỷ thứ 15, người Bồ Đào Nha (Portuguese) nghĩ ra một cách đóng thuyền mới
(caravel), nhỏ và nhẹ, buồm hình tam giác, dễ điều khiển rồi sau đó cải tiến
đóng được những thuyền to hơn (nao) mở đầu cho một kỷ nguyên hàng hải mà cách vận
hành giữ mãi cho tới khi người ta chế tạo ra thuyền chạy bằng hơi nước.[1]
Nhờ những tiến bộ kỹ thuật và phương pháp tính toán đo đạc áp
dụng vào viễn dương - các dụng cụ hải bàn (compass), bản đồ (chart), hải kế
(marine chronometer) để tính toán vị trí con tàu giữa biển khơi – nên đến hậu
bán thế kỷ 18 người ta đã đi được khắp nơi trên thế giới một cách dễ dàng và
chính xác.
Tuy nhiên viễn dương cũng đặt ra một vấn đề khác quan trọng
hơn là việc tự vệ vì thuyền ra khơi phải đối phó thường xuyên với cướp bóc và
các con tàu thù nghịch khác. Thời trung cổ, việc giao chiến chính yếu là tiến
sát nhau rồi tràn sang tàu đối phương cận chiến sáp lá cà bằng gươm giáo. Đến
thế kỷ 16 thì người ta đã mang súng theo nhưng chỉ là loại nhỏ, có thể gây sát
thương cho thủy thủ nhưng không đủ sức đánh chìm thuyền. Hải chiến chỉ trở nên
quan trọng khi các quốc gia Âu Châu đúc được súng bắn đạn tròn (có trái nặng tới
27 kg) có thể đánh đắm thuyền địch từ xạ Thời kỳ này các nước Á Châu vẫn không
cải tiến kỹ thuật (mặc dầu Trung Hoa, Đại Việt... đã chế tạo ra súng thần công
đặt trên thuyền từ thế kỷ 13, 14) nên trở thành kém thế so với tàu chiến của Âu
châu. Các loại súng lớn khi đó phải neo chặt xuống sàn tàu cho khỏi bị phản ứng
giật ngược khi tác xạ, muốn đổi hướng bắn phải thay đổi hướng đi của cả con
tàu, rất bất tiện khi ở gần nhau.
Đến cuối thế kỷ thứ 18, châu Âu có những chuyển động mãnh liệt
về kỹ thuật và trở thành sức mạnh ưu thắng trên toàn thế giới. Từ phát triển nọ
kéo theo những thay đổi kia, phát triển kinh tế đã biến nhiều quốc gia nhỏ bé
thành những con cọp dữ. Cơ giới hóa trở nên một nhu cầu bắt buộc vì cơ khí làm
gia tăng năng suất, gia tăng năng suất đòi hỏi mở rộng thị trường và nguyên liệu.
Trước đây nhiều quốc gia đã có những phát kiến và kỹ thuật tinh xảo như đồng hồ,
máy in, máy xay nước, la bàn, thuốc súng, giấy... nhưng vẫn chỉ là máy móc rời
rạc mà chưa phải là một “bộ máy” (machines but not the machine) cũng như người
ta có đủ mọi cơ phận nhưng chưa ráp lại để thành một cái xe. Cuộc cách mạng kỹ
thuật (industrial revolution) chính là cuộc cách mạng để nối kết những sáng tạo
trong quá khứ thành một chuỗi và tìm cách bổ xung những mắt xích còn khiếm khuyết.
Tiến bộ trong sản xuất khiến buôn bán, trao đổi và tìm thị
trường gia tăng đưa đến nhu cầu cải tổ quân sự. Hơn hai ngàn năm trước, khi ở
Trung Hoa nhà Tần biết tổ chức binh lính thành đội ngũ nên đã thôn tính được những
tiểu quốc khác, thống nhất đất nước thì người Âu Châu cũng có những thành quả
tương tự ở thời cận kim. Cuộc cách mạng quân sự kéo dài từ thế kỷ thứ 16 sang đến
cuối thế kỷ 18 cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với Á Châu và tạo thành một chấn động
cho khu vực Đông Nam Á vào đầu thế kỷ 19.
NGUYỄN HUỆ THU DỤNG HẢI PHỈ NHƯ THẾ NÀO?
Một trong những chi tiết trước đây chưa được đánh giá đúng mức.
Đó là việc Nguyễn Huệ sử dụng cướp biển như một lực lượng chủ yếu trong quân đội
của ông. Gần đây, sau khi chính quyền Đài Loan cho phép nghiên cứu một số tài
liệu còn lưu trữ trong văn khố trước nay dấu kín thì một số học giả ngoại quốc
mới tìm ra những tài liệu xác thực về việc Nguyễn Huệ thu dụng những tên “vong
mạng” này không phải chỉ để quấy phá miền nam nước Tàu nhằm tạo khó khăn cho
nhà Thanh mà thực sự ông đã biến họ thành một đội thủy binh, có tổ chức và hệ
thống dọc cũng như ngang, được phân bố lãnh hải hoạt động một cách minh bạch.
Điều đó cho thấy Nguyễn Huệ không bị ràng buộc trong nhãn quan chỉ dùng người
Việt hay người địa phương ông quen thuộc mà muốn tổ chức một lực lượng qui mô
hơn, gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, rất gần với cái bản chất khai phóng của
xứ Đàng Trong.
Thành phần dân chúng sống liên quan trực tiếp đến biển cả vốn
dĩ bị bỏ quên trong một thời gian dài của lịch sử. Đây là những người làm nghề
chài lưới, có khi sống hẳn trên thuyền như một loại nhà nổi, có khi sống dọc
theo duyên hải nhưng sinh nhai chính là đánh cá và sản xuất những sản vật trực
tiếp từ biển khơi như muối, rong biển, hải sản... Họ sống rất thầm lặng và
không được liệt kê vào bốn thành phần căn bản của xã hội sĩ nông công thương (tứ
dân) mà chỉ được coi như những sinh vật dưới con người, trên cầm thú một tí.
Trên thực tế, vì ngày đêm chỉ sống quây quần với đồng bọn, gia đình trên một xã
hội nhỏ bé, sinh hoạt chủ yếu của họ rất đơn sơ, tiếng nói cũng hạn chế, phần lớn
chỉ là những từ cụ thể, tiếng gọi, tiếng chửi, hoàn toàn chưa đạt tới mức độ gọi
là văn hóa. Rất hiếm ai biết chữ và vì thế họ cũng khó tiến thân ngoài việc tiếp
tục theo đuổi nghề nghiệp của ông cha và qua lại giữa hai sinh hoạt, đánh cá và
ăn cướp.
Trong nhiều thời kỳ, mỗi khi động binh, thuyền bè tài sản của
họ bị trưng dụng hay tịch thu để xung vào lực lượng triều đình, cả người lẫn vật
và thường không được đền bù gì cả. Nếu sử sách chép rằng quân ta đem 1000 chiến
thuyền thì có nghĩa là một phần lớn là phương tiện của ngư dân bị xung vào quân
đội trong một nhiệm vụ đoản kỳ. Chính vì thế, xã hội phong kiến thời xưa vô
hình chung đẩy một số lớn dân chúng vào đường chống đối. Cái nhìn hoàn toàn
thay đổi của Nguyễn Huệ với những người dân chài này đã tạo cho ông một chỗ đứng
đặc biệt và cũng là câu trả lời tại sao trong quân đội của ông có rất nhiều Đô
Đốc, Đề Đốc, một chức vụ vốn dĩ là một cấp chỉ huy thủy binh, và những nhân vật
nhiều công trạng này không bao giờ có một tiểu sử rõ rệt, lắm khi chỉ có tên mà
không có họ, xuất hiện một cách bất ngờ rồi không còn thấy trong những biến cố
khác.
Đối với ngư dân, chiếc thuyền vừa là một nơi cư ngụ, lại vừa
là nơi làm việc và cũng là toàn bộ tài sản của họ. Có thể nói đó chính là thế
giới riêng, và vì thế nảy sinh ra một tình cảm phục tòng tuyệt đối người thuyền
trưởng (và cũng là gia trưởng). Người chủ thuyền phải luôn luôn làm gương cho
những người khác, hi sinh và phải chứng tỏ là mình trội hơn những người chung
quanh để tiếp tục giữ quyền chỉ huy. Chính tập quán tự nhiên đó hình thành một
sức mạnh tập thể gắn bó, sống chết với nhau trong nghề nghiệp cũng như trong
chiến đấu, chỉ tuân phục những người có cùng một cá tính như họ và cũng là điều
tại sao họ đi theo Nguyễn Huệ mà dần dần bỏ rơi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Khi thủy
quân được chính qui hóa trong triều đại Cảnh Thịnh, sự tinh nhuệ của họ cũng giảm
đi khiến cho chiến thuyền của nhà Tây Sơn không đương cự nổi với Nguyễn Ánh khi
kỹ thuật của đối phương được nâng cấp và cơ chế được tổ chức, chỉ huy theo lối
mới của Tây Phương.
Để sử dụng được lực lượng hải khấu vốn dĩ hoành hành đã nhiều
thế kỷ dọc từ Nhật Bản xuống tới Indonesia, chúng ta phải tìm hiểu qua 2 vấn đề
chính: kỹ thuật đóng tàu của Đàng Trong và quá trình hoạt động của bọn cướp biển.
A/ KỸ THUẬT ĐÓNG THUYỀN CỦA ĐÀNG TRONG
Khi người Việt còn định cư tại miền Bắc, kỹ thuật đi biển của
ta chưa có gì khởi sắc mặc dù đã nói đến biển cả từ những truyền kỳ thời Hùng
Vương. Hai trận đại thắng của Ngô Quyền và của Trần Quốc Tuấn đều xảy ra trên
sông, nơi giáp giới với biển chứ không phải ở ngoài khơi. Mãi tới đời nhà Hồ,
con trưởng của Hồ Quí Ly là Hồ Nguyên Trừng mới bắt đầu đóng những chiến thuyền
loại lớn. Với thói quen sống biệt lập thành từng làng xã nhỏ, sinh hoạt kinh tế,
văn hoá, xã hội, chính trị của dân miền Bắc thu hẹp trong một không gian nhỏ. Mỗi
làng là một đơn vị tự túc về mọi mặt mà không cần phải giao tiếp với khu vực
khác. Cho tới gần đây, mỗi xã đều có sinh hoạt, tổ chức hành chánh riêng, ràng
buộc với nhau bằng hương ước, bằng phong tục, tập quán lưu truyền hàng nghìn
năm trước. Ngay cả ngôn ngữ mỗi làng cũng có nhưng phương âm, thổ ngữ dị biệt,
nhiều khi ở kế cận mà mỗi vùng một giọng nói khác nhau. Đặc tính đó có một số
ưu điểm về sinh hoạt và bảo tồn nhưng cũng khiến cho kinh tế, văn hoá... bị
đông cứng, khó giao lưu, thay đổi hay phát triển.
Trái lại các vương quốc ở Đàng Trong đã có những quá khứ rất
oai hùng liên quan đến mặt biển, một phần vì truyền thống học hỏi của các nước ở
vùng Đông Nam và Nam Á, phần khác vị trí địa lý là bao lơn trông ra đại dương,
nơi qua lại của một hải lộ đã nổi danh là Con Đường Gia Vị (Spice Route) ngay từ
thời thượng cổ.
Về kỹ thuật, người Chiêm Thành đã biết dùng thuyền nhẹ dàn
thành thế trận tấn công những tàu buôn từ lâu. Người Chăm có một đội hải thuyền
hùng hậu và những thủy thủ can trường thường liều mạng xông xáo trên biển cả để
buôn bán và chiến đấu. Kiểu mẫu tàu chiến của người Chăm có hình dáng tương tự
như của thuyền vùng Nam Dương mà hiện nay chúng ta còn thấy dấu vết để lại nơi
các thuyền trạm trổ mỹ thuật của người Thái Lan trong những cuộc đua thuyền.
Theo những hình ảnh mà người Âu Châu vẽ lại về chiến thuyền của Đàng Trong, đó
là một loại thuyền chèo tay, mũi ngẩng cao, trạm trổ và trang trí hoa văn kỳ dị,
thân thon và dài đủ biết có thể lướt sóng với tốc độ cao[2]. Để gia tăng sức chịu
đựng khi đụng vào nhau, mũi thuyền dùng trong chiến đấu thường ghép thêm những
thanh gỗ chéo vẫn còn thấy ở các thuyền nơi cửa sông vùng Quảng Đông.
John Barrow trong tác phẩm Một Chuyến Du Hành đến Đàng Trong
(A Voyage to Cochinchina) xuất bản tại London năm 1806 đã ghi chép về chuyến đi
của phái đoàn Anh đến Đà Nẵng năm 1792-3 với những chi tiết mắt thấy tai nghe của
họ như sau:
“... Ngành nghệ thuật độc đáo của người Đàng Trong có thể coi
là tuyệt vời vào thời buổi hôm nay là kỹ thuật đóng tàu mà không tuỳ thuộc chút
nào vào phẩm chất và tầm cỡ của loại gỗ dùng trong mục tiêu đó. Những chiếc
thuyền chèo tay để đi chơi quả là khéo léo. Những con tàu đó, dài từ 50 đến 80
feet (15 đến 24 mét), lắm khi chỉ độc có năm mảnh ván ghép lại, mỗi thanh dài
suốt từ đầu nọ đến đầu kia, cạnh ghép bằng mộng, gắn khít khao chặt chợm bằng
chốt gỗ, buộc với nhau bằng lạt tre chứ không cần phải có sườn hay khung gỗ nào
khác. Mũi và đuôi thuyền ngỏng lên khá cao, chạm khắc thành những thuỷ quái
hình rồng, thuồng luồng, trang tri bằng sơn hay thếp vàng...[3]”
Những chiến thuyền đó không chở được nhiều nhưng hiệu quả khi
tấn công bất ngờ những thương thuyền hay tàu lớn trong đêm tối, chiến thuật
quen thuộc với người Chiêm Thành từ lâu mà Nguyễn Huệ thường sử dụng. Những
thuyền buôn và thuyền đánh cá thông dụng ở miền Nam nước ta cũng có nét hao hao
giống kiểu thuyền đó, nhẹ gọn và dễ di chuyển. Tuy không có những tài liệu nào
miêu tả chính xác các kiểu thuyền của Tây Sơn, chúng ta có thể tin rằng chiến
thuyền vào thế kỷ 18 ở Đàng Trong có nhiều nét tương tự, khác nhau họa chăng là
số lượng, chiến thuật hay cách điều động mà thôi.
Do ảnh hưởng của văn minh hải đảo Malaysian, thủy thủ vùng
Đông Nam Á nói chung và thủy thủy người Chiêm Thành nói riêng có thể ra khỏi bờ
bể hàng ngàn dặm chẳng cần hải bàn hay hải đồ, chỉ dựa theo màu sắc của những
đám mây, màu nước biển và độ sóng, giương buồm nương theo sức gió và nhìn sao để
lấy hướng. Chỉ cần tìm hiểu các loài chim biển và rong biển họ gặp, người Chăm
có thể nhận biết những hòn đảo còn cách xa đến 30 dặm và kiến thức về biển cả
được truyền miệng từ đời này sang đời khác theo kiểu cha truyền con nối[4].
Phương thức và kỹ thuật đóng thuyền của họ cũng rất độc đáo và người Việt chúng
ta đã kế thừa khá nhiều truyền thống của họ. Những con số chúng ta còn ghi nhận
được cho thấy tốc độ đóng thuyền rất đáng kể cho thấy vào thời kỳ này miền Nam
Việt Nam có những phát triển kỹ thuật đáng kể mà nhiều điều đến nay vẫn chưa
khám phá hết.[5]
Những thuyền đó khác hẳn những thuyền buôn hay tàu chiến của
người Trung Hoa (junks), trông nặng nề, thô kệch, tuy trang bị nhiều đại pháo
hơn nhưng thiếu linh động, khó xoay trở. Cũng như người Chiêm Thành, Nguyễn Huệ
rất chú trọng đến chiến thuyền và cũng có hai loại: thuyền lớn để chở quân,
lương thực, vật liệu và tàu nhỏ nhẹ và linh động đùng để bao vây, tấn công và
xung kích. Đội chiến thuyền đó rất đông, ít ra cũng vài trăm, có khi lên hàng
ngàn. Đó cũng là lý do tại sao thủy quân thời Tây Sơn có một vị trí đáng kể,
phù hợp với những gì sử sách đã cho ta biết, Nguyễn Huệ luôn luôn dùng binh thần
tốc, bất ngờ, áp đảo và tiến đánh cũng như rút lui rất nhanh.
B/ CƯỚP BIỂN TẠI BIỂN ĐÔNG
1/ Sinh hoạt
Nạn cướp biển xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới nhưng nhiều nhất
vẫn là vùng nhiệt đới nơi có nhiều quần đảo, nơi họ có thể nương náu mỗi khi gặp
khó khăn và cũng là nơi tu bổ tàu bè, chuẩn bị lương thực. Họ lại có thể phục
kích để rình đánh cướp những tàu buôn đi ngang qua hay những ngư dân rơi vào
khu vực họ hùng cứ. Cướp biển phần lớn đã từng là thủy thủ hay dân chài và xoay
sang nghề ăn cướp vì nhiều lý do, tham lam cũng có, thích phiêu lưu, tự do cũng
có mà vì cơ hội cũng có. Họ thường chỉ là những nhóm nhỏ kết hợp với nhau để đi
ăn cướp và cũng ít khi dám công khai đụng độ với quan quân. Cũng có khi họ là
những ngư dân làm thêm nghề tay trái một khi có điều kiện. Khi nghiên cứu về
chiến tranh dấy loạn người ta thấy rằng trong nhiều trường hợp, nổi dậy là con
đường sống duy nhất của một số người bị đẩy vào đường cùng vì đã từng phạm
pháp, có liên quan đến một tội nhân hay có khi bị ép buộc phải nhúng tay vào
máu để không thể thối lui được nữa.
Trước đây triều đình Trung Hoa ít khi để ý đến – hay ít ra
cũng có kế hoạch để giải quyết – mà thường để cho họ tự tàn sát lẫn nhau hay bị
giết trong khi giao chiến với các thương nhân. Ngay từ đời Hán, nhân dịp nước
Tàu có nội chiến và loạn sứ quân thì cướp biển đã nổi lên thật đông dọc theo bờ
biển. Thế nhưng chỉ từ thế kỷ 16 trở đi, khi các thương thuyền từ những đại lục
khác đến buôn bán, nạn hải phỉ mới phát triển mãnh liệt. Tới thế kỷ 17, 18
trong khi nạn cướp biển gốc người Nhật bớt đi (oải khấu) thì vùng biển Đông nước
ta lại trở nên nhộn nhịp, một phần vì 10 Trung Hoa loạn lạc mất mùa, phần khác
vào thời này các thương thuyền Âu Châu qua buôn bán đông nên sinh hoạt mặt biển
cũng gia tăng với nhịp độ thương mại. Trong khi ở Nam Thái Bình Dương, hải phỉ
thường chỉ là thổ dân các hòn đảo xông ra đánh cướp các tàu buôn đi ngang, cướp
ở biển Đông là những nhóm có tổ chức và có khi lớn mạnh đến mức trở thành cả một
triều đình nho nhỏ như Trịnh Thành Công, một thủ lãnh cướp biển Tàu lai Nhật vẫn
được biết dưới cái tên Quốc Tính Gia, mà phạm vi hoạt động lan rộng tới tận
vùng biển Philippines, dưới quyền có lúc lên đến hàng chục vạn quân và hàng
ngàn chiến thuyền.
Sang thế kỷ thứ 17, cướp biển hoành hành dọc theo bờ biển nước
ta nhất là trong giai đoạn nhiễu nhương khi quân Trịnh tiến vào Nam tiêu diệt họ
Nguyễn. Nhiều tác giả cũng đề cập đến một lực lượng hải phỉ mà họ đặt tên là
“Vietnamese piracy” (cướp biển Việt Nam) chuyên môn cướp phá miền duyên hải nước
Tàu, nhiều lần chạm trán với quân Thanh và đã bị bão đánh tan hồi năm 1800 ở bờ
biển Chiết Giang.[6] Thành phần cướp biển đó có thể coi như một hiện tượng tự
nhiên trong những sinh hoạt của biển cả. Vào thế kỷ thứ 17, trong giai đoạn nhà
Thanh mới lên cầm quyền, ngoài nhóm Trịnh Thành Công ở Đài Loan chống với nhà
Thanh như một lực lượng phản Thanh phục Minh, ở miền nam nước Tàu cũng bị hải
phỉ từ vùng biển Việt Nam kéo sang quấy phá. Chính Ngao Bái (Oboi) khi đó là một
trong bốn phụ chính đại thần của vua Khang Hi cũng đã gửi thư sang trách Đại Việt
năm 1666 đã dung túng và có thể cả tiếp tế cho họ:
“... Cho nên hôm nay ta phải hạ chiếu này để quốc vương tuân
theo. Hãy lập tức truy lùng bọn Dương Nhị, Dương Tam, Hoàng Minh Tiêu và gia
đình chúng cùng tên Tẩy Bưu và vợ con đem giao lại cho tổng đốc Lưỡng Quảng.
Ngoài ra, nhà ngươi cũng phải điều tra và trừng trị những kẻ nào đã phạm tội
giúp đỡ kẻ thù. Nếu nhà ngươi không giao bọn cướp biển ra, cũng như không trừng
trị bọn thần tử thì ta e rằng sẽ xảy ra chuyện can qua giữa hai nước.”
Không biết thời đó chúa Trịnh có giao nạp cướp biển như nhà
Thanh đòi hỏi không nhưng về sau tình hình không có gì rắc rối nữa.[7] Nạn giặc
biển trong nhiều thế kỷ không thể chỉ được nhìn như một bọn cướp lang thang vô
định mà thực tế đã chứng minh rằng họ là một thực lực trải dài từ Nhật Bản xuống
tới tận eo biển Malacca. Xét quá trình tồn tại của họ từ thế kỷ thứ 15 chúng ta
thấy rằng nếu có được chỗ dung thân, giặc bể xuất phát và bành trướng thành một
lực lượng đáng kể. Theo những tài liệu còn ghi lại, quân Thanh ở cuối thế kỷ 18
trở về sau đã hoàn toàn mất đi tính tinh nhuệ của thời kỳ đầu. Như trên đã tường
thuật, nhà Thanh nay đã trở thành một triều đình mục nát, tướng lãnh không còn
khả năng chiến đấu mà chỉ là những con cháu vương hầu thế tập chức vụ của cha
ông, còn quân đội thì chỉ là những người lính sống bằng mức lương chết đói, một
nghề mạt hạng trong những nghề của xã hội.
Một số đông quân lính phải kiếm ăn thêm bằng cách bán cả súng
ống, đạn dược, thuốc nổ... và tin tức để lấy tiền. Tình hình mặt biển còn tệ hại
hơn. Gần như toàn bộ vùng biển Nam Trung Hoa – tức biển đông của ta – là nơi hải
phỉ[8] hùng cứ, quan quân ít khi dám tiễu trừ. Các tỉnh duyên hải là sào huyệt
và cũng là nơi các tổ chức bất hợp pháp hoạt động. Riêng Quảng Đông và Phúc Kiến
lại càng thích hợp cho thương nhân và hải khấu vì núi non, sông ngòi khiến khu
vực này cách biệt hẳn với nội địa. Hơn một phần ba dân số sống dọc theo bờ bể
là dân chài và thương nhân, công nhân, nông dân tại địa phương cũng tùy thuộc
vào biển cả. Riêng ở Giang Bình (cực nam của Quảng Đông, cận kề với các thương
cảng như Hạ Môn, Quảng Đông... giáp ranh với Việt Nam) là một bến cảnh tấp nập,
đông người vào ra buôn bán nhưng phần nhiều ngoài sự kiểm soát của triều đình.
Dọc từ vịnh Bắc Việt lên đến Phúc Kiến bờ biển lồi lõm lại có thêm nhiều bến cảng
và hai đảo lớn Đài Loan và Hải Nam là sào huyệt chính yếu của hải phỉ và những
nhóm phản Thanh. Khu vực này nghiễm nhiên trở thành một vị trí trung tâm thương
mại để tỏa ra khắp nơi, lên miền bắc đến Mãn Châu, Nhật Bản, xuống phương nam đến
Nam Dương (các hải đảo Nam Á) bao gồm cả Philippines, Indonesia, Malaysia, Việt
Nam, Campuchia, Java, Xiêm La... Dân chúng sống thành những làng nổi, được gọi
dưới cái tên khinh miệt là thủy thượng nhân (水上人). Họ là thành phần sống bằng nghề
chài lưới hay buôn bán rong nhưng gặp dịp sẽ trở thành ăn cướp. Cả khu vực rộng
lớn đó dưới đời Thanh sống ngoài vòng pháp luật mà quan quân nhà Thanh nhắm mắt
làm ngơ không mấy khi dám đụng tới. Lực lượng hải quân và duyên phòng của họ là
con số không, ngoại trừ một vài pháo đài canh giữ mặt biển cho có lệ vì không hữu
hiệu gì, tàu bè không có nên khi cần điều động viễn chinh thì lúc đó mới tính
chuyện xây dựng.
2/ Các loại thuyền
Cứ theo nghiên cứu của Dian H. Murray, có tám loại thuyền
khác nhau mà cướp biển ở Đông Hải thường sử dụng:
- Tề nguy thuyền (齊桅船), có các cột buồm cao bằng nhau
- Đại điếu tào thuyền (大釣艚船), là loại thuyền chuyên chở (cargo
junk) có móc lớn. Đây là những thuyền buôn chở hàng hóa ra vào các cửa biển như
Hương Cảng chẳng hạn.[9]
- Bạch tào thuyền, ô tào thuyền (白艚船﹐烏艚船)là các thuyền lớn sơn trắng hoặc sơn
đen. Những thuyền này đóng theo kiểu Phúc Kiến, đóng như kiểu tàu chiến, trông
giống như một cái máng uống nước của ngựa nên gọi là “tào”. Thuyền có sơn hai
con mắt ở đầu để cho cá kình trông thấy tưởng là đồng bọn mà không tấn công.
Thuyền đen thường dùng để chở muối và thực phẩm trong khi thuyền trắng để đi
đánh cá và chở hàng.
- Song nguy thuyền (雙桅船), là thuyền có hai cột buồm.
- Liệu thuyền (料船), là thuyền nhỏ chở hàng hóa ở địa
phương.
- Lao tăng thuyền (橯繒船),
là loại thuyền nhỏ và thon như hình mũi tên, dài từ 40x12 đến 80x21 feet, có
hai cột nhưng không dùng buồm.
- Khoái thuyền (快船), thường có hai cột buồm thường dùng
để đánh cá và để đi buôn. Thuyền này có nhiều buồm và ra khơi rất tiện lợi.
- Đại khai ba thuyền (大開波船), là thuyền đi biển loại lớn có thể
chở được tới 350 tấn, có khi tới 1000 tấn. Thuyền này có thể lướt sóng rất
nhanh, chứa từ 30 đến 50 người nên còn được gọi là khai lãng thuyền (開浪船-
open-the-waves junks) hay thực thủy thuyền (食水船- eat-water junks).
Ngoài tám loại thuyền đó, Robert J Anthony cũng đề cập đến một
loại thuyền nhỏ hơn có tên là bá lạt hổ (叭喇嗁). Bá lạt hổ chính là phiên âm của chữ
perahu tiếng Mã Lai là loại thuyền Đàng Trong vẫn dùng để chiến đấu, dùng cả buồm
lẫn chèo tay, di động rất nhanh và thao tác rất tiện. Loại thuyền này nông lòng
nên có thể tiến sát bờ bể và di tản nhanh khi bị tấn công. Ở các bến bãi miền
Nam hiện nay chúng ta vẫn còn thấy sử dụng loại thuyền này rất nhiều, vừa có thể
đi trên sông, vừa có thể đi trên biển. Những thuyền lớn có thể mang tới 12 súng
đại bác (nhiều súng do phương Tây chế tạo) và một thủy thủ đoàn tới 200 người
trang bị bằng gươm, đao, giáo mác và súng trường. Những thuyền của hải phỉ
trang bị bao giờ cũng hơn xa các tàu tuần của triều đình Mãn Thanh nên chẳng
coi quan quân vào đâu cả.[10]
Ngoài những thuyền bè mà hải phỉ vẫn thường sử dụng để đánh
cướp theo truyền thống (lắm khi chỉ là tàu buôn được sửa sang lại thành tàu ăn
cướp), nhà Tây Sơn lại cung cấp cho họ những chiến thuyền thực sự, nghĩa là những
thuyền bè vốn dĩ được dùng vào mục tiêu chiến đấu. Với những chiến thuyền loại
đó, hải phỉ đã trở thành một đạo quân chính thức được trả lương để làm nhiệm vụ
chiến đấu. Những chiến thuyền triều đình Việt Nam giao cho họ sử dụng là loại
thuyền “cột buồm cao hơn 80 feet và hai bên hông được bọc bằng nhiều lớp da bò,
chăng lưới, vừa to hơn, vừa chắc chắn hơn những thuyền mà cướp biển tự kiếm được.
(Họ được trang bị cả) đại bác nặng đến 4000 cân (catty, độ chừng 600 gr) và
cũng được trang bị súng ống đầy đủ hơn”.[11]
3/ Thu phục cướp biển
Trong nhiều thế kỷ tuy nạn cướp biển có hoành hành nhưng cũng
không trở thành một lực lượng đáng kể vì thiếu một căn cứ địa để trốn tránh khi
bị săn đuổi. Thế nhưng đến cuối thế kỷ thứ 18, Nguyễn Huệ đã nhìn ra được tiềm
năng và vai trò của họ nên đã thu dụng và trở thành một vị thủ lãnh tập hợp được
nhiều nhóm khác nhau, phân chia mỗi nhóm một lãnh bàn hoạt động, chỉ đạo các
chiến dịch và cho họ nơi trú ẩn. Robert J. Antony đã nhận ra rằng ở cuối thế kỷ
18, đầu thế kỷ 19, cướp biển ở biển đông đã tập họp thành một vài nhóm, có đến
hàng ngàn chiến thuyền, tổng cộng đến hơn 7 vạn người.[12]
“... Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến,
Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ được gọi là Đại Ca Việt Nam, là người
bán những đồ họ cướp được và chia cho họ từ 20 đến 40% số tiền. Những bọn cướp
lớn cũng được Hoàng đế che chở vì họ không những được phép neo thuyền tại vùng
biên giới (Trung Hoa và Đại Việt) để tuyển quân và trộm lương thực mà còn có thể
dùng Việt Nam như một “sào huyệt” để rút về. Bọn hải khấu đó coi nhà vua như chủ
nhân của họ vì dưới thẩm quyền của ông họ có thể thu hoạch nhiều nguồn lợi từ
biển cả.[13]
Theo Ngụy Nguyên[14] thì nhà Tây Sơn không những chỉ dung
túng cho đám hải khấu mà còn giúp đỡ những giáo phái như Bạch Liên Giáo và
Thiên Địa Hội lúc đó đang nổi dậy trong nhiều vùng tại Trung Nguyên từ Hồ Bắc đến
Hồ Nam, Tứ Xuyên, Quảng Đông kéo dài trong nhiều năm.[15] Có lẽ những điều Ngụy
Nguyên viết không có chứng cứ rõ rệt vì giai đoạn này nhà Tây Sơn đang phải tập
trung sức lực đối phó với Nguyễn Ánh ở miền nam đánh lên không thể nào còn đủ
uy thế để hỗ trợ những lực lượng nằm sâu trong lãnh thổ Trung Hoa, hoặc nếu có
thì là những hoạt động ngầm của vua Quang Trung khi còn sống với dụng ý cầm
chân triều đình Mãn Thanh, mặt khác lại cũng là một hình thức kinh tài để giúp
ông chuẩn bị những phương án chiến lược mới.
Sau khi mua chuộc và chiêu dụ được một số thủ lãnh của đám hải
phỉ, vua Quang Trung sử dụng họ như một cánh kỳ binh tinh nhuệ tấn kích bất ngờ
khiến quân Thanh trở tay không kịp. Việc Nguyễn Huệ sử dụng cướp biển để sang
quấy phá miền nam Trung Hoa đã được đề cập đến trong sử triều Thanh cũng như
triều Nguyễn. Theo Ngụy Nguyên trong Thánh Vũ Ký (phần Càn Long Chinh Vũ An Nam
Ký), viết vào năm Đạo Quang thứ 22 (1842) có đề cập đến như sau:
“Nước nhà từ đời Khang Hi thứ 22 (1683), đánh Đài Loan, dẹp họ
Trịnh, rồi năm thứ 24 (1685) mở rộng tuần phòng trên bể thì vùng Mân, Việt, Chiết,
Ngô, trên vạn dặm bể trời, kình nghê không bóng sóng. Đến đầu đời Gia Khánh
(1796), mới có cướp thuyền (Đĩnh đạo) quấy rối. Cướp thuyền này bắt đầu từ khi
cha con Nguyễn Quang Bình ở An Nam cướp nước, rồi quân mỏi của hết, bèn mời tui
vong mạng dọc bể, cấp cho binh thuyền, nhử bằng quan tước, sau cướp các thuyền
buôn ở bể gần để biện lương thực. Mùa hè tới, mùa thu về, tung tích không lường,
làm họa lớn cho đất Quảng Đông.
Sau lại có bọn cướp đất ở bang Phượng-vĩ, bang Thủy-áo cũng
phụ vào. Chúng bèn vào sâu trong vùng Mân, Chiết. Cướp đất dựa vào thuyền rợ
(An Nam) làm thanh thế, thuyền rợ cậy cướp đất làm hướng đạo. Trên vài ngàn dặm
trên mặt bể ba tỉnh, nếu ta lên bắc thì chúng xuống nam, nếu ta xuống nam thì
chúng lên bắc. Nếu ta chống với thuyền, thì tụi cướp đất tung ra cướp; nếu ta
đương đầu với cướp đất thì thuyền tới cứu. Vả chăng thuyền rợ cao, to, nhiều
súng; có gặp cũng chưa chắc được chúng. Cướp đất giảo quyệt lại có nội ứng; mỗi
lúc tạm trốn rồi quay nhóm lại. Mà bấy giờ tụi giáo-phỉ ở Xuyên Thiểm vừa dấy.
Triều đình vừa chú ý đến tây chinh, chưa rảnh để tính việc hòn đảo. Cho nên thế
giặc càng ác liệt.[16]
Cuối thế kỷ 18, ba nhóm dương đạo hùng cứ biển đông của Trịnh
Nhất (鄭一), Ô Thạch Nhị (烏石二) và Trương Bảo (張保) đã trở
thành một lực lượng thuỷ quân xung kích và cũng đồng thời là lá chắn cho Nguyễn
Huệ khiến cho thương nhân ngoại quốc phải gờm không dám đóng vai đòn sóc hai đầu,
vừa buôn bán với nhà Tây Sơn, vừa giao thương với lực lượng đối nghịch của họ.[17]
Thế nhưng việc sử dụng thành phần hải phỉ không phải chỉ đơn
giản như thế. Đây là một chương trình có tính toán, một canh bạc cháy túi nếu
đi sai. Lúc đầu ông thu dụng bọn họ như một lực lượng vây cánh nhưng ngay cả
khi đã lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục tin dùng và phát triển thêm
lên. Nếu nói đây là bụng dạ đàn anh của ông cũng được mà bảo rằng là chủ đích của
ông thì cũng không sai. Robert J. Antony đã nhận xét:
“Ngay cả sau khi vua Càn Long đã phong vương cho một trong những
lãnh tụ Tây Sơn năm 1788 (đúng ra phải là 1789 - NDC), ông này vẫn theo đuổi một
chính sách chơi dao hai lưỡi, một mặt vẫn gửi đồ tiến cống sang Thanh triều ở Bắc
Kinh, mặt khác vẫn đồng thời yểm trợ cho những vụ cướp phá của hải tặc dọc theo
bờ biển Trung Quốc.”[18]
Những tên cướp đó không những có nơi trú ẩn an toàn khi bị
săn đuổi mà còn được cung cấp vũ khí, tiền bạc để nuôi sống gia đình, lại còn
được phong tước. Cho tới khi nhà Tây Sơn bị lật đổ, những bọn cướp biển đó được
dành riêng một khu vực gần biên giới Việt – Hoa gọi là Giang Bình
(Jiangping)[19] coi như sào huyệt của họ. Trong số những tên cướp biển kiệt hiệt
phải kể đến Mạc Quan Phù (莫官扶- Mo Guanfu), Trịnh Thất (鄭七 - Zheng
Qi), Vương Quí Lợi (王貴利- Wang Guili) và Ô Thạch Nhị (烏石二- Wushi
Er). Bốn người này được lệnh của triều đình Tây Sơn qui tụ những nhóm lẻ tẻ lại
lập thành những toán quân lớn. Mạc Quan Phù và Trịnh Thất đã từng tham dự nhiều
trận đánh chống lại Nguyễn Ánh và năm 1796 Mạc được vua Cảnh Thịnh phong chức
Đông Hải Vương. Trịnh Thất thì có dưới tay hơn 200 chiến thuyền, là lực lượng
ngoài biển lớn nhất thời ấy và được thăng tới chức Đại Tư Mã (tương đương Thượng
Thư bộ Binh). Vương Quí Lợi, có vợ Việt Nam, bỏ y phục người Hoa ăn mặc theo lối
Việt và còn lưu lạc mãi tới năm 1810 (8 năm sau khi nhà Tây Sơn bị diệt vong)
được phong chức Định Hải đại tướng quân.
Xem lại biểu đồ mà nhà Tây Sơn tổ chức lực lượng hải phỉ ta
còn nhận ra nhiều nhóm theo tên gọi chẳng hạn như Phượng Vĩ, Tiểu Miêu... hoặc
có khi chia thành nhiều màu cờ như Thanh Kỳ, Hồng Kỳ, Hoàng Kỳ, Hắc Kỳ, Lục Kỳ[20]
mỗi nhóm có một vùng hoạt động, những thủ lãnh được phân bố chặt chẽ. Sau khi
nhà Tây Sơn bị lật đổ, những nhóm đó đã tự động tập hợp lại để ký với nhau một
thỏa hiệp xác định lại một số qui luật để không rơi vào tình trạng chém giết lẫn
nhau. Nếu như vua Quang Trung không mất sớm, tổ chức hải quân của ông chắc chắn
sẽ mau chóng trở thành lực lượng đường biển mạnh nhất thời bấy giờ không những
đủ sức làm lệch cán cân Việt – Thanh mà còn đủ sức ngăn chặn sự bành trướng của
chủ nghĩa thực dân vào đầu thế kỷ thứ 19.
THỦY QUÂN CỦA TÂY SƠN
Có thể nói ngay từ ban đầu anh em Nguyễn Nhạc đã đặc biệt chú
trọng đến vai trò của thủy quân, một phần cũng vì bản chất của dân địa phương sống
liền với bể cả, một phần vì vào thế kỷ thứ 18 việc phát triển đường biển đang
lên đến cao độ.
Vấn đề thủy quân trở thành một yếu tố quan trọng từ khi người
ta phát minh ra thuốc nổ và biết áp dụng để sử dụng như một ưu điểm về vũ khí.
Chưa có súng thần công, đại bác, thuyền bè phần lớn chỉ dùng như một phương tiện
di chuyển cũng chẳng khác gì con ngựa của dân du mục, không thể nào làm nên
chuyện lớn nếu không có cánh cung đi kèm. Do đó, muốn tìm hiểu về vai trò của
thủy quân, chúng ta lại phải nhìn qua tiến bộ của vũ khí trang bị khiến cho tàu
chiến trở thành một lực lượng chủ yếu. Chiến thuyền vừa là một phương tiện di
chuyển, vừa là phương tiện tấn công lại cũng là một cái nhà nổi mà sinh mạng của
thủy thủy gắn liền với con tàu. Chính vì thế, việc bảo vệ con thuyền, sống chết
với nó đã thành một truyền thống của hải quân.
Theo những di chỉ tìm thấy được, người Mông Cổ có lẽ là dân tộc
đầu tiên biết phối hợp súng thần công (phát minh vào khoảng thế kỷ thứ 10)
trang bị vào tàu chiến để đưa quân đi đánh Nhật Bản, Đại Việt và nhiều quốc gia
khác trong vùng Đông Nam Á mặc dầu người ta biết rằng ngay từ thế kỷ thứ 8 người
Trung Hoa đã nghĩ ra cách chiến đấu bằng hải thuyền từ đằng xa (thay vì cận chiến)
dùng các loại súng bắn đá (trebucket).
Thế nhưng phải tới đời Minh, người Trung Hoa mới có các loại
thuyền trang bị đại pháo khi bắt được một số kỹ thuật gia của Đại Việt đem về
nước vì chính Hồ Nguyên Trừng (con trưởng Hồ Quí Ly) là người đã cải cách hải
quân, xây dựng những chiến thuyền hai tầng trang bị súng thần công để bảo vệ mặt
biển.[21] Từ sáng kiến của Hồ Nguyên Trừng, Minh Thành Tổ đã cho đóng những chiến
hạm lớn và sai Trịnh Hòa thực hiện những cuộc viễn dụ Những soái hạm thời đó đều
được trang bị 50 hỏa khí đủ loại, 1000 viên đạn. Trong cuộc đụng độ giữa quân
triều đình và người Bồ Đào Nha (Portuguese) vào năm 1522 họ đã đánh bại và bắt
giữ nhiều quân địch.[22] Tuy nhiên vào thời kỳ đó việc sử dụng súng lớn trên
thuyền còn nhiều phức tạp, cồng kềnh và thiếu tiêu chuẩn nên không hữu hiệu bao
nhiêu. Trong việc tiễu trừ hải khấu, họ vẫn phải dùng phương pháp cổ điển với
gươm giáo.
Ở phương Tây, hỏa khí tuy cũng đã được dùng trên các chiến
thuyền từ thế kỷ 14 nhưng cũng chỉ là loại súng tay, súng lớn chưa dùng được. Vả
lại, thời kỳ đó người ta vẫn phải dùng nhân công chèo bên hông thuyền và tấn
công bằng mũi, có để súng cũng không biết bắn ra sao. Súng đại bác khi đó chỉ
có thể để trên sàn thuyền và được đặt theo một vị trí nhất định nên chỉ có thể
dùng để công phá thuyền địch hay thành lũy gần bờ biển và cho đến khi được cải
tiến để có thể bắn ra ở những góc độ khác nhau thì mới có thể đạt được những
công năng mới.
Đến thế kỷ thứ 18, khi có những tiến bộ kỹ thuật đưa đến những
phát kiến mới trên mặt biển, quốc gia nào có lực lượng hải quân mạnh được coi
như làm chúa mặt biển và cũng trở thành cường quốc trên bộ. Công tước xứ
Choiseul, thủ tướng Pháp vào thập niên 1760 đã nói:
- Trong tình trạng hiện tại của Âu Châu, thuộc địa và thương
mại và nhất là hải quân sẽ quyết định việc cân bằng lực lượng trên đất liền.[23]
Tuy nhiên, lực lượng trên biển thời kỳ đó chỉ giới hạn vào việc
di chuyển binh đội và tiếp liệu vì tầu bè ở thời đại giương buồm (the age of
sail) chủ yếu là chuyên chở mà không phải là một lực lượng tấn công, chưa chú
trọng đến việc họa kiểu để cho sử dụng súng ống hay các cánh buồm được hữu hiệu.
Trên phương diện chiến đấu, tàu bè lớn khó xoay trở, không vào được những vùng
nước nông, nếu không có những thuyền nhỏ hộ tống và bảo vệ thì khó lòng đương cự
được với lối đánh của hải khấu, dùng thuyền chèo tay vây quanh lúc tối trời, lẳng
lặng tiến tới gần tấn công bằng các loại thuốc nổ, đánh gãy cột buồm hay phá vỡ
be thuyền rồi xông vào tàn sát. Chính vì thế mà Nguyễn Huệ không sợ những lực
lượng tiếp viện của Nguyễn Ánh từ Âu Châu và đã từng tuyên bố:
“... Các ngươi chớ quá nhẹ dạ cả nghe những lời phao đồn về bọn
người Tây Dương. Tài giỏi gì hạng người đó? Mắt chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ
là những xác chết trôi từ biển Bắc giạt về đây, các người nên hiểu như thế. Những
tàu bằng đồng, những khinh khí cầu của chúng thì có gì là kỳ lạ...”[24]
Cũng theo những tài liệu còn để lại, lực lượng thủy quân của
nhà Tây Sơn cho tới những năm sau cùng trước khi bị Nguyễn Ánh đánh bại vẫn còn
rất đáng kể. Sau khi nhà Tây Sơn bị diệt, một phần của thủy binh Tây Sơn hoặc
chạy trốn tới các quốc gia chung quanh, hoặc quay sang (hay trở lại) làm cướp
biển và vẫn còn làm cho triều đình Mãn Thanh cũng như triều đình Việt Nam điêu
đứng một thời gian dài. Theo Chaigneau, một sĩ quan hải quân của Pháp được Giám
Mục Bá Đa Lộc tuyển mộ để giúp Nguyễn Ánh thì:
“... Trước khi thấy được thủy quân địch, tôi đã coi thường lực
lượng này nhưng nay tôi đoan chắc với ông rằng đó là lầm lạc, quân Tây Sơn đã
có những chiến hạm trang bị 50 và 60 đại bác.”[25]
Chúng ta không biết rõ những chiến thuyền đó đóng theo kiểu
nào, hay mua được ở đâu nhưng vào thời đó trang bị 50, 60 súng đại bác được kể
là những tàu chiến thuộc loại lớn trên thế giới. Lẽ dĩ nhiên một chiến hạm còn
nhiều yếu tố khác như trang bị cơ giới, thủy thủ và nhất là loại súng đại bác
đó là loại gì, tầm cỡ ra sao... nhưng một sĩ quan được kể là bậc nhất của chúa
Nguyễn đã nhận xét như thế hẳn không phải là một lời nói ngoa.
Cũng theo Barixzy thuật lại về hạm đội do Vũ Văn Dũng chỉ huy
thì lực lượng của ông ta bao gồm 673 chiến thuyền lớn nhỏ, trong số đó có những
tàu trang bị đại bác với một thủy thủ đoàn đông hơn những chiến hạm lớn nhất kiểu
Tây phương mà quân Nguyễn có. Lực lượng Tây Sơn có đến 9 chiến hạm lớn
(vaisseaux), trang bị 60 khẩu đại bác nặng 24 cân Anh (livres) và thủy thủ đoàn
700 người, 5 chiến hạm trang bị 50 đại bác nặng 24 cân Anh, thủy thủ đoàn 600
người và 40 chiếc trang bị 16 đại bác nặng 12 cân Anh và thủy thủ đoàn 200 người.
Như vậy chỉ tính 54 chiến thuyền cỡ lớn này người ta đã thấy
lực lượng lên tới 17,300 quân và 1430 đại bác. Về thuyền cỡ trung và cỡ nhỏ,
cũng theo các giáo sĩ Tây Phương thì Vũ Văn Dũng có dưới tay 93 chiếc trung
bình trang bị 1 đại bác 36 cân Anh và 150 thủy thủ, 300 xuồng (chaloupes
canonnieres) mỗi chiếc 50 thủy thủ và 100 chiếc ghe mỗi chiếc 70 thủy thủ. Tất
cả tổng cộng 35,950 người và 17,300 quân trên các thuyền lớn cho thấy dưới quyền
Vũ Văn Dũng chỉ huy lên đến 53,250 người.[26]
Chính vì thủy quân Tây Sơn quá hùng mạnh nên chúa Nguyễn Ánh
cũng phải chạy đua trên mặt đóng tàu. Nguyễn Ánh cũng đặt mua một số tàu Tây
phương, tháo ra rồi bắt chước đóng theo kiểu của họ, mỗi chiếc trang bị từ 26 đến
36 đại bác cùng hơn 300 thủy thủ. Tuy nhiên những tàu lớn thời này là lực lượng
mà nhà Tây Sơn xây dựng sau khi vua Quang Trung đã lên ngôi nghĩa là theo lối tổ
chức quân đội chính quị Bên cạnh đó ông còn chỉ huy một lực lượng lưu động bán
chính thức là các nhóm hải phỉ trên khắp vùng Đông Nam Á lên đến hàng ngàn chiến
thuyền và hàng vạn người dùng trong nhiều nhiệm vụ phi quân sự, kể cả buôn lậu,
dò thám, trao đổi hàng hóa... khiến cho thực lực của ông có thể còn hơn những
gì người ta biết rất nhiều. Những lực lượng bán chính thức đó trải rộng khắp mọi
nơi và cũng là chỗ dựa để Nguyễn Huệ dự tính một chương trình bành trướng qui
mô hơn. Chính vì đối phương không biết rõ các nhóm liên kết của ông ra sao nên
thường đánh giá nhầm biến ông thành một nhân vật thần kỳ và càng khiến cho người
ta tô vẽ những điều không có thực.
VAI TRÒ CỦA HẢI PHỈ TRONG TRẬN ĐÁNH KỶ DẬU
A/ TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT
Khi đại quân của Tôn Sĩ Nghị kéo sang nước ta, khí thế hung
hãn khiến cho một số tướng lãnh của Tây Sơn kinh hoảng. Phan Khải Đức, một tướng
miền Bắc mới qui thuận đang giữ Lạng Sơn vội vàng ra hàng, Phan Văn Diễm gom
quân chạy về. Đại Tư Mã Ngô Văn Sở thống lãnh binh mã ở ngoài Bắc thấy thế giặc
quá mạnh, một mặt cho các toán quân chận đánh cầm chân quân Thanh, một mặt ra lệnh
cho trấn thủ các nơi trở về Bắc thành (Thăng Long) chuẩn bị tàu bè xuôi nam. Nội
hầu Phan Văn Lân đem quân lên ngăn giặc, đánh một trận rất khốc liệt tại sông
Thị cầu. Địch quân có sự tiếp tay của đám thổ mục vẫn còn trung thành với nhà
Lê nên quân ta bị đánh tập hậu, phải rút lui.[27]
Theo bộ lịch sử tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô
gia văn phái, Ngô Văn Sở theo kế của Ngô Thì Nhậm lui binh về đóng ở Tam Điệp
và cho người phi báo Nguyễn Huệ lúc ấy đang ở Phú Xuân. Tuy nhiên, cuốn tiểu
thuyết dã sử này đã quá đề cao sĩ phu Bắc Hà và cố gắng đặt cho họ một vai trò
quan trọng trong chiến thắng Kỷ dậu. Thực tình mà nói, Nguyễn Huệ cũng như các
đại tướng của ông không bao giờ chủ quan tới mức chỉ ngồi chờ đợi động tĩnh mà
luôn luôn có những thám tử nghe ngóng để nắm vững tình hình bạn và địch. Vào thời
điểm này, Nguyễn Huệ ở trong tư thế một con hổ rình mồi, một bên là quân Thanh
nghe theo lời cầu cứu của nhà Lê sang xâm chiếm miền Bắc, một mặt Nguyễn Ánh
đang gom góp lực lượng, với sự giúp sức của Xiêm La và một số nước Tây Phương
lăm le chiếm lại Đàng Trong. Đó là chưa kể kẻ thù gần gũi nhất – và cũng nguy
hiểm nhất – có thể lại chính là Nguyễn Nhạc (vua Thái Đức) đang đóng ở Qui Nhơn
nhân cơ hội Phú Xuân bỏ trống mà đem quân chiếm lấy Thuận Hóa[28]. Trong tình
hình khẩn trương như thế, vấn đề của Nguyễn Huệ không phải là chờ địch đến mà
là phải tập trung sức lực vồ con mồi nào trước vì không thể phân thân ra đánh cả
hai nơi.
Đi vào cụ thể, dẫu sao Nguyễn Ánh cũng ít nguy hiểm hơn vì
còn phải vượt qua vương quốc của Nguyễn Nhạc trước khi chạm mặt với ông. Còn
như nếu để mất miền Bắc, Nguyễn Huệ sẽ có thể bị lâm vào thế hai mặt giáp công,
lưỡng đầu thọ địch rất nguy hiểm. Ông cũng mất luôn cả một hậu phương to lớn và
khu vực Phú Xuân – Quảng Nam chật hẹp kia sẽ bị cô lập. Chính vì thế, Nguyễn Huệ
đã chuẩn bị đánh một trận chớp nhoáng đúng theo sở trường của mình, dùng uy thế
vũ khí và nhân lực để chiếm thượng phong ngay từ phút đầu.
Việc ông ra lệnh cho Ngô Văn Sở rút quân về Ninh Bình chặn yết
hầu vào Nam nằm trong một kế hoạch đã được tính toán từ trước, mặc dù trên danh
nghĩa, rất có thể ông tạo cơ hội cho giới nho sĩ Bắc Hà có dịp bày tỏ ý kiến để
lập công đóng góp vào chiến dịch ngõ hầu gắn bó hơn với quân Nam và chấp nhận
quay lưng triệt để với nhà Lê ở miền Bắc.
Dầu sao chăng nữa, sau khi thu tóm mọi nhân tài vật lực của
miền Bắc rồi rút về Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã bỏ ngỏ một trận địa lớn cho quân
Thanh bơ vơ, chịu đựng những cơn mưa dầm và thời tiết lạnh lẽo của mùa đông ở
miền Bắc. Ông đã khiến Tôn Sĩ Nghị trải mỏng quân thành những mục tiêu cố định
để sắp xếp kế hoạch tấn công. Kế hoạch tạo điều kiện để quân địch đóng quân tập
trung thành một khu vực “ lòng chảo” là một chiến thuật mà nhiều quân sự gia
Đông cũng như Tây, kim cũng như cổ thường áp dụng để đánh một trận quyết liệt.
Đó cũng là một mặt trận Nguyễn Huệ bày sẵn, trút trách nhiệm trị an cho đối
phương.
Dù muốn dù không, Lê Chiêu Thống và đám bày tôi của ông cũng
phải đóng vai trò chủ nước đối với dân chúng và chủ nhà đối với quân Thanh.
Nhiệm vụ đó Nguyễn Huệ cũng biết trước rằng không thể nào thực
hiện được trong một thời gian ngắn ngủi và chỉ tạo thêm mâu thuẫn giữa đối
phương với quần chúng. Tình hình những ngày giáp Tết năm Kỷ Dậu không phải “rượu
nồng dê béo” như chúng ta thường tưởng tượng mà là 25 những ngày mùa đông tháng
giá, lương thực hiếm hoi nơi đất lạ quê người. Đây không phải chỉ là “ngủ nhờ một
đêm” mà chính là tự co cụm thành những điểm tập kết dễ dàng bị tiêu diệt.
Chính vì ở trong tình trạng hoang mang không chủ định, vua
tôi nhà Lê chẳng biết xoay trở thế nào, chịu cái thế tiến không xong, lùi không
được, đành chấp nhận lời nói cứng của họ Tôn là “quân giặc ốm, chính chúng ta
đang nuôi cho chúng mập béo để chúng tự đến nạp thịt vậy”. Quân Thanh trong một
tháng ở Thăng Long không phải là nghỉ ngơi dưỡng uy súc nhuệ để chuẩn bị ra
quân mà tình hình càng lúc càng thêm khó khăn, phải đối phó với nhiều vấn đề
quân sự cũng như tiếp liệu. Thời tiết buốt giá và ẩm ướt của đất Bắc cũng là một
đồng minh đáng kể mà Nguyễn Huệ khai thác để tiêu hao tinh thần của đoàn quân
viễn chinh.
Còn về dân chúng Bắc Hà trong mấy năm liền bị thiên tai, hạn
hán nay lại bị một cổ ba bốn tròng khiến dân chúng lầm than không sao kể xiết.
Nhiều tài liệu của nước ta cũng như nước ngoài đã đề cập đến tình trạng mùa
màng thất bát và dân chúng đói khổ của miền Bắc. Việt Nam phong sử đã viết:
“Nhân dân ở vùng Bắc và vùng Nam đều phải phiêu lưu tan tác.
Không có cơm, phải luộc cỏ mà ăn, không có nhà ở, phải lộ thiên mà nằm. Người
nào có thóc lại không có muối...”[29]
Ngoài ra, dân thành thị còn bị bọn người Hoa sinh sống ở Việt
Nam lâu năm nay cậy thế Bắc quân nhũng nhiễu, chèn ép:
“Ở những nơi như Hà Khẩu phường trong thành Thăng Long, phố
cơ sá bên Kinh Bắc và phố Hiến (Hưng Yên) thuộc trấn Sơn Nam, hàng vạn Thanh kiều
đã sống lâu năm bên ta, am hiểu phong tục, nói thạo tiếng Nam, nay bỗng cậy thần
ỷ thế Tôn Sĩ Nghị, giở ngay thủ đoạn nhờ gió bẻ măng: họ hoặc đến phụ theo quân
đồn, hoặc lập riêng cái điếm “Liễu để” công nhiên cướp của, hiếp gái ở giữa chợ,
ngoài đường, không còn kiêng nể e dè gì cả!...”[30]
Chính những yếu tố tiêu cực mới đã khiến cho người dân tuy
chưa chịu ân huệ gì của nhà Tây Sơn, có thể đôi phần còn quyến luyến tiền triều,
đến nay đã trông ngóng một đoàn quân cùng nòi giống với mình tiến ra đánh đuổi
quân thù, lấy lại giang sơn. Nhà Lê tự họ đã chấm dứt mệnh trời, không cần ai
phải giành ngôi vị chúa tể miền Bắc. Đó cũng là một yếu tố tâm lý quan trọng mở
đầu cho cuộc hành quân Bắc phạt.
Riêng về hải quân, bên cạnh lực lượng bản bộ của Đàng Trong,
ông củng cố lại thành phần hải phỉ được thu dụng, chia cho mỗi nhóm một hải bàn
hoạt động, phân thành từng màu cờ, ban chức tước cho những đầu mục khiến họ vẫn
tiếp tục trung thành ngay cả sau khi ông đã chết. Thành phần này cũng là thành
phần chủ lực theo đường sông đánh vào mặt sau quân Thanh đóng một vai trò quan
trọng trong chiến dịch năm Kỷ Dậu.[31]
Sử dụng những toán giặc bể có những điểm lợi sau đây:
- Họ quen thuộc với lối đánh của quân Thanh vì phần lớn đã từng
hoạt động dọc theo duyên hải Nam Trung Hoa, nhiều lần đụng độ với quan quân nên
nắm vững thực lực và trang bị của quân triều đình,
- Một số đông đã giao chiến với quân Thanh trong chiến dịch
Đài Loan (1788), mà sau đó chính thành phần này được đưa về Quảng Châu để sang
đánh nước ta. Đây là dịp mà họ phục thù cái nhục bại trận mấy tháng trước.
- Những toán giặc bể mới về đầu nhập dưới trướng Nguyễn Huệ
đang muốn có dịp lập công với tân chủ tướng nên đây là một cơ hội bằng vàng để
chứng tỏ khả năng của mình.
- Nguyễn Huệ dùng ngay người Trung Hoa để chống lại người Mãn
Thanh, vừa giảm thiểu được sự tổn thất của quân Nam, vừa tạo tiếng vang với những
thành phần đang mưu tính chuyện lật đổ nhà Thanh, nhất là một số giáo phái vùng
Hoa Nam.
B/ HẢI PHỈ ĐƯỢC ĐIỀU ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?
Trận chiến năm Kỷ Dậu vẫn còn nhiều điểm chưa được giải thích
thoả đáng, phần lớn vì các sử gia Việt Nam bị trói buộc vào một số định đề có sẵn
khiến cho những khúc mắc không sao cởi được. Người ta vẫn khẳng định là khi
nghe tin quân Thanh kéo sang, Nguyễn Huệ được tin cấp báo về Phú Xuân, ngay hôm
sau lập tức lên ngôi hoàng đế rồi đùng đùng kéo quân ra Bắc, tới Nghệ An trong
4 ngày, hạ trại hiểu dụ tướng sĩ, tuyển thêm quân Thanh Nghệ bảy tám vạn người
rồi cho quân ăn Tết trước, sau đó kéo thẳng ra bắc dùng 10 vạn quân đánh bại 20
vạn quân Thanh trong chớp nhoáng. Theo như sách vở, chiến dịch đó là một chuỗi
hành quân hoàn hảo đến mức không thể tưởng tượng được, mọi việc đều suông sẻ mà
một tướng lãnh tài ba nào cũng không dám mơ tưởng đến vì chỉ một sơ xuất nhỏ
cũng khiến cho mọi dự tính tan ra mây khói khiến người ta phải nghi ngờ về những
chi tiết và giá trị của tài liệụ. Những chi tiết của trận đánh này chúng tôi viết
trong một biên khảo khác nên ở đây chỉ tóm lược một vài ý chính.
Cuộc giao binh Thanh – Việt đã được dự tính từ lâu, là một mặt
trận tính toán trước theo đúng sở trường của Nguyễn Huệ. Đó là để cho địch đóng
quân đâu đó, theo tình hình cụ thể ông mới điều đại binh tấn công bằng một trận
quyết tử theo lối “nhất định thắng bằng mọi giá”.
Để nhấn mạnh vào chiến tranh chống xâm lược, các sử gia Việt
Nam vô tình hay cố ý không đề cập đến vai trò của nhiều cánh quân theo một
nghĩa nào đó không phải là người Việt, chẳng hạn như các toán quân người Thượng
thông thạo đường rừng, thường dùng voi đi lẩn theo sơn đạo, và các thuyền chiến
do hải phỉ chỉ huy hoạt động ngang dọc trên mặt biển mà chúng ta thường cho rằng
là người Tàu. Hai cánh quân này đã tạo ra sự bất ngờ vì quân Thanh bị tấn công
từ ngang hông và tập hậu nên không kịp phòng bị, các kho lương thực, kho đạn,
thuốc súng, quân nhu... bị thiêu hủy tạo nên sự kinh hoàng dây chuyền làm cho
Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy.
Ngoài ra, một trong những lý do khiến quân Thanh bị thất thế
chính là vì họ chỉ chuẩn bị đối phó với bộ binh, tượng binh, kỵ binh mà không
quan tâm đến thủy binh. Mùa đông ở miền Bắc nước ta là tháng mưa dầm gió bấc,
gió từ phương bắc thổi xuống, không thuận tiện cho thuyền bè từ phương nam dùng
buồm tiến lên. Chính vì thế họ không đề phòng thủy quân của nhà Tây Sơn tấn
kích mà chỉ tập trung vào phòng thủ những trục lộ giao thông đường bộ. Vả lại,
đường từ Thanh Nghệ tiến ra phải qua nhiều nơi hiểm yếu, giữ dễ, đánh khó nên
quân Thanh tin rằng quân Nam không thể một sớm một chiều vượt qua được. Từ những
lý do chủ quan cũng như khách quan, Tôn Sĩ Nghị phải chùng chình để chờ đợi
thêm vài tháng nữa, chuẩn bị lương thảo để tính kế hoạch xuất quân. Cánh quân của
hải phỉ trái lại vốn dĩ tập trung sẵn ở các vùng biên giới và vịnh Bắc Việt[32],
là sào huyệt lâu nay của họ, lại thêm tàn quân từ Đài Loan mới bị quân Thanh
đánh bại kéo về, nay được dịp tối trời theo các đường sông tiến vào đánh tập hậu
quân Thanh trả thù.[33]
Cuộc tấn công chớp nhoáng và bất ngờ khiến cho địch trở tay
không kịp và những cánh quân đó mãi mãi là những toán biệt kích vô danh. Chính
vì thế theo sử sách trong đại quân của vua Quang Trung nhiều tướng lãnh chỉ huy
chỉ có tên mà không có họ (đô đốc Long, đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, đô đốc Mưu, đô
đốc Tuyết...). Họ vốn dĩ là những thổ hào vùng núi hay hải phỉ được phong những
chức tước rất kêu nhưng lại hoàn toàn biến mất khi vua Quang Trung thành lập bộ
máy chính quyền. Ngay cả những danh tướng của ông mà chúng ta hằng nghe danh
(Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở...) cũng không thấy
đóng vai trò nào quan trọng trong chiến thắng lẫy lừng này khiến chúng ta có cảm
tưởng rằng chỉ một mình Nguyễn Huệ chỉ huy toàn bộ đạo tiền quân, hậu quân,
trung quân tiến dọc theo một trục lộ từ Tam Điệp đến Gián Khẩu, Thanh Liêm, Nhật
Tảo, Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi rồi tiến vào Thăng Long.
Một chi tiết chúng ta cũng cần chú ý là trong chiến dịch đại
phá quân Thanh, quân Nam dùng rất nhiều các loại hỏa khí, hỏa dược để tấn công
cũng như để đốt phá. Đó cũng là thói quen của hải phỉ thường dùng để thiêu hủy
tàu địch được áp dụng trên đất liền. Ngay từ nhiều thế kỷ trước, những đám hải
khấu đã biết dùng một loại bom làm bằng bình đất nung, miệng hẹp trong chứa thuốc
súng và miểng, ném ra như một loại lựu đạn chế tạo giản dị. Loại bom này gần
đây đã được tìm thấy nơi biển Đài Loan do quân của Trịnh Thành Công sử dụng khi
tấn công quân Hòa Lan.[34] Dian Murray cũng đề cập đến việc hải phỉ dùng những
loại miểng vụn của nồi sắt hay đinh, có khi còn dùng tiền đồng hay các loại
bình chứa. Họ cũng hay đánh hỏa công bằng thuyền chất đầy đồ dẫn hỏa xông thẳng
vào địch hoặc ném những loại pháo bằng ống tre để đánh gãy cột buồm.
Một loại võ khí đặc biệt khác cũng có tác dụng tương tự mà
đám giặc biển cũng thường dùng là những bình đất nung chức thuốc súng trộn rượu
mạnh. Diêm sinh được chứa vào nắp bình, treo sẵn, khi xáp trận sẽ ném lên sàn
tàu địch, bình sẽ vỡ và bén lửa.[35] Ngoài ra chúng ta không thể không nhắc đến
một loại hỏa tiễn hình đầu quạ, thân bằng tre có nhồi thuốc súng. Bốn ống phun ở
đuôi có thể đẩy loại tên lửa này bay xa đến 300 mét và thường được dùng để đốt
phá doanh trại hay tàu bè của đối phương đã khá phổ biến và thông dụng từ trước
thế kỷ 17.
Những loại đạn phóng như thế cũng đã được quân Mông Cổ dùng
trong những cuộc tấn kích Nhật Bản và các quốc gia vùng Đông Nam Á mà sử sách
còn ghi chép. Việc sử dụng thuốc súng vào trong những loại súng phóng tay
(hand-held projectile weaponry) đã được dùng khá rộng rãi trên bộ cũng như trên
biển vào thời kỳ đó nhưng cụ thể loại võ khí đó ra sao thì chưa thấy ai đề cập
đến.[36] Xem như thế, rất có thể quân lính của Nguyễn Huệ đã sử dụng một loại
súng phóng loại này để tấn công và đốt cháy đồn quân địch dưới cái tên “hỏa hổ”.
Một giả thuyết khác mà chúng tôi đưa ra là ở vào thời kỳ này
người ta đã biết chế tạo một loại hỏa tiễn đốt theo hai giai đoạn (two-stage
rocket) gọi là “hỏa long” (fire-dragon). Con rồng lửa là một loại ống phóng có
bốn hỏa tiễn ở thân chính, khi cháy hết sẽ mồi vào những tên lửa ở trong bụng rồng
và những tên lửa đó sẽ được bắn vọt ra đằng miệng. Hỏa long được sử dụng trong
những trận hải chiến mà hai bên còn cách xa, các bình thuốc nổ ném chưa tới,
dùng để đốt tàu địch. Vì chưng hỏa tiễn bắn ra hàng loạt trông như một con rồng
lửa bay trên mặt nước nên được đặt tên là hỏa long.[37] Có thể cũng loại võ khí
này được cải tiến đôi chút – dùng diêm sinh, thuốc súng trộn với nhựa thông để
dẫn hỏa đốt doanh trại, quân nhu của địch - sử dụng trên bộ nên được đặt tên là
hỏa hổ để tượng trưng cho một loại trên bờ, một loại dưới nước. Vả lại hỏa
long, hỏa hổ chủ yếu dùng tre, nứa làm ống chứa thuốc mà tre trúc là một loại
thảo mộc rất thông dụng ở phương nam nên việc quân Tây Sơn sử dụng các loại võ
khí này cũng không phải là chuyện lạ. Có lẽ vì thế mà người thời đó đã truyền tụng
là:
Hổ tự Tây Sơn xuất
Long tòng Đông Hải lai
虎自西山出
龍從東海來
(Hỏa hổ phát xuất từ rừng núi phía Tây,
Hỏa long nguồn gốc từ biển cả phía Đông)[38]
Những loại võ khí đó không phải là một độc quyền hay bí mật
quân sự mà bên kia không biết hay không chế tạo được. Có điều quân Tây Sơn vẫn
nổi tiếng là phong phú về thuốc nổ và họ cũng mua được những loại thuốc súng của
người Âu Châu nhạy hơn và cũng mạnh hơn của quân Thanh và vì thế quân Tây Sơn
luôn luôn có uy thế áp đảo trong những trận đánh. Chiến đấu trong tư thế áp đảo
bằng lực lượng cũng như về vũ khí vốn dĩ là một lối đánh mà vua Quang Trung thường
sử dụng.
Do đó, chúng ta có cảm tưởng những nhà chép sử cố tình thu gọn
một cuộc chiến cho thêm phần chớp nhoáng mà quên đi thực tế của thời đại. Những
yếu tố về tổ chức quân đội, điều động, phối hợp hàng dọc, hàng ngang, kỹ thuật
và vũ khí, hoàn cảnh xã hội... đã hoàn toàn mờ nhạt trong chiến dịch này. Ngay
cả thời gian cũng lộn xộn, không minh bạch. Thực sự quân Thanh bị đánh ngang
hông và chặn đường trong đêm tối, không cứu ứng được nhau, mất tinh thần nên đã
thảm bại trong mùa xuân năm Kỷ dậu. Theo những số liệu của nhà Thanh đưa ra một
cách chính thức, số lính tử thương và bị bắt có đến gần một nửa ½ (khoảng 8000
người trong số quân chính qui gần 2 vạn họ đưa ra). Ngoài ra một số dân phu được
điều động đi theo làm hậu cần cũng bị giết, không rõ là bao nhiêu nhưng chắc phải
rất lớn. Chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu trở thành một chiến thắng thần kỳ vì
những cánh kỳ binh của Nguyễn Huệ chẳng khác gì những con rồng theo đường sông
tiến vào rồi lại lặng lẽ rút đi, trở về với biển cả. Điều duy nhất người ta còn
biết được là trong số tướng lãnh của vua Quang Trung tử trận có một người mang
cấp bậc Đô Đốc.
KẾT LUẬN
Thủy binh của Nguyễn Huệ gồm phần lớn là hải phỉ cũng khiến
cho chúng ta lượng định lại một số trận chiến trên biển cả và sông ngòi. Thành
phần đó mang nhiều đặc tính của những người sinh sống trên đại dương:
- Vì phải đối phó thường xuyên với sinh tử nên một mặt họ rất
tàn ác nhưng lại cũng rất nghĩa khí. Không hiếm những trường hợp hải khấu bắt
cóc trẻ em, thanh niên để đòi tiền chuộc hay làm bộ hạ rồi về sau nhận làm con
nuôi (nghĩa tử) và giao cho những trọng trách chỉ huy. Chính vì thế họ chiến đấu
rất anh dũng, tinh thần đồng đội cao.
- Quen với bị săn đuổi và lén lút, thuyền của họ phần lớn là
thuyền nhỏ và nhẹ, chèo bằng tay cũng được mà chạy bằng buồm khi có gió cũng tốt.
Thuyền hải phỉ thường nông lòng để có thể tiến vào những vùng biển nông mà
không sợ bị mắc cạn.
Họ thường lặng lẽ tiến sát vào tàu lớn của địch, khi tới gần
dùng thuốc nổ đánh gãy cột buồm, đốt hay đánh chìm tàu rồi xông lên tàn sát đối
phương bằng đao kiếm và giáo mác. Ngoài việc cướp hàng hóa, họ cũng thường bắt
thủy thủ trên tàu phải gia nhập hàng ngũ của họ để gia tăng nhân số.
- Hải phỉ cũng lắm mưu nhiều kế, hay giả dạng làm con buôn,
quan quân, binh lính nhất là khi họ cướp phá trên sông rạch hay làng mạc. Nhiều
lần họ chiếm được cả những khu vực đóng quân, lấy tiền bạc, thuốc nổ, súng ống...
rồi bỏ đi mất. Những đe dọa đó khiến cho dân chúng vùng ven biển luôn luôn nghe
ngóng, sợ sệt những người lạ mặt lảng vảng quanh vùng của họ.
- Nhiều khu vực gần biên giới đã biến thành những “chợ trời”,
nơi mua bán trao đổi những hàng hóa họ đánh cướp được với giá rẻ hơn bình thường,
tạo thành những trung tâm thương mại sầm uất.
Hải phỉ thường chỉ giữ lại thực phẩm, nước uống, vũ khí và
thuốc súng để sử dụng còn các đồ khác đem bán lại lấy tiền (hoặc giao nạp cho
nhà Tây Sơn). Những khu vực này đến đời Gia Long thì bị quan quân Việt Nam dẹp
bỏ.
Dưới nhãn quan chính trị, nhiều sử gia cận đại gán cho họ nhiều
nghĩa cử và chí khí lớn nhưng thực tế, hải khấu tuy nhiều khi có những nguyên
nhân đáng thương nhưng đây là một nghề sinh tử với sức mạnh chủ yếu là bạo lực
và tàn nhẫn. Bạo lực và tàn nhẫn cũng chính là điểm mạnh của họ được Nguyễn Huệ
khai thác để trở thành một yếu tố đóng góp vào những chiến công lừng lẫy ông tạo
ra.
Murray cũng nhận xét là sự bộc phát một cách hết sức đáng kể
của những đám giặc bể vào cuối thế kỷ thứ 18 không phải do vấn đề dân số hay
thương mại mà chính là vì những yếu tố chính trị mới của Trung Hoa cũng như Việt
Nam khiến cho hải khấu đã chuyển biến từ những đám giặc cướp “cắn trộm”
(hit-or-miss, small-time operations) thành những đám hải phỉ “qui mô và chuyên
nghiệp” (full-blown professional piracy).[39] Cho đến cuối thế kỷ thứ 18, hải
phỉ tại biển đông hùng cứ một vùng lãnh hải rộng lớn trong giấc một tranh bá đồ
vương và bảo vệ một khu vực thương mại sống còn kéo dài từ Nhật Bản xuống tới tận
eo biển Malacca. Thế nhưng sau khi Trịnh Thành Công từ trần, hải khấu không còn
ai lãnh đạo nên tan vỡ thành nhiều nhóm nhỏ cho đến khi Nguyễn Huệ xuất hiện mới
đủ uy tín và sức mạnh qui tụ họ. Chính vì thế khi nghiên cứu về sự thoát xác của
những toán cướp biển lẻ tẻ sang thành những lực lượng có tổ chức, có chỉ huy
chúng ta cũng thấy họ thay đổi không phải chỉ trong cơ cấu mà trong cả phương
tiện và vũ khí trang bị (với rất nhiều súng ống mua hay cướp được của người Âu
Châu) tạo thành một màn chắn cho triều đình. Vai trò của họ được nâng cao trong
thời đại Tây Sơn. Đóng góp không nhỏ vào chiến công năm Kỷ dậu. Chính vì cái ân
tri ngộ đó mà 10 năm sau khi nhà Tây Sơn mất, những đám hải khấu vẫn còn mưu
toan đánh vào Phú Xuân để khôi phục lại vương quyền cho chủ cũ nhưng không
thành công.
Trận chiến mùa Xuân năm Kỷ Dậu còn rất nhiều chi tiết cần
khai thác nhất là sau khi chúng ta có thêm nhiều tài liệu đời Thanh từ văn khố
Trung Hoa mà nay còn lưu giữ. Dưới nhãn quan chiến thuật, chiến lược mới người
ta sẽ phải đặt lại nhiều vấn đề để giải thích giai đoạn lịch sử này cho sát với
sự thực hơn. Chúng ta cũng sẽ minh họa lại được chân dung con người Nguyễn Huệ
để làm nổi bật vai trò của ông thay vì chỉ miêu tả ông như một nhân vật thần kỳ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Barrow, John: A Voyage to Cochinchina. Kuala Lumpur,
Malaysia: Oxford University Press, 1975.
2. Black, Jeremy: War, Past, Present & Future. New York:
St Martin’s Press, 2000.
3. Clapham, Frances M. (ed.): Picture History of the World.
New York: Grosset & Dunlap, 1986.
4. Coedès, G.: The Indianized States of Southeast Asia (bản dịch
Susan Brown Cowing) Honolulu: University of Honolulu, 1968.
5. Dyer, Gwynne: War. New York: Crown Publishers, Inc. 1985.
6. Fairbank, John K., Reischauer và Craig: East Asia –
Tradition and Transformation. Harvard University, Houghton Mifflin Cọ, 1973.
7. Fitzgerald, C.P.: The Southern Expansion of the Chinese
Peoplẹ New York-Washington: Praeger Publishers, 1972.
8. Gernet, Jacques: A History of Chinese Civilization (bản dịch
từ tiếng Pháp Le Monde Chinois: Paris: Librairie Armand Colin 1972 của J.R.
Foster) New York: Cambridge University Press, 1986.
9. Hanes, W. Travis III và Frank Sanello: The Opium Wars.
Illinois: SourceBooks, Inc. 2002.
10. Hoa Bằng: Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc 1788-
1792. California: Đại Nam (không đề năm). (in chụp lại theo bản lần thứ hai của
Thư Lãm Ấn Thư Quán Saigon 1958).
11. Hội Ái Hữu Bình Định California. Tây Sơn: Đặc San kỷ niệm
ngày Tây Sơn 1988 California
2. Hoàng Xuân Hãn: La Sơn Yên Hồ, tập II. Hà Nội: nxb Giáo Dục
1998.
13. Lach, Donald F.: Asia in the Making of Europe (V. III –
Book 1-2- 3-4, Southeast Asia). Chicago: The University of Chicago Press, 1993.
14. Lại Phúc Thuận (賴福順): Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi
Quân Nhu Nghiên Cứu 乾隆重要戰爭之軍需研究. Đài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật
Viện, 1984.
15. Lamb, Alastair: The Mandarin Road to Old Hue. London:
Chatto & Windus, 1970.
16. Le Livre de Paris: Les Grands Dossiers de L’illustration
L’indochine. Paris, 1995 17. Lê Kiệt (藜傑): Thanh Sử 清史 (Trung
Quốc Cận Đại Sử quyển thượng) Hương Cảng: Hải Kiều xuất bản xã, 1964.
18. Lê Đông Phương (藜東方): Tế Thuyết Thanh Triều 細説清朝 (quyển
thượng) Đài Bắc: Truyện Ký Văn Học Xã, 1987.
19. Majumdar, R.C.: Champa, History & Culture of an
Indian Colonial Kingdom in the Far East 2nd -16th Century AD. New Delhi: Gyan
Publishing House, 1985.
20. Một Nhóm Học Giả: Một Vài Sử Liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn
Huệ California: Đại Nam, 1992.
21. Murray, Dian H.: Prirates Of The South China Coast
1790-1810. California: Stanford University Press, 1987.
22. National Museum of Chinese History: A Journey Into
China’s Antiquity (V. 4) Beijing: Morning Glory Publishers, 1997.
23. Ngô Thời Chí: Hoàng Lê Nhất Thống Chí (bản dịch Ngô Tất Tố)
Saigon: Phong Trào Văn Hóa tái bản, 1969.
24. Nguyễn Lương Bích – Phạm Ngọc Phụng: Tìm Hiểu Thiên Tài
Quân Sự của Nguyễn Huệ Hà Nội: nxb Quân Đội Nhân Dân, 1971.
25. Oxnam, Robert B.: Ruling From Horseback – Manchu Politics
in the Oboi Regency, 1661-1669. Chicago & London: The University of Chicago
Press, 1975.
26. Peterson, Willard J. (ed.): The Cambridge History of
China – Vol. 9 (Part I) The Ch’ing Dynasty to 1800. Cambridge University Press,
2002.
27. Quách Tấn - Quách Giao: Nhà Tây Sơn. TP HCM: nxb Trẻ,
2000.
28. Quốc Sử Quán triều Nguyễn: Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục (Quyển XLVII) (bản dịch Viện Sử Học). Hà Nội: nxb Giáo Dục, 1998.
29. Reid, Anthony: Southeast Asia in the Age of Commerce
1450-1680 V. 1 & 2. Yale University Press, 1988.
30. Robert J. Antony: Like Froth Floating On The Sea – The
World of Pirates and Seafarers in Late Imperial South Chinạ California:
Institute of East Asian Studies, University of Berkeley, 2003.
31. Steinberg David J. (ed.): In Search of Southeast Asia
Hawaii: University of Hawaii Press 1987.
32. Tana, Li: Nguyễn Cochinchina, Southern Vietnam in the
Seventeenth and Eighteenth Centuries Ithaca, New York: Cornell University,
Southeast Asia Program Publications, 1998.
33. Tana, Li: Thuyền và Kỹ Thuật đóng thuyền ở Đàng Trong cuối
thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 (Đức Hạnh dịch) Huế: Tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển,
số 4(38). 2002.
38 34. Tien, Chen-Ya: Chinese Military Theory, Ancient and
Modern. Oakville, Ontario: Mosaic Press, 1992.
35. Woodside, Alexander B.: Vietnam and the Chinese Model, A
Comparative Study of Vietnamese and Chinese government in the first half of the
nineteenth centurỵ Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press, 1971.
Chú thích:
[1] Frances M. Clapham (ed.): Picture History of the World
(New York: Grosset & Dunlap, 1986) tr. 114
[2] Les Grands Dossiers de L’Ilustration L’Indochine,
Histoire d’un Siècle 1843-1944 (Paris: Le Livre de Paris, 1995) tr. 27. Tấm
hình vẽ một chiếc thuyền mũi cong, có 32 người lính và một khẩu đại bác, mỗi
bên hông có 12 mái chèo, thuyền thân dài và nhọn có chú thích là Embarcation
Annamite Armée en Guerre de l’escorte des ministres Annamites (tức phái bộ Phan
Thanh Giản). Li Tana trong một bài viết cũng nói là “tam bản đầu to của An Nam”
được bọc vài lớp da bò chưa thuộc với mũi thuyền cao hơn đuôi nhằm mục đích
phòng thủ... Li Tana, “Thuyền và Kỹ Thuật đóng thuyền ở Đàng Trong cuối thế kỷ
18, đầu thế kỷ 19” – Đức Hạnh dịch, Tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển, số 4(38).
2002 tr. 79.
[3] John Barrow: A Voyage to Cochinchina (1806) bản in lại
(Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975) tr. 318-9.
[4] Lyda Norene Shaffer: Maritime Southeast Asia to 1500 (New
York: M.Ẹ Sharpe, Inc. 1996) tr. 11-2.
[5] Theo Biên Niên nhà Nguyễn, từ 1778 đến 1819, Nguyễn Ánh
đóng 235 ghe bầu (kiểu Chăm-Mã Lai prahu), 460 sai thuyền (thuyền chèo loại lớn
hơn), 490 chiến thuyền, 77 đại chiến thuyền, 60 thuyền lớn nhỏ kiểu phương Tây
hay là thuyền buồm dọc, 100 ô thuyền và 60 lê thuyền (thuyền chèo có chạm khắc
và trang trí) tạo nên tổng số là 1482 chiếc (Li Tana: Thuyền và Kỹ Thuật đóng
thuyền ở Đàng Trong cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 (Đức Hạnh dịch). Huế: Tạp Chí
Nghiên Cứu và Phát Triển, số 4(38). 2002 tr. 81.
[6] Jacques Gernet: A History of Chinese Civilization dịch bởi
J.R. Foster từ nguyên tác tiếng Pháp Le Monde Chinois (New York: Cambridge
University Press, 1986) tr. 490
[7] Robert B. Oxnam: Ruling From Horseback – Manchu Politics
in the Oboi Regency, 1661-1669 (Chicago & London: The University of Chicago
Press, 1975) tr. 154-5
[8] Người Trung Hoa đặt tên cho họ vào đời Minh gọi là oải khấu,
đầu đời Thanh là hải khấu, còn đầu thế kỷ 19 là dương đạo.
[9] tào là thuyền chuyên chở, từ đó biến thành chữ tàu (tàu
bè) của Việt Nam. Cũng từ chữ này mà mình gọi người Trung Hoa là người Tàu vì
trước đây họ dùng thuyền lớn sang buôn bán với nước ta.
[10] Robert J. Antony: Like Froth Floating On The Sea – The
World of Pirates and Seafarers in Late Imperial South China (Institute of East
Asian Studies, University of Berkeley, 2003) tr. 107-9
[11] Dian H Murray: Prirates Of The South China Coast
1790-1810 (Cali: Stanford University Press, 1987) tr. 49
[12] Robert J. Antony: sđ tr. 20
[13] To the petty pirates of Kwantung, Fukien, Chekiang, and
Kiangsu, Nguyen Van Hue was the “Big Boss of Yueh-nan” (Yueh-nan ta-lao-pan 粵南大老板) who sold their booty and gave them between 20 and 40
percent of the profits. The big pirate gangs also benefited from the Emperor’s
rule, because he not only allowed them to anchor in the border area to gather
recruits and steal food, but also let them use Vietnam as a “nest” to which
they could retreat. These pirates accepted the Emperor as their master because
under his authority they were able to reap great profits from the sea (Na Ngạn
Thành [那彦成]: The collected memorials of Na-yen-ch’eng 1834, Đài Bắc
1974, trích lại theo Dian H. Murray: sđ. tr. 40-41)
[14] Ngụy Nguyên (Wei Yuan 魏源 1794-1857) là một học giả đời Thanh,
tác giả Hải Quốc Đồ Chí (海國圖志), đề xuất chính sách dùng rợ để chế
ngự rợ (dĩ di công di, sư di trưởng kỹ dĩ chế di (以夷功夷, 師夷長技以制夷) và
đề nghị cải cách binh bị bao gồm chiến thuyền, hỏa khí, luyện binh. Đối với thời
nay những quan điểm đó không có gì xuất sắc nhưng vào thời đó là những sáng kiến
táo bạo.
[15] Murray: tr. 41
[16] Ngụy Nguyên: Việt Thanh chiến sử (Hoàng Xuân Hãn dịch:
La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hà Nội, nxb Giáo Dục 1998) tr. 1350-1351
[17] Tuy nhiên chính sách đó cũng có bất lợi là nhà Tây Sơn
không thiết lập được những quan hệ với các nước Tây Phương để kịp thời canh tân
cho quân bằng với lực lượng của Nguyễn Ánh. Chỉ trong vòng 10 năm sau khi vua
Quang Trung mất, nhà Tây Sơn đã bị diệt vong mà nguyên nhân chính yếu là kỹ thuật
quân sự bị kém thế.
[18] Even after the Qianlong emperor recognized one of the
Tâyson leaders as “king” of Vietnam in 1788, the latter continued to pursue a
risky double-edged policy of sending tribute misisons to the Qing court in
Beijing while simultaneously backing piratical raids along the China coast.
Robert J. Antony: sđ tr. 39
[19] Vùng này đã bị người Pháp nhường cho Trung Hoa trong hòa
ước Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885
[20] Robert Antony: sđ tr. 41-43
[21] người Trung Hoa sau này đóng những loại tàu hai tầng
theo kiểu của Hồ Nguyên Trừng nên gọi là lâu thuyền (thuyền lầu)
[22] Geoffrey Parker: The Military Revolution, Military
Innovation and the Rise of the West 1500-1800 (Cambridge University Press 1996)
tr.83
[23] Geoffrey Parker: sđ tr. 82
[24] Nguyễn Lương Bích – Phạm Ngọc Phụng: Tìm Hiểu Thiên Tài
Quân Sự của Nguyễn Huệ (Hà Nội: nxb QĐND 1971) Hịch truyền quan lại, quân dân
các phủ Quảng Ngãi, Qui Nhơn (1792) tr. 423
[25] Nguyễn Nhã: Nguyễn Huệ, một thiên tài quân sự (Một Vài Sử
Liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Đại Nam 1992) tr. 118
[26] 26 Nguyễn Nhã: sđ tr. 119
[27] Thực ra Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở rút lui khỏi Thăng
Long trong một kế hoạch khá chu đáo nhằm nhử cho quân Thanh vào sâu trong nội địa
nước ta chứ không phải hốt hoảng bỏ chạy như người ta thường nhầm (Xem thêm Khi
Núi Đất Biển Là Một, biên khảo về đời Tây Sơn của Nguyễn Duy Chính)
[28] hai anh em mới đánh nhau một trận không lâu mà sự thiệt
hại rất đáng kể
[29] Hoa Bằng: Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc
1788-1792 (Đại Nam, Calị In theo bản lần thứ hai của Thư Lãm Ấn Thư Quán Saigon
1958) tr. 172
[30] Hoa Bằng: sđ tr. 172
[31] Trịnh Nhất, một trong những thủ lãnh cướp biển trông coi
đội thuyền Hồng Kỳ (Red Banner) đã đem quân tấn công quân nhà Nguyễn với mưu
toan khôi phục nhà Tây Sơn và tử trận ngày 16 tháng 11 năm 1807 khi 42 tuổi
(Dian Murray: 1987) tr. 71
[32] Trong bản đồ Đông Nam Á (1828) do phái bộ Crawfurd soạn
để nghiên cứu về nước ta còn thấy ghi tên hòn đảo Cái Bàn (Quảng Yên) vùng Vịnh
Hạ Long là Pirates Island.
[33] Để làm cho quân Thanh tin rằng quân Tây Sơn sẽ theo đường
thủy đánh ra, Ngô Văn Sở đã cho đóng rất nhiều tàu chiến và cố tình để lộ tin tức
cho địch biết mà tài liệu của nhà Thanh còn ghi lại sau đây:
“Tuần dương bả tổng Quảng Đông là Hứa Viết Nghĩa cùng 40 tên
lính đi trên biển bị gió thổi dạt xuống Nghệ An, được quan An Nam đưa về Lê
thành (Thăng Long), do chú của Lê Duy Kỳ là Lê Duy Cẩn đứng ra cung cấp lương
ăn, chia cả bọn Hứa Viết Nghĩa và 40 tên lính thành hai đội đưa trả về doanh trại
cho Tôn Sĩ Nghị. Cứ theo lời bẩm của Hứa Viết Nghĩa thì viên Đại Tư Mã và thủy
binh Đô Đốc tại Lê thành ngày ngày thao diễn thủy quân, lại đóng nhiều thuyền lớn
trên sông Phú Lương, thuyền nào hai bên cũng có rất nhiều mái chèo, trong thuyền
có để súng lớn, các viên đạn sắt mỗi viên ước chừng 2, 3 mươi cân...” (Trang
Cát Phát: sđ tr. 364)
Tuy nhiên thuyền lớn chỉ là nghi binh trong khi sau này vua
Quang Trung lại cho hải phỉ dùng thuyền nhỏ từ vịnh Bái Tử Long tiến vào theo
đêm tối đánh tập hậu dùng hỏa công đốt doanh trại địch.
[34] Bức hình của loại “bom” này có trong A Journey Into
China’s Antiquity (V. 4) của National Museum of Chinese History (Beijing:
Morning Glory Publishers 1997) tr. 165 dưới nhan đề 159. Military “national
surname bottle”, Qing Dynasty
[35] Dian Murray: sđ. tr. 97
[36] Jeremy Black: War, Past, Present & Future (New York:
St Martin’s Press 2000) tr.96-7
[37] China Science and Technology Palace Preparatory
Committee and the Ontario Science Centre: China, 7000 Years of Discovery (1982)
tr.11
[38] Hai câu này ông Lê Nguyễn Lưu giải thích là: Nguyễn Huệ
là một hổ tướng từ ấp Tây Sơn ra Bắc, còn Nguyễn Hữu Chỉnh như con rồng từ
Thăng Long vượt biển vào Nam (Văn Khắc Thời Tây Sơn ở Huế: Phú Xuân Thuận Hóa
thời Tây Sơn, Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học, Huế 12/2001)
[39] Murray: tr. 32.
2/2004
Nguyễn Duy Chính
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét