Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2025

Cố sự tân biên "Vòng trắng" và "Sẹo đất": Tại sao "Vòng trắng"

Cố sự tân biên "Vòng trắng"
và "Sẹo đất": Tại sao "Vòng trắng"?

Khi bài thơ “Viết về số 0” tức “Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật được in trên Tạp chí Thanh Niên, lập tức một tạp chí tiếng tăm hồi ấy đã có bài phê phán gay gắt rằng: “Giữa lúc cần nói to lên niềm sung sướng tự hào về cái được vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ lại chỉ thấy cái mất, chỉ thấy tang tóc đau thương và than thở…”.
Trên báo Tiền Phong Chủ nhật số ra ngày 7.7.2024, trong bài về nhà thơ Hoàng Cát, tôi có viết “Cái năm 1974 ấy, làng Văn sao lắm việc chẳng lành. Văn có “Cây táo ông Lành”, thơ có “Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật, “Sẹo đất” của Ngô Văn Phú. Như một dạng “Cố sự tân biên – Chuyện cũ viết lại” người viết xin đề cập đến chuyện năm xa ấy!
Trước nhất, xin đăng lại bài thơ ngắn gồm 8 câu này.
VÒNG TRẮNG
Phạm Tiến Duật
 
Khói bom lên trời thành một cái vòng đen
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong yên lặng
Cái yên lặng bình thường đêm sau chiến tranh
 
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang, vòng tròn như một số không
Nhưng bạn ơi, ở bên trong vòng trắng
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.
 
1.1974
(in lần đầu trên tạp chí Thanh Niên)
Trước khi mất không lâu, trong một bài trả lời phỏng vấn một tờ báo, nhà thơ Phạm Tiến Duật có bộc bạch về hoàn cảnh ra đời bài thơ và số phận lạ lùng của nó.
…Thực ra tôi không có bài thơ nào tên là “Vòng trắng” cả. Mà bài thơ này có tên “Viết về số 0”.
Chỉ có 8 dòng. Tôi viết và để trong sổ tay cái hồi B52 đánh Hà Nội. Năm 1973, tôi ra Bắc mấy tháng, ra làm một số việc mà anh Đồng Sĩ Nguyên giao. Trong đó có việc chuẩn bị soạn thảo Văn bia Trường Sơn nên mình phải đi thu thập tài liệu của tất cả các văn bia từ trước đến giờ để anh xem, kể cả Vĩnh Lăng bi ký của Nguyễn Trãi, thu thập hết.
Khi mình ra Hà Nội, anh Định Nguyễn ở Tạp chí Thanh Niên là chỗ quen biết đến thăm và bảo: Chúng tôi đang chuẩn bị làm một số báo kỷ niệm một năm tròn bom Mỹ ném Khâm Thiên, ông có bài thơ nào không? Duật bảo, chả biết, có mấy bài làm ở chiến trường. Anh ấy hỏi ở đâu thì Duật giở sổ tay sáng tác ra. Trông thấy bài thơ “Viết về số 0” anh Định Nguyễn bảo, chùm này được, coi cái bài này là cái bài viếng những người chết ở Khâm Thiên. Vậy là đăng lên thôi. Thế nhưng cái số báo ra không phải là số tháng 12.1973 mà in chệch ra thành số Tháng Giêng năm 1974!
Người đầu tiên nói với tôi về bài “Vòng trắng” là ông Đồng Sĩ Nguyên, ông bảo “Duật ơi, hình như là Duật có một cái tai nạn nghề nghiệp rồi, có nghe một ai bên Phủ Thủ tướng nói rằng Duật có làm bài gì “khó khăn” lắm, nhưng mà tôi không biết”.
Sau đó, ông Bảo Định Giang, người đang trực ở Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật bảo “Anh Tố Hữu có nhắn là Duật lên gặp anh ấy”.
Tôi lên gặp thì anh Tố Hữu nói chuyện rất là nhiều, rất là dài, về tình hình quốc tế, trong nước, về tình hình quân sự, so sánh lực lượng giữa ta và Mỹ, về triển vọng cuộc chiến.
Sốt ruột quá, tôi bảo “Anh ơi, thấy anh Giang bảo là anh gặp tôi vì một bài thơ nào đó, mà hình như là có tai nạn gì đó, chứ không phải là chúng ta nói chuyện tình hình quốc tế hay là trong nước”.
Tức thì anh Tố Hữu nói ngay “À thế là hoá ra thật à! Thì hoá ra là một ông tiền đạo rất là giỏi của Việt Nam thế mà nay lại đá thủng lưới nhà à? Thủng lưới nhà rồi!”.
Nhưng loáng cái, trong đầu tôi ngờ ngay rằng, cho đến giờ phút đó Tố Hữu chưa chắc đã đọc bài đấy! Tôi đoán rằng có lẽ ông mới được nghe ai đó tóm tắt cái ý của bài thơ cho ông ấy nghe, chứ ông ấy chưa đọc. Vì nếu đọc, Tố Hữu là người rất là tinh, thì chắc là không hiểu lầm được như thế?
Đợt ra Bắc 10 ngày ấy, Phạm Tiến Duật trong thời gian ở Hà Nội, ông Hoàng Trung Thông, khi đó là Vụ trưởng Vụ Văn nghệ của Ban Tuyên huấn Trung ương, đến nhà nhưng không gặp, lùa vào qua cửa khoá một cái tờ giấy có mấy dòng chữ sau đây: “Duật ơi, thôi cứ vào chiến trường đi. Mọi việc thì ngoài này sẽ thu xếp. Yên tâm mà sáng tác và chiến đấu”.
Người thứ hai là ông Chế Lan Viên gọi đến, bảo là mình biết việc này rồi, bây giờ Phạm Tiến Duật có thể đứng trước một tình huống như sau, trước mặt là một cơn mưa lớn, mưa rất to, có thể có hai cách, cách thứ nhất là thôi trú lại đến khi nào trời tạnh thì đi. Cách này không hay lắm vì khi trời tạnh mà đi thì đoàn lữ hành họ đi qua lâu rồi, đuổi theo không kịp. Cách thứ hai là đội nón, mưa cũng đi, đội nón mà đi. Hôm nay Chế sẽ cấp cho Duật một cái nón như vậy để Duật đội mà đi. Đấy là bộ Thủ Lăng Nghiêm kinh. Cho đến bây giờ có thể nói là rất mang ơn Chế Lan Viên, bộ Kinh Phật hay thật. Có thể nói rằng trong các bộ Kinh Phật không có bộ nào lại hay đến thế, kỳ diệu như bộ Kinh ấy…
Hậu cái vụ phê bình “Vòng trắng” đã để lại vài việc rất là dữ dội, và kể cả “đánh leo” cũng có. Nhưng thật ra là phê bình cho bạn đọc ngoài này nghe thôi, nghe và đọc, chứ còn Phạm Tiến Duật đâu có đọc, Duật vào trong Nam rồi.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã kể về vị thủ trưởng cũ của mình như này:
Nhưng rất kỳ diệu là có ông Đồng Sĩ Nguyên. Ông ấy là một người mà tôi phải nói là mang ơn một đời. Ông ấy đặc biệt lắm, ông ấy gặp tôi lần đầu tiên ông nói như sau (lúc ấy tôi đã là nhà thơ có tiếng rồi): về văn học thì tôi không biết, tôi hoàn toàn không biết một tí dòng nào cả, toàn bộ cái việc này thì tôi thấy rất đáng trọng, đáng nể nhưng rõ ràng là không dễ. Cho nên tôi không kiểm điểm anh và tôi đề nghị Cục Chính trị chỗ anh công tác sẽ không kiểm điểm anh hàng tháng mà kiểm điểm hàng năm. Tức là đến cuối năm anh mới phải báo cáo Cục Chính trị là anh làm được gì trong năm đó, chứ anh không phải kiểm điểm hàng tháng vì có những tác phẩm viết 4-5 tháng mới xong thì sao. Riêng tôi thì cứ 3 năm tôi hỏi anh một lần. Còn anh cần bất cứ thứ gì thì anh cứ nói với tôi.
Tướng Nguyên bộc bạch như này.
“Tôi biết anh là hội viên Hội Nhà văn rồi, thế hội viên Hội Nhà văn được những cái gì? Tôi có đi hỏi thì được biết, hình như là được một tháng 10 gói chè Hồng Đào và mỗi ngày 1 bao thuốc lá, tức là 1 tháng được 3 tút thuốc, đấy là tiêu chuẩn của hội viên Hội Nhà văn. Vậy thì tháng này anh sẽ có tiêu chuẩn ấy, tôi sẽ cấp cho anh y như thế, không khác gì!”.
Nhà thơ cười, thực ra thuốc thì cũng không được dùng, chỉ được thuốc lào thôi vì mấy cây thuốc lá mang về anh em dùng hết, nhưng mà đại khái là mình đã có một ông thủ trưởng đặc biệt. Có được những ông thủ trưởng như thế thì kỳ diệu lắm!
Có lẽ đây là lần thứ hai Phạm Tiến Duật vướng vào kỷ luật?
Sinh thời, Phạm Tiến Duật có kể cho chúng tôi nghe một chuyện. Hồi mới nhập ngũ, Phạm Tiến Duật được giao nhiệm vụ làm giáo viên văn hóa ở trung đoàn 225. Ngày ấy, dĩ nhiên theo “quân lệnh”, cứ 9 giờ tối khi có tiếng kẻng báo ngủ nổi lên là lính trong đơn vị phải lên giường nhắm mắt, trừ trực ban.
Một đêm nọ, đích thân chính trị viên đại đội đi tuần tra bắt “quả tang” Phạm Tiến Duật đang che ánh sáng đèn để đọc vụng sách! Mà cuốn sách anh lính trẻ Phạm Tiến Duật đọc là sách gì? Một cuốn khủng thời ấy (cho đến tận cả bây giờ?) cuốn Kinh Thánh dày cộp!
Chuyện loang ra. Phạm Tiến Duật bị kỷ luật cảnh cáo. Có người dọa “phải ra tòa án binh”.
May mà Trung đoàn sau đó 225 tách ra thành hai binh trạm vận tải, tương đương cấp tiểu đoàn. Binh trạm 10 ở miền Bắc, còn binh trạm 12 hoạt động ở địa bàn Quảng Bình, theo đường lên Cổng Trời sang Lào. Lúc này Quảng Bình, Vĩnh Linh đang bị đánh dữ dội, nhưng Phạm Tiến Duật đã dũng cảm xung phong vào công tác nơi tuyến lửa trong sự ngưỡng mộ của đồng đội.
Năm 1969, Binh trạm 12 sáp nhập vào Đoàn 559, do tướng Đồng Sĩ Nguyên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Tư lệnh. Lính Trường Sơn thích thơ Phạm Tiến Duật. Mà ông tướng Đồng Sĩ Nguyên cũng rất khoái. “Thế mới là thơ Trường Sơn. Rất tình cảm, rất khí phách…” Và năm 1970, Phạm Tiến Duật đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ.
Có lẽ “Ở nơi chiến trường tiếng bom nghe thường rất nhỏ” (Thơ Phạm Tiến Duật – “Tiếng bom ở Seng Phan”, in trên Văn Nghệ 1969) nên Phạm Tiến Duật quay vào Mặt trận Trường Sơn chưa kịp nghe hết, thấm hết những dư chấn độc địa quanh “Vòng trắng”? Như hồi ức của Vương Trí Nhàn thì “thơ Phạm Tiến Duật không được ngâm trên đài, bài “Trường Sơn đông Trường Sơn tây” không được hát. Quân đội (Vũ Cao, Chính Hữu) kết luận chỉ là một bài thơ yếu về tư tưởng, đăng lúc này không có gì. Nghe Ng. Khải (do tôi đoán đầu tiên) bênh: chẳng qua Duật say mê về kỹ thuật, làm thơ tìm được một ý hay, nên cứ theo đuổi mãi”.
Rồi ngay sau khi bài thơ “Viết về số 0” tức “Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật được in trên Tạp chí Thanh Niên, lập tức một tạp chí tiếng tăm hồi ấy đã có bài phê phán gay gắt rằng: “Giữa lúc cần nói to lên niềm sung sướng tự hào về cái được vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ lại chỉ thấy cái mất, chỉ thấy tang tóc đau thương và than thở…”.
Và thế là “Vòng trắng” đã không được in trong bất kỳ tập thơ nào của Phạm Tiến Duật sau này!
Cho đến trước khi anh qua đời, nhà văn Nguyễn Khắc Phục mới đưa vào tuyển tập Phạm Tiến Duật, bài “Vòng trắng” do nhà thơ Trần Nhương sưu tầm và giới thiệu. Tuyển tập Phạm Tiến Duật in xong ngày 17.11.2007, và chỉ chưa đầy 20 ngày sau (4.12.2007) nhà thơ Phạm Tiến Duật qua đời. May mắn và cũng thương thay, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã kịp nhìn thấy đứa con tinh thần của mình trước khi nhắm mắt.
Nhiều ngày, nhà thơ Ngô Văn Phú đã lang thang trên cánh đồng Uy Nỗ Đông Anh ngay sau trận bom B52. Trong ngổn ngang nhà cửa đồng ruộng đất đai bị cày xới, hố bom to hố bom nhỏ chằng chịt. Ông xót xa liên tưởng đến sẹo đất như sẹo trên da thịt người! Bài “Sẹo đất” vuột ra chả phải ngẫm ngợi chi nhiều!
Cũng thêm chút mở ngoặc về “Vòng trắng”.
Có thể mặt bằng đọc hồi ấy hơi bị hẻo? Mà cũng có thể “Vòng trắng” đùng cái có lệnh cấm (trò đời càng cấm càng kích thích vô khối những tò mò) nên trong giới sinh viên (trong phạm vi không rộng lắm) họ chuyền tay, rỉ tai nhau nên rất nhiều người thuộc lòng “Vòng trắng”. Bên Đại học ngoại ngữ ngay sát khoa Văn trường Tổng hợp, thày trò mở rộng biên độ học ngoại ngữ bằng kiểu dịch rất phóng túng “Vòng trắng”!
Như hai câu cuối “Nhưng bạn ơi bên trong vòng trắng/ Là cái đầu bốc lửa ở bên trong”. Chép ra đây để tham khảo.
Như Anh ngữ:
My dear ! Under each circle being white
Is a head with the fire inside.
Và Pháp ngữ:
Mais mon ami, au-dedans du cercle blanc,
Est toute une tête enflammée à l’intérieur.
Còn đây là Hoa ngữ:
Bạch khuyên chi hạ, thuỳ tri đắc
Tán nhiệt nhân dầu tự hoả sinh.
Quanh “ Vòng trắng” kha khá chuyện bi. Nhưng cũng chả ít hài.
Tôi xin chép lại một giai thoại.
… Đầu năm 1974, chuẩn bị chiến dịch tổng tấn công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Khắp miền Bắc đâu đâu cũng nêu cao khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả cho miền Nam ruột thịt”… Một đợt chỉnh huấn tư tưởng được tổ chức học tập rất rốt ráo. Tuyên giáo Trung ương về tận tỉnh giảng bài, tỉnh giảng cho huyện, rồi huyện giảng cho xã… khí thế thật tưng bừng và háo hức.
… Bấy giờ có chị Đinh Thị Kiên, chồng đi B. Chị là một cán bộ phụ nữ cơ sở rất mẫn cán. Hôm ấy, cả buổi sáng chị Kiên đã dự và tranh luận rất quyết liệt tại hội nghị “sinh đẻ có kế hoạch”, trong đó có vấn đề rất mới, rất đặc biệt là “Đặt vòng tránh thai”, một phát minh đặc sắc của khoa học để hạn chế tăng dân số. Chị Kiên về nhà mới kịp ăn hết củ khoai sọ luộc chấm muối vừng, rồi tức tốc đạp xe lên hội trường huyện để nghe cán bộ tuyên giáo nói về tình hình và nhiệm vụ mới. Chị đến muộn, đồng chí cán bộ tuyên huấn đang phê phán gay gắt một nhà thơ trẻ thiếu ý chí cách mạng. “Giữa lúc cần nói to lên niềm sung sướng tự hào về cái được vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ lại chỉ thấy cái mất, chỉ thấy tang tóc đau thương và than thở…”, rồi đọc bài thơ “Vòng trắng” để minh họa:
“Khói bom lên trời thành một cái vòng đen
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng …
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong”
Chị Kiên nhà mình nghe câu được câu chăng đâm nóng mắt đứng bật dậy nói đanh thép “Sáng nay tôi đã nói rõ quan điểm cá nhân trong hội nghị “sinh đẻ có kế hoạch” rồi. Tôi cứ tưởng hội nghị này có gì mới, cố tranh thủ đạp xe về dự. Hóa ra nội dung vẫn thế. Nhưng tôi cũng xin được nói thẳng: “vòng đen”, “vòng trắng” hay “vòng i-nốc” đi nữa của cái anh nhà thơ nào đó cũng là thất đức tuốt. Chửa thì đẻ – đẻ thì nuôi, lớn lên chúng nó sẽ cầm súng đánh giặc chứ việc gì mà phải đặt vòng đặt vèo cho phức tạp thêm vấn đề. Thời buổi này làm đếch gì có “cái đầu” nào lại “bốc lửa ở bên trong” cái vòng? Các đồng chí ví von khó hiểu bỏ mẹ…”.
Dư âm cùng những đồn thổi của “Vòng trắng” chưa kịp tan loãng và khép lại thì đùng cái, tháng 9.1974 lại xuất hiện “Sẹo đất” của Ngô Văn Phú.
Mà oái oăm, “Sẹo đất” cũng lại in trên tờ Tạp chí Thanh Niên (TCTN), sau “ Vòng trắng”.
Lại xin chép ra đây.
 
SẸO ĐẤT 
Ngô Văn Phú
 
Cái hố bom nằm trên vạt ruộng
Dẫu san bằng vẫn cứ nhận ra
Đến mùa bừa chân bước nhấp nhô
Lúa cấy kín, vệt tròn còn đấy
Tưởng trên da thịt mình mới sẹo
Ai ngờ đất cũng sẹo như người
Trong chiến tranh đạn cắm tay tôi
Trong chiến tranh hố bom đầy đất
Hết chiến tranh, tôi về hợp tác
Đất chuyển vần, vụ lúa vụ khoai
Mỗi đợt trở trời
Vết sẹo trên tay tôi nhức
Mỗi đợt trở trời
Cái hố bom sẹo đất
Có làm đất nhức không, đất ơi?
Đất có màu xanh
Tôi có cuộc đời
Những vết sẹo mãi còn nhắc nhở
Những điều cần nói với ngày mai…
Râm ran, âm ỉ lẫn ầm ĩ lệnh trên thu hồi tiêu hủy tờ TCTN in “Vòng trắng” rồi lại “lệnh” tiếp thu hồi tiêu hủy tờ TCTN in “Sẹo đất”.
Thơ ca một thuở một thời chiến tranh Vệ quốc, đặc biệt là ở giai đoạn chống Mỹ, chỉ toàn tâm toàn ý cho việc đánh giặc. Việc phản ánh chiến tranh, những đau buồn mất mát của chiến tranh là điều cấm kỵ. Nay đùng cái, chỉ mấy tháng của năm 1974 xuất hiện liền nhau hai bài thơ nói về mất mát về “mặt tối” của chiến tranh chứ không phải “mặt sáng”. Mà “Vòng trắng”, tác giả lại là người lính Trường Sơn kiên cường trận mạc Phạm Tiến Duật. Và thêm “Sẹo đất” tác giả là một nhà thơ lâu nay vốn chững chạc chói sáng trên văn đàn, Ngô Văn Phú.
“Người thơ phong vận như thơ ấy”. Nước Nam thời mới hỏi có mấy người mần thơ mà được xưng tụng như… ca dao. Đó là Bảo Định Giang “Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Nước Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”. Nhưng Ngô Văn Phú tài hơn, “thơ” hơn “Trên trời mây trắng như bông/ Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây/ Mấy cô má đỏ hây hây/ Đội bông như thể đội mây về làng” Hoặc “Người xinh cái nón cũng xinh/ Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn”. Thời điểm in “Sẹo đất”, Ngô Văn Phú đang là Bí thư chi bộ báo Văn Nghệ, tác giả nhiều cuốn sách có tiếng. (Sau này người ta đã tỷ mẩn thống kê, Ngô Văn Phú là nhà văn đa tài, cần mẫn với 230 cuốn sách đã xuất bản, thuộc nhiều thể loại: Thơ, trường ca; văn xuôi – tiểu thuyết, truyện ngắn, dịch thuật, nghiên cứu phê bình; khảo cứu, biên soạn. Với 28 tập thơ, 26 tiểu thuyết, 34 tập truyện ngắn, khảo cứu, dịch thuật đã đưa tên tuổi nhà văn Ngô Văn Phú vào danh sách những tác giả đạt kỷ lục xuất bản sách nhiều nhất ở nước ta hiện nay).
Tài thơ và uy tín đã bầu Ngô Văn Phú từng chững chạc Giám đốc Nhà xuất bản và nhiều năm biệt phái sang Văn Nghệ Quân đội. Năm 1971, một tác giả là chiến sĩ, có tên là Nguyễn Duy Nhuệ, gửi đến VNQĐ một số bài thơ. Ngô Văn Phú chọn bài Chiều khẩu đội. Ít lâu sau, Nguyễn Duy Nhuệ có vẻ buồn vì cho rằng thơ mình không lên tay. Ngô Văn Phú khuyên Nhuệ: “Làm thơ có lúc thế này, có lúc thế khác. Hơi đâu mà lo. Miễn là đừng nản chí. Biết đâu có ngày…”. Được Ngô Văn Phú khuyến khích, năm 1972, người lính Nguyễn Duy Nhuệ đi chiến trường, gửi thơ về VNQĐ rút ngắn tên mình thành Nguyễn Duy. Nhà thơ Nguyễn Duy giành giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với các bài Hơi ấm ổ rơm, Tre xanh, Bầu trời vuông…
…Nhiều ngày, nhà thơ Ngô Văn Phú đã lang thang trên cánh đồng Uy Nỗ Đông Anh ngay sau trận bom B52. Trong ngổn ngang nhà cửa đồng ruộng đất đai bị cày xới, hố bom to hố bom nhỏ chằng chịt. Ông xót xa liên tưởng đến sẹo đất như sẹo trên da thịt người! Bài “Sẹo đất” vuột ra chả phải ngẫm ngợi chi nhiều!
Và đã có một anh bạn trẻ (cũng chính là người phát hiện ra “Vòng trắng” trong cuốn sổ tay của Phạm Tiến Duật đã cho đăng “Sẹo đất” trên TCTN như đăng “Vòng trắng” – về nhân vật này xin xem TPCN kỳ cuối). Bài thơ có câu “Tưởng như da thịt mình mới sẹo/ Ai ngờ đất cũng sẹo như mình”. Người ta cho rằng tư tưởng tác giả có vấn đề, có ý gieo rắc tâm lý sợ hãi chiến tranh, không có lợi cho cuộc chiến lúc đó.
Tôi không rõ TCTN – người hàng xóm ở 62 Bà Triệu cận gần Tòa báo của tôi – hay cá nhân ai đó, có làm cái việc ghi hồi ký về chặng đường hơn 60 năm tờ Tạp chí phát triển trưởng thành? Nếu có ghi thì thể nào cũng có cái chặng cái đoạn “bĩ”. Ấy là sau cú “Vòng trắng” và “Sẹo đất”. Về cái nạn nghề nghiệp đùng cái giáng xuống ấy chắc phải nhiều chi tiết sinh động. Nghĩ thể nào mà chả có chuyện TCTN bị tạm đóng cửa mấy tháng. Tờ Tạp chí đăng bài “Vòng trắng” và “Sẹo đất” bị thu hồi và tiêu hủy như thế nào. Và ông Tổng Biên tập Nguyễn Thừa Lương bị ngưng chức (sau đó được phục hồi). Đồng chí Nguyễn Tiên Phong, Bí thư T.Ư Đoàn phải tạm về phụ trách TCTN ra sao vv…
62 năm ấy… Đất có tuần, nhân có vận. Năm 2021, tôi được ghé địa điểm mới (không phải ngôi nhà quen thuộc ở 62 Bà Triệu) để chung niềm vui với tờ tạp chí vinh dự là Tạp chí duy nhất của T.Ư Đoàn được Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước công nhận tính điểm khoa học!
Trở lại với tác giả “Sẹo đất” Ngô Văn Phú. Thời gian đó nhà thơ bị kỷ luật, hạ chức từ Bí thư xuống làm Phó Bí thư Chi bộ báo Văn nghệ, nơi ông đảm nhiệm tổ phó Tổ văn xuôi.
Mãi đến năm 1994, sau hơn 20 năm biệt tích, bài thơ bị nhắc nhở bởi chưa phải thời điểm thích hợp “Sẹo đất” mới lại được in trong tập Mắt mùa thu, một trong 28 tập thơ của Ngô Văn Phú.
Nhà thơ, tiểu thuyết gia Ngô Văn Phú đã đi xa. Nhớ ông anh quý mến, nhớ thêm Ngô Văn Phú còn là một thư pháp gia, một dịch giả cổ thi cự phách! Nhớ về anh thêm những hụt hẫng, ân hận bởi nhiều lắm những rủ rỉ chân tình của ông anh về chữ nghĩa của cổ nhân mà thằng em đã bẵng đi, đã sao nhãng… Bâng khuâng thêm ngắm ngó thưởng lãm những vuông giấy mà anh từng vùn vụt trên đó những dòng thảo thư khoáng đạt. Chứng kiến anh chỉ dùng bút bi, lần ấy tôi đã mạo muội kính ông anh mấy cái bút lông loại nhỏ đã trữ mực chuyên dùng cho thư pháp. Thêm phần hoan hỷ vì ông anh đã mừng đến như thế nào! Lại thêm áy náy vì thi thoảng anh mới đem ra dùng nói là để tiết kiệm!
Hoa tay Ngô Văn Phú không chỉ chữ. Nhớ thêm bàn tay ấy đã từng chế món cá giếc cá trê nướng than hoa với lá gừng như một đầu bếp thượng thặng trên tầng 5 khu nhà xập xệ ở mạn Giảng Võ.
29/7/2024
XUÂN BA
Nguồn: Báo Tiền Phong
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Ai là kẻ giết nhiều vua nhất trong lịch sử Việt Nam

  Ai là kẻ giết nhiều vua nhất trong lịch sử Việt Nam? Trịnh Tùng đã từng giết ông vua của triều đại đối nghịch với triều đại mình và sau đó...