Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2025

Hồi ký Sơn Nam

Hồi ký Sơn Nam

Từ U Minh đến Cần Thơ
Có những người nói tới nói lui có một chuyện, mãi đến khi người nghe lộ vẽ nhàm chán thì người nói vẩn nói,vì là “vốn quí” của mình. Thấy trẻ con trèo lên cây me để hái trái thì quát tháo: “Tụi bây là lũ bất hiếu,rủi té gãy tay,lọi chân,cha mẹ tốn kém tiền thuốc men.”Rồi dạy miên man rằng trong các loại cây thì “ chùm ruột là thứ nhánh giòn nhất,dễ gãy.” Rồi cứ nói thêm rằng cây trứng cá một thời đã được mọi người ưa chuộng vì tăng trưởng nhanh,nhiều lá để tạo bóng mát,trái màu đỏ,trẻ con ưa thích nhưng coi chừng...rắn lục loại rắn con,vảy màu xanh dễ tiệp với màu lá cây lắm khi rình rập trẻ con,rắn lục có nọc độc,nếu có chữa.
Có ai nghe thì nói,lắm khi như nói một mình.Giới trẻ đứng giây lát rồi bỏ đi,gọi lão đó ăn nói nghe cũng hay nhưng dường như lẩm cẩm.Nhưng không nên cãi vã,lão ta rất tự ái,tự tôn.
Có ai nghe thì nói,lắm khi như nói một mình.Giới trẻ đứng giây lát rồi bỏ đi,gọi lão đó ăn nói nghe cũng hay nhưng dường như lẩm cẩm.Nhưng không nên cãi vã,lảo ta rất tự ái, tự tôn.
Tự ái là phải.Vì lão ta không nói láo.Gần đất xa trời rồi! Nói láo làm chi cho mang tội.Chẳng qua là kinh nghiệm trường đời có giới hạn,muốn truyền lại,già trẻ ai muốn nghe thì nghe.Và dường như ít ai nghe.Họa chăng khi lão mất,người trẻ trở thành người già,nhớ lại bóng dáng lão,rồi đánh giá là người có tư cách.Theo ngôn ngữ xưa trước 1945,có tư cách là có đầu óc là người quan tâm ít nhiều đến chính trị,là người biết vinh biết nhục,có trách nhiệm.
Thời bắt đầu kháng Pháp,khoảng 1946-1947,chúng tôi đóng cơ quan ở phía ranh giới giữa Bạc Liêu và Kiên Giang ngày nay, đất thấp và phèn,xa biển,phía Ngan Dừa,Ninh Thạnh Lợi gì đó.Người dân làm chút ruộng và lập vườn ổi.Vườn lần hồi suy thoái,phải chặt bỏ,trồng lứa khác để có trái to, ít hột hơn.Nhà cửa lưa thưa, đồng bào nghèo rất tốt,cười vui khi gặp anh em cán bộ.Hôm ấy,một ông lão cho biết trong ngọn rạch còn một ngôi chùa, đúng ra là một cái am nhỏ với ông thầy trẻ và đôi ba đệ tử.Chùa lợp lá,nhưng thầy trò đều siêng năng tụng kinh,gõ mõ,tu hành kiểu quái lạ: “Ông thầy thỉnh thoảng uống rượu và làm “kinh tế tự túc”,tôi chưa rành,mình tới coi thử”.Tôi nhận lời,vì tò mò. Ðến cho biết,với tâm trạng vô tư. Ðược giới thiệu trước là “cán bộ tới thăm”,thầy đón chào và mời vào căn nhà nhỏ bên hông chùa. Ðôi ba chục con quốc(cuốc)bị trói chân,nằm chật chội trong cái rộng bằng tre,thỏn mỏn.Thầy giải thích đó là của đám đệ tử gài bẩy mấy ngày qua,chờ đủ trăm con mới đem ra chợ bán lấy tiền mua gạo cho chùa ăn qua ngày, đồng thời để tiếp tế cho “Xưởng”.Hỏi thì biết rỏ hơn:Gần đó,hơn hai ngàn mét có một xưởng nhỏ chế tạo lựu đạn nội địa,cung cấp cho du kích.Bán hàng trăm con quốc, được thêm tiền mua chuối, đu đủ cho anh em công nhân xưởng.Anh em sống bí mật lắm,không được phép đi dạo trong xóm,nói chi ra chợ làng.
Tu hành,không sát sanh,nhưng gài bẫy bán chim cho người khác mua về ăn thịt,rồi lấy tiền làm việc nghĩa.Cử chỉ ấy nói chung ai cũng khen,sát sinh nhưng nhà sư và số đệ tử đã làm điều phải,nhập thế,còn hơn là mãi tụng kinh sớm chiều.Lại nhớ năm xưa đó,lúc cơ quan đóng nơi heo hút,trời chuyển mưa nhanh chóng,sấm sét nổ lên,ai nấy giựt mình.Lát sau một thằng bé chạy hơ hải báo tin có đúa bé bị sét đánh chết,dường như nó là người của cơ quan.Anh em chạy ra ruộng,khiêng đứa bé vào,tên nó là X.,cha mẹ xin cho nó từ hơn tháng qua làm liên lạc,chèo xuồng,nấu cơm và học chữ quốc ngữ.Một mặt,anh em báo tin cho cha nó biết,mặt khác cứ làm hô hấp nhân tạo,xoa bóp tay chân.Trạm y tế ở quá xa và ai cũng đoán chắc là nó đã chết,rồi cha nó đến,mặt mày hơ hải,khóc không ra nước mắt, ôm con giây lát nói nghẹn ngào:Anh em,thôi, được rồi.Tôi biết chắc con tôi hết phần phước rồi.Anh em cho tôi đem nó về.ai nạn nầy,anh em không có gì đáng quở trách.Buồn là buồn cho thằng con tôi chưa làm được gì giúp đất nước”.
Anh em cử người tới dự buổi tống táng đứa bé.Rồi hôm sau,lại dời nơi khác,ai nấy buồn và như hối hận.
Cha đứa bé đứng nhìn theo,nói nghe tỏ rõ: “Phải chi ngày hôm qua tôi chết thế cho con tôi.Tôi già rồi.Nó còn trẻ.”
Nhìn lại ông,rồi anh em cán bộ cúi mặt. Ông đang ở trần,dưới cơn mưa lất phất.Bấy giờ,ai cũng thiếu áo.Thằng bé mất hôm qua mình mẩy ướt mem, áo rách.Nghi ngờ gì nữa, ông đã cởi chiếc áo của mình ra mà đắp cho thằng bé được ấm áp hơn,khi nó từ giã cuộc đời nầy.
Mới đây, đọc báo thấy tả những cái khạp, được neo lại không xa nhà cho lắm.Nạn nhân vụ lũ lụt to lớn của đồng bằng.Chết giữa cảnh trời nước bao la,trong phạm vi đôi ba cây số ngàn mới gặp mươi căn chòi hoặc năm bảy cây gáo cổ thụ,rải rác vác chòm cây điên điển tạp nhạp chỉ dùng làm chất đốt,nhưng được ca ngợi vì gần như không trồng mà cứ mọc lan tràn,trái khô rụng xuống là mọc trổ bông tươi ăn khá ngon,màu vàng rực rỡ trong khoảng thời gian ngắn.Vài đưá bé vô ý rơi xuống,nước đang ngập vào nhà,lập tức bị cuốn trôi giữa khu vực trước kia là đồng ruộng nhưng lũ đã phủ lên đôi ba mét,chảy cuồn cuộn.Chọn cái khạp đựng gạo hoặc cái lu (chum,vại to)liệm với quần áo,chiếu.Nạn nhân dĩ nhiên gần như ngồi trong khạp,co chân lại,hai tay khó thẳng.Rồi đậy nắp lại trét xi măng. Ðặt cái khạp ấy không xa nhà cho lắm để dễ bề canh chừng,sợ nó trôi mất,và cha mẹ cũng chẳng muốn rời đứa con đã mất nhưng còn đó.Tìm bốn năm cây tràm nhỏ cắm chung quanh để rào cái khạp với mớ dây kẽm,nhờ vậy cái quan tài tròn,ngộ nghĩnh nổi lên rồi hạ thấp xuống tuỳ theo mưa nhiều ít từ thượng nguồn không bao giờ chao đảo lắc lư,hy vọng rằng đứa bé được yên thân,không trăn trở, “nghiên mình”tức là không giữ được “tư cách” vì người chết vẫn là người sống. “Lòng đây tưởng đó mất như còn”( Ðồ Chiểu),mặc dầu lúc sống chưa làm được điều gì đáng kể.Nạn nhân của lũ lụt nếu lớn tuổi hơn thì chôn trong cái quan tài,gọi là như vậy cho khỏi tủi thân,chỉ là mấy tấm ván mỏng ghép lại.Người chết mặc nhiên được lau chùi sạch sẽ,khô ráo,mặc quần áo tươm tất,nằm với tư thế đứng đắn nhất là xuôi tay,xuôi chân,mặt nhìn ngửa lên trời,phải phun rượu để uốn nắn lại trong trường hợp tay chân co quắp.Ngày có những loại bao ny-lông to và dài theo ni tấc của người lớn,bỏ vào bao,gìn giữ được mùi hôi rữa, đặt vào quan tài,thêm nhiều mảnh ni-lông rồi đưa ra khỏi nhà,không quá xa để canh chừng.Giữa trời nước bao la,sóng trào nước xoáy,cứ xốc bón cây chổi như hình chữ X,treo lên cao;bên dưới,làm thêm một cái sàn để quan tài dứ vào, để phòng khi giông gió khiến quan tài rơi xuống đáy nước.Trên nóc quan tài,làm kiểu mái nhà,bằng vải nhựa dẻo.Chưa hết.Ngày nay lắm nơi bố trí hai cái ống tre,hoặc ống nhựa cắm bên quan tài, đựng gạo và muối,tượng trưng cho lương thực,thực phẩm cần yếu cho người quá cố,vì còn bối rối,thân nhân không thể nào cúng dường dịp cho tuần đầu,hai tuần đầu và cúng 100 ngày.Như việc tống táng với lương thực của người dân tộc trên Cao nguyên.
Nhắc lại dông dài để nhớ mãi “tư cách” của con người.Sống hay chết,già hay trẻ đều là con người,phải giữ tư cách.
Xác cháu bé khi nước giựt xuống,cha mẹ sẽ đem chôn kín dưới đất.Rồi mùa nắng,rồi mùa nước lụt năm sau,bông điên điển hoang dã sẽ trổ vàng ngời soi bóng nước từ đầu nguồn tuôn về. “Chúc hồn em mãi tiêu dao.Về trần tìm lại chiêm bao thuở nào”.(Kiên Giang)
Chương 2
Sau 3 năm học bổng ở trường tỉnh,lớp nhì1,lớp nhì 2 rồi lớp nhất,tôi thi đậu bằng Sơ học (CEPFI).Rất mừng và rất lo.Nhà nghèo,không thể tự túc đi học tiếp theo ở tận Cần Thơ,cách xa Rạch Giá 120 cây số,nơi xa lạ,chẳng bà con quen thuộc.Chuyện nầy do cha mẹ tôi quyết định,hai vị đáng kính ấy tin tưởng rằng tôi là đứa học trò giỏi.Dầu gì đi nữa,tôi cũng phải rời bỏ cái tỉnh lỵ nầy để ra đi,về đâu thì chưa biết.Tỉnh lỵ cô đơn ở ven biển nầy là nơi anh hùng Nguyễn Trung Trực bị đưa ra pháp trường,hằng ngày đi học sớm chiều tôi qua lại 4 lần.Người địa phương cử tên,quen gọi là ông Nguyễn.Trước khi tạm biệt chợ,tôi thấy nôn nao khó tả. Ở đây mấy năm qua cũng buồn mà chỉ nhớ cái vui.Và cái buồn cũng thành cái vui. Ði ngang qua tiệm Nguyễn Ngọc Thái,cứ khen ngợi vì ông chủ nầy nấu loại xà bông thơm,giá rẻ,có chất lượng nhưng không phát triển cơ ngơi được,thất bại rồi tàn lụi về sau vì kém tiếp thị qua các tỉnh lân cận.Lại có một hiệu thuốc Tân dược,(gọi tiệm thuốc Tây)do một dược sĩ người Huế là Nguyễn Khoa Dai làm chủ,cô vợ đầm trông mạnh khỏe và sang trọng.Trong tiệm chưng loại cân hễ có người lên đứng trên bàn thì cây kim chạy,ghi rõ sức nặng.Nhiều lần qua lại,tôi tò mò nhưng không dám vào,e bị rầy rà. Ở sát nội thành là khu vực nghĩa địa,dành cho người Hoa,nhiều kiểu trông rất đẹp mắt,nấm mộ là mô đất,trồng cỏ xinh xắn,dịp Thanh minh,người Hoa đến bày toệc trước mộ.So với vùng U Minh,sinh quán của tôi,quả thật chợ Rạch Giá có nhiều điều lạ.
Lại phải đi thi tuyển để vào trường Trung học công lập duy nhất phía Hậu Giang.Khó thi lắm,các tỉnh miền Tây kể luôn vài tỉnh phía Sa Ðéc,Vĩnh Long cũng kéo đến dự thi,thí sinh non 500 nhưng chỉ chấp nhận học bổng khoảng 10 đứa.Tôi thi đậu hạng 25. Ðáng ghi nhớ là khi đi thi,lại được dịp biết sơ qua tỉnh lỵ Cần Thơ,xem như thủ đô của miền Tây.Phố lầu hai tầng thêm tầng trệt cất san sát...Sông Hậu to rộng mát rượi.Lại có nhà máy điện khá to,cung cấp cho vài tỉnh,thêm nhà máy nước đá,rượu bia và các tổng đại lý về thuốc lá diêm quẹt.Chi nhánh của Ðông Dương ngân hàng to rộng,với cái mặt tiền đầy vẻ bí hiểm.Thực dân là đây chăng?Lại thấy vài văn phòng luật sư của người Pháp.Lại thấy trụ sở của Ðồn điền Hậu Giang.Vào quán ăn bình dân ở mé sông,cứ mải mê xem cái bồn nhỏ, nuôi con cá tai tượng khá to.Lại còn hiệu sách Vân Nhiều chưng bày báo Tiểu thuyết thứ bảy,Phổ thông bán nguyệt san,thêm sách của Tự Lực Văn Ðoàn.Thêm hiệu sách khá to của Trần Ðắt Nghĩa chuyên sách báo chữ Pháp,bấy giờ chương trình trung học dành cho người Việt vẫn nặng về Pháp ngữ nên đọc được sách giải trí phổ thông,hoặc sách văn học cổ điển trong chương trình giáo khoa.Các bài giảng trong lớp đều dùng tiếng Pháp.Người anh chú bác ruột của tôi đã tận tình giúp đỡ,dẫn dắt tôi đi chơi,lần do địa chỉ những người nấu cơm tháng cho học sinh ngoại trú.Bấy giờ, ở Cần Thơ ngoài trường trung học tư Nam Hưng,vừa mở ra thêm trường Bassac,do ông Phạm Văn Bạch làm hiệu trưởng.Nhiều điểm dành cho học sinh ở tỉnh khác đến ở,nhà trọ mở ra,cạnh tranh nhau về giá cả.Gặp một địa chỉ giá rẻ,thật may mắn cho tôi. Ðó là ông Lư Bảo Mỹ,chuyên nấu bếp cho học sinh nội trú,vì vậy hằng ngày ông được ưu tiên đem thức ăn dư về nhà,nuôi thêm học sinh nghèo.Nhà lợp lá,trong con hẻm lầy lội nhưng đối với tôi là đầy đủ tiện nghi.Thấy tôi ốm yếu,hiền lành, ông nhận nửa giá,so với học sinh lớn sứ vóc.Thế là cha mẹ tôi đành cố gắng vay nợ,sắm cho tôi hai bộ quần áo bà ba vải trắng,tạm gọi là đồng phục,thêm hai đôi guốc bằng cây vông cho nhẹ.Lại mua một cái rương đan bằng mây.
Quần áo được mẹ tôi may tay cho rẻ hơn mướn may bằng máy.Trước khi đi học xa,mỗi năm về được có mấy tháng hè,mẹ tôi buồn buồn nhìn đứa con yêu quí là tôi,căn dặn nhiều lần.Bấy giờ đâu vào khoảng 1937, đại khái tôi còn nhớ như sau:
-Ráng mà học cho vẻ vang dòng họ,mình là dân U Minh,ai cũng chê là dốt nát,quê mùa, áo mốc,chân phèn. Áo đen giặt vài lần thi bay màu,chân đi đất thì phèn đóng đen thui ở móng chân.Người An Nam mình sao lạ quá,bày đặt phân chia...giai cấp(?),cho rằng dân xứ U Minh nầy là hạng “trôi sông lạc chợ”.Quê nội của con, đời ông cố ở cù lao Ông Chưởng,bên Long Xuyên,kêu là xứ Hai Huyện. Ông cố ngoại của con xứ Bò Hút,gần xứ Ô Môn,bên kia bờ sông Lớn.Xứ đó “dinh” lắm,ai dám nói là quê.
-Thêm một điều mẹ muốn nhắc con là hồi mới sanh con,mẹ đau nặng,không sữa cho bú,trong xóm có một người đàn bà Miên,mới chết chồng,có con nỏ đang bú.Người nầy thấy mẹ bịnh,liền nhận lãnh trách nhiệm cho con bú mấy tháng trời.Sau đó,mẹ hết bịnh,bà ta cũng tới thăm và tập cho con ăn cơm.Bà ta đưa cơm vô miệng nhai,sau đó nhả trên tay mà đút cho con.Con ăn coi bộ ngon lắm.Rồi bà ta lấy chồng khác mà vẫn lui tới bồng con đi chơi.Hồi học lớp Năm(lớp một),bà ta đưa con đi học,qua cầu khỉ,hoặc chỗ nào thì bồng qua.Năm đó, ở chùa Khơme xứ Sóc Xoài,chùa linh lắm,bày ra lễ Chô Thơ Mo,trước bệ Phật,tại chánh điện,người ta đào một lỗ khá to,nói là trẻ con muốn điều gì thì cha mẹ nên bỏ xuống lỗ những món có ý nghĩa,như cây kim,sợi chỉ để con gái may vá giỏi,khi lớn lên.Người giàu sang thì bỏ xuống đó vài lượng vàng,vài chiếc cà rá,kiếp sau sẽ giàu hơn kiếp nầy.Bữa đó má bắt chước,nhờ con Cà Xúc,(tên của bà ta)mua cây viết,bình đựng mực,cái tập giấy để cho con tới đó bỏ xuống,trước bàn Phật,lấy phước trong cõi đời nầy.Người ta đi chùa, đông lắm,ai tin trời Phật thì má cũng tin.
Lời dặn sau cùng mà mẹ tôi nhắc đôi ba lần là nên nhường nhịn bất cứ ai.Mình yếu đuối, ốm o thì nên tránh chuyện nổi nóng,chửi thề, đánh đấm. Ði học nơi xứ lạ quê người,rủi xảy ra bề gì,không ai bênh vực.
Xứ Cần Thơ vui lắm,vui gấp mươi lần xứ Rạch Giá. Ðường phố to rộng, đèn điện sáng choang,người ăn uống tấp nập.Có hai hãng xe đò đưa khách đi Sài Gòn do người Việt làm chủ. Ðôi ba ngày một lần,tàu Nam Vang chạy ngang,ghé lại khá lâu,hành khách,hàng hóa lên xuống rộn rịp,thêm người trên bờ xuống tàu rao thức ăn uống...Tàu của công ty người Pháp ờ Sài Gòn,chạy khỏi Nông Pênh,quẹo qua Biển Hồ.Chợ Cần Thơ nằm ở ngã ba sông,con rạch ăn từ sông lớn(Hậu Giang) chảy về phía Tây gọi Rạch Cần Thơ,khá rộng, đưa nước ngọt về phía vịnh Xiêm La,xưa kia ách tắc,chảy vào vùng đầm lầy.Hồi đầu thế kỷ 20,người Pháp cho đào con kinh chiến lược(kinh Xà No) nối ngọn rạch Cần Thơ qua sông Cái Lớn,thông tới biển.Nhờ vậy mà có nguồn nước ngọt rửa sạch phèn vùng đất rộng lớn,trung tâm của vùng là chợ Vị Thanh, điền chủ Pháp và Việt tha hồ giành nhau phần đất hai bên kinh xáng nầy.Có câu hát:
-Cái Răng,Ba Láng,Vàm Xáng,Phong Ðiền,
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền.
Ðừng cho lúa gạo,xóm riềng họ hay.
Hay,tức là hay biết,kinh tế thị trường phát triển,có tiền mặt mang theo,nhẹ nhàng,gọn gàng,thì sẽ mua được tất cả.
-Cái Răng,Ba Láng,Vàm Xáng Xà No,
Anh thương em,sắm một chiếc đò.
Ðể anh qua lại mua cò gởi thơ.
-Xứ đâu thị tứ bằng xứ Kinh Cùng,
Tràm xanh cũi lụt,anh hùng thiếu chi?
Ca dao mô tả đi khẩn hoang,nhưng khẩn chưa xong là phần đất ấy thuộc về chủ quyền của người khác.Biết vậy nhưng cứ chịu cực.
-Ra đi gặp vịt cũng lùa,
Gặp duyên cũng kết,gặp chùa cũng tu.
Ði khẩn hoang là theo nếp sống tùy tiện.Thấy bầy vịt của ai đó lội trên sông,cứ bắt một con mà ăn thịt,nếu chủ hay được thì cứ xin lỗi là yên vui.Gặp ai yêu mình,mình cứ yêu trở lại,muốn kết nghĩa vợ chồng thì tùy hoàn cảnh.Gặp ai rao giảng đạo lý nào thì cũng noi theo,gẫm lại có từ bi bác ái,làm lành lánh dữ là được.
Chợ Cần Thơ quả là thành tựu về kinh tế thị trường,hồi đầu thế kỷ.Lúa gạo,sản phẩm gom về để phân phối cho các vùng lân cận,lên Sài Gòn.Ngã Bảy - Phụng Hiệp là trục giao thông lớn của các tỉnh phía Nam vùng Hậu Giang,nơi đất thịt (hiểu là phù sa tương đối định hình,pha ít nhiều đất sét).Nước ngọt thì do sông rạch cung cấp hoặc nhờ “nước trời”.Khoai lang,lò nấu bếp,củi,bắp, đậu,trái cây chở tới lui trên sông rạch.Tại Ngã Bảy nầy ghe thuyền,tàu thủy ngày đêm rộn rịp.Có bán đủ thức ăn,thức uống cho ghe thuyền,bán không sợ ế,vì giới tiểu thương dám ăn xài,tương lai đang mỡ rộng trước mắt,sung sướng hơn người nông dân dãi nắng dầm mưa,trực tiếp sản xuất.
-Ðạo nào vui cho bằng cái đạo đi buôn,
Xuống biển lên nguồn,gạo chợ nước sông.
Lần hồi,làm quen với sông Cửu Long,tôi thấy nó khác hẳn những con sông nhỏ bé nhưng hung tợn của phía Cà Mau, đổ ra vịnh Xiêm La.Mặt nước như chảy chậm,nhưng kỳ thật chảy mạnh ở dưới đáy sông,những cây sào cắm gần bờ vẫn rung rinh khi nước như đứng lại.Cá ở sông lớn nầy được gọi là “cá trắng”,trong khi cá ở rừng tràm Cà Mau,U Minh gọi là “cá đen”,dựa vào màu sắc bên ngoài.Cá tra,cá vồ,cá bông đều to con và bụng có mỡ,nấu canh chua khá ngon.Lại còn loại cá nóc,nhiều thứ cá nóc,tôi bắt chước các bạn xuống tắm ở sông lớn,tắm nước ngọt mát mẻ không như ở nước mặn nước phèn,nước lợ phía U Minh...Tôi mặc quần cụt,tắm rồi lên bờ chợt đứa bạn phát hiện: “Cá nóc đó,tỉnh táo, đừng sợ”.Trong lúc tôi ngơ ngác, đứa bạn chỉ ngay đầu gối tôi.Máu chảy ròng ròng,xem lại thì quả là một vết thương lạ lùng.Nơi cá cắn,một màu trắng,màu trắng của mỡ,rồi thì lắt sau máu chảy ra,không biết làm thế nào ngăn lại, điều ấy chứng tỏ bộ răng cá nóc quá bén,bị nó khoét mà mình chưa hay biết gì cả.Vết thương ấy ở gần đầu gối,hơn 60 mươi năm sau mà sẹo vẫn còn.Gọi vùng Hậu Giang,nhưng gồm nhiều tiểu hình thế,từng mảng khác nhau.Gần ven sông,ven biển,nhiều gân đất cao ráo,người Hoa kiều từ lâu rồi biết khai thác để trồng nhãn.Dịp tựu trường tha hồ ăn nhãn,bây giờ chỉ có loại nhãn lớn hột.Thơm tho ngọt ngào, đối với người ở U Minh,xứ không bao giờ thấy cây nhãn.Lại còn các loại chim ở đồng lúa vùng nước ngọt,nay hãy còn như ốc cao,vỏ vẻ,chằng nghịt,cuốc.Dân miền quê dùng lưới mà chụp,vặt lông,chiên,gọi món “chim rô ti”.Theo thời trang,giàu nghèo gì đều vừa đi vừa ăn,hãnh diện đến các điểm thụt bi da,vừa xem vừa ăn...Bấy giờ rộ lên phong trào thụt bi da,mỗi hiệu chứa chấp một tay thụt nhà nghề.Họ trình diễn những kiểu đánh đẹp mắt.Loại bi da Pháp,lắm khi họ thụt đụng trái banh thứ nhất,dội qua cạnh thứ nhì,tạt qua cạnh thứ ba,dội lại, đụng vào mé của trái banh còn lại.Tôi hiểu họ quen tay,dùng trực giác mà suy luận.Vài người bạn bảo đó là lượng giác học.Và thụt bi da là môn thể thao,suốt buổi,họ đi quanh bàn hàng đôi ba kilômét,khi thẳng lưng khi khom lưng,xem yểu điệu.
So với thị xã Rạch Giá thì Cần Thơ sang trọng vượt bực.Dâu từ năm 1920 về sau, đã có rạp chiếu bóng,chiếu hàng đêm,phần lớn là phim Pháp,mỗi ngày có chiếc xe ngựa đánh trống rao mời,hai bên hông xe treo bảng quảng cáo với ảnh tài tử,có đứa bé phân phát chương trình,in chữ Pháp,chữ Việt.Bấy giờ nhiều ngườighiền xi nê lo sưu tập các chương trình nầy, đóng từng xấp,lâu ngày thấy đẹp mắt và quí giá.Bấy giờ là phong trào của loại phim lực sĩ Tạc dăn người tình xinh đẹp,cũng ăn mặt hở hang nhưng so với ngày nay thì ít khiêu gợi,tương đối lành mạnh.Nhưng bối cảnh buổi ấy quả là táo bạo,làm cho nhiều khán giả mất ăn,mất ngủ.Lại còn cô đào trẻ Shirley Temple, đâu cỡ 10 tuổi lanh lẹn,vuit tươi. Ðôi ba tháng lại xuất hiện một bộ phim màu,xem như đỉnh cao về kỹ thuật.Bấy giờ không có thuyết minh hoặc phụ đề Việt ngữ gì cả.
Nhiều thanh niên dạo phố cao hứng;rút trong túi cây kèn thổi,nay gọi là khẩu cầm,thổi giọng cao,giọng thấp lại có đánh nhịp.Câu lạc bộ đi trợt trên kiểu giày có bánh xe (patins)uốn lượn,trai gái dìu tay nhau,khá đẹp.Lại còn nơi biểu diễn thiết hài,kiểu giày ở gót có bộ phận bằng sắt gõ nhịp.Vài ba quán nhậu trổi lên những bản nhạc thời thượng bên Pháp, đại khái “Nếu bạn trở lại” như lời hứa (si tu reviens) hoặc “Bài tặng em Nina”(Chanson pour Nina),hoặc “Tôi có hai mối tình”,thứ nhất là quê xứ của tôi,còn mối tình thứ nhì là thành phố Pari! Nói chung,khu vực nầy tụ tập con ông cháu cha,cụ thể là con cháu của giới điền chủ lớn nhỏ,lúa vẫn bán có giá trên thị trường quốc tế.Một số cô cậu đang đòi đi học ở Sài Gòn,Huế Hà Nội,nếu không có hoàn cảnh sang Pháp.Nhiều cậu ở tỉnh gần,thỉnh thoảng cha anh lái ô tô nhỏ lên thăm,sắm cho giày da,hoặc bộ Âu phục bằng tuýt so,hiểu là tơ đũi,loại tơ kéo từng sợi to.
Hằng đêm vì ở ngoại trú,lại có trí nhớ nên tôi học bài rất nhanh,sau đó,lại dạo chơi xứ người,kiểu dạo chơi không tốn tiền.Thích nhất là đến bến xe đò.Từng đoàn người ngồi tràn lề đường thích thú với việc đàn ca Vọng cổ,phần lớn là dân lao động,thêm số người lanh lẹn là lơ xe đò (phụ xế ),họ đi về tận Sài Gòn,Cà Mau,Sóc Trăng. Ðàn kìm (nguyệt),thêm đàn ghita,loại đan Tây Ban Nha nầy cải tiến chút ít,khoét phím,lên dây lại,dường như “hội nhập” được với hơi hướm,hò,xự,xang,xê,cống,nghe khá du dương;Trong giới mộ điệu,có vài người ăn mặc sang trọng,nghe giới thiệu thì đó là vị Mạnh Thường Quân,sẳn sàng chi ti-én cho anh em phát triển “nhạc tài tử”,thí dụ như mua gà vịt,thêm chút ít rượu.Anh em đàn ca bảo rằng “cái nghề nầy rất ít lợi”,chứng tỏ nhạc tài tử của người Việt dễ lọt vào lòng người hơn là nhạc Tây.Và bảo rằng ngoài việc “chơi cho vui”,ai giỏi nghề thì cả nước ái mộ,kẻ xuất sắc đi theo gánh hát cải lương,quần áo sang trọng, đến đâu cũng có người đón rước,lương bổng cao hơn công chức,lại được phụ nữ...mến chuộng! Kẻ khác cải lại rằng phải có tài và có thời,bằng không thì hát ở nhà lồng chợ,rồi ngủ ở đình làng.Sớm chiều rảnh rang dạo phố.Phải lấy cái biệt danh nghe cho hay...Rồi vài bạn đờn ca đứng lên hát,mặt đỏ ké,phải chăng rượu đem cho con người sức tự tin và tâm trạng lãng mạn?Lại tạm nghỉ để tranh luận về nguồn gốc bản Vọng cổ.Từ Huế là bản Hành Vân nhưng nhưng ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu đưạ theo mà đặt bài ca mới,tả nỗi buồn của người đi làm ăn xa xứ.Vài năm trước,bản Vọng cổ được Năm Nghĩa ở Bạc Liêu cải cách,nâng thêm nhịp,từ nhịp tư lên nhịp tám.Thấy còn hạn chế nên Mộng Vân cũng ở Bạc Liêu mở thêm nhịp cho câu hát ngân nga và dài hơn,mội câu 16 nhịp.Gánh hát Cải Lương rước đào kép ca Vọng cổ thì khán giả mới mua vé vào xem, ở Sài Gòn và đâu đâu cũng thế.Phải mùi mẫn hơn,lừng lẫy hơn cho thiên hạ nghe,chớ không còn hát co ro,cúm rúm.
Như vậy là giữ nguyên gốc thì...làm ăn không khá,lỗi thời! Tôi mừng thầm,cám ơn cha mẹ đã chịu cực cho tôi đi xa để thấy chuyện đời.Nếu cứ ở U Minh đá cá thia thia, ăn cá lóc nướng thì vui nhưng u mê,sống ngoài thời cuộc.Rốt lại,gần mãn năm học ở trường Bassac,tôi thuộc vào hạng khá,nhờ... nhớ dai,giỏi về Việt văn và Pháp ngữ.Bây giờ,Việt văn không được chú ý,nhưng tôi mải mê vì ông thầy Phan Quốc Quang (biệt hiệu Thượng Tân Thị )quả là giàu tâm huyết.Dạy bực trung học,trong khi các giáo sư mặc Âu phục,mang giày,thắt cà vạt thì ông thủ phận khăn đen áo dài,nói ròng tiếng Việt,không xen tiếng Pháp nào hết (vì ông không rành).Riêng về Hán học,dường như ông chẳng đậu tú tài,cử nhân gì cả.Học trò nhiều đứa đã vắng mặt liên tục,lắm khi ngồi nghe,vụt đứng dậy ra sân mà nô đùa! Người thích văn chương,ngoài đời,mến mộ ông qua 10 bài Khuê phụ thán.Dạo ấy vài người viết bài cho rằng Thượng Tân Thị là kẻ đạo văn,chẳng bao giờ ông đủ tài năng để làm 10 bài ấy.Khuê phụ thán là tâm sự của bà hoàng hậu,vợ vua Thành Thái,qua lời thơ đã than thở “Chồng hỡi chồng,con hỡi con”,chồng và con đều bị đày.Có vài câu tuyệt diệu như:
-Con ơi,ruột mẹ ngướu như tương,
Bảy nổi ba chìm rất thảm thương.
Khô héo lá gan,cây đỉnh Ngự,
Ðầy vơi giọt lệ,nước sông Hương.
Quê người đành gởi thân trăm tuổi,
Cuộc thế mong gì nợ bốn phương...
Thượng Tân Thị đã can đảm ca ngợi hai vị vua nhà Nguyễn.Về sau có người bênh vực Thượng Tân Thị,cho rằng ông không đạo văn của ai hết,bằng cớ là trong bài Thập thủ liên hoàn Khuê phụ thán ấy có vài câu trùng ý,thí dụ như:
-Mộng điệp khéo vì ai lẽo đẽo
Rồi lại cũng ý ấy:
-Chiêm bao lẩn quẩn theo hồn bướm...
Sự việc ấy chứng tỏ tác giả là một thi sĩ đuối hơi,và tầm cỡ của Thương Tân Thị chỉ như vậy thôi.
Thượng Tân Thị không buồn,ung dung dạy chữ Việt.
Chưa hết chuyện mới lạ ở Cần Thơ.
Ven bờ sông,mỗi buổi sáng,vài thanh niên say mê tập thể dục theo phương pháp Tây Âu,họ cử những quả tạ gồm hai cụt sắt nặng như nhau,khoảng 5 kilô...bụng họ thon lại,nổi lên 6 cục thịt,vai thì u lên,ngực to,vừa tập vừa đếm.Họ hít bằng phổi,nhưng thở ra bằng miệng,nghe khá to.Hỏi lại thì đó là tập để trở thành “ắc-lét” (athlète ) tức là lực sĩ.Chuyện lạ, đối với tôi bấy lâu chỉ thấy biểu diễn võ Việt Nam.Hừng sáng,vài thanh niên xuống sông,bơi lội chuyến đi và về suốt 10 kilômét,tận chợ Cái Răng,tư thế nằm thẳng,hai tay quạt đều và chân đạp theo một động tác như máy chạy.Họ bảo đó là kiểu bơi lội quốc tế.Tôi nghĩ rằng cứ mỗi sáng mình ra ven sông,hít không khí trong lành và ngắm xem mấy người vãi chài bắt cá cũng đủ rồi.Một thanh niên đen đúa, ốm tong,cao ráo đã bơi lội,nhưng lội theo kiểu người Việt từ xưa,theo tư thế dân chài Việt Nam,ngực và đầu nổi lên,thân như hơi nghiêng nghiêng,chỉ thấy hai tay quạt nước.Chàng thanh niên nầy mặt quần cụt dài,vải đen,trông thô sơ,không có quần cụt bó sát mộng kiểu Tây.Khi lên bờ chàng ta đến gần tôi mà phân trần:
-Mình là dân nghèo,cha mẹ chài lưới ở tận Ngã Bảy - Phụng Hiệp,ráng lên đây học,sáng ăn xôi.Chán quá! Nhưng lên Cần Tho nầy cũng có nhiều điều hay.Thích đọc sách báo không?Tôi có quen một người tốt lắm,cho tôi ở trọ gần như miễn phí.Nghèo,anh chủ nầy làm thợ máy ở bắc (phà )Cần thơ,qua bên kia bờ sông Hậu.
“Phải qua bên kía sông Hậu,rồi qua sông Tiền để lên Sài Gòn”?Nghĩ thầm như vậy,tôi hẹn với anh bạn trong như mộcạc nầy, đến căn nhà ở ngoại ô, đường vào quanh co,lầy lội vì bấy giờ là mùa mưa.Từng xấp báo,cắt ra những bài quan trọng,dán lại,thoạt trông qua,tôi mừng rỡ,vì chỉ cắt ra những bài liên quan đến lịch sử Việt Nam,Nam Bộ và văn học.Nằm trên võng,gần vũng nước,bất chấp bầy muỗi bao quanh,tôi đọc một trích đoạn của Ðạo Nam Kinh.Anh bạn nầy tự giới thiệu là Hai,bảo là cùng học với tôi,khác lớp bên A,bên B.
Ðạo Nam Kinh có lẽ là kinh do vì tiên,vì Phật nào đó hiện về trần gian,qua việc cầu cơ bút ở ngoài Bắc Kỳ từ lâu rồi,khuyên dạy người dân nên giữ lòng yêu nước,so sánh tổ quốc ta như cái đòn gánh,miền Trung là dãy Trường Sơn,hai đầu là hai gánh lúa của đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
-Ðạo Nam ơi, Ðạo Nam ơi,
Trăn năm còn lại mấy lời thơ đây
Ai đưa mình đến chốn nầy?
Cho đêm mỏi hạc,cho ngày mệt loan.
Xót thân vơ vẩn canh tàn.
Máu đông nên chữ,lệ tràn ra thơ.
Rồi anh bạn giải thích đó là kinh của đạo Minh Sư,do chư tiên truyền xuống trần gian,ngày đêm, đau xót.Hồi mấy năm xưa,chùa Nam Nhã tại Bình Thủy,ngoại ô Cần Thơ, đã xuất bản tập Ðạo Nam Kinh,phổ biến tận các tỉnh,sau đó thực dân ra lịnh tịch thâu.Trong mớ bài báo cắt dán,gặp bài thơ của J.Leiba,chưa ngâm nga lên mà đã thấy thích thú,nhớ ngay,không cần học cũng thuộc.Bài nhan đề Thụy Hoa Lầu:
-Sân quạnh rêu phong sầu liễu úa,
Lầu không người vắng bóng hoa sầu.
Hoa xưa ngủ lệ năm canh nguyệt,
Người trước mơ hồ một nấm khâu.
-Ngây ngất gió hiu lùa bốn mặt,
Mịt mờ mây trắng cuốn ngan thâu
Cỏ non đâu vết giày du tử?
Ánh lạt Tà dương dãi góc lâu.
Lời lẽ khách sáo,theo công thức xưa nhưng nhạc điệu ở đâu đó,từ chân trời xa và từ trong lòng mình ngân lên,hoà điệu.Cái đẹp Á Ðông,của thơ ca đời Ðường.J.Leiba chợt hứng,mô phỏng khéo léo,gợi không khí đẹp,ngàn xưa.Trong phút giây,tôi như quên cả thực tế nghèo túng của mình,của cha mẹ.Nếu không đi Cần Thơ,lòng yêu Tổ quốc của tôi chỉ là mong manh,quanh quẩn mấy gốc tràm với con cá lóc nướng trui và vài câu hát.Phải đi xa. “Thượng phải chí.Hạ phải đáo”.Trong mấy bài báo cắt dán,tôi chú ý bài của Nguyễn Vỹ,lúc còn trẻ đã đến Bến NGự ở Huế để phỏng vấn một chí sĩ bị thực dân lên án tử hình,rồi ân xá,bị quản thúc,nghèo,sống trong chiếc thuyền bé,có mui.Sự gíup đỡ của điạ phương bị giới hạn.Ong đang ăn cơm với mắm ruốc,chuối chát,trong tuổi già. Ðâu phải ai ở xứ Huế cũng thỉnh thoảng được nếm món ăn thanh cảnh.Lúc gẵp nhà văn,cụ Phan Bội Châu ung dung ngâm nga:
-Râu mài trơ trẽn với non sông,
Thật phải mình chăng,lòng hỡi lòng,
Bấy giờ, đứa con của cụ đang giã gạo.Cụ Phan còn gợi hòan cảnh giam lỏng của mình qua câu ca dao đã có từ xưa:
-Ăn sung nằm gốc cây sung,
Lấy anh thì lấy,nằm chung không nằm!
Quả là một phương châm để sống và tranh đấu trong lòng địch.Bài báo cũ dán trong nhiều tập.Nôn nóng nhất,lúc bấy giờ tôi ao ước được qua phà,bên bờ là tả ngọn sông Hậu,về phía Sài Gòn hằng mơ ước;U Minh là đất mới,theo nghĩa là chưa khai khẩn đúng mức,xóm làng chưa thành hình,nhiều người đến vài năm rồi dời đi xứ khác.Trên nầy,có đình làng,có chùa.Nhà nghèo ở ngoại ô Cần Thơ cũng trồng cây cảnh,tạo hòn non bộ, định hình htôn xóm.
Nhờ anh bạn giới thiệu sơ qua, ông thợ máy dưới phà Cần Thơ –ông Bảy Ngân đưa tôi xuống,khỏi mua vé,cứ ở dưới phà mà ngắm cảnh,chiều về,hoặc ở tối cũng được,họ chỉ soát vé người xuống phà chớ người đi lên thì tự do. Ðến bờ sông,ngay bến phà,tôi chú ý ngôi miếu nhỏ,thờ THủy Long.Người coi lái phà ngồi trên mui cao,còn ông Bảy thì xuống hầm máy,chật chội,tối om om,bóng đèn đỏ soi mờ mờ cũng một trang thờ nhỏ,ghi chự Thủy Long.Thời đại khoa học mà con người vẫn tin sốn mạng mau rủi,sợ tai nạn? Ông Bảy Ngân giải thích từ hồi nào đã thấy bàn thờ,mình nên để vậy,ai tin thì tin,nhưng riêng ông thì tin.Bảy năm trước,một lần nọ chiếc ghe to chở củi đụng vào phà, đụng bên hông,phà suýt chìm,ban sáng. Ông Bảy lắng tai nghe tiếng kẻng hiệu lệnh do người tài công (hoa tiêu ) trên nóc phà ban xuống. Ðoạn sông Hậu nầy dài hơn 1 kilômét,ra gần giữa sông,phà chạy ngon trớn, êm đềm. Ông Bảy vụt nắm cây cần điều khiển,giảm tốc độ trước khi nghe hiệu lệnh,gần vào bờ.Hai bên là lộ xe,nhà cửa san sát,nhiều quán,tiệm bán trái cây ngon,thêm cơm,cá kho tộ,canh chua; Ðất quá tốt,chuối mọc bên nhà xanh tươi,mấy giàn khổ qua,bầu mướp tươi tốt,nước dưới rạch dâng lên,không cao không thấp,rõ ràng cây cỏ mạnh khỏe,không cần chăm sóc.Trời đổ bóng chiều, ăn khúc bánh mì dồn thịt,uống thêm ly nước hột é khá ngọt,tôi thấy xứ nầy mát mẻ,người dân vui vẻ,ham sống theo một kiểu khắc hơn ở rừng U Minh,quê tồi.Trong quán,có giăng võng,một phụ nữ luống tuổi hát ru, đứa con đang thức,trố mắt:
-Ðèn tạ đăng để trước bàn thờ,
Vặn lên nó tỏ,
Vặn xuống nó lờ...
Xuống sông hỏi cá,lên bờ hỏi chim.
Trách ai làm cho thố nọ xa tiềm,
Em xa người nghĩa mà nằm điềm chiêm bao...
Rất tiếc là không mang giấy bút để ghi lại,câu nầy ở quê tôi làm sao có được.Tôi bèn yêu cầu bà nọ hát trở lại,bà tươi cười:
-Nhớ làm gì?Cậu nghe vài lần nữa,có người khác hát thì nhớ.Câu hát là để hát chớ không phải để ghi vô cuốn sổ mà học thuộc lòng.Muốn học thì nhờ người nào hát lại.Cậu là học trò?
-Dạ,phải.Muốn ghi lại để nhớ mà làm bài sau này.
-Thì nhớ thêm câu nầy,nghe ngộ lắm! Tôi chưa hiểu hết.Nghe đâu của xứ Huế:
Cầu cao ba mươi sáu nhịp,
Em theo không kịp
Nhắn lại cùng chàng.
Cái nợ tào khang,sao chàng vội dứt?
Ðê nằm thao thức,tưởng đó với đây.
Biết khi nao cho phượng gặp bầy
Cho le gặp nhạn.
Ruột đau từng đoạn,
Gan thắt chín tầng.
Anh với em như chanh với khế,NHư Quế với gừng,
Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi...
Bóng chiều đổ xuống,tôi vội kiếu từ.Một quảng đường,một sàng khôn.Dường như dân mình chuộng ca hát,làm thơ hơn chuộng đọc sách,tiểu thuyết. Ðến mé sông,ai nấy xôn xao,chờ lên,xuống.Lục bình trôi phăng phăng từng giề to lớn. Ðến mé bãi,tôi xăn quần cho khỏi ướt,lấy hai bàn tay vốc nước,rửa mặt,lẩm bẩm:Nước Hậu Giang ngọt và mát hơn nước U Minh,nước sôn Cái Lớn.Vốc nước thứ nhì sóng sánh giữa hai bàn tay,tôi thử nhìn,không thấy chút gì dơ dáy,những hạt bụi hạt cát mà mãi về sau nầy các người làm thơ làm văn ở phía Tây Nam gọi là phù sa.Rặng bần theo bờ sông khá dài,vài chiếc xuồng câu buộc dây vào,chờ ăn cơm.Có sóng gió,nhưng lăn tăn,bình thường.Nhìn lên thượng nguồn phía Bác,phía Long Xuyên- Châu Ðốc,tôi bền vận dụng mớ kiến thức sơ đẳng,học ơỏ nhà trường và trong sách báo.Trên kia là Nam Vang,trên nữa,giáp nước Cam Bốt là Lào,Thái Lan,rồi Miến Ðiện,Trung Hoa,nguồn sông ở tận Tây Tạng,cách nơi nầy đâu cũng hơn 4 ngàn kilômét.Tây Tạng được xem là “mái nhà của cả thế gian nầy”.
Ông Bảy Ngân cười tươi hỏi tôi vui không,thấy cái gì lạ không,tôi lại hỏi:
-Ông ơi,Tây Tạng là nguồn của sông Hậu Giang nầy,xa lắm, đọc báo tôi thấy kể lại rằng...trên đó nhiều vị Phật sống,huyền bí,bùa phép rất giỏi,nhiều thầy tu đắc đạo,không sống,không chết,tín đồ đặt trong quan tài,thỉnh thoảng dở nắp ra thấy thân xác còn nguyên vẹn,da thịt khô ran,lỗ mũi thì dường như còn thở nhè nhẹ.
-Ðó là chuyện mình chưa thấy nhưng người ta kể lại thì nó cũng có “cái gì đó”.Xa xôi quá,cao nguyên Tây Tạng dính vào dãy Hy mã Lạp Sơn,cao nhất thế giới.Chuyện hoang đường nhiều lắm nhưng cũng ảnh hưởng đến vùng Hậu Giang nầy.Pháp gọi nước VIệt nam là khu vực Indochine,chịu ảnh hưởng lớn của Trung Hoa và của ấn Ðộ.Mình nên học cho rõ hơn.Mình là người Việt khôn lanh và vui vẻ với mọi thứ văn minh.
Lên bờ về nhà trọ,lại nhớ đến một ý kiến mà lúc nảy chưa dám bàn bạc vì mình còn nhỏ tuổi?Nam Bộ là đất sôi động,ngoài những loại phong tục của người Hoa,người Khơme còn thêm của người Pháp mà mình phải hứng chịu.Pháp mở trường học lộ xe nhưng ch&ung giết bao nhiêu người lương thiện,người yêu nước.
Về nhà,lại thao thức khi nhìn tờ lịch thấy năm học gần chấm dứt.Muốn mở rộng kiến thức,phải học thêm theo chương trình giáo khoa.Có vài môn má tôi thấy dị ứng,hấp thụ không dược, đó là hình học,số học,hoá học.Về địa dư (điạ lý ),tạm dùng bản đồ thế giới.Nhưng hóa học thì cần phòng thí nghiệm,kiếng hiển vi...vì nhà trường không có đủ.Phải học,phải thi đậu để lên Sài Gòn tìm việc làm,mở rộng chân trời.Nhà nghèo,học một năm trường tư như thế nầy cũng đuối sức cha mẹ rồi,tiền ở trọ thiếu trước hụt sau,tóc để dài không tiền hớt. Ðôi guốc bằng cây vông đi mãi,mỏng manh tưởng chừng có thể tét làm hai.
Phải đậu những hàng đầu! Thi tuyển vào trường,khoảng 500 đứa mà đậu hạng thứ 20 mươi thì xem như không hy vọng nào được học bổng.
Nếu ngoan ngoã học hành thì dễ quá.Nước mất,xã hội quá nhiều bất công.Là người của xứ U Minh,tôi nhớ mãi lời mẹ.Làm sao cho thiên hạ đừng khinh người đi khẩn hoang, ở vùng đất mới.Nhìn lại mấy xã lân cận ở quê,nhà dường như chẳng ai có hoàn cảnh may mắn như tôi.
Phải thi đậu,hạng cao thì đỡ tốn tiền cha mẹ.Tôi quyết định: “Nên ở Cần Thơ,dường như người nuôi trọ không khó tánh cho lắm.Tôi ăn rất ít. Ðể luyện thi chung với các bạn”.Nhưng bối cảnh xã hội không như hồi năm ngoái. Ðệ nhị thế chiến đã bùng nổ.Báo chí từ Sài Gòn đưa xuống Cần Thơ bán chạy hơn.Giới công chức qui tụ vào buổi chiều ở mấy quán bia đã thưa thớt,trông thấy.Vài người công chức già vẫn uống,mãi đến khuya.Ai nấy loan tin rằng tất cả các loại hàng tiêu dùng đều lên giá,nên mua để tích trử.Nhưng thế chiến dường như chỉ bùng nổ bên Ba lan.Những tên Hítle,Mútxôlini được nhắc nhở trên trang báo với chữ in lớn.Riêng ở nước ta,cụ thể là Sài Gòn,vài tờ báo tiến bộ bị đóng cửa và một số người yêu nước bị bắt, đày ra Côn Ðảo và Bà Rá (đâu ở Tây Ninh).Nhớ chuyện học ôn để dự thi tuyển,tôi chưa được yên tâm.Học tài thi mạng.Thi đậu cao vẫn là hay hơn thi rớt. Ðể được học bổng, để được bám chặt đất Cần Thơ nầy,vùng đất nhạy cảm.Theo chân người bạn học,tôi đi Bình Thủy rồi tò mò qua cù lao Khương BÌnh Tịnh. Ông nầy có hiệu thuốc Tây sang trọng nhất mà khi đi học,tôi chỉ dám nhìn qua.Uống thuốc tây là chuyện quá tốn kém,chẳng lẽ vào cửa hiệu của ông ta,nhìn quanh quẩn các tủ kiếng rồi trở ra.Có cây cân tự động,bước lên bàn là cây kim quây,chỉ rỏ mình nặng mấy kílô,nhưng tôi cứ ngại.Trước cửa hiệu thuốc,nhà nước dựng cây trụ cao,xinh đẹp,nhằm kỷ niệm các chiến sĩ trận vong giặc 1914-1919,chưa đầy 20 năm mà dường như chẳng ai còn nhớ.Những người Việt vô phước bị bắt lính đưa sang trời Âu,mất xác,gia đình chắc cũng còn giữ kỷ niệm mơ hồ.Vài người bạn bảo rằng: “Học thêm nữa, chưa chắc được làm quan to quan nhỏ,hoạ chăng là làm thấy giáo làng,thầy giáo tỉnh.” Ðối với tôi,làm sao giải thích với cha mẹ về tình hình thế giới. Ở Cần Thơ nầy,nạn thất nghiệp lan tràn, đạp xích lô còn khó sống.Phải đi học,có học mới yêu quê hương đúng mức được,về U Minh thì làm sao gặp được bạn tri âm như anh Hai,như ông Bảy Ngân.Và nhiều người khác nữa.
Anh Hai nói khi cùng đi bách bộ:
-Tụi thực dân rối rắm tới mức rồi,nhiều người theo cộng sản mà chúng cho rằng không nguy hiểm cho lắm,hoặc chưa nắm được bằng cớ.Từ miền khác bị đưa về đây quản thúc lỏng,kêu là “chỉ địng nơi cư trú”.Phải trình diện hằng tuần hoặc hằng tháng.Còn người nào có tiền án;bị tình nghi ở đây thì đưa qua tỉnh khác.
Ðến nhà một nhân vật mà tôi nhớ mãi, ở trọ căn nhà lá, đầu to,mắt lộ,tóc hớt ngắn, ăn nói nghiêm nghị nhưng thân mật, đó là ông quản Bồ, ở Ðức Hoà,Tân An.
Ông quản ung dung nấu loại trà xanh,trong cái siêu sắc thuốc.Rót nước, ông mời,bình đẳng,mặc dầu khác xa tuối đời và tôi là kẻ chưa có trình độ chính trị gì cả. Ông nói về cuộc Ðệ nhị thế chiến mà thực dân Pháp ở chính quốc và ở Việt Nam phải vướng vào.Trục phát-xít Ðức-Ý-Nhật đánh phe Ðồng Minh.Người yêu nước Việt Nam đứng về phe Ðồng Minh vơí Mỹ,Anh,Pháp vì phe nầy đứng về phía dân chủ,không độc tài. Ông khuyên tôi nên đọc qua mấy bài báo cũ,cái gì không rõ cứ hỏi.
Chương 3
Sau khi thi đậu vào trường công lập Cần Thơ,tôi phải về U Minh.Khó xử cho tôi và cũng là sự hoang mang cho cha mẹ.Tôi được đứng vào hạng 19 hoặc 20 gì đó,qua cuộc thi tuyển. Ðược học bổng hay không?Trên lý thuyết,chỉ 10 người đứng đầu hưởng học bổng,thêm đôi người được phân nữa học bổng.Như vậy là đã thua cuộc.Vài người lớn tuổi bảo rằng còn điều tra lại,những đứa đậu cao có thể là con nhà giàu 12 hoặc 13 thì có thể hy vọng,nhưng hạng 20 thì quá xa. Ðành trở về quê chờ xem,cho khỏi tốn tiền ở trọ.Cha mẹ cho tôi học để lấy bằng cấp làm sinh kế,chớ đâu phải học để bàn chuyện chính trị,hoặc quan sát “thiên văn địa lý”.Dè đâu,hơn thng sau,nhà trường gởi về quê tôi cư ngụ một tập hồ sơ,hỏi về gia cảnh giàu nghèo và đồng thời yêu cầu ngày tựu trường,tôi phải chuẩn bị sẵn 6 bộ quần áo bà ba trắng,mền,2 bộ Âu phục,2 cà vạt,2 đôi giày bố kiểu Bata,4 khăn lau mặt,6 khăn mù soa,vân vân...thêm nào bàn chải đánh răng,khăn tắm.Thật là quá mức,tìm đâu ra tiền? Bấy giờ,một giạ lúa (20 kílô)tương đương một mét vải dệt với bông vải;nhập từ Singapo.Cái hồ sơ học bổng của tôi gởi về quận An Biên đã gây dư luận tốt,các viên thư ký gặp hương chức làng cho rằng tôi là một “nhân tài hiếm có” của vùng U Minh nầy.Tôi nhớ mãi bầu không khí của chợ Cần Thơ sống cực mà làm mở rộng tầm nhìn.Lại xảy ra chuyện bực dọc cho cha mẹ.Sau khi đi tận tỉnh lỵ để dọ hỏi giá cả của hai đôi giày bố trắng,thêm cái rương,cái mền,cha tôi về,không chần chừ gì cả:
-Phải đem cần bộ lư và chân đèn trên bàn htờ ông bà! Sau nầy chuộc lại,tiền lời khá rể vì là tiệm của nhà nước lập ra.
Bà con dòng họ nhốn nháo lên. Ðó là món thờ cúng do ông nội tôo đã mất, để lại.Cha tôi là người giữ phần hương hoả,chớ không được xem đó là của riêng để đem cầm cố.Cha tôi,từ lâu được anh em uỷ quyền giữ hương hoả,cứ lặng thinh,hồi lâu mới trả lời:
-Ðâu phải tôi uống rượu,cờ bạc. Ðây là người dòng họ được hưởng của ông bà.Con tôi là đứa cháu nội.Chẳn glẻ giữ bộ lư hương nầy để rồi con cháu phải sống với cây tràm,cây trâm bầu,lặn hụp bắt cá lóc?Hơn nữa bà con mình có nghe gì chưa?Bộ lư ở đình làng X mới đây bị ăn trộm rinh mất.Chẳng lẽ dân làng đó bất hiếu với ông thần.Thời buổi nầy rồi!
Mấy tiếng “thời buổi nầy rồ”mà tôi chẵng rõ hết nghĩa gợi lại chuyện qua sông Hậu,trên phà và lời của bạn bè ở Cần Thơ.Chẳng lẽ ba tôi lúc nầy lại tham gia vào chuyện “quốc sự”,nhận ra một viễn cảnh nào đó,khác hẳn với lúc thực dân còn mạnh mà giấc mơ của đại đa số thanh niên trung lưu là đậu bằng cấp để làm công chức?Tôi chống chiếc xuồng nhỏ,quanh khu rừng tràm,nói là dạo quanh nhưng kỳ thật là du ngọan theo bề dài khu rừng,gọi “rừng cấm”vì nhà nước đang bảo quản vì “quyền lợi nhà nước”.Rừng có nhiều con kinh nhỏ chảy xuyên qua, đi quanh về tắt,rải rác nhiều căn chòi của những người mang lý lịch mơ hồ từ phía Cần Thơ,Long Xuyên đến tạm trú để bắt cá, đốn củi lậu thuế.Nơi ven rừng phía Nam,chổ cây xoài rừng và đìa lạn,hiểu là ao nuôi cá,lâu ngày không nạo vét lên đã cạn,hai ba chàng trai đang đào xới mô đất bỗng gọi tôi:
-Cậu ba,xin chào cậu ba!
Tôi đến gần,họ là người chòm xóm,sống với nghề bắt rắn,bắt trăn.Họ khen ngợi tôi đã đi học xa,tận Cần Thơ,làm hãnh diện cho khu rừng nầy.Tôi hỏi thì họ rỉ tai:
-Bòn vàng của vua chúa thời xưa để lại.Hy vọng tràn trề.
Quả thật,họ đã khai quật mộ mô đất khá cao,cuốc xẻng dựng vào gốc cây xoài.Nhìn xuống hồ,thấy nước đen lỏng bỏng, đất vừa xới lên còn xông mùi ẩm ướt,nồng nặc.Họ giải thích rằng những đất cao ráo khác thường ở rừng nầy thường là mồ mã của người vô danh từ ngàn năm,nào Chà Và,Mã Lai,Khơme,hoặc Việt Nam.Bằng cớ là dưới lỗ hổng mà họ vừa đào thấy có mớ tóc dài và bầy cá trê vây quanh.Cá trê ăn thịt người.Hoặc là tóc của con người,chôn lâu đời lại hóa ra cá trê như lời đồn đại?
Tôi thấy chưa tin,một cậu nói:
-Cậu ba đi học xa xứ,biết nhiều chuyện đời,vậy xin hỏi cậu biết Thiên linh chuỗi?
Dĩ nhiên,tôi biết.Lâu lắm rồi,thỉnh thoảng người nào đó nhận được lá thư,ghi vài câu cách ngôn,hoặc chuyện thất thiệt nào đó.Người nhận được phải sao y bản chánh khoảng 20 bản,rồi gởi cho người quen hoặc chưa quen.Cuối thư,bảo là ai không chịu sao y thì bị Thượng đế trừng phạt,còn như sao y thì sẽ được hưởng phước,tai qua nạn khỏi.
Tôi đáp:
-Thiên linh chuỗi mà người ta gởi đến nói chuyện gì?
Chàng trai nọ,nói giọng thật thà:
-Không biết đọc,không nhà cửa thì ai gởi cho,tôi không được biết.Một người trong xóm nói rằng trong đó chỉ ghi một câu thôi: “Ở núi Bà Ðen,Tây Ninh,ngày mùng 7 tháng giêng,có một con heo bị trời đánh,hoá ra cục đá. “Ai tin thì tin,không tin thì thôi.
Chuyện đào đất tìm kho tàng,mớ tóc trong quan tài lâu ngày hoá ra cá trê,con heo hoá đá...phải chăng là kiểu loan tin của nhóm nào đó.Tôi cười thầm.Về nhà,chợt nghe tiếng heo kêu eng éc, đúng là con heo tơ mà mẹ tôi đang nuôi đã bị nhốt trong cái giỏ tre,người lái heo khiêng nhẹ nhàng,mẹ tôi đi theo sau,lấy tay chùi nước mắt.
Ghe heo đã đi,tôi ngậm ngùi hỏi:
-Má buồn làm chi dữ vậy?
-Thà rằng nuôi đúng tạ mà bán, ít buồn hơn.Con heo nầy mới bốn tháng, đang mập,nuôi thêm vài tháng nữa thì giá cao hơn.Tội nghiệp nó cũng tội nghiệp cho má.
Phải bán con heo tơ để lo đồ đạc cho tôi đi học,gần ngày tựu trường rồi...Một hôm,ba tôi ngồi hút thuốc một mình tới nữa khuya.Tôi thức giấc, đến uống nước trà.Ba tôi nói,bình thản:
-Ba thấy cuộc đời không phải như vầy hoài.Tụi Nhật Bổn lên phía U Minh Thượng,xa lắm, đưa tiền cho dân phá rừng để trồng đu đủ dầu,nói rằng để lấy hột đu đủ chế biến dầu nhớt dùng cho máy bay.Ba hồ nghi tụi nó dọ thám rồi làm cái sân máy bay.Nghe nói hai ba thằng lính Nhật,thêm đứa làm quan Hai đi tới đi li,chụp hình.Tụi mật thám của Tây đi theo,xua đuổi không cho dân mình lại gần.
Nghe nói còn nhiều người đi theo nó,mặt mày hung tợn lắm.Nó hưá sẽ đưa tiền để phá rừng.
Nên đi Cần Thơ gấp.Tôi mong đến ngày tựu trường.Cha tôi ra tận chợ Rạch Giá,vác cái rương bằng mây,sợ tốn tiền đi xe kéo.Thái độ tư tin khiến tôi mạnh dạn hơn,dầu sao đi nữa;mình cũng đã ở Cần Thơ được gần một năm rồi.Ba tôi hãnh diện,nói chuyện với số học sinh cùng lên xe đò.Nhiều năm,cả tỉnh Rạch Giá không một ai đậu vào trường công,huống chi lại được học bổng! Phần lớn học sinh cùng đi chuyến xe với tôi là con nhà khá giả,họ học trường tư thục.Tỉnh Hà Tiên nhỏ bé,nhiều năm liên tục không một đứa nào đậu vào trường công.
Ðến Cần Thơ ngủ tại nhà mà tôi đã trọ,tôi vẫn chưa yên tâm. Ðến hôm sau,khi nạp cái hồ sơ được học bổng cho văn phòng,tôi như bị sét đánh.Chỉ được cấp phân nữa học bổng mà thôi! Sáng,tự lo ăn sáng, đến trường vào lớp,trưa được ở lại ăn cơm,tan buổi học chiều là phải về nhà ở ngoài.Viên thư ký của nhà trường mĩm cười:
-Ráng học,rồi sẽ được ở nội trú “trăm phần trăm”.Mấy đứa đậu cao lắm khi là con nhà giàu,không nhận chế độ học bổng.Chừng đó sẽ “đôn” lên.Chờ 6 thắng.
Học vời nhiều giáo sư,chia ra bộ môn rõ rệt,bài giảng toàn bằng tiếng Pháp.MỘt hai “bà đầm” trực tiếp dạy Pháp văn cho mấy lớp dệ tam, đệ tứ,hai năm chót v=chuẩn bị thi lấy bằng Trung học,gọi nôm na là bằng “đíp lôm”.Khôi hài nhất là giờ ôn bài tự do,lại cấm đọc sách chữ việt,hễ muốn thì phải trình với vị giáo sư Việt văn để xin duyệt cho phép đọc.Tôi hiểu là muốn cấm các tực sách mang tính chính trị,trực tiếp hoặc gián tiếp chống thực dân.Thỉnh thoảng,các vị giám thị cũng bắt gặp vài quyển,cảnh cáo hoặc đưa lên hội đồng kỷ luật,học sinh có thể bị đuổi,mặc dầu các sách ấy đã bán tự do ở hiệu sách ngoài chợ.
Học được một tháng,tôi được vị giáo sư Pháp văn gọi lên bục giảng để khen ngợi về bài luận văn, đại khái lấy đầu đề là Mùa gặt lúa.Tuần trước vị nầy khuyên học sinh nên tả thật,ghi lại sự kiện và tình cảm thật.Tôi đã tả vụ gặt lúa ở ven rừng,gần nhà,hồi ở U Minh.Phá rừng cấy lúa,vì vậy trong thưả ruộng còn lởm chởm những gốc cây chừa lại,cao khoảng 50 xăngtimét,trên đó sẽ treo những bó lúa vừa gặt xong gom nhóp lại.Chim trời bay lượn, đủ loại vì gần biển,dưới chân người gặt thỉnh thoảng gặp rùa,rắn,lươn đang cựa quậy.Muỗi vo ve,mặc dầu đang giữ ban ngày.Người gặt đứng cô đơn,rải rác phía xa,vài người cũng gặt với tiếng ca Vọng cổ nghe thoáng hơi buồn.Tùy ý,ai thấy mệt thì về.Cảnh tượng nầy khác với ruộng vùng Cần Thơ,nơi dân đông,năm bảy người gom lại, đứng gần mà ggặt,trông vui vẻ,tha hồ trò chuyện,kiểu vần công, đổi công. Ðể kết luận tôi cho người làm ruộng ở xứ U Minh là những “anh hùng vô danh”.
Về sử học,dạy lịch sử Pháp và Việt,nhờ đọc sách báo ngoài lớp,tôi ghi vào bài học những tình tiết rườm rà,vị giắo sư dạy sử ngạc nhiên,khen ngợi.Vị nầy đáng kính, ông Nguyễn Thượng Tư.Lúc giảng bài về Nguyễn Tri Phương nhịn ăn,không chịu cho thực dân băng bó thương tích, ông như rơm rớm nước mắt.Cũng như trường hợp Hoàng Diệu thắt cổ tự tử.
Buổi chiều,học sinh được giải trí, đá banh (bóng) trong sân to rộng của nhà trường,lại còn nơi dành cho bóng chuyền,bóng rổ.Nhưng một số đông thích âm nhạc,tập đàn hát những bản ăn Pháp phần lớn ca ngợi tình yêu trai gái của nhạc sĩ đang ăn khách là Tino Rossi.Nhiều học sinh dạo đàn măngđôlin hoặc ghita.Trong khi ấy,nhiều cậu mang đàn ghita,kiểu phím lõm để đàn Vọng cổ,có bạn tâm giao ca nghe mùi mẫn.Tên tổng giám thị,người Ấn Ðộ quốc tịch Pháp nổi danh nghiêm khắc đứng nghe,trên nguyên tắc,hắn không được quyền cấm,nhưng lời lẽ bài hát nói lên những gì hắn không hiểu;Hắn cười mỉa mai,cho đó là thứ nhạc du dương lạc hậu,yêu cầu người chơi dịch ra tiếng Pháp vài đoạn.Một học sinh nghiêm giọng:
-Ðây là nhạc dân tộc,lời lẽ lãng mạn,không dịch được rõ nghĩa vì Ðông phương khác với Tây phương.Thí dụ như Tây phương ôm nhau khiêu vũ trước đám đông,còn Ðông phương thì nhìn mây bay,nghe gío thổi mà nhớ ông bà xưa, đời vua Tự Ðức,khi chưa mất nước.
Tên giám thị hơi giận:
-Nên cẩn thận!
Anh bạn đang đàn Vọng cổ trợn mắt:
-Cha tôi là đại điền chủ,là hội đồng quản hạt của nhà nước thuộc địa Pháp, được phép sắm súng đề phòng ăn cướp,có huy chương canh nông của Pháp,huy chương Vàng của vua Bảo Ðại,huy chương Ðồng của vua Sovath Monivong nước Cam bốt.
Khi tên giám thị bẽn lẽn đi khuất,anh bạn cười giòn:
-Nó là thằng dân mất nước, ở cảng Bom Bay, Ấn Ðộ,nịnh Tây rồi qua đây làm trời.Tao nói dóc cho nó ngán chơi.
Ngồi chơi buổi chiều,tôi còn nghe chuyện vài người bạn ở lớp trên đang bí mật ra báo,làm báo bí mật thì nhất định bị đuổi.Mấy anh học cấp trên chuyền báo cho nhau,in xu xoa (thạch),chưa dám cho tụi con nít mới vô trường như bọn tôi xem.Sợ đổ bể.
Cuối niên học, được cấp học bổng trọn vẹn,tôi về quê,cha mẹ vui mừng khôn xiết.Quần áo khỏi sắm thêm.Tuy khiêm tốn nhưng mẹ tôi hăng hái bơi xuồng,xuống xóm đình,nơi quần cư quan trọng nhất của làng,khoe rằng tôi được hoạc bổng,vài năm nữa nhất định sẽ được làm thấy thông,thầy ký.Về nhà,má tôi nói trong bữa ăn:
-Nó còn nhỏ tuổi, đang đi học vậy mà bà hương chủ nói giởn rằng nếu đồng ý thì bà sẽ gả con gái cho.
Ba tôi cứ khẳng định rằng phải học “ba cái chữ nghĩa” rồi tính sau.Cỡ nầy ở đâu coi cũng “nhộn”
Nhộn là tiếng mơ hồ,khó hiểu,nhưng tôi hiểu rằng “nhộn” trong bối cảnh xã hội bấy giờ là sắp xảy ra biến cố,cũng như đời sống đang yên lành chợt xảy ra dịch tễ,như thổ tả,giết chục người trong đôi ngày,không thầy nào trị được. Ðến ven rừng dạo chơi,gặp mấy đứa thanh niên lớn tuổi hơn mời uống rượu đế,chúng nó bảo với tôi:
-Sớm muộn gì,tụi nầy cũng...làm ăn cướp!
-Súng đạn đâu?Coi chừng Tây bắt!
-Con ông cai tổng B. đứng ra lập đảng cướp,ai dám đụng. Ðó là cậu Bảy,tính chuyện ăn cướp “làm nghiã hiệp”,lất tài sản nhà giàu chia cho nhà nghèo... Ông cai tổng có súng,bọn lính kín tới đây muốn bắt ai cũng phải hỏi ổng. Ổng đi Sài Gòn thăm bà con rồi trở về,mặt mày nhăn nhó,gom vàng bạc,lớp thì đem chôn sau vườn dưà,lớp thì gởi ngoài chợ Rạch Giá.Cậu Bảy,con trai ông cai tổng đã lanh tay ăn cắp khẩu súng trường của nhà nước phát cho,giấu trên ngọn cây dừa. Ði theo cậu Bảy làm ăn cướp thì ai dám đụng tới mình.Vả lại cậu Bảy thề chỉ ăn cướp ở quận khác chớ tuyệt nhiên không khuấy phá làng mình. Ðã đánh một trận rồi,bên Giồng Riềng.Tụi nầy ăn nhậu no nê,say sưa be bét,muốn mang bịnh.
Không bao giờ đời nay mà còn những người khờ khạo đi làm nghĩa hiệp.Bằng cớ là không nghe bọn trẻ nầy nói tài sản cướp giựt được đã đem phân phát cho ai.
Về nhà,tôi đọc mấy tờ báo rách,dường như là Tiểu thuyết thứ Bảy hoặc báo chí chi đó lượm lặt từ Cần Thơ.Tôi thích và khâm phục tài năng của nhà văn Nguy-en Hồng,trong truyện ngắn nọ mô tả cảnh gia đình nghèo,ban chiều mẹ đem cái nồi ra,rang mấy hột bắp,bắp nổ tung vỏ trắng như bông,mẹ con quây quần lại mà ăn,vui vẻ lạ thường.Lại còn chuyện anh đánh xe ngựa chở khách,vất vả nhưng lạc quan,hành khách ít,nhưng đành lên xe,anh quất roi,xe lăn bánh trong cảnh hoáng hôn, “Chuyến xe cuối cùng về Ðồ Sơn.”Tiếp cận với truyện Kiều, đọc qua:
-Rằng nghe nổi trên cầm đài,
Nước non luống những lắng tai Chung kỳ
Ðon giản mà sâu sắc,14 chữ vượt lên cao, đến nơi cao nhất của tâm linh,bao quát cả không gian,thời gian.
Câu thơ thì hay,nhưng không khuây khỏa được tâm hồn tôi.Linh tính như báo trước một cơn giông tố sắp đến,một cơn giông tố cần thiết.Phải tìm một trật tự mới kiểu khác.Rừng U Minh mà ông bà cư gụ bấy lâu nay chẳng lẽ cứ mờ mịt,buổi chiều, ăn cơm tạm no rồi thì đốt lên bếp un cho tan muỗi,chờ lát nữa ngủ.Thiếu thông tin chính xác,thiếu sách báo,nếu có thì chẳng mấy ai đọc,chưa nói đến hiểu,muốn hiểu ít ra cũng biết mơ hồ về bản đồ thế giới.Giá sinh hoạt mỗi lúc mỗi cao,thêm đồng tiền càng ngày càng khó kiếm khiến ai nấy lo quanh quẩn. Ðến như dịch sốt rét đã giảm từ lâu lại bộc phát,thuốc kí ninh nếu dám mua với giá cao cũng chẳng thấy bán.
Ngày tựu trường,tôi không tha thiết cho lắm,các giáo sư như mặc xuề xòa hơn,thích nói chuyện, đôi khi, đến giờ dạy mà vẫn còn nói chuyện,riêng với bạn đồng nghiệp.
Tham ông quản Bồ, ông mừng rỡ lắm,cứ khuyên:
-Thuận lợi để chống thực dân,nhưng ngày càng khó.Em còn nhỏ quá,chưa làm gì đợc.Thấy dễ mà khó lắm.
Năm ấy,bỗng dưng mặt bằng của trường trung học Cần Thơ bị giải tỏa hết phân nửa,dời qua dãy nhà dành cho trường tiểu học nữ.Phần lớn trường trung học dành làm trại lính tập,hiểu là lính chính qui người Việt, đủ súng đạn,tập dượt đàng hoàng,do vài sĩ quan Pháp và một số sĩ quan người Việt (thường mang quốc tịch Pháp chỉ huy). Hằng tuần,họ diễu hành một buổi sáng,trông uy nghi lắm.MỘt sĩ quan Pháp cấp tá cưỡi ngựa,cầm gươm dẫn đầu,lính đi rập ràng theo tiếng kèn đồng.Theo sau,có vài khẩu trọng pháo.Quả là thực dân Pháp còn mạnh,họ muốn thị uy tại Cần Thơ,thủ phủ miền Tây Nam Bộ.Học sinh mãi mê nhìn xem diễu binh,quên chuyện học hành.
Nữ học sinh tiểu học (ở ngoại trú )học ở dãy sát bên.Hôm nọ,học sinh tiểu học ra chơinxếp hàng hai,trông thơ mộng lắm. Ði chân đất, áo bà ba trắng,quần đen.Vừa đi ra khỏi lớp,vừa đọc bài thơ rập ràng,ngân nga như bài dân ca:
-Gió mây đuổi giấc mơ màng,
Tỉnh ra thấy ánh trăng vàng bên chăn.
Trước cửa sổ đầy sân những bóng,
Cành lá đen lay động dật dờ,
Một cơn gió vội vàng qua,
Hương bay ngào ngạt mấy tờ chuối xanh.
Gió lay động bức mành vắng vẻ,
Muỗi bên màn se sẽ than thân.
Sâu tường rủ rỉ âm thầm,
Nối muôn đêm,một tiếng ân hận dài.
Dế chân cỏ xiết mài bóng tối,
Bờ lau xa quốc gọi buồn theo,
Trời khuya rạng rỡ, đìu hiu
Thoáng nghe lọt tiếng sáo diều trong trăng!
Nghe hàng chục lần,tôi nhớ mãi,mỗi lần nghe càng thấy ấm áp,tự tin.Mô tả cảnh đồng quê đâu ở miền đồng bằng sông Hồng nhưng quá thân thuộc,không xa lạ cho lắm mà lại giới thiệu được bối cảnh thơ mộng của Việt Nam cũng như của Ðông Nam Á nhiệt đới.Có mặt đủ loại côn trùng vô ích như muỗi,dế,ssâu.Cách diễn đạt như khó hiểu “sâu tường”, “dế siết mài bóng tối” nhưng cần gì thắc mắc để phân tích,hơi thở của thơ bàng bạc trong môi trường, ăn trực tiếp qua da thịt,vào xương máu,buồn buồn như nổi “ân hận dài”.Các cô học sinh,giáo viên vào giờ ấy chắc không lý luận như tôi để hiểu,thả hồn vào thơ Việt Nam là đủ rồi. Ðến nay tôi còn nhớ,chắc sai lệch vài chữ nhưng các cô đã 70 tuổi hơn,nếu còn sống chắc cũng nhớ thấp thoáng như tàu lá chuối khô còn vương vấn mấy giọt mưa đầu mùa,lúc còn xanh non.Sau nầy, được biết là thơ của Thế Lữ,trong Mấy vần thơ.Dạo ấy để mị dân,Nha Học chính Ðông Pháp bày việc cải cách chương trình Việt văn.Nhưng trễ quá rồi,cũng như để tác động chính trị cho dân Việt và giới học sinh, đặt thêm môn học Văn hoá Việt Nam,dịp cho học giả Ðào Duy Anh biên soạn quyển Việt Nam văn hoá sử cương, đến nay vẫn còn gia trị,về cơ bản.
Vào lớp,tôi ngồi học cầm chừng,cứ chờ ngày chủ nhật xin phép ra chơi, ăn cơm ngoài cho đến 8 giờ tối mới vào trường. Ði thăm ông Bảy Ngân dưới phà,rồi thăm ông quản Bồ người bị quản thúc.Dường như vì bệnh già, ông tránh tiếp chuyện một cách khó hiểu.
Lại đọc báo lén,trong trường cấm đọc báo.Hay tin cụ Phan Bội Châu đã mất,tin tức đăng vài hàng nhưng may thay,có kèm bài thơ chót của ông,nhiều hạc sinh chép chuyền nhau, đọc tới lui đến thuộc lòng: “Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ.Thiên hạ tùy nhân bất thức quân?Bảy mươi tư tuổi trót phong trần...Nay đang lúc tử thần chờ trước cửa.Có vài ghi nhớ về sau.CHúc phường hậu tử tiến mau.”Phường hậu tử gồm người trẻ,trong đó có học sinh.Lại còn lời cụ Phan phúng điếu lấy mình: “Thiên hổ nhiên, địa hồ nhiên,tử dĩ đồ hư...tích hung trung mai Khổng Mạnh”.Trời làm sao, đất làm sao,chết luống đã phần,dưới đất tiếc vùi lòng Khổng Mạnh! Nghe qua,thì hiểu,nhưng làm sao hiểu hết tấm lòng của người chí sĩ quá cố.Mãn cuộc đời bôn ba,còn được mấy lời. Không ai đọc lớn,chỉ đọc thầm hoặc lẩm bẩm cho mình nghe.Nét chữ in đen đúa,thẩm thấu vào tâm chức của một thanh niên gầy yếu mới 14 tuổi là tôi.Quên làm sao được!
Nếu tôi không lầm thì năm ấy bên Pháp thống chế Pête đã được Ðức phát xít dựng lên,tiêu biểu cho nhóm đầu hàng. Ở Ðông Dương,phe đầu hàng Nhật cũng thắng thế.Lại có phong trào Quốc Gia phục hưng,Pháp Việt phục hưng,nhằm đề cao tinh thần “quốc gia thuần túy” mà tán thành mạnh nhất là giới điền chủ lớn tuổi,công chức, đốc phủ sứ.Nói ra dông dài,làm phiền lòng giới trẻ “sống vội”.Gương Nguyễn Ánh cầu viện Pháp hồi cuối thế kỷ thứ 18 được nêu lên.Tội nghiệp cho ông Phan Thanh Giản.Trường trung học Cần Thơ được đổi là phan Thanh Giảng (có chữ G)với buổi lễ tổ chức long trọng tại sân trường,với những bài diễn văn,giả như nước Việt Nam sắp sửa được ban bố độc lập.Những màn trình diễn thể dục trở thành thời thượng.Quần cụt xanh, Áo sơ mi trắng,giày bố trắng như một kiểu dân chủ bình đẳng,không phân biệt giàu nghèo. Ðến như ông Á-lịch-sơn Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes)bày ra chữ quốc ngữ,La tinh hóa,cũng đề cao là kẻ đồng loã với bọn phát-xít! Nhưng che giấu làm sao được.Thực dân tự lột trần,còn hơn lột mặt nạ,với cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa tháng 11 năm1940.Líng cảnh sát đi đầy đường,tuần tiểu gắt gao nhât& là về đêm,cũng về đêm,các giám thị theo dõi học sinh nội trú,khuyên nên đi ngủ sớm, đóng cửa sổ kín,không nên nhìn xuống đường phố.Chuyện gì xảy ra đây?Vài hôm sau,vừa thức dậynhọc sinh được khuyến cáo là không nên dụm lại trò chuyện,cứ tập thể dục, đá bóng,tắm rửa sơ sài, ăn buổi sáng.Vài học sinh đi cầu vệ sinh (bố trí sát tường rào) vội vã đến bên tường nhặt và đọc những mảnh giấy in nét mực khá rõ,kiểu in phức bản với mực tím đậm viết trên lớp xu xoa (thạch).Lính cảnh sát từ ngoài đường vào đến lớp học, đứng sát cửa lớp trông vào,dáo dác.Viên hiệu trưởng đi tơi lui,lanh lẹ.Các giáo sư thì dụm năm dụm ba,nét mặt nghiêm nghị.Cảnh sát và giám thị ra lệnh:
-Ai thấy giấy gì khổ nhỏ,có in chữ thì đe nộp ngay cho văn phòng! Dường như vài học sinh đã nộp.Một giáo sư người Việt nói với đồng nghiệp rằng đã thấy truyền đơn của Ðảng Cộng sản rải trước phòng hiệu trưởng.
Vào lớp,học trò im lặng,lát sau,viên chức “chạy giấy”(phanton,lonton) đến từng lớp, đưa tờ châu tri mà giáo sư đọc riêng rồi tóm tắt rằng:Ai lưu trữ truey-én đơn thì bị đuổi,với hậu quả không đo lường trước được.
Nghe giảng bài lấy lệ,học trò nhìn ra cửa sổ,lính tập người Việt từng tập dượt hồi mấy tháng trước ngồi đầy xe ôtô.TRường trung học đã trở thành một trại lính,bây giờ mới thấy rõ nét.Buổi chiều,học sinh cũng đá bóng, đánh bóng chuyền nhưng uể oải.Tại sao không cho học sinh nghỉ học cho yên ổn? Ðến ngày chủ nhật,phần lớn xin ra ngoài,trọn ngày,8 giờ tối trở vào trường.Dân chợ phố cũng ăn uống,nhưng dụm lại từng bàn,có lẽ để thông báo với nhau chuyện,gì đã xảy ra.Ngồi ăn gói xôi một mình trong quán,tôi thèm cà phê đen.Không thấy mùi vị gì cả. Ðến thăm mấy “đàn anh” để hỏi han tình hình chăng?quá nguy hiểm cho các vị ấy. Ði rảo xem mấu bàn bida,thấy trống vắng,chờ một anh bạn học rủ ren.
Ngôi nhà việc Tân An là kiểu ủy ban thị xã,có lầu và rộng.Dân chúng qui tụ khá đông,nhưng không được đến gần phía mặt tiền.Hai chiếc xe nhà binh đậu từ bao giờ,trên xe nào heo,gà,vịt,những món mà bọn lính cướp giựt lúc đàn áp.Cậy mình là học sinh trường trung học,mặc đồng phục trắng,thêm phù hiệu thêu 2 chữ C.C (collège de Cần Thơ),hai đứa tôi bước chậm rãi qua bên đường,sát mấy chiếc xe nhà binh.Mấy bánh xe quả thật đã cán trên máu thịt của người khởi nghĩa,còn mấy sợi dây khá dài cũng dính từng khúc,máu đông lại,trổ ra màu đen;Hàng chục tên lính nai nịt gọn gàng,súng gom lại dựng đứng, đang ăn bánh mì.Anh bạn tôi hỏi vu vơ mấy chú lính:
-Bắn được chừng mấy người?
Một người lính mang quân hàm ở cánh tay cằn nhằn:
-Hỏi chi vậy?Mệt thấy mẹ.Hai đêm rồi không ngủ được.
-Tại sao bắn dân mình?
-Hỏi chi vậy?Mấy ông xáp vô, đốt dinh chủ quận,giết lính mã tà.Bắn chỉ thiên mấy lần mà họ cứ ào tới.Diễn thuyết tại chợ,có một cô gái đứng trên cái ghế cao kêu gọi “tiêu diệt thực dân”.Dân đang nhóm chợ đã tản lạc nhưng cô ta diễn thưyết hoài,không còn ai nghe mà cứ rống cổ kêu gọi nầy nọ.Bắn mấy phát không biết chết cô ta hay không?
Bạn tôi nhìn mấy viên hạ sĩ Pháp đang hút thuốc:
-Ô- là-la!
Bọn Pháp khoát tay xua đuổi.Nhưng bạn tôi vẫn ung dung:
-Très bien.Très bien! (Tốt lắm.Giỏi lắm)
Tối đến,vào phòng ngủ công cộng của bọn học sinh nội trú,,tôi thấy ai nấy như trầm lặng,nói chuyện khẽ.Còn chừng mươi phút nữa đến giờ tắt đèn ngủ,tôi hỏi một người bạn,kỳ kèo mượn cho bằng được tờ truyền đơn mà hôm trước tôi đọc quá nhanh.
Vào cầu vệ sinh,có đèn sáng. Ở gốc tờ truyền đơn,vẽ sơ sài một đóa hoa,vài chiếc lá. “Hởi các bạn học sinh,những đóa hoa của dân tộc!” Lại phân tích tình hình thế giới,khó hiểu quá.Có nhắc đến tinh thần tranh đấu đời bà Trưng,bà Triệu...Kết thúc lại,kêu gọi toàn thể đồng bào nổi dậy với lời chào quyết thắng;Rồi một thời gian ngắn,lại nghe tin,do các bạn ngoại trú bảo là sẽ xử tử công khai vụ Hòn Khoai ở mũi Cà Mau. Ðã giết được tên quản đốc ngọn Hải Ðăng.Người cầm đầu khởi nghĩa là thầy giáo Phan Ngọc Hiển bị bắt,sẽ xử tử,cho dân chúng xem.Hòn Khoai thuộc về cực Nam,liên quan về khu vực an ninh với Cần Thơ.Hôm ấy,như là ngày chủ nhật,một số học sinh nội trú xin ra trường chơi.Tôi và vài người bạn đến chứng kiến.Vào lúc hừng sáng, đồng bào qui tụ khắ đông.Tôi nhớ là pháp trường dựng ở sân vận động tỉnh.Ráng chen vào nhưng khó chen.Thấy phía trước khá đông người,có đàn bà, ông lão, đoán chừng là thân nhân của tử tội.Lát sau,xe ôtô đưa tới ba người,bị còng tay,dường như đã bịt mắt sẵn.Buộc vào ba cây trụ.Các tội nhân đi chậm rãi,tỉnh táo.Lính sắp hàng,bồng súng lên.Một sĩ quan Pháp rút gươm hô khẩu lệnh.Súng nổ,tội nhân ngã gục,họ được hưởng thêm phát súng lục “ân huệ”. Ðồng bào từ từ về,nói chuyện rì rào.Có người bảo thầy giáo Phan Ngọc HIển là người đứng giữa,tại pháp trường.Người khác cằn nhằn – đa số là vậy – nói khẻ và chửi nhanh,mơ hồ với hai tiếng Ð.m: “Tụi nó giết dân mình.”Quả thật,suốt ngày ấy, đi dạo phố,vào quán cơm bình dân,toàn là tiếng cằn nhằn,than phiền.Chẳng nghe ai nói tiếng nào nhìn nhận thực dân đã làm một chuyện “công bình”.Một số người khác thì thủ phận, ở nhà với vợ con và thường ngăn cản không cho con cái đi xem,e gặp chuyện bất trắc. Ở bót Hình cảnh lưu động, đặc trách về an ninh chính trị miền Tây Nam Bộ,nhiều chuyến xe bít bùng chở người để điều tra,từ khám Cần Thơ đưa đến. “Lời chào khởi nghĩa” trong tờ truyền đơn đã là hiện thực,là bài học lớn cho tôi.Bấy lâu,tận nơi xa xôi của Tổ quốc ta,lòng yêu nước của người dân quê, đa số thất học,chỉ dựa vào thần tượng Nguyễn Trung Trực,nay có thần tượng cụ thể là Phan Ngọc Hiền.Yêu nước nào phải là đọc sách nghiên cứu suông.Không thể dựa vào tư liệu mà chê khen.Không thể lý luận khô khan,khen ba điều,chê bảy điều,kiểu “chánh khách xa-lông”.Phải hội nhập.
Một anh bạn cùng lớp với tôi đã “hãnh diện”hôm vị giáo sư Pháp văn ra đầu bài đại khái: “Lớn lên,anh sẽ chọn nghề gì?”.Phần lớn theo kiểu sáo mòn,cho qua buổi,làm bài với sự lựa chọn hợp ý vị giáo sư,sẽ làm thợ mộc để xây nhà cửa,sẽ làm ruộng,nước Việt Nam sẽ trở thành khu vực nhiều lúa nhất thế giới,ao ước làm y tá để trị bịnh cho người nghèo ở chốn rừng sâu nước độc...Nhưng anh bạn của tôi lại viết một bài gây sửng sốt cho cả lớp học.Anh bảo rằng mình là con nhà giàu,tuy kém hơn giới “công tử Bạc liêu”nhưng muốn gì thì làm được nấy! Lớn lên,không cần bằng cấp,học vị,anh sẽ đi chơi,với chiếc ô-tô và anh tài xế.Anh đã biết hút thuốc thấy vui và ngày chủ nhật,anh cũng uống rượu bia.Anh sẽ trở thành điền chủ lớn,thừa hưởng gia tài của cha mẹ.Sẽ dạo chơi ra Huế, đi Hà Nội,xem điện Ăng-co rồi qua Pháp cưới vợ người Pháp,một cô tài tử điện ảnh,rồi ăn chơi,làm chủ một tờ nhật báo lớn bên Pháp để hưởng cái tự do dân chủ ở xứ đã phá ngục Bátti năm 1789.
Anh bạn cũng khen ngợi bọn lính Pháp,khi thấy mấy chiếc xe quân đội đi đàn áp ở Tam Bình về,với gà vịt,heo!
Vị giáo sư tóm tắt bài làm của bạn tôi,giọng mỉa mai.Học sinh lúc đầu còn che miệng,nhưng đến phần chót thì cười ầm lên và vị giáo sư Pháp văn cũng cười,lắc đầu.Lúc ấy,tình cờ viên hiệu trưởng đi ngang,ghé lại.Giáo sư ra sát cửa,nói qua lại vài câu rồi cười.Vào lớp vị giáo sư tuyên bố,giọng khá to:
-Gần như lạc đề! Nhiều điều tưởng tượng điên khùng! Nam Kỳ thuộc địa của Pháp chứ không phải là nước Pháp.
Anh bạn của tôi cười.Giáo sư trả lại bài tác văn đã làm.Anh bạn như không chú ý,về chỗ ngồi với bàn tay không.
Lễ Nôen năm ấy,tôi nhớ rõ,nhà trường ra lệnh cho học sinh nội trú không được về nhà nghĩ dài hạn.Họ phải ở lại nhà trường?Lệnh nầy áp dụng gắt gao cho những ai quê quán ở Vĩnh Long,Cần Thơ (Cầu Kè,Trà Ôn ),chợ mới (Long Xuyên ),Cao Lãnh (Sa Ðéc ).Ai cũng hiểu đó là những khu vực đã xảy ra khởi nghĩa,dân chúng bị giết,nhà cửa bị đốt quá nhiều.Cũng có nghĩa là những nơi mà quân khởi nghĩa đã đạt vài thắng lợi,công sở bị đốt cháy, đường sá,cầu cống bị hư hỏng.Rồi lại có tin vùng chợ Giữa (Vĩnh Kim) thuộc Mỹ Tho bị máy bay oanh tạc,lúc đang nhóm.Học sinh nhìn nhau,bàn tán.Nghỉ học nhưng vẫn vào lớp riêng để ôn bài vở.Tha hồ đọc tiểu thuyết,sách báo,các giám thị đi tới lui cầm chừng.Buổi chiều,ra khỏi lớp,lại rộ lên phong trào đàn ca.Bản vọng cổ trổi lên,nhiều học sinh tập dượtnhòa tấu.Bản Vọng cổ quả là hợp thời,với nổi buồn sâu lắng.Buồn mà không làm ai rơi nước mắt.
Thầy giáo Phan Ngọc HIển,người lãnh đạo khởi nghĩa ở Hòn Khoai bị xử tại Cần Thơ.Hình ảnh ấy,tên tuổi ấy lần hồi trở thành trừu tượng,khái quát. Ðầu đội trời,chân đạp đất là vậy.Rồi với Cách mạng Tháng Tám năm 1945,trở thành biểu tượng cao cả,trở thành một nhân cách lớn mà những người không biết chủ nghĩa cộng sản cũng nhìn nhận trong thâm tâm,lắm khi không nói ra,là có tư cách,có nhân cách.Sau ngày giải phóng 1975,cán bộ ta cố sưu tầm tư liệu, phát hiện thêm cho thế hệ sau biết lúc sinh thời,thầy giáo Phan Ngọc Hiển đã hăng hái viết báo,bênh vực quyền lợi của người dân mất nước.
Kháng Pháp rồi chống Mỹ,bao nhiêu chiến sĩ xuất hiện với tầm vóc ngày càng rộng lớn nhưng chuyện thầy giáo Phan Ngọc Hiển vẫn còn âm ỉ trong tâm tư người địa phương với nhiều chi tiết dễ gây xúc động.Mới đây,cuối năm 2000,trong cuộc thi truyện ngắn,tiểu thuyết(do NXB Trẻ và Hội Nhà Văn TP.HCM tổ chức),một tập truyện nhan đề Ngọn Ðèn Không Tắt của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư đoạt giải nhất.Ngọn đèn không tắt kể lại chuyện của thầy giáo ở Hòn do một nữ sĩ trẻ thuộc thế hệ sau ngày giải phóng 1975.Cô kể một cách hồn nhiên,như đứa cháu nội nhắc nhở kỷ niệm xưa,gọi thầy giáo là Thầy,không có tên Phan Ngọc Hiển kèm theo,vì kính nể,vì chẳng lầm lẩn với ai khác,vào bối cảnh xưa.Không phải tất cả dân dự buổi nói chuyện kỷ niệm khởi nghĩa,nhưng có đủ lứa tuổi tham dự.Người trong cuộc đã chết,người nghe trực tiếp thời ấy cũng chết vì quá già.Thế hệ trẻ chỉ mò mẫm,ráp nối với đôi chi tiết sống động,gây bâng khuâng.Khi khởi nghĩa thành công trên đảo mà Pháp đặt ngọn hải đăng,Thầy rút lui và căn dặn mấy người Việt làm công ở đảo phải giữ ngọn hải đăng, đừng cho tắt.Về kỷ thuật bạo động,tôi suy luận,giữ cho hải đăng còn cháy để quân Pháp khi nhìn ra biển,ngỡ rằng ngoài đảo không có gì xảy ra.Nhưng ánh sáng của ngọn đèn ấy không bao giờ tắt lại là niềm tin mãnh liệt mãi đến mai sau.
Vài anh bạn lúc rảnh rang lại thích ca tài tử và có sáng kiến đem bài Tựa truyện Kiều chuyển ra lời Vọng cổ,hát nghêu ngao.Trong Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm đã trích bài tực nầy,Chu Mạnh Trinh đặt ra, Ðoàn quì dịch:
-Than ôi,một bước phong trần,mấy phen chìm nổi,trời tình mờ mịt,biển hận mênh mông...Hỡi ôi,hồn còn biết hay chăng,bóng hoàn bội tưởng ra vào nơi Lạc phố.Hiểu là Thúy Kiều,người đẹp đeo ngọc đã lên cõi tiên,bất hủ.
Buổi sáng nọ,trước giờ tập thể dục,viên hiệu trưởng ra lịnh tập hộp học sinh tại sân lớn.Giới thiệu vài sinh viên Ðại học Hà Nội vào,phổ biến bài hát mới,lời tiếng Pháp,(sau này dịch là Sinh viên hành khúc hoặc Tiếng gọi sinh viên rồi hỡi ôi,trở thành quốc ca của thời Diệm, đổi lời ca chút ít).Trong số sinh viên Hà Nội đến trường Phan Thanh GIản,tôi nghe giới thiệu nhạc sĩ Lưu Hữu Phước,sinh quán Ô Môn,tỉnh Cần Thơ, đã học trường Cần Thơ nầy, đang học Ðại Học Hà NỘi.Ngoài ra còn đôi người nữa,tôi không nhớ.Lại nói thêm rằng Lư Hữu Phước là học sinh ưu tú nay về thăm trường cũ.Lưu Hữu Phước hát, đánh nhịp cho học sinh hát theo.Bài nầy gây phấn khởi lạ lùng,học sinh được phân phát một người một bản để sau nầy sử dụng.
Một sự kiện lịch sử đối với tôi là đón tiếp vua Bảo Ðại,do chánh quyền Pháp ở Cần Thơ tổ chức.Học sinh đóng vai chủ động,múa điệu thể dục nhịp nhàng,cầm cây gậy tròn,sơn màu cờ tam sắc,quơ qua quơ lại,nghiêng mình,quì gối, đại khái kiểu thể dục nhịp điệu của thiếu nữ ngày nay.Vua và Hoàng hậu đến,ai nấy phấn khởi,như dành cho thiên cảm vì tự trong tiềm thức,mình là nước mấy ngàn năm văn hiến mà không có ông vua thì vô duyên quá! Lính mã tà xếp hàng rào danh dự chờ sẵn.Dân ngoài đường,ngoài cổng ung dung đứng xem,chắp hai tay sau mông.Vài cụ già khăn đen áo dài,che dù đến,chắp tay xá khi vua đi ngang nhưng động tác ấy xem như lạ.Vua còn trẻ,mập mạp,mặc hoàng phục màu vàng,khăn vàng.Nam Phương hoàng hậu theo sau,bén gót.Cả hai ngồi xuống hàng ghế đầu,bên cạnh quan Pháp.Lại có người mặc áo xanh,khăn xếp,có lẽ là Phạm Quỳnh.Vua không nói gì cả,mĩm cười,nhìn thẳng.Hoàng hậu cầm cây quạt,xoè ra che miệng,nghiêm nghị nhưng trông như vui.Nói chung,dư luận cho rằng bà Nam Phương mặt mày trông “phúc hậu”,xứng đáng hơn... ông vua.Dụng ý của thực dân và của bọn quân nhân Nhật đang lộng hành là muốn tạo dư luận về kỷ cương của “quốc gia”.Dân đứng phía xa cứ dùng tay chỉ chỏ,phải chăng nhà vua như thấy bực bội?Quả thật,vua chỉ là khách,xứ nầy là thuộc địa Pháp, đến xem vì tò mò. Ðọc báo thấy nước An Nam buổi ấy có bản Ðăng đàn cung,một kiểu quốc thiều nhưng nhạc ấy có trổi lên hay không,chẳng ai biết! Vài huấn luyện viên thể thao,do Pháp đào tạo ở Phan Thiết đưa về đã trình diễn,sắp hình Kim tự tháp,lớp dưới tám người, đứng trên vai họ là 6,là 4,là 2 người. Ðến những thanh nữ mặc quần ngắn,sơ mi ngắn,diễu hành rập ràng,rồi thiếu nhi.Thực dân đang suy đồi,cố đàn áp cuộc khởi nghĩa,dường như bỗng dưng còn dạt dào sức sống! Hằng tuần,học sinh diễu hành trên đường phố Cần Thơ,ca ngợi thống chế Pête (Pétain),Thống chế nầy thắng Ðức hồi Ðệ nhất thế chiến (1914-1918)với trận vécđon lừng danh lại chịu đầu hàng quân Ðức qua trận chiến vừa rồi,ngoan ngoãn làm tay sai.Nhưng cố giữ thể diện qua lời ăn tiếng nói:Nước Pháp cũng như nước Việt,thuộc địa Pháp,cần thức tỉnh,phục hưng luân lý quốc gia để cầu mong giữ được nước.Thanh niên nam nữ diễu hành khắp đường phố, đi rập ràng,phô bày thể lực.Hát rằng: “Ngài thống chế ơi,chúng con có mặt đây,trước mặt ngài là người đang cứu vãn nước Pháp.Xin thề theo chân ngài để phục vụ Tổ quốc”.Lại còn bài tưới trẻ hơn:Một đóa hoa tươi cài trên nón,một bài hát nở trên môi.Một con tim vui vẻ và thành thật.Với bao nhiêu điều kiện cơ bản ấy,chúng ta có thể tiến tới nơi xa vời nhấtcủa địa cầu nầy.
Lại còn sự động viên khéo léo, đánh vào bản năng hiếu chiến như thời còn là bộ lạc,chưa văn minh.Thanh niên lực lưỡng xếp hàng chừng mười chàng,viên trưởng toán chợt la lớn bằng hai tiếng Pháp: “Chú ý.Chuẩn bị xông trận!” Ðoàn thanh niên lập tức rùng hai gối cho thấp,hai bàn tay nắm chặt,như hạ quyết tâm;Rồi cả bọn la lớn,rập ràng:
-Pi,Ha,Hi,
-Pi,Sơmi,Ladam...
Phải chăng đây là tiếng động viên của bộ lạc nào ở châu Phi,thời tiền sử.Mãi đến nay, đọc sơ qua vài quyển sách về văn minh cổ,tôi vẫn không hiểu.Muốn hỏi,hỏi ai bây giờ?
Lại còn những cuộc thi khá ngoạn mục,gọi chạy Việt dã (cross country).Họ chạy tắt theo một lộ trình mơ hồ,chỉ biết nơi xuất phát và điểm đến.Ai đến trước thì thắng giải.Gay go lắm.Chạy băng ngang qua vùng đất hoang,nơi có đường sá,nơi sình lầy,vượt chướng ngại vật,lắm khi phải băng qua vũng bùn đầy gai góc,bụi rậm.Kẻ thắng cũng như kẻ bại khi đến đích được reo hò,nhưng mình mẩy họ ướt mem,lem luốc.
Kiểu tập dượt quân sự chăng? Ðể khi hữu sự thì đánh giặc. Ðánh cho ai,vì mục đích gì? Ðáng chú ý là phong trào nầy khá hấp dẫn đối với dân thành thị đang có khoảng trống tâm hồn.Người xem như thích thú.Nhưng cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm trước còn đó,với những chiếc xe lấm máu,với người bị bắt,xỏ nhượng, đưa lên Sài Gòn,nhốt dưới hầm xà lan,chờ đưa ra Côn Ðảo.Những thường dân bị bắn giết,tra tấn dã man.Khám đường chật chội.Sau nầy được biết thêm ở Cao Lãnh, ở Cai Lậy xảy ra sự đàn áp bắt bớ khôn tả xiết,nhất là Cai Lậy với đốc phủ Tâm người “quốc gia”cũng ghê tởm,vượt mức tưởng tượng,gọi hắn là “con hùm xám”.Nhộn nhịp ở học đường và cơ quan là phong trào “khỏe để phụng sự”, “Ðoàn kết và mạnh khỏe về thể chất để phụng sự”?.Nhưng ai đoàn kết với ai? Mạnh khỏe để đi lính,phụng sự cái gì?Phải chăng là cho thực dân Pháp đã lừng khừng, đầu hàng Nhật.Singapo một cửa khẩu và căn cứ hải quân,không quân của Anh từ lâu đã lọt vào tay Nhật,Nhật thảo kế hoạch lập khối Ðại Ðông Á,ra báo chữ Việt,lại có bài ca đại khái với lời lẽ “Ta là người Việt Nam... Á TẾ Á”. Á Tế Á là Á châu,Anh gọi là Asia,viết theo chữ Hán.Lại có Nghĩa sĩ đảng do người Nhật thành lập,thủ lãnh ở Cần Thơ là người Việt với người đẹp luôn luôn đi bên cạnh.Vài người Nhật mang gươm,với quân hàm,theo sau là mươi người Việt và một vài lính Nhật mà thiên hạ bảo đó là người Trung Hoa bị bắt đi lính ở Mãn Châu,hoặc người Mông Cổ (?).Lại đồn rằng mấy người nầy thuộc đảng HắcLong có quyền tiền trảm hậu tấu (?).Thanh niên cứ hát, đi đều bước,thêm số thanh nữ đẹp và khỏe. Ảnh thống chế Pêtain biểu tượng của nước Pháp “phục hưng” được trưng bày khắp nơi.Về mặt nổi,bức tranh xã hội như sôi động,nam nữ đang tuổi dậy thì say sưa với lối suy nghĩ mới;phải đẹp,mạnh khỏe về thể xác,giỏi về thể thao,những chuyện lớn lao của cả nước thì đã có các bực lão thành,các vị chính khách lo rồi.Nên tuân thủ, đừng bày ra lý luận viễn vông.Nhưng hỡi ôi,ai cũng thấy đó chỉ là bề mặt giả tạo,mỏng manh,lòe loẹt như bó hoa chưng bày trong bình đã nứt trong căn nhà đang phá sản.Ai nấy lo toan,nhưng chưa biết lo toan chuyện gì?Nhất định sắp có việc lớn xảy ra,không tránh được.Dưới biển,có những tảng băng chìm,to tướng đang trôi lờ đờ.Trên mặt biển,chim hải âu bay lượn nhưng sự yên lặng rõ ràng là giả tạo.Thối nát từ cốt lõi.Trong vở kịch của Sếchpia,dường như nhan đề là Hămlét,một nhân vật đã thốt câu lừng danh: “Có mùi gì thối rữa đang bốc lên từ vương quốc Ðan mạch nầy”. ÐẾn như thơ Lục Vân Tiên cũng được đề cao:Trung hiếu và tiết hạnh được nhìn qua khía cặnh là ngoan ngoãn,sống bám theo hình thức cổ truyền.Trung với nước Pháp,nghe lời nước Pháp đang đầu hàng; ÐẾn như ca dao,ngạn ngữ của Pháp và Việt cũng được gom góp,tuyển chọn,chứng minh rằng văn hoá Việt và Pháp rất tương đồng,siêng năng,ngoan ngoãn,an phận,tin vào luật quả báo.NHưng lớp vỏ quảng cáo ấy quá mong manh.Bối cảnh lịch sử đã khác hẳn.Bản Vọng cổ xem như thôn dã,chữ nghĩa mơ hồ,xa thực tế nhưng chứng minh sự trong sáng của văn hoá Việt.Kinh nghiệm nầy,tôi thấm nhuần được nhờ xem qua Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân.Văn nghệ là sản phẩm đa dạng.Trong lúc bầu không khí nóng bỏng,nếu khó tánh ta sẽ đánh giá đây là sản phẩm vọ tích sự,cầu an,thậm chí gây tác động tiêu cực,ru ngủ...NHưng nghệ thuật,cụ thể là quyển Thi Nhân Việt Nam theo tôi thấy,lúc bấy giờ quả thật là cần thiết,với mặt chìm,tiềm ẩn của nó.Nó chứng minh rằng người Việt Nam, đã triển khai tài năng của người xưa để lại,qua ca dao,qua chuyện Kiều.Thi Nhân của thề hệ mới chịu khó,chịu vấp váp để cạnh tranh nhau,theo kiểu cạnh tranh lành mạnh;Thử đọc lại vài tuyển tập thơ ca của cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20,ta gặp nào thơ Ðường luật,ca trù,kiểu văn chương thù tạc,lời lẽ công phu,nắn nót, đời sau chỉ nhớ đôi mươi bài hay.Thế kỷ 20 là thời kỳ mở tung với ảnh hưởng sâu đậm của Tây Phương, đẵc biệt là văn hoá Pháp,không rei-ng về thơ ca mà cả về kiến trúc, âm nhạc,hội họa.
-Ngập ngừng mép núi quanh co,
Lưng đèo quán dựng,mưa lò mái ngang.
Vi vu gió hút nẻo vàng,
Một trời thu rộng,mấy hàng mây nao.
Nghe man mác,sâu láng,dễ hiểu,rất Việt Nam.
-Lớp lớp mây nao đùng núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ,bóng chiều sa.(Huy Cận)
Hoặc:
Lời kỹ nữ:
Xao xác tiếng gà
Tiếng ngà lạnh buốt
Mắt run mờ,kỹ nữ thấy sông trôi.
-Du khách đi,
Du khách đã đi rồi.(Xuân Diệu)
Phải hội nhậpvới trào lưu mới,thời đại của phi cơ, điện thoại,tàu chiến.
Tôi đã hiểu tại sao lúc gạo châu củi quế mà Thi Nhân Việt Nam bán giá cao đã thu hút độc giả.Một cuộc tính sổ của giai đoạn thực dân.Tôi nhớ ở trường Trung học Cần Thơ học sinh chỉ mua chừng mưoi cuốn,chuyền tay nhau mà đọc. Ðọc rồi chép.Lứa trẻ luôn luôn lãng mạng,hâm mộ cả người làm thơ.Trong Thi nhân Việt Nam ghi tiểu sử,với ảnh, địa chỉ các nhà thơ,vài bạn thử gởi thơ làm quen,nói chung các thi nhân trả lời rất nhã nhặn.
Thơ Chế Lan Viên khóc số phận người Chăm,mới lạ mà quen thân:
-Chiều hôm nay ngồi đây trên bờ biển,
Ta lặng đếm thử bao nhiêu thế kỷ,
Ðã trôi trong một phút vội vàng qua.
Ta lặng nghe cả thế giới bao la,
Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát.
Hàn Mặc Tử được lưu ý và mến mộ với vài câu đơn giản mà trước ông dường như không ai nghĩ đến:
-Nhìn nắng hàng cau,nắng mới lên...
-Gió theo lối gió,mây đường mây,
Cành trúc buồn thiu,hoa bắp lay,
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Rất tiếc là trong tuyển tập nầy,chỗ dành cho Thâm Tâm và Trần HUyền Trân gần như không có.Tại sao vậy? Ðó là hai nhà thơ đắng cay với thế sự,nhưng là điệu thảm não tích cực.Thí dụ như trong Ðộc hành ca, đăng báo xuân năm ấy,phải chăng đã nhắc đến Nam Ký khởi nghĩa 1940 qua hai câu:
-Ngẩng đầu,núi quấn mây tang,
Ngó đông lửa cháy,nhòm Nam khói mù...
...Cố nhân ai hỡi người xưa,
Dọn đi tâm sự, đây mưa về rừng!
Cần Thơ là trung tâm văn hoá - hiểu theo nghĩa văn nghệ.Những năm ấy,sẵn cơ chế về pháp lý,bèn lập Hội khuyến học Cần Thơ với thành phần sáng lập viên là những người đáng cho nhà nước tin cậy:bác sĩ Lê Văn Ngôn (em học giả Lê Thọ Xuân), giáo sư Nguyễn Văn Kiết dạy trung học Phan Thanh Giản,thi sĩ Trực Thần (thơ ký sở Trước bạ)...Tổ chức buổi nói chuyện về Bùi Hữu Nghĩa,về Cử Trị là những nhà thơ có phần mộ ở Cần Thơ.Bùi Hữu Nghĩa gốc ở Bình Thủy.Hai vị nầy là sĩ phu yêu nước thời Pháp đến.Họ Bùi gốc nhà nghèo,gia đình chài lưới,tới lui vùng rạch Cái Khế,său đi Biên Hòa học ở trọ nhà bà con,vợ ở Biên Hòa là bà Nguyễn Thị Tồn.Bà nổi danh với thành tích lớn:dám ra tận Huế kêu nài cho chồng khỏi án tử hình vì bị viên bố chánh Trà Vinh buộc vào tội xúi giục người dân tộc Khơme nổi loạn.Bùi Hữu Nghĩa đã bênh vực quyền lợi khai thác cá tôm (gọi thủy lợi )của người Khơme địa phương. Ông Bùi làm tuồng cải lương ra đời,Kim Thạch Kỳ Duyên như chẳng còn tiếng vang. Ông về hưu khi Pháp đến,giữ tiết tháo,hoạ vận bài thơ của Tôn Thọ Tường (theo giặc),ca ngợi nghĩa quân ở chiến khu,xem bọn theo giặc là loài cáo.
-Hùm nương non rậm,toan chờ thuở,
Cáo loại vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa
Ðền Nam trụ cả dễ lung lay.
MỘt chi tiết:Khi lâm bệnh nặng, ông khuyên người nhà sờ vào chân,thấy chân bắt đầu lạnh thì báo cho ông biết.Khi người nhà bảo đã lạnh, ông nói bình thản: “Thôi,ta đi”.Rồi tắt thở, êm ái.Hiểu rằng ông đã tu tiên từ lâu,không chủ động được trước tình thế nước mất nhà tan thì ít ra khi nhắm mắt,cũng chủ động trước số phận của cá nhân mình.Nhớ lại trường hợp Tiên Ðiền Nguyễn Du.Thích tiêu dao đó đây,câu cá ở biển Nam,săn bắn trên núi Hồng, đầu đội khăn màu vàng.Bất đắc chí vì Trịnh -Nguyễn phân tranh,khi gần hấp hối cũng căn dặn người nhà sờ thử cho biết đôi chân đã lạnh chưa.Bùi Hữu Nghĩa có bài vị tại chùa Nam Nhã,chùa Ðạo Minh Sư do ông lão (cũng như vị đại lão hoà thượng trụ trì)nổi danh là Nguyễn Giác Nguyên,một trong những lãnh tụ lừng danh của Nam Bộ hồi phong trào Minh Tân (Duy Tân ).Minh Sư là dạng tu tiên khổ hạnh,cơ ngơ tu hành không gọi là Tự nhưng là Ðường.Ngoài những buổi trình diễn thuyết về văn hoá dân tộc,hội còn mở cuộc thi văn học.Giải nhất thuộc về Phi Vân,với tác phẩm Ðồng quê,gồm nhiều truyện ngắn gây ấn tượng sâu đậm (mãi đến nay,vẫn còn độc giả ).Những chuyện vui tươi,gọn gàng.Bấy lâu,nhiều người nhận định ở Nam Bộ chỉ là “văn nói”.Với Ðồng quê của Phi Vân,ta thấy “văn nói” nào phải lấy cái máy ghi âm để “thâu băng” rồi phát ra,viên thơ ký đánh máy lại là xong. Ðó là một kỹ thuật riêng, đòi hỏi tay nghề,câu nào phải cải biên,nói theo người viết nhạc là “biến tấu”lại,tóm gọn hoặc kéo dài ra.Chữ nghĩa trên trang sách khó diễn đạt lại giọng điệu hoặc bộ tịch của người nói.Về mặt nầy,tôi thấy Phi Vân lúc bấy giờ đâu khoảng 30 tuổi đã thành công.So với văn phong của Trương vĩnh Ký,Huỳnh Tịnh Của,luôn cả Hồ Biểu Chánh, ông đã cải tiến một bước dài với “văn nói”.
Phi Vân (nếu tôi không lầm) là người lai Hoa,làm xã trưởng, đã chịu thâm nhập vào dân vùng Cà Mau, đúc kết những nét điển hình,ghi lại những kiểu ăn nói duyên dáng của người Việt từ miền Nam Trung Bộ,người Hoa lai Việt đi khẩn hoang tận vùng Cà Mau.Họ góp phần vào giọng ăn nói đượm vẻ vui tươi nhất là hài hước,khi khẩn hoang,cực khổ,bế tắc những lạc quan.Thí dụ như câu hò dài,mỗi câu đâu cũng 50 tiếng,nói bắt vần,chắc là từ vùng Tiền Giang do dân khẩn hoang đem tới.
Lúc Hội khuyến học hoạt động,tôi buồn phiền vì ở Rạch Giá quê tôi có Huỳnh Mẫn Ðạt giỏi về thơ ca.Có người trưng bằng cớ về sự giao du thân mật giữa Huỳnh Mẫn Ðạt và Bùi Hữu Nghĩa,và chứng minh rằng bổn tuồng hát bội Kim Thạch Kỳ Duyên có phần đóng góp đáng kể của họ Huỳnh.Huỳnh Mẫn Ðạt quê Cái Bè (tỉnh Tiền Giang ),làm chức tuần vũ ở Hà Tiên,Pháp đánh chiếm, ông về dưỡng nhàn ở Rạch Giá,bấy giờ tỉnh Hà Tiên gồm luôn Rạch Giá, ăn luôn vùng mũi Cà Mau.Bên vợ họ Huỳnh là điền chủ,nhờ vậy mà khi hưu trí ông thỉnh thoảng đi Sài Gòn tham quan cho biết sự đổi mới của “tân trào”.Bấy giờ,chỉ dùng đường thủy,sắm chiếc tam bản có mui,với ít nhất hai người chèo,ngày đêm cực khổ, đường thủy khoảng non 300 kilômét.Theo giai thoại phổ biến,thì khi đến Sài Gòn dạo chơi,họ Huỳnh tình cờ gặp Tôn Thọ Tường.Bấy giờ thắng thế là “Việt gian”nhưng Tôn Thọ Tường vội vã xuống xe song mã,với ít nhiều mặc cảm tội lỗi,xấu hổ.Huỳnh Mẫn Ðạt làm bài bát cú,với những câu:
-Ðã cam bít mặt cùng trời đất,
Ðâu dám nghiêng mày với ngựa xe.
Hớn hỡ trẻ giong đường dặm liễu,
Lơ thơ già núp cội cây hòe.
Núp nom cũng hổ,chào thêm hổ.
Thà ẩn non cao chẳng muốn nghe.
Tôn Thọ Tường vội phân trần:
-Thế cuộc đổi dời đà lắm lắm,
Thiên cơ mầu nhiệm hãy còn nhiều;
Nước non dường ấy, tình dường ấy.
Xe ngựa bao nhiêu,bụi bấy nhiêu.
Hăm hở nhạc Tây hơi trổi mạnh,
Nghe qua ngùi nhớ giọng Tiêu thiều.
Bấy giờ,chưa mở đường xe lửa Sài Gòn -Mỹ Tho,những kiểu tàu cuốc (xáng) chưa đưa qua Nam Bộ hòng mở mang kênh đào nhưng Tôn Thọ Tường dự đoán rất đúng rằng sức mạnh của thực dân nào phải chỉ có bao nhiêu,như đã thấy.Còn nữa và còn nữa.Năm xưa,khi Pháp mới đến,chiếm gò Cây mai,họ Tôn bắt đầu hợp tác với giặc,thấy xốn xang: “Tò le kèn lạ mặt trời chiều”.Nhưng giờ đây,họ Tôn thấy mình quả là có lý khi theo giặc,vì giặc quả là thật mạnh.Cũng là tiếng kèn đồng của quân đội Pháp nhưng nó không phải là “tò le”tro trẻn nhưng là tiếng kèn mạnh khỏe của thế lực đang lên! Người theo giặc vẫn nhớ,qua tiếng kèn ấy,những bản Tiêu thiều với 3 hồi 9 chặp,dạng quốc ca của triều đình xưa.
Lũ học sinh trung học chúng tôi bấy giờ quả là cô đơn và rối rắm,chẳng biết nên làm gì.Học thêm quả là vô ích,xa vời,còn về tình hình thế giới và trong nước thì quả là mù tịt.Làm cách mạng kiểu nào đây?Gặp anh bạn bơi lội giỏi từng giới thiệu tôi qua phà Cần Thơ thì biết rằng các người chống Pháp,theo cộng sản đáng tin cậy dường như lần hồi dời chỗ ở vì một đôi người ở Cầu Kè,Tam Bình bị bắt,có thể cung khai.Anh bạn của tôi kết luận,buồn buồn:
-Tụi mình nhỏ quá,chưa được 15,16 tuổi,không đủ trí tuệ và bản lĩng cho anh em tin cậy,lúc khó khăn nầy.Dường như Pháp và Nhật đang bắt tay nhau đàn áp.Thậm chí,người theo đạo Cao Ðài cũng bị tình nghi.Thôi thì cứ chờ.
Thôi thử đi xem một phiên xử án ở Tòa đại hình Cần Thơ,cấp cao của miền Tây Nam Bộ,còn gọi Tòa áo đỏ.Không gặp buổi xử tội nhân chính trị,vì nghe đâu tội chính trị thì do tòa án Quân sự xử lý sao đó.Buổi ấy,xử tội sát nhân.Tội nghiệp vô cùng.Sát nhân với tang vật là phảng phát cỏ,cán không uốn 90 độ so với lưỡi,tội nhân đã “kéo cỗ”,tức là kéo lại cho lưỡi và cán nằm theo một đường thăng,trông như lưỡi gườm dài.Chuông reo,chánh án,chưởng lý,toàn người Pháp,luật sư là người Ấn mang quốc tịch Pháp.Cáo trạng dài dòng, đọc lên toàn tiếng Pháp.Can phạm bị còng tay, đứng cúi đầu,buồn bã, ở hàng khángiả,dường như có thân nhân.Hơn một giờ sau,chánh án hỏi vài câu,qua thông dịch viên.Và can phạm trả lời,có thông dịch viên.Như vậy là công lý à?Can phạm chẳng hiểu gì ráo để vào giờ chót,có thể tự bào chữa.
Lúc gọi phạm nhân đến trước vành móng ngựa,nói rõ tên họ và quốc tịch,nói tiếng Pháp,xin tạm dịch là người nước An Nam nhưng không phải đạt dưới sự cai trị của vua nước An Nam ở xứ bảo hộ Trung Kỳ.Mà là con dân tay sai của nước Pháp ở xứ Nam Kỳ! Tôi thấy nản,nói theo ngày nay là kiểu “buồn nôn”.Bèn đi tìm anh bạn đồng môn để bàn tán bâng quơ về Tôn Thọ Tường khi gặp Huỳnh Mẫn Ðạt tại Sài Gòn.Tôi chê họ Tôn nhưng khen sơ sài.Anh bạn ngắt lời:
-Không thể so sánh chê khen người của thế kỷ trước,hồi Tạy mới đến.Hoàn cảnh bây giờ đây có khác.Ai cũng sống với thực dân Pháp đâu từ hồi ông nội,chẳng lẽ mọi người đều đầu hàng giặc?Nên suy nghĩ lại trước tình hình mới.Thực dân bắc cầu,bồi lộ,mở trường trung học...với thuế má và mồ hôi của dân mình.NHưng tụi học trò như mình kém cỏi quá.
Tôi lại buồn.Học không ra học. Ðánh thực dân là chuyện ôi thôi,khó quá.Nam Kỳ khởi nghĩa năm trước bị dập tắt quá nhanh,thêm người hy sinh.
Bạn tôi nói:
-Ðọc báo thấy kể chuyện Nhật Bổn đang chiếm nước Tàu.Bên ấy kêu gọi “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”hoặc “Cởi áo cà sa khoác áo chiến bào”,hoàn cảnh đó chắc còn lâu mới xảy ra ở Cần Thơ!
Tôi rất yêu thơ vì thơ là sức mạnh âm thầm nhưng bền bỉ,vương vấn nhiều năm.Lòng yêu nước của tôi dính dấp cvới htơ,môn glung,lắm khi tiêu cực.KHó đoán về con người qua lời thơ do họ sáng tác hoặc thơ mà họ yêu thích.MỘt người bạn bỗng thử nghiệm dạng thơ tắc tị,khó hiểu,có lẽ ảnh hưởng của Xuân Thu Nhã Tập đã bỏ ra một tháng để làm mấy câu sau đây:
-Lạnh nhạt mai chiều duyên cỏ sương
Rót niềm cô tịch,mộng cô đơn.
Mắt xanh lãnh đạm người tay trắng.
Dú ép bên lòng quả nhớ thương.
Tình ngại sang sông đuối giữa dòng.
Ðành cam lấp hận dưới chờ mong.
Ngày xanh đêm trắng buồn tơ đỏ
Hờ hững sông trong nắng rải hồng!
Siết tay cho chết niềm sương cỏ
Nuốt hết muôn đời lệ cỏ sương.
Xây nốt trường thành muôn bóng đỏ,
Ngăn hồn bướm dại mộng yêu đương.
Tôi nhớ mãi vì người làm thơ nầy nhà rất nghèo, đi học mặc áo vá nhưng học quá giỏi,nhớ dai các bài học.Về sau,khi Cách mạng Tháng tám nổi lên,anh ta gia nhập quân đội Vệ quốc đoàn,chỉ huy một trung đội đánh trận Vàm Nhon (Cần Thơ ),hy sinh oanh liệt, đơn vị của anh đâu chừng năm cây súng lửa,kiểu súng bắn chim tịch thâu từ mấy vị điền chủ,vì họ được phép sắm súng.Trong khi ấy,không ít anh bạn đồng lớp với tôi làm thơ nghe tràn “khẩu khí”nhưng chưa chi đã vội theo giặc, đánh phá cách mạng rất hung hăng.Học hành cầm chừng,chờ bã trường,sáng chủ nhật nọ,vì không tiền dằn túi,tôi ở lại trường để “đọc sách ngâm thơ”. Ðột nhiên vào khoảng 7 giờ sáng,viên giám thị báo tin rằng cha tôi đến thăm và giám thị cho phép tôi ra ngoài chơi,trọn ngày chủ nhật.Tôi mừng thầm.Cha tôi còn mạnh khỏe nhưng ốm yếu hơn mọi khi,phải chăng vì ông mặc chiếc áo lãnh màu đen,mềm mại mà khi ở nhà tôi chưa bao giờ thấy. Áo hơi cũ,chắc là mượn của ai để khi lên thủ phủ miền Tây nầy thiên hạ không chê khen. Ở môi trường nầy,kiểu áo ấy rõ ràng là trơ trẽn,chưa hài hòa, đúng ra,phải mặc áo sơ mi trắng,như bao nhiêu phụ huynh khác..Một ý nghĩ thoáng qua giây phút.Cũng hài hòa,còn hơn là vài phụ huynh giữ cái búi tó.Một truyện ngắn nào đó khá cảm động đã kể lại,người viết truyện tỏ ra tự tin và hãnh diện.
Tình thế đất nước như vầy mà còn xúc động,tủi thân à?Phải hãnh diện chứ.Trung nông ở rừng U Minh xa lơ xa lắc,nghe cái tên đất nhưng mấy ai đã đi đến?.
Cha tôi và tôi đi bên cạnh,sát lề đường.Cha tôi bảo là tìm trường học nầy không khó vì Cần Thơ chỉ có một trường Phan Thanh Giản mà thôi.Cha tôi bảo là có chút ít tiền,muốn đi dạo một vòng chợ.Nó rộng rãi, đâu có khúm núm như chợ Rạch Giá,Long Xuyên.Trường học nầy Tây xây cất lớn quá,hồi năm nào?
Vì Cần Thơ quá rộng,tôi bèn gọi chiếc xe kéo,hai cha con ngồi lên.Tôi chỉ dẫn vài dinh thự,nhà lồng chợ,ngân hàng canh nông rồi dừng lại để uống cà phê, ăn hủ tíu.Bên cạnh quán cóc nầy là con rạch Cần Thơ, đổ ra sông Hậu.Tôi giải thích rằng sông Hậu nầy đổ ra biển,phía Sóc Trăng,nhưng nếu đi ngược lên phía tay trai của mình là phía Bắc thì nước đổ xuống từ nước Cao Miên,Lào.Một bên là Lào,bên kia bờ là Xiêm, ăn lên nữa tới ranh Miến Ðiện,gặp Trung Quốc rồi lên Tây Tạng cao ráo và to rộng,nơi có dãy Hy Mã Lạp Sơn.
-Chừng bao nhiêu cây số?
-Tới Hy Mã Lạp Sơn hơn 4 ngàn cây số.
-Xa quá chừng,như vậy sao?Từ đây tới nhà mình ở U Minh đã xa rồi,nhưng mới được 160 cây số.Tao nghe nói ở Tây Tạng còn nhiều điều bí mật lắm.Thiên cơ bất khả lậu.Nhiều người tu luyện ở xứ đó sống vài trăm năm,nhịn đói mà mạnh khỏe,nhờ bùa phép,thần chú.
Rồi cha tôi nói tóm tắt rằng từ mấy tháng qua,nhiều người ăn mặc kỳ lạ,bới tóc,mái tóc quá dài,lắm khi quấn chung quanh cổ, đội nón vải màu ngũ sắc,tự xưng là dân Tây Tạng,truyền rao sắp đến lúc tận thế,muốn được cứu rỗi thìcứ tụng câu thần chú: Úm-ma-ni bắt-mi-hồng,tụng mỗi đêm trước khi ngủ chừng mươi lần...Năm nay, ít người chịu làm ruộng,phần lớn già trẻ đều mang bịnh sốt rét,thêm bịnh ghẻ hờm,lở lói.
Ăn điểm tâm rồi,cha tôi đi theo mé sông,như buồn rầu,cho biết gia đình dạo nầy túng bấn.Tôi nghĩ mình đã lớn khôn,buột miệng hỏi:
-Thưa cha,như vậy là nhà túng bấn,chắc cái bộ lư thờ không bao giờ chuộc nổi.Bộ lư đem cầm ở tiệm ngoài Rạch Giá hồi năm trước.
Cha nói tỉnh táo:
-Món thờ cúng,của ông bà để lại.Làm sao đủ tiền chuộc,cứ đôi ba tháng,mấy năm rồi,ba tới đóng tiền lời.Riết rồi ba xin bán rẻ cho tiệm cầm đồ,lấy mấy đồng bạc, ăn xài cũng hết.
Thấy tôi lặng thinh hồi lâu,ba tôi gật gù:
-Con là đứa có hiếu,còn nhớ chuyện bộ lư.Học hành dở dang là do thời cuộc.Thí dụ như thi đậu thì đi làm công chức cho ai?Tụi Tây coi bộ không còn lâu! “Thần suy quỉ lộng”Hương quản là người giữ trật tự,bắt trộm cướp vậy mà từ mấy tháng nay lại chứa chấp bọn trộm cướp, đành rằng không phá phách làng mình nhưng lại đi phá làng khác,bày tiệc ăn mừng,om xòm trong xóm.
Ðối với tôi,ba tội khi gọi con,khi bằng mầy,trong tình thân mật:
-Mầy tính chuyện nghĩ học là vừa.Muốn học thêm nữa,ba cũng không có tiền gởi hàng tháng.Ba thấy đi học không ích lợi gì hết,mấy năm nay.
Tôi đáp thật tình:
-Coi vậy cũng ích lợi về văn chương Việt Nam và thế giới.Mình biết nhiều điều hơn hồi ở bậc tiểu học.chữ Pháp giúp cho mình thấy chân trời quá rộng,tùy theo quyển sách mình đọc và mình hiểu.
-Mầy thí dụ cho tao nghe.
Thật là khó tìm một vài thí dụ..Hồi lâu,tôi cố trả lời:
-Nhà văn Pháp nọ,Anatol France, được trích văn làm bài học trong lớp ghi lại rằng con đường mà học trò mỗi buổi sáng đi trước khi đến trường là bài học về cuộc sống.Học trò thấy nào xe cộ,người bán thức ăn,những món quà vặt...ai ai cũng góp phần cho xã hội.Và học trò đã đi tung tăng ngang qua công viên cây xanh to rộng,nơi chưng bày nhiều pho tượng đá xinh đẹp.Lớn lên,người học trò năm xưa trở thành nhà văn Anatol France.Hai chục năm qua,tác giả đã đi được phân nửa đường đời,trời vẫn như xưa, đất cũng như xưa,chỉ thiếu bóng dáng cậu học sinh là mình đây tươi trẻ,thuở nào.Tác giả ao ước đứa con trai của mình cũng hiền lành,lạc quan như cha nó ngày nào.
Nghĩ đến đó,tôi giựt mình,cúi mặt.Cha tôi mỉm cười,nụ cười hiền lành của một người lão thành:
-Tao có đi học hồi nào đâu mà viết văn tả lại cho mầy đọc.Họa chăng mầy viết lại cho con mầy.Hồi đó,rừng rậm vùng U Minh,không bao nhiêu căn chòi.
KHông muốn xin lỗi cha,tôi nhớ,theo lời kể lại thì cha đã tự học chữ quốc ngữ rất khó khăn.Mãi đến sau nầy, ông viết chữ khá to,bỏ dấu kỷ lưỡng,quanh quẩn viết vài chữ như tỉnh Rạch Giá,làng Sóc Sơn,làng Ðông Thái,giấy còn dư thì ông cứ ký tên nhiều kiểu,chữ tháo,gạch đít ngắn hoặc dài,xem chữ ký như là tín hiệu biểu lộ nhân cách của mình.
Thế là xong cuộc đời nhà trường,nhà nước còn nuội cơm,ngu dại gì mình không ăn.Về nhà sớm, ích lợi gì. Ở Cần Thơ,nhiều người bạn tốt,có sách báo đọc.Sách từ Hà Nội đưa vào khá nhiều,in trên giấy bản đen đúa,giá khá cao.Mấy đứa bạn yêu sách,nhờ gia đình khá giả đã chịu khó mua.Những người bạn mà chắc không bao giờ mình còn gặp được trên cõi đời.
Ngỡ rằng thực dân Pháp chừng vài tháng nữa sẽ bị lật đổ nhưng không phải vậy.
Mùa khô 2001
Sơn Nam
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Lê Lợi dứt khoát với nhà Trần Cái chết của Trần Cảo và sự từ chức của Trần Nguyên Hãn tưởng rằng sẽ yên ổn nhưng không vì thế mọi chuyện...