Thứ Năm, 25 tháng 12, 2025

"Ai nói và tại sao lại nói như thế" - Bản hợp âm của những tiếng nói

"Ai nói và tại sao lại nói như thế"
Bản hợp âm của những tiếng nói

Tập truyện ngắn Ai nói và tại sao lại nói như thế (NXB Hội Nhà văn, 2024) của Văn Giá xuất hiện như một hiện tượng khá độc đáo trên văn đàn. Tác giả vốn được biết đến nhiều với tư cách nhà nghiên cứu – phê bình văn học, nhưng ở tuổi 65 ông lại tiếp tục khẳng định mình ở vai trò người sáng tác qua tập truyện ngắn thứ tư đầy cá tính này.
Ngay từ nhan đề Ai nói & tại sao lại nói như thế, tập truyện đã gợi lên một câu hỏi kép đầy thách thức về chủ thể phát ngôn và động cơ, lí do của lời nói, thể hiện mối bận tâm sâu sắc của tác giả đối với bản chất của hành vi ngôn ngữ và truyện kể. Ông từng thổ lộ: “Mỗi chúng ta chỉ là một tiếng nói thật yếu ớt trong đời sống này… Hầu hết các truyện ngắn của tôi đều quan tâm tới lời nói, bao gồm ai nói, tại sao lại nói…”[3]. Chính nỗi trăn trở về tiếng nói cá nhân trong đời sống đa thanh ấy đã trở thành mạch nguồn tư tưởng xuyên suốt tập truyện. Với 17 truyện ngắn “nhỏ xinh, không quá dài và vừa đủ”, tập sách đòi hỏi người đọc “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” (mượn cách nói của Nam Cao trong Giăng sáng), lắng nghe nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau của cuộc sống.
Ai nói & tại sao lại nói như thế ngay khi ra mắt đã thu hút sự chú ý của giới văn chương và nhận được nhiều ý kiến đánh giá trên các diễn đàn văn học. Tại tọa đàm ra mắt sách (Hà Nội, 9/2024), nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận định văn của Văn Giá mang “tiếng nói thì thầm mà mãnh liệt, tử tế”, đầy chân thực, đẹp đẽ và trách nhiệm[5]. Nhiều ý kiến tại tọa đàm ghi nhận truyện ngắn Văn Giá có lối kể độc đáo, giọng văn chân thành, đa thanh, giàu khẩu ngữ, tạo nên phong cách khác biệt và sức hấp dẫn cho tập truyện mới (Phùng Gia Thế, Sương Nguyệt Minh…). Một số ý kiến đánh giá về tính đa thanh, nhiều giọng (Mai Anh Tuấn)[7], “một thế giới ngồn ngộn những tiếng nói”, buộc người đọc phải truy vấn đến tận căn nguyên của những lời được nói ra, những điều “chúng ta phải nghe, nên nghe, và … cần nghe hết để vỡ lẽ” (Nguyên Linh)[3].
1. Những tiếng nói
Theo Mai Anh Tuấn, tập truyện có sự “pha trộn cùng lúc nhiều tiếng nói” khác nhau: từ trẻ con, người già, trí thức, bệnh nhân đến lão nông… Thậm chí có cả “tiếng nói của người viết truyện” chen vào như muốn đối thoại, đính chính cho tiếng nói của nhân vật. Chuỗi tiếng nói liên tu bất tận ấy được Văn Giá tính toán, điều chỉnh rất linh hoạt bằng một kỹ thuật trần thuật điêu luyện, trở thành phương tiện đắc lực để truyền tải muôn trạng thái đời sống: từ ốm đau, bệnh tật, cái chết cho đến tình yêu, tình dục, từ “sự dở hơi của tuổi hưu” đến “sự khó lường của tuổi trẻ”. Mai Anh Tuấn cho rằng với hai câu hỏi thú vị đặt ngay nhan đề (Ai nói? Tại sao lại nói như thế?), Văn Giá đã khơi gợi mạnh mẽ khả năng luận đàm và phản tỉnh nơi độc giả. Mỗi tiếng nói trong truyện đều hàm ẩn một sự hoài nghi hoặc chiêm nghiệm về lòng tốt và luân lý, về đúng và sai, và sau cùng là về cái đích đáng hay sự vô nghĩa của kiếp người. Bởi vậy, theo Mai Anh Tuấn, không thể vội vã chọn lấy hay phủ nhận một kiểu tiếng nói nào, mà tất cả những tiếng nói đó cần ngân vang đồng thời, quy chiếu lẫn nhau như một cuộc sống đa thanh – đó mới chính là dụng ý sâu xa mà tác giả tâm đắc[7].
Quả vậy, tập truyện Ai nói & tại sao lại nói như thế phác họa một bức tranh đời sống đa dạng, phong phú với nhiều trăn trở nhân sinh sâu sắc, ở đó ta nhận ra một bản hợp âm của những tiếng nói. Đọc 17 truyện ngắn trong tập, độc giả như bước vào một “xã hội thu nhỏ” quen thuộc, nơi hiện diện đủ hương vị của cuộc đời thường ngày. Ngay truyện mở đầu Ăn sáng Café đặt người đọc vào không khí thân thuộc: một nhóm ông già hưu trí ngồi tíu tít bên bàn cà phê sáng, bàn đủ thứ chuyện trên trời dưới bể, từ thời sự chính trường cho đến giá cả chợ búa. Văn Giá cố tình chọn bối cảnh rất đỗi đời thường – quán cà phê vỉa hè – làm nơi phát ngôn cho những con người “yếu ớt” trong xã hội (những người già nghỉ hưu ít tiếng nói). Qua những câu chuyện tưởng tầm phào, tiếng chửi thề bật ra giữa chừng, độc giả dần nhận ra đằng sau tiếng cười đùa vô tư ấy là nỗi ám ảnh thời cuộc: “Ban đầu nhóm có năm thằng. Giờ còn ba…” – những người bạn già thưa vắng dần theo năm tháng, để lại khoảng trống chơi vơi giữa dòng đời [1, tr.7]. Cuộc vui trà dư tửu hậu rồi cũng tàn phai bởi những biến cố nghiệt ngã của cuộc sống, những tiếng nói dần mất đi hoặc biến dạng theo thời gian. Câu chuyện kết thúc với dư vị man mác buồn sau tiếng cười, khiến người đọc không khỏi nghĩ suy về sự mong manh của kiếp người và giá trị của những khoảnh khắc tri âm giản dị. Từ một buổi cà phê sáng bình thường, Văn Giá đã khơi dậy những suy tưởng triết lý về sinh tử và tình bằng hữu, đúng như nhận xét: “Cứ nghĩ nhà văn kể tào lao… nhưng lại cho độc giả những trải nghiệm… với giọng điệu tưng tửng ấy một nỗi buồn thăm thẳm”[6].
Bên cạnh việc lắng nghe tiếng nói đời thường nơi phố thị, tác giả còn dẫn dắt chúng ta đến với những cảnh đời và tiếng nói ở các không gian khác nhau trong xã hội. Truyện Chăm người bệnh đưa người đọc vào không khí ngột ngạt của một phòng bệnh viện – nơi những tiếng nói thầm thì của các cảnh đời khốn khó cất lên, phơi bày nỗi đau bệnh tật và tình người trong cơn hoạn nạn. Đột ngột chuyển cảnh, truyện Một góc trời xa lại ngược về miền rừng Tây Bắc những năm 1980, nơi vọng lên tiếng nói của tuổi trẻ và tình yêu thuở thanh xuân đầy nhiệt huyết nhưng cũng vụng dại, bất định. Đó là câu chuyện về nhân vật Sa – cô giáo trẻ nơi vùng cao cùng mối tình lặng thầm giữa cô với “nhân vật tôi” – người giáo viên miền xuôi lên rừng dạy học. Truyện vẽ nên bức tranh quá khứ với những năm tháng thanh xuân, để rồi khép lại trong nuối tiếc: Nhân vật tôi chỉ biết Sa yêu mình khi cô ấy… nằm xuống! – tình yêu âm thầm mãi mãi không kịp tỏ bày. Ba số phận (anh – Sa – Mến) rẽ ba ngả, và khi ngoảnh lại thì tất cả đã muộn màng, chỉ còn “những tiếc nuối vô bờ” khắc khoải trong ký ức. Cùng khơi gợi nỗi day dứt về những mối tình lỡ làng còn có truyện Đồng bạc lấy may, kể về nhân vật Thiềm và người bạn trai thời trẻ. Sau bao năm xa cách, tình cảm xưa tưởng chừng đã ngủ quên dưới lớp bụi thời gian bỗng le lói trở lại, để rồi nhân vật nhận ra con gái cô bạn giờ chính là sinh viên của mình, và lá thư tay từ người cũ được chính cô con gái trao tận tay. Những chi tiết éo le như vậy được Văn Giá cài cắm tài tình, khiến câu chuyện nhỏ bỗng ngân vang những âm hưởng xót xa về định mệnh và những gì có thể cứu vãn trong đời người. Quả như nhà văn Vũ Thảo Ngọc nhận xét: truyện ngắn hay phần lớn thành công nhờ chi tiết “đắt”, và Văn Giá “luôn có những chi tiết hay để tạo nên dấu ấn đặc biệt của mỗi truyện”[6]. Chính những chi tiết giàu sức gợi ấy đã chuyển tải trọn vẹn tư tưởng nhân văn: trân trọng những tình cảm thuần khiết xưa cũ, thức tỉnh lòng người về sự vô giá của tình yêu và kỉ niệm.
Dễ nhận thấy, qua những tiếng nói trong tập truyện, ta nhận ra nhiều sắc thái cảm xúc khác nhau, tạo nên một bản hòa âm cuộc đời. Sắc thái trào phúng, giễu nhại góp phần phơi bày những nghịch lí, bi hài kịch của xã hội đương đại.  Ví dụ truyện Chân Phờ zờ sờ (một cách nói lái hài hước của học hàm Phó Giáo sư – viết tắt PGS). Truyện kể về hai người bạn tri kỷ, Tuấn và An, xoay quanh việc “đi làm Phó giáo sư” của Tuấn – một giảng viên đại học. Tình huống truyện nghe qua có vẻ “không có gì to tát” nhưng thực chất chạm đến vấn đề thời sự: chuyện chạy chức, chạy học hàm trong giới học thuật. Nhân vật An khuyên bạn mình nên hoàn thiện hồ sơ phong PGS cho “xứng tầm”, còn Tuấn thì nhất quyết cự tuyệt: anh thẳng thừng tuyên bố sẽ “không làm, không làm”, không chịu “hèn” mà đi “chạy” để lấy cái danh hão. Lời khẳng định “anh không hèn!” của Tuấn vừa hóm vừa chua chát, thể hiện khí phách của kẻ sĩ trước thói đời thực dụng. Thế nhưng, câu chuyện chưa dừng ở đó: sau nhiều vòng tranh luận, cuối cùng Tuấn cũng đành chép miệng chiều bạn, miễn cưỡng tham gia ứng tuyển: “…ừ, thì làm, thôi thì tớ mặt dày một phen…”[6]. Lời thoại này tựa như tiếng thở dài cam chịu, khiến người đọc “nghe mà xót xa” – xót cho một trí thức phải đánh mất phần nào khí tiết trước guồng quay danh lợi và những nhếch nhác nơi hậu trường học thuật. Bằng giọng văn nửa cười nửa mếu, Văn Giá đã dựng lên một bi hài kịch thời hiện đại “dở khóc dở cười”, qua đó phê phán thói háo danh và thực trạng tha hóa trong môi trường trí thức, đồng thời đề cao phẩm chất khí khái và trăn trở của những người “sĩ phu” chân chính.
Không chỉ trong giới học thuật, những nghịch lí xã hội khác cũng được Văn Giá phản ánh sinh động qua lăng kính hài hước. Truyện Hưu quê kể về nhân vật San – một viên chức nghỉ hưu từ thành phố về quê sinh sống với hi vọng hưởng thụ tuổi già an nhàn, “có ích” cho quê hương hơn là ở phố thị. Thế nhưng, thực tế phũ phàng nhanh chóng đập tan ảo tưởng: San vấp phải vô vàn chuyện nhiêu khê, phiền toái khi tham gia sinh sống ở quê nhà. Sự khác biệt về nếp nghĩ, lối sống giữa ông – một người quen môi trường đô thị và những người đồng niên ở nông thôn tạo nên tình huống trớ trêu “giở đi mắc núi, giở lại mắc sông”. Cao trào truyện đặt ra khi San bất lực thốt lên: “Lão sực nhớ cái câu của một ông nhà văn nào đó, đại ý: đối với người nhà quê, kính trọng họ thì được, chứ bảo sống với họ thì xin kiếu”. Lời kết đầy chát chúa này vừa hài hước, vừa chua xót, lột tả sâu sắc độ chênh giữa thành thị – nông thôn trong xã hội Việt Nam đương đại. Đó cũng là tiếng thở dài trước thực trạng “lệch kênh tư duy” giữa các tầng lớp, thế hệ – một vấn đề nhức nhối của đời sống hôm nay. Tương tự, truyện Về nơi chốn mới mang giọng điệu “tưng tửng, vui vui mà trắc ẩn”, kể về tình huống oái oăm khi nhân vật chính chuyển về khu chung cư mới và gặp lại vị sếp cũ – người từng gây khó dễ cho anh nay thành hàng xóm “đối mặt” mỗi ngày [6]. Những bực bội và bi hài trong mối quan hệ éo le ấy được Văn Giá chuyển tải nhẹ nhàng, dí dỏm mà thấm thía, làm bật lên triết lý nhân sinh: cuộc đời lắm lúc trớ trêu, con người ta không dễ trốn chạy quá khứ, điều quan trọng là đối diện nó bằng thái độ bao dung và hiểu biết.
Xuyên suốt 17 truyện ngắn, Văn Giá đã dựng nên một thế giới nhân vật và sự kiện đa dạng, dù là tiếng nói của ai, giọng như thế nào thì tất cả đều hướng về những giá trị nhân văn cốt lõi. Dù viết về người trí thức hay nông dân, về tình yêu hay danh lợi, tác giả đều gửi gắm niềm tin vào lương tri và lòng tử tế của con người. Chẳng hạn, truyện ngắn Bức tường rào đề cập đến sự rạn nứt tình anh em ruột thịt vì toan tính ích kỷ, thế nhưng cuối cùng tiếng nói của tình thân và sự hoài niệm quá khứ thiêng liêng vẫn âm thầm cất lên như một lời cảnh tỉnh. Hay một câu chuyện khác ven sông Thương về “Người đàn bà bên kia sông” cho thấy tiếng nói của lương tâm, lòng tự trọng chính là điều cứu vãn sau cùng cho cuộc đời con người. Đây chính là tư tưởng nhân bản sâu sắc mà Văn Giá muốn truyền tải: trong cuộc sống bộn bề những giả trá, bon chen, vẫn còn đó những giá trị vĩnh hằng như tình người, danh dự, lòng tự trọng – những thứ giữ cho con người không đánh mất mình.
Ở một tầng mức khái quát hơn, tập truyện còn đặt ra vấn đề triết lý về ngôn ngữ và hiện hữu. Truyện Quạt giấy, chẳng hạn, tác giả đưa tiếng nói triết gia luận bàn rằng: “Thân xác con người chẳng qua chỉ là cái bã, vô nghĩa. Chứ tồn tại thực của con người là ngôn ngữ, mà ngôn ngữ mới là sự thực. Ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể” [1, tr.25]. Quan niệm coi ngôn ngữ là bản thể đích thực của con người gợi nhớ đến triết lí Heidegger, và ở đây Văn Giá khéo léo lồng vào tác phẩm như một suy tưởng nghệ thuật. Phải chăng, ông muốn nhấn mạnh rằng chính tiếng nói (tư tưởng, lời văn) mới là bản thể nghệ thuật, còn những quy chiếu với thực tại chẳng qua là thứ yếu? Cũng trong Quạt giấy, nhân vật chiêm nghiệm về cái chết và nhận ra: “Không phải do bản thân cái chết, mà do toàn bộ đời sống tinh thần của anh đã có một diễn ngôn về cái chết” [1, tr.25]. Cái chết, suy cho cùng, cũng chỉ là một “diễn ngôn” – một câu chuyện mà mỗi người tự kể cho mình tùy theo bề dày trải nghiệm và niềm tin của họ. Những triết lí đan cài ấy nâng tầm ý nghĩa cho các truyện ngắn của Văn Giá, khiến chúng không chỉ gợi lên ý nghãi về đời sống mà còn đối thoại với những vấn đề tư tưởng, đạo đức mang tính phổ quát.
Tác giả Văn Giá với trải nghiệm của một nhà phê bình đã không ngần ngại “phát ngôn” những suy nghĩ tâm huyết về sứ mệnh của văn chương ngay trong tác phẩm. Có thể coi đây là tiếng nói của người sáng tạo, từ tư cách của người sáng tạo và tư cách của người làm nghiên cứu phê bình văn học. Ở truyện Quán ông già, nhân vật khẳng định mạnh mẽ: “Còn cái môn văn í à? Nó phải là văn thật, văn ra văn. Chứ văn giả văn ngụy thì nguy hiểm lắm…” [1, tr.189]. Lối nói khẩu ngữ nôm na “văn ra văn” nhưng ý tứ lại sâu sắc: tác giả đề cao tính chân thực, tính thiện mỹ của văn chương, xem “nhạt”, tức sự vô hồn, hời hợt là thứ “tội ác” trong nghề viết. Theo ông, văn chương giả dối sẽ “làm cho tâm trí con người ta âm u đi, tâm tính cũng đồi bại”, phá hoại đạo đức và làm biến chất những giá trị tốt đẹp [3]. Quan niệm này cho thấy tư tưởng nhất quán của Văn Giá: văn học phải gắn liền với đạo đức và trách nhiệm xã hội, người cầm bút phải viết bằng lương tâm và lòng tử tế. Đây cũng chính là tâm niệm khiến các truyện ngắn của ông, dù viết về đề tài gì, cũng phảng phất tấm lòng trắc ẩn và khát khao hướng thiện. Văn Giá không viết để phê phán hay cải tạo hiện thực một cách đao to búa lớn; ông viết trước hết để “thỏa mãn nhu cầu tự thân, sự thúc giục từ lương tri… về tình người, tình đời” [3]. Mỗi câu chuyện ông kể đều xuất phát từ sự rung động chân thành trước những vui buồn nhân thế, từ trách nhiệm của một trí thức muốn lưu giữ và truyền tải “những vang động của cuộc sống” bằng ngòi bút của mình[3].
Tóm lại, Ai nói & tại sao nói như thế là một bức tranh đa dạng về cuộc sống Việt Nam thời hiện đại, được biểu đạt qua nhiều cảnh huống và giọng nói khác nhau, nhưng cùng hội tụ ở tư tưởng nhân văn sâu sắc. Đó là sự đề cao tiếng nói cá nhân, đề cao lương tri, lòng nhân ái và những giá trị chân thực giữa đời sống phức tạp. Văn Giá đã khéo léo lồng ghép tiếng cười trào lộng với triết lí trầm tư, để lại cho người đọc những dư âm suy ngẫm về lẽ sống và cách sống. Những giá trị nội dung ấy làm nên sức nặng tư tưởng cho tập truyện, giúp tác phẩm vượt khỏi sự vụn vặt đời thường để chạm đến tầng ý nghĩa phổ quát về con người và tiếng nói.
2. Nghệ thuật kiến tạo những tiếng nói
Tập truyện là những thực hành nghệ thuật của một nhà văn “có nghề”, từng nhiều năm gắn với hoạt động giảng dạy nghề viết văn. Mỗi truyện ngắn của ông “thường có một chút thể nghiệm… về nghệ thuật tự sự”, thí dụ như cách sắp xếp văn bản, trộn giọng giữa người kể chuyện với nhân vật, điều chỉnh nhịp điệu trần thuật, tạo không khí truyện hay phi trung tâm hóa nhân vật/đa điểm nhìn. Tác gải Nguyên Linh cho rằng Văn Giá vốn là một nhà nghiên cứu về lí thuyết diễn ngôn đã chuyển hóa nhạy bén tinh thần lí thuyết ấy vào sáng tác. Ông ý thức sâu sắc việc mỗi cá nhân cất tiếng nói đều chịu sự chi phối của vô thức thuộc về văn hóa và bối cảnh xã hội, do đó trong văn chương, điều đáng quan tâm không chỉ là “nói cái gì” mà chính là “tại sao lại nói như thế”. Sự chuyển dịch trọng tâm từ “nói cái gì” sang “tại sao lại nói như thế” đã trở thành hướng thể nghiệm chủ đạo của Văn Giá, giúp ông tự làm mới mình và tạo nên những tìm tòi nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn, hàm chứa giá trị nhân văn sâu sắc[3]. Những tìm tòi ấy xuất phát một phần từ những trải nghiệm lí thuyết của một nhà phê bình, nhưng quan trọng hơn, chúng được áp dụng một cách đầy sáng tạo để hình thành nên phong cách riêng cho truyện ngắn của ông. Thay vì giấu đi kỹ thuật kể chuyện như nhiều nhà văn khác, nhà văn lại “trưng ra” nó ngay từ nhan đề táo bạo của tập sách. Điều này như một lời tuyên ngôn rằng người kể chuyện và cách kể chính là tâm điểm nghệ thuật của tác phẩm. Quả thật, đọc Ai nói & tại sao lại nói như thế, dễ nhận ra nhà văn đã kiến tạo và định hình thành công một dạng thức người kể chuyện, đó là “người kể hiểu chuyện” (Cao Kim Lan)[4].
Đặc điểm nổi bật của người kể hiểu chuyện nằm ở chỗ người kể này luôn tạo cảm giác đồng đẳng và đối thoại với nhân vật. Thay vì giữ khoảng cách hay lối dẫn chuyện quyền uy, người kể chuyện trong các truyện ngắn đã xóa bỏ khoảng cách trần thuật với nhân vật, xưng hô với nhân vật một cách rất đời thường, thậm chí suồng sã: “thằng”, “đứa”, “con mẹ này”…. Cách gọi ấy, theo nhà nghiên cứu Cao Kim Lan, đã đặt người kể và nhân vật vào vị thế ngang hàng, tạo nên sự thấu hiểu nhân vật và khiến “lời kể, lời dẫn, lời bình… luôn mang tính đối thoại”[4]. Chính vì hiểu nhân vật, nhập vào đời sống nhân vật đến mức đó, người kể chuyện mới có thể truyền tải trọn vẹn những thông điệp, tư tưởng của nhà văn một cách tự nhiên và thuyết phục. Nhà văn đã “tạo ra một lối kể, lối dẫn chuyện khá bất ngờ” khi xóa nhòa ranh giới giữa lời người kể và lời nhân vật[4]. Trong mạch truyện của ông, những đoạn hấp dẫn nhất chính là những chỗ văn bản trộn lẫn tất cả: lời dẫn chuyện hòa quyện với lời thoại và cả lời bình của người kể. Ông thậm chí lược bỏ tối đa các dấu hiệu câu thoại truyền thống (xuống dòng, ngoặc kép…), để dòng kể tuôn chảy tự nhiên, liền mạch như cuộc sống thật với “nhiều tiếng nói ồn ào, nhốn nháo” cùng cất lên một lúc. Thoạt nghe tưởng như hỗn độn, nhưng kì lạ thay người đọc vẫn có thể “hình dung rõ mồn một từng bước ngoặt, từng tiếng nói trong đám đông” ấy[4]. Lối viết đa thanh trộn giọng này đã tạo nên một bản hòa tấu lời kể độc đáo, một hình thức diễn ngôn mới mẻ trong truyện ngắn Việt Nam đương đại, ghi dấu ấn riêng của nhà văn Văn Giá.
Không chỉ mới mẻ ở cấu trúc giọng kể, ngôn ngữ nghệ thuật của tập truyện cũng rất hiện đại và giàu sức sống. Nhà văn sử dụng thứ ngôn ngữ đậm chất đời thường, linh hoạt biến hóa theo từng nhân vật và hoàn cảnh. Ông không ngại đưa vào truyện những câu từ suồng sã, khẩu ngữ, thậm chí cả tiếng lóng (“xì tin”, “phờ giờ sờ”,….) để làm sinh động lời văn, giúp tác phẩm gần gũi với hơi thở đời sống hôm nay. Chẳng hạn, lời kể ở truyện về người trẻ có thể có tính chất hóm hỉnh, tốc độ kể nhanh, chen lẫn tiếng lóng; lời kể trong truyện về người nhà quê lại mộc mạc, thủ thỉ như giọng quê…Nhờ vậy, mỗi truyện ngắn trong tập đều có một giọng riêng, góp phần thể hiện sâu hơn tính cách nhân vật và không khí câu chuyện. Văn phong chung của tập truyện được nhận xét là “nhàn tản, mộc mạc, hài hước, có phần chân chất”, tạo cảm giác “chuyện mà như không chuyện, thậm chí tầm phơ tầm phào nhưng cũng nhoi nhói, đáo để, cá tính” [2]. Quả thực, nhà văn có lối kể chuyện tưởng như tùy hứng, tản mạn, đôi chỗ cố ý tầm phào như người kể chuyện phiếm, nhưng ẩn sau đó lại là những quan sát rất tinh tế và những nút thắt suy tư bất ngờ. Nhiều truyện ngắn kết thúc bằng cú “twist” đảo chiều làm người đọc sửng sốt. Chẳng hạn truyện Diễn ngôn khiến độc giả “nhoi nhói” trước hình ảnh cô bé 13 tuổi tóc ướt bê bết nằm sõng soài – một hình ảnh bất ngờ tạo nên cao trào ám ảnh. Rõ ràng, cách kết truyện đầy biến hóa này vừa thỏa mãn yếu tố kịch tính của truyện ngắn, vừa mở ra những dư âm ám ảnh, bắt người đọc phải nghĩ ngợi thêm về ý nghĩa ẩn sau sự kiện.
Về kết cấu và nhịp điệu, thay vì cốt truyện được sắp đặt khúc chiết, mỗi câu chuyện của ông được để “chảy đi tự nhiên, theo cảm xúc” [2]. Mạch truyện vận động linh hoạt, nhịp điệu giãn nở tự do với nhiều câu văn ngắn đan xen câu dài tạo tiết tấu riêng, tự nhiên như chính lời nói. Lối kết cấu mở này cho phép tác giả tự do phiêu lưu trong dòng ý thức, đồng thời có thể cài những đoạn luận bình, triết lý. Chỉ đến cuối truyện, nhà văn mới “gút lại những nút thắt đầy suy tư”, gợi mở tầng ý nghĩa sâu xa hơn cho toàn bộ câu chuyện như thể là “lời kết” cho một dòng trạng thái, một phát ngôn. Một số truyện như Ba chuyện tầm phơ, Ăn sáng café, Một ngày Lão Hạc… thậm chí “giải thiêng” thể loại bằng cách pha trộn cả yếu tố báo chí, tùy bút vào truyện ngắn, khiến ranh giới giữa kí và truyện trở nên mờ nhòe. Sự pha trộn thể loại này tuy táo bạo nhưng rất ăn ý với tính cách ưa ngẫu hứng của nhà văn, đồng thời phản ánh đúng tinh thần văn chương hậu hiện đại là làm mờ ranh giới thể loại. Đôi chỗ, văn ông “gần với thơ, tiểu luận, thậm chí mang tính tiểu thuyết”, tạo nên một không gian thể nghiệm rộng mở cho người viết và người đọc cùng tương tác [2]. Nói cách khác, nhà văn pha trộn các thể loại lời nói khác nhau vào cuộc chuyện trò, đối thoại, tương tác của các nhân vật trong thế giới nghệ thuật, của nhà văn và độc giả. Tất cả những điều này cho thấy phong cách kể chuyện hiện đại, linh hoạt của nhà văn – một phong cách được trau dồi từ nền tảng học thuật tin cậy nhưng đã vượt thoát khỏi sự gò bó của lí thuyết để cất tiếng nói sáng tạo riêng. Chính nhờ vậy, dù mang tính thử nghiệm cao, Ai nói & tại sao lại nói như thế vẫn giữ được sức hấp dẫn tự nhiên, lôi cuốn người đọc bước vào thế giới truyện đầy mới lạ mà không hề cảm thấy khô cứng hàn lâm. Nhà văn đã thành công trong việc dung hòa giữa “diễn ngôn” lí thuyết và đời sống sinh động, biến những trang viết của mình thành sự kết hợp hài hòa giữa trí tuệ sắc sảo và cảm xúc chân thật. Đây là một đóng góp nghệ thuật đáng kể cho truyện ngắn Việt Nam hiện nay, cho thấy sự vận động không ngừng của thể loại.
Ai nói & tại sao nói như thế là tập truyện tạo được dấu ấn riêng của Văn Giá: hài hước mà thâm trầm, giản dị mà hàm súc, truyền thống mà hiện đại. Chính sự kết hợp hài hòa đó đã tạo nên một giá trị đặc sắc cho tác phẩm, vừa cuốn hút người đọc phổ thông bởi nhiều tiếng nói được cất lời qua những câu chuyện sinh động, vừa như một cuộc “trao đổi chuyên môn” trong giới nghiên cứu bằng hình tượng văn học.
3. Một cách tân nghệ thuật truyện ngắn
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định Ai nói & tại sao lại nói như thế là một tác phẩm kết tinh những suy ngẫm thế sự, thể hiện tư duy cách tân của nhà văn – nhà phê bình Văn Giá trong truyện ngắn. Giữa bối cảnh xã hội phức tạp, những trang viết của nhà văn thì thầm nhưng mãnh liệt, giản dị nhưng kiên quyết cất lên “những tiếng nói từ bên trong” con người – tiếng nói của lương tri, của khát vọng được thấu hiểu và sẻ chia. Đó là lý do đọc xong tập truyện, độc giả không chỉ đồng cảm với từng số phận nhân vật mà còn tự vấn chính mình: Ta đã thực sự lắng nghe người khác chưa? Ta có hiểu vì sao họ nói (hay không thể nói) những điều ấy? Qua việc khơi gợi những câu hỏi như vậy, tác phẩm đã thực hiện sứ mệnh tư tưởng của nó: khiến văn chương trở thành những suy tư, chất vấn về đời sống và lay động ý thức người đọc về tình người, đạo lí.
Tập truyện cũng đã có đóng góp quan trọng khi mở rộng biên độ thể nghiệm cho thể loại truyện ngắn. Nhà văn chứng minh rằng truyện ngắn đương đại có thể vượt thoát khỏi những công thức cổ điển để khoác lên mình diện mạo mới mang đậm hơi thở thời đại. Tác giả đã “định hình rõ nét phong cách truyện ngắn” của riêng mình, đồng thời có “những đóng góp đối với thực tế sáng tác hiện nay”. Ai nói & tại sao lại nói như thế cho thấy một cách tiếp cận mới trong trần thuật: lấy “tại sao nói” làm trọng tâm thay vì “nói cái gì”, tức chú trọng động cơ và quá trình kể hơn là sự kiện bề nổi. Cách tiếp cận này chịu ảnh hưởng của lý thuyết diễn ngôn nhưng đã được chuyển hóa thành một thực tiễn sáng tạo hiệu quả, góp phần hiện đại hóa phương thức tự sự trong văn học Việt. Hơn nữa, việc hình thành kiểu “người kể hiểu chuyện” với giọng điệu đối thoại, hòa giọng cùng nhân vật đã làm gia tăng tính đa thanh và sức thuyết phục cho truyện ngắn, mở ra hướng đi mới cho nghệ thuật kể chuyện. Rõ ràng, thành công của tập truyện không chỉ nằm ở chỗ kĩ thuật viết điêu luyện, mà còn ở chỗ trái tim người nghệ sĩ đập mạnh mẽ trong từng câu chữ – trái tim của một người luôn thao thức trước cuộc đời và dám thử nghiệm để truyền đạt trung thực nhịp đập ấy đến người đọc.
Ai nói và Tại sao lại nói như thế xứng đáng được xem như một “tiểu luận” đa thanh về cuộc đời bằng ngôn ngữ nghệ thuật – nơi mỗi câu chuyện nhỏ đều vang vọng những vấn đề lớn của nhân sinh, và mỗi tiếng nói đều tìm được chỗ đứng ý nghĩa trong bản hòa âm của cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Văn Giá (2024), Ai nói & tại sao nói như thế, Nxb Hội Nhà văn.
2. Đậu Dung, Ai nói & tại sao lại nói như thế của Văn Giá, Báo Tuổi trẻ Online, truy cập ngày 18/10/2024.
3. Nguyên Linh, Ai nói & tại sao lại nói như thế – Hãy mở căng lồng ngực đón nhận tất cả vang động cuộc sống, chuyên trang Văn hóa & Đời sống Thanh Hóa, truy cập ngày 30/11/2024.
4. Cao Kim Lan, Tập truyện “Ai nói & tại sao lại nói như thế” của Văn Giá: Tạo dựng một “kiểu người kể chuyện” riêng, Báo Thể thao & Văn hóa, truy cập ngày 23/09/2024.
5. Mai Lữ, Ra mắt tập truyện ngắn của nhà văn, nhà phê bình văn học Văn Gi, Báo Nhân Dân, truy cập ngày 20/09/2024.
6. Vũ Thảo Ngọc, Văn Giá và Ai nói & tại sao nói như thế, Trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai, truy cập ngày 12/08/2025.
7. Mai Anh Tuấn, Văn Giá với tập truyện Ai nói & tại sao lại nói như thế, Trang thông tin điện tử Hội Nhà văn Việt Nam, truy cập vào 21/09/2024.
16/10/2025
Vân Thủy
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Trong mạch nguồn câu chữ một miền thơ

Trong mạch nguồn câu chữ một miền thơ Từ đam mê văn chương rồi chuyển sang làm văn chương là lối đi thường thấy ở rất nhiều nhà văn của xứ...