Thứ Năm, 25 tháng 12, 2025

Thơ Hồ Sĩ Bình - Hành trình đi tìm thời gian và khám phá bản thể

Thơ Hồ Sĩ Bình - Hành trình đi tìm
thời gian và khám phá bản thể

Hồ Sĩ Bình là nhà thơ và nhà văn chuyên nghiệp với hành trình sáng tạo lâu dài và tạo được thi pháp riêng. Với tư cách hai trong một này đã giúp anh dung hợp chất văn và chất thơ một cách nghệ thuật trong từng tác phẩm để tạo thành diễn ngôn hấp dẫn cho từng thể loại.
Chỉ riêng thơ, tôi muốn nói đến phẩm tính mới mẻ, thấm đẫm chất hiện sinh hoang hoải trong tập thơ Ngậm ngải tìm trầm của anh do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2025. Những niềm vui, nỗi buồn hoang hoải đó bàng bạc qua từng cảm giác mơ hồ, rất nhẹ nhàng nhưng kéo dài ra không dứt trong hiện thực và những giấc mơ chập chờn, mộng mị của chính người thơ. Tất cả kết tinh lại thành cảm thức thời gian hoài vãng đẹp, buồn và trầm tư, khắc khoải. Hồ Sĩ Bình luôn đồng hiện, đưa những ký ức gần và ký ức xa về thời hiện tại đang tiếp diễn để tự tình, tự thoại và tự vấn nhằm làm sống lại những hoài niệm/ vọng niệm tưởng đã phôi phai, nhưng luôn đánh thức trong anh những gì đồng nghĩa với tình yêu và sự sống thật của chính mình và cõi người nhân hậu. Thơ Hồ Sĩ Bình, vì vậy, thuộc về mỹ học hoài vãng và mỹ học của cái cái đẹp mang cảm quan Đông phương, vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa hiện thực vừa tâm linh kết tinh thành cá tính sáng tạo qua từng hình tượng thơ, ngôn từ thơ.
Thời gian trong thơ Hồ Sĩ Bình hiện ra trên từng sự vật và chứng tích u trầm thông qua cái nhìn thực chứng và hiện tượng luận theo ý thức và kinh nghiệm chủ quan nên chân thật và sống động. Qua đó, anh thể hiện thế giới nội tâm của mình trong quan hệ với thế giới chung quanh, rút ra những thức nhận triết mỹ sâu sắc. Trước hết là với thiên nhiên và con người. Nhìn vào những đường vân trên thân gỗ, nhà thơ nghĩ về những gì liên quan đến các hiện tượng và sự vật, chúng ám gợi và đánh thức sự hiểu biết của mỗi chủ thể trong hiện tại: “thời gian chín dấu vân tròn của gỗ/ lời khuya chìm khắc vào thiết mộc/ lòng nặng vời vợi trăm năm/ ám gợi ước mơ trăng sao cuối trời/ chia hai nửa trên dấu chim di/ không ai dễ có quay đầu/ để bỏ lại nơi mình một chấm lửng”. Từ dấu chấm lửng đó, những hoài niệm và những câu hỏi liên quan đến mỗi phận người hiện ra ngúi ngùi, mơ hồ và xao động:
bao giờ về lại phố nhỏ/ chim chóc đâu còn ríu rít/ cho lòng tơ vương ngõ xưa bóng mẹ/ buổi người về hoa khế rụng vào vai ai/
ngọn khói nào bay qua trên ngấn mắt/ ngúi ngùi rồi xa cứ xa – (Người về)
Với hy vọng níu giữ thời gian và thiên nhiên như thế nên dù “cây và hoa đã bị lấy đi/ vẻ đẹp đã biến khỏi mặt đất/ trong vô vọng đồi xưa” thì không cần gì phải tiếc nuối kiếm tìm, vì “hoa đã trở lại trên tay ngà/ như tình yêu đã từ lâu chờ đợi/ nơi vườn nhà một màu tím biếc/ trong niềm kiêu hãnh” (Chiều bên đồi xưa). Vì vậy mà mọi âu lo và phi lý hiện sinh trong anh hình như cũng tan biến để còn lại bên đời vạt áo xanh trong mù sương ngày em về đọc lại câu thơ buồn nội phủ lưu cữu bóng mùa qua: “ái ngại dừng chân bên nội phủ/ ngạch cửa bên song đã vắng chờ/ câu thơ ai viết màu lưu cữu/ bỗng thấy người về với áo xanh”. Bao thơ dại bỗng ùa về tím hiên thềm những mùa hoa ngũ sắc rưng rức bốn mùa trong nắng trong mưa:
rưng rức bốn mùa hoa ngũ sắc/ lòng ai trải nắng dưới hiên thềm/ thơ dại mùa xưa ngày tím biếc/ ngồi đợi ngang trời mưa nửa đêm – (Áo xanh)
Hồ Sĩ Bình hình như bao giờ cũng nhìn thời gian trong hoang hoải đợi chờ trên từng khách thể với ý hướng biến mọi khách thể – từ đối tượng của cái nhìn trực quan thành đối tượng nội tại của ý thức thẩm mỹ. Khi ấy, mọi hình tượng/ đối tượng thơ đều trở thành ý hướng cảm xúc nội tâm, thành cảm hứng sáng tạo của chính tác giả. Anh lắng nghe sự diễn biến của mọi hiện tượng bên ngoài để hiểu lòng mình, để hưởng thụ cái đẹp khách quan thông qua sự hoài nhớ con người và thiên nhiên: “em ngỡ ngàng đồi xanh màu ráng đỏ/ rơi xuống hồ phiến lá hát vu vơ/ trời trở lạnh nghe giữa đời hữu hạn/ mà đại dương thăm thẳm biết ai chờ”. Cứ thế, người thơ tự thú, tự thoại với lòng mình:
đã nhiều năm ngồi thầm thào với đá/ biển lặng im dào dạt chẳng ai ngờ/ ngày em đến trời mùa thu hay mùa hạ/ biển từ em đã phủ sóng đời anh- (Phủ sóng)
Nhờ vậy, dẫu chưa về lại nơi ngày xưa từng lưu dấu, thì khu vườn cũ với dáng hình mẹ và em vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ: “chưa về ngõ ấy ngày em lại/ để thấy vườn xưa dặm dấu hoài/ cái buổi quay đầu nghe chiều ướt/ bóng mẹ nhoà theo những tàn phai” (cỏ thi). Đó là hiệu quả của hành trình đi tìm thời gian đã mất để truy tìm bản thể và kinh nghệm sống.
Từ cảm thức thời gian hoài vãng, Hồ Sĩ Bình tiến tới cảm thức về thiên nhiên bằng cái nhìn sinh thái luận, lấy con người và thiên nhiên làm trung tâm, mong điều bình, hòa hợp môi sinh. Tiếp nối các thi tập Mưa nắng lưng đèo (2021), Ngày sinh của gió (2021), Chờ hương thả gió (2024), đến Ngậm ngải tìm trầm (2025), Hồ Sĩ Bình luôn có cái nhìn thiên nhiên với cảm hứng sinh thái đạo đức – nhân văn đặc biệt, anh xem thiên nhiên như chủ thể trữ tình để tương hợp, tương cảm với con người trong từng không – thời gian cụ thể: “cũng là chiều gần như hơi thở/ sao hoang vu tắt nắng tự bao giờ/ người giữ mãi một loài hoa mắc nợ/ để đêm về tím biếc những câu thơ”. Sinh thái thiên nhiên được anh vọng niệm bằng những giả định có tính ban phát, cần cho con người hơn là cần cho chính nó, giúp con người bừng thức trước vẻ đẹp của mưa gió, trăng sao:
đừng tưởng gió mượn mưa ngâu làm dỗi/ chớ để trăng kia tàn lụi gót chân người/ nghe hát mãi ngập ngừng hương bổi hổi/
mà xác xơ buốt lạnh tiếng chim đồi – (Vọng niệm)
Những thông điệp tốt đẹp về môi sinh luôn được Hồ Sĩ Bình cảm nhận bằng kinh nghiệm sống qua (expérience vécue) nên anh nhìn thấy được bước đi của thời gian và sự hồi hộp của cỏ hoa tác động đến mỗi kỷ niệm vui buồn là có thật: “nhớ gì không/ thay đổi xiêm y cho mùa thu bối rối dưới chân đồi/ đi tìm lại mình màu rêu cũ âm vang quá vãng/ gửi chút vàng xưa hoa hoè sĩ tử/ đi tìm dấu chân của loài thú dữ hoá thạch”. Vì vậy, phút trùng ngộ trên đồi sau cách xa đã giúp cho hai tâm hồn thấy được những phôi phai và khắc khoải của thiên nhiên, khiến cho họ trầm tư và âu lo về phận người trong cõi thế:
mờ phai bông sứ rụng lã chã những niềm xưa/ ta nói với nhau điều gì trước lan can màu nguyệt quế/ trên bàn tay những dấu chỉ nối vào nhau tư lự phận người/ những phút giây trùng ngộ đã hẹn màu sương khói quan san – (Phút giây trùng ngộ trên đồi)
Dù vậy, anh vẫn hướng về những gì tin yêu và ân huệ của thiên nhiên rồi sẽ đến. Và con người bao giờ cũng luôn phải ý thức về sự hiện hữu của mình, biến mọi bất an và phi lý thành trách nhiệm và ước mơ tốt đẹp trước dòng sông thời gian đang thao thiết chảy: “không ai cứ ngồi kể chuyện bên cầu/ khi dòng sông chẳng hề quay lại”. Và con người, “không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông” như triết gia Hy Lạp cổ đại Héraclite đã nói trở thành thành triết lý sống cho những người biết sống:
nhưng phải nói một lần như lời nguyện/ này với em dòng sông kia tới biển/ dẫu bọt sóng tràn đâu dễ chia tay/ giây phút bên nhau mặn nồng lửa cháy/ ta cùng nhau về phía ấy chân mây – (Bài hát chỉ nghe lại một lần).
Điều đó đã trở thành ý thức níu giữ thời gian, phản động những logic thực tại khắc nghiệt, những phức cảm bất an của chính mình để mơ về một hiện thực tự do và có ý nghĩa cho đời sống mỗi nhân vị: “khi cánh cửa mở toang/ tiếng lao xao trên những viên sỏi nhỏ/ thức dậy nao nức cỏ hồng cỏ biếc/ trên những con đường nhỏ bỏ quên/ dẫu mùa xuân qua đã lâu/ trái tim thơ dại đập cánh bay lên/ rạo rực bên hồ phượng tím/ sóng vỗ về giấc mơ muộn màng” (Trong & ngoài). Và chỉ có cách ấy, mơ mộng sẽ thành khát vọng hóa giải mọi bi ai, giúp Hồ Sĩ Bình phân thân thành cái tôi với nhiều trạng thái trong thực tế và cả trong mơ nhằm phục chế những nếm trải của tình yêu và nỗi nhớ để: “đọc lại đời mình ở phía nơi em”. Khi ấy, em tràn ngập trong anh và không gian hoa cỏ trinh nguyên lại biếc xanh đến ngỡ ngàng trên mặt đất:
và nỗi nhớ dậy tràn tiếng sóng em/ đã giữ lại điều gì khi không thể/ nhưng đã níu lại những gì đã giữ – tình yêu//  tôi đọc sách khi những chiếc lá rụng xuống mặt đường/ để giữ mãi tiếng động khẽ khàng của lá chạm vào mặt đất – (Đọc lại)
Nhà thơ lắng nghe và yêu quý thiên nhiên, tìm kiếm những vẻ đẹp và biểu tượng mà thiên nhiên lưu giữ để làm giàu cho tâm hồn và làm đẹp chất thơ. Khi ấy, thiên nhiên thành chỗ dựa để con người hòa hợp, thăng bằng, tránh rơi vào tình trạng cô đơn: “em bước ra từ bạt ngàn hoa dại/ bằng đôi chân của hương thời gian/ và tiếng chuông chiêu mộ người muôn thuở/ tôi vẫn đi theo câu hát/ để tin rằng không hề ảo ảnh không hề là hư vô”. Có như vậy, con người mới “gửi lại những mật ngôn ẩn ngữ thật tội tình/ che giấu niềm yêu thương hồng lệ thế gian” (Trò chuyện cùng hoa dại) để cuối cùng, họ sẽ hạnh ngộ trong đời và trong tình yêu vì họ đã biết giấu yêu thương vào thời gian và thiên nhiên theo tinh thần đạo đức sinh thái, gửi niềm tin và lắng nghe sự tươi non và biếc xanh từ giấc mơ cỏ hát:
giấu yêu thương vào phù dung/ hoa chưa kịp cười với nắng/ anh cầm lên màu thời gian/ níu tay một đóa tầm xuân// giấu yêu thương vào cỏ hoa/ chồi non mang về tiếng hát/ thông ngàn vang lừng giai điệu/ trên tay người một đóa tương tư – (Giấu)
Dẫu có lúc xuất hiện tâm lý chênh chao và huyễn mộng thì trong thơ Hồ Sĩ Bình vẫn đẹp đến bao dung, không hề oán trách, người thơ nhận về mình tất cả bi tình để hiểu đời dâu bể: “tôi về ngồi chỗ của tôi/ vẽ vời mộng huyễn đủ rồi nhân gian/ / còn chi mơ với mưa ngàn/ vàng xưa áo lụa võ vàng hư hao// lối về ngõ nhỏ chênh chao/ mang theo một nỗi hồn đau tủi hờn” (Vàng xưa áo lụa). Vẫn có thiên nhiên và cỏ hoa thầm thì để xoa dịu nỗi ngùi thương người xưa, cảnh cũ: “em ngồi với những thì thầm/ trăng buồn thuở ấy xa xăm quê nhà// bên cầu rụng mấy bông hoa/ ngùi thương đá cũ người xa vô vàn”. Vọng niệm là cách tự điều bình tâm lý, tự thăng bằng tâm thế:
tường vi ai níu khẽ khàng/ mà nghe lã chã bàng hoàng khói sương/ bầm lên một chút vô thường/ mai về nơi ấy mà thương nỗi mình – (Bài thơ viết bên cầu)
Tôi đồ rằng Hồ Sĩ Bình có chịu ảnh hưởng ít nhiều các triết thuyết hiện đại trên thế giới nên trong thơ anh in đậm cảm thức hiện sinh của J. Paul Sartre, A. Camus, S. de Beauvoir, có cả dấu ấn phân tâm học của S. Freud, C. G. Jung và quan niệm hiện tượng luận của E. Husserl… Vì vậy mà cái nhìn liên sự vật, liên chủ thể và phức cảm tâm lý… được anh cắt nghĩa và lý giải bằng thơ với ngôn ngữ, hình ảnh khúc xạ, biến ảo bất ngờ thông qua trải nghiệm chủ quan, biến thành ý thức sáng tạo của anh.
Những vẻ đẹp của thiên nhiên và nỗi bi tình được Hồ Sĩ Bình gọi về trong hoang hoải của nỗi buồn, nhưng luôn sáng trong và quyến rũ: “áo hoa thêu nắng tháng giêng non/ em vô tình đuổi mùa thu ra cửa lớp/ nhưng tóc xoã nhịp chiều như ngọn khói/ trong mắt ai đã rụng lá ngô đồng” (bốn mùa cửa lớp). Những ngày Đà Lạt vắng nhau, ngồi trên đồi thông trong chiều nghe gió hú, dẫu bao người vắng mặt, thì trong khuya khoắt, Đà Lạt vẫn hiện lên: “những bức tranh đã bị gỡ bỏ/ phôi phai một sắc xanh hư huyền/ dư âm một chỗ ngồi bỏ cuộc”. Đà Lạt trong tôi và em cũng như cảnh vật ngày nào giờ đã đổi thay như có bàn tay bùa phép của mụ phù thủy độc ác khiến em buồn muốn khóc:
cây đào cũng bị tróc tận rễ/ những cây thông biến mất/ bàn tay phù thủy/ đã đổ sụp/ vùi cây thập tự xuống mồ kí ức/ sơn quỳ qua đèo em muốn khóc
Chỉ còn đây em và tôi trong ngậm ngùi, tiếc nuối. Và tôi muốn nghe em kể về Đà Lạt những mùa vàng dọc những con đường quanh co mù sương chìm khuất, nơi chúng mình hò hẹn nghe chuông giáo đường ngân trong chiều lộng gió: “sao em không kể hết cho tôi nghe/ những con đường Đà Lạt ngày xưa/ lộng lẫy mùa vàng” (Đà Lạt và tôi). Dẫu xa mặt, nhưng không cách lòng, tưởng đâu đây bên tai tiếng thì thầm và bài thánh ca cứu rỗi một tâm tình phiêu lãng:
tôi nghe như tiếng hát thánh ca bên nhà thờ/ đẹp như sự cứu rỗi/ ma mị lòng tôi những ngày phiêu dạt/ một tiếng nói thầm bên tai/ tôi không thấy mặt người xa quá – (Lại nhớ rừng)
Ngay cả con người và cảnh vật nơi đất khách xa xôi như Tô Đông Pha thời Tống ở Trung Hoa cách chúng ta ngàn năm trước cũng được Hồ Sĩ Bình đồng hiện thành đối tượng nội tâm của ý thức để ngưỡng vọng một nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị lừng danh. Tưởng như Tô Đông Pha hiện ra trước mắt ta đang thả bút, đề thơ khiến cho nước Tây Hồ trong gió chiều dậy sóng và lệ liễu xõa buồn vương vấn trước hoàng hôn. Cái tôi trữ tình nhập vai hiện lên đối thoại cùng em và cảnh vật:
liễu rủ liễu xanh vương vấn liễu dệt tơ trời/ áo lục biếc lụa mềm rộng dài ngút ngàn đầy gió/ những bài thơ thơm thảo ngàn năm còn dậy sóng bên hồ/ nhớ tô đông pha ảo huyễn lồng lộng/ vầng trăng biếm trích lưu đày xiêu xác/ những phương trời lữ thứ danh sĩ phiêu lạc một đời thơ// đăm đắm lệ liễu trời quê lã chã nhòe ướt trang văn/ thơm màu nỗi buồn vạn kiếp/ em có bao giờ tương ngộ liễu tây hồ – (Liễu tây hồ)
Hồ Sĩ Bình cũng nhập vai vào những người ngậm ngải tìm trầm để đồng cảm, thán phục họ. Trước những gian nan, hệ lụy nơi rừng sâu, núi thẳm hay những khu rừng nguyên sinh rùng rợn và ma quái vây bủa, nhưng những điệu trầm/ phu trầm vẫn làm chủ, dũng cảm vượt lên mọi thử thách để thỏa mãn khát vọng có tính hiện thực và phiêu lưu, đến cho được “nơi tiên nữ” đã hóa thành “thân kỳ mộc” và quyết mang về loài gỗ trầm quý đã “tích tụ thành hương”, bởi họ tin rằng thiện duyên vẫn chờ mình phía trước: “không thiện duyên không có ngày sáng rực/ lửa cháy rừng kỳ mộc hội kỳ duyên” (tìm). Và cuối cùng, nhà thơ đã thỏa mãn cơn khát đi tìm cái đẹp từ những người ngậm ngải tìm trầm bằng cơ chế tâm lý tự vệ, tin yêu vào khát vọng và sự quyết đoán của chính họ truyền sang cho mình:
kẻ ngậm ngải tìm trầm/ những khu rừng nguyên sinh/ hàng vạn vạn cây dó bầu/ triệu triệu cơn gió xô nhau quần thảo/ tự vết thương tổn đời mình tích tụ thành hương/ ủ kín nỗi đau kia giữ lại kỳ nam/ dâng tặng người ngậm ngải// người có biết không kẻ đi tìm/ bạc mặt rừng râu tóc/ nơi tiên nữ hoá thân kỳ mộc – (Ngậm ngải tìm trầm)
Dẫu khi những lối đi đã khép lại thì những bất an, những cánh hoa có thể sẽ bị rơi vào quên lãng: “khi cánh cửa ngõ đã khép lại/ những bất an và lo âu trên những cánh hoa tô liên quên lãng dưới chân người” và dẫu khi “những khái niệm đẹp đẽ đã được tôn vinh khước từ một số phận/ che giấu một điều giả dối và sự tàn nhẫn/ tội lỗi và ân hận” (Khép lại), thì con người vẫn khát khao đi tìm những viễn cảnh tốt đẹp. Vì vậy mà trong thơ Hồ Sĩ Bình xuất hiện kiểu diễn ngôn khác mang tính phản vệ hiện thực. Nhà thơ muốn phủ định tâm lý bất an kia bằng sự phủ định – một cơ chế của tâm lý tự vệ mà từ đó, anh tin rằng mọi quan hệ cuộc sống vẫn diễn ra theo quy luật của cái đẹp và nhân tính: “tôi vẫn đi theo câu hát/ để tin rằng không hề ảo ảnh/ không hề là hư vô// và gửi lại những mật ngôn ẩn ngữ/ che giấu niềm yêu thương hồng lệ thế gian”. Con người sẽ dũng cảm vượt qua mọi rào cản của quyền uy và thế tục để tìm đến hạnh phúc dẫu đó là nơi bắt đầu của giấc mơ muộn màng, xưa cũ:
tôi sẽ bước qua khung cửa hẹp/ như lời nguyền trong kinh thánh/ để nói lời yêu dấu trong khổ lụy/ của một đời lăn trầm/ bất chợt hạnh ngộ vòng nguyệt quế tình xa.- (Nơi giấc mơ bắt đầu đã muộn màng)
Niềm tin trên hành trình đi tìm thời gian đã mất trong Ngậm ngải tìm trầm của Hồ Sĩ Bình luôn xuất phát từ hồi ức/ ký ức nội tâm, nương theo sự tương hợp giữa âm thanh, màu sắc, hương thơm, có cả cái đẹp của sự vật, hiện tượng, những vui buồn của tình yêu và ân nghĩa quanh đời. Tất cả đều hiện lên chân thật dẫu có lúc hoang hoải và kéo dài trong im lặng bằng tiếng nói thi ca. Qua đó, anh muốn thi ca trở thành cứu cánh, thành bản giao hưởng về thời gian và dòng chảy của ký ức mà anh lưu giữ trong hiện thực và cả trong giấc mơ: “lời tạ ơn vớt lên từ ký ức/ khi hạ thấp nỗi buồn xuống/ thầm thì lặng lẽ bên em/ phía nào cũng sóng/ thơ dại vỗ về thơ dại mênh mang/ dòng sông cửa nhà chè tàu ngõ vắng” (Lời tạ ơn vớt lên từ ký ức).
Những thanh xuân cứ thế cùng nhau về gọi cửa:/ đôi mắt ai đã đẫm màu dâu bể/ nhưng thanh xuân vẫn gõ cửa bên đời/ lúng liếng nụ cười tươi vui đến thế/ rũ hương bay nắng sớm trên đồi – (Màu hoa sóng dội)
Những miền ký ức đẹp, buồn, trầm tư, khát khao và mơ mộng giờ được chủ thể trữ tình suy tư và chiêm cảm sâu sắc hơn. Vì vậy, ý nghĩa của những ký ức càng thâm trầm, thâm thúy hơn: “những hẹn ước sợ sự đời hư ảo/ và chiêm bao ngờ ngật với non ngàn/ xuân ơi sao khép lòng mà hoa nở/ để đường dài ngun ngút bóng sương tan” (Màu hoa sóng dội). Cứ thế, nhà thơ thông diễn với chúng ta những gì có thật của chính mình, nhưng có khả năng nội cảm và lây lan cảm xúc trong lòng người đọc, đem lại lượng thông tin tâm hồn và nhân sinh quan mới cho người tiếp nhận:
cũng là chiều gần như hơi thở/ sao hoang vu tắt nắng tự bao giờ/ người giữ mãi một loài hoa mắc nợ/ để đêm về tím biếc những câu thơ – (Gửi phố núi ngày xa)
Trên đây là cách tiếp nhận của tôi về thơ Hồ Sĩ Bình ở bình diện nội dung hiện thực và triết mỹ. Những bạn đọc khác sẽ có cách tiếp nhận khác về hồn thơ và chất thơ Hồ Sĩ Bình. Những gì mà thơ anh thông diễn sẽ đem lại những hiểu biết và kinh nghiệm hiện sinh cho con người, giúp họ chiếm lĩnh và cắt nghĩa mọi sự vật và hiện tượng theo tinh thần gia tăng hoặc giảm trừ hiện tượng luận để được thỏa mãn mục đích đi tìm thời gian đã mất và ý nghĩa của cuộc đời.
Rất tiếc là trong bài viết ngắn này, tôi chưa chỉ ra thi pháp biểu hiện của thơ anh ở bình diện: ngôn từ (điển phạm, từ Hán – Việt), biểu tượng, biểu trưng, tiết tấu, vần điệu, nhạc tính, các biện pháp tu từ – những yếu tố hình thức mang tính quan niệm, tạo nên sự hàm ẩn, súc tích cho quá trình tạo sinh nghĩa của thơ anh. Có dịp, chúng tôi sẽ tìm hiểu những yếu tố nghệ thuật trên trong những bài viết khác.
Hồ Sĩ Bình là nhà thơ của tình yêu và nỗi ám ảnh nhân sinh, thế sự đến bao dung và nhân ái. Trên hành trình đi tìm thời gian và khám phá bản thể ấy, nhà thơ đã tự hiện hữu mình thành cái tôi tự thuật và cái tôi nhập vai, nếm trải để đồng hiện những ký ức và hiện thực quá vãng; từ đó, phát hiện ý nghĩa mới, ý nghĩa bổ sung cho từng sự vật, hiện tượng và quan hệ để làm đầy nhận thức và hy vọng vào những điều tốt đẹp rồi sẽ đến trong hiện tại và tương lai. Thời gian và thiên nhiên trong thơ anh đã trở thành hình tượng mang tính biểu trưng, có khi là cổ mẫu để anh nhập vai, đối chiếu nhằm tìm ra giá trị của cuộc sống và kinh nghiệm sáng tạo thi ca của mình. Muốn vậy, anh phải luôn nỗ lực vượt qua mọi thử thách, gian khổ, không ngừng tư duy để sáng tạo nên Cái mới và Cái khác cho thi ca, giống như những người ngậm ngải tìm trầm vượt qua ngàn gian nan, hệ lụy để tìm và mang về cho được những thân kỳ mộc đã hóa trầm trong ruột và tích tụ thành hương.
Vỹ Dạ - Huế,18/7/2025
Hồ Thế Hà
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Trong mạch nguồn câu chữ một miền thơ

Trong mạch nguồn câu chữ một miền thơ Từ đam mê văn chương rồi chuyển sang làm văn chương là lối đi thường thấy ở rất nhiều nhà văn của xứ...