ĐẠO
PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG DÂN TỘC
Trí
Bửu Nguyễn Thừa
“Trang sử Phật
Đồng thời là
trang sử Việt,
Trải bao độ
hưng suy
Có nguy mà
chẳng mất...”
Hồ Dzếnh
Đạo
Phật truyền vào nước ta khoảng những năm đầu Công nguyên, đã trở thành một
trong những hệ tư tưởng có sức sống lâu dài nhất và song hành cùng Dân tộc
trong mọi thời đại. Chính vì vậy, văn hóa Phật giáo ảnh hưởng rất sâu rộng
đến đời sống của dân tộc .
Đạo
Phật đã thích ứng với mọi hoàn cảnh lịch sử của Dân tộc, hòa nhập cùng Dân
tộc như nước với sữa, đã trở thành một tôn giáo rất gần gũi, thân
thương với Dân tộc và con người Việt Nam.
“Mái Chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của Tổ tông…”
Có thể nói, đây là sự hòa mình của Đạo Phật, là quá trình
Đạo Phật dần dần được dân gian Việt Nam hóa, biến thành một phần của cơ thể
xã hội Việt Nam. Vì thế, “ Đạo Phật trong đời sống dân tộc” là
máu và thịt, là tim và óc trong một cơ thể của một con người.
Ngược dòng lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm trăm
năm, giữa lúc xã hội Ấn Độ đang rối ren, nhân dân cơ cực lầm than, bởi chế độ
phân chia đẳng cấp hết sức khắc nghiệt, Thái tử Tất-Đạt-Đa, một Thái tử có
lòng vị tha rộng lớn, chiêm nghiệm về nỗi khổ ở đời, đã quyết định hy sinh đời
sống vương giả, để tìm cách giải thoát đau khổ cho nhân loại. Tất-Đạt-Đa, con
Vua Tịnh-Phạn và Hoàng Hậu Ma-Gia, nước Ca-tỳ-la-vệ, xứ Ấn Độ. Sau năm năm tầm
đạo, sáu năm tu khổ hạnh, bốn mươi chín ngày ngồi thiền định đưới
gốc cây Bồ đề, Ngài đã thành bậc chánh đẳng, chánh giác, hiệu là
Thích-Ca Mâu-Ni.
Đạo Phật quan niệm bản thể của vũ trụ là chân như, có
có, không không. Các hiện tượng là vô thường, luôn luôn chuyển động. Trong sự
sống có cái chết, chết là điều kiện cho sự sinh thành mới. Thời gian là vô
cùng, không gian là vô tận. Trong vũ trụ có đến ba ngàn thế giới, đời thì có
nhiều kiếp, một tiểu kiếp có đến mười sáu triệu năm, và con người ở trong
vòng luân hồi sinh tử.
Dựa vào các sử liệu, hiện nay hầu hết các Sử gia đều đồng
ý với những điểm cơ bản như sau :
- Đạo Phật đã đến Việt Nam trước hết là đường biển, theo
bước chân của các doanh nhân và Tăng sĩ Ấn Độ.
- Đạo Phật được truyền đến Việt Nam trước khi đến Trung
Hoa. Trong giai đoạn khai sinh, Phật giáo Việt Nam cũng đã hưng thịnh hơn Phật
giáo Trung Hoa cùng thời.
Trong “Lĩnh Nam Chích Quái” của Vũ Quỳnh, Kiều
Phú “Truyện Nhất Dạ Trạch” -còn gọi là “Truyện Chử Đồng Tử”- đã
viết:
“Hùng Vương truyền tới đời thứ ba thì sinh hạ
được người con gái là Tiên Dung Mỵ Nương, đến tuổi mười tám dung mạo
đẹp đẽ nhưng Công chúa chỉ mãi mê vui chơi, chu du khắp thiên hạ. Hồi
đó ở làng Chữ Xá, cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh
hạ được Chử Đồng Tử, Tiên Dung gặp Chử Đồng Tử trong một tình huống
thật đặc biệt và cho đó là duyên trời định nên hai người kết duyên
chồng vợ. Bây giờ ở núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, Đồng Tử lên
am chơi gặp Tiểu tăng là Ngưởng Quang (còn gọi là Phật Quang) giác
ngộ cho Đồng Tử, Đồng Tử trở về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung và
Tiên Dung giác ngộ…”
Một sử liệu khác chứng minh rằng đạo Phật đã đến và đã
hưng thịnh ở Việt Nam trước khi du nhập và phát triển tại Trung Quốc được ghi
trong sách “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục” chuyện trong một lễ Trai Tăng vào ngày
rằm tháng hai năm 1096, tại Kinh thành Thăng Long, bà Hoàng Thái Hậu Phù Cẩm
Linh, tức Vương Phi Ỷ Lan hỏi Thiền sư Trí Không, (sau được tôn làm Thông Biện
quốc sư) “Đạo Phật đến nước ta hồi nào?” Các vị sư ngồi im lặng, riêng Thiền sư
Trí Không đã trả lời như sau : “Xét chuyện Đàm Thiên pháp sư, ta thấy từ đời
Tùy Cao Tổ, Phật pháp được nâng đỡ rất nhiều. Vua Văn Đế nói : “Ta muốn làm
chùa Tháp ở Giao Châu để cho phước được thấm nhuần đại thiên thế giới . . .”
Pháp Sư Đàm Thiên liền tâu : “Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc (Ấn Độ).
Khi Phật giáo mới tới Giang Đông chưa đầy đủ thì ở Thủ Phủ Luy Lâu của Giao
Châu đã có tới hai mươi ngôi chùa, độ được hơn 500 vị Tăng già và dịch được 15
cuốn Kinh rồi. Như vậy, Phật giáo được truyền đến Giao Châu trước khi đến Giang
Đông”.
Trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có một
hệ thống tín ngưỡng, phong tục trong dân gian vô cùng phong phú. Người Việt
quan niệm rằng : “Ông Trời ở trên cao có thể nhìn thấy mọi việc dưới đất, biết
trừng phạt kẻ làm ác, giúp đỡ kẻ làm lành… Ông Trời có những thuộc hạ gần xa.
Gần thì có ông Sấm, bà Sét, xa có Sơn Tinh, Thủy Tinh, thần núi Tản Viên, thần
cây đa, ông Táo, ông Địa.... Linh hồn con người không hẳn là bất diệt, nhưng có
thể tồn tại một thời gian khá lâu quanh quẩn bên xác người chết và có thể ở
chung với người thân thích còn sống trong một thời gian để che chở, bảo hộ.”(Nguyễn
Lang-Việt Nam Phật giáo Sử luận)
Như thế, ngay từ buổi mới du nhập vào đất Việt,
Phật giáo đã hòa quyện, hội nhập trong lòng Dân tộc. Khi đất nước trãi qua ngàn
năm Bắc thuộc, Phật giáo cùng chung số phận khổ nhục, đau thương, ẩn nhẫn, chịu
đựng. Đến nữa Thế kỷ thứ X, khi dân tộc vùng lên giành độc lập thì tức khắc
Phật giáo đã cùng dân tộc đồng hành xây dựng, phát triển quê hương.
Rồi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần là thiên sử “Anh
hùng ca” dài bốn trăm năm mươi năm, chẳng những chứng minh tinh thần độc lập,
hào hùng, bất khuất của Dân tộc mà đồng thời khẳng định tinh thần gắn liền Đạo
pháp với Dân tộc của Phật giáo Việt Nam, là điểm son, là dấu ấn truyền thống
đặc thù của Phật giáo Việt Nam trong lòng Dân tộc.
Thế kỷ XX, cả dân tộc đứng lên chống Thực dân và Đế quốc
giành lại chủ quyền cho Dân tộc thì Phật giáo Việt Nam lại một lần nữa khẳng
định vai trò của mình, kề vai sát cánh cùng nhân dân để đấu tranh thực thi
khát vọng hòa bình, hạnh phúc.
Ngày nay, với phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
càng khẳng định tính chất gắn bó giữa Phật giáo với Dân tộc Việt Nam.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta không lạ gì với
những biểu tượng của Phật giáo. Những hình ảnh đó được thể hiện trong đời sống
một cách tự nhiên:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng
chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương…”
Hoặc:
“Dù ai đi đâu, ở đâu,
Đến ngày Phật Đản năm châu cùng về.
Dù ai buôn bán trăm bề,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét