Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Tình ca giáo viên miền núi 2

Tình ca giáo viên miền núi 2

Chương 27
Tôi đi nhanh trên đường mòn về làng Ea Nang và lách mình theo lối nhỏ xuống thác nước. Trời đang nắng nên việc xuống suối tắm là chuyện thường tình. Vả lại, mấy ngày nay, tôi đã đi tới đây và quen thuộc dạn dĩ vì khu thác nước này hẻo lánh ít người đi lại. Cả mấy ngày không thấy bóng một người Thượng nào. Nhưng dù sao, tôi lúc nào cũng phải cẩn thận, bỏ ba lô xuống, cởi quần áo ra, bơi vòng vòng một hồi, ngó qua ngó lại, không thấy ai rình rập rồi mới dám lách mình qua màn nước để vào trong hang.
Từ ngoài trời vào trong hang, hang mờ tối, không thấy dáng một ai. Tôi nhắm mắt lại rồi mở ra cho quen với bóng tối trong hang. Tiếng nước thác đổ ào ào, tôi nhìn quanh quất cũng không thấy anh Trung và anh Tâm đâu. Tôi dụi mắt và đi sâu vào hang, vào góc tối, chỗ hai anh thường nằm ngủ. Ba lô đồ đạc cũng không còn. Hay các anh có việc gì?
Không thể được vì chiều qua các anh thật vui vẻ vì anh Tâm đã bình phục và mừng là tôi tự nguyện dẫn các anh đi một đoạn đường. Không có dấu vết giằng co, hay giết chóc. Tôi vấp phải cục đất to, suýt ngã. Tôi cúi xuống xoa bàn chân bị đau thì thấy một phong bì dầy. Tôi nhặt lên, đoán rằng đó là thư các anh viết để lại. Vừa thất vọng là các anh đã không chờ tôi, vừa mừng là các anh không việc gì. Tôi ra ngoài gần cửa hang, nơi có ánh sáng, bóc thư ra đọc:
Anh Q.
Bọn này tối qua đã bàn luận với nhau và quyết định không nên phiền lụy anh quá nhiều. Anh đã giúp T và T rất chân tình như một người trong gia đình làm bọn này cảm động và biết ơn lắm. Bọn này thành thật cám ơn anh đã tận tình giúp đỡ những ngày qua.
Sơ đồ anh phác hoạ cũng như bản đồ, địa bàn, lương thực và những lời hướng dẫn của anh sẽ giúp bọn này rất nhiều. Bọn này được anh chuẩn bị như vậy thật là chu đáo, mọi sự phó mặc vào số phận. Nếu chẳng may không thành công thì đó là tại số chứ không phải vì anh hay bọn này thiếu chuẩn bị.
Chúc anh thành công với mộng ước anh theo đuổị
T & T
Tái bút: Xin gởi anh ít tiền còn lại, bọn này sẽ không còn dịp xài tiền đó nữa.
Tôi mở phong bì coi lại, đếm ra được 500 đồng tiền mới. Tổng cộng hơn một năm lương giáo viên của tôi mỗi tháng được 36 đồng. Tôi tiếc hai anh đã không ghi lại gì cho gia đình hai anh hay để địa chỉ để sau này có dịp tôi liên lạc. Tôi định bụng sẽ hỏi Nhung và các bạn của nàng, may ra sẽ có người biết chỗ ở của hai anh. Số tiền này không phải nhỏ, tôi sẽ giữ và đưa lại cho gia đình hai anh ấy. Tôi định bụng lúc bấy giờ vậy, chứ không biết phải chi vào việc khác sau này.
Tôi lách ra khỏi hang, đem tiền và bức thư nhét vào túi nhỏ trong ba lô. Tôi sẽ phải đốt bức thư đó càng sớm càng tốt kẻo lỡ có người nào đọc được thì khổ. Trời vẫn đang trưa, tôi lại không phải đưa anh Trung và anh Tâm đi nên tôi thong thả bơi dưới suối một hồi.
Giòng nước mát lạnh. Chỉ có tôi bơi như con rái cá cô đơn, bỗng nhiên tôi thấy nhớ hai người bạn mới của tôi. Không biết giờ này hai anh đã đi tới đâu rồi, có vững vàng tự tin như trong thư đã viết không. Tôi cũng thầm cảm ơn Trời và cầu nguyện cho hai anh ra đi bình an. Mọi việc như đã được xếp đặt trước. Nếu hai anh chờ, tôi sẽ đưa hai anh đi tới ngày hôm sau, và làng Kờ Mông sẽ thiếu giáo viên đêm nay. Thế nào rồi cũng bị phản ảnh lên trên là chúng tôi không tận tình dạy học. Tôi thì không hề gì, nhưng cô Liễu sẽ bị kiểm điểm và phiền toái vì đi quá phép. Tôi cầu mong cô Liễu sớm lên trở lại vì tôi chỉ có thể thay cô dạy thế mấy ngày chứ tôi phải lo công việc của tôi nữa. Tôi định sẽ chỉ trách nhẹ thôi chứ không kiểm điểm chi cho lớn chuyện khi cô Liễu lên. Cũng là giáo viên cả, đôi khi cũng phải linh động chứ! Tôi nhủ thầm.
Tôi đi tới làng Nang định đi theo đường nhỏ trong rừng dẫn tới làng Kờ Mông chứ không ra đường cái chính phải đi ngang Phòng Giáo Dục lỡ gặp người nào phải giải thích lôi thôi. Tôi ghé nhà cô Hạnh để nghỉ mệt khi cô đang chuẩn bị nấu cơm chiều trước khi ăn rồi lên lớp dạy buổi tối. Khi cô Hạnh biết tôi đi qua làng Kờ Mông dạy thế cô Liễu, cô Hạnh mời tôi ở lại:
-- Quang ở lại ăn cơm chiều rồi hãy đi nhé!
Hôm nay tôi cũng lười vì nhiều chuyện suy nghĩ nên đáp nửa đùa nửa thật:
-- Được, cám ơn chị Hạnh. Mà có đủ phần ăn không đấy?
Tôi mở bao lô lấy phần còn lại của mớ gạo nếp mới đổi ở làng Ea Rông để cho anh Trung và Tâm dùng để nấu cơm ống dễ ăn khi đi đường. Các anh chỉ cần chặt lồ ô hoặc nứa rồi bỏ gạo nếp vào một phần ba ống nứa, đổ nước đầy vào, rồi nướng. Cơm ống có thể giữ lại cả ba bốn ngày, khi nào ăn thì chẻ ống nứa ra, cơm áo dài chắc ăn lâu tiêu. Những người ở vùng cao, lạnh thường ăn cơm nếp nhiều hơn cơm tẻ vì no lâu. Hai anh Trung và Tâm đã xếp đồ vào ba lô nặng đầy nên phần còn dư tôi đem về. Hôm nay đưa cho cô Hạnh. Cô Hạnh nói thấy gạo nếp nói:
-- Vậy để Hạnh nấu xôi nha! Có ít đậu xanh xay sẵn nè! Mấy hôm rồi ông Đoàn ra đây bọn này nấu chè ăn hoài. Hôm thì ở đây, hôm thì ở làng Kờ Mông. Vui phải biết!
-- Ừ nhé! Vui vậy có quên dạy học không?
-- Đâu có! Bọn này biết điều mà đâu dám để phiền toái đến Quang đâu.
Tôi cười:
-- Chọc anh chị vậy thôi, chứ có dịp thuận tiện Quang sẽ sắp xếp cho anh chị ở gần nhau để động viên tinh thần lẫn nhau.
-- Nhớ đó nha! Quang mà thất hứa, hổng mời dự đám cưới bọn này đó!
-- Chao ơi, đã tính đám cưới rồi sao?
-- Ừ, bọn này tính càng sớm càng tốt đó! Sức khoẻ ông Đoàn cũng không tốt lắm, nếu có người chăm sóc ổng, chắc ổng đỡ hơn!
-- Suy nghĩ kỹ dữ ha! Mà gia đình hai bên đồng ý chưa?
-- Chưa hỏi, nhưng bọn này trên hai mươi mốt hết rồi, không còn con nít như Quang mà phải có sự đồng ý của gia đình.
-- Ngon dữ, dám coi Quang là con nít! Chị không sợ Quang trả thù sao?
-- Quang mà thù ai!
-- Biết đâu đó! Đụng tới nồi cơm chén gạo của Quang, Quang trù chết luôn cho coi!
Chúng tôi đùa qua đùa lại trong khi chờ nồi xôi chín. Tôi nhủ lòng sẽ tạo dịp cho hai người về thị xã cùng một lúc, biết đâu gia đình hai bên đồng ý, hai người sẽ nên duyên vợ chồng. Tôi thấy chị Hạnh rất tốt, có lẽ anh Đoàn là người may mắn mới gặp chị ở đây. Chị Hạnh là người khoẻ mạnh, có nét đơn nhu thuần hậu không bon chen, biết chăm sóc cho anh Đoàn là người có vẻ yếu đuối bệnh tật. Tôi suy nghĩ tới luật mâu thuẫn tự nhiên, luật bù trừ mà hoá công đã dựng nên, "Được vợ mất chồng, được chồng mất vợ!" Có phải tại hai thái cực thu hút, hấp dẫn nhau hay không?
Chương 28
Mọi người đã đi hết sau khi vệ sinh và ăn sáng. Già trẻ lớn bé đều đi cả, người thì đi làm, người thì đi học, chỉ còn một mình tôi. Lúc người Thượng đi vắng, người ta chỉ khép cửa chứ không có khoá. Mọi người tôn trọng tài sản và qúi trọng lẫn nhau. Chỉ có những người bệnh mới ở nhà hay những trẻ nhỏ đang tuổi đi học nếu có giáo viên phổ thông ở gần đó. Làng Kờ Mông nằm dọc theo đường chính lên Phòng Giáo Dục và có hai làng khác gần đó, cũng như khu vực kinh tế mới Thạnh Đức của người Kinh mới thành lập nên trường lớp phổ thông tương đối đầy đủ. Có đủ các lớp Cấp I, tức là tiểu học, từ lớp 1 đến lớp 5. Cấp II thì chỉ có học sinh tới lớp 8. Học sinh cấp II toàn là người Kinh từ dưới Qui Nhơn đi lên.
Tôi đang soạn bài cho kỳ huấn luyện giáo viên Thượng thì có tiếng người đi lên. Tôi ngưng viết ngẩng mặt lên xem có phải là cô Liễu trở lại không. Tôi nghe thấy tiếng cô Liễu:
-- Đây là nhà Liễu ở. Mời anh Tài lên nhà!
Có tiếng người nói lại, chắc là tiếng thầy Tài, một giáo viên ở B 3.
-- Nhà lớn đó chứ! Hình như dài và rộng hơn các nhà khác!
-- Có lẽ vậy, nhà này là của ấp trưởng mà!
Cô Liễu giật mình khi thấy tôi đang ngồi trong góc nhà, chỗ cô ở:
-- Anh Quang, tới đây hồi nào vậỷ
-- Quang tới chiều hôm qua, khi thầy Đoàn vào làng Ea Rông lại và báo là Liễu chưa thấy lên.
Tôi đứng dậy chào và bắt tay thầy Tài
-- Anh Tài lên chơi hở?
Anh Tài ngần ngừ gãi đầu trả lời:
-- Tài muốn xin đổi chỗ dạy với Liễu. Hôm trước Lực và Tài gặp Liễu và Mai ở thị xã nói chuyện vui chơi, rồi chuyện này sang chuyện khác... Liễu có lên B3 và gặp giáo viên chuyên trách trên đó.
Tài bỏ ba lô xuống, lấy thư giới thiệu đưa cho tôi:
-- Tóm tắt lại là Tài gặp khó khăn không thể tiếp tục dạy trên đó nữa. Thấy Liễu và Lực hai người ăn ý nhau muốn dạy gần nhau nên Tài mời Liễu lên trên đó gặp giáo viên chuyên trách cũng như dân làng để đề nghị đổi chỗ dạy.
Tôi đọc lướt qua giấy đồng ý cho thầy Tài đổi chỗ với cô Liễu vì thầy Tài gặp khó khăn trong việc dạy ở làng anh. Anh đã thuyên chuyển qua ba làng khác nhau rồi mà ở đâu cũng gặp trở ngại. Anh Phúc, giáo viên chuyên trách vùng đó, đề nghị đổi cô Liễu hay một giáo viên khác hoặc trả thầy Tài về Phòng Giáo Dục vì anh thấy thầy Tài không thể hoàn thành công tác trên B3 được.
Tôi thấy có điều gì không ổn vì lý do không rõ rệt nhưng lờ đi để dịp khác tôi sẽ tìm hiểu thêm. Tôi nhìn thầy Tài hỏi:
-- Thế hồi nãy đi ngang Phòng Giáo Dục anh đã vào nói chuyện với anh Nhật, trưởng phòng, chưa?
Cô Liễu xen vào:
-- Hồi nãy xe vừa lên tới đầu làng Kờ Mông là Liễu với anh Tài nói tài xế cho xuống liền. Liễu không muốn đi bộ giữa trời nắng chang chang này.
-- Vậy nếu Liễu muốn cũng phải viết một đơn xin đổi chỗ liền đi rồi Quang đưa hai người lên Phòng Giáo Dục nói chuyện với anh Nhật giúp hai người thuyên chuyển. Được hay không là tuỳ ở Phòng Giáo Dục, chứ Quang không dám tự quyết định hay thuyên chuyển người ra ngoài khu vực của Quang.
Cô Liễu nài nỉ:
-- Ráng giúp Liễu và anh Tài đi nghen!
Tôi nhìn vào mắt cô Liễu. Tôi thấy Liễu có vẻ linh hoạt hơn, dễ thương hơn, và hạnh phúc hơn. Có lẽ là dấu hiệu của tình yêu đây. Chắc cô Liễu trúng tiếng sét ái tình của anh Lực rồi.
-- Liễu tính bỏ làng trốn nhà đi theo ai vậy?
-- Có trốn hồi nào đâu, Liễu thích giúp anh Tài mà!
-- Liễu đi thì đị Quang không cản, nhưng phải nhớ Liễu đã quen nước, quen cái ở đây rồi. Phong thổ mỗi nơi mỗi khác, không cẩn thận sẽ ngộ độc đó!
-- Không sao, Liễu thích lên đó mà!
-- Thôi vậy đi, Liễu viết đơn xong thì ba người chúng ta lên Phòng Giáo Dục. Liễu cứ để đồ đạc ở đây vì hôm nay không kịp xe về thị xã đâu. Còn anh Tài, mang ba lô đi. Nếu anh Nhật đồng ý anh thay Liễu, Quang muốn anh lên thay anh Đoàn để anh Đoàn về đây cho gần bệnh xá huyện vì trông thấy anh kỳ này bệnh suyễn của anh nặng hơn. Hơn nữa anh ấy cũng quen với dân ở làng này. Tuần rồi, anh Đoàn dạy thế Liễu ở đây!
Ba người chúng tôi đi bộ lên Phòng Giáo Dục vừa đi vừa nói chuyện đời giáo viên miền núi với những vui buồn lẫn lộn. Làng thầy Tài nằm trong góc núi Chư Pao (Núi Con Trâu) vì nhìn từ xa dãy núi trong cũng hơi hơi giống hình còn trâu nhất là lúc về chiều. Chu Pao trước đây đã xảy ra những trận đánh kịch liệt giữa quân đội miền Bắc và miền Nam nằm giữa thị xã Pleiku và thị trấn Kontum. Dọc theo quốc lộ 14 từ vùng Chu Pao trở lên Kontum lỗm chỗm những hố bom B52 thả vào mùa hè đỏ lửa 1972. Những hố bom đó bây giờ là những chuôm ao xanh có ếch nhái và có khi có cả cá nữa. Không biết có phải người Thượng thả những con cá con, còn quá bé để ăn không, nhưng những hố bom xưa đã được nước mưa đọng lại thành những ao chuôm thành môi sinh mới của cá và ếch nhái. Phép lạ của thời hoà bình! Sự sống sẽ thắng cái chết, hoà bình sẽ thắng chiến tranh, ánh sáng sẽ thắng bóng tối và chánh nghĩa sẽ thắng gian tà! Tất cả phải phụ thuộc vào thời gian!
Phải để thời gian băng bó những vết thương, phục hồi hy vọng, và hồi sinh sự sống. Quân võ phu Mông cổ trên lưng chiến mã đã đánh thắng và hùng cứ Trung Hoa nhưng đã hội nhập nền văn hoá nhà Tống để Trung hoá hoàn toàn. Tôi thầm hy vọng văn hoá, lòng yêu thương dân tộc, sự yêu chuộng hoà bình và tự do của miền Nam sau này sẽ đánh bại và thuần hoá được mọi ý thức hệ ngoại lai. Mỗi cố gắng, đóng góp của thanh niên chúng tôi sẽ xoa dịu, và xoá bỏ được những sự khác biệt tưởng như không thể dung hoà được.
Tôi không cần biết thầy Tài đã làm gì khiến thầy thất bại cả ba nơi, tôi sẽ cố gắng tranh đấu cho thầy Tài được chuyển về đây. Cô Liễu dạy rất tốt nhưng tôi không thể cầm giữ cô ở lại được. Hồn cô đã để ở B 3 rồi, nếu tôi không thuyên chuyển cô, cô sẽ miễn cưỡng dạy mà thôi, như vậy không ai được lợi cả. Chi bằng nhân nhượng những cái có thể nhân nhượng để mọi người cùng vui vẻ hăng say trong công tác giáo dục của mình.
Chương 29
Tôi đưa thầy Tài và cô Liễu xuống nhà ăn ngồi chờ rồi tôi lên văn phòng gặp anh Nhật trước. Dù sao cũng phải chuẩn bị tinh thần cho anh ấy sẵn sàng trước rồi hãy để như là anh quyết định thay vì đó là quyết định của giáo viên hay của tôi. Thực ra thì chuyện đổi gần như là việc đã rồi, không thuyên chuyển thì trục trặc lung tung. Tôi ngó đầu vào văn phòng chào:
-- Anh Nhật rảnh không?
-- Vào đi, cậu vừa về?
-- Dạ, em vừa lên từ làng Kờ Mông. Đây là chương trình sơ khởi huấn luyện các giáo viên. Anh rảnh coi qua xem có đồng ý không?
Tôi đưa xấp giấy đã soạn cho anh Nhật, anh đọc phớt qua chương trình tóm tắt ở trang đầu, rồi chăm chú hơn ở những trang sau, gật gù:
-- Được lắm, giống như là cậu chuẩn bị cả bao nhiêu tháng nay.
-- Cám ơn anh, vậy là đại khái anh đồng ý?
-- Nhất trí mà! Tiếc là ông Ít chưa về để anh em mình nói chuyện thêm.
-- Anh Nhật, còn chuyện nữa, anh phải giúp mới được!
Anh Nhật ngẩng mặt nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi đưa đơn xin thuyên chuyển của thầy Tài và cô Liễu cùng với giấy giới thiệu của thầy Phúc từ B 3.
-- Bố láo thật! Anh chàng Phúc đáng lẽ phải bàn bạc với Phòng Giáo Dục trước chứ!
-- Có lẽ tại gấp rút thôi anh, chắc cũng như việc thầy Đáng, làm mất lòng đồng bào vì chuyện thịt trâu thốị
Tôi đưa ra lý do mà anh Nhật đã thừa biết vì chuyện giáo viên Đáng đã xảy ra trong khu vực của tôi, để gián tiếp nhắc nhở anh Nhật chuyện thuyên chuyển tế nhị
-- Thế cậu nghĩ sao?
-- Em à, em thấy mất cô Liễu cũng uổng, nhưng có thầy Tài cũng được. Thầy Tài khoẻ mạnh, nếu anh đồng ý thì em đưa thầy Tài vào làng Ea Rong thế thầy Đoàn sẽ ra làng Kờ Mông thế cô Liễu vì thầy Đoàn bị suyễn hơi nặng cần gần bệnh xá huyện để lỡ có việc gì...
-- Cậu thấy được thì anh nhất trí luôn. Thế tính bao giờ chuyển?
-- Ngay liền bây giờ anh ạ. Thầy Tài đã mang ba lô lên đây đang ở nhà ăn với cô Liễu. Anh viết giấy thuyên chuyển xong thì em đưa thầy Tài vào làng Ea Rong liền cho kịp về thảo luận thêm với anh.
-- Thôi, việc gì gấp vậỵ Mai mốt anh em mình bàn cũng được. Cậu lo giùm mấy việc lặt vặt đi. Cậu qua phòng ông Ít đánh máy Lệnh Thuyên Chuyển rồi đưa cho tớ ký là xong.
Tôi lấy giấy ba tờ giấy carbon để đánh máy bốn bản Lệnh Thuyên Chuyển Giáo Viên mà không đề tên người hay làng, xã. Xong rồi tôi điền tên thầy Tài và cô Liễu và khu vực hoạt động. Thầy Đoàn trong cùng một khu vực nên không cần, hơn nữa dân làng Kờ Mông đã biết mặt thầy Đoàn rồi. Tôi đưa anh Nhật cả hai trang chưa điền tên, nói anh giữ phòng hờ sau này. Anh Nhật nói:
-- Cậu lo xa quá, khỏi cần đi. Thôi để tớ ký luôn. Có ai muốn thuyên chuyển bất chợt mà tớ vắng, giao cho cậu quyết định đó!
-- Anh lu bu nhiều chuyện thì được rồi, em giữ đơn này lại, có việc gì em sẽ trình anh.
Tôi báo thêm với anh Nhật:
-- Cô Liễu tối nay tiếp tục dạy ở làng Kờ Mông, sáng mai ra bến xe về, ngày mốt phải có mặt ở B 3 để trình diện thầy Phúc nhận nhiệm sở mớị Còn em đưa thầy Tài lên thay thầy Đoàn liền. Em sẽ ở lại Ea Rong đêm nay để giới thiệu thầy Tài với dân làng. Mai thầy Đoàn về làng Kờ Mông, còn em về đây rồi anh bổ túc thêm ý kiến chương trình huấn luyện giáo viên Thượng.
-- Tớ tin tưởng cậu mà! Hiệp nhận xét cao về cậu lắm!
Ở Phòng Giáo Dục có bốn cô và bảy chàng: chị Hiệp, chị Nhung, chị Chức, chị Hương, anh Nhật, anh Khoa, anh Giáp, anh Hưng, anh Bài, anh Ít và tôi. Anh Nhật có cảm tình nhiều với chị Hiệp, mặc dù anh đã có gia đình ở ngoài Bắc. Thường thường, chị Hiệp giữ vai thư ký ngồi ngay trong văn phòng của anh, nhưng hôm nay tôi không thấy chị ở đây.
Tôi cười hỏi anh:
-- À mà chị Hiệp đâu rồi, nãy giờ em không thấy chị ấy đâu!
-- Hiệp về thịxã trưa nay. Ở Phòng chỉ còn mấy mạng le que! Thôi cậu đi đi rồi về càng sớm càng tốt.
Tôi xuống phòng ăn. Cô Liễu và thầy Tài đưa mắt dò hỏi. Thầy Tài hỏi nhanh:
-- Có được không anh?
-- Xong rồi, đây là giấy thuyên chuyển cho hai người. Anh chị lên cám ơn anh Nhật một tiếng rồi Quang đưa anh Tài lên làng Ea Rong thế anh Đoàn, còn Liễu thì về Kờ Mông dạy và từ giã đồng bào tối nay, sáng mai Liễu về thị xã chơi một hôm rồi ngày mốt lên B 3 trình diện thầy Phúc.
Hai người xiết tay tôi, cảm động. Tôi vui lây vì vừa giúp được mấy người hạnh phúc, nhất là cô Liễu, má hồng lên sung sướng. Đúng là khi người ta yêu, ngay cả ý nghĩ sắp được gần người yêu cũng lồ lộ trên khuôn mặt. Còn tôi, không biết tôi đã yêu chưa mà sao trắc trở quá, với Du, với Nhung đều có cái gì là lạ, dù rằng tôi có cảm tình thật sâu với hai người.
Chương 30
Thầy Tài và tôi rời Phòng Giáo Dục liền ngay khi thầy và cô Liễu lên chào và cám ơn anh Nhật. Tôi muốn làm việc gì thì làm cho xong, không muốn nấn ná ở lại. Tôi chỉ lấy gọn ghẽ những thứ căn bản một bộ đồ thay, khăn tắm, võng, màn, cà mên, đèn pin nhà binh... còn những thứ khác như mền, quần áo tôi để lại để việc đi lại được dễ dàng. Vừa đi tôi vừa nói qua tình hình dạy học ở khu vực và tình hình ở làng thầy Đoàn để thầy Tài nắm vững và hoạt động được tốt đẹp.
Một khu vực có thành công hay không là nhờ sự cộng tác của tất cả các giáo viên, chứ không tuỳ thuộc vào một cá nhân nào. Tôi không muốn mình độc đoán làm việc, những gì tôi biết, tôi đều chia sẻ với tất cả mọi giáo viên để họ cùng biết và giúp tôi dạy đồng bào Thượng. Thầy Tài lấy làm lạ tại sao tôi giải thích cặn kẽ từng chút một, tôi cười bảo thầy:
-- Mỗi một giáo viên là đại diện cho tập thể giáo viên. Thầy làm sai ở một làng, làng khác sẽ nghe tiếng và ảnh hưởng tới làng bên. Thầy hoạt động tốt ở một nơi sẽ động viên thầy cô giáo và đồng bào ở các làng lân cận.
Từ Phòng Giáo Dục lên làng Ea Nang chỗ cô Hạnh mất độ hơn hai tiếng đồng hồ. Thầy Tài và tôi đi độ hơn một tiếng rưỡi thì thấy mấy con nai chạy băng qua đường mòn. Nai rừng ít khi chạy, thường thong thả đi, trừ khi cháy rừng, bị bắn hoặc phát hiện người săn. Như linh tính báo có chuyện gì bất ổn, tôi thấy bên vầng thái dương giật giật vài cái. Thay vì đi thẳng tới làng Ea Rong, chỗ thầy Đoàn, tôi quyết định ghé lại chỗ cô Hạnh để hỏi xem có gì lạ.
Vừa thấy chúng tôi đến, cô Hạnh đã chạy ra, nói hớt hải:
-- Du kích và bộ đội đang truy lùng quân phiến loạn hay người vượt biên. Tối qua làng họp vì có người nấu nướng trên nhà kho ngoài rẫy của họ, khoai sắn nhổ tùm lum. Tro bếp còn ấm nên có lẽ mới đây thôi.
-- Du kích và bộ đội đi về hướng nào?
-- Về phía làng ông Đoàn đó!
-- Họ đi bao lâu rồi?
-- Chừng một tiếng thôi, vì du kích các làng và bộ đội họp chung ở đây rồi mới khởi hành.
-- Thế họ chia làm mấy nhóm?
-- Đi chung một nhóm thôi vì chỉ có 7 anh bộ đội còn đâu khoảng 20 du kích.
-- À thầy Tài sẽ lên thay thế thầy Đoàn ở trên làng Ea Rong. Thầy Đoàn sẽ về làng Kờ Mông sáng mai đó.
-- Thật không? Quang không nói giỡn chứ?
-- Giỡn làm chi? Chị hỏi thầy Tài là biết liền. Thầy Tài đổi chỗ cho cô Liễu, Quang đưa anh Đoàn về thế cô Liễu cho tiện việc đi lại bệnh xá nếu cần vì thấy anh bị suyễn hành nặng hơn.
-- Cám ơn Quang nha! Bọn này không quên Quang đâu!
-- Chuyện nhỏ mà, cám ơn thầy Tài nè! Không có thầy Tài, Quang đâu đổi chỗ ngay cho anh Đoàn được.
Cô Hạnh quay nhìn thầy Tài:
-- Cám ơn thầy Tài nha. Khi nào bọn này đám cưới thầy ráng đi dự đó!
-- Gì chứ ăn thì tôi nhanh lắm! Chừng nào vậỷ
-- Ồ chưa nhất định, nhưng bọn này chỉ làm đơn giản thôi, cũng dễ mà! Ăn chung là Quang cho bọ n này về sắp xếp!
-- Ấy ấy đừng đặt gánh nặng trên vai Quang nha chị, bộ tính làm áp lực hở? Nói chơi vậy thôi, sau vụ huấn luyện giáo viên Thượng, Quang sẽ tìm cách cho anh chị cùng về một chuyến!
-- Quang hứa rồi đó nha!
-- Dạ thì hứa đó, nếu Quang còn sống thì sẽ giữ lời! Thôi bọn này phải đi cho kịp, chị Hạnh vui vẻ nha!
-- Mấy anh đi cẩn thận, đừng lớ xớ bị bắn đó!
-- Khỏi lo, bọn này vừa đi vừa hát nhạc cách mạng.
Ra khỏi bìa làng, đường mòn quanh co, cây cối um tùm. Tôi nói với thầy Tài:
-- Thầy biết bài hát cách mạng nào không? Thầy hát trước đi, bọn mình thay phiên nhau hát!
Thầy Tài cười hỏi:
-- Thật hay giỡn vậy?
-- Thật đó, mình lùi lũi đi, đâu biết ai rình rập đâu đó, tưởng mình là FULRO thì chết bỏ sừ.
Thầy Tài lắc đầu:
-- Tài không biết bài hát nào cả, chỉ biết mấy bài hát của thiếu nhi thôi.
-- Kệ đi, mình hát bài nào mình biết! Cốt là để người ta biết mình không trốn tránh đó mà.
Thế là thầy Tài gân cổ vừa đi vừa hát:
"Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Như thiếu niên nhi đồng..."
Tôi thấy hay hay cũng hùa theo làm vang động cả khu rừng có lẽ vang vọng chu vi cả một cây số vì rừng núi âm vang tiếng hát của chúng tôi. Tôi mong tiếng hát vang vọng thật xa để mọi người nghe thấy, an toàn cho chúng tôi và báo động cho người đang lẩn trốn. Hát một hồi, thầy Tài nói:
-- Thôi anh Quang hát một mình bài gì khác đi, hát hoài khô cổ quá!
-- Để Quang dạy cho anh bài hát tiếng Thượng để anh lác mắt họ nghen! Cứ lập lại thôi, không cần biết nghĩa từng chữ.
Tôi hát một lượt bài Cách mạng thành công bằng tiếng Thượng, "Hơk kơ tơk jai ta jong ying eng ah kach mang ta eng ah oh tơ lơi ăm ah..." giữa tiếng cười ngặt nghẽo của thầy Tài.
-- Thôi anh Quang ơi, Tài chịu thua. Hát tiếng Việt còn hát vớ vẩn nữa là tiếng Thượng.
-- Vậy thôi, mình ngưng hát. Cũng mỏi cổ rồi!
Chúng tôi im lặng, tôi đi trước, thầy Tài theo sau. Tôi thầm nghĩ không biết ai đã nhổ sắn và để lại dấu vết tùm lum để xảy ra chuyện này. Không lẽ anh Trung và anh Tâm vô ý đến thế sao khi mà tôi đã dặn dò chỉ vẽ kỹ lưỡng rồi. Tôi phải tìm ra hướng truy lùng của du kích và bộ đội. Không chừng tôi phải tìm cách liên lạc với anh Tâm và anh Trung. Bằng cách nào bây giờ, tôi ước lượng giờ này hai anh đã tới ranh giới B 12. Nếu tôi đi theo đường mòn cũng mất 6 tiếng nữa, lúc đó đêm đã phủ xuống, hơi lạnh trong núi bốc ra!
Tôi nghĩ có lẽ một nhóm người nào đó đã nhổ sắn chứ không thể nào là anh Tâm và Trung được, nhưng nếu bộ đội và du kích truy lùng về hướng các anh đi thì tôi phải kịp thời báo hiệu bằng cách vượt qua họ. Họ đi đông và chưa biết hướng các anh đi nên sẽ mất giờ truy lùng dấu vết, tôi được lợi điểm hơn nên có thể báo các anh đi về hướng khác an toàn hơn, nhưng bằng cách nào? Không thể xếp đá trên đường mòn vì dễ gây chú ý và các anh sẽ không đi theo đường mòn, mà chỉ đi dọc theo đường mòn để đỡ bị lạc nếu các anh theo đường tôi chỉ dẫn. Cách tốt nhất là bằng đèn pin chờ trời tối, dùng mật mã morse để liên lạc may ra nếu hai anh Tâm và Trung thay phiên nhau canh gác như lời tôi dặn họ có thể nhận ra tín hiệu của tôi. Dù với giá nào tôi cũng phải đưa hai anh ra khỏi vòng hiểm nguy.
Chương 31
Thay vì ở lại giới thiệu thầy Tài với đồng bào, tôi nhờ thầy Đoàn tối hôm đó giới thiệu thầy Tài và từ giã đồng bàọ lấy cớ tôi qua thăm các thầy cô giáo khác trước khi phải bế quan tỏa cảng tại Phòng Giáo Dục cả hơn hai tuần lễ dài sắp tới. Thầy Đoàn mừng rỡ được về gần cô Hạnh cám ơn tôi rối rít nói rằng:
-- Quang đừng lo, Quang đã hết lòng vì bọn này, thì bọn này sẽ tận lực lo công tác mà!
-- Cứ vậy đi nha, rồi Quang sẽ cố gắng thay mọi người dạy để ai nấy đều có dịp nghỉ phép mà không bị bê trễ công tác. Anh Đoàn đi ngang Phòng Giáo Dục nhớ tìm gặp anh Nhật nói là Quang có chút thay đổi. Chắc phải sau ngày mốt Quang mới về Phòng Giáo Dục lại. Quang bây giờ đi một vòng tròn lên B 8, B 9, B 11, B 12 và B 10 rồi trở lại vì những tuần sắp tới Quang sẽ đóng đô tại Phòng, không đi thăm và động viên các giáo viên trong khu vực của Quang được.
Tôi quay về phía thầy Tài:
-- Còn anh Tài, cứ ráng dạy và hoà đồng như Quang đã nói với anh lúc đi đường. Có gì cứ hỏi thầy Đoàn, cô Mai, cô Hạnh hoặc Quang. Khoảng ba tuần nữa Quang trở lại.
Sau khi rời làng Ea Rong chỗ thầy Tài thay thế thầy Đoàn, tôi tạt ngang làng Ea Rung thăm cô Mai. Trên đường đi tới làng cô Mai, tôi phải hát vang mấy bài ca cách mạng quen thuộc như bài Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây. Cứ khúc nào rừng cây rậm rạp không thể nhìn thấy người là tôi hát vang lên. Chỗ nào cây cao, có thể nhìn xa dưới tàng cây thì tôi ngưng hát đi nhanh. Cô Mai ngạc nhiên lắm vì tôi mới gặp cô ít hôm trước khi cô lên dạy trở lại. Tôi cười giải thích:
-- Quang đưa thầy Tài lên thế thầy Đoàn. Thầy Đoàn về làng Kờ Mông. Cô Liễu xin đổi lên B 3, khu vực của thầy Phúc, có lẽ để gần thầy Lực.
-- Quang tính làm ông mai hở?
-- Ông mai gì, họ đã quen nhau và xin đổi chứ Quang có liên quan chi! Mà Mai muốn đổi đi đâu không, Quang xin làm ông mai chuyển Mai tới nơi Mai muốn.
-- Không, Mai ở đây vui rồi! Đồng bào ở đây họ qúi mến Mai và Mai cũng không nỡ đi, bỏ lại mấy em nhỏ đang chịu khó học.
Tôi nói sơ qua về tình hình xảy ra ở Ea Rong, nói bộ đội và du kích đang phối hợp truy lùng người lạ chi đó nên xin cô Mai đừng có đi lung tung trong rừng tìm mộc nhĩ hay hoa trái mà nguy tới tính mạng. Cô Mai trả lời:
-- Du kích làng Mai cũng đi sáng nay, họ nói họ sẽ đi kiếm kẻ gian đang lẩn quẩn khu vực này.
Cô Mai mời tôi ở lại, chờ cô nấu cơm chiều, tôi nói:
-- Quang phải lên các làng khác xem tình hình và động viên các giáo viên vì Quang sẽ bận mấy tuần lo vụ huấn luyện giáo viên Thượng để họ trợ lực mình sau này.
-- Vậy Quang ăn chè với Mai rồi hãy đi nha!
-- Mai lúc nào cũng nấu chè ha! Mai mốt Quang gọi Mai là cô Chè đó!
-- Quang mà gọi Mai là cô Chè, Mai nghỉ chơi Quang luôn!
Cô Mai và tôi ngồi xuống ăn mỗi người một chén chè đậu đen cô Mai đã nấu sáng nay. Chè nguội nên vị ngọt càng thấm. Tôi nhìn cô Mai tủm tỉm cười không nói chi, nhưng cô Mai bắt gặp ánh mắt tôi, hỏi:
-- Nhìn chi kỹ vậy?
-- Quang đang mường tượng ngày tụi mình mới lên huyện, đứa nào đứa nấy buồn hiu vì lạ nước lạ cái. Bây giờ tụi mình đã quen thuộc rồi, thấy buôn làng cũng như quê hương làng xã của mình. Mai có thấy vậy không?
-- Mai cũng cùng ý nghĩ như Quang, mình sống ở đâu quen đó! Mai mốt rời đây, Mai sẽ buồn lắm!
-- Mai có tính chuyển qua chuyên nghiệp không? Có dịp Quang sẽ nói với anh Nhật.
Cô Mai ngước nhìn tôi, nét mặt rạng rỡ:
-- Thật nha! Nếu được vậy còn gì tốt bằng, vì khi về thị xã Mai cũng không biết làm nghề gì nữa.
-- Được, Quang sẽ cố gắng. Bây giờ Quang phải đi đây, Mai ở lại công tác vui vẻ.
-- Còn Quang, đi đường cẩn thận nha!
-- Quang lúc nào cũng cẩn thận mà, còn giữ mình để ăn chè chứ!
Tôi kiểm soát lại đèn pin. Pin vẫn còn mạnh. Tôi xoáy mở đáy đèn pin, lấy ra mặt nhựa màu đỏ để lên mặt cho dễ dàng lấy khi cần. Tôi sẽ phải dùng đèn pin và tín hiệu Morse đêm nay may ra anh Tâm hay anh Trung có thể nhận ra. Tôi khoác ba lô lên vai, rồi chào cô Mai, xuống nhà sàn vừa đi vừa huýt sáo có vẻ rất tự nhiên dù trong lòng hồi hộp lạ. Tôi ước ao có một con chó làm bạn lúc này. Đi đường rừng lúc này tôi lo lo làm sao đó. Rủi bộ đội hay du kích bắn lầm một cái có chết không! Cái chết của tôi sẽ là một nhầm lẫn đáng tiếc, nhưng dù sao vẫn lãng xẹt! Việc giúp đỡ của tôi đối với anh Tâm và anh Trung kể ra cũng khá chu đáo rồi, việc gì không may xảy đến cho hai anh, cũng chỉ là số mệnh thôi! Không phải chính miệng hai anh đã nói ra đó sao?
Chương 32
Anh Tâm và anh Trung không phải bà con ruột thịt gì của tôi và chúng tôi cũng quen chưa lâu, việc tôi liều lĩnh giúp trong lúc hoạn nạn kể ra cũng khá kỹ càng. Nếu hai anh có mệnh hệ gì, ai có thể trách tôi được. Tôi còn bao nhiêu người thân, còn bao nhiêu dự định chưa thực hiện... Tôi vừa phân vân lưỡng lự vừa dấn bước đi nhanh trên đường mòn. Không thể thấy cái chết trước mắt mà không cứu, ngay cả là đối với một người lạ. Dù sao họ cũng là đồng hương của tôi. Dù sao họ cũng là bạn của bạn tôi. Mọi cuộc sống đều có mối tương quan với nhau, chuyện xảy ra cho anh Trung hay anh Tâm có thể là chuyện xảy ra cho tôi sau này. Tôi không thể thờ ơ trước hiểm nguy và cái chết của họ.
Tôi đã quyết định rồi, dù gì mình cũng phải cố gắng. Nếu lỡ hai anh bị bắt, tôi sẽ dùng tiền hai anh để lại để chuộc hai anh ra, nếu lỡ hai anh bị bắn chết thì tôi cũng không hối hận là đã liều mình đi tìm hai anh để dẫn hai anh tới vùng an toàn hơn. Nếu chuyện gì xảy ra ngoài tầm mắt của tôi, ngoài khả năng cứu người của tôi, thì đó là số mệnh. Tôi phải ráng, phải ráng đi nhanh, vượt du kích và bộ đội.
Cứ vừa đi vừa chạy trên đường mòn với chiếc ba lô kêu lộc cộc trên vai vì cà mên, đèn pin, và các thứ lỉnh kỉnh, tôi tới bìa làng Ea Yut khi trời ngã chiều. Ghé vào đây nghỉ, đồng thời lấy tin tức cái đã rồi hãy đi tiếp. Làng này là làng thầy Tường, người nhỏ bé hiền lành như con gái. Tôi chưa gặp thầy cả gần 2 tháng rồi. Tôi dự định gặp thầy một tí thôi rồi phải đi ngay, lấy cớ còn nhiều làng phải đi, mục đích là tôi phải kịp đi thêm ít nhất 4 tiếng nữa cho kịp các anh Trung và Tâm theo dự đóan của tôi. Họ đi chậm và lẩn trốn, còn tôi vừa đi vừa chạy và biết rành rọt đường xá nên có lẽ sẽ kịp thôi, nếu bộ đội và du kích xã không bắt các anh trước khi tôi kịp đến dẫn đường đi trốn.
Tới gần giữa làng tôi thấy nhiều người tụ tập trong lớp, có bóng quân phục xanh và nón cối của bộ đội. Tôi tiến lại định chào thì có tiếng quen quen:
-- Đồng chí Quang đây mà!
Tôi nhìn về phía người nói:
-- Trời anh Lý! Anh làm gì ở đây? Anh Công và anh Tiến đâu? Các anh lại đi săn chứ gì?
-- Bọn tớ đây này!
Tôi xoay người nhìn hai anh Công và anh Tiến lồm cồm ngồi dậy. Hai anh có lẽ mệt đã nằm dài trên ghế trong lớp. Tôi nói:
-- Trái đất tròn và nhỏ thật rồi! Em đang định lên B 11 vào gặp các anh thì lại gặp các anh ở đây! Ngọn gió nào đưa các anh tới đây và chú Minh khoẻ không?
-- Thủ trưởng khoẻ, bữa nọ làm một bữa nhậu ngon lành!
Tôi quay một vòng nhìn quanh thấy đủ 7 anh bộ đội như lời cô Hạnh nói và một số du kích. Có lẽ họ vào đây chờ ăn cơm chiều với đồng bào. Thế là may rồi, tôi đã bắt kịp được với bộ đội và du kích! Tôi phải khôn khéo dò hỏi xem tình hình mới được.
-- Thế hôm nay các anh tính săn nai nữa hở?
Các anh bộ đội đưa mắt nhìn nhau dò hỏi, anh Lý nói với một anh bộ đội, có lẽ là cấp chỉ huy của các anh:
-- Đồng chí Quang là giáo viên chuyên trách, hôm nọ đã hướng dẫn mấy anh em tụi này bắn nai đó!
Tôi tiến lại chào anh và đưa tay ra bắt:
-- Em tên Quang! Em vào đây thăm thầy Tường và lên B 11, B 12 và B 10 lấy tình hình cho Phòng Giáo Dục huyện.
-- Tôi tên Quốc! Đồng chí có gặp người lạ mặt trên đường đi không?
-- Dạ không ạ! Có chuyện gì thế?
-- Chúng tôi truy lùng địch. Đồng bào báo chiều qua, sáng nay chúng tôi đi kiếm, nhưng chưa gặp. Họ còn lòng vòng đâu đây thôi, vì dấu vết bỏ lại ở các khu rẫy Thượng còn mới!
-- Các anh đã truy lùng ở đâu rồi?
-- B 8 và B 9, chỗ nào cũng có dấu vết nhưng mà bọn mình tới trễ. Họ cứ lẩn quẩn chứ không có phương hướng nhất định nên tìm chưa ra. Phen này mà gặp, đếch cần bắt giữ làm gì, bắn bọn nó chết bỏ mẹ tụi nó ngay tại chỗ.
Tôi quay nhìn anh Lý, anh Tiến, và anh Công. Cả ba đều tránh cái nhìn của tôi. Ba anh đều hiền lành, nói chuyện dễ thương, nhưng giọng nói của anh Quốc tôi thấy có vẻ đanh sắt và thù hận nên tôi chưa dám đề nghị nếu bắt giam giữ thì hay hơn, may ra còn có tiền chuộc. Phải chờ cơ hội, lạng quang anh chỉ huy này nổi dóa thì chết tới nơi. Tôi nói:
-- Xin phép các anh nha! Em lên nhà thầy Tường có tí chuyện. Các anh đã gặp thầy Tường chưa?
-- Chưa, có thầy giáo ma nào đâu! Bọn này tới đây khoảng nửa giờ rồi mà có thầy bà nào ra chào đâu!
-- Có lẽ thầy Tường đang soạn bài dạy tối nay, vì ban ngày đồng bào đi làm hết, buổi sáng thì thầy dạy trẻ em nếu các em ở nhà! Thôi để em lên mời thầy Tường xuống giới thiệu cho các anh.
Tôi đi về nhà thầy Tường, leo lên cột thang, làm bằng một thân cây, đẽo từng bậc đi lên. Cửa nhà mở, tôi gọi lớn:
-- Thầy Tường, có ở nhà không? Quang đây!
-- Vào đi, anh Quang! Tường không khoẻ mấy nên nằm đây nghỉ.
-- Bị sốt rét hở?
-- Không, chỉ mệt mỏi thôi.
-- Trời, sao mắt trái thầy đỏ hoe thế nàỷ Khóc hay bị gì vậy|?
-- Khóc cái gì, tự nhiên nó đó cả tuần nay, xức thuốc gì cũng không xong. Thầy mo nói phải cúng Giàng!
-- Thầy tin có bùa ngải không vậy?
-- Có đó! Nếu vài ngày nữa không khỏi thì Tường cũng phải nhờ thầy mo cúng Giàng! Tường có mua mấy con gà để dành kìa!
-- Cúng thầy mo mà phải ba con gà sao?
-- Không, một con thôi! Nhưng Tường mua luôn ba con gà trống để nếu cần làm thịt đãi bạn bè!
-- Vậy Tường bán lại cho Quang 1 con nha! Luộc gà đãi mấy anh bộ đội đang ngồi ở lớp kìa!
-- Đãi mấy chả làm gì! Tốn của toi cơm thôi!
-- Kệ đi, Tường mua bao nhiêu để Quang gởi tiền lại.
-- Thôi khỏi, Quang bắt ra một con rồi làm thịt. Tiền bạc gì!
-- Không được để Quang trả lại đàng hoàng mà! Tường mua bao nhiêu vậỷ
-- Mười đồng ba con đó!
Tôi mở ba lô lấy ra 5 đồng, đưa cho Tường:
-- Tường cầm 5 đồng nha! Bây giờ Tường ra lớp, Quang giới thiệu Tường với các anh bộ đội.
Tường miễn cưỡng ra lớp, tôi đem con gà trống đưa cho anh Lý:
-- Thầy Tường ủng hộ chú gà này cho các anh làm thịt ăn chiều.
-- Mẹ nó, phải có chai ba xi đế thì đỡ quá, gà luộc nhắm rượu thì còn gì bằng.
Tôi gợi ý:
-- Rượu cần được không?
-- Không đế thì cần, đâu có kém gì?
Tôi hỏi du kích làng xem có ai có ghè rượu nào để bán cho mọi người cùng uống không. Một anh nói có với giá năm đồng, tôi không tiện lấy tiền trả sợ thầy Tường nghi ngờ sao tôi lại dư dật thế này, tôi quay hỏi thầy Tường:
-- Tường cho mượn lại 5 đồng nha!
Tường cười, rút trong túi đưa tôi đồng tiền tôi vừa đưa hồi nãy, giữ chưa được nóng túi quần.
-- Tiền thầy trả thầy!
Tôi đưa năm đồng cho anh du kích đi về nhà anh gần đó, khệ nệ đưa vò rượu ra, đổ nước lạnh vào, nói được nửa giờ nữa mới uống được. Tôi nhìn con gà anh Lý và anh Tiến đang nấu nước sôi để trụng và vặt lông, thấy hơi kỳ vì con gà chỉ đủ để đãi các anh bộ đội, lên tiếng hỏi:
-- Có ai có con gà nào lớn không? Tôi muốn mua thêm 1 con để đãi cho các anh du kích vì một con gà của thầy Tường chỉ đủ cho các anh bộ độị
Có hai anh du kích dưa tay lên:
-- Hai dền một con, thầy chịu không?
-- Được, bắt hai con đi, tôi trả cho các anh mỗi người hai đồng. Các anh làm hai con gà đó ăn chung với nhau và uống rượu cần chung với các anh bộ đội cho vui vẻ.
Tôi trở vào lục ba lô lấy ra bốn tờ một đồng, và một tờ năm đồng. Đưa cho hai anh du kích mỗi anh hai đồng, còn tờ năm đồng nhét vào túi thầy Tường, cười nói lại:
-- Tiền thầy trả thầy!
Cả đám lại được một phen cười hể hả. Tôi tính cho bà con uống say chiều nay để họ dừng lại đêm nay để tôi tiện việc tìm cách liên lạc với anh Trung và anh Tâm có lẽ chỉ cách xa tôi chừng 3, 4 tiếng đồng hồ. Du kích và bộ đội nghỉ chân đêm nay ở đây thì khoảng nửa đêm hay chừng một hai giờ sáng tôi sẽ đến vùng mà tôi dự đoán hai anh đã tới. Tôi dự định ăn uống một tí rồi đi ngay vì tôi phải đi tới làng kế bên trước khi trời tối. Tôi còn nhiều làng phải đi trong một khu vực rộng nên khối gì cách để nói.
Chương 33
Gà rượu sắp sẵn sàng thì dân làng đi làm về. Thấy du kích và bộ đội chuẩn bị ăn uống, bác thôn trưởng và các ông khác cũng về nhà ôm mỗi người một ghè rượu ra chung vui. Du kích thủ thỉ với dân làm sao đó nên ông thôn trưởng và dân làng cứ lại vỗ vai tôi nói:
-- Nai pơ tho (Thầy giáo ) tốt lắm! Cho đồng bào nhum pai (uống rượu)!
Ban đầu tôi còn cười trừ ôm vai từng người chào hỏi, sau thấy nhiều người cứ tới, tôi nghĩ chắc đêm nay chẳng có ai muốn học vì mọi người ai nấy sẽ say sưa hát hỏng tới khuya, tôi phải đứng lên nói:
-- Hôm nay tôi có tin vui báo cho đồng bào là còn chỉ hơn một tuần lễ nữa chúng tôi sẽ huấn luyện một số giáo viên Jrai để dạy đồng bào viết chữ Jrai. Đây đúng là nguyện vọng của đồng bào. Ai trong đồng bào biết viết chữ Jrai, xin lên Phòng Giáo Dục để đăng ký. Các giáo viên Jrai sẽ được hưởng qui chế giáo viên. Tiệc hôm nay là để vui cùng các anh bộ đội, du kích và đồng bào đã cùng nhau hợp tác làm việc và học hỏi. Tôi sẽ không ở lại đây đêm nay được vì còn phải đi các làng khác lấy tình hình để báo lên Phòng Giáo Dục. Lớp huấn luyện giáo viên Jrai sẽ bắt đầu 9 ngày nữa, đồng bào biết ai biết viết tiếng Jrai, xin báo cho họ để họ có thể dạy đồng bào viết tiếng mẹ đẻ của mình.
Trong lúc đồng bào Thượng xôn xao bàn tán vui vẻ, tôi giải thích bằng tiếng Việt cho các anh bộ đội đang há hốc miệng nhìn tôi kinh ngạc vì tôi nói tiếng Thượng một tràng dài như tôi vừa đọc xong diễn văn. Tôi quay sang thầy Tường nói:
-- Hôm nay Quang phá lớp của thầy rồi!
-- Không sao! Tường cũng mệt, nghỉ một hôm không hề gì!
-- Tường nhớ nhắc ông thôn trưởng vụ kiếm người gởi lên Phòng Giáo Dục dự lớp huấn luyện nhé!
Tôi lại hỏi chuyện các anh Quốc, anh Lý, anh Tiến, anh Công và các anh bộ đội khác. Các anh hình như cũng quên cuộc săn lùng vất vả hôm nay, cứ thay phiên nhau hút rượu cần, nhón thịt gà chấm muối, tiêu và chanh bằng tay không chứ không có đũa đang gì cả. Nồi cơm chín ít ai đụng tới, ai có ăn cơm thì lấy bầu nước rửa tay rồi lấy cơm bỏ vào tay, vắt lại thành cục cơm hình tròn hoặc dài thon thon ăn ngon lành, chẳng phân biệt Kinh - Thượng. Đúng là Kinh - Thượng một nhà.
Anh Quốc nói:
-- Tớ cứ tưởng rượu cần dở, uống ngang phè phè như hôm nọ. Ai ngờ ghè này ngon đếch chịu được. Phải uống cho đã hôm nay.
-- Ghè này ngon nên giá mới mắc đó! Họ làm bằng gạo nếp, bông cỏ,
hoặc khoai mì thượng hạng là mì già đúng cỡ! Rượu cần dở làm bằng mì non!
-- Mìlà gì?
-- À khoai mì là củ sắn đó! Em nói tiếng Nam pha lẫn tiếng Bắc. Người miền Nam gọi sắn là mì!
-- Đồng chí công tác vùng này bao lâu rồi?
-- Gần một năm rồi! Còn các anh?
Anh Quốc nói:
-- Đa số mới thôi, còn tớ từ hồi còn chiến tranh, từ năm 1972 giờ!
-- Vậy là anh đã trải qua những trận đánh kinh hoàng ở các nơi năm 1972.
-- Ừ mẹ nó! Giặc Mỹ ném bom chạy không được, chết không biết bao nhiêu đồng chí!
Tôi thật tình thương xót anh Quốc:
-- Cũng may mà anh còn sống và không việc gì!
-- Lúc đó tớ làm hậu cần lo việc nấu nướng cho các ông lớn ở trong hang núi nên thoát nạn. Bao nhiêu bạn bè cùng làng chết cả vì bom B 52 trong trận đánh Kontum.
-- Thế anh đã về Bắc lại chưa?
-- Bố dám về đồng chí ạ! Mình là người sống sót duy nhất trong cả trăm đứa đi cùng một chuyến thì còn mặt mũi nào mà về! Mình là thằng chết nhát, bám đít ông lớn mà sống sót thôi! Nhục nhã lắm!
Tôi đoán anh Quốc ngà ngà say rồi, tại anh là người uống cang rượu đầu ngay lúc đói. Khi uống rượu cần, người Thượng thường dùng ống tre nhỏ cắm sâu xuống ghè rượu rồi đổ nước trên mặt. Họ dùng cành tre nhỏ để trên mặt ghè hoặc chum rượu bẻ xuống chừng một đốt tay làm dấu một ngấn hay một cang theo tiếng Thượng. Mỗi người uống một cang xong đổ thêm nước lạnh trên mặt, rồi mời người khác uống. Du kích Thượng và dân làng nói tôi uống trước, tôi nói xin để xếp bộ đội, rồi tới thôn trưởng, rồi các anh bộ đội, du kích rồi mới tới tôi vì tôi còn phải đi các làng khác. Khi tới lượt tôi uống, cũng khoảng là người thứ ba mươi mấy rồi mà khi hút rượu vào miệng tôi biết là rượu thứ mạnh, chứ không phải loại xoàng, Thứ rượu này làm bằng bông cỏ, chỉ dùng khi người ta muốn say ngất ngây. Tôi cười thầm. Không khéo anh du kích sợ bộ đội bắt đi truy lùng người buổi tối nên khi tôi mua rượu anh đã ra giá cao để phục bà con rượu đêm nay cho khỏi phải đi tìm người.
Tôi uống một ngấn bên ghè rượu ngon rồi đổi qua các ghè khác nhẹ hơn uống cầm chừng vì tôi định chuồn khi mọi người đã thấm say hoặc say sưa ca hát. Khi uống rượu người Thượng thường hát chọc đùa nhau hoặc ri hay khan là lối kể chuyện bằng thơ như ngâm truyện thơ như truyện Kiều, truyện Lục Vân Tiên... của người Việt. Người Thượng rất tự do phóng khoáng, họ không thích ràng buộc. Đời sống họ đơn sơ, đói ăn khát uống, ít khi nghĩ tới ngày mai. Với họ miếng cơm giấc ngủ là quan trọng hơn là lý tưởng chủ nghĩa xa vời. Để họ tự do thoải mái tự lo cơm ăn áo mặc, có lẽ họ sẽ cả đời hồn nhiên hạnh phúc. Họ chưa có lòng tham vô đáy, chưa có thù hận ngập trời như những nơi gọi là gần gũi với văn minh tiến bộ, những nơi xã hội đã bị tham vọng cá nhân bóp méo lương tâm và lòng tốt bẩm sinh.
Sau khi hỏi đủ mọi thứ chuyện tôi cần biết, tôi rời anh Quốc và các anh bộ đội để đi nói chuyện với du kích và dân làng. Tôi nói chuyện thay uống rượu vì tôi còn phải đi xa, mỗi giờ trôi qua là các anh Trung anh Tâm lại đi xa hơn nữa, tôi có thể câu giờ một đêm nay thôi, chứ không thể cầm chân các anh bộ đội và du kích mãi được. Tôi không muốn thấy các anh phải chết dưới họng súng thời bình. Trong chiến tranh chết chóc có thể là chuyện thường, nhưng chết khi chiến tranh đã kết thúc là một điều tôi không thể chấp nhận được. Nếu có lỗi lầm nặng chi nữa thì đã có nhà tù. Giết chóc một cách bừa bãi, thù cá nhân là những điều không thể không lên án.
Anh Quốc mang mặc cảm của một kẻ sống sót khi các bạn anh đã tử trận, anh sống sót chỉ vì anh làm hậu cần, chui rúc trong hang hố lo cần vụ cho các cán bộ lớn ẩn mình trong hang hốc. Những cái bếp Hoàng Cầm đã cứu vớt họ. Hang động lớn nằm ở sườn núi phía đông, các anh bộ đội đào hang nhỏ dẫn khói tỏa bền sườn núi phía tây, nên bao nhiêu bom đạn B 52 cứ nhằm sườn núi phía tây mà thả. Tiếng bom chỉ đinh tai nhức óc, chứ họ dựng cây treo võng trong hang núi phía đông nên không hề hấn gì. Chỉ có các anh bộ đội tấn công vào các làng xã thị trấn Kontum, Dakto... là lãnh đủ. Chỉ có núi rừng bị bom đan và thuốc độc da cam làm trơ trụi cây cành. Những người chủ tâm nắm đầu cuộc chiến tranh vẫn tồn tại trước những chết chóc và khổ đau của đồng loại.
Tôi không thù hằn người cộng sản mặc dù ông, cha và anh tôi chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản bao nhiêu năm trời. Tôi chỉ ghét chủ nghĩa cộng sản đã đưa lại tang thương cho đất nước. Trên đời này có gì tồn tại, những chủ nghĩa ngoại lai rồi sẽ qua đi, đức nhân ái của một dân tộc đã trường tồn từ bao nhiêu thế kỷ hy vọng sẽ biến đổi tất cả những ý thức hệ khác để hoà nhập với sự kiêm ái lấy người dân làm căn bản của dân tộc Việt từ đời Trần Hưng Đạo hay trước đó nữa.
Sự đoàn kết của người Kinh - người Thượng đã có tự ngàn xưa như thần thoại Âu Cơ hay gần đây hơn vào cuối thế kỷ 18, dưới sự lãnh đạo của anh em Tây Sơn, đã có những đoàn quân cỡi voi của người Thượng trong việc đánh phá quân Thanh. Mối quan hệ miền xuôi miền ngược, người đồng bằng và người vùng núi là những mối giây đoàn kết đã làm đẹp quê hương hình chữ S từ Lạng Sơn tới mũi Cà Mau, làm phong phú cho nền văn học của nước nhà.
Tôi biết tôi đã ngà ngà mặc dầu đã từ chối uống nhiều lần nên mặc cho dân làng và các anh bộ đội cản tôi từ giã để ra đi, hy vọng có thể tìm ra được anh Trung và anh Tâm, dẫn họ tới một khu vực an toàn hơn, vì hướng hai anh đi là hướng bộ đội sẽ truy lùng nếu họ tìm không ra kẻ khả nghi ở vùng này ngày mai.
Chương 34
Tôi từ giã mọi người, rồi đi theo đường mòn dẫn lên B 12, đầu vẫn choáng váng vì chất rượu. Đi khỏi làng chừng 400 thước, có con đường dẫn xuống vọt nước của làng Ea Yut. Tiếng róc rách lẫn tiếng tè tè của mạch nước và vọt nước chảy nghe lôi cuốn vô cùng. Trời đã xâm xẩm tốii, tôi còn phải vừa đi vừa chạy cả bốn tiếng đồng hồ nữa mới tới vùng mà tôi ức đoán hai anh Trung và Tâm còn ẩn núp theo như hướng dẫn của tôi. Chắc cũng quá nửa đêm tôi mới theo kịp họ được. Sức quyến rũ của tiếng nước chảy làm tôi không thể cưỡng lại được. Phải đi xuống vọt nước, phải tắm một phen mới được! Tôi nhìn quanh không thấy ai, giờ này ai nấy cũng quây quần hát hò quanh ché rượu! Tôi quên cả tính mắc cở thường ngày, tuột hết quần áo kể cả quần đùi, đứng dưới vọt nước. Mát ơi là mát, sướng rên mé đìu hiu! Mạch nước cứu thoát cơn nóng nực, mạch nước giải thoát cơn say! Tôi thọc ngón tay vào cổ để ói ra hết những chất men tôi đã thấm. Vọt nước chảy đều xoá hết những dấu vết rượu và thịt gà tôi vừa mửa ra. Tôi có đủ sức để đi với sứ mệnh tự đặt cho mình, tôi không còn ngà ngà say nữa. Tôi đã đủ tỉnh để tính toán và suy nghĩ cẩn thận. Tắm một hồi thật đã, tôi miễn cưỡng mặc bộ đồ cũ vào, để dành bộ đồ chưa mặc trong ba lô. Tôi nhìn vọt nước một cách luyến tiếc như chưa đã thèm. Phải đi thôi cho kịp trước nửa đêm.
Tôi biết các anh bộ độ và du kích sẽ say bí tỉ đêm nay với đà uống liền tù tì của họ. Chắc ngày mai phải 10, 11 giờ họ mới thức được! Tôi tha hồ chạy, la lớn nếu cần vì theo lời anh Quốc, nhóm anh là nhóm biệt phái duy nhất đi săn lùng kẻ gian thôi. Tôi không còn phải lo âu, sợ hãi. Tôi không còn phải hát những bài ca cách mạng giữa rừng hoang. Tôi chợt có ý nghĩ hay mình cứ hát những bài ca sinh hoạt của miền Nam may ra những người vượt biên lạc đường có thể nghe và tìm cách liên lạc với tôi được. Như vậy sẽ chậm bước đi, nhưng ít ra tôi cũng đã cố gắng tìm cách cứu thoát họ. Tôi chỉ có thể trì hoãn du kích và bộ đội tới trưa mai là cùng. Nếu người vượt biên nghe tiếng tôi hát may ra họ có thể ra mặt để tôi dẫn đi tìm anh Trung và anh Tâm luôn.
Thế là tôi vừa đi vừa hát những bài ca vô thưởng vô phạt của miền Nam mà tôi đã từng hát những ngày còn đi học:
"Ngựa phi, ngựa phi đường xa
Tiến lên đường cát trắng, trắng xoá..."
Tiếng hát vang lên giữa rừng làm những con chim Ea Blang đầu có mào
lông màu trắng như những túm bông gòn giật mình bay lên và tôi cũng cảm thấy bớt cô độc. Núi rừng Trường Sơn đẹp thật, chim chóc muông thú, cỏ cây đều có sức quyến rũ lạ lùng. Càng đi vào sâu thì cây cối càng cao và to.
Không biết tôi đã hát bao nhiêu bài nhưng cổ thấy khô và chân cũng thấm mệt. Trời đã tối hẳn rồi. Tôi ngưng hát và ngồi ngay giữa đường mòn mở bi đông ra uống một ngụm nước chứ không uống nhiều. Uống nước nhiều mà chạy sẽ không nhanh và chóng mệt. Chỉ cần uống chút xíu cho bớt khô cổ là đủ rồi. Tiếng cú đêm kêu "tu hú" nghe buồn não ruột. Tôi lại đứng lên đi tiếp trong thinh lặng. Tôi nghe bước chân mình đi sột soạt. Ánh trăng non không đủ soi rõ đường mòn, nhưng tôi cũng không muốn dùng tới đèn pin, vì sợ hết pin bất chợt. Tôi chỉ xử dụng tới nó khi thật cần mà thôi.
Bỗng tôi nghe tiếng "cách" của một cành cây gẫy. Có lẽ là nai rừng đi trong khuya. Tôi dừng lại lắng nghe hình như có tiếng người rên gần đây. Tôi vội lấy đèn pin và lên tiếng vừa bằng tiếng Thượng vừa bằng tiếng Việt:
-- Ai đó? Tôi là giáo viên Quang!
Không có tiếng trả lời mà chỉ có tiếng vọng của câu tôi hỏi vang vang trong rừng khuya. Tôi đưa đèn pin rọi về phía có tiếng động. Có bóng đen nằm sấp như dáng người lẩn trốn mà chưa kịp. Tôi chuyển đèn pin qua tay trái, tay phải tôi rút lưỡi lê gắn trên phía trái ba lô để phòng hờ thú dữ. Chỉ có thể là con gì đó bị bẫy hoặc người vượt biên thôi. Tôi hỏi lại rõ ràng bằng tiếng Việt vì tôi biết chắc là không phải người Thượng, người Thượng nếu bị gì, họ sẽ rên la tự nhiên và lên tiếng khi có người hỏi.
-- Ai đó? Lên tiếng đi, tôi là giáo viên Quang đi công tác miền núi!
Tôi rọi đèn pin vào bóng đen nằm sấp. Đó là một cô gái nhìn tôi mặt xanh nhợt nhạt:
-- Anh người miền Nam?
Tôi trả lời và hỏi thẳng chứ không quanh co vì thời giờ gấp rút:
-- Vâng tôi người miền Nam, đi dạy vùng này! Chị là người vượt biên phải không?
Cô gái trả lời, giọng rặt miền Trung:
-- Dạ, tụi em định vượt biên mà không biết đường, bị đói mấy ngày, phải đào mì ăn.
-- Bao nhiêu người đi? Các người kia đâu rồi! Gọi họ ra ngay đi, tôi dẫn đi cho kịp. Du kích và bộ đội tìm các bạn cả ngày hôm nay, giờ họ đang nhậu nhẹt ở làng kia cách đây khoảng ba tiếng, tôi cần đi sâu về hướng Tây, tôi có thể dẫn các bạn đi một quãng an toàn.
Cô gái bò dậy:
-- Ui cha, chân em bị trặc!
Tôi cúi xuống, rọi đèn pin xuống bàn chân. Bàn chân trái cô gái bị trặc thật. Tôi nói:
-- Gọi các bạn chị ra đi! Còn chị ráng nhịn đau để tôi nắn khớp chân lại!
Tôi bỏ đèn pin sang một bên đưa hai bàn tay nắn khớp chân rồi tôi nói:
-- Chị gọi bạn chị ra đi!
Trong lúc chị để tâm gọi thì tôi giật bàn chân chị cho trở lại bình thường, khi chị la "Á" thì tôi đã sửa xong khớp chân chị rồi nhưng dù sao cũng không thể nào để chị đi bộ đêm nay được.
Hai anh bạn chị ta lù lù ra sau khi biết tôi không phải là công an hay bộ đội. Tôi nói thẳng:
-- Tôi đưa các bạn đi liền, nhưng chị này không thể đi được vì bàn chân vừa bị trặc. Tôi có chiếc võng, chúng ta phải thay phiên nhau khiêng chị đi thôi.
Tôi để họ lại đó, soi đèn pin đi tìm một thân cây thẳng, cứng có thể chịu đựng được sức nặng của cô gái. Tôi dùng lưỡi lê chặt xuống. Tiếng chặt vang trong rừng khuya. Tôi phải chặt gần sát đất rồi lấy đất bôi lên chỗ mới chặt cho ít ai để ý và với vội lá khô mục lấp lên. Tôi rút chiếc võng dù ra và cột vào thân câỵ
-- Chị lách người vào võng nhé!
Rồi tôi nói với hai anh bạn của cô gái:
-- Hai anh ghé vai khiêng thử đi!
Khi thấy võng vững tôi nói:
-- Đêm nay không có ai truy lùng, nên các bạn đi cùng tôi nhanh và liền đi. Nếu chần chờ có thể trễ.
Tôi tóm tắt cho họ biết tình hình ở làng Ea Yut và dự định của tôi. Các anh chị này cũng cùng tuổi tôi thôi, nên cũng dễ dàng nói chuyện. Hai người con trai là anh em họ tên Lê Bá Minh và Lê Hùng Cường, còn cô gái là bạn gái của anh Minh tên Hồng. Mấy người này chẳng có gì tuỳ thân cả, chỉ có mỗi một bộ quần áo mặc trên người. Đi vượt biên kiểu này thì chỉ có chết thôi!
Tôi hỏi vật dụng tuỳ thân đâu hết rồi, họ nói hôm qua thấy động họ bỏ mọi thứ trong bụi rậm gần con suối phía Tây Nam chạy lấy thân nên chẳng còn gì. Tôi đoán có lẽ là suối Ea Yut, dù gì cũng trễ rồi, không thể trở lại tìm đồ đạc của họ được, chỉ có nước đi tới mà thôi. Với khả năng cắm câu và kinh nghiệm của anh Tâm và Trung, may ra ba người này và hai anh có thể đùm bọc nhau được. Đi đông thì dễ bị lộ, nhưng tới nước này, tôi cũng phải liều đưa họ đi. Tôi tính thầm trong bụng, kế hoạch làm cho bộ đội và du kích say hôm nay tôi có thể xử dụng lại ở làng Tung Reng, là làng sát biên giới. Khi đãi rượu cho bà con say hết rồi tôi có thể dùng đò độc mộc cột bên bờ sông đưa anh Tâm, anh Trung, và các bạn mới này qua sông, chắc phải ba chuyến vì chiếc đò nhỏ không thể chứa sáu người cùng một lượt, cao nhất là ba hoặc bốn người. Tôi nguyện thầm xin Trời cho tôi tìm được anh Tâm và anh Trung đêm nay và dẫn họ tới chỗ an toàn dọc sông Krong Poco trước khi trời rạng sáng.
Chương 35
Anh Minh, anh Cường và tôi thay phiên nhau khiêng cô Hồng đi trên đường mòn. Trời cũng đã quá nửa đêm rồi, tôi ước chừng anh Tâm và anh Trung cũng ở khu vực nàỵ Vì khiêng cô Hồng đi nên chúng tôi hơi chậm một chút, nhưng chúng tôi đi trên đường mòn và không phải trốn tránh nên đi nhanh hơn hai anh nhiềụ Tôi nói anh Minh và Cường khiêng cô Hồng lách khỏi đường mòn, đi sâu vào một chỗ tương đối kín đáo phòng hờ, còn tôi đi vào sâu hơn, đi lên ụ đất cao, mở đáy đèn pin lấy ra mặt nhựa màu đỏ, vào bỏ vào mặt đèn pin. Tôi không muốn ánh sáng bình thường thu hút kẻ lạ dù rằng biết đêm nay cũng an toàn vì anh Quốc đã nói rõ tình hình trong huyện cho tôi khi anh ngà ngà say, nhưng dù sao cẩn thận vẫn hơn.
Tôi soi đèn pin về bốn phía, bấm tín hiệu Morse quốc tế khi kêu cứu SOS SOS mở đầu tích tích tích - tè tè tè - tích tích tích / tích tích tích - tè tè tè - tích tích tích ("... ---... /... ---..."). Tôi bấm xong rồi hồi hộp chờ đợi. Mỗi phút qua đi chậm như hàng giờ. Tôi chờ ba phút rồi bấm lại dấu hiệu kêu cứu để xem hai anh có trả lời không. Ba phút nữa trôi qua mà cũng chưa có ai trả lời hay động tịnh gì. Tôi bấm lại mạnh dạn hơn:
-- "... ---... /... ---.../.- -..... / -.-...- -. --. / -.-.- -- / --.-..-.- -. --. / -.. -...-.- -.-- " (SOS SOS ANH TRUNG TAAM QUANG ĐAAY)
Lần này may mắn quá, tôi thấy đèn pin sáng loé lên ở hướng Tây, cách chỗ tôi đứng chừng 7, 8 trăm thước.
Tôi bấm lại:
-- Hai anh chờ đó, đừng đi đâụ Quang tới đón! Đừng bấm đèn, trừ khi Quang bấm dò đường.
Tôi nói với hai anh Minh và Cường:
-- Hai anh khiêng cô Hồng đi theo đường này khoảng hai cây số nữa thì chúng ta gặp lạị Quang đi đón hai người bạn đằng kia rồi sẽ đi chận đầu đường này đón các bạn. Làng Tung Reng còn cách đây hơn mười cây số nên các bạn đi an toàn thôị Quang sẽ gặp lại các bạn khoảng 45 phút nữạ
-- Anh cho bọn này theo anh đi, đi đường lạ sợ quá! Lỡ gặp người ta thì saỏ
-- Không có ai giờ này đâu, chỉ sợ bộ đội nhưng theo như Quang biết thì bộ đội không tuần tiễu ban đêm. Họ trực trong đồn thôị Mà đồn nằm trên B 11, nằm phía kia, chúng ta đang nằm biên giới B 12.
-- Làm ơn đi, cho bọn này theo anh!
-- Sẽ chậm mất thôi vì đường rừng khiêng người khó, đôi khi vướng vít. Các bạn can đảm đi! Quang sẽ gặp lại mà! Phải chi chị Hồng không việc gì thì các bạn theo Quang cũng không hề hấn gì!
Các anh Minh và Cường miễn cưỡng khiêng cô Hồng đi theo đường mòn dưới ánh trăng non lờ mờ. Tôi biết là họ sợ hãi lắm nên trấn an họ:
-- Cứ an tâm đi, có gì Quang sẽ gặp lại các bạn mà! Quang sẽ đón các bạn trước khi các bạn nghỉ mệt lần nữa, cứ đi với tốc độ thường, không việc gì đâụ
Tôi vội rời họ đi sâu vào hướng Tây về phía tôi thấy ánh sáng loé lên khi nãỵ Phải chi anh Trung và anh Tâm dùng mặt kính đỏ thì đỡ biết mấy! Tôi đi khoảng mười
phút thì bấm đèn SOS xin dấu vì đi đường rừng khó mà có thể đi đường thẳng, vì cây nhỏ mọc tùm lum, cứ phải lách qua lách lại nên đi xiên đi xẹo nhất là trong đêm.
Cuối cùng tôi đã tìm được hai anh. Hai anh ôm chầm lấy tôi như người thân. Tôi vội vã nói phải đi liền về hướng bắc để gặp ba người bạn vượt biên khác. Tôi tóm tắt tình hình và nhờ hai anh giúp ba người kia luôn.
Anh Tâm nói:
-- Cùng người hoạn nạn cả giúp đỡ nhau là chuyện thường. Đang không Quang phải liều lĩnh giúp đỡ bọn này, thì bọn này lý gì mà không giúp đỡ người đồng cảnh ngộ.
Tôi nói:
-- Chúng ta đi lẹ nha, mấy người kia sợ hãi, mình cố gặp càng sớm càng tốt.
Ba người chúng tôi còn khoẻ nên đi một cách nhanh chóng. Chúng tôi không nói gì lúc đi đường sau khi tôi đã tóm tắt tình hình. Phải càng gấp rút càng tốt để kịp đưa họ ra dọc bờ sông, chỗ ít người qua lại, trốn trước khi trời sáng; còn tôi sẽ vào làng chuẩn bị kế hoạch cho bà con một bữa ăn no say mừng lớp huấn luyện giáo viên người Jrai sắp tớị
Thỉnh thoảng tiếng chim cú đêm vọng vang trong rừng "tu hú" nghe rờn rợn. Tôi dẫn đầu, các anh theo sau, chúng tôi lầm lũi đi nhanh. Đám lá cây rụng nằm trên mặt đất kêu sột soạt làm tim chúng tôi cứ đập thình thình mặc dù tôi đã báo cho các anh biết là đêm nay khá an toàn vì bữa tiệc rượu có chủ mưu của tôị Nhưng biết đâu chú Minh, người thủ trưởng già kinh nghiệm, lại có những thay đổi đột ngột cho tăng cường tuần tiễu đêm naỵ
Chương 36
Chúng tôi lặng lẽ đi hàng một, tôi dẫn đầu, còn anh Trung và anh Tâm đi theo sau, mỗi người cách một quãng, Tôi muốn đi nhanh để đón cô Hồng, anh Minh, và Cường sợ họ lo sợ đi lạng quạng rồi có gì xảy ra. Khu rừng này là rừng già, cây cao và to che kín ánh mặt trời nên các cây con không mọc được nên tương đối dễ đi. Ở các khu rừng non, chừng mười mấy hai mươi năm đổ lại, hay khu gần sông thì cây cối um tùm phải chui nhủi, vạch cây cỏ phá đường mới đi được. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ làm cách nào đưa những người bạn này qua biên giới càng sớm càng tốt. Họ càng ở lại lâu thì tôi càng rắc rối. Lỡ họ bị bắt mà khai ra thì liên lụy nhiều người nhất là tôi sẽ chẳng bao giờ hy vọng được ngồi dưới mái trường đại học nữa. Hy vọng đó dù mỏng manh do lý lịch gia đình tôi, nhưng dù sao vẫn là hy vọng.
"Đi chậm lại tí đi, bọn này mệt nhoài rồi" Anh Tâm đuổi theo kịp tôi nói nhỏ nhẹ, thở hổn hển.
Tôi dừng lại, giật mình vì trong lúc suy nghĩ lẫn lo lắng cho ba người kia, tôi có lẽ đi vội vã, tôi quên không để ý anh Trung và anh Tâm đã mệt mỏi từ mấy hôm nay. Tôi nói:
-- Hai anh cứ đi thẳng hướng này chầm chậm cũng được, còn Quang phải đi vội vì sợ mấy người kia lo lắng đi nhanh vượt qua chỗ Quang định chặn họ thì hỏng. Họ cứ đi thẳng trước mình thì họ sẽ vào làng là tiêu tan kế hoạch của Quang nên Quang phải đi nhanh chặn họ trước, hai anh mệt thì đi chầm chậm, chỉ còn chừng mười lăm phút nữa thôi.
-- Mười lăm phút nữa thì bọn này cũng ráng, đi lạc nhau mất công và phiền phức lắm. Có Quang dẫn đường bọn này an tâm hơn.
Đi trong đêm trời tương đối mát mẻ hơn ban ngày nhiều dù hơi khó khăn hơn ban ngày nhưng mắt đi trong đêm hoài cũng quen dần với bóng tối, có thể nhận ra chướng ngại trước mắt. Nhờ đi rừng quen, tôi càng thương cảm những người lính như bố, các anh tôi đã băng suối vượt rừng trong những cuộc hành quân khi xưa. Rừng Trường Sơn hay vùng đồng lầy miền Tây đều có những hiểm độc khó khăn riêng mà những người dân ở thành thị không thể cảm thấy.
Tôi nghĩ tới anh Minh, anh Cường và cô Hồng, không rõ họ ở vùng nào lên đây mà để lạc cả đồ tuỳ thân chỉ có mỗi một bộ đồ mặc trên người. Nếu để họ đi như vậy, mấy anh con trai thì không sao, chứ cô Hồng chỉ làm mồi cho muỗi, đỉa, vắt độc mà thôi. Khu vực này chưa có muỗi vì trên cao và rừng thưa, chứ đi xuống dọc sông Krong Poco thì những con vắt nho nhỏ thon dài sẽ bám đầy chân tay. Có lẽ tôi phải tìm mua có cô Hồng một cái váy sà rông của thiếu nữ Thượng, giả như làm quà cho bạn gái hay hôn thê của tôi.
Tôi nghĩ tới Nhung, tớ Du, không biết giờ này hai người đó đang làm gì, chắc chẳng ai ngờ tôi càng ngày càng lún sâu vào việc hiểm nguy. Chiếc lao đã phóng rồi, nếu không vì Nhung, chắc tôi không liều lĩnh thế nàỵ Vào rồi, thấy cũng dễ vào hơn. Ai có thể ngờ một giáo viên hăng say như tôi lại nhúng tay vào việc có thể bị coi là phạm pháp. Với tôi, đó chỉ là việc làm nhân đạo. Có thể Nhung là động cơ trực tiếp đẩy tôi vào hành động nghĩa hiệp không tính toán, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, việc này chẳng trái lương tâm tôi tí nào. Bố me tôi mà biết được, chắc chắn họ sẽ cản ngăn ngay, không phải vì bố mẹ tôi không thương người, nhưng các người thương tôi và lo cho tương lai của tôi hơn.
Giữa Du và Nhung, tôi cũng khó lựa chọn, một bên là tình cảm tự nhiên giữa hai người yêu văn thơ cùng làm giáo viên trên vùng núi, một bên là bạn bè cùng lớp xưa, bên ngoài mọi người coi là đã đính hôn, còn bên trong chúng tôi vẫn chỉ là bạn bè thân thiết, dù Nhung đã tin tưởng và đưa tôi nhật ký ghi từng chi tiết của cuộc đời nàng. Ờ Nhung có lẽ yêu tôi thật nên mới dám viết và cho tôi đọc những điều thầm kín nhất mà ngay với Má của Nhung, Nhung cũng không hề thố lộ.
Tuy Nhung không hề viết tên của kẻ đã hãm hiếp nàng, nhưng tôi nhớ lại những lời Hải đã nói với tôi khi tôi từ ở Đức An về nhà, tôi đoán chắc kẻ hại nàng không ai khác hơn là Hảị Tôi đâm ra giận Hải khi nghĩ tới Nhung. Tôi đã gián tiếp làm mai cho họ thời gian đi học. Tôi không ngờ Hải lại làm như vậỵ Việc gì cũng phải từ từ, có sự đồng ý của hai bên, và của cha mẹ. Đằng này, phục rượu rồi ép buộc một người con gái thật không đúng là hành động của trượng phu. Nhưng liệu chắc có phải Hải không hay người đó lại là chú Phiếm, ông công an khu vực thường lui tới nhà nàng. Vừa quyền to, lại lắm kinh nghiệm tuổi đời có thể giăng bao nhiêu cạm bẫy đối với những người trẻ như tôi, như Hải, như Nhung...
Cuối cùng tôi đã đến con đường mòn để chờ đợi anh Minh, Cường và cô Hồng. Tôi quay lại nhìn anh Tâm và anh Trung. Không thấy bóng họ đâu trong màn đêm, có lẽ họ đi chậm hay tại tôi lúc suy nghĩ tới Hải, chú Phiếm bực mình quá đi nhanh. Tôi bỏ ba lô xuống bên vệ đường, lấy đèn pin ra quay về phía tôi mới ra, bấm đèn pin làm hiệu cho anh Tâm và anh Trung để họ an tâm tiến bước, rồi tôi cúi rạp người áp tai xuống đường mòn để nghe tiếng chân người bước trong đêm. Không có tiếng động nào cả, có lẽ họ vẫn còn ở xa, chứ không thể nào vượt qua khúc này được. Nếu anh Minh và anh Cường đi không, còn may ra, chứ phải khiêng cô Hồng thì không khi nào. Tôi ngồi lên nghỉ mệt và đợi mọi người.
Khoảng 5 phút sau thì anh Trung trờ tới:
-- Anh Quang đi mau quá, bọn này theo không kịp!
-- Xin lỗi anh Trung. Quang vừa suy nghĩ vừa đi nên không quay lại thăm dò các anh. Anh Tâm đâu?
-- Còn đi đằng sau kìa, Trung phải ráng đuổi Quang đó, may mà Quang bấm đèn làm hiệu khi nãy chứ bọn này tưởng lạc rồi.
-- Quang xin lỗi. Nhiều cái bung bung trong đầu Quang nên vội vã quên không để ý là các anh đã đi mệt cả ngày.
Tôi đứng lên, bấm đèn làm hiệu cho anh Tâm. Rồi chỉ vào gốc cây lớn các đường mòn 10 thước nói nhỏ với anh Trung:
-- Anh lại đó nằm nghỉ đi. Nghỉ được phút nào hay phút đó! Quang ngồi đây chờ anh Tâm và ba người kia. Khi mọi người tới đông đủ, Quang sẽ dẫn các anh chị về phía biên giới càng nhanh càng tốt.
Trong sự tĩnh lặng của màn đêm và rừng khuya, tôi ngồi im, có thể nghe được tiếng đập của trái tim mình. Tôi biết tôi đang làm việc nguy hiểm, liều lĩnh, bên trong rất lo dù bên ngoài vẻ mặt trầm tĩnh không hề lộ tí gì sợ hãi. Xét ra tôi làm việc nguy hiểm này chỉ vì lòng nhân đạo chứ chẳng có lợi tí nào. Chuyện tôi giúp Nhung thì đã xong rồi, chuyện gì xảy ra cho anh Trung và anh Tâm hay ba người kia thì có liên quan gì tới Nhung hay tôi nữa đâu.
Tôi ngẩng đầu xoay lại bìa rừng nhìn khi nghe tiếng cành cây khô bị gãy khi anh Tâm đạp lên. Tôi đứng lên, anh Tâm trán chảy mồ hôi vì mệt giữa ban đêm, chắc là anh mệt lắm. Tôi đỡ anh, dẫn anh tới gốc cây chỗ anh Trung nằm nghỉ. Anh Trung đi mệt vừa nằm xuống đã ngủ ngay từ lúc nào rồi. Tôi thì thầm nói với anh Tâm:
-- Anh Tâm cũng nằm nghỉ đi, được phút nào hay phút đó, đoạn đường còn dài. Quang phải ra kia chờ ba người kia.
-- Cám ơn Quang, Tâm cũng mệt lắm rồi.
Tôi thầm trách mình không để ý là các anh đều là những người ở thị xã lên không quen với sự đi lại trong rừng, hai ba cây số đối với tôi chỉ như bước qua nhà hàng xóm chứ không phải là hai ba cây số vì tôi đi bộ hàng ngày cả chục cây số đã quen. Tôi đã hẹn với ba người kia, anh Minh, Cường và cô Hồng, một tiếng, giờ này đã quá một tiếng rưỡi rồi mà cũng chưa thấy động tịnh gì cả nên cũng đâm ra sốt ruột. Có thể nào họ mệt mỏi rồi bỏ vào rừng nghỉ mệt không? Một điều chắc chắn là họ không thể vượt qua điểm này được vì tôi cố tình đi chận đầu.
Tôi khoác ba lô lên, bỏ anh Tâm và anh Trung nghỉ tại gốc cây to, đi ngược theo đường mòn. Đi được một quãng thì tôi nghe được tiếng chân người bước, tôi tạt vào rừng để xem họ là ai, có phải là ba người tôi quen không hay là ai khác. Tôi không nghĩ họ là người khác vì người Thượng ít đi đêm, và bộ đội ít khi đi kích đêm trong thơi buổi này. Dù sao thì cẩn thận vẫn hơn! Khi tôi thấy bóng hai người khiêng võng thì tôi biết chắc chắn là anh Minh, anh Cường và cô Hồng rồi. Tôi đằng hắng rồi nói:
-- Quang đây, các anh cứ đi tới trước đi, có hai anh kia ở đằng đó đang chờ.
Tôi lại gần thấy anh Cường có vẻ mệt mỏi nói:
-- Thôi anh Cường để Quang khiêng một đoạn.
Tôi ghé vai vào đòn cây khiêng cô Hồng đi. Tôi nói:
-- Anh Cường đi sau, lúc nào khoẻ thì thế anh Minh. Quang còn khoẻ! Còn cô Hồng, sao không ngủ đi lấy lại sức?
-- Ngủ sao được, sợ muốn chết rồi nè!
-- Bây giờ có Quang dẫn đường rồi, ai ngủ được thì ngủ đi. Còn xa chứ không phải gần đâu.
-- Còn bao xa?
-- Tới bờ sông Krong Poco, cũng mất 3 tiếng nữa, nhưng khúc sau này mới gian nan, chứ không phải như đoạn đường mòn này. Vì khúc này cỏ cây rậm rạp và khó đi hơn vì gần nước. Thôi bây giờ im lặng để vừa đi vừa dưỡng sức. Có gì Quang sẽ nói sau.
Tôi vừa đặt chân tới chỗ tôi để anh Tâm và anh Trung nằm nghỉ, thì một tiếng động vang xé màn tĩnh lặng của đêm đen làm ai nấy đều giật nẩy mình. Anh Trung và anh Tâm lồm cồm bò dậy, dụi mắt nhìn quanh:
--- Tặc, tặc, tặc... Tắc Kè!
Tôi suýt phì cười nhưng lại đâm ra lo lắng vì tắc kè kêu trong rừng cũng giống như ếch kêu vùng đồng ruộng, báo hiệu mưa sắp đến.
Mưa nhỏ ở rừng thì không đến nỗi nào, mưa rào ào ào lớn thì nguy hiểm cho người không quen đường rừng vô cùng. Những con suối khô cạn bỗng dưng sẽ ngập nước và chảy xiết, người không khéo có thể bị chết đuối như chơi. Sông Krong Poco nước sẽ chảy mạnh và tràn bờ khó lòng vượt qua sông. Nếu trời mưa ngay đêm nay hay sáng hôm sau thì không thể nào tôi có thể thực hiện kế hoạch mượn bè qua sông như tôi dự định được. Tôi phải tức tốc tìm một kế hoạch khác bằng không mọi người đều kẹt. Tôi còn phải trở lại Phòng Giáo Dục chứ không thể dây dưa lâu lắc ở đây. Chậm lắm là sáng mốt tôi phải về để tránh mọi sự nghi ngờ. Nhưng nếu trời mưa, đêm mai tôi không thể đưa họ qua sông an toàn. Phải làm sao đây? Tôi hối mọi người theo tôi đi gấp dù rằng ai cũng mệt mỏi và muốn dừng lại lấy sức.
-- Phải đi ngay không thể chần chờ, nếu trời mưa đêm nay, các anh chị sẽ qua sông không kịp.
-- Bây giờ có đi tới sông, bọn này cũng không đủ sức để bơi qua.
-- Ai bắt các anh chị bơi qua đâu? Nếu kịp Quang tháo thuyền độc mộc đưa các anh chị qua, có điều phải chia làm hai chuyến, vì mỗi chuyến chỉ chở tối đa 3 người.
-- Còn bao lâu nữa?
-- Ít nhất ba tiếng!
-- Chịu thua thôi, không đủ sức đâu, bọn này mệt nhoài rồi! Có cách nào khác không?
-- Có thì có nhưng sợ kẹt các anh thôi!
-- Kệ, Quang nói nghe thử rồi bọn này quyết định.
-- Cách đây chừng một tiếng có rừng lồ ô, le, và tre. Ít người qua lại mùa này, nhưng nếu mưa đến sớm năm nay thì sẽ khổ các anh vì người ta sẽ đi bẻ măng. Chỗ đó cao, nên tương đối an toàn. Măng có thể làm thức ăn tạm cho các anh chị, các anh chị có thể trú mưa lúc mưa, khi không mưa các anh chị có thể chọn mấy ngọn tre rậm lên lên giữa ngọn làm chỗ ẩn không ai biết đến. Lồ ô chặt ra có thể đóng làm bè vượt sông, nhưng các anh chị phải làm mau chóng mới được vì khi chặt tiếng động vang trong rừng, nếu có người làng đi ngang họ sẽ nghi ngờ liền.
Tôi hỏi anh Trung:
-- Anh còn giữ bản đồ Quang đưa không?
-- Còn chứ, cẩm nang tìm sống mà bỏ sao được!
Tôi nói anh Trung mở bản đồ ra, rồi dùng đèn pin rọi vào bản đồ:
-- Bây giờ mình đang ở điểm này, cần đi tới con suối nhỏ này, cách đây nửa tiếng, cứ đi theo đường mòn chừng 1 tiếng nữa sẽ tới làng Tung Breng. Nhưng mình phải tách và đi dọc theo con suối, cứ đi theo con suối đó thì sẽ tới sông Krong Poco, khoảng hai tiếng rưỡi vì con suối đi vòng vòng theo thung lũng. Con suối nằm bên đồi làng Tung Breng. còn ngọn đồi đối diện là một căn cứ bộ đội trinh sát, nên các anh chị phải cẩn thận lắm mới được, đừng để lại một dấu vết nào khi đi đường hay chỗ ở. Đêm nay nếu không đủ sức tới sông Krong Poco, thì chúng ta phải nghỉ tại rừng le nàỵ Nếu trời mưa đêm nay hay sáng mai thì đêm mai Quang không thể đưa anh chị qua sông, hoặc là anh chị tự lo liệu hoặc phải chờ cả hơn ba tuần nữa Quang mới có thể giúp được. Nếu mưa thì ngày mai Quang ghé lại rừng le này đưa cho các anh chị ít gạo Quang sẽ mua tại làng Tung Breng, rồi anh chị tự lo. Sau khi Quang lo xong khoá huấn luyện giáo viên Thượng Quang mới có thể rảnh rang giúp được. Chỉ cầu mong đêm nay không mưa, thì đêm mai các anh chị có thể ngủ bên kia biên giớị
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, đã đi gần tới nơi mà một trận mưa lớn có thể cản trở công việc sắp thành! Tôi hối mọi người đứng dậy đi liền vì càng chần chờ thì càng nguy hiểm. Tôi nói anh Trung và phụ khiêng cô Hồng với tôi, để hai anh Minh và Cường nghỉ một chút. Anh Tâm thì nhìn bên ngoài còn xanh xao lợt lạt biết là không đủ sức rồi.
Khi chúng tôi vừa rẽ theo con suối bỏ đường mòn thì trời bắt đầu sấm sét ầm ầm dù chưa có hạt mưa nào. Thế là bao nhiêu dự định vượt sông đêm hôm sau có thể tiêu ma trong phút chốc! Tôi vẫn hy vọng, nếu có mưa cũng mưa nhỏ, nước không dâng cao và chảy xiết để tôi có thể điều khiển chiếc thuyền độc mộc đêm mai. Tôi giúp đỡ các bạn này trong lúc cùng đường là một việc thiện, nhưng tôi như đang cầm một trái bom nổ chậm, nó có thể nổ bất cứ lúc nào. Tôi bỏ trái bom này ra càng sớm chừng nào càng tốt chừng nấy!
Chương 37
Trời khuya trong rừng đã tối còn tối thêm khi mưa ào ào đổ xuống bất chợt khi sáu người chúng tôi còn đi dọc theo con suối. Nước mưa tuy không đập trực tiếp vào mặt chúng tôi vì cây rừng phủ kín trên đầu nhưng những giọt nước mưa từ trên lá cứ lộp độp nhỏ xuống cũng ướt tèm nhẹp. Tôi và anh Trung đi trước khiêng cô Hồng, nhưng đường trơn, vướng vít, cây lại rậm rạp. Anh Trung đi chậm lại có vẻ mệt mỏi. Tôi đứng lại đề nghị anh Minh tạm thời cõng bạn gái của anh, rồi sau đó chúng tôi mỗi người lần lượt thay anh cõng vì đoạn đường đến rừng le lên dốc cao và hơi khó đi. Nếu khiêng hai người thì người đi sau gánh nặng trĩu xuống thì sẽ lãnh đủ.
Tôi hết sức ngạc nhiên khi nghe tiếng anh Minh văng tục:
-- Đ.m. đi một mình còn không kịp thở, cõng làm sao nổi. Thôi tạm thời nghỉ chân ở đây đi.
Tôi cố nhịn giải thích:
-- Không được đâu, chỗ này không phải là chỗ tốt để ẩn nấp. Phải tới rừng lồ ô mới an toàn hơn.
Anh Minh nói cố:
-- Mệt chết rồi đi làm sao nổi nữa!
-- Thôi để Quang cõng, chứ để chị Hồng đi chân sẽ sưng và cản trở sau này. Ráng một chút đi.
Không thấy ai phản kháng, tôi bảo cô Hồng lách ra khỏi võng. Tôi tháo võng ra và bỏ vào ba lô.
-- Anh Trung cầm đòn khiêng này làm gậy để leo đồi này. Anh Cường đeo ba lô này giùm Quang. Còn các anh khác cứ bám sát theo nhau đi sau Quang. Trời khuya khó đi, chịu khó một chút, chừng nửa tiếng nữa thôi.
Anh Minh khó chịu:
-- Hồi nãy anh nói nửa tiếng lúc rẽ vào suối, bây giờ cũng nửa tiếng nửa, thế là thế nào?
Tôi bắt đầu bực mình vì sự vặn vọ và thái độ khiếm nhã của anh Minh, tôi đang giúp các anh chứ có phải tôi lấy tiền lo cho các anh đâu. Tôi có thể bỏ mặc họ ở đây rồi đi về làng Tung Breng, hay về lại Phòng Giáo Dục của tôi cho yên chuyện. Đường còn dài, trời lại mưa, nên tôi chỉ nói cụt ngủn:
-- Trời mưa đường khó đi hơn nên lâu hơn tôi dự đoán!
Rồi tôi ngồi chồm hổm trước mặt cô Hồng:
-- Chị chịu khó một chút nha, chị tựa vào lưng, ôm cổ, hai chân chị quàng ngang eo của Quang.
Đêm đen, tôi không thấy nét mặt của cô Hồng nên không biết cô có đỏ mặt hay không. Riêng tôi thì ái ngại lắm vì ngực cô áp sát vào lưng tôi, tôi vòng tay trái ra sau giữ đùi cô, còn tay phải chống xuống đất lấy đà đứng lên Mọi việc phải tuỳ hoàn cảnh! Tôi chưa bao giờ gần gũi một người thiếu nữ nào kiểu này, huống hồ một người gần như hoàn toàn xa lạ. Cũng may mà cô Hồng nhỏ con, không nặng lắm chứ không chắc tôi leo dốc không nổi. Khi tôi đi được một quãng, cô Hồng mỏi chân sau đó người cứ tuột làm tôi chẳng ngại ngùng đưa hai bàn tay ra sau đan ngón tay vào nhau để giữ thành ra tôi vô tình bợ cả hai mông cô ta. Ban đầu chỉ do phản xạ tự nhiên tôi làm mà chẳng suy nghĩ gì, nhưng càng đi lên cao, tôi càng đi chậm và giật mình suy nghĩ không biết bạn trai của cô Hồng nghĩ gì.
Đi được một quãng nữa, tôi vẫn còn có thể cõng được thêm, nhưng tôi đứng lại hỏi anh Minh:
-- Anh Minh cõng cô Hồng nhé!
-- Thôi anh cõng giùm đi, tôi đi một mình còn không muốn nổi.
-- Được, để tôi tiếp tục cõng, các anh ráng theo sát sau nha.
Tôi cố nhận định ra hướng đi mỗi lần chớp nhoáng lên. Đêm mai chắc là không thể qua sông được rồi, vì cơn mưa to và dài quá. Nếu chỉ mưa nhỏ hay mưa rào một tí thôi thì không đến nỗi. Đàng này mưa ào ào cả gần một tiếng rồi mà vẫn chưa có mòi dứt thì hy vọng của tôi đưa người qua sông trôi theo dòng nước.
Tôi im lặng cõng cô Hồng đi một mạch tới rừng le mọc rải rác chen với những bụi lồ ô lớn. Tôi qùi xuống thả cô Hồng xuống đất, ngồi thở phào chờ các anh kia lại gần. Cô Hồng hỏi:
-- Tới rồi hở anh?
-- Vâng, tới rồi!
Cô Hồng lí nhí:
-- Cám ơn anh! Em phiền anh quá!
-- Không sao mà, Quang có gì sai thì chị bỏ qua nha!
Khi mọi người tới nơi đông đủ, tôi nói với họ:
-- Đây là khu rừng le, tương đối an toàn. Bây giờ các anh chị tạm thời nghỉ tại đây. Mai sáng sớm các anh chị chia nhau chọn mỗi người một gốc le, làm một vòng tròn để quan sát xem rủi có người tới. Quang đã chỉ vẽ cặn kẽ mọi sự với anh Tâm và anh Trung rồi, chuyện gì mọi người nên bàn qua với anh Tâm và anh Trung...
Anh Minh lại xen vào:
-- Vượt biên mà còn phân chia giai cấp hở!
Tôi xoay về phiá anh Minh, ban đêm tôi không thấy nét mặt anh, nhưng tôi chắc anh bực mình chuyện gì đó, có thể là tôi đã làm anh xấu mặt với bạn gái của anh chăng. Xấu mặt hay chăng thì tự cá nhân mỗi người nghĩ thôi, chứ thực ra vì mệt mỏi không thể cõng thì có nhằm nhò gì, chỉ có thái độ của anh Minh tự tỏ ra vẻ ích kỷ và cá nhân.
-- Khi đi rừng, mọi việc đều phải cẩn thận. Việc các anh và cô Hồng nhổ sắn, để lửa cháy trong nhà nhỏ trên rẫy đã khiến du kích và bộ đội truy lùng. Tôi bảo đảm nếu không có tôi can thiệp có lẽ chậm lắm là chiều mai các anh chị sẽ bị bắt hoặc bị bắn ngay tại chỗ theo như lời bộ đội nói. Bắt giữ chỉ tốn cơm tốn sức. Thành thử tôi đề nghị các anh chị triệt để nghe lời anh Trung và anh Tâm. Khỏi cần nói, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi nghỉ một chút rồi phải đi về làng Tung Breng liền, tôi may ra ngày mai hay đêm mai có thể đưa cho anh chị thêm ít gạo, cô Hồng chiếc váy sà rông. Tôi tiếc không thể ở đây lâu giúp thêm vì tôi phải về Phòng Giáo Dục lo công tác của tôi. Các anh chị từ nay phải tự lo lấy, tôi có giúp được tí gì, cũng phải chờ hơn ba tuần nữa.
Tôi nói một tràng dài như trút hết bực tức của tôi trước lời nói của anh Minh và sự im lặng của các người khác. Có lẽ họ mệt mỏi vì đường xa hay vì cơn mưa đột nhiên là tan biến hy vọng của họ. Tôi không dám trách ai, chỉ bực bội vì những lời nói có vẻ không biết ơn tí nào của anh Minh mà thôi. Tôi đâu có bổn phận để giúp họ vượt biên gì đâu mà bị vặn vọ này nọ. Lạng quạng tôi bỏ đi luôn cho bõ ghét! Ở đó mà hạch hỏi!
Chương 38
Tôi ngồi dưới bụi tre nghỉ giữa anh Tâm và anh Trung. Bụi tre rậm nên thỉnh thoảng mới có ít giọt nước mưa rơi xuống, mặt đất vẫn còn khô. Cô Hồng, anh Minh và anh Cường ngồi ở bụi tre gần đó, xì xào điều chi đó. Tiếng mưa rơi lộp độp trên lá cây, với tiếng gió nên tôi không nghe được tiếng nào. Hai anh Tâm và Trung im lặng trong đêm, tôi nói với họ:
-- Hai anh nằm ngủ đi, Quang nằm ngồi nghỉ một chút rồi đi ngay. Quang sẽ nói anh Minh hoặc anh Cường trực đêm. Các anh phải thay phiên nhau gác đó phòng khi có chuyện gì....
-- Thôi chuyện đó để Trung lo. Trung sắp xếp sau. Quang nghỉ một chút rồi cứ tự nhiên đi, chuyện của bọn này bọn này lo được mà. Bọn này cũng đã phiền Quang quá nhiều. Không biết bao giờ bọn này mới có dịp giúp Quang lại.
Lời của anh Trung như ly nước mía uống được khi trời đang nóng bức, tôi ngồi im nhưng lòng khoan khoái lắm, ít ra cũng có người hiểu sự nguy hiểm mà tôi có thể gặp. Tôi khoác ba lô, đứng lên:
-- Quang đi đây, các anh giữ gìn cẩn thận. Nếu không có gì, chiều nay Quang ghé tới. Nấu nướng các anh phải chọn cành khô, đừng để bốc khói. Chuyện đó các anh biết rồi. Hay tạm ăn ít lương khô mà Quang đã đưa nếu còn.
Tôi tới chào cô Hồng, anh Minh và anh Cường:
-- Các bạn ở lại nha! Quang phải đi tới làng Tung Breng. Chiều nay Quang trở lại.
Cô Hồng ngồi dậy, nắm tay tôi thật chặt:
-- Cám ơn anh Quang nha! Anh cố trở lại sớm!
Những cuộc chia tay nào cũng có chút bịn rịn, nhất là giữa phái nam và phái nữ, dù quen sơ hay quen thân. Tôi liên tưởng tới lần Nhung ôm hôn tôi hôn khi tôi để Nhung ở lại nhà cô Liễu. Tự nhiên tôi muốn ôm cô Hồng vỗ về như vỗ về Nhung mà tôi chưa có dịp được an ủi chăm sóc từ khi tôi đọc nhật ký của nàng. Đời người con gái như cánh hoa trong sương gió, mỏng manh dễ bị tàn dập trong bão tố mưa sa. Tôi trấn tĩnh không choàng ôm cô Hồng như lòng tôi mong muốn khi sực nghĩ tới anh Minh cũng vừa ngồi dậy. Phải chăng tôi yêu Nhung hơn là yêu Du? Hình như tôi cũng như những thanh niên khác có khuynh hướng bảo vệ những người con gái yếu đuối?
Tôi vội vã rời mọi người trước khi trời hửng sáng. Trời mưa nên bóng tối hãy còn dài mặc dù đã hơn bốn giờ sáng rồi. Tôi chỉ cần đi thêm chừng một tiếng nữa là tới làng Tung Breng, có lẽ trời cũng mờ mờ sáng. Ttrời mưa thế này thì chắc kéo dài cả ngày, không chừng hai ba ngày cũng nên. Tôi đi một thân một mình với một ba lô chỉ vỏn vẹn có ít đồ lặt vặt nên đi rất nhanh. Vừa gần tới đầu làng tôi đã nghe tiếng than van khóc lóc của người khóc người đã chết rồi. Tôi giật mình lo sợ. Phải chăng là điềm không hay trong chuyến đi này của những người tôi vừa quen. Tiếng khóc than van của người làng tỉ tê với tiếng gió nghe thê thảm dường bao. Tôi nhìn quanh làng và quyết định tới dưới gốc cây gạo to để bao lô xuống đất rồi tựa lưng vào đó ngủ chờ trời sáng hẳn thay vì vào làng ngay vì biến cố bất ngờ này. Vào làng lúc có người chết trong đêm tối có thể làm người làng khiếp đảm như tôi là thần chết tới gõ cửa. Tôi cảm thương cho gia đình nào đó vừa có người qua đời, nhưng vừa ngồi xuống tựa lưng vào gốc cây gạo là thiếp đi dưới cơn mưa lã chã.
Khi tôi giật mình tỉnh dậy nhìn đồng hồ thì đã chín giờ sáng. Tôi đã ngủ thiếp đi một giấc dài gần 4 tiếng. Người khoan khoái mặc dù trời vẫn còn đang mưa. Trong làng vẫn không có động tịnh nào ngoài tiếng khóc tỉ tê của gia đình nào đó thỉnh thoảng ré lên. Tôi dụi mắt đứng dậy, khoác ba lô lên vai vào làng tìm gặp thầy Dũng trước tiên trong nhà ông làng trưởng.
Tôi đập cửa, cậu con trai của ông làng trưởng mở cửa. Tôi cúi đầu vào nhà chào ông bà làng trưởng đang ngồi bên bếp lửa.
Thầy Dũng nằm co ro trong xó nhà, trông ốm hẳn ra, con mắt hõm sâu đen. Thầy rất ngạc nhiên khi thấy tôi.
-- Chết Dũng mất, Quang ơi! Cả làng bị bệnh! Chắc kỳ này chết hết vì bệnh dịch tả!
Nghe nhắc tới dịch tả, tôi hỏi liền:
-- Đã có ai đi khai báo với bệnh xá huyện chưa?
-- Không biết nữa! Quang hỏi ông làng trưởng thử!
Tôi quay sang hỏi ông làng trưởng:
-- Có bao nhiêu người bị bệnh, và có ai đi bệnh xá khai báo chưa?
-- Cả cái làng bị bệnh, không có ai đi được.
-- Ông có bị không?
-- Tôi cũng bị, cứ tí tí là phải chạy ra rừng!
-- Có ai sang trại bộ đội gặp y tá bên đó chưa?
-- Không, chưa có đâu!
Tôi nói với ông trưởng làng là phải nói với mọi người từ bây giờ không ai được uống nước lạnh hay ăn đồ ăn không nấu chín nữa cho tới khi y tá hay bác sĩ nói thôi. Tôi cùng ông trưởng làng đi tới từng nhà căn dặn mọi người để ngăn chận bệnh dịch lan tràn. Tôi nghĩ chưa hẳn đã là dịch tả vì mới có một người chết thôi, trong khi bệnh bắt đầu đã hai hôm rồi. Nhưng dù sao cẩn thận cũng hơn. Mặc trời mưa tôi đi xuống vọt nước tắm cho sạch sẽ, giặt qua loa bộ đồ tôi mặc đã thấm ướt rồi chỉ mặc quần đùi và mình trần trở lại làng thay đồ khô ráo rồi mượn chiếc áo mưa của thầy Dũng đi tới đồn bộ đội cách đó cũng hai tiếng để nhờ y sĩ hay y tá. vào làng xem thử coi như thế nào. Trong làng cũng không có ai khoẻ để tôi gởi đi về bệnh xá huyện.
Tôi lủi thủi một mình đi trong mưa, suy tính đắn đo làm sao để giúp dân làng, đồng thời tìm cách trở lại báo cho các bạn vượt biên biết tình hình hiện tại. Chuyến đi từ làng đến trại bộ đội rồi trở về cũng mất hơn bốn tiếng đồng hồ, rồi tôi phải trực tiếp về huyện báo cho bệnh xá để họ cử người lên. Có thể vọt nước bị nhiễm độc chứ làm sao mà cả làng đều bị đi tiêu chảy. Có thể họ bị ngộ độc vì ăn uống tiệc tùng gì đó mà trong lúc hốt hoảng tôi đã không hỏi kỹ lưỡng. Đúng là hốt hoảng hay vội vã dễ làm hỏng chuyện. Tôi định bụng là khi trở lại sẽ điều tra kỹ hơn. Bây giờ thì chỉ lo đi nhanh tới trại bộ đội để xem chú Minh có thể giúp được gì không, chứ về bệnh xá huyện mất hết cả hơn ngày, e không kịp cứu nếu đó là bệnh dịch tả thật.
Trời mưa nên khi tôi vào đến căn cứ bộ đội đập cửa thì các anh ấy mới biết. Đúng là cảnh giác thời bình không có kỹ lưỡng như thời buổi chiến tranh. Tôi trình bày tình hình, thì quả đúng như tôi dự đoán trước, chú y sĩ hỏi:
-- Thế Quang có biết họ đã ăn gì mấy ngày rồi không?
-- Dạ không, cháu mới lên thì thấy ai cũng bị bệnh nên hoảng quá phải vào cầu cứu các chú đó!
-- Trời mưa gió thế này thì chú không đi được, nhưng chú có thể chỉ cách cho cháu lo. Bệnh dịch tả thì người ta ỉa chảy, đau thắt và mửa óc dài dài, cứt có khi có máu nữa. Cháu về coi lại đi. Bắt người ta nhịn ăn, uống nước sôi pha với máu, cho thêm ít đường vào cho dễ uống, hay uống nước gạo rang. Có lá mơ thì cắt nhỏ rán với trứng gà. Cầm chừng vài ngày là xong. Có lẽ tại họ ăn bẩn nên bị vậy đó.
Tôi qua sang chú Minh, thủ trưởng của căn cứ cầu cứu, may ra chú thương tình chú có thể nói một tiếng để chú y sĩ theo tôi vào làng, mất chừng vài tiếng đồng hồ, trong ngày mưa gió thì đâu có đến nỗi nào, nhưng chú Minh im lặng không nói gì để yên cho chú y sĩ nói chuyện giải thích cách săn sóc người bệnh một cách cặn kẽ. Tôi năn nỉ:
-- Thôi chú vào xem tình hình giùm cháu đi, cháu chỉ là giáo viên đâu có rành với mấy thứ bệnh đó!
-- Không được, chú phải ở lại căn cứ! Lệnh trên có thể di chuyển bất cứ lúc nào. Đâu có thể một mình đi vào với cháu được.
-- Một mình không được thì chú kêu thêm ba bốn chú nữa đi cùng, cháu hôm qua có gặp một toán bộ đội ở làng Ea Rung, trong đó có chú Quốc dẫn đầu đi bắt người đó.
-- Vậy hở? Có bắt được hay bắn chết mấy thằng vượt biên không? Đ.M, đã được giải phóng rồi mà còn ngoan cố trốn ra nước ngoài làm nô lệ cho giặc Mỹ, đúng là đám vong quốc!
Tôi trả lời gọn ghẽ không dám nói nhiều sợ các chú các anh bộ đội nổi nóng chửi luôn cả tôi:
-- Dạ chưa bắt được!
-- Bắt làm gì lũ đó, bắn chết cho rảnh tay, đường nào mình cũng có phần thưởng, 200 đồng một mạng đó, sống chết gì cũng vậy! Giữ đám đó làm gì cho toi cơm tốn của!
Tôi làm gan nói:
-- Thì các chú các anh đi với cháu vào làng Tung Breng rồi nhân tiện lúc trở về đi lùng bắt luôn.
-- Đám đó làm gì lên đây, rừng sâu khó đi. Có đi có lẽ họ sẽ đi theo lối Đức Cơ - Pleime, bên đó đã có căn cứ bộ đội lo công trường khai hoang rồi, có đi đàng trời!
Tôi hơi an lòng vì căn cứ ở đây hơi chủ quan không nghĩ tới chuyện săn đuổi ở vùng này, các anh Trung, anh Tâm, anh Minh, anh Cường và cô Hồng có thể được để yên ít hôm nếu họ khôn khéo không để khói bếp hay để lại dấu vết khả nghi trong rừng. Hai trăm đồng một mạng người! Ở xứ nào mà mạng người rẻ rúng thế này! Chết hay sống cũng cùng một giá! Bắt người rồi cho chuộc lại bằng hai ba cây vàng coi bộ lời và có lý hơn.
Năn nỉ riết cũng không được tôi đành từ giã chú Minh, chú y sĩ và các anh bộ đội khác để đi về cho kip. Tôi nảy ra một quyết định là tôi tới làng Ea Blang gặp thầy Nhân viết giấy gởi về Phòng Giáo Dục nói rõ tình hình và lý do tôi có thể chậm trễ vài ngày nhưng nhất định sẽ về kịp ngày bắt đầu khóa huấn luyện. Tôi viết kỹ để xin anh Nhật trực tiếp liên lạc với huyện để cử y sĩ hay y tá theo thầy Nhân lên làng để điều trị dân làng. Tôi biết là tôi đã ra ngoài phạm vi của một giáo viên, nhưng phải quyền biến thích nghi với hoàn cảnh, không lẽ thấy chết mà không cứu. Công tác của một giáo viên lý tưởng không phải chỉ hạn hẹp trong việc dạy đọc chữ mà cả trong việc truyền bá văn hoá, vệ sinh và cách sống. Việc gì cũng vậy, phải hết lòng và sẵn sàng vượt ra khỏi phạm vi thường nhật của mình. Tôi đang làm công tác dân vận cho nhà nước hiện tại đó mà, anh Nhật đâu thể trách cứ tôi được.
Dù sao tôi cũng cảm động khi chú Minh gọi tôi vào xuống bếp nói với anh nuôi đưa cho tôi một số lương khô, ít gói muối và đường.
-- Cháu cầm lấy mà dùng, chú không gởi người vào được, nhưng không phải là chú không muốn giúp. Chú là thủ trưởng, nhưng tuổi đảng không bằng chú y sĩ đâu.
Tôi nói:
-- Cháu đâu dám trách các chú. Cháu chỉ lo cho dân làng thôi. Còn các chú phải lo việc lớn mà, cháu nhỏ đâu có hiểu nổi chuyện của các chú.
-- Hồi xưa, chú cũng như cháu vậy, cũng nhiệt tình hăng say! Con chú chắc giờ này cũng tuổi cỡ cháu mà chú chưa về thăm được.
Tôi tự nhiên thấy thương chú Minh, tội nghiệp chú, một người chiến binh bao năm trời chưa về thăm nhà, dù là đã hoà bình rồi. Tôi muốn hỏi tại sao chú không xin nghỉ phép, nhưng lại thôi. Tôi hứa với lòng mình sẽ tìm cách trả ơn chú Minh, mong sao chú sớm được về thăm gia đình.
Chương 39
Đi đường rừng một mình, trời nắng còn đỡ, chứ đi dưới cơn mưa thật là rầu rĩ. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ lung tung đủ mọi thứ chuyện không biết làm cách nào để giúp dân làng mau bình phục, chuyện vệ sinh căn bản bảo vệ sức khoẻ của đồng bào. Rời căn cứ chú Minh chừng 20 phút, vừa xuống khỏi con dốc tới vùng tương đối bằng phẳng cỏ còn xanh vì có con suối nhỏ chạy dọc dưới chân đồi, thì tôi giật mình thấy một đàn trâu rừng đang nhẩn nha gặm cỏ cách đó không xa. Trâu rừng thường đi từng đàn cả mấy chục con, có khi cả trăm con, đây là lần thứ ba tôi gặp đàn trâu rừng. Lần thứ nhất khi tôi đi lên B 12 vùng Đức Cơ - Pleime, lần đó trâu ở phía xa, lần thứ hai trâu chạy ầm ầm đất rung chuyển, tôi và mấy người Thượng phải vội vã leo lên cây chưa biết chuyện gì xảy ra thì bất ngờ một bầy trâu có đến cả trăm con chạy dồn về phía tây có thể đạp chúng tôi tan thây nát thịt nếu chúng tôi không kịp leo lên cao. Tôi nghe nói thịt trâu dai nhanh nhách, nhưng bắn được một con trâu rừng là một dịp lễ lớn cho dân làng vì họ cho rằng đó là tặng phẩm của Giàng (Yang = Trời). Làng nào bắn được trâu rừng thì làng đó coi như được một ân xá, một đại xá có thể chuyển nghèo thành giàu, chuyển bệnh thành khoẻ trong năm đó. Tôi tuy không phải là người Thượng, nhưng làng Tung Breng đã xem tôi như người làng, nếu tôi bắn được một con trâu, không chừng vì lòng tin của họ biết đâu chừng họ mau khoẻ. Niềm tin mạnh hơn liều thuốc! Tôi mừng rỡ vòng ngược trở lại báo chú Minh và bộ đội.
--Kìa sao cháu trở lại?
--Cháu gặp một đàn trâu rừng dưới thung lũng, trở lại báo cho các chú xem các chú có muốn săn trâu rừng không?
Một anh bộ đội trẻ xen vào:
--Trâu rừng hở? Được lắm, chuyến này có thịt tươi ăn rồi! Ăn rau cải thiện mãi ngán ơi là ngán!
Chú Minh hỏi:
-- Đàn trâu bao nhiêu con, và liệu còn đó khi mình đến không?
-- Nhiều lắm, trời mưa, chúng lo ăn đâu để ý đâu! Bắn vài con là dư ăn rồi! Cháu xí một con đó!
Chú Minh cười:
-- Biết bắn không mà xí phần rồi?
-- Chú cho cháu mượn một khẩu AK hay một khẩu CKC là biết ngay!
-- Cháu biết dùng súng AR-15 không?
-- Hồi nhỏ cháu có tập bắn ít lần với các anh lính đóng đồn ở gần nhà cháu. Cháu đi gánh nước cho họ để được tập bắn chơi thôi!
-- Cháu thật thà quá! Được, chú có khẩu AR-15 và ít băng đạn trong kia, nếu cháu bắn được trâu, súng đó là của cháu!
-- Thôi cháu mượn lần này thôi! Giữ súng có ngày cháu bị tù!
-- Tù gì, giao cho cháu súng, chú phải cấp giấy phép chứ!
-- Cháu có phải bộ đội đâu!
-- Thằng này lôi thôi quá, chắc gì đã bắn được con gì nào! Coi như cá cuộc, nếu bắn được trâu, súng này của cháu, nếu không trúng, kiếm cho các chú một ghè rượu!
Tôi cao hứng giơ tay ra bắt tay:
-- Chú nói đó nha! Chứ cháu không phải là người đòi giữ súng đó!
Chú Minh giao súng cho tôi, chỉ cho tôi cách nạp đạn vào, lên đạn, cách bắn liên thanh, cách bắn từng phát một. Tôi thử một hồi, tập nhắm mà không bắn. Giả như chú Minh giao AK hay CKC cho tôi, tôi chắc chắn sẽ bắn được trâu thôi vì tôi đã mượn du kích Thượng súng CKC và AK để đi săn, còn súng AR-15 của lính Việt Nam Cộng Hoà và lính Mỹ thời xưa, tôi chỉ tập bắn chơi lúc còn nhỏ nên không mấy tự tin. Kệ thôi, tôi đâu cần súng, và một ghè rượu đâu có khó gì, ba ghè còn chưa lo, huống chi có một ghè! Tôi nhủ thầm, tôi phải ráng bắn trúng một con cho dân làng, rồi nhờ các chú bộ đội khiêng về làng cho tôi, rồi tôi tặng ba ghè rượu chứ không phải một hay hai ghè! Cho các chú bộ đội một ngày say bí tỉ với dân làng, rồi rinh thêm ba ghè nữa về căn cứ, gắn chặt thêm tình quân dân thì còn gì hơn nữa. Tôi đang mơ màng như cô gái đội rổ trứng ra chợ thì chú Minh lên tiếng:
-- Việc gì mà thừ người ra vậy?
Tôi vá vấp:
-- Cháu đang suy nghĩ nếu cháu bắn được một con trâu và các chú cũng bắn được vài con nữa, cháu tính xin các chú khiêng con trâu cháu bắn vào làng Tung Breng được không?
Tôi kể cho chú Minh và bộ đội điều mê tín dị đoan của người Thượng về việc săn bắn trâu rừng, các chú bộ đội vỗ vai:
-- Nếu bắn được một con, thì bọn này giữ hết, hai con thì một con phần chú mày! Anh em bộ đội sẵn sàng khiêng vào làng, chú mày phải kiếm ít vò rượu đó!
-- Khỏi phải hỏi mà, cháu dư sức lo chuyện đó!
Mọi người đã sửa soạn xong, bọc vải nhựa trước họng súng, để tránh cho nước khỏi vàọ Cả căn cứ đòi đi, vì không ai chịu ở lại canh. Cuối cùng chú Minh viết giấy gập tư bỏ vào mũ cho mọi người bốc. Mười chú bộ đội được đi cùng với tôi nữa là mười một, chú y sĩ cũng bốc trúng. Chú Minh không bốc và cũng không đi dù chú rất muốn. Nhưng chú phải làm gương tốt nên cười nói với một người:
-- Đi cho đông, mà về không có con trâu nào, ngày mai Quang phải đem rượu vào đây đó!
-- Cháu về tới làng là đưa rượu sang cho các chú liền! Giá mà chú y sĩ vào làng cùng cháu chữa bệnh, cháu đem cả ba vò rượu vào đã các chú!
Chú y sĩ cao hứng vì cuộc đi săn kỳ thú:
-- Được, được trâu hay không được trâu, sau khi đi săn về, chú cháu cùng vào làng.
Tôi mừng thầm trong bụng, cám ơn Trời, cám ơn Giàng đã cho tôi gặp đàn trâu, thế là tôi không phải qua làng Ea Blang tìm thầy Nhân để nhờ thầy về huyện xin y tá lên đây, vừa xa xôi, vừa hiểm trở, không biết có ai hăng hái lên không. Tôi nhìn chú y sĩ cảm động nói:
-- Cám ơn chú thật nhiều. Dân làng Tung Breng không quên ơn các chú đâu!
-- Thôi đi đi, kẻo trâu đi mất!
Chúng tôi đi nhanh, khi xuống dưới triền đồi thì chậm lại. Tôi khều tay chú y sĩ chỉ xuống thung lũng:
-- Kia kìa, các chú thấy không? Trâu rừng đó!
-- Mẹ kiếp, trâu đông thế này, nó mà chạy về phiá mình sừng nó húc cũng phanh thây!
Chú y sĩ ra lệnh cho mọi người dừng lại để có một chương trình hành động. Trời mưa như thế này thì không sợ lộ, nhưng một khi bắn thì phải bắn đồng loạt chứ không thì bầy trâu sẽ chạy mất. Tôi nhìn đồng hồ rồi hỏi:
-- Các chú có đồng hồ hết phải không?
Cả đám lắc đầu, kể cả chú y sĩ tên Dũng lúc đi đường vui vẻ tự giới thiệu! Thế này thì thật khổ, chúng tôi không thể tụ lại cùng một chỗ vì phải tìm vị trí thuận tiện để bắn, chú Dũng nói:
-- Bây giờ mọi người đếm từ một tới một ngàn, tới 1001 là nổ súng!
Chúng tôi chia tay để tìm vị trí dễ dàng bắn. Chú Dũng đi với tôi cùng một anh bộ đội trẻ. Anh vừa đi vừa đếm. Chúng tôi rạp người luồn đi dọc theo con suối để tránh khỏi bị phát giác. Khi chỉ còn cách đàn trâu một quãng thì anh bộ đội trẻ đếm tới 500. Chú Dũng nói:
-- Vừa tầm bắn rồi đó! Tìm chỗ thuận tiện bắn là vừa.
Tôi chỉ con trâu nhỏ đứng gần nhất:
-- Cháu chọn con trâu nhỏ gần nhất kia! Chú Dũng và anh chọn mỗi người một con khác nhé!
Chú Dũng nói:
-- Tớ chọn con trâu sừng dài phiá bên phải!
Anh bộ đội đang đếm tới số 775, chỉ con trâu phía trái. Tôi gật đầu:
-- Vầy nhé, vì mình ở gần nhau khi đếm tới 998 thì anh giơ tay lên, rồi mình đếm nhẩm 1, 2, 3 là bắn nhé!
Ba người chúng tôi mỗi người núp mỗi gốc cây ở gần nhau, nên có thể nhìn thấy nhau một cách dễ dàng, tôi hy vọng các nhóm kia cũng đã sẵn sàng trong tư thế bắn, vì nhóm tôi đã chuẩn bị sẵn.
Tôi ngồi trong tư thế bắn, thầm thì cầu nguyện xin Trời cho tôi bắn trúng con trâu rừng. Tôi nhắm thẳng vào đầu con trâu, hy vọng trúng đạn là trâu sẽ qụy ngay. Mọi sự đã sẵn sàng chỉ cần bóp cò súng. Tôi liếc mắt và lắng nghe tiếng đếm nho nhỏ của anh bộ đội trẻ.
Tôi nhẩm theo:
-- 995, 996, 997...
Tôi liếc thấy anh giơ cao tay lên, tôi nhắm lại đích ngay đầu con trâu trong lẩm nhẩm đếm một hai ba. Tay tôi giữ chặt súng, ngón tay trỏ bóp cò:
-- Đoàng.
Tôi không nghe tiếng súng của ai cả, con trâu của tôi lảo đảo chạy, tôi nhắm thêm một lần nữa, bấm cò liên tiếp hai lần, vì sợ trâu chạy mất:
-- Đoàng, đoàng.
Tôi chỉ thấy con trâu của tôi ngã xuống trong khi cả bầy trâu giật mình chạy về phía Tây trong cơn mưa.
Lúc này tôi mới ngẩng lên nhìn chú Dũng và anh bộ đội, thấy cả hai đều cười mãn nguyện trong khi tiếng la ó của các chú bộ đội khác át cả tiếng mưa.
-- Các đồng chí bắn sớm quá!
Chú Tiến cười ha hả dưới mưa:
-- Bắn được ba con rồi còn gì! Khiêng về một con còn chưa nổi, mỗi thằng chúng bay đòi bắn mỗi thằng một con, thì thịt thối cũng chưa đưa về hết!
Cả bọn mười một người gặp nhau chỗ ba con trâu nằm, máu đỏ hoà với nước mưa, con trâu nào cũng chết ngay khi bị đạn vào đầu, nên cũng không tội nghiệp lắm. Con trâu của tôi bị trúng viên đạn đầu tiên ngay vào chỗ hiểm, tôi không cần phải bồi thêm hai viên nữa trúng trên vai. Hai con trâu kia cũng bị trúng mấy viên đạn, thì ra cả chú Dũng cũng như anh bộ đội trẻ cũng lo sợ như tôi, bồi thêm mấy phát cho chắc ăn.
Tám anh kia, dù chưa kịp bắn, nhưng cũng cười hả dạ, chỉ có một hai anh cằn nhằn, nói:
-- Thủ phó chơi ăn gian quá, làm gì đếm tới 1000! Bọn này mới đếm tới 900 thì đã nghe súng nổ rồi! Không thể nào mà đếm nhanh thế được. Một người còn sai chứ 8 người sai coi bộ vô lý quá!
Tôi nhìn anh bộ đội trẻ dò hỏi, vì thực tình tôi không để ý mãi cho tới khi tới lúc đếm tới 900 tôi mới để ý thôi, chẳng lẽ chúng tôi ăn gian. Anh bộ đội quay nhìn chú Dũng! Chú Dũng cười nói:
-- Lũ bay tinh thật! Tao bảo thằng Hùng đếm nhảy 100 con số đó! Tao sợ bọn bay nổ súng trước bọn tao đó mà. Thôi bỏ qua đi, được cả ba con trâu rồi còn đòi gì nữa. Mà cách nào đưa ba con về đây, con nào con nấy to kềnh thế này? Các đồng chí bỏ qua cho tớ lần này!
Trời mưa mãi, ba con trâu to kềnh càng, nhìn trâu nghĩ tới đoạn đường leo dốc mà bắt ngán! Tôi đề nghị:

-- Vài chú về báo cho căn cứ biết, đem dao tới đây mổ trâu, rồi mỗi người đem về một ít là xong. Riêng con trâu cháu bắn, chắc không cần nhờ các chú khiêng vào làng vì các chú lo cho hai con trâu này đủ mệt rồi! Cháu sang làng Ea Blang đề nghị dân làng ra xẻ trâu, một nửa đem về cho họ, còn một nửa họ đưa sang làng Tung Breng! Các chú thấy được không?
Chú Dũng, y sĩ, nói:
-- Đề nghị tốt! Nhất trí! Nhưng đừng quên mấy ghè rượu nhé!
Tôi bật cười thành tiếng:
-- Chú cũng đừng quên đi vào làng xem bệnh tình của dân làng với cháu đó!
Tôi giao khẩu súng AR-15 lại cho chú Dũng nói chú giữ dùm vì tôi không tiện mang súng vào làng Ea Blang. Tôi dẫn theo ba anh bộ đội trẻ để xin làng Ea Blang cho ít ghè rượu thay vì làng Tung Breng người bệnh không biết có rượu sẵn không. Cũng may mà hôm ấy trời mưa nên dân làng Ea Blang không ai đi làm, tôi gặp thôn trưởng trình bày đề nghị của tôi. Ông thôn trưởng cười vui, nói ông thầy hay thật, bắn được trâu chia cho đồng bào. Tôi nói con trâu to lắm làng phải đi ra đó cắt thịt, một nửa cho thanh niên đưa qua làng Tung Breng vì làng đó bị bệnh, cho làng đó nguyên cái đầu, và cái đuôi để cúng Giàng, còn thân mình thì chia đôi. Ông thôn trưởng vỗ vai tôi nói:
-- Được mà, dân làng này có cái thịt để uống rượu ngày mưa là vui rồi!
-- Phải nướng, nấu kỹ đó, tôi không muốn ai bị đau cái bụng đâu nhé!
-- Đừng có lo, con Jrai khoẻ mà!
-- Khoẻ cũng phải cẩn thận, bộ dân làng Tung Breng không phải con Jrai à, sao mà họ bệnh hết vậy?
-- Tại họ không cúng Giàng đó! Mấy hôm trước họ lấy được xác một con nai to trong rừng, đã chết mấy ngày rồi, nên không cúng Giàng nên bị Giàng phạt!
-- Sao ông biết?
-- Cháu tôi có cái chồng bên đó mà!
Tình cờ tôi biết được nguyên nhân bệnh của dân làng Tung Breng, họ ăn trúng thực chứ không phải dịch tả. Có lẽ con nai mắc bệnh chết chương rồi mà ăn không nấu kỹ nên bị té re tống tàng thôi. Khổ cái là giáo viên của tôi sao cũng bị. Dù sao tôi cũng bớt lo phần nào. Có trâu để cúng Giàng tạ tội, có người đem thịt trâu tới đãi tiệc chắc là mọi người sẽ phấn chấn và khoẻ mạnh trở lại mau chóng hơn. Tôi hỏi mua vài ghè rượu cần cho bộ đội, ông xã trưởng nói:
-- Không được, ông thầy cho dân làng trâu, dân làng cho ông thầy rượu.
Ông bảo dân làng đưa ra ba ghè rượu, bỏ vào gùi, rồi nói:
-- Rượu này cho ông thầy và bộ đội!
Giao ba chiếc gùi có ba ghè rượu cho bộ đội đeo, tôi dẫn dân làng cầm theo dao, gùi để xẻ thịt trâu. Lúc gặp chú Dũng tôi nói:
-- Dân làng cho các chú 3 ghè rượu, cháu đề nghị chú cho họ hai cái đầu và hai cái đuôi trâu, các chú cũng chẳng làm gì với các thứ đó, để họ cúng Giàng, được không?
-- Được mà, lấy mấy thứ đó làm gì cho mệt!
Tôi quay ra nói với ông thôn trưởng và dân làng bằng tiếng Jrai:
-- Bộ đội cám ơn lòng tốt của dân làng đã cho rượu, bộ đội muốn cho dân làng hai cái đầu và đuôi của hai con trâu nằm kia để cúng Giàng đó!
Ông thôn trưởng lại gần chú Dũng, cười vui:
-- Bộ đội tốt! Bộ đội tốt! Ngày mai tới uống rượu với dân làng!
Mọi người đang vui vẻ xúm vào xẻ thịt trâu thì chú Minh và cả căn cứ cũng xuống. Thấy ba con trâu to và ba ghè rượu trên lưng ba chú bộ đội, chú Minh cười thật lớn nói với tôi:
-- Cái thằng này thật hên! Đã trúng mối trâu, lại được rượu! Cháu Quang may mắn thật! Đi đâu cũng được dân làng cho cái này cái nọ Khẩu súng chú đưa cho cháu hồi trưa, cháu giữ luôn đi! Chút nữa về căn cứ chú làm giấy tờ cho.
Có súng để đi săn thì thật vui, nhưng giao súng ống một cách dễ dàng như vậy tôi phát sợ, không chừng là cạm bẫy bắt tôi vào tù thì khổ: tôi từ chối:
-- Thôi cháu mượn súng xài lúc cần thôi, cháu không lấy đâu! Việc bắn trâu xong rồi, cháu cần gì nữa! Coi chừng người ta tưởng cháu là phản động thì tiêu đời nhà ma!
-- Cháu khéo lo! Chú nói được là được mà! Chút nữa về căn cứ chú giải thích kỹ càng cho! Dân làng tốt với cháu vậy mà không lẽ chú thua sao?
Tôi không nói gìthêm cầm tay chú Minh tới xem dân làng họ xẻ trâu, cắt thịt một cách nhanh chóng. Tôi nói:
-- Đồng bào giỏi quá, cắt nhanh như cắt luá! Đồng bào cắt luôn hai con trâu kia giùm bộ đội đi, trông họ kìa chưa cắt được gì cả!
Mưa vẫn tiếp tục, mỗi nhát dao làm máu hoà với nước chảy loang. Tôi chạy tới chú Dũng:
-- Chút nữa chú cháu mình mang thịt về căn cứ trước rồi cháu dẫn chú sang làng Tung Breng nha!
-- Ừ, chưa bao giờ thấy vui như hôm nay! Chú đi với cháu một lần vào làng xem sao!
Tôi mừng lắm vì thấy nhiều chuyện xảy ra trong đời một cách thật tình cờ làm biến chuyển con người và cuộc sống. Mới sáng nay chú Dũng nhất định không đi đâu cả, tôi đã nảy ra dự định nhờ thầy Nhân về huyện tìm y tá hay bác sĩ lên đây, rồi chỉ vì nhìn thấy đàn trâu mà mọi chuyện gần như đâu vào đấy, tôi biết được nguyên nhân đau bụng của dân làng, thuyết phục được chú Dũng vào làng khám bệnh, lại còn được giao súng nữa. Có nên nhận khẩu súng đó không, tôi băn khoăn suy nghĩ! Hãy để nghe chú Minh giải thích khi về căn cứ đã, dù sao mình cũng chẳng mất mát gì! Điều mừng là dân làng không phải bị bệnh dịch tả, lại có thịt trâu tươi, có đầu và đuôi trâu để cúng Giàng, và nối kết được tình thân giữa dân hai làng với nhau, giữa dân làng và bộ đội.
Chương 40
Trong lúc mọi người lục đục nấu nướng thịt trâu rừng, thì chú Minh dẫn tôi tới nhà kho, nói anh cần vụ tìm ít đồ quân phục giao cho tôi, vì mặc dù có áo đi mưa, nhưng quần áo tôi đã bị ướt, người tôi bắt đầu thấm lạnh, môi thâm và nổi da gà. trên tay chân. Chú cần vụ đưa cho tôi một bộ mặc vào người, rồi lấy thêm một bộ nữa:
-- Quà của các chú cho cháu đó! Thủ trưởng cho phép chú tặng cháu hai bộ quân phục!
Tôi thực tình cám ơn chú Minh và chú cần vu, cám ơn rối rít! Áo quần hơi thụng thịnh một chút nhưng khô ráo nên đỡ phần nào lạnh. Chú Minh gọi tôi lên phòng riêng của chú, mở ngăn kéo lấy một tờ giấy đã đánh máy sẵn đặt lên bàn. Chú hỏi tôi:
-- Giấy chứng minh nhân dân cháu đâu để chú điền cho đúng, để cháu khỏi lo lung tung về chuyện chú giao khẩu súng AR-15 cho cháu?
-- Cháu thực sự không cần súng mà! Chỉ thỉnh thoảng đi săn cháu mượn của dân làng hay của các chú là được rồi!
Chú Minh nhìn thẳng vào mặt tôi:
-- Cháu có máu thợ săn, thấy súng đương nhiên là ham rồi, nhưng tại sao cháu lại từ chối không nhận súng?
Tôi thật thà:
-- Cháu sợ bị đi cải tạo vì chuyện không đâu!
-- Chú đã nói là có giấy tờ đàng hoàng, hơn nữa chú chỉ có cháu có hai băng đạn thôi, thì lấy gì mà lo. Chiến tranh đã hết rồi, cháu có khẩu súng và hai băng đạn này thì làm gì ai được. Đảng và nhà nước còn chủ trương giao súng ống cho các thanh niên phường xã rộng rãi hơn nữa kìa, nhưng chỉ giao cho ít đạn dược thôi, mà đôi khi còn là đạn giả. Những khẩu súng AR-15, M-16 của Mỹ Nguỵ hồi xưa còn để lại nhiều lắm. Trung ương đã có chủ mưu giao súng Mỹ Nguỵ lại cho các thành phần chống đối để dễ bề tóm bắt một cách dễ dàng.
-- Trung ương không sợ phản loạn sao?
-- Sợ cái gì? Các thành phần cốt cán có âm mưu phản loạn là người của mình gài vào trong đó hết rồi, nhúc nhích một chút là trung ương đã biết ngay. Chú giao súng cho cháu là chú thấy cháu thật tình với chú, hết lòng dạy dỗ dân làng.
Cháu mà có manh nha vớ vẩn là chú bắn thẳng tay chứ không có phải chuyện trò như thế này đâu.
Tôi đưa giấy chứng minh nhân dân ra cho chú Minh, chú loay hoay điền họ, tên tôi, ngày tháng năm sinh, số chứng minh nhân dân vào một tờ giấy vàng nhạt đã in sẵn có hàng chữ Tổng Cục Tình Báo Trung Ương in đậm trên đầu trang. Tôi trố mắt nhìn thấy chú ghi lý do được cấp súng: Đương sự thi hành công tác đặc biệt. Mọi thắc mắc liên lạc thẳng với cục tình báo trung ương. Tôi giật mình mặt tái xanh vì tôi thực sự không muốn dính líu gì tới cơ quan phản gián trong khi tôi chỉ là một dân sự, con em của những người đã tham gia chính quyền và quân lực Việt Nam Cộng Hoa, chỉ là một giáo viên đi công tác trong miền núi xa xôi mà thôì. Chú Minh loay hoay lấy ra mười mấy con triện, chú thử ít cái, rồi mới đóng mộc một con vào. Chú đưa cho tôi rồi cười nói:
-- Cháu là nhân viên chính thức của sở tình báo trung ương rồi đó!
Tôi cầm lấy tờ giấy, đọc lại kỹ thêm, rồi đưa trả lại:
-- Cháu không dám nhận đâu, cháu chỉ muốn làm một giáo viên quèn thôi, không muốn dính líu tới chính trị hay quân sự
-- Chú có đòi cháu làm gì đâu, giữ tờ giấy này, có lợi cho cháu chứ không có hại đâu mà sợ.
-- Cháu không làm tình báo được đâu thật sự đó!
-- Đã bảo là chỉ có danh mà thôi, chứ chú có trả lương hay đòi cháu làm gì đâu, nhà nước còn tốn phí bao nhiêu tiền, bao nhiêu giờ cho những chuyện, những người không đáng, mà chú chỉ tốn một mảnh giấy, một khẩu súng trước sau gì cũng giao cho người khác để giao cho cháu, một người đi đâu cũng được người mến, người thương thì có gì đâu. Ngay cả chú chính trị viên y sĩ cũng thích và thay đổi ý định đi vào làng với cháu kìa. Việc này chú đã tham khảo với chú Dũng rồi. Nhận lấy đi!
Cực chẳng đã, tôi đành nhận lấy thẻ công tác đặc biệt, tôi nói:
-- Trước khi rời nhiệm sở này, cháu sẽ giao súng và thẻ lại cho các chú!
-- Việc đó nói sau đi!
-- Chú Minh à, hồi nãy cháu thấy chú thử mấy con triện rồi mới chọn một cái để đánh dấu, sao vậy chú? Bộ chú làm cho nhiều cơ quan khác nhau hở?
-- Không, con dấu là của một cơ quan thôi đấy, nhưng tùy thuộc vào ngày giao chú ghi xuống mà chọn một con dấu cho đúng để tránh người ngoài đánh dấu bậy.
-- Cháu không hiểu.
Chú Minh cầm mấy con triện lên, đóng mộc xuống một tờ giấy trắng, rồi chỉ tôi:
-- Cháu thấy vị trí của các ngôi sao khác nhau không? Cháu để ý các chòm sao đứng bên phải tượng trưng cho tháng. Cũng mười hai ngôi sao, nhưng cái này một con đứng rời là tháng giêng, cái kia năm sao đứng chung là tháng năm, cái kia chín sao đứng chung là tháng chín... Chú cấp cho cháu tháng Giêng dương lịch, nên có một ngôi sao nằm riêng hẳn không dính liền với mười một ngôi sao kia. Nếu chú ghi xuống ngày cấp giấy là tháng Hai, công an cầm tờ giấy này có thể còng cháu ngay tại chỗ vì biết là giấy tờ giả mạo.
Tôi giật mình sợ hãi vì tính cách tỉ mỉ dù rất mộc mạc thô sơ này, nhưng phải là những người trong ngành mới hiểu được, lơ xơ như tôi cứ lấy đại con triện nào rồi đóng dấu để dành xài bậy thì có ngày đi tù dễ dàng như chơi. Tôi thắc mắc không biết Phòng Giáo Dục có làm theo hệ thống này không, nhưng giữ kín trong lòng không dám hé răng. Tôi nói:
-- Nhà nước và các chú chu đáo quá, bảo sao mà Mỹ không thua!
Chú Minh nói:
-- Đảng và nhà nước tính toán kỹ lắm, muốn chạy cũng không được. Trong đám người chạy ra khỏi nước năm 1975, cháu biết có bao nhiêu người của ta gài vào trong đó không?
-- Cháu sao biết được chuyện đó, ngay cả con số người đi ra nước ngoài cháu cũng không biết nữạ
-- Một trăm hai mươi mốt ngàn người, trong đó hơn hai mươi ngàn người là của ta. Những người này một số ít đã ra mặt trong vụ đấu tranh đưa người về Việt Nam, số đông còn lại phải nằm vùng, bám sát vào dân, tạo uy tín trong các cộng đồng để làm các nhiệm vụ đặc biệt sau này.
-- Sao mà nhà nước tính kỹ thế? Họ đã rời Việt Nam thì đâu liên quan gì tới mình nữa.
-- Phải như vậy mới được cháu ạ! Phải cô lập và bất hiệu hoá những hành động không có lợi cho đất nước mình! Cháu cứ hỏi chú Dũng, chú ta là đảng viên chính trị viên, chú ấy sẽ nói cặn kẽ cho mà nghe! Trong hàng ngũ địch hồi xưa, người của ta có người làm tướng, tá, cố vấn, trong cả bộ tham mưu của tụi nó nữa đó cháu ạ! Đảng và nhà nước dùng tiền, dùng gái, dùng liên hệ gia đình, dựa vào những điểm yếu của mỗi người để đưa người ta vào tròng.
Không biết sao hôm nay chú Minh nói nhiều chuyện cơ mật vậy, có phải chú định đưa tôi vào vòng hoạt động cho nhà nước không. Tôi đã tự hứa với bản thân là không bao giờ tham gia lực lượng mà cha anh tôi đã suốt một đời phản kháng, gia đình bố mẹ tôi đã bỏ Bắc vào Nam, lẽ gì tôi lại vì một khẩu súng mà làm chuyện tồi bại gì để cắn rứt lương tâm sau này, hay bị mang tiếng là hoạt động cho một tổ chức đã bắt thân nhân tôi đi cải tạo. Có thể nào tôi dùng gậy ông đập lưng ông được không trước một guồng máy chính trị tinh xảo như thế này. Tôi phải làm sao đây? Đang suy nghĩ chưa kịp hỏi gì thêm thì chú Tiến đã thay đồ và chuẩn bị xong ít thuốc men ghé đầu vào hỏi:
-- Mình đi được chưa, chú còn phải về cho kịp.
-- Dạ được, cháu dẫn chú đi!
Khi bước ra ngoài tôi ngạc nhiên thấy năm chú bộ đội khác cũng sẵn sàng, súng ống và mọi thứ cần thiết. Chú Minh cũng bước ra khỏi văn phòng. Chú Dũng trịnh trọng hô:
-- Thao tác nghiêm!
Năm chú bộ đội trước văn phòng đứng thẳng người trong tư thế nghiêm. Chú Dũng cầm khẩu súng AR-15 hồi trưa đưa lại cho chú Minh, nói đồng chí thủ trưởng giao súng cho lính mới.
Chú Minh cầm súng đứng trước mặt tôi lúc này trông không khác gì bộ đội, chỉ thiếu cái nón cối thôi.
-- Tân binh, nhận súng!
Tôi luýnh quýnh cầm khẩu súng giữa tiếng vỗ tay và cười vui vẻ của mọi người. Có lẽ họ sực nhớ tới ngày đầu được nhận súng mà tháng năm dạn dày chinh chiến đã làm họ lãng quên.
Tôi nhớ lại những lần anh cả tôi kể chuyện lúc anh ra trường sĩ quan Đà Lạt trước khi anh tử trận khi nhảy dù xuống cánh đồng Chum trong chiến dịch Hạ Lào. Lần nào cũng rưng rưng nước mắt hồi tưởng lại một thời mộng bay cao phụng sự tổ quốc. Bố tôi dạo ấy đã về hưu nói với anh vài tháng trước khi anh về phép thăm vợ con và bố mẹ tôi:
-- Mày chuẩn bị hồn xác trong sạch! Chúa có thể gọi về bất cứ lúc nào!
Mẹ tôi trách bố:
-- Cái ông này, chỉ nói qưở!
Lúc đó tôi còn nhỏ, nhưng trong bữa ăn cuối cùng, tôi thấy chị dâu và anh tôi buồn lắm, nhưng cũng cứ gượng vui với mọi người. Tôi vội vàng ăn mau rồi cõng cháu tôi đi ra đường chơi vì không khí ngột ngạt trong gia đình người nào hình như cũng muốn khóc.
Bây giờ tôi lại mặc trên người bộ quân phục của những người đã bắn chết anh tôi, tự dưng nước mắt tôi trào ra!
Chú Minh vỗ vai tôi nói:
-- Lúc chú lần đầu đeo súng, cũng muốn khóc như cháu!
Tôi yên lặng không trả lời, khoác lên vai giây đạn với ba băng đạn và đeo súng lên vai. Tôi chià tay bắt tay chú Minh nói:
-- Cám ơn chú! Cháu sẽ trở lại!
Chiến tranh là gì? Kẻ thù là ai? Tôi thấy bố tôi, anh tôi không hề sai lầm, tôi thấy chú Minh, các chú, các anh bộ đội khác, ngay cả chú Dũng cũng đáng mến. Con người với con người, nếu đối xử với nhau trong tình người, không phải để phục vụ một lý tưởng nào một cách mù quáng sẽ có thể ngồi lại được và giao thiệp với nhau một cách thân mật, chứ không để thù hận làm biết thái bản tính con người. Tôi sẽ phải làm gì đã xoá lấp hố sâu ngăn cách giữa người cộng sản và người quốc gia, người Thượng và người Kinh. Tôi phải làm gì để chứng minh cho người cộng sản biết rằng người quốc gia cũng là những người yêu nước chân chính, biết yêu quê hương, yêu tự do, yêu độc lập không kém gì họ, chỉ có một điều khác là người miền Nam không hề tôn sùng một chủ nghĩa nào, một lãnh tụ nào một cách mù quáng để vấp ngã nghiêm trọng trong cuộc đời.
Chương 41
Năm chú bộ đội cùng với chú Dũng và tôi từ giã mọi người rồi lên đường. Vì đường mòn đê’n làng Tung Breng nhỏ hẹp, chu’ng tôi hàng một đi theo nhau, tôi dẫn đầu, chu’ Dũng đi theo sau, rồi tơ’i ca’c chu’ bộ đội khác. Chu’ng tôi lầm lũi đi trong mưa, thỉnh thoảng mới nói qua nói lại vài câu, vì chúng tôi vội vã đi mau để tránh bị ướt.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã tới làng Tung Breng. Tôi ngạc nhiên thấy nhiều người đi lại hoạt động chứ không im lìm như sáng naỵ Khi đến gần tôi mới biết đó không phải là dân làng Tung Breng mà là dân làng Ea Blang qua phụ giúp nấu nướng để cúng Giàng.
Chú Dũng cùng tôi vào từng nhà bắt mạch và coi bệnh của từng người. Đúng như dự đoán, mọi người đều bị trúng thực chứ không phải bị dịch tả. Thật là may!
Ông trưởng làng xin lỗi là không tổ chức tiệc lớn được vì mọi người đều bị bệnh, nói rằng:
-- Đồng bào bị bệnh nhiều quá không tiếp đãi bộ đội và thầy giáo chu đáo, ngày trăng tròn tháng tới mời bộ đội và thầy giáo tới đây uống rượu và ăn chơi với dân làng. Hôm nay chúng tôi với sự giúp đỡ của làng anh em Ea Blang chỉ cúng Giàng và ăn uống chút xíu thôi.
Chú Dũng quay sang nói với tôi:
-- Nói dân làng không được ăn uống gì trong hai ngày, chỉ uống nước đun sôi thôi. Khi bụng không còn gì, thì bịnh tự khắc sẽ ngưng, không cần thuốc men gì.
Khi tôi dịch cho ông trưởng làng, ông nhăn nhó nói:
-- Cúng Giàng thì mình cũng phải ăn uống với Giàng mới được chứ! Không có là khinh khi Giàng sao?
Tôi biết phép vua thua lệ làng, khoa học chưa bài trừ hết lòng mê tín nơi những người con của núi rừng nên nói:
-- Ăn uống ít ít thôi cho phải lễ rồi còn dưỡng bịnh, nếu không sẽ bệnh lâu hơn.
-- Được, được. Tôi sẽ nói dân làng ăn uống ít ít thôi.
Tôi cũng thừa biết khi đang bệnh, người bệnh cũng chẳng muốn ăn uống gì, nhưng sự thật cần phải nói thế thôi. Ông trưởng làng gọi mấy nhà gần ông đưa sang 2 ghè rượu và lấy thêm một ghè rượu của nhà ông nói tôi đưa cho bộ đội đưa về căn cứ\ Tôi nói với ông trưởng làng:
-- Họ đã có ba ghè rượu của làng Ea Blang rồi, không cần nữa đâu. Mấy ghè rượu này để cúng Giàng đi.
-- Không được rượu làng Ea Blang là rượu làng Ea Blang, còn rượu làng Tung Breng là rượu làng Tung Breng. Không lẽ làng Tung Breng lại thua làng Ea Blang sao?
-- Nói vậy thì tôi thua. Để tôi nói lại với bộ đội.
Tôi dịch cho chú Dũng, chú cười hể hả, bắt tay ông trưởng làng.
-- Đồng bào tốt quá, cám ơn! Đồng bào và bộ đội có quan hệ tốt.
Chúng tôi ở lại nhà ông trưởng làng một lúc rồi đi sang các nhà khác. Khi xong hết vòng, thì cũng là lúc mọi người đến tề tựu đông đủ nơi nhà ma để cúng Giàng cầu cho mọi người tai qua nạn khỏi và tiễn đưa người xấu số về thế giới thần linh.
Người chết được bỏ vào phần mộ gia tộc. Thông thường đó là một cây cổ thụ bị chặt đẽo thành một cái hòm thật lớn, chôn nửa chừng, phầnửa còn trồi lên trên được đậy nắp kín, nằm dưới mái nhà con con không có tường vách để tránh mưa tránh nắng mà thôi. Những người trong gia tộc thường được chôn chung trong một hòm. Cũng may là sự chết chóc không xảy ra thường xuyên trong một gia tộc, chứ như thời chiến tranh, không biết họ sẽ phải làm gì.
Dân làng Ea Blang cũng cùng có mặt cúng Giàng với dân làng Tung Breng. Hình như họ đã chuẩn bị trước nên làng Ea Blang đã nấu rất nhiều cơm nếp trong ống nứa và thịt trâu cũng được nấu với rau cỏ. Mọi người uống rượu và ăn uống qua loa, ông trưởng làng Ea Blang mời bộ đội và mọi người ba ngày nữa tới uống rượu tại làng ông, nhấn mạnh là làng ông có những hai cái đầu trâu do bộ đội cho.
Mọi người cười vui vẻ, không có vẻ ghen ghét gì, vì làng Tung Breng chỉ có một cái đầu trâu để cúng Giàng. Ba ngày nữa thì đã hết hạn cấm ăn rồi, nên thời gian tiệc tùng bên làng Ea Blang thật đúng lúc, mọi người sẽ được ăn uống thả giàn. Tôi cáo lỗi với làng Ea Blang là tôi không thể tham dự được vì tôi phải về dạy khóa huấn luyện giáo viên. Ông trưởng làng Ea Blang có vẻ buồn, tôi nói:
-- Tháng tới tôi trở lại vui với làng Tung Breng, tôi sẽ sang làng Ea Blang vui với dân làng một hai hôm mà. Không chừng chúng ta lại bắn thêm một con trâu, hay một con nai, hay một con heo rừng thì tha hồ ăn uống chung vui với mọi người.
-- Tốt tốt, thầy giáo phải giữ lời đó!
Tôi đưa chú Dũng và năm chú bộ đội về căn cứ. Họ cười nói vui vẻ ra phết. Đưa họ ra tới bià làng, thì chú Dũng quay lại bảo tôi:
-- Thôi cậu trở lại chơi với dân làng đi, bọn này chưa say mà, ba ghè rượu này, mai căn cứ tha hồ say, cậu ghé lại chơi trước khi về huyện đó!
-- Được chú, mai cháu ghé lại!
Tôi trở lại chơi với dân hai làng một lát nữa, rồi kiếu nói rằng tôi hơi mệt và mai tôi phải trở về huyện sớm, dân làng Ea Blang mỗi người đưa cho tôi vài ống cơm nếp nói:
-- Để thầy giáo đi đường ăn.
-- Để dân làng ăn cho vui đi.
-- Còn nhiều mà, thầy giáo không nhận, chúng tôi buồn đó.
Tôi đành nhận hết tính ra cũng khoảng ba mươi ống, một mình tôi ăn cũng cả tuần cũng chưa hết.
-- Cám ơn đồng bào nhé. Cơm đồng bào cho tôi ăn đủ hai tuần huấn luyện giáo viên đó!
Mọi người cười sung sướng. Tôi mừng là đủ lương thực cung cấp cho năm người bạn mới còn đang ẩn núp trong rừng lồ ô kia. Nhưng hôm nay tôi không thể tới được, phải chờ sáng mai kia, chứ không thì lộ hết. Không lẽ tôi kiếu mệt rồi lại đi liền, khi về lại không còn cơm ống. Ngày mai trước khi sang căn cứ bộ đội để về huyện tôi đem cho các bạn ấy thì cũng chẳng muộn và lại an toàn. Hơn nữa cả ngày đi, chạy ngược xuôi, cũng làm tôi uể oải rồi.
Tôi đưa cơm ống về nhà, thầy Dũng mệt cáo bệnh không ra nhà mả được đã ngủ tự lúc nào rồi. Tôi để cho thầy ít ống cơm ống còn bao nhiêu tôi lấy áo mưa cuốn gọn vào rồi để cạnh ba lô.
Xong đâu đấy, tôi lấy khăn tắm và quần áo xuống suối tắm trước khi về ngủ để sáng mai còn phải đi sớm cho kịp giờ ghé lại rừng lồ ô, sang căn cứ bộ đội và về huyện. Đêm nay chắc tôi sẽ ngủ như chết cho mà xem.
Chương 42
Tôi định bụng sẽ dậy sớm để ra đi một cách âm thầm sau khi viết một ít lời để lại cho thầy Dũng nhờ thầy nói lại với gia đình bao bọc lo cho chỗ tôi ngủ, nhưng khi nghe tiếng gà gáy sáng thì tôi đã thấy ông trưởng làng lúi cúi chụm hai thanh củi chỉ có tí ti vết đỏ thổi lửa cho cháy lên một cách cực nhọc. Tôi với lấy bao lô xem tôi còn hộp diêm nào không. May quá, vẫn còn mấy hộp! Tôi lấy một hộp còn đầy que diêm, và xé mấy tờ giấy đã viết, nói:
-- Để tôi chụm lửa cho!
Ông trưởng làng tên Ksor Ya cười:
-- Ông thầy có cay mắt không? Khói quá mà!
-- Không sao, tôi có cách làm cho hết khói và cháy mau! Tôi có hộp diêm đó!
Tôi châm que diêm và đốt giấy bỏ vào bếp cùng với các thanh củi nhỏ. Khi lửa bắt đầu lan thì tôi mới bỏ những thanh củi lớn vào bếp. Tôi đưa ông trưởng làng hộp diêm:
-- Ông cầm lấy hộp diêm này dùng khi cần.
-- Thật không? Ông thầy không cần à?
-- Không sao, tôi còn. Khi nào tôi về tỉnh tôi mua thêm.
-- Lúc thầy trở lại, mua cho tôi ít muối, thuốc lá và quẹt lửa nhé!
-- Được, để tôi ghi vào sổ. Tôi sẽ nhớ để mua cho ông!
-- Để tôi đưa ông thầy gạo trước nha!
-- Không tôi phải về huyện dạy cả hai tuần rồi tôi mới về thị xã mua đồ rồi mới trở lại được, lấy gạo của ông, rồi cả tháng mới giao hàng, tôi áy náy lắm!
-- Không sao mà, tôi và dân làng tin tưởng thầy! Đâu có gì mà ông thầy phải lo!
-- Vậy ông cho tôi bao nhiêu gạo cũng được!
Ông trưởng làng đi vào góc nhà, lấy gạo đổ vào đầy ruột tượng là túi vải may như một cái ống dài, bộ đội và du kích thường đeo gạo trên vai vừa nhẹ nhàng, gọn ghẽ, dễ đi lại. Nguyên một túi ruột tượng cũng khoảng 4 tới 5 ký gạo chứ chẳng chơi, tha hồ mà mua bánh thuốc khô, muối, quẹt và đá lửa. Những người Kinh buôn bán thường đi vào các buôn làng đổi chác một cách cắt cổ mà dân làng chất phác chẳng hề hay biết. Tôi thì đổi chác một cách sòng phẳng, tính cách giúp đỡ đồng bào cũng như tiện việc ăn uống thôi chứ chẳng mong làm giàu, dù muốn làm giàu cũng không khó, vì tôi rành rẽ tiếng của dân làng và đã phần nào có uy tín với họ.
Tôi giao súng và đạn chú Minh đã cho tôi trưa hôm qua cho ông trưởng làng, nói:
-- Ông giữ súng và đạn giùm tôi. Ông có thể dùng để đi săn! Súng đạn này là của bộ đội giao cho tôi. Nếu họ tới đây đòi lại, ông cứ việc giao lại. Tôi không muốn đeo súng khi tôi đi về huyện dạy học. Súng này tôi chỉ dùng để đi săn trên vùng này thôi.
-- Thầy không sợ mất à?
-- Ông là trưởng làng, ai mà dám lấy cắp ở nhà ông?
-- Được, ông thầy tin tôi thì tôi giữ cho. Tôi chưa để mất lòng tin của ai bao giờ!
-- Tôi biết mà, ông mà làm mất uy tín thì làm sao có thể làm trưởng làng mà cả các làng chung quanh cũng kính phục ông?
Tôi từ giã ông Ksor Ya và ra đi lúc trời còn mờ sáng. Thầy Dũng và mọi người vẫn còn ngủ, tôi nhớ mãi lời ông trưởng làng khi tôi khen ông dậy sớm: " Làm trưởng làng cũng như làm cha mẹ của dân, phải dậy trước mọi người, lo những cái lo của mọi người, cũng như thầy làm cán bộ phải lo những cái lo của thầy giáo trước mọi người! Tôi còn muốn làm nhiều hơn, nhưng cái tuổi cao rồi như cái cây cổ thụ không biết ngày nào đổ xuống!" Tôi tự nhủ trong thâm tâm, kỳ trở lại thị xã tôi sẽ cố gắng bỏ tiền mua đủ mọi thứ, thuốc men, muối, thuốc lá giao cho trưởng làng này. Ksor Ya! Ksor Ya! Ông thật xứng đáng là một lãnh tụ.
Chuyện ra đời của ông cũng đã thành giai thoại của dân làng. Mẹ của ông sinh ông lúc ngồi nghỉ cạnh con suối thường khô cạn trong mùa nắng gặp cơn mưa suối khô thành con suối nước chảy xiết. Người mẹ trong lúc lâm bồn không biết có phải khát nước hay thấy nước mưa chảy mạnh cứ la to: " ya, ya, ya" hoà với tiếng khóc oa oa của trẻ sơ sanh. Cha mẹ ông, thầy mo đặt tên ông là Ya, tước là nước cũng từ đó. Theo thầy mo bấy giờ ông sẽ trở thành một lãnh tụ hướng dẫn dân làng kinh qua nhiều biến cố mà cuộc sống của ông Ksor Ya đã và sẽ chứng minh sau này.
Bao lô khoác trên vai, ruột tượng kéo từ vai sang hông, và ôm một mớ cơm ống cuộn trong áo mưa kể cũng nặng nhưng tôi hôm ấy đi nhanh thoăn thoắt vì tôi phải về tới phòng giáo dục hôm nay, lại còn phải ghé căn cứ bộ đội trước khi về. Một đêm ngủ ngon đã hồi phục sức khoẻ của tôi. Lòng phấn chấn tôi hớn hở đi miết, tới gần chỗ ẩn nấp của các bạn mới của tôi ở rừng lồ ô thì tôi lủi vào, nhẹ nhàng đi vì không muốn để lại dấu tích nào khả nghi.
Tôi đang len lỏi vào khu lồ ô thì có tiếng nói không to lắm nhưng đủ nghe rõ ràng:
-- Tôi quả quyết anh ấy không trở lại đâu!
Có tiếng con gái, nhỏ nhẹ hơn:
-- Anh Quang sẽ trở lại, anh ấy không phải là người như anh nghĩ đâu!
-- Thôi đừng suy đoán lung tung nữa, tôi thì tin tưởng Quang sẽ trở lại, có lẽ vì lý do nào đó mà Quang không tới được thôi. Các anh không nghe hôm qua có một loạt tiếng súng là gì sao?
Chẳng còn nghi ngờ gì tôi cũng biết là họ đang hoài nghi vì sự trễ hẹn của tôi. Tôi đã hẹn với họ chiều đến là tôi ghé lại, nhưng vì chuyện săn trâu, chuyện làng có người chết nên việc trở lại của tôi không thực hiện ngay được. Tôi cũng không muốn lén nghe chuyện họ bàn tán nên giả bộ huýt sáo đi từ từ lên chỗ lùm tre. Nghe tiếng huýt gió thì tiếng nói chuyện cũng ngưng. Tôi đi lên như không hề biết chuyện gì, đưa mắt nhìn quanh, cũng không thấy ai. Thì ra, các bạn ấy cũng đề cao cảnh giác, dù cũng còn sơ sót vì việc nói chuyện vừa rồi. Tôi ngẩng mặt nhìn lên bụi tre: " Xuống đi, Quang đây! Không có ai khác đâu!"
Anh Trung lác cành le trèo xuống:
-- May quá, Quang vừa tới! Cả bọn vừa bàn cãi chuyện Quang tới hay không tới! Anh Minh và Cường thì cho Quang đã quên bọn mình rồi. Có Hồng, Tâm và Trung là nhất quyết Quang sẽ trở lại.
-- Họ đâu hết rồi?
Anh Trung hất hàm về phía mấy bụi tre gần đó:
-- Họ leo cả trên mấy bụi tre kia!
-- Tốt, thực ra các anh cũng thông thạo việc trốn tránh rồi. Quang đỡ lo. Hôm qua chỗ làng Tung Breng có người chết, dân làng bị bệnh nhiều, Quang phải lên căn cứ bộ đội xin thuốc, rồi đưa bộ đội đi bắn trâu, rồi ở lại cúng Giàng với dân làng, mệt quá nên ngủ lại, sáng nay mới tới được.
Đang phân trần với anh Trung, thì anh Tâm, Minh, Cường cũng như cô Hồng leo xuống và đi lại chỗ chúng tôi:
-- Chào các anh chị nhé. Quang vừa nói với anh Trung lý do tới đây trễ vì trong làng có người chết và bị bệnh...
Cô Hồng ngắt lời tôi:
-- Anh Quang không cần phân trần mà! Anh còn bận bao nhiêu việc, Hồng biết chắc nếu anh tới trễ là có lý do đặc biệt.
Tôi đưa mắt liếc nhìn anh Minh xem phản ứng ra sao. Hình như anh ta có vẻ khó chịu, có thể là ghen bóng ghen gió gì đây, tôi tảng lờ.
-- Cám ơn chị và các anh đã tin tưởng Quang. Thôi có một mớ cơm ống và ít gạo của đồng bào cho đây. Anh chị giữ mà dùng. Quang ghé thăm dặn dò một tí rồi phải đi ngay, vì nội trong ngày phải về tới Phòng Giáo Dục đó!
-- Anh Quang không ngồi nghỉ một lát được sao? Các anh ở đây và Hồng còn muốn hỏi nhiều việc với anh mà.
-- Có việc gì thì cứ hỏi đi.
-- Ở đây không ai rành đường rừng bằng anh Quang, anh có thể vượt biên với bọn này không?
-- Quang chưa hề nghĩ tới chuyện này, hơn nữa Quang có nhiệm vụ xóa nạn mù chữ mà, đâu có thể bỏ đi ngang xương vậy. Quang giúp các anh chị vì thấy các anh chị cần thôi, chứ việc ra đi Quang không đi đâu. Nếu các anh chị theo những lời chỉ dẫn của Quang thì chín mươi phần trăm là thành công, còn mười phần nữa là do số phận đó!
-- Thôi mà, Hồng năn nỉ đó!
-- Không được chị ạ! Quang còn nhiều việc dự định phải làm, chưa thể cuốn gói ra đi được. Quang hy vọng các anh chị có thể tới mảnh đất tự do được bằng an.
Tôi ngồi chỉ vẽ lại cho anh Trung, anh Tâm, anh Cường và cô Hồng, còn anh Minh, sau khi hỏi tôi có thể ghé bưu điện gởi một lá thư về thị xã, được tôi gật đầu, thì ra một góc viết thư. Tôi nói sơ qua về tình hình ở khu vực mà tôi biết được với chuyện tôi trở lại đây trong vòng ba tuần sau khoá huấn luyện giáo viên dân tộc thiểu số. Tôi tả qua sông Krong Poco, mực nước, xuồng và cách đi lại.
-- Tóm lại, từ nay trở đi, các bạn tuỳ cơ ứng biến! Đi được thì đi, còn không đêm rằm tới Quang trở lại, có thể giúp các bạn thêm một đoạn đường nữa. Nhưng tuyệt đối các bạn không thể để bị lộ hay để các dấu tích đáng nghi ngờ khiến việc giúp đỡ của Quang không thể thực hiện được. Nếu vì một lý do nào đó Quang không thể tới chừng hai ba ngày sau đêm trăng rằm thì coi như Quang không thể tới và các bạn phải tức tốc tìm cách ra đi. Còn nếu các bạn có thể đi trước được thì càng hay. Các anh chị đồng ý chứ?
Tôi đổ gạo ra khỏi ruột tượng vào bao đựng đồ của anh Trung, giữ lại bao vải để trả lại cho trưởng làng đồng thời nhỡ có chuyện gì không ai có thể nghi ngờ tôi thông đồng với những người vượt biên. Tôi cầm thư anh Minh đã dán cẩn thận, rồi từ giã mọi người. Anh Trung đi theo tôi một quãng, nói nhỏ:
-- Quang cẩn thận. Anh Minh có vẻ đáng nghi ngờ và không hẳn là người yêu của cô Hồng đâu. Trung đã nghe hai người cự nự nhau gì đó!
-- Không sao, cám ơn anh! Anh trở lại đi. Quang sẽ để ý!
Tôi rời khu rừng lồ ô, gánh nặng đã trút xuống, không còn gạo, không còn cơm ống, mà sao chân bước không nhẹ nhàng như lúc tôi tới. Tôi cảm thấy lòng nặng trĩu vì có sự khả nghi, vì có một cái gì đó không thể định nghĩa. Tôi phải suy nghĩ và tìm ra sự linh tính đáng ngại này. Tôi không nghĩ chú Minh hay chú Dũng sẽ phiền lòng vì chuyện tôi gởi súng đạn nơi ông trưởng làng. Có lẽ họ hơi ngạc nhiên, chứ không đến nỗi nghi ngờ tôi là phản động. Tôi đã nói với họ là tôi không thích cầm súng khi đi giảng dạy, súng với tôi chỉ là công cụ đi săn kiếm lương thực mà thôi. Tôi sẽ nói rõ cho họ là ông trưởng làng tên Ksor Ya nắm giữ giùm. Nếu họ cần lấy lại tôi có thể viết vài lời cho ông trưởng làng. Tôi đã nói với ông là súng do bộ đội giao, nếu bộ đội cần thì cứ giao lại cho họ. Tôi biết là hai chú cũng như các anh bộ đội khác không thể trách tôi về việc đó, nhưng sao lòng tôi cũng cứ thật nặng nề. Hình như có việc gì bất tường có thể xảy ra nếu tôi không giữ gìn cẩn thận.
Chương 43
Chuyện tôi giao súng lại cho ông trưởng làng hoá ra chẳng thành vấn đề gì sau khi tôi nói chuyện với chú Minh. Chú cười cười nói: " Cậu lại trở lại đây trong dịp trăng tròn tới mà, có gì đâu! Với lại về huyện huấn luyện giáo viên thì đâu còn giờ để đi săn!" Các chú và các anh bộ đội giữ tôi lại ăn trưa rồi mới cho về. Chú Minh dúi vào túi tôi một mớ tiền nhờ tôi mua mấy thứ vặt vảnh nếu tôi về thị xã. Tôi lấy sổ viết những thứ chú cần rồi đứng dậy giã từ.
Trên đường về Phòng Giáo Dục tôi vẫn không trút hết được nỗi lo âu không hiểu vì lý do gì. Chuyện súng đạn để trong làng đã không gây cho tôi một trở ngại nào thế mà lòng tôi cũng không yên. Tôi nghĩ tới chú Quốc, anh Lý, anh Tiến, anh Công và các anh bộ đội đang truy lùng người vượt biên mà lo sợ. Không biết có phải chuyện này không mà lòng tôi không an tâm mấy.
Các anh Lý, Tiến, Công thì tôi không lo ngại, nhưng với chú Quốc thì đáng sợ lắm vì chú đã nói thẳng thừng là gặp người vượt biên là bắn bỏ chẳng cần tốn công giam giữ làm gì. Tôi lo ngại lỡ mà họ tìm được dấu vết đi tới rừng lồ ô thì thật khổ, cả năm người bạn mới của tôi không chừng sẽ chẳng biết chết bất cứ lúc nào, mà gặp chú Quốc đánh đập tra tấn thì còn tàn nhẫn hơn, mấy anh còn đỡ, một thân con gái như cô Hồng không biết có chịu nổi không.
Vừa nghĩ tới cô Hồng, tôi lại nhớ tới Nhung, tới Du. Không biết bây giờ họ đang làm gì. Không biết Du đã trở lại làng chưa, và Nhung giờ này đang làm gì, hay là lại ngồi trước bàn viết nhật ký. Việc Du giận tôi vì hiểu lầm, không cho tôi một cơ hội giải thích cũng khiến tôi bực mình. Nhưng biết làm thế nào, tôi thực là tình ngay mà lý gian. Đối với người ngoài, Nhung thực sự là vị hôn thê của tôi, hai bên cha mẹ đã gặp nhau, tuy không phải là đi hỏi. Chúng tôi có nhiều cảm tình với nhau, tin tưởng nhau, nhưng trừ nụ hôn âu yếm như người yêu lần đó chưa hề chúng tôi hò hẹn trai gái với nhau một lần nào. Chúng tôi đã từng đi chơi riêng thuở còn học trò nhiều lần nhưng với tính cách bạn bè mà thôi.
Lâu nay lúc một mình đi công tác tôi thường nghĩ tới Du và Nhung. Tôi biết tình cảm của tôi với Du là tự nhiên, do chúng tôi cùng một sở thích văn thơ và cùng công tác trên miền cao, nhưng nếu tiến tới xa hơn cũng cam go lắm vì gia đình tôi đạo Thiên Chúa từ đời xửa đời xưa còn gia đình Du rất sùng đạo Phật. Má Du tới ngày rằm hay mồng một mỗi tháng đều lên chùa tụng kinh, lại có cả một bàn thờ Phật trong phòng khách lúc nào cũng nhang khói. Với Nhung, thì từ xưa đến lúc tôi đọc nhật ký của Nhung, tôi vẫn xem Nhung là một người bạn gái tốt. Tình cảm của tôi với Nhung có thể đã đổi khác nếu như Hải không yêu Nhung thuở ban đầu và Hải không nhờ tôi giúp đỡ. Hải là bạn thân của tôi và tôi lúc đó cũng chưa rung động nên gồng mình làm quân tử Tàu sẵn sàng làm mai. Ai biết chuyện đời có nhiều cái trớ trêu như chuyện tình yêu lòng vòng.
Tôi vừa đi vừa trầm ngâm suy nghĩ chẳng biết là mình đã gần ra tới đường lớn, xe có thể chạy dẫn từ thị xã Pleiku lên tận vùng biên giới B.10, B. 12 nơi có công trường lớn của các anh các chú bộ đội. Đi theo đường này thì nhanh hơn, không phải đi vòng, hay ghé các làng và thỉnh thoảng nếu may mắn có thể đón xe bộ đội quá giang lên biên giới hay về huyện hoặc thị xã.
-- Đồng chí kia, làm gì lùi lũi đi không chào hỏi gì cả?
Tôi giật mình ngẩng đầu lên nhìn:
-- A chú Quốc, anh Lý, anh Công, anh Tiến,... Chào tất cả các anh! Các anh ở làng Ea Yut về rùi hở?
-- Còn nhớ tên chú là còn khá lắm! Đây ngồi xuống đây dưới bóng cây nghỉ mát một chút!
Tôi vừa ngồi xuống cạnh anh Tiến vừa nhìn chú Quốc nói:
-- Sao quên được chú? Mới gặp mấy hôm mà quên sao? Các chú và các anh có gì lạ không?
-- Không, đi mấy ngày chẳng tìm được ai hay con thú nào! Nghĩ cũng bực mình! À ở gần đây có vùng nào có thú rừng không? Đồng chí có rảnh không? Dẫn bọn chú đi săn một lúc!
Tôi phá lên cười ha hả:
-- Các chú các anh tính làm mắm trâu hở? Ở căn cứ vừa mới bắn được ba con trâu hôm qua, mà bây giờ các chú định đi săn nữa sao?
-- Thật không? Đồng chí không bố láo chứ? Làm gì mà săn được một lúc ba con trâu?
-- Ba con trâu to kềnh đó chứ cháu có nói dối đâu! Chú và các anh về căn cứ mà coi! Chú Minh, chú Dũng sẽ kể cho chú và các anh.
Tôi nhớ chuyện chú Dũng ăn gian bật cười nức nẻ:
-- Chú Quốc nhớ hỏi chú Dũng chuyện đếm từ một tới một ngàn nhá!
-- Sao có chuyện gì sao mà cậu vui thế?
-- Cái này cháu không nói được, chú phải hỏi chú Dũng! Cháu nói ra mất hay! Chú không cười không được!
-- Cái gì mà rào đón dữ vậy?
-- Cháu nói không được mà! Chú và các anh cứ về căn cứ hỏi là biết ngay.
Anh Tiến ngồi cạnh tôi quay sang hỏi:
-- Anh Quang không đùa đó chứ? Bắn được ba con trâu thật sao?
-- Thật đó, em phải gọi dân làng ra xẻ thịt heo đủ chia cho cả hai làng và cả căn cứ các chú và các anh.
Chú Quốc và các anh bộ đội nhao nhao hỏi, tôi đành kể lại chuyện tôi gặp bầy trâu rừng và chuyện đi săn của chú Dũng và các anh bộ đội khác nhưng tránh không nhắc chuyện ăn gian của chú Dũng. Chú Quốc đập đùi mạnh một cái nói to:
-- Tiếc đếch chịu được! Thật là một chuyện hy hữu trong rừng! Đồng chí Quang phải trở lại dẫn chúng tôi đi săn một chuyến đã như vậy mới được! Mà sao đồng chí có số may mắn sao đó, đi đâu cũng có thú rừng để ăn, có người để làm bạn!
-- Được chú đã nói thế chừng tháng tới cháu lên dẫn chú đi bắn heo rừng, hay nai rừng! Trâu rừng thì cháu không dám chắc, vì chúng di chuyển nhanh lắm, ít khi quanh quẩn một chỗ.
-- Nhớ đó nha! Đồng chí mà bố láo, đếch làm đồng chí với nhau nữa!
-- Cháu có khi nào dám nói dối chú! Cháu sẽ lên lại mà! Nói thật chú này nha! Cháu được nhận làm bộ đội danh dự ở căn cứ các chú, các anh rồi đó nhé!
-- Thế nào? Nói cho chúng tôi nghe đi!
-- Chuyện này chú và các anh cũng phải hỏi chú Minh và chú Dũng!
Chú Quốc vừa cười vừa chửi thề:
-- Cái thằng này nói chuyện ỡm ờ đếch chịu được! Bọn mình phải về thôi, không có thì rượu cạn mà thịt trâu cũng chẳng còn.
Tôi dò hỏi chuyện truy lùng người vượt biên, chú Quốc nói:
-- Chắc bọn phản động. cũng chết bờ chết bụi hay dã đi về hướng khác rồi, thuộc phạm vi của căn cứ của đơn vị khác mình chẳng đáng quan tâm.
Nghe vậy tôi cũng tạm yên lòng, chứ không cũng lo vì rừng lồ ô tuy không gần căn cứ chú Minh, chú Dũng, chú Quốc, nhưng nếu họ cố truy lùng thì không khéo họ có thể tìm ra nếu các anh chị kia không cẩn thận. Trốn một hai ngày hay di chuyển đều thì dễ chứ ở một nơi, đi vệ sinh không khéo thôi thì cũng đủ gây nên những mùi hôi thối đáng nghi ngờ hay chân dẫm lên cỏ lá cũng có thể để lại dấu tích. Tôi thầm hy vọng anh Trung, anh Tâm sẽ hướng dẫn ba người mới kia.
Các chú bộ đội chào tôi rồi đi về hướng Tây, còn tôi cũng lững thững đi về hướng Đông. Cuộc nói chuyện vừa rồi với các anh bộ đội phần nào trấn an tôi, nhưng khi nghĩ tới năm người bạn mới lòng tôi thấy nóng bức chi lạ. Không lẽ chuyện gì sẽ xảy ra? Chuyện anh Minh và chị Hồng chưa phải là người đính hôn thì có liên hệ gì với tôi. Chị Hồng rồi cũng sẽ ra đi. Đâu có vướng bận gì tới tôi mà tôi phải lo nghĩ chứ!
Tôi nghĩ tới nghĩ lui, công cuộc huấn luyện giáo viên này là do ý kiến của tôi và anh Ít. Tôi nhất định không để một lý do nào ngăn cản sáng kiến táo bạo và tiến bộ này. Đồng bào họ trông chờ sự hiện diện của các giáo viên sắc tộc, nói và viết được tiếng mẹ đẻ của họ. Đây là bước đầu của việc phát triển dân sinh dân trí có thể làm thăng bằng cán cân chính trị giữa người Kinh và người Thượng. Không có văn hoá thì cơ sở chính trị dân tộc cũng bị lung lay và có nguy cơ bị đồng hoá.

Tôi đã tiếp xúc, sống và tìm hiểu được nhiều về người Jrai. Họ có nền văn hóa rất cao, thể hiện qua lời ca tiếng hát và những trường ca " khan" hay " ri" của họ. Những bài ca đó cũng có tính cách trữ tình, phối cấu hình tượng và kỹ thuật cũng cao, không kém gì trường ca Đam San của dân tộc Rhade ở vùng Ban Mê Thuột, hay Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, hay Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du. Lời lẽ có phần mộc mạc, cụ thể, nhưng rất linh động như trong truyện ca mang tên chàng Jiong:
"Chàng trèo qua bảy núi
Chàng lội qua bảy mương
Đem dao rừng đẵn củi
Đi tìm bóng người thương" (1)
Công việc của anh Ít và tôi trong những ngày sắp tới là đào tạo một lớp giáo viên Jrai hăng say dạy tiếng mẹ đẻ và thu thập những truyện ca, những ca dao, những truyện truyền khẩu của dân tộc Jrai để bảo tồn và phát triển văn hoá đặc biệt của họ trước khi bị tàn lụi với thời gian vì thiếu chữ viết.
Nguy cơ mất cả kho tàng văn hoá Jrai rất rõ rệt khi tôi ngồi nghe những người già hát, rồi tôi hỏi những người trẻ 20 đến 40 họ đều lắc đầu không biết mặc dù họ đã nghe những " ri" những " khan" này nhiều lần. Có đêm tôi ngồi nghe hát, cứ láy hoáy viết xuống, rồi sau khi người già hát xong mỗi đoạn, tôi lại xin họ hát thêm lần nữa để tôi tẩy tẩy xoá xóa hay thêm vào cho đúng. Sau đó tôi gân cổ lên thử hát, ngâm như các cụ già làm bao nhiêu người ngạc nhiên, hỏi làm sao tôi có thể nhớ những tình ca của họ.
Tôi cầm quyển vở với những dòng chữ nguệch ngoạc, nói với họ:
-- Tất cả ở trong này, tôi đã viết xuống đây, rồi đọc lại thôi!
-- Khó tin quá, ông thầy là con Jrai rồi. Không ai có thể biết những chuyện này nếu Giàng không cho phép. Giàng chỉ cho những người con đặc biệt của núi rừng thôi.
Tôi cũng thấy vui vì những ý nghĩ chất phác của họ, có lần tôi bảo:
-- Chắc tôi là con Jrai được người Kinh nhận làm con nuôi lúc nhỏ quá! Xem này, tôi cũng nâu đen như các anh chị đó!
Họ gật đầu đồng ý, tôi hẳn là con Thượng do hoàn cảnh chi đó được giao cho người Kinh nuôi dưỡng bây giờ Giàng gọi trở lại núi rừng giúp đỡ những người Jrai trong hoàn cảnh mới.
Nghĩ tới công việc sắp tới và việc tiếp xúc với người Jrai, hồn tôi phấn khởi, nhưng chỉ được một đoạn đường. Tới gốc cây lớn bên đường toả bóng mát dìu dịu, tôi ngồi xuống nghỉ mệt, tôi lại áy náy sốt ruột sao đó. Tôi bỏ bao lô xuống, lấy bi đông nước ra uống một ngụm nhỏ, liếc nhìn địa chỉ người nhận trên bià thư anh Minh gởi cho người nhà.
Không ai khác hơn là một đoàn viên từng sinh hoạt ở phường Hoa Lư của tôi. Cô này chúng tôi lén lút gọi là những người cách mạng 30 tháng Tư rất hăng say với chế độ mới và đã đưa bao nhiêu người vào cảnh khổ. Chúng tôi rủa thầm những người cách mạng tháng Tư còn thậm tệ hơn cả các cán bộ từ miền Bắc đưa vào.
Tôi có nên mở thư gởi riêng ra đọc không? Mở làm sao? Có liên quan gì tới tôi hay tới ai không? Tôi đâu thể mù quáng giúp đỡ người rồi tự đưa tôi vào chỗ chết được. Phải khôn ngoan như con rắn, phải hiền lành như bồ câu. Tôi phải làm gì? Có nên mở thư người khác khi họ tin tưởng giao cho mình không? Làm thế thì mất sự tín nhiệm, tồi quá!
Tôi lắc đầu, " Mình lại lẩn thẩn nghĩ quấy rồi! Chắc tại đi đêm nên nghĩ tới ma thôi!"
Tôi bỏ bi đông nước vào túi bao lô, rồi khoác bao lô lên vai. Đi đường vẫn vẩn vơ nghĩ tới bức thư gởi cô cách mạng 30 tháng Tư, bứt rứt. Có thể là mọi lo lắng của tôi bắt đầu từ đấy! Hôm gặp anh Minh, anh Cường và Nhung, ba người chỉ có bộ quần áo trên người, làm sao có giấy viết sẵn mà viết vậy. Có thể anh Minh xin anh Trung, nhưng xin anh Trung lúc nào mà tôi không biết. Bức thư này vậy đã viết trước rồi chứ không phải lúc chúng tôi ngồi nói chuyện anh Minh mới bắt đầu viết. Vậy trong đó anh Minh viết những gì? Có nguy hiểm gì cho tôi không?
Chú thích
(1) Truyện ca "ri" mang tên chàng Jiong.
Chương 44
Trời xế chiều thì tôi mới gần tới Phòng Giáo Dục. Tôi không về ngay mà ghé lại làng Nang, chỉ cách Phòng Giáo Dục chừng hai ba cây số, cách khu kinh tế mới của đồng bào từ Qui Nhơn, Bình Định lên chừng một cây số thôi. Khu kinh tế mới nằm trong khu trù phú xã Thạnh Đức hồi xưa dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm, cây cối đã bị bom cày đạn phá chẳng còn lại bao nhiêu trừ mấy gốc mít to. Tôi tuy mệt nhưng còn có thể tới Phòng Giáo Dục tắm rửa ăn uống một cách dễ dàng. Tuy nhiên tôi thấy cần nghỉ ngơi một chút để sắp xếp lại những việc cần phải báo cáo hay nói với anh Nhật, anh Ít và mọi người. Với lại tôi cũng khó chịu vì có cái gì cứ như lửa đốt sau ót của tôi và mắt của tôi cứ hay bị nhảy mắt hoài, nó cứ giật giật như báo động cho tôi chuyện gì đó.
Tôi biết việc làm của tôi xưa nay rất kín đáo, nhưng gần đây nhiều biến cố dồn dập xảy ra, nên không còn cẩn mật như xưa, mặc dù tôi lúc nào cũng đề cao cảnh giác. Tôi phải mở bức thư của anh Minh ra thôi, mở ra rồi dán lại rồi gởi đi thì ai mà biết. Nghĩ cũng hơi kỳ! Giá như anh ấy gởi cho một người khác, không phải cho cô cách mạng 30 tháng Tư là Nguyễn Hồng Loan ở phường tôi ở thì có lẽ tôi dù có nghi ngờ cũng không dám tự huỷ hoại sự tín nhiệm của người khác đối với mình.
Tôi vào nhà một người Thượng quen ở ngay đầu làng, không vào nhà thầy cô giáo hay ông thôn trưởng ở giữa làng vì sợ người ta nghi ngờ chuyện mờ ám tôi sắp sửa làm. Tôi mượn nồi của họ, đổ nước vào nấu sôi, nói là tôi cần uống nước sôi vì không muốn bị ngã nước như tôi vẫn thường làm trừ trường hợp bất đắc dĩ phải uống nước vòi không đun sôi.
Người nhà đồng bào tôi ghé vào đi xuống vọt nước tắm rửa thì nước tôi đang nấu cũng sôi. Hơi nước bốc lên. Tôi dùng đũa kẹp phong bì và đưa lên mặt nồi làm cho chất keo bị hơi nóng của nước làm mềm và rời ra. Tôi thầm cảm ơn một cuốn phim nào đó giúp tôi biết kỹ thuật bóc thư mà không bị rách này. Công việc coi trộm thư dễ dàng hơn tôi tưởng. Nếu không có gì thì tôi chỉ việc gắn bì thư lại rồi gởi về như thường. Tôi không nói thì ai mà biết được. Tôi tắt lửa, chờ nước nguội một tí rồi sẽ đổ vào bi đông đã gần hết nước. Trong lúc chờ đợi, tôi rút ruột thư ra lẩm nhẩm đọc với một chút ân hận trong lòng:
Loan em,
Chú Ý đã dặn anh khi nào có dịp là phải viết thư về ngay cho chú và em. Ý tưởng đầu tiên mỗi sáng hay tối của anh là về em. Những lần anh nhớ em, anh cũng dằn vặt lắm. Điều mà anh nhớ nhất là được em đối đãi ân cần tử tế suốt mấy tháng trời khi anh từ Huế vào theo lời giới thiệu của chú Ý! Sau ngày đầu tiên em đã dành cho anh những giây phút kỳ diệu. Đây là sự thật. Rất thật. Quan cảnh nơi em rất ấm cúng. Trọng tâm của những gì muốn nói là không bao giờ anh quên em. Liên tục mấy ngày đêm liền anh nghĩ về em. Quan trọng là em hiểu anh là được rồi. Tới ngày anh gặp lại em, anh sẽ kể hết mọi chuyện cho em. Tổ khối phố em sống bây giờ tình hình ra sao? Chức năng của em rất quan trọng cho tương lai sau này của chúng ta đó. Vượt mọi gian khó để tới thành công. Biên vào nhật ký em điều đó nhé, đừng xao nhãng công việc của mình để chúng ta sớm có ngày gặp lại.
Cần cù chịu khó học tập. Theo gương những anh hùng đã đi trước. Dõi trông những tin tức hằng ngày. Giáo dục bản thân và quần chúng đều quan trọng cả. Viên chức cán bộ trong các cấp đều thực hiện điều đó. Tên tuổi của em sau này sẽ không kém nếu động viên tiến tới không ngừng. Quang sáng cho ngày mình gặp lại. Huyện Chư Pah bây giờ mưa và buồn lắm!
Vì vội vã, lúc đi lên Pleiku lần này, anh không thể ghé thăm em được. Sự việc đó khiến anh càng buồn thêm. Nghiệp dĩ của thanh niên thời đại ngày nay đó. Vi thế em đừng buồn. Đại để là phải động viên cho mình lúc nào cũng phấn chấn trong công việc, đừng để chuyện tư ảnh hưởng tới việc công. Cuả em hay của anh, cũng vậy. Đảng phái hay bè nhóm có thành công là do sự đóng góp của mỗi cá nhân! Nhà có nên là do sự cố gắng của mỗi một người trong gia đình. Nước có giàu là do tập thể nhân dân gắng sức. Chúng ta ai cũng biết điều đó. Ta không thể ngủ quên hay đứng bên lề quan sát. Hi hữu lắm mới có người nằm chờ sung rụng mà được ăn quả. Sinh hoá hoá sinh trong vũ trụ đòi hỏi con người phải năng động. Tất cả định luật thiên nhiên đều chứng minh như vậy. Cả anh và cả em cũng không thể ra ngoài luật năng động đó, không tiến ắt lùi, phải năng động để khỏi rỉ sét trong đà tiến của xã hội ngày nay.
Anh yêu em,
Lê Bá Minh
Một bức thư tình? Một bức thư tạ lỗi? Một bức thư động viên? Có cái gì đó làm tôi khó chịu nhưng tôi chưa tìm ra ngay. Hình như tôi phải đọc những lời gì khác trong bức thư nàỵ Có phải tôi lo sợ quá thái không? Phàm tội phạm thường hay chưa hỏi đã khai, chưa ai biết đã sợ. Tôi vì tình cờ che chở người vượt biên đối với nhà nước là đã phạm tội đồng loã nên đâm ra hoài nghi thái quá chăng. Tôi đọc đi đọc lại. Phải tìm cho ra có cái gì đặc biệt trong bức thư này.
Chương 45
Tôi đọc đi đọc lại cả mấy lần, thấy bức thư là lạ, không phải thư tình, có vẻ nửa vời sao đó. Không rõ rệt úp úp mở mở. Tôi để ý những câu có vẻ không ăn nhập vào nhau mấy và có một chính tả nhỏ là quan cảnh thay vì quang cảnh. Những năm làm thiếu sinh trong Liên Đoàn Hướng Đạo cũng không phải là dư thừa trong cuộc đời tôi. Những bài học, sinh hoạt ca hát vui chơi hay cắm trại, hay giải mật thư ký hiệu đã giúp tôi mau chóng nhận ra hàng chữ thông tin ẩn dấu trong bức thư tình. Ba đoạn thư là ba câu cứu tôi khỏi nguy cơ bị bắt sau này. Nếu đọc những chữ viết hoa từ chữ Chú Ý thì sẽ nhận ra ngay lời thông báo:
Chú Ý Những Điều Sau Đây Rất Quan Trọng Liên Quan Tới Tổ Chức Vượt Biên
Cần Theo Dõi Giáo Viên Tên Quang Huyện Chưpah
Vì Sự Nghiệp Vĩ Đại Của Đảng Và Nhà Nước Chúng Ta Có Thể Hi Sinh Tất Cả
Tôi toát mồ hôi dù đã ngồi trong nhà. May mà tôi biết được điều này chứ không biết bao nhiêu là rắc rối có thể xảy ra. Kể ra thì anh Minh sơ hở nhiều, anh không cần phải kỹ lưỡng như vậy, không cần phải bỏ chữ Chú Ý vào làm gì, và cũng không cần viết sai chính tả chữ quang cảnh làm chi. Anh dùng dao phay chém tép riu thì làm gì chẳng bị tôi phát hiện. Dù sao, tôi cũng đã sinh hoạt mấy năm trong Hướng Đạo, cũng biết rành rẽ về sáng lập viên Robert Baden-Powell cũng như các thể thức mật thư mà.
Cái đáng ngại là không biết anh ta còn tiếp tục gởi thư qua đường nào khác không, liệu khi vượt biên xong rồi anh có tiếp tục đi theo con đường Đảng và Nhà Nước giao phó cho anh không. Cứ như tình hình miền Nam sau ngày mất nước thì đã, và sẽ có rất nhiều người nằm vùng cả bao nhiêu năm mới xuất đầu lộ diện. Tôi phải sẵn sàng trực diện và đối phó với nguy hiểm. Có thể có những giáo viên làm việc cho sở công an cũng không chừng. Tôi tự nhủ từ nay càng phải kín đáo hơn, việc làm tay phải cũng không dám để tay trái biết.
Thực ra tôi chỉ tình cờ làm chuyện hiểm nguy này, chứ có bao giờ thuộc về một tổ chức nào đâu. Có lẽ có một điều bí ẩn gì đây hay cũng có thể có một tổ chức bí mật dẫn người vượt biên theo đường rừng. Tôi nghĩ tới cô Hồng mà lo ngại cho nàng. Liệu cô Hồng có biết là anh Minh có người yêu ở thị xã Pleiku không? Anh Minh từ Huế lên Pleiku, rồi trở về dẫn cô Hồng và anh Cường lên Pleiku với mục đích gì? Cứ như lời giới thiệu của anh Minh thì hai người đã hứa hôn với nhau rồi, nhưng gần đây có điều chi trục trặc mà anh Trung đã nói nhỏ cho tôi biết. Có lẽ hai người chỉ đóng kịch che mắt người ngoài vì thân gái dặm trường không có người thân phải nhận đại vậy cho khỏi rắc rối. Tôi hy vọng là cô Hồng biết việc làm của cô. Cũng có khi cô lại là nạn nhân của một thủ đoạn to lớn hơn. Nghĩ tới âm mưu có thể đang xảy ra, tôi rùng mình. Không biết có ngõ ngách nào có thể con mắt nghi ngờ và do thám của Đảng Cộng Sản Việt Nam?
Chỉ cần gieo mối hoài nghi, sự nghi ngờ vào một tổ chức là đã thành công một nửa rồi. Ai mà dám gia nhập một tổ chức nào nếu có sự hoài nghi? Hiện giờ tôi hoài nghi hết mọi tổ chức đù có tính chất chính trị vì tôi không biết có ai trà trộn trong những tổ chức đoàn thể đó không\! Tốt nhất là từ đây cứ theo phương châm, "Nghe mõ ra tiền, ai nói sao thì mình nghe vậy! Chứ không nên bình phẩm hay tham gia!" Ông bà xưa kia nói: Gà chết vì tiếng gáy, ếch chết vì lỗ miệng! Tôi phải đề phòng cảnh giác ngay cả với những giáo viên thân tín của tôi.
-- Ông thầy ở lại ăn cơm nhé!
Tôi ngẩng đầu lên, bà chủ nhà đã đi tắm rửa và gùi nước về, sửa soạn nấu cơm.
-- Cám ơn, cho tôi khất lại lần khác. Tôi phải về Phòng Giáo Dục liền cho kịp. Cám ơn gia đình đồng bào đã cho tôi nghỉ ngơi ở đây và cho tôi nấu nước sôi.
-- Ở lại ăn với chúng tôi một bữa đi. Chẳng mấy khi ông thầy ghé lại. Ông thầy hẹn lần khác, lần khác hoài, không có thấy ông thầy ở lại ăn bao giờ. Chắc là chê tôi nấu không ngon?
-- Không có, tôi đâu dám vậy. Nói thế thì tôi ở lại đây ăn hôm nay, nhưng tôi báo trước là chỉ ăn thôi nhé, đừng có bắt tôi uống rượu vì tôi còn nhiều việc phải làm ở Phòng Giáo Dục tối nay đó!
Bà chủ nhà thấy tôi nhận lời ở lại ăn cười tươi ra mặt. Tôi lợi dụng thời gian ở lại chạy qua nhà thầy giáo thăm hỏi, trở về lấy gùi bỏ mấy bầu nước đã hết để đi xuống vọt lấy nước về cho gia đình rồi tiện thể tắm luôn. Lội bộ cả ngày bây giờ ngồi dưới vọt nước kỳ cọ mới đã làm sao! Khi đám thanh niên Thượng cũng từ từ theo con dốc xuống vọt nước, thì tôi cũng sắp tắm xong. Cười giỡn với họ một lúc, tôi lau khô người, mặc quần áo trở lại, rồi ngồi xuống đeo gùi nước lên vai rồi lững thững trở về làng theo sau bầy thôn nữ đang gùi nước đi trước. Vừa đi chúng tôi vừa nói chuyện vui vẻ. Tôi tạm quên những việc nhức óc vừa xảy ra.
Tôi còn bao nhiêu việc bao nhiêu điều để báo cáo với anh Nhật và chuẩn bị cho mười ngày huấn luyện giáo viên Thượng sắp tới, đâu thể ngồi lo âu riêng cho số phận của mình. Tôi quyết định giữ lại bức thư này chứ không gởi đi. Từ từ tôi phải tìm hiểu mới được, chưa cần phải một sống một còn mà. Không chừng khi ra nước ngoài mà tôi chắc chắn là có điều kiện văn minh hơn anh Minh sẽ tỉnh mắt ra và không theo chủ nghĩa giáo điều nữa. Nhưng liệu anh ta có làm hại đời cô Hồng không và liệu cô Hồng và anh Minh có yêu nhau thực sự không?
Đường tình yêu có nhiều lúc trớ trêu thật. Tôi sực nhớ tới Du, và Nhung. Hình như tôi nghĩ nhiều về cô Hồng mất rồi, trong khi tôi phải nghĩ nhiều về Du, về Nhung mới đúng! Không biết có phải tôi đa tình lãng mạn không nữa. Nghĩ thì nghĩ vậy thôi, chứ tôi chẳng hề nghĩ tới chuyện trai gái gì với cô Hồng. Với Du, với Nhung, thì cũng có có một chút! Nụ hôn nồng hôm ấy của Nhung và những trang nhật ký nói rõ như thế làm sao tôi dễ dàng quên được. Với Du, thì tức ơi là tức! Tự dưng bỏ làng về, không cho tôi một cơ hội đính chính. Tôi mong mỏi có dịp gặp lại Du để phân trần, nhưng còn đối với Nhung tôi phải làm sao đây.
Không biết anh Minh và cô Loan định hy sinh những gì cho Đảng và Nhà Nước mà anh Minh viết y như là khẩu hiệu. Không thể nào sai được, đúng là anh ta làm việc cho cơ quan công an hay tình báo gì đó! Họ dám hy sinh cả tình yêu trai gái của họ cho sự nghiệp của Đảng và Nhà Nước. Có khi nào anh Minh sẽ cưới Hồng để làm con rể một vị đại tá trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà để lũng đoạn đoàn thể quốc gia sau này không? Sau công tác văn hoá trên huyện này, có lẽ tôi phải về đi học và đi khám thần kinh quá. Tôi tưởng tượng ra quá nhiều viễn ảnh kinh hoàng của các nhóm quốc gia lưu vong bị Đảng cho người gia nhập. Giữa cảnh tranh tối tranh sáng, đố ai mà biết được sự thật. Chỉ cần gây sự nghi ngờ vào các đoàn thể hải ngoại là có thể làm các nhóm xâu xé nhau và chẳng ai còn dám nhiệt tình tham gia mọi hoạt động nào. Canh bạc này chỉ có chủ hội là người hốt tiền, còn các nhóm, đảng phái không chừng húp cháo ngó mà thôi
Chương 46
Ăn uống xong xuôi, tôi ngồi chơi thêm một lát rồi đeo bao lô, chào mọi người, rồi cúi mình ra khỏi nhà sàn, đi xuống bậc thang một cách khoẻ khoắn. Bao nhiêu nhọc mệt của một ngày đi đường sau khi tắm suối, ăn uống no nê, duỗi chân ngồi nghỉ bây giờ đã biến mất. Bây giờ tôi có thể đối phó với bất kỳ tình cảnh nào, vì đầu óc đã tỉnh táo và biết được, hay đoán được những khó khăn trước mắt hay những âm mưu có thể nguy hại đến bản thân. Phàm thần kinh con người dễ mệt mỏi khi âu lo, suy tư mà không biết mình phải làm gì, hay kẻ thù là ai, chứ một khi trực diện rõ ràng thường mọi sự dễ dàng hơn không làm mình lo lắng mệt mỏi.
Như người tưởng mình bị mắc bệnh viêm gan B hiểm nghèo được bác sĩ báo là dù bệnh viêm gan tuy trầm trọng nhưng nếu kiêng cữ rượu bia thì cũng không đến nỗi nào, con vi khuẩn dù có trốn trong gan, trong lá lách mà người bệnh biết ăn uống điều độ biết giữ gìn sức khoẻ thì con bệnh đó chỉ nằm chờ thôi, chứ không gây hề hấn gì, tôi đã đoán biết anh Minh và cô Hồng Loan là gì ai, đang làm việc gì, thì họ đối với tôi không còn đáng sợ nữa. Cái may của tôi là họ không biết tôi biết họ, nên mọi động tác sau này nếu có xảy ra phải là do tôi chủ động chứ không phải do họ chủ động nắm được tình hình. Tôi như còn nằm trong bóng tối, còn họ đang nằm trong ánh sáng. Chỉ cần tôi đừng chủ quan, chỉ cần tôi đề cao cảnh giác là tôi có thể lọt khỏi vòng lưới dòm ngó của những người theo dõi.
Tôi về tới Phòng Giáo Dục thì trời chưa tối hẳn, những rạng mây đỏ ối xa xa về phía tây sau lưng tôi. Tôi cười thầm. Đời giáo viên miền núi tuy khổ thật, nhưng chẳng mấy ai được nhìn những cảnh núi rừng, những hoàng hôn tuyệt đẹp như chúng tôi. Những người quen sống nội tâm dễ tìm được nguồn vui trong thiên nhiên kỳ thú này. Tôi lững thững bước đi trên đường lộ thanh vắng, đã về chiều nên không còn xe đò tới nữa. Bên tay trái là bệnh xá huyện, bên tay phải là Phòng Giáo Dục. Đứa con hoang đã trở về. Tôi nhìn đèn sáng sau Phòng Giáo Dục là biết mọi người đang ăn tối dưới bếp.
Tôi đi thẳng vào phòng ăn chào hỏi mọi người. Mọi ngày đông đủ thì có bốn cô bảy chàng kể Cả tôi, hôm nay chỉ có hai chị, bốn anh và tôi vừa về đến. Anh Nhật, chị Hiệp, chị Chức, anh Ít, anh Bài, anh Khoa ào ào hỏi tới tấp, tôi không kịp trả lời. Đứa em út đi lang bạt giang hồ trở về có khác.
Chị Chức, chị đầu bếp nói:
-- Quang, em đưa bao lô lên phòng rồi xuống đây ăn, chị nấu dư hôm nay, vì anh Hưng, anh Giáp, cô Nhung và cô Hương về thị xã đột xuất!
Tôi cười:
-- Em ăn ở làng Nang rồi mới về!
-- Không, hôm nay có món thịt heo hầm với bí xanh ngon lắm, em phải ăn mới được!
-- Sang quá ha! Chị có gì mừng mà đãi anh chị em trong phòng ngon thế?
-- Chị có đãi đâu! Anh Nhật đãi sinh nhật chị Hiệp đó! Nói cho đúng cô Hiệp mua đồ từ thị xã lên đãi mọi người đó!
Chị Chức vừa nói vừa nháy mắt như thầm bảo tôi phụ hoạ vào chọc anh Nhật và chị Hiệp. Cũng chẳng lạ gì vì trong Phòng Giáo Dục ai cũng biết anh Nhật có cảm tình riêng với chị Hiệp. Chị Hiệp hiền và dễ thương nên chuyện anh Nhật xa gia đình lâu có cảm tình với chị cũng dễ hiểu. Tôi qúi chị như một người chị ruột, nên cũng quan tâm lắm vì biết anh Nhật đã có gia đình ở ngoài Bắc. Nhưng đang lúc vui tôi cũng chêm vào:
-- Thế hoa đâu? Anh Nhật này thật! Đãi ăn thì tốt cho anh chị em trong Phòng, nhưng sinh nhật chị Hiệp phải có hoa chứ?
Anh Nhật da ngăm nhưng bấy giờ cũng đỏ mặt vì sự nghịch ngợm của tôi:
-- Cái đó phải nhờ tới cậu thôi, ở đây có hoa gì đâu mà hái, hoa cúc quỳ hở?
-- Được anh chờ em!
Tôi bỏ bao lô xuống, chạy ra sau chuồng gà, nơi mát và khuất nắng lẫn gió nhờ những tàn cây to che, chỗ tôi treo những cành phong lan, khấn thầm một vài nhánh đã nở, không thôi thì xệ chết! Cũng may, một nhánh lan tím đã nở khá nhiều bông, còn một nhánh vàng thì mới nở có mấy bông thôi. Tôi ngắt hai bông vàng ra, rồi cầm luôn cả nhánh lan tím vào nhà bếp, trước mắt ngạc nhiên của mọi người. Đúng là mấy hôm tôi đi vắng, chẳng có ai ngó ngàng tới chuồng gà của tôi cả, chắc không ai lục lọi trứng gà của tôi rồi.
Tôi đưa cành hoa tím giao cho anh Nhật, rồi gắn một bông lan lên tóc chị Hiệp còn một bông giao cho chị gắn lên ngực làm chị đỏ mặt tía tai. Tôi nói:
-- Quà của em tặng chị Hiệp là hai cánh phong lan, còn cụm phong lan tím là phần anh Nhật. Anh Nhật nói gì đi!
Anh Nhật cười, vẫy tay xua tôi:
-- Các cậu miền Nam này, lôi thôi quá! Gặp cậu Quang lại càng rắc rối! Nói gì bây giờ?
Anh đưa cành lan cho chị Hiệp:
-- Cậu Quang có lòng giúp anh tặng cành lan này cho em đó!
Chị Hiệp càng đỏ mặt, nhưng qua ánh mắt của anh Nhật và chị Hiệp, tôi đoán biết anh chị có tình ý với nhau lắm! Điệu này tôi khỏi phải giải thích lôi thôi chuyện tôi lưu lại ở làng xa quá thời hạn.
Chị Chức đem chén lên cho tôi bảo tôi ngồi xuống ăn cơm, tôi nói:
-- Thôi, chị cho em một tô súp nha. Em ăn cơm no rồi!
-- Ờ ờ, để chị lấy cho.
Vừa ăn tôi vừa nói chuyện cả làng Tung Breng bị bệnh, rồi chuyện săn trâu cũng như tình hình dạy học trong các làng coi như là lý do tôi bị lưu lại.
Anh Bài nói:
-- Cậu về có khác, phòng vui nhộn hẳn lên. Mấy hôm vắng cậu, im lặng lắm!
-- Tại các anh không chịu nói đó chứ! Em bây giờ nói bù lại mấy ngày công tác một mình không có ai để nói chuyện đây!
-- Cậu mà không nói! Tớ biết tỏng cậu rồi, cậu lại huyên thuyên với dân làng thôi.
-- Thế mấy anh có gì lạ?
-- Không, chẳng có gì lạ cả.
Anh Khoa hỏi tôi:
-- Ê cậu Quang nè, hôm nọ tớ đi qua vọt nước, có mấy cô đang lấy nước ở vòi, tớ xin nước uống mà sao họ bỏ chạy tuốt về làng, la ó ầm ĩ.
-- Thế anh xin nước làm sao? Tiếng Việt hay tiếng Thượng?
-- Thì tiếng Thượng, ông thầy Nhân chỉ tớ. Tớ hỏi ông Ít ông chỉ cười mà không nói gì hết.
-- Anh nói lại cho em nghe xem.
Anh Khoa lập lại câu tiếng Thượng được thầy Nhân chỉ:
-- Pha câu mạ sầu.
Cũng may tôi vừa nuốt ngụm canh xong, mà tôi bật cười thiếu điều rơi khỏi ghế, ho sặc suạ.
-- Tớ nói cái gì vậy mà cả ông Ít lẫn cậu khi nghe là cười ầm!
Tôi ôm bụng nín cười:
-- Để tí nữa lên phòng anh, em giải thích!

Số là anh Bài, anh Khoa đều là những giáo viên miền Bắc được bổ sung vào huyện Chư Pah phụ với anh Nhật, anh Bài giữ chức bí thư của phòng, còn anh Khoa làm phó trưởng phòng. Hai anh không biết tiếng Thượng, lại cũng ngại anh Nhật vì anh Nhật là trưởng phòng đã ở cao nguyên từ những năm chiến tranh. Cũng là miền Bắc cả, nhưng cũng không thân với nhau lắm, có lẽ vì tính tình khác hay phân biệt kẻ chiến đấu người hưởng lợi thành quả hoà bình. Anh Khoa thì nghiêm trang, tính tình rất được, còn anh Bài thì láu táu hơn, chơi vui, nhưng thỉnh thoảng gặp cặp mắt anh liếc lén trông sợ lắm, giống như anh lúc nào cũng tính toán hạ thủ mình lúc nào không ngờ.
Mấy chị ngồi đó cũng xen vào:
-- Nói cho mọi người cùng nghe đi nào.
-- Không được, nhất định không nói lại ở đây được mà!
Các anh các chị lại càng tò mò vặn hỏi tôi, tôi lắc đầu quầy quậy:
-- Thôi các anh chị ăn xong rồi lên kia nói chuyện đó sau đi.
Tôi tìm cớ nói sau rồi tính chút nữa tôi viện lý do mệt đi ngủ sớm để khỏi phải nói chung cho mọi người nghe, chỉ nói riêng cho anh Khoa thôi. Ai ngờ anh Nhật xen vào:
-- Cậu Quang mắc cở không nói được là phải rồi! Ông Khoa nói: "Cho tôi bóp vú!" thì mấy bà mấy cô Jrai chạy toé đái chứ còn gì nữa.
Tôi sửng sờ kinh ngạc, không phải tôi không biết anh Nhật biết tiếng Thượng, nhưng không ngờ anh huỵch toẹt nói chuyện đó trước mặt các chị.
Cả phòng ăn phá lên cười ầm ĩ, anh Khoa đỏ mặt nhưng cũng cười thật lớn. Tôi cũng hết nhịn nổi lăn ra cười thoải mái.
Anh Khoa cười xong, lại gần hỏi tôi:
-- Ông Nhật không đùa chứ hở? Thật vậy đó sao?
Tôi gật đầu, nói:
-- Đúng ra, anh phải nói: "Pha kau nhum ea!" thì mới là cho tôi uống nước!
Anh Khoa nói:
-- Mẹ, cái ông thầy Nhân đểu giả thật! Nó mà mang xác về đây phải bầm cho nó nhừ tử!
-- Thôi anh, có lẽ anh Nhân đùa quá lố một tí, bỏ qua đi. Lâu lâu cười một tí cho vui thôi mà.
Chuyện của thầy Khoa từ đó trở đi thành một giai thoại, và từ đó thầy Khoa cũng không dám mó mé học tiếng Thượng nữa. Thầy chỉ lo việc văn phòng, và giảng dạy giáo viên chứ không dám đi vào làng bập bẹ tiếng Thượng nữa. Nhiều lần tôi chỉ thầy, thầy cười nói:
-- Học với cậu thì được, nhưng bố tớ tớ cũng không dám tin ai!
Học ngôn ngữ nào cũng vậy, phải thực hành thì mới tiến. Chứ học mà để đấy thật dễ quên. Không nói những chữ đã học thì chẳng bao lâu chẳng nhớ gì!
Tối thứ Bảy đó, tôi lên phòng trao đổi với anh Nhật anh Ít một số ý kiến về chương trình huấn luyện giáo viên vào ngày thứ hai. Tôi còn một ngày hôm sau là ngày chủ nhật tha hồ chuẩn bị. Tôi mừng là chuyện về trễ của tôi không bị ngăn trở gì, vì tôi về đúng ngày sinh nhật chị Hiệp và chuyện cười việc xin nước của thầy Khoa làm không khí trong Phòng Giáo Dục thật thoải mái và cởi mở. Khi tôi đứng dậy về phòng, anh Nhật nói:
-- Xong khoá huấn luyện giáo viên, tớ cho cậu về thị xã một tuần đó.
-- Để xem anh, em còn phải lên lại làng Tung Breng dịp trăng rằm này. Họ cúng Giàng, kêu em lên uống rượu, ông trưởng làng cũng nhờ em mua ít đồ đưa lên đó! Thành thử em có về cũng vài ngày thôi!
-- Cậu sướng quá nhỉ? Đi đâu cũng được mời ăn.
-- Thì anh dịp đó đi lên với em luôn cho vui, coi như là đi thanh tra đó!
-- Ừ, để mình bàn với Hiệp và các anh Khoa, anh Bài xem sao.
Tôi giật mình, định mời tích cách xã giao mà không ngờ anh ấy có thể đi chung thanh tra với tôi trên đó. Thế là tôi cũng khó xoay sở rồi. Tôi cười trừ, cầu thầm là anh Nhật không đi được. Thấy anh Nhật chị Hiệp vui tôi lại nhớ tới Nhung, Du. Chút nữa tôi lại lấy nhật ký Nhung ra đọc rồi ôm vào lòng ngủ rồi.
Chương 47
Ăn uống xong xuôi, chúng tôi cùng nhau dọn dẹp phòng ăn. Riêng chị Hiệp và anh Nhật chúng tôi không cho nhúng tay vào vì đây là ngày sinh nhật của chị Hiệp! Anh chị cười tình tứ dẫn nhau lên nhà trên. Tôi nhìn theo cười, cảm thấy hạnh phúc thật dễ dàng nhưng cũng rất mong manh. Chị Hiệp thừa biết anh Nhật đã có gia đình, nhưng cũng chấp nhận tình yêu của anh Nhật. Biết rồi mai đây tình cảm đó vững bền hay chỉ phôi pha theo tháng ngàỷ Lỡ vợ anh Nhật hay nhà nước yêu cầu anh ấy về Bắc đoàn tụ với gia đình, anh ấy sẽ tính ra sao?
Tôi giở tập nhật ký quen thuộc của Nhung ra đọc như là tìm kiếm những ý nghĩ tư tưởng của Nhung chất chứa qua dòng chữ viết. Tình cảm phức tạp! Trong khi tôi đọc nhật ký của Nhung, tôi lại nghĩ tới Du, người đã giận dỗi tôi vì hiểu lầm. Không biết nàng có hiểu lầm không hay vì phản ứng theo linh tính con gái? Có thể tôi cũng nhen nhúm yêu Nhung mà chính tôi cũng chưa nhận thức ra. Một điều tôi có thể quả quyết là nếu tôi không còn là bạn của hai người đó, tôi sẽ thấy mất mát nhiều và chắc là sẽ cô liêu lắm! Có lẽ đàn ông con trai thường tham lam dù không muốn chiếm đoạt nhưng cũng muốn chiếm cảm tình của nhiều người chứ không chung tình với chỉ một người như con gái?
Tôi rất mến Nhung vì Nhung hoạt bát vui vẻ. Nàng hát rất hay với giọng Huế rất dễ thương. Chúng tôi lại cùng một tôn giáo nên nếu tiến tới hôn nhân chắc cha mẹ đôi bên cũng dễ dàng chấp nhận. Nhưng thật tình tôi chưa muốn tiến tới quyết định quá nghiêm trọng đó\! So với tình cảm tôi dành cho Du, có lẽ Du trội hơn vì Du và tôi do sở thích thơ văn, chúng tôi tâm đầu ý hợp hơn. Người ta bảo những người yêu thơ văn thường lãng mạn, có lẽ tôi là một trong những người lãng mạn. Tâm hồn tôi lãng mạn, nhưng cuộc sống không buông thả, ngông cuồng, yêu bất kể trời trăng đất gió\!
Không biết giờ này Nhung và Du đang làm gì? Đọc sách, soạn bài, viết nhật ký hay là đã ngủ? Không chừng sáng sớm mai tôi phải chạy vào làng Ea Blang gặp Du nói cho nàng rõ tình cảm tôi dành cho nàng. Còn chuyện nàng tin không, đó là quyền của nàng. Coi như là thẳng thắn xác định quan hệ tình cảm của ba người chúng tôi. Trong tình yêu không nên thương hại, cần nhất là ý hợp tâm đầu. Nhưng ý hợp tâm đầu mà khác tôn giáo như Du và tôi thì sao? Đối với những người đang yêu nhau hay cả tôn giáo, chuyện đạo người nào, người nấy giữ thì cũng dễ, nhưng cha mẹ đôi bên có dễ dàng chấp thuận không thì cả là một vấn đề. Hôn nhân không phải chỉ là một quan hệ giữa hai người, mà là quan hệ với cả gia đình, dòng họ, hàng xóm. Chuyện chọn mặt gởi vàng giữa nam và nữ là một chuyện hệ trọng có thể đưa tình cảm họ thăng hoa hay sa lầy vào những bực bội, khó chịu sau này.
Gia đình tôi đạo giòng, rất sốt sắng với đạo Thiên Chúa từ đời ông bà cố kỉnh thời xưa, có lẽ từ khi đạo Thiên Chúa mới truyền vào Việt Nam vì trong tủ sách hiếm hoi của gia đình tôi còn có cuốn sách xuất bản lần đầu tiên Phép Giảng Tám Ngày của Giám mục Bá Đa Lộc, vị thừa sai đã cùng với các linh mục và thầy giảng bản xứ soạn ra bộ tự điển Việt - Bồ - La với ba ngôn ngữ Việt Nam, Bồ Đào Nha và La-tinh, một cổ ngữ chỉ còn dùng trong văn kiện và giáo hội công giáo. Còn gia đình Du lại rất sùng đạo Phật. Gia đình Du ăn chay trường, khói nhang lúc nào cũng nghi ngút trong nhà. Đầu tháng và giữa tháng bố mẹ Du đều đi chùa chiền tụng kinh niệm Phật, cúng kiến. Mẹ Du còn nhai trầu răng đen, miệng lúc nào cũng đỏ vì vôi trầu.
Phải thẳng thắn nói thật tình cảm và hoàn cảnh của chúng tôi để tránh những éo le sau này. Cứ như tôi thì phải sau khi xong đại học rồi mới tính chuyện lâu dài, nhưng cũng không thể bắt con gái thiếu nữ chờ đợi bốn, năm năm ròng rã.
Đêm Giáng Sinh 75
Hôm nay Quang đi hai lễ, một lễ ở nhà thờ Thăng Thiên với gia đình, một lễ tại nhà thờ Đức An để nghe Nhung hát thánh ca. Khi Quang vào nhà thờ, nhìn Nhung rồi khẽ đưa tay vẫy vẫy khiến Nhung sung sướng vô cùng. Hôm trước Nhung đã mời Quang. Quang nhận lời, nhưng Nhung không chắc chắn là Quang sẽ lên vì Đức An hơi xa.
Đây là lần đầu tiên dự lễ Giáng Sinh mà không có Ba hiện diện. Năm nào, dù bận rộn đến đâu, dù đóng quân ở vùng trời nào, Ba cũng về và dự lễ Giáng Sinh với gia đình. Năm nay Ba phải đi học tập cải tạo ngay từ tháng 5, chẳng biết người ta đưa đi đâu mà chẳng hề liên lạc được. Mấy tháng đầu Mạ còn đi thăm nuôi ở An Khê, sau đó biệt tin luôn. Hỏi cơ quan thẩm quyền thì họ nói đưa ra Bắc, nhưng mãi sao cũng chẳng có tin tức gì. Quang dự lễ cũng khấp khoả khoảng trống của Ba, dù sao cũng có bóng dáng con trai hiện diện trong bữa ăn nửa đêm ở gia đình.
Sau thánh lễ, Quang ghé tới chỗ ca đoàn khen mọi người hát hay và chỉ Nhung nói, "Chắc cô ca trưởng là thiên thần giáng thế?" làm cả đám cười rộn. Anh chàng có cái miệng dễ ghét! Quang, Phượng và Nhung thong thả về nhà chỉ cách nhà thơ Đức An chừng mười phút. Cả bọn nói chuyện huyên thuyên cho tới lúc tới nhà thì Quang lấy hai gói quà nhỏ từ trong túi, một trao cho Nhung và một trao cho Phượng.
"Quà cho Nhung, cho Phượng. Tự tay Quang làm!"
Quà cho Nhung là một tập nhỏ bằng một phần tư trang giấy thường, mỗi trang là một câu danh ngôn Quang đã nắn nót viết, còn quà cho Phượng là một cán bút chì bằng trúc vàng trông rất xinh. Khi Phượng mở quà, Phượng mở to đôi mắt ngạc nhiên vì thấy cây bút chì lạ. Quang cười cười rồi nói:
"Quang làm cái cán bút này để tận dụng bút chì đó! Vì khi mình viết bút chì gần hết, chẳng thể nào cầm được phải bỏ khúc bút chì ngắn đi. Đây này khi bút chì gần hết thì mình gắn khúc bút chì đó vào đây hay hay rút ra cũng thế."
Quang rút khúc bút chì ra, trông thật ngộ. Quang nói:
"Nhà nghèo sinh kế mới!"
Thế là cả bọn lại được một trận cười thoải mái. Nội và Mạ muốn giữ Quang ở lại ăn nửa đêm, nhưng Quang nằng nặc xin phép về vì sợ khuya quá công an làm lôi thôi. Chẳng đặng đừng, gia đình Nhung đưa Quang ra cổng. Mạ Nhung nhắn:
"Hôm nào cháu rảnh cứ lên chơi với các em, cháu nhé!"
Cả Nội và Mạ, Phượng đều có vẻ mến Quang. Phải chi Quang yêu Nhung, chắc Nhung sẽ hạnh phúc lắm!
Mà mình có vội vàng lắm không? Quang chẳng hề nói chuyện yêu đương với Nhung bao giờ, có lẽ Quang bị ảnh hưởng ở gần linh mục nhiều quá nên không biết tán gái như những chàng trai khác. Mà có hề gì, miễn là Quang thương mình là được rồi, đâu cần phải biết tán! Coi cử chỉ và quà tặng Quang cũng có nhiều cảm tình với mình lắm chứ. Không biết Quang còn tặng quà Giáng Sinh cho ai không nữa ngoài chị em Nhung?
Tôi bật cười. Thật ra dịp Giáng Sinh đó tôi làm được 5 cán bút chì và 2 tập danh ngôn nhỏ. Tôi giữ lại một cán bút chì, tôi cho em trai tôi một tập danh ngôn, một cán bút chì, còn lại tôi cho các bạn khác mỗi người một thứ coi như một món quà nhỏ. Tình bạn của chúng tôi nhẹ nhàng thế đó, chưa có thân mật chia sẻ tâm sự về cuộc sống hay văn thơ như Du với tôi. Nhưng tình bạn của Du và tôi cũng chưa thể gọi là tình yêu, vì chúng tôi chưa hề ngỏ ý đó bao giờ, dù thỉnh thoảng có những triệu chứng vấn vương giận dỗi gì gì đó khó mà định nghĩa được. Tôi phải tìm dịp vào làng Ea Blang gặp Du để sớm làm tỏ vấn đề.
Chương 48
Đêm hôm đó, tôi ngủ say như chết và sáng hôm sau thức dậy trễ. Tôi không thức dậy sớm để chạy vào làng Ea Blang gặp Du rồi trở lai Phòng Giáo Dục trước 9 giờ như tôi đã định được. Tôi chỉ vừa kịp đánh răng, mặc quần áo rồi lên gặp anh Nhật trình bày chi tiết chương trình huấn luyện giáo viên người Jrai sắp tới. Anh Nhật nói tôi qua mời anh Khoa, anh Bài, và anh Ít qua cùng họp luôn. Chi. Hiệp ngồi gần anh Nhật cầm bút sẵn sàng ghi chép. Tôi thấy trịnh trọng quá, khác hẳn với những lần trước kia, nên cũng khơm khớp.
Anh Nhật mở đầu nói rằng tỉnh rất chú tâm tới khoá huấn luyện giáo viên này và đã chọn huyện Chu Pah làm thí điểm. Có thể tỉnh sẽ tăng cường thêm một số cán bộ, giáo viên sau này. Anh Nhật cho biết là gần như đồng thời với ý kiến huấn luyện giáo viên Thượng của tôi, một đề nghị tương tự cũng được đề bạt lên từ huyện Ayunpa tức là khu vực tỉnh ly. Phú Bổn. Tỉnh chọn Chu Pah làm thí điểm chỉ vì trong đề nghị của tôi có phân tích tình hình đội ngũ giáo viên Thượng tương lai có khả năng và gần sát thị xã Pleiku là trung tâm của tỉnh Gialai-Kontum, rất gần cho cán bộ tỉnh đi kiểm tra. Anh Nhật có vẻ không thích đề nghị thay đổi đột ngột từ tỉnh đưa xuống. Anh nói:
-- Thầy Ít và thầy Quang phải cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ mới này. Đừng để đề nghị của mình đưa lên vào tay người khác.
Anh Ít quay lại nhìn tôi như thầm nói mọi chuyện giao cho tôi vì tôi là người đề nghị nên tôi cũng phải tìm ra lối thoát. Tôi nói:
-- Các anh yên chí, với chương trình huấn luyện giáo viên anh Ít và em đã hoạch ra và nếu được các anh chị nhất trí, chúng ta sẽ thành công vì đó là nguyện vọng của dân trong huyện, họ sẽ đi học và sẽ học được ngay vì em muốn bước đầu các giáo viên mới chỉ dạy họ những gì gần gũi, thực tế với dân làng thay vì lý thuyết, chính trị cao đòi hỏi một trình độ nào đó để tiếp thu.
Anh Bài lên tiếng:
-- Bộ cậu tách rời chính trị ra khỏi chuyện học tập sao?
-- Không anh, nhưng đây là bước đầu, gần như học vỡ lòng. Các giáo viên mới là những người đi đầu, họ sẽ được anh, anh Nhật, anh Khoa giảng dạy về chính trị để họ nắm chắc đường lối cách mạng trong chiến dịch dạy tiếng Thượng, còn anh Ít và em sẽ lo về chuyên môn, dạy họ các phương thức và các bài cơ bản rút ra từ kho tàng cổ tích, những mẫu chuyện trong đời sống hằng ngày, rất gần gũi và quen thuộc với dân làng. Em đã đưa bản đề nghị chi tiết cho anh Nhật sáng nay. Chút nữa chi. Hiệp sẽ đánh máy và giao cho các anh xem qua và phê bình, bổ túc ý kiến thêm. Những danh từ chính trị đồng bào Thượng chưa tiếp thu thấu đáo được vì từ ngữ chính trị mới mẻ không dễ dàng giải thích và khả năng tiếp thu ngôn ngữ mới của đồng bào thượng cũng hạn chế. Tóm lại các giáo viên là những người cầm đầu cần phải có giác ngộ cách mạng cao, còn dân làng chúng ta nên để họ tập viết học hỏi những gì cần thiết, gần gũ`i trước đã. Dù gì sống cách mạng, tăng gia sản xuất và học hỏi văn hoá cách mạng cũng làm cách mạng, thấu triệt đường lối mới mà!
Anh Bài miễn cưỡng trả lời:
-- Như vậy cũng được, nhưng mình pha/?i luôn luôn đề cao cảnh giác triệt để!
-- Hẳn nhiên rồi!
-- Anh Nhật biết ai đã đề nghị dạy tiếng Jrai ơ? Ayunpa không?
-- Hình như giáo viên Tình gì đó, không biết đó là con trai hay con gái! Nhưng nghe huyện và tỉnh rất hài lòng với công tác của giáo viên này.
-- Nếu em không lầm, giáo viên này là người đồng khoá với em. Anh ta rất có khả năng, tụi em học chung với nhau một năm, nhưng cũng là bạn hàng xóm láng giềng từ thuở nhỏ.
-- Vậy à?
-- Em hy vọng vậy! Có thể là trùng tên! Nhưng nếu là giáo viên Tình thì công việc của em coi như xong một nửa nếu tỉnh chuyển anh ta về đây.
-- Bộ cậu không sợ cạnh tranh sao?
-- Làm gì có chuyện đó, cùng làm việc cho một chí hướng, cho đồng bào Thượng thì làm sao mà tranh chấp, cũng như các anh đây kẻ trước người sau cùng làm việc cách mạng mà!
Anh Nhật nhìn anh Ít nói:
-- Thầy Ít nãy giờ chưa đưa ra ý kiến nào, thầy nghĩ sao?
-- Tôi thấy ý kiến của thầy Quang được, không có ý kiến nào khác thêm đâu!
Tôi quay nhìn anh và gật đầu cám ơn anh đã hết lòng ủng hộ tôi. Khi tôi đi vào chi tiết chương trình dạy, các anh Nhật, anh Bài, anh Khoa, anh Ít, và chi. Hiệp chỉ gật đầu khuyến khích vì phần chuyên môn là lãnh vực của tôi nên tôi rành rẽ hơn và lấy lại sự tự tin. Anh Ít không khỏi ngạc nhiên về sự am hiểu đời sống của dân tộc Jrai lúc bấy giờ vì tính từ khi đặt chân tới Phòng Giáo Dục huyện khi tôi gặp anh Ít tới nay, kiến thức về dân tộc Jrai của tôi thực sự tiến vượt bực. Anh nói:
-- Bây giờ tôi hiểu tại sao người Jrai gọi Quang là "Anah Jrai" (Con Jrai) rồi!
Tôi cười sung sướng vì lời khen chân tình của anh Ít. Anh là bạn, là thầy, là người hướng dẫn bước đầu việc học tiếng và đời sống Thượng cho tôi.
Chúng tôi họp đến khi chi. Chức lên mời mọi người xuống ăn cơm mới xong. Anh Nhật vỗ vai tôi:
-- Cậu chuẩn bị được lắm, ăn cơm xong, nghỉ chừng một tiếng, rồi ba giờ, cậu lên phòng anh nói chuyện thêm một chút rồi cậu nghỉ ngơi cho khoẻ vì ngày mốt là bắt đầu khoá huấn luyện rồi. Ngày mai giáo sinh sẽ lần lượt về huyện. Cậu và ông Ít ráng sắp xếp chỗ ăn ở cho họ.
-- Thưa anh, chuyện đó dễ thôi, hôm trước em đã hỏi ý kiến làng trưởng làng Kờ Mông, làng Nang và các làng lân cận rồi. Không có sao đâu. Trong khi chờ đợi, anh có thể cho em xem danh sách và lý lịch các giáo sinh không?
-- Được, chiều nay anh em mình bàn thêm chuyện rồi cậu đem chồng hồ sơ giáo sinh xem, mai đưa lại cho anh.
Bữa ăn trưa vui vẻ vô cùng, mọi người cũng nói chuyện xoay quay việc bổ sung đột ngột mà tỉnh có thể đưa xuống huyện, về chỗ ở, về ăn uống... Với tôi thì càng đông càng vui, hết phải cảnh khỉ ho cò gáy như xưa nay.
Chương 49
Sau khi nghỉ trưa, anh Nhật và tôi lên văn phòng bàn luận riêng một vài chi tiết. Tôi nói qua tình hình các giáo viên, chương trình xoá nạn mù chữ trong các làng và nguyện vọng của chúng tôi. Anh Nhật muốn thăng chức tôi lên coi toàn bộ các giáo viên chuyên trách và các giaó viên xóa nạn mù chữ. Tôi lắc đầu:
-- Em không kham nổi gánh nặng đó đâu. Hãy cứ để thầy Bưu là giáo viên cấp III của em là trưởng đoàn giữ chức vụ đó. Em tuổi còn nhỏ, kinh nghiệm cũng chưa nhiều, nên anh cứ để em làm giáo viên chuyên trách như xưa nay. Em sẽ phụ với thầy Bưu trong các việc cần thiết. Em lo khóa huấn luyện giáo viên Jrai này cũng nhức đầu và mất giờ lắm rồi. Cũng may là có anh Ít và các anh phụ sức vào!
Tôi cũng vui khi anh Nhật hứa với tôi là khi có dịp anh Nhật sẽ đưa cô Mai vào biên chế, có thể chỉ dạy bổ túc văn hoá trong các làng chứ không cần phải chuyển qua bên giáo viên phổ thông. Anh đập vai tôi cười:
-- Sao cậu lo cho người khác không mà không xin cho mình? Cậu muốn vào biên chế ngay không, anh cho đơn liền.
-- Cám ơn anh, thực sự em chỉ muốn phục vụ hai năm trên đây thôi, rồi sau đó xin đi thi đại học. Sau khi học xong rồi em trở lại cũng được mà.
-- Lúc đó không chừng tình hình đã thay đổi. Cơ hội của cậu vào biên chế là bây giờ đó, khi anh còn nắm chức trưởng phòng. Hiệp rất thích cậu và anh cũng rất tin tưởng vào sự nhiệt thành công tác của cậu.
Sau khi bàn thảo thêm với anh Nhật buổi chiều đó, tôi liền vào làng Kờ Mông để thăm Du và định trình bày hết mọi chuyện để chúng tôi có thể hiểu và thông cảm nhau hơn.
Tôi đi thẳng tới chỗ Du ở, nhưng chỉ gặp thầy Phong.
-- Quang tới trễ rồi. Cô Du vừa soạn đồ về thị xã trưa nay!
Tôi hỏi vắn tắt:
-- Chừng nào cô Du trở lại.?
-- Tôi không biết nữa. Du nói chừng năm mười ngày vì mẹ Du bị bệnh nặng. Có em trai Du lên đây hôm qua và ở lại đây đến trưa nay mới cùng về.
-- Thế Du có nhắn gì cho Quang không?
Thầy Phong nhún vai nói:
-- Không, nhưng Quang hỏi thầy Đoàn xem sao vì cô Du và tôi ít khi nói chuyện với nhau lắm. Hai chúng tôi cùng dạy với nhau, nhưng không ăn rơ nhau lắm.
-- Mỗi người có một sở thích mà. Hợp gu thì tốt mà không hợp ở trong làng Thượng thì cũng ráng sống vui vẻ với nhau để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó/.
Thầy Phong nhìn tôi chăm chú rồi chìa tay ra nói:
-- Quang à, lần trước mình xử với Quang không được tốt lắm. Quang bỏ qua giùm ha!
Trong lòng tôi do dự vì bao nhiêu chuyện hiểu lầm giữa Du và tôi xảy ra vì lời nói không ý tứ của thầy Phong, và tôi cũng không biết thầy Phong có thật lòng không nữa. Lời nói có thể ngon ngọt như táo chín trên cành nhưng biết đâu chẳng là con rắn độc cắn chết mình lúc nào không hay đang nằm chờ ở trên cây. Tôi im lặng chìa tay ra bắt, không nói lời nào. Có lẽ tôi ghét thầy Phong, hận thầy không phải vì thầy là tình địch, hay có ác cảm với thầy Phong vì tình cảm lung tung với cô này cô kia không quân tử lắm, nhưng chỉ vì thầy đã làm Du giận tôi bỏ đi mấy lần khiến tôi không thể phân trần.
Đời sống của thầy Phong là chuyện riêng của thầy nếu thầy không đụng chạm gì tới tôi hay các bạn tôi. Xã giao qua loa với thầy thì được, chứ còn chơi thân với nhau tôi chẳng hề nghĩ đến. Trong nhóm giáo viên phổ thông trong huyện, có lẽ tôi thích thầy Khuynh, thầy Tuyên, cô Hương, cô Huệ... nhưng hợp tính tôi nhất dĩ nhiên là Du rồi. Tôi hy vọng tỉnh chuyển thầy Tình từ huyện Ayunpa về đây cộng tác với anh Ít và tôi. Chúng tôi quen nhau lâu lắm rồi, từ ngày còn mặc quần đùi, cởi trần chạy long tong nghịch nước ngày mưa vì chúng tôi cùng làng, cùng tỉnh và cùng trang lứa với tôi mặc dù thầy Tình có vẽ chững chạc hơn tôi nhiều. Thầy hiền lành, ít nói, lúc nào cũng suy nghĩ đắn đo. Có đôi khi tôi chọc thầy là ông cụ non.
-- A thầy Quang mới tới hở Cô Du có gởi thầy ít đồ còn để bên nhà tôi kìa! Làm gì mà bần thần thộn người ra vậy?
Tiếng thầy Phú râu làm tôi giật mình. Tôi chào hỏi qua loa rồi theo thầy Phú đi lấy thùng giấy cỡ mấy kí lô mà Du dặn thầy Phú đưa trả lại cho tôi khi tôi ghé lại làng vì Du không biết bao lâu nữa Du mới trở lên. Du nói, "Mẹ Du đau nặng, Du là con gái lớn phải chăm sóc Mẹ!"
-- Du có gởi thư gì cho Quang không, anh Phú?
-- Không thấy, tất cả trong hộp giấy đó! Tôi không mở ra nên không biết.
Tôi nóng lòng muốn mở thùng giấy ra coi Du gởi gì trong đó cho tôi. Tôi đâu có cho Du mượn gì đâu mà Du nói trả lại. Tôi muốn coi Du có gởi thư gì cho tôi trong đó không ngay, nhưng lại ngại phải nói này nói kia với thầy Phú nên tôi nói chuyện qua loa một chút rồi về ngay. Đúng ra đêm ấy tôi sẽ ngủ tại làng Ea Blang với thầy Phú sau khi nói chuyện với Du nhưng sự vắng mặt của nàng khiến tôi thất vọng ghê gớm và thùng giấy nàng gởi làm tôi hồi hộp muốn biết ngay trong đó Du nói gì và chừng nào Du mới trở lại.
Khi tôi rời làng Ea Blang thì trời đã nhá nhem tối rồi nên chẳng mở thùng ra đọc thư được nên tôi cứ một mạch vai đeo ba-lô cố hữu và ôm thùng giấy trước bụng đi vội về phòng Giáo Dục. Tôi có thể ghé lại ngủ ở làng Kờ Mông với thầy Đoàn, nhưng ở đó chẳng có điện nên tôi nghĩ tôi phải về Phòng Giáo Dục là tốt nhất mặc dù tôi phải đi xa hơn một chút. Tôi cũng buồn là tại sao Du không ghé lại Phòng Giáo Dục tìm tôi, vì đường nào nàng cũng phải đi ngang mới tới bến xe. Gọi là bến xe cho to tát và vì quen miệng chứ thực ra chỉ là chỗ xe đậu để chuyên chở người đi lại, mỗi ngày chỉ một xe, và chỉ một chuyến thì có thể nào gọi là bến xe được. Không lẽ nàng vẫn còn bực mình, giận ghét tôi. Nếu còn giận ghét thì tại sao còn gởi lại thùng giấy cho tôi chứ? Tôi miên man đi trên đường mòn lúc trời xâm xẩm tối khi về tới Phòng Giáo Dục chắc mọi người cũng đã chuẩn bị đi ngủ hay ngủ rồi. Chắc là phải xục cơm nguội với cá khô hay trứng gà luộc rồi cắt nhỏ ra dầm với nước mắm ăn cho đỡ đói thôi. Lúc vội về để mở thùng đọc thư của Du, tôi đã quên không ở lại ăn rồi mới về, bây giờ đi đường bụng đoi đói cồn cào khó chịu, nhưng cũng phải ráng đi cho mau về tới nhà càng sớm càng tốt. Tự nhiên tôi lại nghĩ đi đêm trong đường mòn lỡ rắn rết bò ra cũng phát mệt và tôi lại nghĩ tới anh Trung, anh Tiến, cô Hồng... Không biết họ ra sao rồi và Du thì bao giờ mới trở lại?
Chương 50
Khi tôi về tới Phòng Giáo Dục huyện thì mọi người đã đi ngủ. Tôi vào phòng, bật đèn, bỏ ba lô xuống, rồi chẳng cần tắm rửa, tôi vội vàng mở hộp giấy ra ngay, hy vọng sẽ được Du giải thích rõ ràng trong thư. Không nói ra thì thôi chứ trong đầu tôi ngổn ngang bao nhiêu câu hỏi cần được trả lời cũng như bao nhiều lời giải thích mà tôi đã chuẩn bị để nói với Du mà chưa được nói. Tôi đã sẵn sàng trình bày, dù biết đó là chuyện nguy hiểm, nhưng đã là bạn thân, có thể tiến xa hơn, mà không có sự tin tưởng tín nhiệm nơi nhau thì khó coi biết mấy.
Nếu không có sự hiểu lầm, chắc chắn tôi sẽ im lặng chẳng nói ra chuyện vượt biên không thành của Nhung, nhưng đằng này chuyện tôi giúp Nhung làm quan hệ tình cảm giữa Du và tôi bị sứt mẻ nên tôi đành lòng phải giải thích cho Du biết kẻo bị hiểu lầm mãi mãi.
Tay run run tôi xé giấy mở hộp, chỉ có một chiếc áo len đỏ, một quyển Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh & Hoài Chân, một cuốn vở viết tay gồm những bài thơ Du viết mà thôi. Tôi ngồi chăm chú đọc trọn tập thơ của Du viết hy vọng tìm được một giải thích gì đó, nhưng không thấy. Cả một tập thơ viết những bài về quê hương, về nhung nhớ yêu thương hờn giận trách móc một cách chung chung chứ không riêng cho tôi, ngoại trừ bài cuối cùng trong tập viết tay mà tôi đọc đi đọc lại đến thuộc lòng vì hình như một phần nào liên quan tới tôi vì cách dùng chữ của Du.
Tình Du Mục
Trả lại anh với kiếp tình du mục
Anh bây giờ hạnh phúc lắm không anh
Cho u hoài đôi mắt ướt long lanh
Nhung nhớ mãi bóng hình anh chẳng gặp
Tình thơ mộng bởi vì đâu chợt mất
Làng Ea Blang hoa gạo đỏ tim em
Nhắc làm gì cho nhức nhối tăng thêm
Mai hoa rụng mùa yêu thương em rớt
Chua xót lắm tình cay như vị ớt
Muối xát da rát nhức mãi không thôi
Muốn gặp anh nhưng anh đã xa rồi
Ánh sáng đến ánh sáng đi ngày tháng
Cảm ơn anh mối tình thơ lãng mạn
Một mối tình, Du, mục nát, mùa đông
Biết mai này anh có nhớ em không
Có tiếc nhớ thời gian qua, đã muộn
Du
Không biết tôi có phải có tật giật mình không chứ tôi thấy ráp bốn chữ đầu của bốn câu thơ đầu: Tra? Anh Cho Nhung với những lời của bốn câu thơ cuối cùng làm tôi bàng hoàng.
Du yêu tôi? Du thất vọng? Du trách tôi mang kiếp tình lang bang, du mục? Liệu tôi có còn kịp giải thích cho Du không hay đã quá muộn màng? Tôi vò đầu đau khổ, tôi yêu Du?
Tôi thừa biết Du và tôi nói chuyện rất hợp và gần Du tôi rất vui vẻ hạnh phúc. Tôi cũng mến Nhung, thương Nhung, nhưng gần như tình bạn hơn là tình yêu. Nếu không có Hải, bạn thân của tôi, yêu đơn phương Nhung thì có thể tôi cũng đã yêu Nhung trước khi gặp và quen biết Du nữa. Hay là Du với cặp mắt tinh tế của các nhà thơ đã linh cảm được những gì đã, đang hay sẽ có thể xảy ra cho tôi?
Tôi không nghĩ là tôi có tình cảm lang bang bao giờ nhưng biết đâu được vì khi tôi cõng cô Hồng tôi cũng thấy xôn xao lắm khi cô áp ngực sát vào lưng tôi. Cái cảm giác là lạ, ngượng ngùng trong đêm mưa dù chỉ có Trời và tôi biết mà thôi. Có lẽ gã con trai mới lớn nào cũng một đôi lần kinh nghiệm cảm giác đó và cũng phải đi qua những giai đoạn khám phá, tìm hiểu theo bản năng tự nhiên. Tôi không biết có phải là tôi đang tự bào chữa mình hay không, nhưng thật tình tôi nghĩ tôi là người rất chung thuỷ, tình cảm bao giờ cũng cố gắng trung hậu, thuỷ chung.
Không lẽ Du không viết gì thêm? Bài thơ này làm cũng cả tuần rồi, có lẽ khi được tin tôi về thị xã với Nhung do thầy Phong báo. Du chắc chắn có viết thư gì nữa vì Du đan tặng tôi chiếc áo len mà không biên thêm tí gì sao? Tôi lộn áo len ra xem bên trong có gì không nhưng tôi cũng chẳng thấy gì.
Tôi mặc thử áo len, rất vừa. Tôi không nhớ là tôi đã đứng cho Du đo bao giờ. Có lẽ nàng coi kích thước áo sơ mi tôi để trong phòng khi tôi mặc áo lót và quần cộc đi tắm lúc nào chăng? Tôi nóng lòng suy nghĩ, có lẽ Du dấu thư đâu đó vì có lẽ nàng sợ người ta đọc lén. Tôi mở bìa bọc cuốn sách thơ và tập thơ viết tay, cũng chẳng có gì cả.
Tôi đành mở từng trang cuốn sách Thi Nhân Việt Nam mãi cho tới khi tới phần nhà thơ Quang Dũng tôi mới thấy một tờ giấy mỏng viết vội vã riêng cho tôi mà lúc sốt ruột tôi đã không nghĩ kỹ, chứ không thì tôi không phải tốn nhiều thời giờ lật từng trang sách tìm thư của Du. Nàng chẳng hay đọc cho tôi nghe những bài thơ của Quang Dũng đậm tình sắc quê hương đó sao? Nhà thơ Quang Dũng đã cho Du và tôi những giờ phút thật thơ mộng khi nhớ nhà trong những ngày sống nơi đèo heo hút gió:
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
Sông xa từng lớp lớp mưa dài...
Du thích nhất bài Đôi Mắt Người Sơn Tây:
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng em còn bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Cho nhẹ lòng nhớ thương
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Quang Dũng
Thư Du viết vội vã vỏn vẹn có ít câu:
Quang,
Du phải về gấp vì có chuyện cần. Du gởi tặng Quang chiếc áo len Du lâu nay đã lén đan cho Quang định một ngày sẽ trao tận tay cho Quang... Du xin cám ơn Quang những ngày vui thơ mộng và tình bạn rất đáng qúi đã khiến Du mong một ngày nào được... Mà thôi, Quang bây giờ đã có Nhung và sắp làm một người cha, Du xin gởi tặng với tính cách người bạn. Mong Quang được hạnh phúc. Vĩnh biệt Quang.
Du
Sắp làm một người cha? Chúa ơi, Du nghe tin này ở đâu? Hay là Nhung đã có thai thật? Câu chuyện tưởng chỉ là chuyện nhỏ, giản dị hoá ra lại to lớn và phức tạp nhức đầu quá! Từ hiểu lầm này sang hiểu lầm khác.
Tôi phải làm sao đây, nếu quả thật Nhung có bầu. Liệu tôi có gánh nổi trách nhiệm làm một người chồng, và làm một người cha liền không khi trái tim tôi chưa dứt hẳn quan hệ thân tình với Du, dù rằng giữa Du và tôi chưa từng hứa hẹn hay trao nhau những nụ hôn nồng nàn nào? Du và tôi, nói cho đúng, còn ở trong quan hệ lãng mạn, mơ hờ nhưng rất thơ mộng của tuổi sắp bước vào thương yêu, của giai đoạn dạt dào của đôi trái tim rung cùng một nhịp, được thi vị hoá theo kiểu nhà thơ Nguyễn Du "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e!"
Tôi phải làm sao đây? Hơn bất cứ lúc nào khác, tôi cần gặp một vị linh mục thông hiểu chuyện đời như bố Oanh, bác Tài hay chú Quy hay bất cứ một vị linh mục nào đó hay cả ngay đến chú Xảo trụ trì trong chùa, người đã cho tôi cái địa bàn định hướng hay anh Tình, người giáo viên từ Ayunpa có thể được tỉnh chuyển về làm việc chung với tôi.
Tôi cần có một người bạn chân thành để chia sẻ nỗi niềm của tôi trong tình huống khó chọn này. Tôi cần nói chuyện trực tiếp với Du, với Nhung để có một quyết định sáng suốt và rõ ràng. Tôi biết Nhung sẽ không để tôi phải khổ tâm khi tôi cưới nàng dù tôi không phải là tác giả của đứa con đầu lòng. Tôi biết tôi sẽ thương yêu mẹ con nàng không câu nệ gì chuyện chẳng ngờ đã xảy đến ngoài ý muốn của Nhung, nhưng liệu tôi có công bình với Nhung không khi trái tim tôi vẫn hướng phần nào về Du? Và còn Du và tôi, tương lai của chúng tôi rồi sẽ đi về đâu? Phải chăng tôi đã vô tình bắt cá hai tay nên không có quyết định dứt khoát...
Đêm đã khuya, gần hưng hửng sáng rồi. Tôi đứng dậy, uể oải đi tắt đèn. Trở lại giường, ráng nhắm mắt nằm ngủ, nhưng đầu óc tôi rối như tơ vò. Tôi mong thầy Tình sớm lên đây để tôi giao giáo án cho anh rồi nhờ anh trông coi khóa giảng dạy giáo viên Thượng và tôi tìm cách chuồn về thị xã để gặp Du, gặp Nhung càng sớm càng tốt cũng như lo chuyện anh Trung, anh Tiến, cô Hồng cho xong. Chúa nhật rồi đó, tôi âm thầm làm dấu và đọc ít kinh để tịnh tâm ráng không lo nghĩ gì hết để ngủ vì trưa nay hay trễ nhất là chiều nay các giáo sinh Thượng sẽ tề tựu về Phòng giáo dục. Anh Ít và tôi lại phải đưa họ đi tới các nơi họ tạm trú ngụ trong khóa học.
Nguyên Đỗ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tình ca giáo viên miền núi 2

Tình ca giáo viên miền núi 2 Chương 27 Tôi đi nhanh trên đường mòn về làng Ea Nang và lách mình theo lối nhỏ xuống thác nước. Trời đang nắ...