NORMAN BOURLAUG - HÃY VƯƠN
TỚI NHỮNG VÌ SAO
Hoàng Kim
Cha đẻ của cách mạng Xanh: “Hãy vươn tới các vì sao”LỜI THẦY DẶNDAYVAHOC. Norman Ernest Borlaug (25 tháng 3 năm 1914 – 12 tháng 9 năm 2009) là nhà nông học Mỹ , nhà nhân đạo, người đoạt giải Nobel và ông được gọi là cha đẻ của Cuộc cách mạng Xanh. Ông là người đã nhận được đồng thời ba giải thưởng lớn (Nobel Peace Prize, Presidential Medal of Freedom Congressional Gold Medal) vì những cống hiến đặc biệt cao quý cho nhân loại.
Norman Borlaug là tiến sĩ di truyền
và bệnh cây của Trường Đại học Minnesota (University of Minnesota) năm 1942.
Ông chuyên nghiên cứu chọn giống lúa mì tại Mexico và đã giới thiệu phát triển
những giống lúa mì thấp cây, năng suất cao, kháng sâu bệnh nổi tiếng khắp thế
giới.
Ông đã cống hiến suốt đời để cải
thiện đời sống và thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo trên toàn cầu.
Ông dành nhiều thời gian cho giảng dạy, nghiên cứu, làm việc tại CIMMYT, CIANO
ở Mexico, Trường đại học Texas A&M University và Trung tâm chọn tạo giống
cây trồng Center for Southern Crop Improvement ở Mỹ. Ông đã thực hiện nhiều dự
án giúp đẩy mạnh sản xuất lương thực của nhiều nước ở châu Phi tại Benin,
Burkina Faso, Ethiopia, Ghana, Guinea, Mali, Malawi, Mozambique, Nigeria,
Tanzania và Uganda, ở châu Á tại Ấn Độ, Pakistan…; Ông là một trong những người
sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới (World Food Prize) và tổ chức nhiều
hoạt động thiết thực khác. Đây là Cuộc cách mạng thứ hai của ông thắp sáng niềm
tin yêu cuộc sống.
Norman Ernest Borlaug nhà khoa học
xanh là cây đời mãi mãi xanh tươi !
Kỹ niệm sâu đậm nhất của tôi đối với
Thầy Norman Borlaug là ngày tôi được trò chuyện với Người gần trọn buổi chiều
trong phòng riêng của tôi tại CIMMYT, Mexico năm 1988. Thầy đã một mình ghé
thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Tram
trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề
tưởng nhớ ngày Cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng
Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung
học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy đã lặng người xúc động. Và, tôi
thật không ngờ và cũng thật may mắn đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư
bên cạnh Thầy, nhà bác học nông nghiệp bậc nhất của nước Mỹ và thế giới. Tôi đã
kể cho Thầy nghe về “Tuổi thơ gian khổ” “Những ngày cầm súng” và “Khát vọng”
trong các hoài bão và dự định của mình đối với chọn giống cây trồng, cải tiến
kỹ thuật canh tác để nâng cao thu nhập và đời sống cho các hộ nông dân nghèo ở
Việt Nam. Thầy lắng nghe và thỉnh thoảng góp ý, nhận xét. Tôi tâm đắc với Thầy về
câu của Goethe – nhà bác học thiên tài người Đức: “Mọi lý thuyết đều màu xám và
cây đời mãi mãi tươi xanh” và câu “An nhàn vô sự là tiên” trong “Sấm ký” của
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tâm nguyện của Thầy nhà khoa học xanh, “Lời Thầy
dạy” mãi mãi trong lòng tôi.
http://www.worldfoodprize.org/borlaug/borlaug-history.htm
http://www.worldfoodprize.org/borlaug/borlaug-CV.htm
http://www.worldfoodprize.org/borlaug/borlaug-links.htm
http://www.worldfoodprize.org/
http://www.worldfoodprize.org/borlaug/borlaug-CV.htm
http://www.worldfoodprize.org/borlaug/borlaug-links.htm
http://www.worldfoodprize.org/
Cha đẻ của cách mạng Xanh: “Hãy vươn tới các vì sao”
Norman Bourlaug is the Greatest Living American (AgBioWorld)
Norman Borlaug, Agronomist Who Fought World Hunger, Dies(Technology Review)
Norman Borlaug: The man who fed the world (The wall street journal)
Norman Borlaug, Plant Scientist Who Fought Famine, Dies at 95 (The NewYork Times)
Norman Bourlaug, ‘Green’ Scientist, Dies (Time)
Norman Bourlaug is the Greatest Living American (AgBioWorld)
Norman Borlaug, Agronomist Who Fought World Hunger, Dies(Technology Review)
Norman Borlaug: The man who fed the world (The wall street journal)
Norman Borlaug, Plant Scientist Who Fought Famine, Dies at 95 (The NewYork Times)
Norman Bourlaug, ‘Green’ Scientist, Dies (Time)
LỜI THẦY DẶN
Việc chính đời người chỉ ít thôi
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện
THUNG DUNG. Anh Nguyễn Quốc Toàn (Bulukhin),
nhà hiền triết uyên bác, tạo diễn đàn KINH VỆ
ĐÀ SỐ 7 với câu hỏi:“Nội dung Kinh Vệ Đà số 7 nói gì ?”.Tôi xin
được trao đổi ba ý Câu chuyện cổ và kinh Vệ Đà; Từ 36 kế đến Tây Du ký và
Lộc Đỉnh ký; Túi khôn của nhân loại.
Câu chuyện cổ và kinh Vệ Đà
Câu chuyện cổ
Ngày xưa, có một anh chàng mạnh
khỏe, đẹp trai nhưng hơi bị cù lần, thế nhưng mèo mù vớ cá rán, chàng cưới được
một cô vợ vừa xinh đẹp lại vừa thông minh. Cô nàng rất duyên dáng, nói chuyện
có duyên, đến nỗi thầy chùa cũng ngẩn ngơ như phải bùa yêu. Anh chồng yêu vợ
say đắm nhưng vừa lo, vừa ghen nên cấm tiệt vợ không được tự do giao thiệp và
thường hay xét nét vợ. Thế rồi ai đó tư vấn cho anh phải tìm học thuộc kinh Vệ
Đà số 7 mới khép cô vợ nghi là đong đưa kia vào khuôn phép. Vậy là một liều ba
bảy cũng liều, anh chồng khăn gói bỏ nhà ra đi tìm kinh Vệ Đà số 7. Anh
ta đã vượt qua không biết bao nhiều núi sông với bấy nhiêu đường đất, nhưng
chàng vẫn chưa tìm được bảo bối cần tìm. Một hôm chàng gặp một đoàn tiên nữ đẹp
tuyệt trần đang tắm bên suối ngọc, chàng lén thưởng thức sau đó lân la làm quen
để hỏi về kinh Vệ Đà số 7. Một nàng ra dáng đại ca cật vấn chàng về lý do
đi tìm học kinh Vệ Đà số 7. Chàng đã thành thật kể hết sự tình. Nghe xong cô
tiên bảo, anh hãy về động ở chung, chúng tôi sẽ dạy anh lời kinh rất mực thiêng
liêng ấy. Anh chàng vui vẻ nghe theo, và từ đó anh thành một lãng tử thực thụ
trong động tiên cô. Các nàng dạy cho anh nuôi chim, nuôi thú, đi cày, lại dạy
anh cách cãi vã đánh lộn… với chữ nghĩa triết lý sâu sắc, nhân hậu của nhà hiền
triết cho đến mọi thói ranh ma của người đời. Sau cùng, truyền cho anh ta biết
cách biến một khuôn mặt khả ái đáng yêu thành một khuôn mặt yêu tinh, tầm
thường.
Đến một ngày kia anh quay về nhà,
phải lúc người vợ đi vắng. Lòng anh lại bùng lên cơn giận vì đoán chắc người vợ
lại đi đong đưa. Anh ta lập tức nhắn tin gọi ngay vợ về mà không thèm nghe một
lời giải thích. Cô vợ gọi một người bạn ít may mắn, có khuôn mặt “ma chê
quỷ hờn” trong nhóm và nói nhỏ với bạn hãy về nhà giúp mình, đợi khi anh
chàng ra khỏi phòng thì tắt đèn làm như thế, như thế… Quả nhiên, khi anh chàng
về giường đã thấy vợ thơm phức ở đó. Trời tối, cô “vợ” che mặt dỗi chồng, lại
không lên tiếng, nên anh chàng cứ nghĩ đấy là vợ mình. Ân ái xong, đến gần
sáng, cơn giận của anh chồng lại bùng lên. Anh ta vừa ghen vừa cả giận mất khôn
nên đã niệm chú biến khuôn mặt khả ái đáng yêu của vợ thành khuôn
mặt tầm thường. Niệm chú xong, anh ta giơ tay giật phát mặt nạ thì …ôi
thôi, phát thuật duy nhất một lần, đã quả nhiên linh nghiệm. Mặt người vợ đổi
khác. Cô “vợ” ôm mặt khóc rưng rức và chạy đi…
Anh chàng hối hận đi lang thang tìm
vợ khắp nơi và đau đớn tuyệt vọng thề thốt sẽ không màng xấu đẹp chỉ quyết lòng
xin nàng trở về. Sau cùng, nàng đồng ý về nhà, nhưng không gặp chồng ngay mà
quỳ trước bàn thờ khấn to: “….nếu con quả thật không chung thủy với chồng con
thì xin người cứ trừng phạt, còn nếu con bị oan uổng thì xin người hãy ban phép
cho mặt con trở lại như xưa…” Anh chồng nghe chưa hết câu đã chạy đến giật
phăng tấm mạng che mặt, và sững sờ thấy mặt mũi vợ vẫn đẹp như xưa. Đến lượt anh
quỳ thụp xuống bên cạnh vợ, nức nở nói lời xin lỗi, và thề nguyền từ nay đến
suốt đời tin vợ, không dám nghi ngờ gì nữa.
Cho đến nay, vợ chồng chàng trai nọ
vẫn ở bên nhau, đêm đêm anh chồng vắt tay qua trán nghỉ về kinh Vệ Đà số 7 và
vẫn chưa hiểu hết những ẩn ngữ khôn ngoan thật sự trong kho tàng vô giá của
người xưa truyền lại.
Kinh Vệ Đà
Xưa kia, sách vở không nhiều như hiện nay, những hiểu biết của nhân loại được truyền khẩu hoặc lưu lại qua chỉ dấu, bia đá, sách vở …PS. Taranop đã lược khảo 106 nhà thông thái: cuộc đời, số phận, học thuyết, tư tưởng, với rất nhiều người lỗi lạc trong các thời đại và đất nước của họ như Sôlômông, Talet, Ê dốp, Lão Tử, Thích ca Mâu Ni, Khổng Tử, Sôcrat, Aristot, Chúa Giêsu, v.v…. (Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội 914 trang). Các kiệt tác truyền bá sâu rộng được gọi là kinh (như kinh bát nhã, kinh kim cương, đạo đức kinh, kinh thánh, kinh dịch, kinh thi, kinh thư…).
Xưa kia, sách vở không nhiều như hiện nay, những hiểu biết của nhân loại được truyền khẩu hoặc lưu lại qua chỉ dấu, bia đá, sách vở …PS. Taranop đã lược khảo 106 nhà thông thái: cuộc đời, số phận, học thuyết, tư tưởng, với rất nhiều người lỗi lạc trong các thời đại và đất nước của họ như Sôlômông, Talet, Ê dốp, Lão Tử, Thích ca Mâu Ni, Khổng Tử, Sôcrat, Aristot, Chúa Giêsu, v.v…. (Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội 914 trang). Các kiệt tác truyền bá sâu rộng được gọi là kinh (như kinh bát nhã, kinh kim cương, đạo đức kinh, kinh thánh, kinh dịch, kinh thi, kinh thư…).
Kinh Vệ Đà là bộ kinh tối cổ của
người Ấn Độ. Nó là cội nguồn của Ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo,
Hồi giáo …Vệ Đà (từ gốc vid, - hiểu biết) là hợp thành kiến thức của xã
hội Ấn Độ được truyền khẩu từ 5000 năm đến 1500 năm trước CN, bao gồm những bài
thánh ca, kinh cầu nguyện, nghi lễ tế thần, ma thuật, thơ ca về thiên
nhiên tuyệt đẹp…
Theo Radhakrishnan và Moore, trong
cuốn “Indian Philophy”, trích dẫn bởi Thượng tọa Thích Chơn Thiện tại Phật học
Ngày nay thì triết lý Ấn Độ chia làm năm giai đoạn:
* Giai đoạn I: Từ 2500 TTL đến 600 TTL là giai đoạn của tư tưởng Vệ-đà.
* Giai đoạn II: Từ 600 TTL đến 200 TL là giai đoạn tư tưởng Anh hùng ca.
* Giai đoạn III: Là giai đoạn của những thế kỷ đầu Tây Lịch, giai đoạn của Kinh (Sutra). Giai đoạn này gồm các phái Triết học: Thực tại luận, Đa nguyên luận, Tiến hóa nhị nguyên luận, Thiền định; Những công trình khảo cứu về kinh Vệ đà
* Giai đoạn IV: là giai đoạn học thuật, luận viết và giải thích các Kinh đã ra đời.
* Giai đoạn V: Tư tưởng Ấn Độ đương thời.
* Giai đoạn I: Từ 2500 TTL đến 600 TTL là giai đoạn của tư tưởng Vệ-đà.
* Giai đoạn II: Từ 600 TTL đến 200 TL là giai đoạn tư tưởng Anh hùng ca.
* Giai đoạn III: Là giai đoạn của những thế kỷ đầu Tây Lịch, giai đoạn của Kinh (Sutra). Giai đoạn này gồm các phái Triết học: Thực tại luận, Đa nguyên luận, Tiến hóa nhị nguyên luận, Thiền định; Những công trình khảo cứu về kinh Vệ đà
* Giai đoạn IV: là giai đoạn học thuật, luận viết và giải thích các Kinh đã ra đời.
* Giai đoạn V: Tư tưởng Ấn Độ đương thời.
Giai đoạn Vệ-đà là giai đoạn tư
tưởng triết học thành tựu của nền văn minh Ấn Độ nổi tiếng và cổ nhất thế giới.
Có bốn loại Vệ-đà: Xưng tụng cái Biết (Rig-Veda), Ve- đà về Tế tự (Yajur-Veda);
Ve- đà về Thần chú, Ca vịnh (Samma-Veda), và Vệ-đà do Đạo sĩ Atharva truyền
lại, có tính cách tham bác và triển khai ý nghiã của ba bộ kia (Atharva-Veda).
Kinh Veda đề cập đến rất nhiều vị thần như thần Mặt trời, thần Lửa, thần Bầu
trời, thần Bão tố, thần Gió, thần Nước, thần Bình minh, thần Đất, v.v… nhưng
dân Ấn khi thờ vị thần nào thì vị thần ấy trở nên vị thần chúa tể. Do vậy,
Vệ-đà vừa mang ý nghĩa đa thần, vừa mang ý nghĩa nhất thần.
P.D. Mehta, trong cuốn “Early Indian
Religious Thought”, nhà xuất bản Lusac và Company Limited xuất bản ở London năm
1956, đã viết rằng: “Tôn giáo được đức Phật đề xuất thì rất độc đáo, nó khác
biệt một cách sửng sốt với tất cả các tôn giáo lớn khác. Chính pháp (chân lý)
là suối nguồn, chứ không phải là một con người thần thánh hay tuyệt đối. Mục
đích là vô ngã, sự chấm dứt khổ đau, và sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn…”. (But
Religion as pronounced by the Buddha is so orginal that it is startling
different from all the other great religions. The Dhamma, and not a Divine
Person or Absolute, is the fountain head. The goal is selflessness, the
cessation from being a source of sufffering and evil, and the realization of
the Deathlessness of Nirvàna…) (p. 186-187). Geogre Grimm, học giả người Đức,
trong cuốn “The Doctrine of the Buddha” cũng viết: “Giáo lý của đức Phật cũng
gọi là giáo lý của Vô ngã, tương phản với giáo lý Ngã của kinh Vệ Đà “ (p.
370). Phật giáo chủ trương hết thảy các pháp là Vô ngã, bình đẳng giai cấp,
bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn. Học thuyết mang đầy
tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội, khác hẵn với các học thuyết Ấn Độ
trước đó hoặc cùng thời. Đây là vị trí độc đáo của Phật giáo trong lịch sử Ấn,
cũng như trong lịch sử nhân loại. Chính vì điểm khác biệt lớn lao này mà cho
đến nay một số Bà-la-môn giáo vẫn xem Phật giáo như là thù nghịch, cho rằng
chính Thích Ca Mâu Ni đã làm đảo ngược truyền thống Ấn Độ.
Ngộ được mối liên hệ giữa Phật giáo
với kinh Vệ Đà và các học thuyết Ấn Độ trước đó sẽ hiểu được túi khôn của nhân
loại trong câu chuyện cổ ở trên.
Từ 36 kế đến Tây Du ký và Lộc Đỉnh
ký
Nghe xong câu chuyện cổ với những
tình tiết kín đáo đã hé lộ, bạn hẵn đoán được đó là TRÍ TUỆ hoặc TRÍ HUỆ
theo cách diễn đạt của đạo Phật. Đây là kế “Thay Loan tráo Phụng” hay “Du Long
chuyển Phượng” mưu kế thứ bảy trong ba mươi sáu kế nổi tiếng (三十六計, Tam thập lục kế; hay 三十六策, Tam thập
lục sách) của người xưa. Ba mươi sáu kế đó là:
1. Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương). Kế “Dương đông kích tây”
là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào
phía tâỵ muốn làm điều này nhưng lại giả làm điều kia. Kế này nhằm chuyển mục
tiêu khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.
2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng). Kế “Điệu hổ ly sơn” là nhử, dụ
hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng. Kế này nhằm nhử hổ ra khỏi rừng để
dễ dàng giết hổ hoặc đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa
oai hổ mà hoành hành.
3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim) Ý của mưu kế này là dùng
sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.
4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết). Với người xưa, đây là
một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi
nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu. Cái đức của
người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng
phu không thể không giấu thiên hạ. Biết rất nhiều mà tỏ ra không biết là một
mưu kế sâu sắc.
5. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp) Mỹ nhân từ ngàn xưa luôn là đề tài
chính. Sức mạnh của người đẹp có thể thay đổi cả đại cục, ảnh hưởng đối với bậc
anh hùng, quyền thế.
6. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động) Kế này lợi dụng lúc loạn để
sắp xếp theo ý muốn. “Sấn hỏa đả kiếp” có hai loại : Một là theo lửa để mà đánh
cướp, thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm. Hai là
chính ta phóng hỏa mà đánh cướp, gây ra sự hỗn loạn để thực hiện ý định của ta.
7. Du
long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng) Kế “Du long chuyển phượng”
là biến cái này thành cái kia, trong dân gian thường gọi là “Treo đầu dê, bán
thịt chó”.
8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có) Kế này hình dung như
tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào
đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú
con bay về với bầy tu hú. Thủ đoạn là chọc trời khuấy nước làm rối beng sự việc
lên, tung tiếng đồn, gây tiếng tăm, dựa vào đó mà thủ lợi.
9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương) “Tiên hạ thủ vi
cường” ra tay “chớp nhoáng” không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận
kịp phản ứng kịp.
10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ rắn sợ) tương tự như kế “giết gà, dọa khỉ” .
11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người) mượn tay người khác để tiêu
diệt kẻ thù của mình. Tào Tháo mượn tay Lưu Biểu, Hoàng Tổ để giết Nễ Hành là
một thí dụ.
12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta) Kế này còn gọi là
“vu oan giá họa” tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại.
13. Khích tướng kế (Kế khích tướng) khích lệ hùng khí của người khác làm
tướng giặc nổi giận, mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được mình.
14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn) Man thiên, trời u ám
không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi, có thể nhờ nó để lẩn tránh tai họa, lợi
dụng sơ hở của địch để thoát hiểm hoặc tạo ra tình thế mới.
15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến) “Tôn Tử Binh Pháp”
viết: “Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ
ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối
mà đuổi, thấy khỏe thì tránh, làm mọi cách giảm lực đối phương để thủ thắng”.
16. Phản khách vi chủ (Đổi khách thành chủ) Kế này là đổi địa vị khách thành
địa vị chủ, đổi thế bị động thành chủ động.
17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu thoát xác) Kế này dùng để lừa dối, che mắt đối
phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác.
18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành) dùng nghi binh để lừa dối đối
phương mà dựa vào đó để trốn thoát hoặc dụ địch vào sâu để tiêu diệt.
19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng) Cách bắt tướng thiên biến
vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác đều có thể dùng
cho kế này
20. Ban chư ngật hổ (Giả làm heo để ăn thịt hổ) Lão Tử nói: “Người cực
khôn khéo mà làm ra vụng về”, Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường. Tỏ ra đói
mệt nhưng thật là no khỏe Ngoài mặt cung kính nhưng trong âm thầm chuẩn bi để
địch mất cảnh giác.
21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rút ván) Lấp đường thành công của những người
đến sau để độc chiếm thành tựu.
22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau) vận dụng một quyền thuật để tạo
phản ứng dây chuyền. Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất trong “Liên hoàn kế”.
23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt) lấy sự thanh thản dưỡng
sức mà đợi kẻ phí sức, mỏi mệt, giảm bớt nhuệ khí của địch rồi mới thừa cơ xuất
kích.
24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ dâu mắng hòe) tương tự câu “chửi chó mắng
mèo”, mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.
25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng) Rơi xuống giếng lại còn
ném đá vào đầu để đối phương chết hẳn.
26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế) để cho người ta chóa mắt, nể
sợ. Đời Tam Quốc, Tào Tháo tiến quân xuống Giang Nam thổi phồng thanh thế trăm
vạn hùng quân nhằm dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền hàng phục. Khổng
Minh, Chu Du thấy rõ kế này nên đã thắng được.
27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi) tìm cách làm cho nó dịu đi,
lớn thành nhỏ, nhỏ thành không có.
28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ) Con khỉ vốn rất sợ máu. Lúc
bắt khỉ, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến khỉ
bủn rủn chân tay để bắt
29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại) dùng người của
đối phương để lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch. Tôn Tử nói: “Biết mình
là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của
địch. Biết mình dễ hơn biết người. Muốn biết người phải dùng gián điệp”.
30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào) Người lớn làm họa, bắt
người bé chịu tội thay, khống chế người thân để khuất phục người cần bắt.
31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt dê) nhân cơ hội vụt để thu được những
cái lợi bất ngờ. Dân gian có câu cùng nghĩa “đắm đò rửa trôn”
32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra) mềm dẻo để thu phục lòng
người.
33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin) Đem thân xác
bị hành hạ để làm bằng chứng tiếp cận địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.
34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc) Dân gian
thường nói “thả con tép bắt con tôm” cũng là kế này.
35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về) lợi dụng một lực lượng nào đó để
thi hành trở lại chủ trương của mình. Kế này rất nguy hiểm như rước voi giày
mả, đưa hổ vào nhà.
36. Tẩu kế (Chạy, thoát thân) “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng
sách”. (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!) Kế này là đầu tiên và sau cùng
liên quan nhiều đến sự thành bại của việc lớn. Đó là né tránh tai họa để để bảo
toàn lực lượng.
Trong Tây Du ký và Lộc Đỉnh
ký, “Thay Loan tráo Phượng” đã được sử dụng rất khéo và nhiều lần, biến hóa
khôn lường, tựa như câu nói trong “Hồng Lâu Mộng”: Giả bảo là chân, chân cũng
giả/ Không làm ra có, có rồi không. Để nhận thức được đúng đắn và xử lý được
đúng đắn cần phải có minh tâm và trí tuệ.
Túi khôn của nhân loại
Tinh hoa minh triết có nhiều, xin
được thu thập mà không lạm bàn. Trí tuệ bậc Thầy là năng động, quyền
biến, phát hiện chính xác các mâu thuẫn trong thực tiễn để đạt được mục đích
bảo toàn mình và thắng lợi.
Tìm trong vốn cổ, suối nguồn chân lý
của dân tộc và nhân loại, cùng những kinh nghiệm mới đương thời, có rất nhiều
điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.
Kinh Vệ-đà, tư tưởng triết học thành
tựu của nền văn minh Ấn Độ nổi tiếng và cổ nhất thế giới. Kinh Phật với triết
lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là một con người thần thánh
hay tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông với
minh triết:“Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác”. Đó là ba ngọn
núi trí tuệ cao vọi, túi khôn của nhân loại.
1.
Pingback: Túi khôn của nhân loại « Thung dung
3.
Pingback: Minh triết sống thung dung, phúc hậu | Thung dung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét