Bài thơ có sức hút kỳ lạ, đặc biệt với giới
phê bình ngay từ khi nó xuất hiện, Trần Thanh Mại từng có lời bình: “Chỉ
trong mười hai câu đã kết tinh lại biết bao rung cảm say sưa, mà nhất là biết
bao ảo thuật quái dị. Mỗi chữ trong đây đều có một linh hồn, mỗi chữ là một
"hoạt động lực", nó bắt tay nhau mà nhảy lên một bản khiêu vũ thần
tiên”. Hàn Mặc Tử, in lần thứ nhất, Tân Việt, SGòn, trang 50.
Bẽn lẽn
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi
Trong khóm vi vu rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em
Nguồn: Hàn Mặc Tử, Gái quê, Nxb Hội nhà văn, 1995
Hàn Mặc Tử sáng tác thơ, dường như, lúc nào cũng trong trạng
thái cảm xúc: Mỗi lời thơ đều dính não cân ta …Vì vậy chăng, cho dù
khi trước sự vật ở dạng bóng ảnh, mộng mị, hư huyễn thì với sức bút của ông tất
cả đều có khả năng hóa tượng hình, tượng thanh sống động. Hướng thi pháp này,
có thể nói, mang khả năng thực thể hóa ảo giác và tâm thức . Bài thơ
BẼN LẼN là một trong những bài tiêu biểu của hướng thi pháp này.
Trăng nằm sõng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi …
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi …
Đối tượng miêu tả chính là "trăng". Trăng - trong
cuộc tình với "gió đông" và trước sự đồng điệu, ứng tác của hoa lá,
suối khe. Đề bài nói về bẽn lẽn là nói chơi, nói điệu. Và nói vậy phần do cái
tâm lý tự vấn, mặc cảm trước vẻ hồn nhiên phô diễn hết mình, thật mình của vẻ đẹp
thiên nhiên, mà con người với bao ý nhị buộc giàng đã không dám được vậy; chứ
xem cách thức, hành vi tỏ tình của thiên nhiên kia và cách cảm nghĩ, tỏ bày của
con người ấy thì rõ không có vẻ "bẽn lẽn" gì. Từng sắc diện của ảnh
chữ đã xác nhận điều đó. Hơn thế, lòng người - em trong thơ còn thầm mong được
chiêm ngưỡng và cũng mong được khoe mình: Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi .
Hồi hộp đến nín thở, nín tiếng: Tiếng lòng ai nói Sao im đi? … để
mà xem, kẻo tan vỡ cảnh mộng tình: Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm / Lộ
cái khuôn vàng dưới đáy khe …
Theo trình tự hình ảnh thơ, từ lúc không gian còn rộng mở,
trăng còn ở trên cao, ở xa xa: trên cành liễu để đợi chờ …thì tới phần giữa
bài, không gian đã thu gần lại, hình ảnh trăng cũng đã trở lên cụ thể có hình
khối, hình sắc hơn. Từ lúc hình ảnh hiện diện còn ít nhiều mờ ảo, trăng -
nằm - sõng - soãi …tới lúc hình ảnh phô bày lồ lộ, trần - truồng - tắm; qua
nét tạo hình, gợi tình của không gian sống ấy ta như thấy được nhịp chuyển của
các đối tượng, thấy trăng và người - Người em đang tiến gần lại nhau, mang tinh
thần, khát vọng hòa nhập vào nhau. Trăng đã đến điểm hoàn toàn khỏa thân phô sắc
trước con người; và con người cũng đến điểm lòng hết hồi hộp, thôi ẩn nấp trong
đám "vi lau" đã tiến gần lại chỗ ái ân, gần đến cỡ để gió - gió đông,
bạn tình của trăng - hôn lên má. Nhịp chuyển của không gian cảnh sắc và không
gian tâm lý diễn ra như vậy là rất hợp với tiến trình tình cảm và có quy trình
ngôn ngữ - thi pháp.
Cách sử dụng danh từ của bài thơ này cũng có nét đáng bàn đến.
Tác giả đã sử dụng ba cách gọi tên của trăng, là trăng - chị Hằng và bóng nguyệt.
Đây cũng là điểm ít gặp ở một bài thơ. Mở bài, ở câu thơ đầu gặp từ
"trăng" - trăng nằm sõng soãi … thì thấy vầng trăng xuất hiện
ở đây mới ở dạng vật thể, có hình khối chưa rõ hình lượng và hình sắc. Tới lúc "Đợi
gió đông về để lả lơi" thì tình cảm mới thực sự được chuyển hóa, vầng
trăng - vật thể chuyển sang dạng sinh thể và do vậy, khi đó trăng mới được mang
tên gọi giống con người, chị Hằng. Và cuối cùng khi tên gọi "nguyệt"
được sử dụng là lúc vầng trăng hiện diện gần nhất, rõ ràng về hình sắc nhất: trần
truồng tắm. Đúng là nếu để trăng trần truồng tắm thì mới là cách tả màu mè
và không họa rõ được hình sắc. Trăng phải phô bày thế nào mới toát lên vẻ trần
truồng?
Còn nói, chị Hằng trần truồng tắm thì thiếu lễ độ, chẳng mấy ý vị nữa. Chỉ có tả "bóng nguyệt trần truồng tắm" mới thật thích hợp. Vì từ "nguyệt" gợi lên hình ảnh đối tượng con người tuổi trẻ. Với lẽ chữ ấy, hình ảnh khỏa thân lồ lộ kia mới có ý vị. (Tất nhiên, cách sử dụng từ ngữ ở bài thơ này ít nhiều còn tính đến niêm luật bằng trắc của thể loại).
Còn nói, chị Hằng trần truồng tắm thì thiếu lễ độ, chẳng mấy ý vị nữa. Chỉ có tả "bóng nguyệt trần truồng tắm" mới thật thích hợp. Vì từ "nguyệt" gợi lên hình ảnh đối tượng con người tuổi trẻ. Với lẽ chữ ấy, hình ảnh khỏa thân lồ lộ kia mới có ý vị. (Tất nhiên, cách sử dụng từ ngữ ở bài thơ này ít nhiều còn tính đến niêm luật bằng trắc của thể loại).
Hình thơ thì lộ, tình thơ thì bạo mà giọng thơ lại khá ỡm ờ.
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được …
Em sợ lang quân em biết được …
Cung cách sống lưỡng lự, đôi đường này có lẽ, nó là một thuộc
tính người. Con người thời kỳ Hàn Mặc Tử sống càng dễ mang tính cách này. Đó là
thời kỳ đời sống xã hội - văn hóa - tinh thần đứng trước sự giao thoa, sự mâu
thuẫn giữa hai nền văn hóa Đông - Tây. Trong dòng chẩy của nghệ thuật thơ ca,
cuộc cách tân thi pháp đang diễn ra và nó còn gặp nhiều trở ngại từ phía quan
niệm nghệ thuật truyền thống. Sự ngập ngừng, lưỡng lự vừa muốn được tự do hiện
mình vừa ít nhiều còn e dè nghi ngại về quan niệm đạo đức cũng như về tư cách
nghệ thuật.
Phải chăng, BẼN LẼN vừa mang tính cách hồn nhiên của thi pháp
Hàn Mặc Tử, vừa mang ý đồ thể hiện sự lưỡng lự dấn thân, hiến thân của tư tưởng
văn hóa và nghệ thuật của cả xã hội đương thời?.
Đỗ Trọng Khơi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét