Thơ mới và tiểu thuyết Tự Lực
văn đoàn
Ra đời cách đây vừa tròn 80
năm, Phong trào Thơ mới và những tác phẩm tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn
đoàn đã chứng tỏ một sức sống dài lâu trong lòng công chúng Việt Nam. Thời gian
trôi qua, có những giá trị được xác định lại, có giá trị được đề cao, cho thấy
nghiên cứu về Thơ mới và Tự lực văn đoàn bao giờ cũng có sức thu hút riêng.
Từ góc nhìn của tiếp nhận văn học, có thể đặt ra vấn đề sự tiếp nhận của công
chúng văn học đương đại, đặc biệt là công chúng trẻ đối với Thơ mới và tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn hiện nay như thế nào. Thế kỷ XX ghi nhận sự ra đời của
hàng loạt các lý thuyết nghiên cứu văn học và ảnh hưởng của chúng đều kéo dài
xuyên suốt từ thế kỷ XX bước sang cả thế kỷ XIX. Khởi đi từ chủ nghĩa hình thức
Nga, trường phái ngữ văn Đức, chủ nghĩa cấu trúc, hậu cấu trúc…, cho đến lý
thuyết tiếp nhận văn học, việc nghiên cứu văn học đã có những phương pháp mới,
khác với việc phê bình, bình luận văn học theo kiểu cổ điển, trong số đó, lý
thuyết tiếp nhận văn học được đánh giá là sự bổ sung quan trọng cho việc xây dựng
lịch sử văn học. Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác
nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một
điểm chung quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử
dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực
tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau. Nhấn mạnh vai trò của
độc giả trẻ tuổi trong việc tiếp nhận Thơ mới và Tự lực văn đoàn, chúng tôi đã
thực hiện một cuộc điều tra văn học trên quy mô nhỏ qua mạng. Chúng tôi đặt vấn
đề tìm hiểu độc giả trẻ tuổi vì đây là lớp công chúng đọc có điều kiện tiếp cận
với nhiều dòng văn học cả ở Việt Nam lẫn nước ngoài, đồng thời cũng là lớp người
có điều kiện tiếp cận với nhiều phương tiện thông tin giải trí ngoài văn học.
Do vậy, việc họ tiếp nhận Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, hai hiện tượng
văn học có tuổi đời gần 100 năm như thế nào sẽ đặt ra nhiều vấn đề thú vị trong
tâm lý tiếp nhận.
Chúng tôi sử dụng phương
pháp nghiên cứu liên ngành, kết hợp giữa phương pháp điều tra xã hội học và
phương pháp nghiên cứu văn học. Cụ thể là những phương pháp như sau:
- Sử dụng phương pháp điều
tra xã hội học với các cuộc phỏng vấn định lượng và định tính, chọn mẫu điển
hình với 300 đối tượng là người đọc ở độ tuổi từ 18 - 30, tỉ lệ giới tính cân bằng,
sống tại TPHCM, Hà Nội và 8 tỉnh thành khác là Cần Thơ, Bến Tre, Đà Nẵng, Hà
Tĩnh, Hải Phòng, Thái Bình, Yên Bái, Lai Châu. Các địa phương được lựa chọn có ở
cả ba miền Bắc, Trung, Nam, cả ở vùng đồng bằng, thành phố biển, vùng miền núi.
Nghề nghiệp là học sinh phổ thông, sinh viên, công nhân, viên chức nhà nước,
kinh doanh và nghề tự do chiếm tỉ lệ đồng đều nhau, mỗi nghề nghiệp là 50 người.
Đặc biệt, chúng tôi thử nghiệm
kiểu phỏng vấn qua mạng dưới hình thức mở một biểu mẫu trên Google Docs (một ứng
dụng thực tiễn của nhà cung cấp dịch vụ Google nhằm phục vụ các cuộc điều tra,
khảo sát) và trên email để lấy ý kiến của cộng đồng các bạn trẻ với mục đích muốn
tìm hiểu xem trong thời đại bùng nổ internet hiện nay, sự tiếp nhận của các bạn
đối với những giá trị văn học của một thời đại đã qua là như thế nào.
1. Sự hiểu biết và quan tâm
của bạn đọc trẻ tuổi đối với phong trào Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
1.1.
Sự hiểu biết và quan tâm chung của bạn đọc trẻ tuổi đối với phong trào Thơ mới
và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
Theo khảo sát của chúng tôi,
các bạn trẻ khi tốt nghiệp trung học phổ thông thì đều có biết về phong trào
Thơ mới thông qua các bài như sau trong chương trình học Ngữ văn lớp 11:
- Khái
quát về văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
- Học
các bài thơ: Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây
thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Đọc
thêm các bài thơ: Tương tư của Nguyễn Bính, Chiều xuân của
Anh Thơ
- Học Một
thời đại trong thi ca trong tác phẩm Thi nhân Việt Nam của Hoài
Thanh – Hoài Chân.
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
không được học trong chương trình trung học phổ thông, ngoài trừ phần học về
tác giả Thạch Lam với truyện ngắn Hai đứa trẻ. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp
11 có nói Thạch Lam là nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn và không giải thích
gì thêm.
Trước đó, trong chương trình
học Ngữ văn năm lớp 8, có đề cập đến hai bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ
và Ông đồ của Vũ Đình Liên.
Do vậy, với câu hỏi riêng có
biết gì về phong trào Thơ mới có đến 93% các bạn trẻ trả lời rằng có biết. Số
7% không biết tập trung vào các bạn trẻ làm nghề công nhân hoặc nghề tự do.
Chúng tôi cho rằng sở dĩ có tỉ lệ cao 93% này là do các bạn trẻ đã được học về
Thơ mới trong nhà trường phổ thông. Trong số có biết về phong trào Thơ mới thì
con số học trong nhà trường phổ thông là 78%, 2% là học trong nhà trường đại học
do là sinh viên chuyên ngành Ngữ văn. Độc giả trẻ biết Thơ mới qua sách báo là
11% và biết qua mạng internet là 9%. Như vậy dù chiếm một tỉ lệ nhỏ, điều ấy
cũng nói lên rằng ở thời hiện đại, với sự bùng nổ thông tin giải trí trên mọi
lĩnh vực, Thơ mới vẫn có một vị trí nhất định trong lòng độc giả trẻ thông qua
một phương thức tiếp nhận truyền thống là sách báo. Đây là điều đáng ghi nhận
trong tình hình văn hóa đọc bị kêu ca là có bước thụt lùi so với trước đây.
Nhưng khi được hỏi chung xem có biết cả phong trào Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn thì số lượng độc giả tụt xuống còn 18%. Điều này chứng tỏ tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn không có một sức sống mạnh mẽ như phong trào Thơ mới. Chúng tôi
có thể lý giải nguyên nhân là do chương trình dạy Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông không đề cập đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Mặt khác, trên bình diện xã
hội, nếu tìm kiếm trên nhà dịch vụ Google thì với từ khóa “thơ mới” thì cho ra
con số 119.000.000 kết quả, trong khi với từ khóa “tiểu thuyết Tự lực văn đoàn”
thì cho ra con số khiêm tốn hơn nhiều với 2.120.000 kết quả. Điều này cũng cho
thấy mức chênh lệch giữa sự phổ biến Thơ mới và tiểu thuyết tự lực văn đoàn
trên mạng internet.
15% bạn đọc trẻ tuổi cho rằng
có thích Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. 15% cho rằng không thích. Số
lượng chỉ thích Thơ mới là 67%, số lượng chỉ thích tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
là 3%. Lý giải cho điều này có lẽ không ngoài quy luật tâm lý về tiếp nhận văn
học. Ít nhất là phong trào Thơ mới đã được học trong nhà trường và được biết đến
nhiều với đặc trưng dễ thuộc, dễ hiểu, giàu cảm xúc, trong khi đó tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn thì ít được phổ biến hơn, do việc xuất bản, truyền bá cũng ít hơn
Thơ mới.
1.2. Sự hiểu biết của bạn
đọc trẻ tuổi đối với phong trào Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thông
qua những tác giả và tác phẩm cụ thể
Có thể nhận định ngay rằng yếu
tố được học trong nhà trường phổ thông đã chi phối rất nhiều đến việc bạn đọc
trẻ tuổi có biết hay không biết gì về những tác giả và tác phẩm cụ thể của
phong trào Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Bởi lẽ khi được yêu cầu kể
tên những nhà thơ mới thì hầu hết độc giả trẻ tuổi đều chọn Xuân Diệu, Huy Cận,
Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử là những tác giả quen thuộc đối với mình, trong đó nhiều
nhất là nhà thơ Xuân Diệu với 86%, sau đó là nhà thơ Nguyễn Bính với 81%. Ở những
vị trí thấp hơn lần lượt là Huy Cận (78%), Hàn Mặc Tử (76%), Chế Lan Viên
(44%), Thế Lữ (42%), Vũ Đình Liên (41%), Lưu Trọng Lư (38%)… Đặc biệt một nhà
thơ mà hiện giờ vẫn còn trong vòng bí ẩn, chưa rõ nhân thân là T.T.KH cũng được
nhắc đến với tỉ lệ 25%. Trường hợp của Thế Lữ và Vũ Đình Liên có tỉ lệ % tương
đối cao là do trong chương trình Trung học cơ sở năm lớp 8 có học về hai bài
thơ Nhớ rừng của Thế Lữ và Ông đồ của Vũ Đình Liên.
Khi được hỏi về những tác phẩm
Thơ mới mà độc giả có biết đến, những câu trả lời cũng tập trung vào những bài
học trong nhà trường phổ thông với các bài Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng
giang của Huy Cận, Tương tư của Nguyễn Bính, Ông đồ của
Vũ Đình Liên, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, đều chiếm tỉ lệ trên
50%. Chứng tỏ đây là những bài Thơ mới quen thuộc nhất với số đông độc giả trẻ
tuổi.
Về tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn, có thể nói ngay rằng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ít được biết đến hơn so
với Thơ mới. Hai tên tuổi được biết đến nhiều nhất là Nhất Linh (15%), Khái
Hưng (14%), sau đó ở một khoảng cách là Hoàng Đạo (3%). Những cuốn tiểu thuyết
được biết đến nhiều nhất theo thứ tự lần lượt là Nửa chừng xuân của
Khái Hưng (19%), Đoạn tuyệt của Nhất Linh (15%), Hồn bướm mơ
tiên của Khái Hưng (12%), Gánh hàng hoacủa Khái Hưng (11%). Việc
không được học trong nhà trường và chỉ biết đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
quan qua sách báo và qua mạng, rõ ràng đã có ảnh hưởng đến quá trình tiếp
nhận của người đọc trẻ tuổi, khiến cho họ ít biết đến những tác giả và tác phẩm
tiểu thuyết Tư lực văn đoàn so với các nhà thơ của phong trào Thơ mới.
1.3. Đặc trưng tiếp nhận Thơ
mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn của độc giả trẻ dựa trên nhóm tuổi, nghề
nghiệp
Chúng tôi tạm các đối tượng
khảo sát phân thành hai nhóm tuổi: từ 18 đến 23 tuổi và từ 24 đến 30 tuổi với mặc
định rằng nhóm tuổi từ 18 đến 23 chủ yếu là các bạn học sinh phổ thông và sinh
viên, còn lứa tuổi từ 24 đến 30 chủ yếu là đã đi làm.
Với nhóm tuổi từ 18 đến 23,
họ cũng quan tâm đến Thơ mới nhiều hơn Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Con số
thích thơ mới ở lứa tuổi này là 88%, trong khi đó thích tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn chỉ có 3%. Ở nhóm tuổi từ 24 đến 30, con số này có chênh lệch khác hơn với
tỉ lệ thích Thơ mới là 67%, và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là 2%. Có thể thấy, ở
độ tuổi nào thì tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng không được quan tâm nhiều lắm,
trong khi có xu hướng càng nhiều tuổi hơn, các bạn trẻ lại ít thích Thơ mới
hơn. Có lẽ những bài thơ mới được học trong nhà trường phổ thông đã là động lực
để các bạn trẻ ham thích và tìm hiểu thêm những bài thơ mới khác. Trong khi đó ở
độ tuổi lớn hơn, các bạn trẻ có nhiều mối quan tâm khác hơn là đến một giá trị
văn học đã tồn tại cách đây khá lâu.
Riêng đối với đối tượng công
nhân và làm nghề tự do, con số quan tâm đến Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn chỉ có 6,5%. Điều này chứng tỏ những giá trị văn chương của Thơ mới và tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn vẫn không được phổ cập nhiều ở một tầng lớp nghề nghiệp
đặc thù là chủ yếu sử dụng lao động tay chân trong xã hội. Trong khi đó, ở tầng
lớp trí thức (học sinh, sinh viên, viên chức nhà nước, kinh doanh) thì mức độ
biết đến Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cao hơn hẳn, với tỉ lệ là 61%.
Như vậy, sự phân tầng độc giả trong xã hội là rõ rệt trên phương diện tiếp nhận
văn học, cụ thể là qua hai hiện tượng văn học: Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn.
Chúng tôi có những bảng thống kê dưới đây:
Bảng 1: Mức độ ưa thích Thơ
mới của độc giả trẻ tuổi
a. Lời thơ hay và có nhiều
cảm xúc
|
91%
|
b. Âm điệu du dương, dễ nhớ,
dễ thuộc
|
68%
|
c. Có nhiều tên tuổi lớn
|
21%
|
d. Phù hợp tâm trạng
|
56%
|
Bảng 2: Mức độ ưa thích tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn của độc giả trẻ tuổi
a. Có cốt truyện, nội dung
hay
|
35%
|
b. Các nhân vật hấp dẫn
|
20%
|
c. Phản ánh được cuộc sống
của một thời đại đã qua
|
53%
|
d. Nêu được những giá trị
đạo đức
|
48%
|
Ở bảng 1 (Mức độ ưa thích Thơ mới của độc giả trẻ tuổi), chúng tôi nhận thấy rõ
yếu tố lời thơ hay và có nhiều cảm xúc là yếu tố quan trọng nhất, chiếm tỉ lệ
91% Trong khi đó, không nhiều độc giả quan tâm đến tên tuổi của nhà thơ, chỉ
chiếm tỉ lệ 21%. Trong những phỏng vấn sâu (mang tính chất định tính) để làm rõ
thêm những vấn đề quanh bảng hỏi, hầu hết các bạn trẻ đều thừa nhận mình có nhớ
ít nhiều những câu thơ mới, nhưng lại không quan tâm những câu thơ mới đó là của
tác giả nào. Trong khi đó, ở bảng 2 tiểu thuyết Tự lực văn đoàn lại được yêu
thích nhờ yếu tố chủ đạo là phản ánh được cuộc sống của một thời đại đã qua,
chiếm tỉ lệ 53%. Như vậy, theo đúng quy luật của thể loại, yếu tố cảm xúc của
Thơ mới giúp nó “ghi điểm” trong lòng người đọc. Còn đối với tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn, yếu tố phản ánh cuộc sống đã qua lại là yếu tố chính khiến nó gây ấn
tượng với độc giả trẻ tuổi.
Đáng lưu ý là việc phần lớn độc giả trẻ tuổi không đánh giá cao sức hấp dẫn của
nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, chỉ 20% cho rằng nhân vật có sức hấp
dẫn. Trong các phỏng vấn định tính, họ đều cho rằng những nhân vật này có phần
lên gân thái quá và không có thực ngoài đời sống. Vì vậy khi được hỏi về tên
nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, chỉ có 2% bạn trẻ được hỏi nhớ tên
các nhân vật, trong đó nhân vật bà Án trong tác phẩm Nửa chừng xuân của
Khái Hưng chiếm tỉ lệ 21%, thứ hai là nhân vật Loan trong tác phẩmĐoạn tuyệt của
Nhất Linh chiếm tỉ lệ 18%, còn lại những nhân vật khác có tỉ lệ không đáng kể.
Yếu tố đạo đức trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng được coi trọng, chiếm tỉ
lệ 48%. Có lẽ trong ấn tượng của những độc giả trẻ tuổi, ấn tượng về tiểu thuyết
Tự lực không phải là những câu chuyện tình yêu, mà là hiện thực đời sống và những
vấn đề đạo đức đặt ra trong tác phẩm.
Bảng 3: Mức độ không thích
Thơ mới của độc giả trẻ tuổi
a. Lời thơ cổ, hình ảnh cũ
|
86%
|
b. Có cảm giác sến, ướt
át, không thực tế
|
45%
|
c. Nhiều bài thơ có nội
dung và chủ đề trùng lặp
|
23%
|
d. Không phù hợp với cuộc
sống hiện đại
|
40%
|
Bảng 4: Mức độ không thích
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn của độc giả trẻ tuổi
a. Lời văn cũ kỹ, không hợp
thời đại
|
95%
|
|
b. Nội dung dở, không thu
hút
|
50%
|
|
c. Cách dàn dựng cốt truyện,
kỹ thuật viết văn vụng về
|
43%
|
|
d. Nêu những vấn đề không
hợp với thời đại ngày nay
|
46%
|
|
Ở bảng 3 cho thấy trên một
phương diện ngược lại, Thơ mới không được ưa thích do lời thơ cổ, hình ảnh cũ,
chiếm tỉ lệ cao nhất là 86%. Chiếm tỉ lệ ít nhất là 23% độc giả trẻ tuổi cho rằng
nhiều bài thơ có nội dung và chủ đề trùng lặp. Khá cân bằng với nhau, lần lượt
chiếm tỉ lệ 45% và 40% là hai quan niệm cho rằng Thơ mới mang nội dung sến, ướt
át, không thực tế và không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại. Tương tự, tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn bị chê là lời văn cũ kỹ, không hợp với thời đại, chiếm tỉ
lệ đến 95%. Ba yếu tố còn lại (nội dung dở, không thu hút; cách dàn dựng cốt
truyện, kỹ thuật viết văn vụng về; nêu những vấn đề không hợp với thời đại ngày
nay) đều chiếm tỉ lệ tương đương nhau, lần lượt là 50%, 43%, 46%. Đặc biệt khi
phỏng vấn định tính, nhiều bạn đọc trẻ tuổi thống nhất ý kiến cho rằng những vấn
đề mà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nêu ra (chuyện tình yêu, chuyện lễ giáo phong
kiến…) đã quá lạc hậu so với thời hiện đại, và đấy là nguyên nhân khiến họ
không có hứng thú đối với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nữa.
3. Một số kết luận từ cuộc
điều tra
3.1. Chưa thể nói là thật khoa học hay chính xác, cũng chưa được triển khai
trên một quy mô rộng lớn, do vậy, những con số nêu trên chỉ phản ánh được phần
nào hiện tượng tiếp nhận Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn của những độc
giả trẻ tuổi, sống ở 10 tỉnh thành trên cả nước.
3.2. Những con số định lượng và nội dung phỏng vấn sâu (phỏng vấn định tính)
cho thấy vai trò lớn của nhà trường phổ thông đối với việc hướng sự tiếp nhận
cũng như cung cấp một “tầm đón nhận” (chữ dùng của lý thuyết tiếp nhận văn học)
phù hợp với số đông độc giả trẻ tuổi. Không phải ngẫu nhiên mà 79% độc giả đồng
tình với việc tăng thêm thời lượng giảng dạy Thơ mới trong nhà trường phổ
thông, chỉ có 11% phản đối và 10% đề nghị giữ nguyên thời lượng. Ở một mức độ
kém hơn, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng được hưởng những ý kiến tích cực khi
48% cho rằng cần dạy tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trong nhà trường, 37% cho rằng
không nên và 15% không có ý kiến. Đây là những ý kiến đáng để cho các nhà quản
lý giáo dục, các nhà biên soạn sách giáo khoa lưu tâm khi tiến hành chương
trình soạn sách giáo khoa ở nhà trường cấp trung học cơ sở và trung học phổ
thông.
3.3. Cách nhìn nhận của độc
giả trẻ tuổi nghĩ về những người cùng thời với mình, tiếp nhận phong trào Thơ mới
và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có thể nói là một cái nhìn lạc quan (đối với Thơ
mới) và dè dặt, thận trọng (đối với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn) thông qua hai
bảng thống kê sau:
Bảng 1: Cách nhìn nhận của độc
giả trẻ về Thơ mới
Cách nhìn nhận của độc giả
trẻ về Thơ mới
|
|
Rất thích
|
5%
|
Thích
|
58%
|
Thích vừa phải
|
22%
|
Không thích
|
15%
|
Không quan tâm
|
0%
|
Bảng 2: Cách nhìn nhận của độc
giả trẻ về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
Cách nhìn nhận của độc giả
trẻ về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
|
|
Rất thích
|
0%
|
Thích
|
15%
|
Thích vừa phải
|
12%
|
Không thích
|
30%
|
Không quan tâm
|
43%
|
Hai bảng thống kê trên cho
thấy, khi Thơ mới đã có chỗ đứng khá vững chắc trong lòng độc giả trẻ tuổi, thì
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn vẫn là một dấu hỏi lớn về tính phổ cập. Do vậy, việc
đẩy mạnh truyền bá, tiến hành giảng dạy, nghiên cứu, đưa tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn đến với số đông công chúng trẻ tuổi là điều cần phải nghiêm túc đặt ra.
3.4. Quy mô của cuộc điều tra này cần phải được tiếp tục tiến hành mở rộng cả về
phần định tính và định lượng, để có thể tiến tới một kết luận mang tính khoa học
về sự tiếp nhận Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ở độc giả trẻ Việt Nam,
những người sẽ còn nhiều năm tháng, nhiều thời gian gắn bó với văn học Việt Nam
với tư cách là người đọc hứa hẹn nhiều tiềm năng.
PHỤ LỤC
BẢNG HỎI KHẢO SÁT Ý KIẾN ĐỘC
GIẢ TRẺ TUỔI VỀ PHONG TRÀO THƠ MỚI VÀ TIỂU
THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
Chúng tôi đang tiến hành một
cuộc khảo sát về độc giả trẻ trong sự tiếp nhận phong trào Thơ mới của tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn. Mục đích của bảng phỏng vấn là để phục vụ việc nghiên cứu.
Mọi thông tin về người trả lời bảng phỏng vấn đều không được công bố.
Xin các anh (chị) vui lòng
trả lời những câu hỏi sau (đánh dấu gạch chéo X vào ô vuông).
1. Anh (chị) có bao giờ nghe
đến phong trào Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn?
a. Có c b. Không c
c. Chỉ biết Thơ mới c d. Chỉ biết tiểu thuyết Tự lực văn đoàn c
(Nếu trả lời mục a, c, d mời
anh (chị) trả lời tiếp câu 2)
2. Anh (chị) biết Thơ mới và
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là do:
a. Học trong trường phổ
thông c
b. Học trong trường đại học c
c. Đọc trong sách, báo c
d. Đọc trên mạng c
e. Khác c
3. Anh (chị) có thích Thơ mới
và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn không?
a. Thích c b. Không thích c
c. Chỉ thích Thơ mới c d. Chỉ thích tiểu thuyết Tự lực văn đoàn c
4. Anh chị thích Thơ mới vì
(có thể chọn nhiều mục):
a. Lời thơ hay và có nhiều cảm
xúc c
b. Âm điệu du dương, dễ nhớ,
dễ thuộc c
c. Có nhiều tên tuổi lớn c
d. Phù hợp tâm trạng c
5. Anh (chị) thích tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn vì (có thể chọn nhiều mục):
a. Có cốt truyện, nội dung
hay c
b. Các nhân vật hấp dẫn c
c. Phản ánh được cuộc sống của
một thời đại đã qua c
d. Nêu được những giá trị đạo
đức c
6. Anh (chị) không thích Thơ
mới vì (có thể chọn nhiều mục):
a. Lời thơ cổ, hình ảnh cũ c
c. Nhiều bài thơ có nội dung
và chủ đề trùng lặp c
d. Không phù hợp với cuộc sống
hiện đại c
7. Anh (chị) không thích tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn vì (có thể chọn nhiều mục):
a. Lời văn cũ kỹ, không hợp
thời đại c
b. Nội dung dở, không thu
hút c
c. Cách dàn dựng cốt truyện,
kỹ thuật viết văn vụng về c
d. Nêu những vấn đề không hợp
với thời đại ngày nay c
8. Anh (chị) thích những bài
thơ nào của các tác giả Thơ mới, hãy kể tên (có thể chọn nhiều bài).
9. Anh (chị) thích những tác
giả nào của Thơ mới, hãy kể tên (có thể chọn nhiều tác giả).
10. Anh (chị) thích những cuốn
tiểu thuyết nào của nhóm Tự lực văn đoàn, hãy kể tên (có thể chọn nhiều tiểu
thuyết).
11. Anh (chị) thích những
tác giả tiểu thuyết nào trong nhóm Tự lực văn đoàn, hãy kể tên (có thể kể nhiều
tác giả)
12. Anh (chị) có nhớ tên
nhân vật nào trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, hãy kể tên (có thể kể nhiều tên
nhân vật).
13. Theo anh (chị), công
chúng trẻ tuổi bây giờ có thái độ như thế nào đối với phong trào Thơ mới?
a. Rất thích c b. Thích c
c. Thích vừa phải c d. Không thích c
e. Không quan tâm c
14. Theo anh (chị), công
chúng trẻ tuổi bây giờ có thái độ như thế nào đối với tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn?
a. Rất thích c b. Thích c
c. Thích vừa phải c d. Không thích c
e. Không quan tâm c
15. Theo anh (chị), có nên tăng
cường thêm thời lượng giảng dạy Thơ mới trong nhà trường phổ thông hiện nay:
a. Nên c
b. Không nên c
c. Giữ nguyên c
16. Theo anh (chị), có nên bổ
sung thêm việc giảng dạy tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trong nhà trường phổ thông
hiện nay:
a. Nên c
b. Không nên c
c. Không ý kiến c
Anh (chị) vui lòng cho biết
đôi điều về bản thân:
Năm nay anh (chị) bao nhiêu
tuổi:
Anh (chị) sống ở tỉnh (thành
phố) nào:
Nghề nghiệp hiện nay của anh
(chị):
Xin cảm ơn anh (chị) đã trả lời các câu hỏi.
Tài liệu tham khảo
1. G.
Endruweit và G.Trommsdorg (2002), Từ điển xã hội học, (Ngụy Hữu Tâm
và Nguyễn Hoài Bão dịch từ nguyên bản tiếng Đức), Nxb, Thế giới, Hà Nội.
2. Vũ
Quang Hà (2002), Các lý thuyết xã hội học. 2 tập. Nxb. Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
3. Đào
Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại. Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
4. Thanh
Lê (2004), Xã hội học. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Phương
Lựu (1999), Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương Tây đương đại. Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
6. Phương
Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX. Nxb. Văn học-Trung
tâm văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
7. Nhiều
tác giả (2011), Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11. 2 tập. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
8. Vũ
Ngọc Phan (2005). Nhà văn hiện đại. 2 tập. Nxb Văn học, HN.
9. Phạm
Văn Quyết (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học. Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội.
10. Phạm
Xuân Thạch (2009), Ba thập niên đầu thế kỷ XX và sự hình thành “trường văn
học” ở Việt Nam. In trong tuyển tập chuyên khảo do Viện Harvard-Yenching
tài trợ, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
11. Hoài
Thanh – Hoài Chân (2008), Thi nhân Việt Nam. Nxb. Văn học, Hà Nội.
12. Lộc
Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lý luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ
XX. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Hà Thanh Vân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét