Tiếp nhận Khái Hưng ở miền
Nam trước 1975
Khái Hưng (1896-1947) là một
trong những nhà văn trụ cột của Tự lực văn đoàn. Cùng với một vài nhà văn chủ
chốt trong Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Thạch Lam, Xuân Diệu, Khái Hưng được
tiếp nhận ở miền Nam từ khá sớm.
Trong bài viết này, chúng
tôi xin lược thuật và lược bàn về sự tiếp nhận tác phẩm của Khái Hưng. Đối tượng
tiếp nhận ở đây là các nhà nghiên cứu, phê bình, các trí thức văn nghệ chứ
không phải công chúng độc giả phổ thông mà theo chúng tôi, là bộ phận hết sức
quan trọng trong lịch sử tiếp nhận cần được khảo sát riêng trong một công trình
độc lập. Ngoài ra, danh từ Miền Nam xin được hiểu là không chỉ bó hẹp vào khoảng
giai đoạn 1954-1975 mà rộng ra là phương Nam của tổ quốc (bao gồm cả giai đoạn
từ năm 1932 đến 1945 - vốn được định danh là Nam Bộ).
1. Ở chặng đường trước
năm 1945, ngay cả khi đã thành danh với số lượng tác phẩm phong phú và khi Khái
Hưng còn tại thế, sáng tác của ông đã có tiếng vang ở miền Bắc nhưng chưa có sức
lan toả tương ứng ở miền Nam, tổng cộng các bài phê bình về Khái Hưng ở miền
Nam cũng rất khiêm tốn. Có thể kể đến các bài viết về vở kịch Đồng bệnh,
tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Gánh hàng hoa của các bình giả Kiều
Thanh Quế (1914-1947), Thiếu Sơn (1907-1977) và Trúc Hà (1909-1944?) trên Tạp
chíTri tân ở Hà Nội và báo Sống ở Sài Gòn.
Trên báo Sống, số 1 năm
1935, Thiếu Sơn đã phê bình tiểu thuyết Nửa chừng xuân. Đây là một trong
những bài phê bình xuất hiện tương đối sớm về tác phẩm này không chỉ ở miền Nam
mà còn cả nước. Thiếu Sơn đã có những so sánh giữa Hồn bướm mơ tiên và Nửa
chừng xuân. Theo ông, tình yêu trong Hồn bướm mơ tiên là tình yêu
“bình tĩnh, siêu phàm”, là thứ ái tình “ngoài xã hội”. Trái lại, tình yêu trong Nửa
chừng xuân là tình yêu đời thường, giữa “nhân quần nên nó có vẻ ba đào thống
thiết”. Nhân vật Mai cao thượng chẳng kém gì Lan, nhưng “cô không được tự do, tự
chủ như chú tiểu. Cô còn có nhiều thân tình, nhiều nghĩa vụ, thì cô còn phải sống
trong xã hội mà chịu những khổ hình của nó”. Giải thích vì sao Mai phải khổ,
nhà phê bình trao đổi:
“Nhiều người nói là tại bà
Án không cho Lộc lấy Mai. Nhưng ông Khái Hưng lại không nói thế. Ông nói rằng:
bản tâm bà Án không ác, nhưng sự giáo hoá mà bà đã được hưởng nó bắt bà phải xử
một cách tàn nhẫn với Mai. Chính ông đã để vào miệng Lộc những câu nói sau này:
‘Bao nhiêu sự lầm lỗi của mẹ ta nguyên chỉ ở chỗ quá suy tôn cổ tục, quá thiên
trọng tập quán mà ra cả’”. Nhận xét sức hấp dẫn của Nửa chừng xuân, Thiếu
Sơn cho rằng không chỉ đơn thuần ở mặt nội dung mà chính là nghệ thuật: “Nửa chừng
xuân được thiên hạ hoan nghinh không phải vì cái triết lý cao thâm mà
chính vì câu chuyện đậm đà có duyên, nhờ ở tài sáng tạo, nhờ ở cách kết cấu và
nhất là nhờ ở cái văn thể vừa sáng sủa, dịu dàng, vừa thần tình linh hoạt”(1).
Tiếp nối, trên báo Sống,
số 2 năm 1935, Thiếu Sơn phê bình Gánh hàng hoa - tác phẩm viết chung
của Nhất Linh và Khái Hưng. Thiếu Sơn cho rằng tác giả Gánh hàng hoa là
những nhà văn lý tưởng:
“Lý tưởng nên các ông miêu tả
những cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên, những tính tình trong sạch của nhân loại
(…) Bởi thế nên đọc sách của các ông Khái Hưng và Nhất Linh ta mới chỉ biết đời
có một nửa, biết cái nửa cao thượng mà không biết cái nửa xấu xa. Nhưng có lẽ
các ông lại nghĩ rằng những sự yếu hèn của nhân loại ở đời thiếu gì mà cần phải
nói thêm nữa? Còn những đức tính thanh cao, những tình cảm trong sạch mới là những
điều nên nói, nên tả để cảm hoá lòng người” (2).
Nhà văn Trúc Hà, một trong
“Hà Tiên tứ tuyệt” và là cây bút trụ cột của báo Sống, trong bài viết Cái
hay và cái dở của Tự lực văn đoàn - một văn phái mới trong nền văn học nước ta đăng
trên báo Sống, số 28 năm 1935 đã có những nhận xét về tiểu thuyết Khái
Hưng. Trúc Hà cho rằng, hai quyển tiểu thuyết chính, quan trọng của Tự lực văn
đoàn chính là Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của
Khái Hưng. Theo nhà phê bình, trên phương diện cải cách xã hội, so với báo Nam
Phong thì Tự lực văn đoàn không có sự bao quát rộng rãi, sâu xa bằng,
nhưng được một điều là nó chuyên nhất. Mặt thành công, gây tiếng vang và có tác
động đến xã hội của nhóm này chính là ở phương diện văn chương. Văn chương Tự lực
văn đoàn góp phần làm cho người ta ghét những lề lối cũ, lạc hậu. Nhận xét về Nửa
chừng xuân của Khái Hưng, nhà phê bình viết:
“…Trận xung đột của gia đình
với cá nhơn bày ra thật rõ rệt. Người đọc lúc nào cũng cảm thấy những tư tưởng
hẹp hòi, nghiêm khắc thường khi lại độc ác, đê tiện của những hạng người chịu ảnh
hưởng của hoàn cảnh xưa và lúc nào cũng yêu đương Mai và Loan, hai cá nhơn hoàn
toàn bị bó buộc trong khuôn khổ gia đình cũ. Tự nhiên người ta sẵn lòng bênh vực
Mai, Loan, nhơn đó người ta ghét những lễ nghi phiền phức, những thói tục hủ bại
của thời trước và đem lòng hâm mộ những tư tưởng khoáng đạt, thanh cao, mĩ lệ rải
rác phô bày trong truyện”(3).
Ngoài viết truyện ngắn và tiểu
thuyết, Khái Hưng còn viết các vở kịch: Tục luỵ (1937), Cóc tía (1940), Đồng
bệnh(1942). Kịch của ông dù không thật đặc sắc như các truyện ngắn và tiểu thuyết
nhưng cũng đã gây được tiếng vang nhất định trong công chúng. Từ miền Nam, Kiều
Thanh Quế đã viết bài phê bình Đồng bệnh - kịch của Khái Hưng. Bài viết của
Kiều Thanh Quế đăng trên tạp chí Tri Tân ở Hà Nội năm 1942, cũng là
năm xuất bản tập kịchĐồng bệnh. Điều đó cho thấy sự cập nhật, bao quát của nhà
phê bình và phần nào tính chuyên nghiệp của nền phê bình hiện đại đầu thế kỷ
XX. Trong bài viết của mình, Kiều Thanh Quế đã so sánh phong cách kịch của Đoàn
Phú Tứ và kịch của Khái Hưng. Bình giả cho rằng, trong khi Đoàn Phú Tứ viết kịch
với tâm hồn của một thi sĩ thì Khái Hưng viết kịch với bộ óc của một nhà tiểu
thuyết; người đàn bà trong kịch của Đoàn Phú Tứ thường chủ động trong khi người
đàn ông đóng vai trò quan trọng ở kịch của Khái Hưng. Nhật xét nội dung Đồng
bệnh, nhà phê bình viết:
“Xem Đồng bệnh, hết nghị
Vấn rồi đến thông Đán, cùng với nhau ‘đồng bệnh tương lân’ gây nên lắm chuyện
buồn cười. Hai ông là sui gia với nhau. Vợ Nghị Vấn không gả con gái cho con
trai mình, thì mất cho con trai mình một cái mỏ tốt. Thông Đán giả mắc bệnh suy
nhược thần kinh như nghị Vấn. Vì thông Đán nghe mách rằng: ‘cái bệnh ấy, ai mà
đã mắc phải thì rất hay thương, hay yêu người mắc cùng bệnh với mình’. Thông
Đán đau giả, đập chén, đập bát; nhưng ‘chỉ đập toàn những bát đĩa xoàng thôi’.
Chớ cái lô cổ, cái thống cổ, ‘những thứ ấy hàng trăm bạc, ai dại gì mà đập!’.
Thông Đán điên mà không dại. ‘Điên khác, dại khác chứ’. Thảo nào thằng Sùng chẳng
phê bình ông với con Thục rằng: ‘dễ ông điên khôn đấy mày ạ!’. Độc giả cũng như
khán giả đọc đến đây, xem diễn đến đây, sao khỏi chẳng nhếch mép một nụ cười”(4).
Nhận xét, góp ý thẳng thắn,
Kiều Thanh Quế đã chỉ ra chỗ mạnh, sở trường của Khái Hưng không phải nơi địa hạt
kịch mà chính là tiểu thuyết:
“Đồng bệnh là một
hài kịch không lấy gì đặc sắc lắm (vả, kịch Khái Hưng thì bào giờ cũng chẳng đặc
sắc!) nhưng, không đến nỗi bị loại chung vào với các kịch của Vũ Trọng Can!
Ngòi bút Khái Hưng dồi dào lắm! Nhưng dồi dào đâu phải đồng nghĩa với đặc sắc?!
Khái Hưng viết tiểu thuyết diễm tình, gia đình: thành công không ai chối cãi được.
Bắt sang lịch sử tiểu thuyết, tác giả Tiêu sơn tráng sĩ vẫn còn đáng
trọng hơn Lan Khai. Nhưng trong phạm vi kịch bản, chúng tôi không làm sao khỏi
đặt Khái Hưng dưới Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ!”(5).
Nhìn chung, ở miền Nam trước
1945, tiếp nhận Khái Hưng chủ yếu là các bài phê bình tác phẩm. Sự tương thông
giữa các vùng miền đã cho phép báo chí, văn hoá và học thuật có sự giao lưu,
luân chuyển. Các bài phê bình gần như là đồng thời với những sáng tác của nhà
văn, cho thấy sự cập nhật của trí thức sống ở miền Nam đối với tác phẩm Khái
Hưng. Trong phê bình, các bình giả thường thiên về việc đọc nội dung xã hội và
luân lý của tác phẩm mà ít chú ý nhấn mạnh mặt nghệ thuật. Đây cũng là xu hướng
phê bình của nhiều cây bút ở miền Nam trước 1945. Những bài phê bình của Thiếu
Sơn, Kiều Thanh Quế và Trúc Hà có thể coi là những tiếng nói của những người
đương thời bàn về tác phẩm của Khái Hưng. Những ý kiến ấy không bị chi phối bởi
ý thức hệ và mang tính chất tươi mới, mở đầu cho diễn trình tiếp nhận tác phẩm
Khái Hưng về sau. Là ý kiến của những người đương thời, do vậy ít nhiều có tác
động đến sáng tác của Khái Hưng.
2. Theo thời gian, tác
phẩm của Khái Hưng càng được giới nghiên cứu phê bình chú ý. Theo tìm hiểu có
thể là chưa thật đầy đủ củ mình, chúng tôi thấy ở miền Nam trong khoảng từ 1954
đến 1975 có hơn 30 bài viết, công trình nghiên cứu phê bình dạng bài báo và sách
in đề cập đến con người và sáng tác của Khái Hưng(6). Các bài viết này có
thể phân thành 2 loại: cụm bài nghiên cứu phê bình về sáng tác và sự nghiệp văn
học của Khái Hưng và cụm bài có tính chất hồi tưởng những kỷ niệm của những người
cùng thời với nhà văn.
Cụm bài nghiên cứu, phê bình
về tác phẩm, sự nghiệp sáng tác của Khái Hưng có các bài viết đáng chú ý bao gồm
của Doãn Quốc Sĩ: Vài ý nghĩ về cuốn Trống mái (Luận đàm bộ I, số
1-1960) và Đọc Khái Hưng: Nửa chừng xuân (Luận đàm bộ I, số 5-1961);
Dương Nghiễm Mậu: Nhân nghĩ về Khái Hưng (Văn, số 22-1964); Đỗ Minh Vọng: Nhân
vị trong “Hồn bướm mơ tiên” (Đại học, số 4+5-1958); Nguyễn Duy Diễn: Mai,
một nhân vật khả ái của Khái Hưng (Hiện đại, số 3-1960); Nguyễn Văn Trung: Tình
yêu hiến dâng trong Hồn bướm mơ tiên trong Xây dựng tác phẩm tiểu
thuyết (Nam Sơn xuất bản, 1965); Nguyễn Xuân Thu: Khái Hưng nhà văn
sáng giá (Văn học, số 33-1965); Nhiều tác giả: Khái Hưng, thân thế và
tác phẩm (Nam Hà xuất bản, Sài Gòn, 1972); Phạm Thế Ngũ:Khái Hưng trong Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên (Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965); Thư
Trung: Khái Hưng thân thế và tác phẩm (Văn, số 22-1964);... ngoài ra
là những đánh giá về Khái Hưng của các nhà nghiên cứu khi họ viết về Tự lực văn
đoàn.
Hầu hết các tác phẩm của
Khái Hưng lần lượt được nhà sách Khai Trí phối hợp với nhà xuất bản Đời nay tái
bản:Nửa chừng xuân, Lời nguyền, Trống mái, Số đào hoa, Tục
luỵ, Cái ve, Hồn bướm mơ tiên, Tiếng suối reo, Thừa tự, Dọc
đường gió bụi, Đợi chờ, Đồng bệnh, Những ngày vui, Đẹp, Đội
mũ lệch, Thoát ly, Gia đình, Hạnh; những tác phẩm viết chung với
Nhất Linh như: Đời mưa gió, Gánh hàng hoa, Anh phải sống. Do vậy,
tiếp nhận tác phẩm Khái Hưng ở miền Nam giai đoạn từ 1954 đến 1975 được thuận lợi.
Tác phẩm Khái Hưng cùng với
Nhất Linh và Hoàng Đạo được đưa vào chương trình chính khoá trong trường phổ
thông ở miền Nam. Theo đó, các sách dạng “luận đề” về tác giả, tác phẩm của
Khái Hưng được biên soạn nhằm phục vụ cho việc học và thi của học sinh. Những
sách này phần lớn do các nhà giáo biên soạn và có tính chất của những sách giáo
khoa. Các tác giả viết sách luận đề về Khái Hưng có thể kể: Doãn Quốc Sĩ: Tự
lực văn đoàn(Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn, 1961); Chu Đăng Sơn: Luận đề về Đoạn
tuyệt, Nửa chừng xuân, Mười điều tâm niệm (Thăng Long xuất bản, Sài Gòn,
1960); Lê Hữu Mục: Khảo luận về Khái Hưng (Nửa chừng xuân, Hồn bướm
mơ tiên) (Trường Thi xuất bản, Sài Gòn 1958); Nguyễn Duy Diễn và Bằng
Phong: Luận đề về Khái Hưng (Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1960)… và
nhiều sách luận đề về Tự lực văn đoàn của các tác giả Văn Ninh, Xuân Tước, Nguyễn
Văn Xung có đề cập đến sự nghiệp sáng tác của Khái Hưng.
Cụm bài về những kỷ niệm, hồi
tưởng về Khái Hưng của bạn văn, trí thức cùng thời và người thân có thể kể: Hồ
Hữu Tường: Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái “văn chương sáng
giá” (Văn, số 22-1964) và Gửi mõ làng văn: về Khái Hưng (Văn, số
22-1964); Trần Khánh Triệu: Ba tôi (Khái Hưng) (Văn, số 22-1964);
Nguyễn Thạch Kiên: Vài kỷ niệm về Khái Hưng (Văn, số 22-1964); Mai
Chi: Khái Hưng trong tù (Văn, số 22-1964); Kim Tưởng: Khái Hưng
bị thủ tiêu vì hai câu đối (Phổ thông, số 19-1959)… Những bài hồi ức tập
trung trong tạp chíVăn (số 22 ra ngày 15-11-1964) số kỷ niệm nhà văn Khái
Hưng. Qua những hồi ức của bạn bè và người thân đã cho thấy Khái Hưng là nhà
văn say mê và rất cẩn trọng trong sáng tác, là người sống chân tình với bạn bè
và có nền tảng tri thức sâu rộng. Điều này cũng thể hiện phần nào trong sáng
tác của ông.
Tiếp cận tác phẩm Khái Hưng
từ góc độ thể loại là những bài viết của các tác giả Doãn Quốc Sĩ, Phạm Thế
Ngũ, Đỗ Minh Vọng, Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Văn Trung… Hồn bướm mơ tiên và Nửa
chừng xuân là hai tác phẩm được các nhà nghiên cứu phê bình chú ý nhất.
Bàn về nhân vật và quan niệm
con người, cuộc đời trong Hồn bướm mơ tiên, Nguyễn Văn Trung cho rằng mối
tình của Lan và Ngọc trong tác phẩm là tình yêu hiến dâng: “Đọc Hồn
bướm mơ tiên, người ta thấy một bầu không khí khác hẳn những Đoạn tuyệt, Lạnh
lùng… Trong phần lớn những tác phẩm của Tự văn đoàn, người ta đều tìm thấy ít
nhiều bầu không khí của Đoạn tuyệt, nghĩa là một sự tự giác, ý thức được
quyền lợi cá nhân và bi kịch là sự tranh chấp giữa quyền lợi cá nhân và nếp sống
khách quan cổ truyền khắt khe không nhìn nhận những quyền lợi đó (…) thiết tưởng
không thể gọi Hồn bướm mơ tiên là một biểu lộ của một quan niệm cá
nhân vị kỷ, vì cái tôi ở đây bị phủ nhận, những quyền lợi ‘chính đáng’ (muốn
yêu) được cao siêu hoá (sublimés)”(7).
Hồn bướm mơ tiên được Đỗ
Minh Vọng (R.P.Cras) nghiên cứu dưới góc nhìn của thuyết Nhân vị trong bài viết Nhân
vị trong ‘Hồn bướm mơ tiên’. Bài viết có đoạn:
“Tình yêu nhân vị khác hẳn
tình yêu điên cuồng của những kẻ chiều theo bản năng, thoái thượng quyền tự do
mà quy thuận chế độ tất nhiên của vũ trụ tự nội. Tình yêu đó để ràng buộc những
tâm hồn của hai người tự do không phải làm nô lệ tính mê. Tình yêu đó để gây ra
mối tương quan chặt chẽ giữa hai người đã tự suy tôn mình lên bậc chủ (tức là bậc
chủ vị). Tình yêu đó cũng có tính cách thanh bình vì hai người đã biết tự trị lấy
mình chứ không để tính mê lôi cuốn. Tình yêu đó còn có tính cách thực tế vì cả
hai người thấu hiểu tâm can của nhau để sống với thực tế chứ không sống trong
giấc mộng của lý tưởng suông hoặc giấc mộng của dục vọng. Tình yêu đó rất mực với
chân lý toàn diện. Phải, Lan làm thân con gái, nhưng đang ở trong địa vị như vậy,
cô sẽ hưởng ứng thiên triệu để xây dựng tương lai của mình. Ngọc là một trang
thanh niên, nhưng cũng đã tới trình độ đạo đức của bậc quân tử. Tình yêu của
hai người không có phần giả dối cả. Ngọc yêu Lan, như thanh niên yêu thiếu nữ,
và Lan lấy tư cách là con gái mà đem lòng quyến luyến cậu Ngọc. Tình yêu đó
hoàn toàn trong sạch, vì cả hai người đủ chí khí để tự khẳng định mình, để yêu
nhau trong vinh dự, tôn trọng nhau, tự trọng mình”(8).
Nhận xét về nhân vật nữ
trong các tiểu thuyết của Khái Hưng, Nguyễn Duy Diễn cho rằng:
“Khái Hưng đã để lại cho
chúng ta một số khá nhiều tiểu thuyết có giá trị mà trong đó phụ nữ đóng một
vai trò quan trọng, ví dụ: Lan trong Hồn bướm mơ tiên, Hiền trong Trống
mái, Hồng trong Thoát ly, v.v… Nhưng khả ái hơn cả có lẽ là nhân vật Mai
trong Nửa chừng xuân. Thực vậy, Lan tuy đẹp, nhưng cái đẹp của nàng là cái
đẹp mơ hồ, huyền ảo, chập chờn như hình ảnh xa xôi trong một giấc mộng; Hiền
tuy đẹp, nhưng cái đẹp của nàng là cái đẹp của một thiếu nữ tinh nghịch, lãng mạn,
mang nhiều sắc thái Tây phương nên đi trước thời đại và đã làm cho chúng ta đôi
khi phải bỡ ngỡ. Hồng tuy đẹp, nhưng cái đẹp của nàng là cái đẹp của một thiếu
nữ sống nghẹn ngào, u uất trong cảnh ‘gì ghẻ con chồng’. Do đó, nàng tiêu biểu
cho cái đẹp não nùng, đau khổ. Nàng có thể làm cho ta rung động, xót thương,
nhưng làm cho ta cảm phục hoặc yêu mến một cách chân thành thì rất ít. Riêng có
Mai, nhân vật chính trong Nửa chừng xuân, ngoài những vẻ đẹp thuần nhã về
mặt dung nhan, cử chỉ, ngôn ngữ, còn được nhà văn Khái Hưng tô đậm - và đây mới
thực là điểm quan trọng - những vẻ đẹp thuần nhã về tư tưởng, tình cảm và đức
tính (…) Về phần kỹ thuật, nó có thể kém những tác phẩm khác đồng thời với nó
như Hồn bướm mơ tiên, Đời mưa gió, Đoạn tuyệt, Đôi bạn hay Bướm
trắng, nhưng riêng về vai trò phụ nữ thì Mai quả là một nhân vật đáng yêu hơn tất
cả Lan, Tuyết, Loan, Thu, chỉ vì Mai đã có một tâm hồn ‘điềm đạm mà cảm động,
khẳng khái mà dịu dàng’ tức là nàng đã tiêu biểu được khá đầy đủ những vẻ đẹp
khả ái của người đàn bà Việt Nam cũ, những vẻ đẹp mà đến nay, đáng buồn thay,
chúng ta gần như không còn tìm thấy qua những tác phẩm văn chương nữa”(9).
Dương Nghiễm Mậu cũng đã viết
về nhân vật Mai: “Ở cô Mai khác hẳn cô Loan trong Đoạn tuyệt của Nhất
Linh, khác với Duy trong Con đường sáng của Hoàng Đạo. Cô Mai của
Khái Hưng người hơn, thực hơn, và chính vì thế nó gần gũi với con người”(10).
Trong bài viết Đọc Khái
Hưng: Nửa chừng xuân, Doãn Quốc Sĩ đã so sánh nhân vật Mai và Loan trong Đoạn
tuyệt của Nhất Linh. Ông cho rằng về học thức Mai chỉ biết đọc biết viết đủ
dùng và chịu đậm ảnh hưởng nền giáo dục nho giáo trong khi Loan có một trình độ
Tây học vững vàng và hoàn toàn đối lập với ý kiến gia đình. Về tính tình, thái
độ, Mai ý thức được hành động và thái độ của mình, dịu dàng chừng mực, lý trí
tình cảm quân bình, còn Loan cũng ý thức được hành động và tình cảm của mình,
nhưng bướng bỉnh, theo mới đến cùng, lãng mạn quá trớn về hành động cũng như về
tư tưởng. “Chính vì tính tình Mai như vậy nên tình tiết câu chuyện đời nàng
chuyển biến hợp lý và nhịp nhàng. Ngược lại chính vì tâm lý Loan như vậy nên
nàng bị bao vây bởi hoàn cảnh, tác giả phải cầu cứu đến sự đẫm máu bất ngờ làm
lối thoát”(11). Cũng Doãn Quốc Sĩ, trong bài viết Vài ý nghĩ về cuốn ‘Trống
mái’, cho rằng đây là tác phẩm thành công trong việc miêu tả thiên nhiên, cuộc
sống phóng khoáng của người lao động. Nếu xem Trống mái là tiểu thuyết
lý tưởng thì là cuốn tiểu thuyết lý tưởng “đuối nhất” so với hai cuốn Hồn
bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân. Và theo ông, phải chăng vì vậy mà cuốn
tiều thuyết này dù vẫn được đọc nhưng ít được giới nghiên cứu, phê bình chú ý.
Về mối tình giữa hai nhân vật Hiền và Vọi trongTrống mái, Doãn Quốc Sĩ viết: “mối
tình Hiền - Vọi trong Trống mái là mối tình không tưởng; tư tưởng ẩn
trong truyện Trống mái ca ngợi nếp sống bình dân không phân chia giai
cấp, ca ngợi nếp sống khoẻ mạnh của con người hoạt động nhẹ nhàng giữa thiên
nhiên và đả kích nếp sống thuần trí thức yếu hèn, tư tưởng đó đẹp lắm, ai cũng
đồng ý, như tư tưởng đó lại muốn được thể hiện ở Vọi chỉ có đức tính thật thà
chất phác nhưng hoàn toàn thiếu trí thức, ở Hiền, một cô gái vô tâm, kiêu hãnh,
nông cạn. Chính những nhân vật bất toàn đó làm sụp đổ những tư tưởng đẹp trên”(12).
Nhận xét tổng thể sự
nghiệp và vị trí của Khái Hưng trong lịch sử văn học là các bài viết của Phạm
Thế Ngũ, Thư Trung, Nguyễn Xuân Thu….
Trong công trình có tính chất
lịch sử văn học Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã
phân loại tiểu thuyết Khái Hưng thành hai nhóm: những tiểu thuyết về ái tình và
những tiểu thuyết về gia đình. Phạm Thế Ngũ đã đánh giá, nhận xét nội dung và
nghệ thuật các tác phẩm Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Tiêu
sơn tráng sĩ, Trống mái, Đẹp, Băn khoăn, Gia Đình, Thoát
ly, Thừa tự và các vở kịch Tục luỵ, Đồng bệnh. Nhận xét
chung về nghệ thuật tiểu thuyết Khái Hưng, ông cho rằng:
“Về nghệ thuật những tiểu
thuyết trên của Khái Hưng đều bố cục giản dị nhưng khéo léo. Tình tiết thưa ít
và trừNửa chừng xuân và Tiêu sơn tráng sĩ, động tác ngắn gọn, câu
chuyện không có những ngoắt ngoéo ly kỳ, những giải kết đột ngột, tính chất gay
cấn của những tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chẳng hạn. Nhiều truyện tuy lý tưởng,
có tính cách luân lý nữa, nhưng theo một nghệ thuật mới, ông không đưa đến có hậu
như những truyện Nôm xưa”(13).
Biện luận cho nhận định
“Khái Hưng, nhà văn sáng giá”, Nguyễn Xuân Thu cho rằng, từ những tác phẩm đầu
tay cho tới những tác phẩm sau cùng, Khái Hưng đã cho chúng ta thấy một quan niệm
văn nghệ đặc biệt của ông. Khái Hưng đã đưa vào tiểu thuyết Việt Nam một làn
gió mới về hình thức lẫn nội dung:
“Về hình thức, Khái Hưng đã
viết nhiều tác phẩm đủ loại như tiểu thuyết, đoản thiên, kịch… với những câu
văn gọn gàng, linh động,… mà trước đó và ngay cả cùng thời với ông cũng chẳng
có ai sánh kịp (…) Đó là sự kiện Khái Hưng đưa vào tác phẩm những bế tắc của
hoàn cảnh, những tranh chấp giữa tình và đạo, giữa mới và cũ… và trước mỗi hoàn
cảnh bế tắc ấy, Khái Hưng đã dùng sự hy sinh của nhân vật hay nhờ lý tưởng để
nhảy ra khỏi sự bế tắc, mối quẫn bách”(14).
Trong Lược sử văn nghệ
Việt Nam - nhà văn tiền chiến 1930-1945, Thế Phong đã chỉ ra sự chuyển biến nghệ
thuật qua các bộ tiểu thuyết đồng thời đánh giá cao sáng tác của Khái Hưng: “Từ
tiểu thuyết lý tưởng như Hồn bướm mơ tiên hay Nửa chừng xuân bắt
nguồn rất nhanh đến loại truyện phân tách tâm lý, mổ xẻ tinh vi hình tượng con
người, sống trong cùng một thời gian, không gian với tác giả, khiến người đi
sau xếp ông vào loại bất tử (…) ba tác phẩm Hạnh, Đẹp, Băn khoăn đi
sâu vào tâm lý với một kỹ thuật viết trưởng thành”(15).
Cũng cần thấy một điều là
nghiên cứu phê bình về Tự lực văn đoàn không chỉ là những ý kiến đề cao mà còn
có những phê phán, thậm chí là khá gay gắt của các nhà nghiên cứu. Những ý kiến
luận bàn chung về văn nhóm Tự lực văn đoàn dù không trực tiếp nhưng là một kênh
gián tiếp cho thấy quan niệm của trí thức miền Nam đối tác phẩm của Khái Hưng.
Trước hiện trạng sách giáo
khoa trung học quá chú trọng đến tác phẩm Tự lực văn đoàn, cụ thể là tác phẩm của
Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo mà bỏ qua nhiều hiện tượng đáng chú ý khác của
văn học Việt Nam, trên tạp chí Văn (1968) số kỷ niệm nhà văn Hoàng Đạo,
nhân viết về Mười điều tâm niệm và sáng tác của các cây bút Tự lực
văn đoàn, Nguyễn Văn Xuân cho rằng:
“Bây giờ ai cũng thấy Tự lực
văn đoàn vang bóng thời nào… Người ta tìm đọc văn phẩm của Tự lực văn đoàn như
tìm những Truyện tình không hạ cấp, thế thôi! (…) Vậy mà, lạ lùng! Cả
tư tưởng (tập trung trong Mười điều tâm niệm - PMH) lẫn văn học ấy độc
chiếm chương trình giáo dục Việt Nam. Cả ba quyển sách: Mười điều tâm niệm,
Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân của ba kiện tướng của văn đoàn đều
được nghênh ngang đóng vai trò khuôn vàng, thước ngọc cho văn chương và tư tưởng
thời kỳ 1932 (sao lại niên kỷ này mà không là 1929 với Phụ nữ tân văn?) -
1945. Tôi chưa bàn về hai quyển truyện mà riêng quyển Nửa chừng xuân tôi
tưởng nên nói ngay là nhiều đoạn… bất thành nếu so với các tác phẩm khác của
ông. Thật là miệt thị văn học Việt Nam, làm như văn học ấy không thể sản xuất nổi
những Hồ Biểu Chánh, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân?”(16).
Bên cạnh những ý kiến nhận
xét của các nhà giáo, nhà nghiên cứu, những ý kiến đánh giá của giới sáng tác ở
miền Nam cũng đáng để suy ngẫm, phần nào cho thấy tâm lý tiếp nhận nơi lớp người
đọc cao cấp - những người làm công việc sáng tạo nghệ thuật.
Khoảng đầu thập niên 60, các
trí thức văn nghệ sĩ nhóm Sáng tạo ở Sài Gòn chủ trương đổi mới văn nghệ, và một
trong những việc họ làm là phủ định văn nghệ tiền chiến, “chôn tiền chiến”. Họ
phủ định văn nghệ tiền chiến bằng những phát ngôn và bằng chính sáng tác của họ.
Về sáng tác là những cách tân nghệ thuật trong thơ và văn xuôi của các cây bút
Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu… Về phát ngôn đánh giá văn nghệ tiền
chiến được thể hiện tập trung trong tạp chí Sáng tạo số 4, tháng
10-1940: Nhìn lại văn nghệ tiền chiến ở Việt Nam với sự góp mặt của
các cây bút Duy Thanh, Mai Thảo, Ngọc Dũng, Nguyễn Sĩ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Thái
Tuấn, Tô Thuỳ Yên, Trần Thanh Hiệp. Các trí thức văn nghệ đã thảo luận những vấn
đề văn nghệ tiền chiến với tinh thần phê phán, phủ định và phần nào đó phủ nhận
những cách tân của Tự lực văn đoàn và Thơ mới. Nhận định chung, nhóm Sáng tạo
cho rằng nghệ thuật tiền chiến thật nghèo nàn, nông cạn và ấu trĩ, cần nhanh
chóng vượt qua để đẩy văn nghệ về phía trước. Trong không khí soát xét lại gia
tài văn nghệ tiền chiến, bàn về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Thanh Tâm Tuyền
cho rằng:
“Nông cạn của nghệ thuật tiền
chiến lỗi chính vẫn là ở người sáng tác. Không phải ở hoàn cảnh. Sự va chạm mạnh
mẽ của văn hoá Đông Tây đầu thế kỷ, các nhà văn Tự lực văn đoàn nhìn một cách rất
thu hẹp, trong phạm vi gia đình cá nhân, mà không hề thấy đó là sự đảo lộn cả một
nếp sinh hoạt mấy nghìn năm, mà trong đó, dân tộc phải tìm lấy một đường lối giải
thoát thích hợp. Không bảo thủ luyến tiếc quá khứ thì họ lại đuổi theo một thứ
tình cảm cá nhân để giải quyết cho riêng mình (…) Những tác phẩm mà Tự lực văn
đoàn gọi là tiểu thuyết luận đề đã chứng tỏ tất cả sự nông cạn và hời hợt của
những tác giả ấy. Chưa cần xét tới luận đề mà nhóm Tự lực văn đoàn chọn là những
vấn đề rất thô sơ và hẹp hòi ở trong xã hội, tôi muốn công kích ngay cái loại
mà người ta gọi là tiểu thuyết luận đề - kể cả những luận đề cao nhất - là của
một quan niệm ấu trĩ về tiểu thuyết”(17).
Theo Mai Thảo: “Tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn được quần chúng hồi đó tán thưởng, một phần cũng bởi vì tiểu
thuyết đó đã đánh trúng vào thị hiếu quần chúng mà thôi (…) Về những nhà văn tiền
chiến ở đây, có thẩm quyền nhất, ai bằng Nhất Linh? Vậy mà Nhất Linh đã thất bại
trong ý muốn phục hồi lại giòng nghệ thuật Tự lực văn đoàn. Cho nên, theo tôi,
đáng thương không phải là những che đẻ của nghệ thuật tiền chiến, mà đáng
thương những kẻ thương vay khóc mướn, tôn sùng, thần thánh hoá một cái xác chết”(18).
Trước những tuyên bố của
nhóm Sáng tạo về văn nghệ tiền chiến, Nguyễn Văn Trung - nhà lý luận phê bình
văn học “có tầm ảnh hưởng lớn” (Võ Phiến) đã có những trao đổi. Trong bức thư
ngỏ Gửi anh em trong “Nhóm sáng tạo” đăng trên tạp chí Bách khoa số
số 94, ra ngày 2-12-1960, Nguyễn Văn Trung viết:
“Khi các anh tự hỏi tại sao
bây giờ còn có người đọc Tự lực văn đoàn, các anh cho rằng vì có những người
còn luyến tiếc và âm mưu duy trì cái thứ văn ‘đàn bà; ấu trĩ, khóc sướt mướt’
đó như các anh nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong buổi thảo luận. Nhưng các anh
không hỏi tại sao người ta vẫn tìm đọc Tự lực văn đoàn, dù không có những cố gắng
gợi lại và duy trì đi nữa? Tại sao người ta không tìm đến các anh, những chứng
nhân của thời đại? Phải chăng vì Tự lực văn đoàn còn nói lên được cái gì, hay
vì người ta không tìm thấy cái gì đáng đọc của người hôm nay, nên đành phải trở
về cái cũ vậy (…) Người đi sau tiếp tục công việc người đi trước và dĩ nhiên chỉ
tiếp tục được một khi không bằng lòng dừng lại ở bước đường đã đi. Nhưng không
bằng lòng với cái đã có không có nghĩa là xoá bỏ nó. Cũng có thể gọi là chối bỏ
đi, nhưng chối bỏ theo nghĩa đẩy lên, để vượt lên, chứ không phải tiêu diệt;
xoá hẳn thành hư vô (…) nếu không có tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Thơ mới thời
tiền chiến, thì tiểu thuyết và thơ mới ngày nay bắt đầu từ đâu, và dĩ nhiên là
phải bắt đầu từ đầu, từ số không, nghĩa là còn ấu trĩ; cho nên người làm công
tác văn hoá văn nghệ hôm nay không thể quên người hôm qua”(19).
Có thể thấy, từ góc độ sáng
tác, các nhà văn nhóm Sáng tạo có những lý lẽ hợp lý của họ. Nhưng trên phương
diện văn hoá và lịch sử tiến trình văn học, những khuyến nghị của Nguyễn Văn
Trung cũng rất hợp lý.
Thật ra, những mặt hạn chế của
Tự lực văn đoàn không phải đợi đến nhóm Sáng tạo mới được đặt ra và bàn luận. Từ
năm 1935, khi văn nhóm Tự lực văn đoàn còn ở phong độ đỉnh cao, tạo được nhiều ảnh
hưởng trong xã hội, đặc biệt là tầng lớp thanh niên thành thị, nhà văn Trúc Hà,
cây bút tiêu biểu của văn chương miền Nam, đã chỉ ra những hạn chế của văn nhóm
này ở thái độ công kích Nho giáo, phong trào “vui vẻ trẻ trung” trên Phong
Hoá. Sự quá trớn, nhiều chỗ quá đáng của Tự lực văn đoàn đã được Trúc Hà chỉ
ra:
“Trong lúc đem Lý toét ra
làm bia để chế nhạo bọn môn đồ nhà nho, báo Phong hoá chỉ công kích
những hình thức vụn vặt, phiền tạp của một hạng người hiểu nhầm Nho giáo. Hạng
người đó không thể làm tiêu biểu cho cái tinh thần khẳng khái của nhà nho được.
Tiêu biểu cho đạo Nho chính là những nhà chí sĩ đã vì cái lý tưởng cao
thượng của mình mà phải chết, phải phiêu bạt xứ người, hay phải giam cầm trong
vòng lao lý (…) báo Phong hoá chẳng phô bày cái hay của Nho giáo ra
bao giờ. Họ cứ làm cho người đọc tin tưởng, say mê những ý tưởng cải cách của họ.
Mặc cho người ta hiểu nhầm nho giáo. Và họ chỉ muốn người đọc sẽ cười, cái cười
chế nhạo, dễ dàng chua chát mà thôi, còn cái ảnh hưởng hay dở thế nào, mặc kệ!
Phong trào vui cười, cái cười vô ý thức của một dân tộc còn thấp kém về học vấn,
lan tràn từ Bắc vào Nam. Nó lôi cuốn các tờ báo khác phải quay về vui cười hết.
Lối văn khảo cứu, nghị luận, học thuật, nghĩa là thứ văn không chọc cười được
phải dẹp lại. Nhưng một điều buồn cười hơn hết là chính họ bị thiệt hại vì cái
phong trào tự họ gây ra: cái chết của báo Ngày nay”(20).
Nhận xét của Trúc Hà khiến
chúng ta nghĩ đến những bài viết của học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) về cái
cười của người Việt trên Đông dương tạp chí(21) trước đó, hay của
Phan Khôi (1887-1960) trên Phụ nữ tân văn(22).
Về phương diện tiến hoá của
tư tưởng, những thảo luận của Nguyễn Văn Xuân trong bài viết Từ phong trào
duy tân đến Tự lực văn đoàn đã cho thấy những đề xuất cải cách, chống tư
tưởng nho giáo của nhóm Tự lực văn đoàn so với phong trào duy tân đầu thế kỷ XX
lại là một bước thụt lùi (23).
Ngày nay nhìn lại, theo
chúng tôi, việc Tự lực văn đoàn phê phán hình tượng nhà nho qua biếm hoạ Lý
toét so với sự phê phán của chính nhà nho trong phong trào duy tân đầu thế kỷ
XX thì không có gì mới mẻ, thậm chí đơn giản hơn. Các nhà nho trong phong trào
duy tân đã làm một cuộc cách mạng phủ định rất mạnh mẽ và triệt để nhân sinh
quan, thế giới quan, chính trị, học thuật của mình. Trên phương diện văn
chương, Văn tế sống thầy đồ hủ, Cáo hủ lậu văn, Chí thành thông
thánh, Danh ngọc lương sơn phú là những tác phẩm thể hiện sinh động
và sâu sắc sự phủ định này. Vả chăng, không có ai có đủ tư cách phủ định nho
giáo và hình tượng nhà nho bằng chính nhà nho, bởi một lẽ giản đơn, họ là những
người sống tận cùng và cảm nghiệm được cái lạc hậu, ấu trĩ và nhận chân được sự
thất bại chua chát của một thế hệ trí thức giai đoạn thoái trào. Mặt khác,
không chỉ phủ định cái cũ, họ đã xây dựng được những tư tưởng duy tân tiến bộ,
nói không quá, một vài trong số ấy ngày nay chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều
mới đuổi kịp. Điều đó càng cho thấy những nhận xét của Nguyễn Văn Xuân là hữu
lý.
Lược thuật những ý kiến
không có tính chất phê bình đánh giá trực tiếp tác phẩm của Khái Hưng, nhưng
chúng tôi cho rằng với tư các là một trong những trụ cột của Tự lực văn đoàn,
những đánh giá này thực sự là quan trọng và cho thấy trọn vẹn sự tiếp nhận tác
phẩm của Khái Hưng và Khái Hưng trong Tự lực văn đoàn. Quan trọng hơn, qua đó
cũng cho thấy bên cạnh những ý kiến khen và đề cao tác phẩm và những đóng góp của
Khái Hưng là những ý kiến chê. Và đánh giá sự nghiệp văn học Khái Hưng nói
riêng và các nhà văn khác trong văn nhóm tự Tự lực văn đoàn nói chung không phải
chỉ khen một chiều, và thực sự những sản phẩm nghiên cứu ở miền Nam không hoàn
toàn là viết dưới “lập trường tư tưởng phản động”(24) như nhận xét của một
nhà nghiên cứu cách nay mấy mươi năm.
*
Nhìn lại gần một thế kỷ
nghiên cứu, bình luận về tác giả Khái Hưng ở miền Nam có thể thấy tầm quan trọng
và vị thế của nhà văn trong lịch sử văn học thế kỷ XX. Theo thời gian và theo
nhiều cấp độ khác nhau, các xu hướng nghiên cứu ngày càng chuyên sâu, kỹ lưỡng
đối với tác phẩm của Khái Hưng. Nghiên cứu tiếp nhận văn học dân tộc ở miền
Nam, đặc biệt là giai đoạn 1954-1975, không chỉ trường hợp tác gia Khái Hưng mà
còn những tác giả, khuynh hướng vấn đề văn học khác, là những bổ khuyết cần thiết
cho lịch sử nghiên cứu của ngành ngữ văn học Việt Nam trong thế kỷ XX.
(1) Thiếu Sơn: Phê bình
Nửa chừng xuân, Sống, số 1, ngày 22 Janvier 1935, tr.12.
(2) Thiếu Sơn: Phê bình
Gánh hàng hoa, Sống, số 2, ngày 29 Janvier 1935, tr.17.
(3), (20) Trúc Hà: Cái
hay và cái dở của Tự lực văn đoàn - một văn phái mới trong nền văn học nước ta, Sống,
số 28, 7 Septembre 1935, tr.17, 18.
(4), (5) Kiều Thanh Quế: Đồng
bệnh, kịch của Khái Hưng, Tri tân, số 53, ra tháng 7-1942, tuyển in trong Cuộc
tiến hoá văn học Việt Nam, (Nguyễn Hữu Sơn, Phan Mạnh Hùng sưu tầm biên soạn),
Nxb. Thanh Niên, 2009, tr.72, 73.
(6) Xin xem thống kê trong Thư
mục nghiên cứu, phê bình Tự lực văn đoàn và Thơ mới của chúng tôi.
(7) Nguyễn Văn Trung: Tình
yêu hiến dâng trong ‘Hồn bướm mơ tiên’, trong Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết,
Nam sơn xuất bản, Sài Gòn, 1965, tr.91.
(8) Đỗ Minh Vọng: Nhân
vị trong ‘Hồn bướm mơ tiên’, Đại học, số 4-5, Sài Gòn, tháng 9-1958,
tr.119.
(9) Nguyễn Duy Diễn: Mai,
một nhân vật khả ái của Khái Hưng, Hiện đại, số 3, Sài Gòn, tháng 6-1960,
tr.15.
(10) Nhiều tác giả, Khái
Hưng, thân thế và tác phẩm, Nam hà xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.38.
(11) Doãn Quốc Sĩ: Đọc
Khái Hưng: Nửa chừng xuân, Luận đàm bộ I, số 5, Sài Gòn, tháng 4-1961,
tr.107.
(12) Doãn Quốc Sĩ: Vài
ý nghĩ về cuốn Trống mái, Luận đàm bộ I, số 1, Sài Gòn, tháng 12-1960,
tr.77.
(13) Phạm Thế Ngũ: Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, tái bản, Nxb. Đồng Tháp, 1997, tr.467.
(14) Nguyễn Xuân Thu: Khái
Hưng nhà văn sáng giá, Văn học, số 33, Sài Gòn, 1-3-1965, tr.13.
(15) Thế Phong: Lược sử
văn nghệ Việt Nam - nhà văn tiền chiến 1930-1945, Vàng son xuất bản, Sài Gòn,
1959, tr.27.
(16), (23) Nguyễn Văn Xuân: Từ
phong trào duy tân đến Tự lực văn đoàn, Văn, số 107 và 108, Sài Gòn,
15-6-1968, tr.61, 40-62.
(17), (18) Nhiều tác giả: Nhìn
lại văn nghệ tiền chiến ở Việt Nam, Sáng tạo, số 4, tháng 10-1960, tr.4,
5.
(19) Nguyễn Văn Trung: Gửi
anh em trong Nhóm Sáng tạo, Bách khoa, số 94, ra ngày 2-12-1960, tr.33-44.
(21) Nguyễn Văn Vĩnh: Xét
tật mình (Gì cũng cười), Đông Dương tạp chí, số 22, Jeudi 9 Octobre
1913.
(22) Phan Khôi: Cái cười
của con Rồng cháu Tiên, một cái cảm tưởng trong khi đọc Cay đắng mùi đời. Báo Phụ
nữ tân văn, số 84, ra ngày 28-5-1931, tr.5-8. In lại trong Phan Khôi: Tác
phẩm đăng báo 1931 (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn). NXB Hội Nhà văn,
H., 2007, tr.57-67.
(24) Đào Văn A: Tự lực
văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây, Tạp chí Văn học, số 3-1991.
Phan Mạnh Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét