Một chuyến phiêu lưu
của bé và chú mực
1- MỰC TRỞ THÀNH BẠN CỦA BÉ NHƯ THẾ NÀO?
Bé tên là Thanh nhưng ông nội thích gọi là Bé nên cả nhà và
những người quen biết, trừ ở trường, đều gọi là Bé. Ngay bố cũng vậy. Năm nay
Bé đã học lớp Ba rồi mà thư nào bố gửi về cũng viết “Bé yêu của bố”.
Bố luôn luôn đi xa, ở nhà Bé sống với ông nội, mẹ và chú bạn
bốn chân: con Mực.
Có người hay nói: “dại như chó”, Bé chẳng tin. Cứ xem như chú
Mực của cậu thì rõ.
Người ta gọi chú chó này là Mực vì chú đen tuyền từ mõm đến
đuôi, từ lưng đến móng chân, chỉ trừ hai vệt trắng dưới mắt. Có vẻ chú khoái
cái tên dân dã nọ. Hễ nghe gọi “Mực! Mực!” thì dù đang bận ăn, hay đang bận nghịch
cái chổi, cái dép, chú cũng vội ngửng đầu, ngoáy tít cái đuôi.
Ông nội bảo: - Nuôi chó không phải để làm vật cảnh hoặc để
khoe mẽ làm sang như ai đó; cũng không phải chỉ để canh nhà. Nhà ta ít người,
có con chó thêm vui nhà, vui cửa.
Chẳng phải tự nhiên mà Mực trở thành bạn của Bé. Nhóc chó nào
cũng thích kết thân, trẻ nít của giống người cũng vậy thôi. Nếu thấy một cún
con đang khều khều cái chổi, hoặc đang nghếch nhìn đám gà vịt, ấy là nhóc ta
đang tìm bạn chơi đấy. Nhưng đó là lúc còn bé. Còn bé, cũng giống như ở giống
người, chó hay nhung nhăng hiếu động một cách ngây ngô. Nhưng khác với người,
chó lớn lên rồi thì khó tránh được cảnh sống thui thủi chỉ biết lo làm phận sự,
nếu không có những cô bé, cậu bé chủ nhà dễ thương đối với loài vật.
Mực ta sinh ra ở cái nhà này sau Bé mấy năm. Mẹ chú màu mun,
sinh ra bốn nhỏ toàn là đực, mỗi đứa một sắc riêng: hung, vàng sẫm, vện và đen
tuyền. Hồi đó, họ nhà chó ở xóm của Bé bỗng bị một tai hoạ ghê gớm đe doạ: một
con hoá dại chạy lồng khắp xóm khiến người ta phải đập chết. Ông nội bèn bảo:
“Phải bán mấy mẹ con con chó này đi thôi”. Và một người ở tận đâu đâu đã đến
xem và đã ngã giá. Chỉ chờ mấy cún con cứng cáp hơn là họ sẽ rước cả đi. Mẹ Mun
thù địch ra mặt với người mua chó. Khi người kia đến gần ổ để xem, mụ đe doạ,
xua đuổi. Rồi khi người ấy vừa ra khỏi ngõ và nhân khi nhà có vẻ vắng người, mụ
vội vàng cho sơ tán bầy con. Mụ ngoạm rất nhẹ nhàng vào gáy từng đứa rồi tha
đi. Mấy chú nhỏ co bốn chân lại quều quào trong không, đầu và đuôi ngọ nguậy
trông rất nhộn.
Ông nội đứng kín một nơi nhìn thấy Mực ta được mẹ chó tha đi
đầu tiên, dù chú chẳng phải là “anh cả”, - chú lọt lòng mẹ gần bét. Chuyện đó
cùng với những dấu hiệu khác đời của Mực khiến ông nội chú ý. Chẳng hạn, trái với
ba “anh em” cùng lứa suốt ngày quẩn quanh trong ổ, Mực hay tha thẩn trong
phòng, đưa mũi đánh hơi vật nọ, đưa chân khều cái kia, ra cái điều tìm hiểu,
thăm dò. Chẳng hạn, Mực không hay tè bậy ra nền nhà như ba nhỏ kia. Chỉ cần dẫn
dắt một lần là chú nhớ. Chú lại có vẻ hay ăn chóng lớn hơn cả. Thêm đó là cái
màu đen mượt của chú. Bởi vậy, ông nội mới quyết định dành Mực lại không bán
theo đàn. Khác với các trẻ nhỏ loài người, Mực không la khóc hôm chia li với mẹ
và các anh em. Ý hẳn chú cũng tưởng họ chỉ làm một chuyến đi chơi xa rồi lại trở
về. Bởi vậy, chú chỉ chạy tung tăng hít hít mũi, vẫy vẫy đuôi và sủa vọng mấy
tiếng “óc, óc” như đưa tiễn. Khỏi phải nói, mẹ chó đã kháng cự quyết liệt, nhất
là phải bỏ lại đứa con cưng. Nhưng biết làm sao được khi người đã muốn thế! Mực
ta thì mải chơi. Nhưng đến bữa tìm vú mẹ chẳng thấy đâu, chú mới cảm thấy hết sự
trống vẳng của cái ổ rơm ấm cúng giờ đã trở nên hoang lạnh. Mực bỏ ăn mấy ngày,
nằm xẹp một chỗ. Cũng may tuổi nhỏ chóng quên. Vả chăng, loài chó cũng không
quen nhớ dai những chuyện loại ấy (nếu trái lại thì loài người khá là phiền).
Thế là Mực ta ở lại một mình nơi “chôn nhau, cắt rốn”. Chú ta
chẳng buồn lâu như đã nói. Chú lại thích loăng quăng. Chú có thể nghịch với một
chiếc dép cùn vứt nơi xó nhà suốt buổi. Chú lân la tới chỗ các cô, cậu gà đang
ăn trong sân. Chú ngửi mấy hạt ngô, hạt thóc, ý chừng cũng muốn nếm xem có gì hấp
dẫn mà bọn hai chân không tay này khoái ăn thế. Nhưng chú thất vọng. Tức mình,
chú mới quát lên mấy tiếng ra oai nghe “nhách! nhách!” rất buồn cười. Tuy vậy,
lũ gà cũng nhớn nhác lảng ra, khiến chú vội vẫy đuôi làm lành. Chú làm vậy là
thừa vì bọn gà sau một thoáng đã lại sán vào bữa cỗ của chúng mà thi nhau mổ lấy,
mổ để. Từ đấy, chúng phớt lờ những tiếng quát của Mực ta. Ngay cả khi chú giả bộ
nổi hung nhảy chồm vào một con gà nào thì nó cũng chỉ né tránh tí chút rồi lại
xông vào cuộc ăn, như không hề biết có chú. Trong bọn gà có lão trống gộc. Lão
này to kềnh càng, bước đi khệnh khạng, chỉ nhìn thiên hạ bằng một bên mắt. Lão
đội trên đầu một cái mũ đỏ gay và khoác trên mình một cái áo rườm rà, sặc sỡ. Một
lần, Mực mon men đến gần Trống Gộc để ngắm bộ cánh kì lạ nọ; hoặc giả chú cũng
định làm quen chăng? Nhưng không may cho chú, lúc đó lão Gộc đang bận việc
riêng. Lão xệ một bên cánh đưa chân gẩy xành xạch và cong cần cổ, cúi cái đầu dữ
tướng, rồi vừa kêu “ục, ục” trong cổ họng, vừa lượn sát vào mấy mụ gà mái. Lão
đâu có thèm biết đến ý tốt của Mực. Lão bực mình cho là chú đến phá đám bèn bổ
một mỏ vào trán chú nhỏ. Có lẽ vì đau thì ít mà ức thì nhiều, chú bèn la toáng
lên: “Ăng, ăng, sao lại đánh tôi? Ăng, ăng, sao mà ác thế!”. Mấy mụ gà mái thấy
vậy bèn tản đi mất. Lão Gộc trơ ra một mình, nghểnh đầu, ấm ức trong cổ: “Tức!
tức!” Lão rất vô tâm, lão chỉ hơi lé mắt nhìn thằng nhỏ đang la, lúc lắc đầu ngạc
nhiên không hiểu vì sao mà thằng bé làm om sòm lên như vậy, rồi thản nhiên vỗ
cánh, gân cổ lên ca một bài: “Cô cồ cô… ô…ô… Đời thật là vui…!”. Xong, lão
nghiêng nghé xem có ai tán thưởng không. Chẳng có ai cả. Thế mà lão cũng cứ ưỡn
ngực bước đi rất điệu. Từ đó Mực cạch, không thèm làm thân với cái lão nghênh
ngang, tự phụ ấy nữa.
Nhưng mà, không có bạn chơi thì chán chết. Vậy là chú tìm được
một bạn vào loại đặc biệt. Đó là chú mèo mướp con. Tuổi nhỏ chẳng bao giờ biết
thù hằn, dù đó là mối thù truyền kiếp. Ấy vậy nên Mướp ta chịu chơi và dám chơi
với Mực ta. Hai đứa có lúc vờn nô nhau, đùa rỡn nhau rất ngộ. Đành rằng kiểu nô
rỡn của mèo con không ồn ào như của chó con, nhưng bụng dạ trẻ nhỏ vốn rộng
rãi. Phiền một nỗi, càng lớn thêm thì sự khác biệt giữa chúng càng khó có thể
dung hoà. Mướp ta thì hầu như nằm lim dim ngủ suốt ngày. Mực ta thì không thế,
ban ngày thảng hoặc có nằm thì cũng chỉ là để nghỉ ngơi tí chút khi rảnh rỗi. Mực
không thương được cách nằm của Mướp. Thằng cha bạ đâu cũng nằm được! Thậm chí
trên đôi gối trắng bong của cặp vợ chồng sắp cưới. Thậm chí trên cả bàn thờ nhà
người ta. Hễ nơi nào êm êm và kín kín một chút là hắn trèo lên và ren rén nằm ệp
ngay xuống. Mực thì thường nằm vào nơi quen thuộc và trước khi nằm bao giờ cũng
bước vần quanh mấy vòng rồi mới đặt mình một cách ý tứ. Mướp ghét Mực cái tính
mà chú cho là bắng nhắng, có nghĩa là đánh hơi thấy gì lạ là kêu tướng lên:
“Đâu? Đâu? Xem mau!”. Mướp không biết như thế là Mực đang làm nhiệm vụ. Cho nên
Mực có lí do để ghét Mướp lười. Thực ra thì Mướp làm việc về đêm, vào những giờ
mà lũ giặc chuột công khai phá phách. Trong khi Mực đi tuần ngoài sân, ngoài vườn
thì Mướp sục trong nhà, trong bếp. Công bằng mà nói thì Mướp có nhàn hơn Mực thật,
vì Mực canh phòng suốt ngày đêm và chẳng bao giờ rời nhà chủ mà rong chơi nhà
hàng xóm như Mướp. Mỗi loài vật được nuôi trong nhà đều có phận sự riêng vì người.
Mực chẳng ganh tị gì với Mướp. Nhưng thực tình Mực thấy loài mèo chẳng đàng
hoàng chút nào. Chúng không chịu mang tên riêng người đặt cho. Đố ai gọi “Mướp!
Mướp!” mà thằng Mướp ấy chịu đến. Chỉ có nhại “meo, meo” thì may ra. Cũng đố ai
dạy được lũ mèo đừng ăn vụng. Về tính xấu này, con người nhiều khi xếp chó và
mèo vào cùng một duộc nên mới có câu “chó treo, mèo đậy”. Thật không công bằng!
Như Mực đây đã được luyện chỉ ăn những gì và khi nào mà chủ cho phép. Mực và Mướp
càng trưởng thành thì cái sự không thích nhau cứ vô tình lộ ra ngoài ý muốn của
chúng. Vừa thoáng thấy bóng Mực là Mướp mắt trước mắt sau chực tót lên chỗ cao.
Còn Mực hễ nhìn thấy anh bạn thời nhỏ là tự nhiên mắt nheo, mũi chun, răng nanh
nhe ra chẳng thân thiện chút nào. Bởi thế, hai bên ngày càng xa nhau rồi đi đến
“ghét nhau như chó và mèo” thật. Thế là Mực lại mất đi một bạn.
Thật đáng buồn! Lỗi chẳng tại Mướp, càng chẳng tại Mực. Sự thật,
Mực đã xa cái tuổi nghịch chổi hoặc la cà xem bọn gà vịt; cũng đã qua cái tuổi
ham nô đùa, rong chơi. Vào dịp đó, Bé đã biết đi lại tung tăng, đã biết chơi,
đã biết nghịch. Bé thích sờ đầu, sờ cổ, sờ lưng Mực. Xét theo tuổi tác họ nhà
chó thì Mực ta đã đến độ thanh niên. Nhưng chú vẫn khoái được Bé vuốt ve. Khi
những ngón tay bụ bẫm của Bé mân mê những sợi lông đen ánh của Mực, chú hầu như
mềm người ra, mắt lim dim, sướng ra mặt. Nhiều lúc để tỏ vẻ hàm ơn, chú liếm
tay, liếm người Bé, khiến cậu buồn buồn nhảy cẫng, hoặc cười ré lên thích chí.
Khi Bé đã cưỡi ngựa gỗ thạo, cậu bèn trèo lên lưng Mực. Mực đứng im ve vẩy
đuôi. Cậu chủ vừa nhún nhẩy vừa kêu “ong! ong!”, chú hiểu ý ngay. Bé cũng biết
nương nhẹ con vật. Hai chân Bé buông thõng hai bên, đầu ngón chạm đất hẩy hẩy
theo nhịp bước của Mực, thành ra Bé đi ngựa sáu chân. Mực rất thích được Bé cưỡi.
Chú đưa Bé đi dạo trong nhà, trong sân, thậm chí ra tới đầu ngõ. Chú bước êm,
thong thả, cẩn thận. Những lúc ấy thì dù thằng Mướp có khiêu khích, chú cũng
không thèm chấp.
II. MỰC LÀM NHIỆM VỤ GIỮ NHÀ
Mực được ông nội của Bé, vốn là bộ đội biên phòng cũ, luyện
cho mấy ngón nhà nghề của chó tuần tiễu. Chú tỏ ra khá thông minh. Cả nhà quí
chú, chẳng ai đánh mắng bao giờ. Mực chỉ bị một cái phiền nhỏ: hàng năm, chú phải
tiêm phòng dại hai lần. Kim tiêm đâm vào thì buốt quá đi rồi. Nhưng Bé vỗ về
khéo lắm nên cái đau, cái sợ cũng chóng qua.
Mực vừa làm bạn với Bé, vừa giữ nhà. Cả hai việc đều quan trọng;
việc nào Mực cũng làm một cách tự nguyện, chẳng chờ ai ra lệnh cả.
Không một người lạ nào vào đến ngõ mà qua được cái mũi và đôi
tai của Mực. Kìa! Mực đang nằm trên thềm, đầu gác lên hai chân trước, hai mắt
khép. Chắc chú đang ngủ. Không phải! Chú vừa ngửng đầu, dỏng tai lên. Chú chạy
tót ra sân, kêu lên mấy tiếng dõng dạc: “Gâu! gâu! Đi đâu? Đi đâu?” rồi
đứng án ngữ lối vào nhà, sủa cầm chừng chờ chủ ra phân xử. Khi chủ khẽ gọi: “Mực!
Mực!” là chú hiểu: “Được! Được! cho vào được”. Chú bèn hơi cúi đầu
xuống, vẫy đuôi phất phơ vài cái theo lối xã giao của người nhà chào khách rồi
tránh ra cho khách đi vào. Nhưng chú chưa bỏ đi ngay. Chú còn lượn nửa vòng
quanh người lạ như để nhận dạng rồi mới yên tâm về chỗ cũ nằm. Chú không có cái
lối lèm bèm, tẹp nhẹp của mấy chó nhách bên hàng xóm: có khách lạ vào chưa chi
đã cuống cà kê sủa om lên. Nếu người ta có vẻ rụt rè thì xô vào sủa té tát,
đinh tai nhức óc; thậm chí chủ đã ra lệnh bảo thôi vẫn cứ làm già, ra cái điều
ta đây mẫn cán. Nhưng nếu người ta cứ mạnh dạn đi vào thì lại cụp đuôi, vừa sủa
vừa lùi dần, rồi chui tọt vào gầm giường đứng chửi ra càng nhăng nhít loạn xạ.
Lại còn giở trò cắn trộm nữa chứ. Rõ là khác xa với phong thái đàng hoàng của Mực.
Cố nhiên là Mực chẳng sủa cắn người quen bao giờ, nhưng có phân biệt đối xử. Với
người chỉ gọi là quen thôi thì chú đứng hơi xa hít hít mũi đánh hơi, ve vẩy
đuôi rồi lảng đi. Nhưng các khách quen hãy coi chừng, chớ quá chân vào những
vùng cấm. Trong những trẻ hàng xóm hay chơi với Bé, có một cậu không được lịch
sự lắm, thấy Mực ta chẳng có vẻ gì để ý bèn “vui chân” mon men ra gốc ổi cạnh
nhà bếp. Nhưng lần nào cu cậu cũng bị giật mình vì tiếng quát: “Gâu! Gâu! Đi
đâu?”. Ngoảnh lại, đã thấy Mực kề ngay sau lưng. Cu cậu chỉ còn cách đánh
bài lỉnh. Với người quen thân thì chú quẫy đuôi rối rít, rúc mõm vào quần áo
khách, cọ mình vào chân khách, rồi lon ton chạy trước dẫn đường tới tận bậc thềm.
Mực lại có linh tính đặc biệt. Chú sinh ra và lớn lên khi cha của Bé vẫn ở nơi
xa.Mực chẳng được biết dáng người, hơi hướng của ông chủ lớn luôn luôn vắng nhà
đó. Vậy mà cái lần ấy, Bé đang chơi trong sân bỗng thấy một chú bộ đội, mũ đeo
sao, giày da, một cái ba-lô con cóc to sù sau lưng, từ ngoài ngõ đi thẳng vào.
Bé vừa “cháu chào chú ạ” thì Mực đã kêu “hực” một tiếng phóng từ
trên thềm nhà xuống. Chú chững lại mấy giây rồi vẫy đuôi, ban đầu còn vẫy một
cách dè chừng, sau vẫy cuống lên, chạy phởn quanh người lạ, miệng ư ử khe khẽ
có vẻ mừng rỡ. Thì ra người lạ là cha của Bé được về phép. Ông nội nói: “Con
Mực nhà ta thì nuôi cho đến già, chết đem chôn tử tế, không bán hoặc cho ai cả .”
Mực còn được cả nhà quí vì thành tích sau đây: Đận ấy, bố bị
thương phải nằm viện nơi xa. Cả nhà muốn đi thăm nhưng vướng chuyện trông nhà.
Ông nội quyết định: “Đồ đạc quí thì gửi đi. Giao nhà cho con Mực. Nhờ bà
con, láng giềng thỉnh thoảng ngó qua”. Suốt nhiều ngày, Mực một mình canh
giữ một cơ ngơi. Đến bữa, chú sang nhà hàng xóm đã được gửi gắm trước. Ăn xong,
chú trở về ngay. Ban đêm, chú năng đi tuần còn hơn cả khi có chủ ở nhà. Mọi người
tấm tắc: “Hiếm có con chó nào tốt nết như thế!”.
III -BÉ BỊ LẠC
Nhà Bé ở trong một cái xóm ven thành phố có nhiều vườn cây ăn
quả và vườn rau. Hàng ngày, khi Bé đi học, Mực đưa tiễn đến đầu ngõ; cuối buổi
học lại chờ đón Bé tại đấy. Mực ít khi đi xa hơn, chú còn phải giữ nhà mà. Cũng
có đôi ba lần Bé tập cho Mực mang hộ đến trường vài thứ. Trường của Bé là mấy
ngôi nhà xinh xắn kề con đường dẫn vào thành phố, cách nhà Bé một đỗi đường chẳng
mấy xa.
Sáng ấy, trời se lạnh. Sợ Bé ho, mẹ quàng vào cổ Bé một chiếc
khăn quàng đẹp, quà của cha hồi Tết, gửi qua một người bạn của cha đi công tác
qua. Tan học, Bé có việc tụt lại sau các bạn. Lúc Bé ra đến cổng trường chợt có
một con bướm rồng sặc sỡ nhởn nhơ bay đến. Bé bèn đuổi bắt. Chạy một lúc thấy bức,
Bé bèn cởi khăn quàng ra đút vào túi quần. Bé chạy theo con bướm một đoạn thì
chiếc khăn rơi ra mà Bé chẳng hay. Một cô còn trẻ hơn mẹ, nom quen quen, đi tới
nhặt lên, gọi:
- Này cháu! - Bé ngoảnh lại, cô đưa khăn và bảo, - Bỏ vào cặp
ấy.
Bé mở vội cặp ra nhét khăn vào, mắt liếc bám theo con bướm. Bấy
giờ con bướm đang rập rờn phía trước xa dần. Bé trao cặp sách cho cô gái, nói vội:
“Cô giữ hộ cháu” rồi chạy vụt đi. Cô gái kịp nắm chiếc cặp Bé vừa buông ra. Cô
tần ngần nhìn theo Bé chưa biết xử trí cách nào. Cô vừa toan cất bước thì một
chiếc mô-tô từ đâu chạy đến dừng sát bên cạnh cùng một tiếng nói khô:
- Đưa chiếc cặp đây! Hừ! Định lừa con nít giữa ban ngày hở? -
Người con trai ngồi trên xe chìa tay ra.
Cô gái trừng mắt: - Anh là ai mà ăn nói bậy bạ thế?
Anh thanh niên, khá đẹp trai, thản nhiên: - Là ai không cần
biết. Hãy trả cặp cho thằng bé.
- Cháu nó nhờ tôi giữ, chẳng việc gì tới anh.
Anh này dịu giọng: - Thế hả. Tôi đến đón nó. Không tin, cô ngồi
lên xe tôi đưa đến gặp nó.
Cô gái nhìn anh ta, ngần ngừ một chút rồi trao cặp cho anh
ta. Cô còn đứng đó, khi thấy chiếc xe máy từ từ chạy đến chỗ Bé mới quay gót.
Lúc này, Bé vừa ngã xong đang lồm cồm bò dậy và ngẩn ngơ nhìn theo con bướm đã
bay bốc lên cao. Anh thanh niên dừng xe dựng bên đường đi tới phủi đất cát dính
trên người Bé và hỏi:
- Em tên là gì?
- Tên là Thăn.- Bé đón cái cặp từ tay anh. Anh âu yếm bảo:
- Từ rày, em không được trao bất cứ cái gì của mình cho người
lạ nhé! Lại đây, anh cho ngồi xe!
Bé nhìn anh thanh niên rồi nhìn chiếc xe mới toanh. Chà! Được
đi xe máy! Bao lâu nay Bé ước ao giá bố về phép mang theo một chiếc. Nhưng
…..Bé đang khó nghĩ, chưa kịp nhúc nhích, thì anh đã bế Bé ngồi lên yên sau.
Anh ngồi lên yên trước rồi dận chân một cái. Chiếc xe rung lên và kêu “ục, ục”
khe khẽ liên hồi rồi lao đi.
- Nhà em ở phía này cơ. - Bé lay anh thanh niên nói.
- Em không thích dạo phố à? - Người ngồi trước không quay lại,
khẽ khàng bảo - Ta rong một lúc rồi ăn kem. Em có thích ăn kem không?
Ai lại hỏi Bé có thích ăn kem không! Bé bị sún hai chiếc răng
cửa ông nội bảo là tại vì Bé ăn nhiều kem quá. Trong chốc lát, Bé quên con bướm
vừa nãy hấp dẫn cậu đến thế; quên cả chú Mực đang đợi đầu ngõ, quên rằng ông nội
và mẹ sẽ phải chờ cơm.
°
Tan trường đã khá lâu, cơm đã sắp sẵn mà vẫn chưa thấy Bé về.
Mực chực đầu ngõ đã hai lần chạy về sân rồi lại chạy ra ngay. Nom bộ dạng chú
có vẻ không yên. Mẹ đang bận quét dọn trong bếp. Ông nội đang dở tay xếp lại chồng
sách. Chợt Mực lại chạy về. Chú chạy thẳng lên hiên nhà nhưng không vào hẳn
trong phòng mà đứng ở ngưỡng cửa rướn nửa người vào, cái đuôi xệ xuống, ngọ nguậy,
cổ vươn thẳng tới trước hướng cái đầu về phía ông nội, mắt long lanh một ánh lo
lắng. Ông nội nhìn ra, đưa mắt tìm trong khoảng sân và khoảng ngõ phía sau Mực,
rồi nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường. Ông lại nhìn ra, lần này chăm chú nhìn Mực.
Bỗng ông bỏ tập sách đang soạn xuống, lập cập xỏ dép, đứng lên gọi to xuống bếp:
- Sao đến giờ mà thằng bé chưa về nhỉ?
Mẹ từ bếp đi lên:
- Ông bảo gì con ạ?- Mẹ cũng nhìn đồng hồ- Chết thôi! Thằng
bé lại la cà ở đâu rồi.
- Nó ít khi la cà lắm. Hôm nào về muộn cũng chỉ mươi lăm phút
là cùng. Hôm nay thế là trễ hơn nửa giờ rồi còn gì!
- Để con đi đón cháu xem.
Mẹ chưa ra đến cửa thì Mực đã phóng đi trước. Thỉnh thoảng
chú ngoái nhìn lại xem chủ có theo không. Đến đầu ngõ, chú dừng lại chờ và khi
thấy chủ tiếp tục đi đến trường, chú lại chạy vượt lên. Được một đỗi, chú chạy
ngược trở lại đón chủ rồi lại chạy vượt lên. Xem chừng chú có vẻ nôn nóng lắm.
Trường học vắng tanh. Mẹ đứng ngẩn ngơ nhìn quanh. Mực cúi xuống
đánh hơi bờ cây, bụi cỏ rồi lao về phía đường cái theo lối Bé đuổi bướm lúc
nãy. Được một quãng, Mực quay lại nhìn bà chủ sủa to lên một tiếng, nhưng mẹ của
Bé đã quây quả đi đến nhà cô giáo. Mực nhìn theo giây lâu, thè lưỡi liếm mép
như đắn đo rồi chạy theo chủ.
Cô giáo buông bát cơm đang ăn dở, đứng vội lên. Giọng cô
thoáng chút lo lắng:
- Chết! Em Thanh chưa về nhà à?
Không kịp thu dọn mâm cơm, cô hối hả cùng mẹ đi ra trường học.
Mực từ nãy vẫn dừng chân ở rìa sân nhà cô giáo, nhìn hóng vào phe phẩy đuôi chờ,
lúc này vội quay ra, sốt sắng chạy trước dẫn đường. Cô giáo định đưa mẹ Bé vào
gặp bác bảo vệ trường, nhưng nghĩ thế nào cô lại đi vượt qua cổng trường. Chắc
là cô định tìm các bạn của Bé để hỏi. Vô tình hai người bước theo Mực. Mực bỗng
dừng lại đúng chỗ chiếc xe máy đỗ trước đó chưa lâu. Chú đưa mũi rà mặt đường,
vỉa hè, ngửng lên nhìn chủ, rồi lại đưa mũi dò quanh quẩn. Có tiếng chào từ bên
kia đường:
- Tan học lâu rồi mà chị chưa về nghỉ?
Đó là cô gái đã gặp Bé lúc nãy, người quen của cô giáo. Biết
chuyện gì đang làm hai người lo, cô hỏi:
- Có phải cháu bé có mấy chiếc răng sún không?
- Vâng. - Mẹ hồi hộp nói- Cháu quấn cổ một cái khăn màu da trời
điểm màu hoàng yến.
- Thế thì đúng rồi. Có một anh cưỡi Honda đến đón cháu từ
nãy.
Mẹ nghĩ mãi mà không đoán ra là ai. Cô giáo an ủi:
- Có lẽ là người quen, ít ra là người quen của cháu. Chắc lát
nữa họ sẽ đưa cháu về.
Mẹ phân vân, song cũng chia tay cô giáo và ra hiệu bảo Mực
cùng về. Nhưng Mực đứng yên, cái đuôi đưa ngang lúc lắc, mắt nhìn bà chủ. Mãi đến
khi thấy bà chủ đã đi hơi xa, chú mới chạy theo. Lần này, chú chạy lẽo đẽo phía
sau, thỉnh thoảng ngoái cổ nhìn lại.
Đến quá trưa thì cả nhà hốt hoảng thật sự. Ông nội bèn đi báo
công an. Hai người cảnh sát mang đến một con béc-giê. Chú chó nòi ngoại này cao
to gần gấp đôi Mực, có vòng đai da tròng vào cổ. Cu cậu chạy gằn theo sau người
dắt, điệu bộ hơi khụng khiệng. Vào sân nhà người ta mà cứ nhìn lơ láo như không
thèm biết có Mực đang đứng trên hè. Thực là bất lịch sự nhất hạng. Mực sủa lên
một tiếng, không ra chào mà cũng không ra nạt. Chưa rõ chú chó khách kia sẽ phản
ứng ra sao thì người dắt đã vỗ vỗ vào lưng chú ta. Chú rít khẽ trong họng và
thè cái lưỡi mỏng dẻo quẹo nhìn Mực một thoáng rồi lại nhìn quanh. Người ta đưa
ra một cái áo cũ của Bé cho chú béc-giê ngửi. Xong, chú đứng khựng một chút như
suy tính, rồi cúi xuống ngửi đất, sau đó chạy ra ngõ, vẫn không thôi rê mũi
trên mặt đất, lôi theo người dắt. Mực nhìn theo thấy dáng chạy lêu đêu không gọn
và không nhẹn chút nào. Hẳn là chú hơi đố kị nên cho là thế. Chú kêu lên: “Gâu!
Gâu! Chẳng được đâu!” và dợm nhảy xuống sân đuổi theo. Nhưng ông nội của Bé
đã ra hiệu cho chú đứng lại. Chú “hực” lên một tiếng. Cứ như lệ thường thì sau
đó chú sẽ nằm xuống ngơi, nhưng lúc này chú lại xa xẩn hết ra lại vào, trong
nhà, ngoài sân…
IV. BÉ LÀM KHÁCH QUÍ
Bé ngồi trên yên sau chiếc xe máy nhìn thấy cây cối, nhà cửa
hai bên đường lùi nhanh ra sau, những chiếc xe đạp đi cùng chiều đều bị tụt cả
lại. Bé khoái quá, khoái hơn những lần được mẹ đèo xe đạp đi chơi phố nhiều.
Cũng có khi bị ngộp, Bé phải ôm chặt lấy eo lưng người lái. Nhưng vẫn cứ khoái.
Chiếc xe dừng đột ngột. Người Bé bị xô về phía trước, mũi đập vào lưng anh
thanh niên. Anh gỡ Bé ra bảo ngồi yên rồi chạy tới hàng kem bên hè đường mua
không biết bao nhiêu là que kem đựng đầy một túi nhựa. Anh cẩn thận buộc treo
cái túi vào cạnh yên xe để cho Bé tiện rút ra từng chiếc một. Chiếc xe lại lao
đi. Bé dùng tay trái bám chặt áo người ngồi trước, tay phải cầm que kem ăn ngon
lành. Lúc này, ngắm cảnh phố xá đối với Bé chỉ là chuyện phụ. Thật ra thì Bé chẳng
kịp nhận ra chiếc xe đã đưa mình đi những đâu. Bé ăn khá nhanh và ăn liên tục.
Chốc chốc Bé lại vứt một cái que nứa đã mút sạch kem xuống đường. Bé vẫn nhớ
ngay từ hồi còn đi mẫu giáo, các cô giáo đã nhắc nhở không được ném rác ra đường.
Nhưng lúc này bí quá. Lúc Bé ăn đến chiếc kem que thứ hai thứ ba gì đó thì chiếc
xe rẽ vào một ngõ vắng ngoắt ngoéo và sâu hun hút. Chiếc xe đi chậm hẳn lại,
nhưng vẫn lướt đi mãi. Bé đang thò tay rút que kem- chẳng nhớ là chiếc thứ mười
mấy- thì chiếc Honda dừng lại trước một cánh cổng sắt đóng kín. Anh thanh niên
xuống xe đến bên cổng thò tay vào một cái ngách giật giật cái gì đó, rồi yên lặng
đứng chờ. Bấy giờ Bé mới để ý thấy mình đang ở một nơi có nhiều tường nhà lô
nhô, cái lồi ra, cái thụt vào và có những hẻm rắc rối. Mùi tanh nồng phảng phất
trong không khí. Nơi Bé ở và khu trường học của Bé đều thoáng đãng nên bây giờ
Bé cảm thấy lợm quá và khó thở, lại tù túng con mắt nữa. Bé đặt trả que kem vào
túi. Có tiếng động mơ hồ và Bé cảm thấy đằng sau cái lỗ đen ngòm vừa con chó
chui lọt xế phía dưới cánh cổng có con mắt nào đang nhìn ra. Rồi có tiếng lịch
kịch, và cánh cổng hé mở. Anh thanh niên ngoảnh lại thấy Bé đã tụt xuống đất
đang ngẩn ngơ nhìn quanh. Anh nháy mắt với Bé và hỏi:
- Ồ! Em chán kem rồi à? (Ai lại hỏi Bé thế!) Ta vào đây! Có
nhiều cái hay lắm.
Anh đẩy xe đi trước. Được mấy bước, nhìn lại thấy Bé còn chần
chừ, anh ta thoáng cau mày, nhưng lại tươi ngay nét mặt:
- Ngồi lâu tê chân phỏng? Để anh dìu đi một đoạn. Lại chạy nhảy
như con dê ngay đó mà.
Anh dựng xe, tháo cái túi nhựa đưa cho Bé: - Em cầm lấy này!
Sắp chảy hết ra nước rồi.
Không phải anh dìu mà anh lấy tay ẩy lưng Bé. Bé định với cặp
sách nhưng anh gạt đi:
- Cứ để đấy! Anh sẽ nhờ người đẩy cả xe vào.
Bên trong hơi tối. Bé chưa kịp nhìn rõ một hình người đứng
nép sau cánh cổng thì đã được dẫn vào một lối ngoặt và lướt qua một khuôn cửa
thấp. Lối đi chỉ sáng lờ lờ và hơi khuất khúc, nhưng anh thanh niên bước khá
nhanh, gần như lôi Bé đi theo. Cuối cùng, Bé được đưa vào một cái phòng hẹp, trần
thấp, tường loang lổ. Nền nhà đầy mẩu đầu lọc thuốc lá, que diêm cháy dở, giấy
gói kẹo, … Trên một chiếc bàn thấp, cốc chén bừa bãi, và vỏ một chai rượu có
nhãn bằng thứ chữ Bé không đọc được. Một người đang nằm trên một cái phản kê
trong góc thấy Bé vào bèn ngồi nhỏm dậy. Đó là một người đàn ông đã đứng tuổi,
mặt nom bẩn vì những sợi lông đen mốc mọc lú nhú từ thái dương bên này kéo vòng
ôm lấy cằm qua thái dương bên kia. Thoạt đầu, Bé tưởng đó là quai mũ như của một
thứ mũ chống rét. Khoé môi bên phải của người này có một vết sẹo làm cho miệng
luôn luôn như sắp cười. Mà người đó đang cười thật, cười rộng miệng và đon đả
nói:
- Đã đón được khách quí rồi đó ta. Hoan hô Gi Pích!
Nghe cái tên “Gi Pích” lạ lùng, Bé không biết họ nói
ai. Bé ngước nhìn anh thanh niên cùng đi. Lúc này, Bé mới chợt nhận thấy quả
anh ta có bộ ria giống bộ ria của hình người trên quân bài J trong bộ tú-lơ-khơ
thật. Lão có sẹo trên môi lại nói:
- Nào! Ta làm quen với nhau nào!
Vừa nói, lão vừa đi lại gần Bé. Một phản ứng tự nhiên đẩy Bé
nép vào sau anh thanh niên. Lão Sẹo (ta cứ gọi vậy cho tiện) cười:
- Kha, kha,… Bé ngoan có một túi đầy kem que, sợ qua ăn mất
sao? (Cái từ “qua” Bé nghe như trên phim). Không sợ! Không sợ! Qua còn thết bé
ngoan kẹo bánh nữa kia.
Nói rồi, lão đến mở một cái tủ nơi góc phòng mà nãy giờ Bé
chưa kịp để ý, lấy ra nào bánh bích qui, nào bánh săm pa, nào kẹo bạc hà… Lão gạt
các thứ trên bàn ra một bên rồi bày bánh kẹo ra. Bấy giờ anh thanh niên mà lão
Sẹo gọi là Gi Pích mới lên tiếng:
- Ấy! Để nó ăn kem đã, kẻo… Mà kem thành nước cả rồi kìa!
Quả thật, cái túi nhựa trong tay Bé nay đã lồng phồng chất nước
màu cà phê sữa. Lão Sẹo lấy ra một cái cốc lớn:
- Không sao! Không sao! Uống thứ nước này lại có vị đặc biệt
thú. Thú hơn cả gặm kem que cơ đấy.
Lão cầm lấy cái túi nhựa từ tay Bé dốc nước kem vào cốc, được
đến lưng cốc. Các que kem đều đã mòn tóp chỉ còn bằng ngón tay út. Lão giơ cốc
lên ngắm nghía, nuốt ực nước bọt một cái, tấm tắc: “Tuyệt không!” rồi trao cốc
cho Bé:
- Uống đi, bé ngoan!
Bé còn đang ngần ngừ thì anh Gi Pích nháy mắt ra hiệu. Bé cầm
lấy cốc đưa lên miệng làm thử một ngụm. Ái chà! Mát quá! Ngọt quá! Thơm quá! Thế
là Bé dốc cốc làm một hơi.
Chợt lão Sẹo kêu lên:
- Kìa! Nước kem dây vào chiếc áo đẹp rồi kìa!
Bé chưa kịp nhìn xem vết bẩn như thế nào thì lão đã sà xuống
lấy tay vuốt ngực áo Bé. Không! Nói lão sờ nắn thì đúng hơn. Tay sờ, miệng lão
liến láu:
- Cái áo đẹp thế này! Cái áo đẹp thế này!
Lão cởi luôn cúc ngực của Bé để lộ ra trên nền áo lót tấm biển
tròn treo đầu một sợi dây quàng qua cổ Bé. Đó là tấm biển ghi tên và địa chỉ của
Bé. Ông nội vốn cẩn thận phòng khi Bé bị lạc. Bé vừa mới cảm thấy bực mình thì
đã phải rùng mình vì ánh mắt lạnh sắc của lão bất chợt chiếu vào mặt Gi Pích.
Lão đứng bật dậy:
- Không phải nó.
Gi Pích ngỡ ngàng:
- Sao?
- Thằng bé nhà lão Hải thuế quan có cái bùa bằng vuốt cọp bọc
vàng nạm hạt xoàn.
- Thì cả lớp ấy chỉ có thằng này sún hai chiếc răng cửa.
Nói rồi, Gi Pích nhìn lão Sẹo một cái và cúi xuống cài cúc áo
cho Bé, vừa cài vừa nói, giọng mơn man:
- Cài cho kín, kẻo bị ho thì khốn. Bố mắng chết.
- Bố ở xa lắm. - Bé lắc đầu.
- Bố đi công tác mãi tận đâu?
- Bố đi bộ đội.
Gi Pích hơi chững lại, nhưng chỉ một thoáng. Anh ta hỏi tiếp:
- Ở chỗ em có nhiều đứa bị sún răng không?
Bé thẹn, lấy tay che miệng:
- Chỉ có bạn Thân cùng lớp em thôi. Nhưng…
- Thân à? Trùng tên với em à?
- Không phải. Em là Thăn.
- Thăn chứ gì? Thì cũng thế.
- Không phải. Em là a nhờ ăn thờ ăn thăn. Còn bạn
ấy là ớ nờ ân thờ ân thân.
- À, à… em là Thanh phải không?
Bé gật. Lão Sẹo cúi xuống kéo tấm biển tròn đeo ở cổ Bé ra
xem kĩ rồi nhìn Gi Pích, vẻ chán chường. Gi Pích hỏi tiếp:
- Sao hôm nay không thấy Thân đi học nhỉ?
- Bạn ấy mới chuyển đi trường khác.
Gi Pích xoay người lại phía lão Sẹo, nói gằn:
- Anh cử con Hương béo đi tăm như thế đó.
Lão Sẹo ngồi phịch xuống giường:
- Biết ngay mà! Con ấy chỉ giỏi lèo lá.- Lão bặm môi ngẫm
nghĩ, điềm tĩnh trở lại- Để xem còn vớt vát được gì không.
Gi Pích đứng đút tay vào túi quần, cau có:
- Còn vớt cái cóc khô. Riêng cái bùa kia mèng ra cũng dăm
cây. Nhất là cái món chuộc. Làm gì với cái của nợ này?
Lão Sẹo đưa mắt cho Gi Pích. Hai người trao đổi với nhau. Bé
chỉ nghe bập bõm và hiểu loáng thoáng rằng có ai đó định câu một con cá
sộp nhưng lại vớ phải một con tép ranh “chỉ được mỗi cái tham ăn”. (Loại
cá tép ranh thì chúa tham ăn rồi.- Bé nghĩ thấy tức cười trong bụng- Có thế mới
dễ câu chứ!). Gi Pích bảo thả quách. Lão Sẹo nói cứ bắt chuộc ít nhiều, thêm vốn
mà vù. Gi Pích nói chả bõ. Lão Sẹo bảo: bọn ở bên kia biên giới đang cần món
hàng là các loại gà con Đông Nam Á. (Đang nói cá lại nhảy sang gà!
Người lớn mà cũng lăng quăng vậy). Của này khôi ngô, bụ bẫm, được giá đây.
(Hình như lại không phải chuyện gà nữa). Phải tìm cách gỡ gạc thôi. Cái khó là
không đánh động bọn mú sớm quá. (Lạ chưa! Người ta nói động
cá, chứ ai nói động mú).
Lão Sẹo trầm ngâm đi lại trong phòng. Một lát, lão có vẻ phởn
phơ: “Có cách rồi! Có cách rồi!” Cứ mỗi tiếng “cách”, đầu lão lại gật một
cái. Chợt lão đứng dừng lại trước mặt Gi Pích:
- Đi về đây có nhẹm không đấy?
- Yên trí đi! Đi vòng vo. Mà của ấy thì đang mải hốc. (Giá mà
Bé hiểu được họ nói ai!)
- Tốt rồi.
Lão đến bên bàn, tươi nét mặt:
- Chà! mải chuyện, kẹo bánh đang buồn chảy cả ra đây này. Bé
Thanh lại đây với qua nào!- Lão xài lối xưng hô Nam Bộ nghe cũng ngon lành.
Gi Pích cũng sốt sắng kéo tay Bé:
- Ừ nhỉ. Lại đây em! Đừng ăn kem nữa, lạnh bụng.
Bé giằng tay lại:
-Không! Em về nhà cơ!
-Thì ăn kẹo, ăn bánh đi đã! Anh còn phải cho thêm xăng vào xe
nữa kia mà.
Lão Sẹo giơ ra một cái kẹo bạc hà mà Bé rất ham. Gi Pích đón
lấy, bóc chìa ra cho Bé:
- Ăn đi em! Kẹo bánh ở đây thì tha hồ. Có thể ăn trừ cơm được.
IV. BÉ LÀM KHÁCH QUÍ
Bé ngồi trên yên sau chiếc xe máy nhìn thấy cây cối, nhà cửa
hai bên đường lùi nhanh ra sau, những chiếc xe đạp đi cùng chiều đều bị tụt cả
lại. Bé khoái quá, khoái hơn những lần được mẹ đèo xe đạp đi chơi phố nhiều.
Cũng có khi bị ngộp, Bé phải ôm chặt lấy eo lưng người lái. Nhưng vẫn cứ khoái.
Chiếc xe dừng đột ngột. Người Bé bị xô về phía trước, mũi đập vào lưng anh
thanh niên. Anh gỡ Bé ra bảo ngồi yên rồi chạy tới hàng kem bên hè đường mua
không biết bao nhiêu là que kem đựng đầy một túi nhựa. Anh cẩn thận buộc treo
cái túi vào cạnh yên xe để cho Bé tiện rút ra từng chiếc một. Chiếc xe lại lao
đi. Bé dùng tay trái bám chặt áo người ngồi trước, tay phải cầm que kem ăn ngon
lành. Lúc này, ngắm cảnh phố xá đối với Bé chỉ là chuyện phụ. Thật ra thì Bé chẳng
kịp nhận ra chiếc xe đã đưa mình đi những đâu. Bé ăn khá nhanh và ăn liên tục.
Chốc chốc Bé lại vứt một cái que nứa đã mút sạch kem xuống đường. Bé vẫn nhớ
ngay từ hồi còn đi mẫu giáo, các cô giáo đã nhắc nhở không được ném rác ra đường.
Nhưng lúc này bí quá. Lúc Bé ăn đến chiếc kem que thứ hai thứ ba gì đó thì chiếc
xe rẽ vào một ngõ vắng ngoắt ngoéo và sâu hun hút. Chiếc xe đi chậm hẳn lại,
nhưng vẫn lướt đi mãi. Bé đang thò tay rút que kem- chẳng nhớ là chiếc thứ mười
mấy- thì chiếc Honda dừng lại trước một cánh cổng sắt đóng kín. Anh thanh niên
xuống xe đến bên cổng thò tay vào một cái ngách giật giật cái gì đó, rồi yên lặng
đứng chờ. Bấy giờ Bé mới để ý thấy mình đang ở một nơi có nhiều tường nhà lô
nhô, cái lồi ra, cái thụt vào và có những hẻm rắc rối. Mùi tanh nồng phảng phất
trong không khí. Nơi Bé ở và khu trường học của Bé đều thoáng đãng nên bây giờ
Bé cảm thấy lợm quá và khó thở, lại tù túng con mắt nữa. Bé đặt trả que kem vào
túi. Có tiếng động mơ hồ và Bé cảm thấy đằng sau cái lỗ đen ngòm vừa con chó
chui lọt xế phía dưới cánh cổng có con mắt nào đang nhìn ra. Rồi có tiếng lịch
kịch, và cánh cổng hé mở. Anh thanh niên ngoảnh lại thấy Bé đã tụt xuống đất
đang ngẩn ngơ nhìn quanh. Anh nháy mắt với Bé và hỏi:
- Ồ! Em chán kem rồi à? (Ai lại hỏi Bé thế!) Ta vào đây! Có
nhiều cái hay lắm.
Anh đẩy xe đi trước. Được mấy bước, nhìn lại thấy Bé còn chần
chừ, anh ta thoáng cau mày, nhưng lại tươi ngay nét mặt:
- Ngồi lâu tê chân phỏng? Để anh dìu đi một đoạn. Lại chạy nhảy
như con dê ngay đó mà.
Anh dựng xe, tháo cái túi nhựa đưa cho Bé: - Em cầm lấy này!
Sắp chảy hết ra nước rồi.
Không phải anh dìu mà anh lấy tay ẩy lưng Bé. Bé định với cặp
sách nhưng anh gạt đi:
- Cứ để đấy! Anh sẽ nhờ người đẩy cả xe vào.
Bên trong hơi tối. Bé chưa kịp nhìn rõ một hình người đứng
nép sau cánh cổng thì đã được dẫn vào một lối ngoặt và lướt qua một khuôn cửa
thấp. Lối đi chỉ sáng lờ lờ và hơi khuất khúc, nhưng anh thanh niên bước khá
nhanh, gần như lôi Bé đi theo. Cuối cùng, Bé được đưa vào một cái phòng hẹp, trần
thấp, tường loang lổ. Nền nhà đầy mẩu đầu lọc thuốc lá, que diêm cháy dở, giấy
gói kẹo, … Trên một chiếc bàn thấp, cốc chén bừa bãi, và vỏ một chai rượu có
nhãn bằng thứ chữ Bé không đọc được. Một người đang nằm trên một cái phản kê
trong góc thấy Bé vào bèn ngồi nhỏm dậy. Đó là một người đàn ông đã đứng tuổi,
mặt nom bẩn vì những sợi lông đen mốc mọc lú nhú từ thái dương bên này kéo vòng
ôm lấy cằm qua thái dương bên kia. Thoạt đầu, Bé tưởng đó là quai mũ như của một
thứ mũ chống rét. Khoé môi bên phải của người này có một vết sẹo làm cho miệng
luôn luôn như sắp cười. Mà người đó đang cười thật, cười rộng miệng và đon đả
nói:
- Đã đón được khách quí rồi đó ta. Hoan hô Gi Pích!
Nghe cái tên “Gi Pích” lạ lùng, Bé không biết họ nói
ai. Bé ngước nhìn anh thanh niên cùng đi. Lúc này, Bé mới chợt nhận thấy quả
anh ta có bộ ria giống bộ ria của hình người trên quân bài J trong bộ tú-lơ-khơ
thật. Lão có sẹo trên môi lại nói:
- Nào! Ta làm quen với nhau nào!
Vừa nói, lão vừa đi lại gần Bé. Một phản ứng tự nhiên đẩy Bé
nép vào sau anh thanh niên. Lão Sẹo (ta cứ gọi vậy cho tiện) cười:
- Kha, kha,… Bé ngoan có một túi đầy kem que, sợ qua ăn mất
sao? (Cái từ “qua” Bé nghe như trên phim). Không sợ! Không sợ! Qua còn thết bé
ngoan kẹo bánh nữa kia.
Nói rồi, lão đến mở một cái tủ nơi góc phòng mà nãy giờ Bé
chưa kịp để ý, lấy ra nào bánh bích qui, nào bánh săm pa, nào kẹo bạc hà… Lão gạt
các thứ trên bàn ra một bên rồi bày bánh kẹo ra. Bấy giờ anh thanh niên mà lão
Sẹo gọi là Gi Pích mới lên tiếng:
- Ấy! Để nó ăn kem đã, kẻo… Mà kem thành nước cả rồi kìa!
Quả thật, cái túi nhựa trong tay Bé nay đã lồng phồng chất nước
màu cà phê sữa. Lão Sẹo lấy ra một cái cốc lớn:
- Không sao! Không sao! Uống thứ nước này lại có vị đặc biệt
thú. Thú hơn cả gặm kem que cơ đấy.
Lão cầm lấy cái túi nhựa từ tay Bé dốc nước kem vào cốc, được
đến lưng cốc. Các que kem đều đã mòn tóp chỉ còn bằng ngón tay út. Lão giơ cốc
lên ngắm nghía, nuốt ực nước bọt một cái, tấm tắc: “Tuyệt không!” rồi trao cốc
cho Bé:
- Uống đi, bé ngoan!
Bé còn đang ngần ngừ thì anh Gi Pích nháy mắt ra hiệu. Bé cầm
lấy cốc đưa lên miệng làm thử một ngụm. Ái chà! Mát quá! Ngọt quá! Thơm quá! Thế
là Bé dốc cốc làm một hơi.
Chợt lão Sẹo kêu lên:
- Kìa! Nước kem dây vào chiếc áo đẹp rồi kìa!
Bé chưa kịp nhìn xem vết bẩn như thế nào thì lão đã sà xuống
lấy tay vuốt ngực áo Bé. Không! Nói lão sờ nắn thì đúng hơn. Tay sờ, miệng lão
liến láu:
- Cái áo đẹp thế này! Cái áo đẹp thế này!
Lão cởi luôn cúc ngực của Bé để lộ ra trên nền áo lót tấm biển
tròn treo đầu một sợi dây quàng qua cổ Bé. Đó là tấm biển ghi tên và địa chỉ của
Bé. Ông nội vốn cẩn thận phòng khi Bé bị lạc. Bé vừa mới cảm thấy bực mình thì
đã phải rùng mình vì ánh mắt lạnh sắc của lão bất chợt chiếu vào mặt Gi Pích.
Lão đứng bật dậy:
- Không phải nó.
Gi Pích ngỡ ngàng:
- Sao?
- Thằng bé nhà lão Hải thuế quan có cái bùa bằng vuốt cọp bọc
vàng nạm hạt xoàn.
- Thì cả lớp ấy chỉ có thằng này sún hai chiếc răng cửa.
Nói rồi, Gi Pích nhìn lão Sẹo một cái và cúi xuống cài cúc áo
cho Bé, vừa cài vừa nói, giọng mơn man:
- Cài cho kín, kẻo bị ho thì khốn. Bố mắng chết.
- Bố ở xa lắm. - Bé lắc đầu.
- Bố đi công tác mãi tận đâu?
- Bố đi bộ đội.
Gi Pích hơi chững lại, nhưng chỉ một thoáng. Anh ta hỏi tiếp:
- Ở chỗ em có nhiều đứa bị sún răng không?
Bé thẹn, lấy tay che miệng:
- Chỉ có bạn Thân cùng lớp em thôi. Nhưng…
- Thân à? Trùng tên với em à?
- Không phải. Em là Thăn.
- Thăn chứ gì? Thì cũng thế.
- Không phải. Em là a nhờ ăn thờ ăn thăn. Còn bạn
ấy là ớ nờ ân thờ ân thân.
- À, à… em là Thanh phải không?
Bé gật. Lão Sẹo cúi xuống kéo tấm biển tròn đeo ở cổ Bé ra
xem kĩ rồi nhìn Gi Pích, vẻ chán chường. Gi Pích hỏi tiếp:
- Sao hôm nay không thấy Thân đi học nhỉ?
- Bạn ấy mới chuyển đi trường khác.
Gi Pích xoay người lại phía lão Sẹo, nói gằn:
- Anh cử con Hương béo đi tăm như thế đó.
Lão Sẹo ngồi phịch xuống giường:
- Biết ngay mà! Con ấy chỉ giỏi lèo lá.- Lão bặm môi ngẫm
nghĩ, điềm tĩnh trở lại- Để xem còn vớt vát được gì không.
Gi Pích đứng đút tay vào túi quần, cau có:
- Còn vớt cái cóc khô. Riêng cái bùa kia mèng ra cũng dăm
cây. Nhất là cái món chuộc. Làm gì với cái của nợ này?
Lão Sẹo đưa mắt cho Gi Pích. Hai người trao đổi với nhau. Bé
chỉ nghe bập bõm và hiểu loáng thoáng rằng có ai đó định câu một con cá
sộp nhưng lại vớ phải một con tép ranh “chỉ được mỗi cái tham ăn”. (Loại
cá tép ranh thì chúa tham ăn rồi.- Bé nghĩ thấy tức cười trong bụng- Có thế mới
dễ câu chứ!). Gi Pích bảo thả quách. Lão Sẹo nói cứ bắt chuộc ít nhiều, thêm vốn
mà vù. Gi Pích nói chả bõ. Lão Sẹo bảo: bọn ở bên kia biên giới đang cần món
hàng là các loại gà con Đông Nam Á. (Đang nói cá lại nhảy sang gà!
Người lớn mà cũng lăng quăng vậy). Của này khôi ngô, bụ bẫm, được giá đây.
(Hình như lại không phải chuyện gà nữa). Phải tìm cách gỡ gạc thôi. Cái khó là
không đánh động bọn mú sớm quá. (Lạ chưa! Người ta nói động
cá, chứ ai nói động mú).
Lão Sẹo trầm ngâm đi lại trong phòng. Một lát, lão có vẻ phởn
phơ: “Có cách rồi! Có cách rồi!” Cứ mỗi tiếng “cách”, đầu lão lại gật một
cái. Chợt lão đứng dừng lại trước mặt Gi Pích:
- Đi về đây có nhẹm không đấy?
- Yên trí đi! Đi vòng vo. Mà của ấy thì đang mải hốc. (Giá mà
Bé hiểu được họ nói ai!)
- Tốt rồi.
Lão đến bên bàn, tươi nét mặt:
- Chà! mải chuyện, kẹo bánh đang buồn chảy cả ra đây này. Bé
Thanh lại đây với qua nào!- Lão xài lối xưng hô Nam Bộ nghe cũng ngon lành.
Gi Pích cũng sốt sắng kéo tay Bé:
- Ừ nhỉ. Lại đây em! Đừng ăn kem nữa, lạnh bụng.
Bé giằng tay lại:
-Không! Em về nhà cơ!
-Thì ăn kẹo, ăn bánh đi đã! Anh còn phải cho thêm xăng vào xe
nữa kia mà.
Lão Sẹo giơ ra một cái kẹo bạc hà mà Bé rất ham. Gi Pích đón
lấy, bóc chìa ra cho Bé:
- Ăn đi em! Kẹo bánh ở đây thì tha hồ. Có thể ăn trừ cơm được.
V. MỰC LẦN TÌM DẤU VẾT CẬU CHỦ
Mâm cơm để nguyên trên giường. Mẹ nấu cho ông chứ mẹ chẳng
còn bụng dạ nào mà ăn. Nhưng ông cũng không đụng đũa. Các anh công an chưa tìm
ra manh mối. Con béc-giê chạy quẩn trong khu vực Bé thường hay đi về không phát
hiện được hướng đi của chiếc Honda đã chở Bé- tất nhiên! Đêm đã khuya. Cô giáo,
các bạn học của Bé và những người khác đến hỏi thăm đều đã về cả. Ông nội ngồi
bên bàn, nom già đi đến chục tuổi. Mực nằm dưới chân ông, thỉnh thoảng ngóc đầu
nhìn ông. Mẹ ngồi cuối giường, lúc lúc lén đưa ngón tay quệt nước mắt.
Chợt Mực nghếch mõm dỏng tai. Liền đó, có tiếng gõ cửa hơi rụt
rè. Mực kêu “hực, hực” bật dậy. Nhưng ông đã đặt tay lên đầu chú và bước
tới mở cửa. Một người khoác chiếc áo choàng mỏng hiện ra. Ông ta đội mũ lưỡi
trai sụp đến tận mắt, mặt vừa mới cạo nhẵn để lại những chân râu lờ mờ đen hai
bên má và dưới cằm. Ông nội hơi né ra một bên để ánh đèn soi rõ người vừa vào.
Từ phía sau ông, Mực nhảy chồm lên ngực người lạ. Ông ta loạng choạng lùi lại.
Ông nội quát khẽ: “Mực!” và nhẹ tay kéo Mực ra. Người lạ trấn tĩnh lại,
đi vòng sau lưng ông né tránh con chó và đến gần một chiếc ghế định ngồi xuống,
rồi lại thôi. Từ nãy, mẹ đã đứng lên lo lắng lẫn hi vọng nhìn người khách không
mời mà đến. Sau khi khẽ đẩy Mực ra khỏi phòng và khép cửa lại, ông nội đứng yên
chờ đợi. Người lạ đưa mắt nhìn nhanh gian phòng rồi chăm chú quan sát hai người
chủ nhà, đoạn nói từ tốn, tiếng nhỏ nhưng rành rọt:
- Tôi mang tin mừng đến cho nhà ta. Chúng tôi đã dò được tin
cháu Thanh.
Ông nội dợm bước lên một bước nhưng kịp ngừng lại. Còn mẹ thì
đưa hai tay ôm ngực kêu lên mừng rỡ: “Ôi!”. Rồi mẹ rảo bước lại gần người lạ:
- Bác thấy cháu ở đâu? Quí hoá quá! Sao bác không đưa cháu về
hộ luôn?- Chợt nhớ ra, mẹ đi đến bên bàn rót nước- Mời bác ngồi xuống đã. Bác
xơi tạm chén nước. Giã ơn bác đã vất vả, đêm hôm khuya khoắt. - Mẹ quay sang
ông nội - Có lẽ đành phải phiền đến chú Bích nhờ cùng đi với ông đón nó về, kẻo…
Người lạ vội vã ngắt lời mẹ:
- Ấy! Chưa vội được. Cháu hiện ở xa lắm.
Ông nội đã đến ngồi bên bàn đang chìa chén nước cho khách, vội
đặt chén nước xuống, sửng sốt:
- Sạo lại thế được?
Người lạ đáp nhỏ nhẹ:
- Theo chỗ chúng tôi được biết thì cháu Thanh theo mấy đứa
choai choai làm một chuyến du lịch…
Mẹ hốt hoảng:
- Chết! Con tôi có bao giờ tự tiện rời nhà đâu?
Người kia chép miệng:
- Thế mới có chuyện. Bố mẹ, ông bà chẳng mấy khi hiểu hết con
cháu mình đâu.
Ông nội cố nhìn vào đôi mắt người lạ vẫn nấp dưới bóng cái lưỡi
trai của chiếc mũ:
- Có đúng là bác biết cháu bé chúng tôi không?
Người lạ thò tay vào phía trong áo khoác, nơi Mực vừa chồm tới
lúc nãy, rút ra một chiếc khăn choàng:
- Khăn này là của cháu Thanh chứ?
Mẹ vồ lấy xem. Đúng là chiếc khăn của Bé. Mẹ ấp chiếc khăn
lên mặt như để lau dòng lệ vừa ứa ra. Ông lặng đi một lúc rồi hỏi:
- Bây giờ bác bảo chúng tôi thế nào?
Người lạ lần túi lấy ra một bao thuốc lá có vẽ ba con số 5 và
một chiếc bật lửa dùng khí. Chắc là đang mải toan tính, y không để ý thấy chiếc
khăn tay của y chòi theo ra rơi xuống nền nhà. Y búng búng bao thuốc cho thòi
ra mấy cái đầu lọc rồi chìa mời ông nội. Ông cảm ơn và lắc đầu. Y rút ra một điếu
xoè lửa châm hút. Đến đây ông nội mới nhìn rõ cái sẹo nơi khoé môi người lạ mà
từ lúc vào nhà, không hiểu cố ý hay vô tình, y không để phơi ra phía ánh đèn.
Thở ra một hơi thuốc dài, lão Sẹo- đúng hắn là lão Sẹo- thủng thẳng nói, vừa
nói vừa dò thái độ hai người chủ nhà:
- Lũ trẻ đến được nơi ấy thì chẳng biết có phải vì hết tiền
hay không mà chúng vào một cửa hiệu chừng định ăn cắp. Thế quái nào mà chúng
làm hỏng mấy thứ đồ cổ rất quí của người ta. Họ định tẩn cho một trận rồi tóm nộp
công an. May một người bạn của tôi biết chuyện bèn khuyên nên để cho người nhà
chúng đền. Nhưng mấy đứa kia là bọn cầu bơ, cầu bất, chỉ còn trông vào cháu
Thanh nhà ta đây thôi. Ấy, cháu cũng gan lì lắm chẳng chịu hé môi gì đâu. May
mà có cái biển hộ mệnh của cháu.
Mẹ hấp tấp hỏi:
- Họ bắt đền bao nhiêu ạ?
- Chẳng mấy. Mười cây.
- Cây gì kia?
- Mười cây vàng. Đưa tiền mặt cũng được.
- Sao mà nhiều thế?
- Bọn tôi nói mãi, họ mới châm chước cho đấy. Mấy thứ đồ cổ
là vô giá. Mười cây chỉ vừa đủ đền người ta thôi, chứ chúng tôi, tôi và các bạn
tôi chỉ làm phúc, chẳng đòi công sá gì vào đấy cả đâu.
Đến đây, mắt ông nội loé lên một ánh ngờ vực. Ông nhìn thẳng
vào mặt lão Sẹo:
- Được, chúng tôi xin đền. Nhưng cũng phải cho chúng tôi gặp
cháu đã chứ.
Mẹ chưa hiểu ý ông nội, tiếp lời:
- Chúng tôi cần phải có thời gian lo liệu. Món tiền to quá. Cứ
cho chúng tôi gặp cháu để yên cái bụng, rồi muốn gì cũng xin vâng.
Lão Sẹo lắc đầu:
- Không được đâu. Chẳng nên trì hoãn, mà cũng chẳng gặp được
cháu trước khi đền bồi xong.
Ông nội nghiêm nghị hỏi:
- Muốn giữ làm con tin à?
Lão Sẹo chủng chẳng:
- Cụ muốn hiểu thế cũng được.
Ông nội nổi nóng:
- Cứ đưa ra công an đi! Hay đưa ra toà cũng được.
Lão Sẹo cười khẩy:
- Họ chẳng dại. Đợi pháp luật thì khuya quá. Mà có khi có án
quyết rồi, khối người vẫn ỳ ra đấy.
Thấy không khí hơi găng, mẹ muốn làm cho dịu đi:
- Bác cứ đưa chúng tôi đến gặp người ta xin cháu về. Cháu còn
bé quá, xa nhà lâu không lợi. Chúng tôi không để người ta và bác thiệt đâu.
Lão Sẹo quay qua mẹ, giọng tỏ ra hoà nhã:
- Chị ơi! Tôi chỉ là người đưa tin giúp. Còn người ta thì chắc
họ chẳng muốn nắm dao đằng lưỡi. Họ đã thoả thuận là sau khi nhận đủ tiền, lập
tức giao cháu lại cho chúng tôi để trả gia đình. Nếu nhà ta có khó khăn thì
chúng tôi sẽ cố nài họ giảm cho vài giá. Nhưng rứt khoát là họ sẽ không chịu dưới
chín lăm chỉ.
Ông nội đưa mắt cho mẹ Bé rồi đứng dậy:
- Được, anh cứ ngồi chơi, chờ cho một lát. Để tôi đi hỏi vay
xem.
Lão Sẹo đưa tay ra hiệu ngăn, cứng giọng:
- Xin mời cụ yên cho. Vay ai lúc nửa đêm gà gáy này? Tôi
không đến đây một mình đâu.
Ông nội quay phắt lại trừng mắt nhìn lão Sẹo:
- À ra vậy! Giờ thì tôi hiểu rồi. Cháu tôi chẳng làm hỏng gì
của ai cả. Chính các anh bắt cóc rồi đến đây tống tiền.
Lão Sẹo cười nửa miệng:
- Cụ muốn buộc tội thế nào thì tuỳ. Nhưng xin cụ nhớ cho rằng
người nhát gan không dám đến báo tin như thế này đâu.
Mẹ vội dàn hoà:
- Bác ạ, coi như cháu bị lạc các bác tìm thấy. Chúng tôi xin
hậu tạ, nhưng các bác cũng thấy gia cảnh chúng tôi…
Lão Sẹo ra vẻ thông cảm:
- Chúng tôi cũng biết gia cảnh nhà ta thanh bạch. Thôi thì thế
này: Đúng chín cây. Trên đồng trống sau xóm này có một cây đa. Phía trên cành
thứ hai có một cái hốc. Cụ hoặc bà sẽ để vào đấy lúc ban đêm. Người ta nhận đủ
tiền lúc nào thì cháu bé về nhà lúc ấy. Nhưng đừng để lâu quá ba ngày. Chắc cụ
và bà sẽ không làm gì gây nguy hiểm cho cháu. Bây giờ thì tôi đi đây. Cụ và bà ở
yên trong phòng này cho mười phút.
Lão nói nhẹ nhàng nhưng mắt thì quắc lên. Nói xong, lão quơ tấm
khăn của Bé lúc nãy mẹ đặt trên bàn nhét vào trong áo choàng, không quên vơ bao
thuốc lá và chiếc bật lửa nhét vào túi. Lão bước ra ngoài khép cửa lại sau
lưng. Chiếc khăn tay của lão vẫn nằm trên đất.
Ông chồm dậy, nhưng mẹ đã ngăn ông lại bằng ánh mắt van lơn.
Ông nhìn chừng chừng như muốn xuyên tấm cánh cửa. Mẹ thì như bị tê dại đi. Im lặng
nặng nề. Độ mươi phút đã trôi qua. Mẹ sực tỉnh, rón chân đến bên cửa, đặt tay
vào nắm cửa để yên một giây rồi hé cánh cửa trông ra trời đêm mù mịt. Đó là một
đêm u ám. Trời tối nhờ nhờ. Mẹ mở rộng cánh cửa. Ánh đèn trong phòng in một mảng
sáng hình thang trên sân. Quanh mảng sáng ấy, đêm như quánh lại và càng vắng lặng.
Mẹ cất tiếng gọi Mực, nhưng Mực đã biến đi đằng nào.
°
Mực từ khi bị ông nội đẩy ra ngoài phòng rồi khép cửa lại vẫn
bứt rứt không yên. Chú quẩn quanh một lúc trước cửa, chợt nhớ tới nhiệm vụ canh
gác của mình, chú nhẹ nhàng nhảy xuống sân. Nhưng cái mũi thính nhạy của chú bắt
được hơi lạ. Chú bước rất êm về phía cổng. Cặp mắt tuần đêm của chú đã nhìn thấy
hai bóng đen đứng nấp trong ngõ hơi xa cổng một tí. Chúng bất động gần như hoà
lẫn vào các lùm cây hai bên ngõ. Như thường lệ, Mực không xông ra. Chú cũng đứng
nép một chỗ chờ động tĩnh. Chú muốn quát lên mấy tiếng báo động: “Gâu! gâu!
Kẻ nao? kẻ nao?”, nhưng có lẽ chú nhớ ra trong nhà đang có khách đáng ngờ
nên chú vẫn đứng yên, duy cái đuôi thõng xuống cứ ngọ nguậy hoài với cái vẻ sốt
ruột, mà cái cổ thì vươn thẳng chĩa cái đầu về phía trước với dáng kiên nhẫn
rình chờ.
Bỗng một luồng sáng hắt ra sân, một bóng người từ trong nhà
lách ra, rồi bóng tối khép lại. Lão Sẹo đi gần sát bên Mực mà không hay. Lão đi
qua hai bóng đen không dừng lại, chỉ lấy tay ra hiệu. Hai bóng đen lần lượt bước
nối theo lão, cách nhau một quãng ngắn. Cả ba bước đi một cách thận trọng, cố
không gây ra tiếng động, và căng mắt quan sát xung quanh, nhất là luôn luôn
quay nhìn phía cửa nhà Bé. Tuy vậy, chúng vẫn không thể nhìn thấy Mực đang theo
sau chúng. Cái gì đã thúc đẩy Mực? Phải chăng hơi hướng của Bé, cậu bạn và cậu
chủ, nơi chiếc khăn quàng đang giắt trong người lão Sẹo đã kéo chú theo?
Bên đường cái có một khối to lù lù. Đó là một chiếc xe tải loại
nhỏ thấp có mui, thành chắn phía sau bỏ thõng. Chừng thùng xe để trống. Lão Sẹo
dừng lại bên ca-bin xe, mở cửa và chui vào. Hai bóng đen đi sau cũng lần lượt
biến vào ca-bin. Tiếng xe rồ máy. Khi Mực chạy tới thì bánh xe từ từ lăn. Chẳng
kịp đắn đo, Mực nhảy lên thùng xe, vừa lúc đèn pha bật sáng và xe bắt đầu lao
nhanh. Mực hơi luống cuống, loay hoay trong thùng xe, mấy lần định nhảy xuống,
nhưng mặt đường phía dưới cứ nhập nhoạng chạy lùi trở lại. Chú đã định kêu lên:
“Gâu! gâu! Đưa tôi đi đâu?”, nhưng hẳn chú đã kịp nghĩ lại.
Chiếc xe dừng đột ngột khiến Mực trượt chân suýt ngã. Cửa
ca-bin xe mở ra. Có ai đó bước xuống đường và có tiếng nói khẽ với nhau. Mực vội
vàng rời thùng xe. Chú chưa kịp định thần thì chiếc xe đã lại lao đi. Chú nhìn
chung quanh, thấy một bóng người đang rẽ vào một ngách đường. Chú bám theo.
Nhưng đấy không phải là lão Sẹo, kẻ đang giữ vật mang hơi người thân thuộc đối
với chú.
Bóng đen phía trước đã biến mất sau một cánh cửa vừa khép lại.
Mực loanh quanh một lúc trước cánh cửa đóng im ỉm. Bực mình, chú quát lên: “Đâu? Đâu?”.
Chẳng có chi đáp lại. Mà kẻ vừa khuất dạng chẳng phải là kẻ mà Mực đang cố bám
theo. Chú rời cái ngõ nhỏ rẽ ra một cái ngõ khác lớn hơn. Chú chạy gần, vừa chạy
vừa đánh hơi. Thỉnh thoảng chú dừng lại quanh tới quanh lui, đưa mũi hít ngược
hít xuôi. Chú lang thang đã khá lâu. Càng lúc càng sốt ruột vì rõ ràng là chú
đã bị lạc. Chợt Mực khựng chân lại. Chú vừa thoáng ngửi thấy một mùi quen. Chú
rén chân bước, mũi rà mặt đường. Chú hực lên một tiếng. Gần sát mũi chú là một
cái que nứa nhỏ. Đó chính là cái que xâu kem mà Bé đã vứt xuống như các bạn đã
biết. Mực đưa mũi hít liền mấy cái rồi ngước đầu lên, đuôi ngúc ngắc vẻ hồ
nghi, lưỡng lự. Bỗng chú phất đuôi xuống một cái và lại giương lên ngay, chú
cúi đầu xuống thận trọng dò tìm vòng quanh, càng lúc càng xa dần về cả hai
phía. Lại một cái que nữa. Chú ngửi một tí, mũi khịt khịt, rồi chạy dò tìm tiếp,
lần này bước mau hơn, quả quyết hơn,vì chú đã định được hướng. Lần lần chú ra đến
phố lớn. Ở đây, hồi nãy đầy người đi lại, xe cộ nườm nượp, mùi vị loạn xạ, còn
hơi nào lưu lại được? Biết dò tìm làm sao? Sau một hồi luẩn quẩn vô ích, chú đứng
thõng đuôi, đầu ngước lên, ánh mắt buồn khôn tả. Một lát, chú quay vào ngõ, lủi
thủi, tấm thân uể oải đu đưa, cái đuôi rủ xuống, đầu hết hếch sang phải lại hếch
sang trái, như chẳng biết hỏi han vào đâu. Chú dừng lại khá lâu cạnh chiếc que
đầu tiên gặp lại trong ngõ, cúi xuống hít, ngửng lên nhìn trước ngó sau, rồi lại
hít. Chừng chú nghĩ ngợi lung lắm. Chú lại chạy đi. Chú gặp các chiếc que tiếp
đó, và dừng lại tí chút. Đã đến chỗ chiếc que chú tìm thấy trước nhất. Chú ngẩn
ngơ mất một lúc. Rồi chú đi vào sâu thêm nữa. Chú lại bắt gặp một chiếc que
mang hơi Bé. Chú kêu lên ư ử trong cổ, đuôi phất lên rung khe khẽ. Vậy là chú
đã lần đúng đường truy tìm những chiếc que lõi kem. Chiếc nữa, chiếc nữa, rồi
chiếc nữa. Cứ thế… Mực bỗng mừng quýnh lên vì chú vừa bắt gặp mùi thân thuộc
còn vương lại rất đậm. Chú đã đứng trước cánh cổng sắt mà Gi Pích đã đưa Bé đến
lúc ban ngày.
Mực cuống quít trước tấm cánh cửa đóng im ỉm mất một lúc. Rồi
chú tìm thấy cái lỗ ở chân tường xế phía dưới cánh cổng. Chú thận trọng thò đầu
vào nghe ngóng, rồi luồn cả thân mình tọt vào trong. Tối đen. Nhưng với Mực thì
có sá gì. Chú bắt hơi cậu chủ và nhanh chóng lần ra lối đi. Chú bon theo một
hành lang tối bưng, băng qua một phòng trống và… Chú đang dừng lại để nhận đường,
bỗng nghểnh đầu, vểnh tai, rồi lao vụt đi. Chú vừa nghe tiếng kêu la văng vẳng
cùng với tiếng động cửa sầm sập. Đây rồi! Chú chồm lên một cánh cửa gỗ lấy chân
cào cào như đập cửa và quát lên: “Gâu! gâu! Mở mau! mau!”
VI. BÉ BỊ NHỐT
Ta hãy trở lại với Bé lúc ban ngày.
Bé đã giơ tay toan đón chiếc kẹo từ tay Gi Pích, nghe đến tiếng
“cơm” đột nhiên rụt tay lại, quay mặt nhìn ra cửa băn khoăn:
- Em về thôi. Ông và mẹ chờ cơm.
- Được rồi! Anh đưa về ngay đây mà. Xe máy phóng chỉ một
nhoáng thôi. Em cầm lấy để anh còn đi chuẩn bị xe.
Bé miễn cưỡng cầm chiếc kẹo cho vào mồm. Nhưng từ lúc ấy, đống
kẹo bánh trên bàn chẳng còn hấp dẫn Bé nữa.
Một lúc sau, Gi Pích lử khử quay vào vò đầu, nhăn mày nhăn mặt:
- Chết thôi! Thằng Gồ làm hỏng xe rồi. Chữa chưa biết bao giờ
cho xong đây!- và quay sang lão Sẹo- Để Bé Thanh tạm nghỉ lại đây, xem bé thích
ăn gì vào bữa thì kiếm cho bé, nhỉ!
Bé kêu lên: - Không! Em về. - Và Bé xăm xăm đi ra.
Gi Pích chắn đường:
- Về thế nào được! Phải chữa xe đã chứ.
- Em đi chân.
- Xa lắm. Đến anh cũng chịu nữa là.
- Xa cũng đi.
- Em lạc đường mất thôi.
- Không! Đưa trả cặp sách đây!
Gi Pích cáu: - Bướng có nòi. Giỏi thì cứ đi đi!
Bé đi thật, quên cả đòi cặp sách. Nhưng Bé vừa bước vòng qua
Gi Pích thì bị anh ta tóm lấy chỏm đầu. Bộ dạng hoà nhã, vui vẻ, tử tế của anh
ta bay đâu mất. Mặt anh ta hầm hầm, mắt long lên. Nhưng Bé chẳng sợ. Bé vùng vằng
giơ đôi tay tí hon cố gỡ cái bàn tay thô bạo ra. Mặt Bé đỏ gay. Lão Sẹo chạy tới
hất tay Gi Pích rồi cúi xuống Bé nói rất dịu dàng:
- Được, nếu anh Gi Pích bận chữa xe thì để qua đưa về. Nhưng
phải ăn chút gì đã chứ.
Bé lắc đầu. Lão xuê xoa:
- Ờ, không ăn thì uống. Không thì khát chết.
Nghe vậy, Bé thấy mình khát thật. Lão Sẹo lại phía tủ loay
hoay một lúc rồi mang tới cho Bé một cốc nước màu phớt hồng. Bé uống. Nước ngọt
và thơm, không ra nước cam, không ra nước xi-rô, hơi hắc. Bé uống xong, lão Sẹo
dắt đến bên phản:
- Em nằm đây mà nghỉ. Mười lăm phút nữa ta đi. Qua cũng phải
ăn chút gì đã.
Nói rồi lão đi ra. Gi Pích cũng không còn trong phòng. Bé
không nằm mà ngồi ở mép giường, mặt bần thần. Im vắng quá nhỉ. Ở nhà thì ông nội
đã bắt vào giường ngủ trưa rồi đây. Ơ, buồn ngủ quá. Mắt Bé ríu lại, đầu gật mấy
lần suýt giật cả người lộn xuống sàn nhà. Bé cố cưỡng. Nhưng… Thì mình cứ nằm tạm
xuống đây cái đã. Mười lăm phút rồi. Phải đưa tôi về! Ông mắng… Mẹ lo… Ông… Mẹ…
Ý nghĩ chìm đi, tan mất. Bé lịm dần vì liều thuốc ngủ pha trong cốc nước.
Lão Sẹo và Gi Pích hiện ra ở cửa. Lão Sẹo nhìn Bé rồi nhìn Gi
Pích cười đắc chí. Nhưng Gi Pích sầm mặt:
- Đèo bòng của khỉ còm này chẳng ăn thua gì đâu. Bỏ món cha
con thằng thuế quan à?
Lão Sẹo cả quyết:
- Con lão thuế quan sẽ săn bằng được. Còn của này đã trót thì
trét. Còm cũng moi được tiền chuộc. Tiền chuộc mà còm quá thì mang quách theo.
Ra nước ngoài, món hàng này có giá đấy.
- Nó làm om lên thì lộ mất. Của này chẳng dễ bảo đâu.
- Không lo! Không lo! - Lão ngừng lại nghĩ ngợi - Có khi ta
phải vù sớm hơn dự định. Được. Để tính sau. Đêm nay đến úm mẹ nó và ông nội nó.
- Đi bằng gì? Không nên lượn mãi Honda, chỉ tổ làm mồi cho bọn
mú.
- Bảo thằng Gồ đi khều thằng Tài Râu. Thằng này chiều nay phải
đánh xe sang tỉnh bên nhận hàng vào sáng sớm mai, nhưng vì dính bồ nên hiện
đang còn tốp xe ở đây. Bắt nó chở. Đến nơi để nó chờ ngoài đường cái. Mình tao
vào. Chú mày với thằng Gồ trấn bên ngoài. Phải đợi cho khuya khuya một tí. Bây
giờ đi nhậu đã. Thằng nhóc này thì phải đến sáng mai mới tỉnh dậy được.
Hai người đi ra, đóng cửa, cài móc sắt bên ngoài.
Đêm hôm ấy, chúng đã đến nhà Bé, như chúng ta đã biết.
VII. MỰC ĐẾN CỨU BÉ VÀ BÉ CỨU MỰC
Bé tỉnh dậy sớm hơn lão Sẹo tưởng. Có lẽ hơi lạnh đêm khuya
và sự quạnh vắng rợn người đã đánh thức Bé dậy. Xung quanh tối om. Bé định thần,
cảm thấy giường chiếu lạ bốc lên mùi hôi hôi. Không có chiếc gối xinh xinh Bé vẫn
gối. Không có chiếc chăn mỏng mẹ vẫn đắp ngang người Bé. Có tiếng loạt soạt, lộp
rộp. Bé giật thót người. Những cái gì ấy nhỉ? Hay là ma? Mấy anh thanh niên tếu
hay kể chuyện ma hù doạ trẻ con. Mẹ bảo không có ma. Nhưng… Hình như cái bàn
đang cựa, cái ghế đang bò. Thật ra thì đó chỉ là những chú chuột bự đang tấn
công đống bánh kẹo trên bàn thấy động nên chạy tán loạn và nhảy bừa từ trên bàn
xuống sàn nhà. Dĩ nhiên là Bé không có cặp mắt của chú mèo để có nhìn được
trong bóng tối. Bé cất tiếng gọi: “Mẹ ơi! Mẹ!”. Hay
là mẹ đi họp? “Ông ơi!” Tiếng gọi bị nhốt trong gian phòng hẹp đóng kín
dội lại đập vào tai nghe bùng nhùng. Bé bỗng cảm thấy ớn lạnh dọc sống lưng vì
vừa chợt nhớ ra mình đang ở đâu. Không được khóc! Ông nội vẫn bảo: “Vì yêu
thương mà khóc thì có thể được. Vì sợ hãi mà khóc thì không nên”. Mấy người
kia đi đâu cả nhỉ? Chuẩn bị xe gì mà lâu thế! Chẳng lẽ bỏ mặc mình ở đây. Đói bụng.
Về nhà hãy hay. Chà! Sao mà mót đái. Bé nhìn thấy một cái khe sáng lờ mờ. Cậu lần
mò tụt xuống giường sờ soạng đi về phía đó. Cậu va phải một chiếc ghế. Chiếc ghế
đổ đánh rầm. Có tiếng những con vật kêu “chí, chí”. Nghe những tiếng kêu đó Bé
đâm ra vững dạ. À! Hoá ra chỉ là những con chuột. Bé đã lần đến chỗ có vệt sáng
và sờ thấy cánh cửa ra vào. Ánh sáng lờ mờ bên ngoài lách qua một khe nứt nhỏ
trên cánh cửa ấy. Bé đẩy cánh cửa. Nó chỉ dịch một tí ti. Bé lay và xô mạnh. Ở
ngoài vướng chiếc móc.
- Mở ra! Anh gì ơi! Mở ra, để em về.
Không có tiếng đáp lại. Phải gọi to nữa.
- Anh gì ơi! Mở cửa cho em.
Vẫn chẳng ai thưa. Ức quá! Ức phát khóc được đây này. Không!
Không được khóc!
- Anh gì ơi! Mau mở cửa cho tôi!
Bây giờ là tiếng la chứ không còn là tiếng gọi nữa. Nhưng
cũng chẳng ăn thua. Bé đẩy mạnh cửa từng chập nhịp với tiếng la:
- Mở ra! Mở ra! Mở cho ông về!
Cô giáo vẫn răn Bé không được xưng “ông”, cả ông nội, cả mẹ nữa
cũng bảo vậy, nhưng lúc này tức quá, Bé quên béng đi.
Đột nhiên “gâu! gâu!” rồi tiếng móng chân cào cửa. Chú
Mực! Trong khoảnh khắc, người Bé nhẹ lâng đi như vừa thở phào một tiếng rõ dài,
rồi có một luồng máu ấm lan truyền khắp cơ thể. Bé dồn sức lay tấm cánh cửa.
Bên ngoài Mực không sủa nữa, chỉ kêu hực hực và gần như đứng dựng hai chân sau,
áp mõm vào cánh cửa, chân trước cào mạnh. Chú cào vào đúng chỗ cái móc lúc này
đang bập bênh do Bé xô phía trong. Giá là chú khỉ thì có khi đã biết khều cái
móc ra. Đằng này Mực chỉ biết dùng móng chân bươi. Nhưng cũng may! Bé ở trong vừa
đẩy mạnh vừa lay, Mực ở ngoài cào lên cào xuống nên cái móc cứ tuồi ra dần dần.
Đến một lúc: “phựt”, cái móc bật ra và cánh cửa xô mạnh vào Mực làm chú ngã vật
xuống. Còn Bé thì như bị ai dúi một cái bổ soài trên thềm nhà. Mực vừa bị ngã,
vừa bị va vào cánh cửa đau điếng. Như mọi lần thì chú đã kêu tướng lên “ăng!
ăng! đau! đau!” làm nũng với cậu chủ. Nhưng lúc này chú vội vùng dậy chạy đến
bên Bé xoắn xít ngửi hít và thè lưỡi liếm. Đang nằm sấp và cảm thấy đau ê ẩm,
Bé xoay người vòng tay ôm lấy cổ Mực, suýt ứa nước mắt ra. Cậu tựa vào cái thân
hình rắn chắc và ấm nóng của con vật đứng lên. Bấy giờ, cậu mới biết mình bị
thương ở cùi tay và đầu gối.
Giờ thì Bé đã thấy vững tâm. Cậu cũng thấy phải mau mau rời
khỏi nơi đây. Cậu vuốt lưng và xoa đầu, xoa sống mũi Mực để làm nguội bớt cơn mừng
rỡ cuống quít của chú bạn bốn chân, rồi lần bước tìm đường ra. Chừng như Mực hiểu
ý chủ, lon ton chạy trước. Bé đi khập khiễng, mỗi bước mỗi thấy đau rát nơi
chân, nhưng ý nghĩ của cậu đang hướng về nhà, hướng tới mẹ và ông nội chắc đang
nóng lòng lo cho cậu. Lối ra tối tăm và khuất khúc. Với Mực thì đó chỉ là chuyện
vặt, nhưng với Bé thì lại là chuyện khác. Mực không biết điều đó hay vì nôn
nóng đưa cậu chủ ra thoát nhanh nên chú quên mất? Thành thử chốc chốc chú phải
quay lại đón Bé. Lần mò mãi rồi Bé cũng ra tới chiếc cổng sắt. Bé đứng tần ngần
trước bức tường và tấm cánh cổng nhẵn lì và quá cao ngay cả với người lớn. Mực
đã chui tọt ra ngoài. Quay lại nhìn không thấy Bé, chú kêu ấm ức trong cổ có vẻ
phàn nàn và thúc giục. Chú lại chui qua lỗ vào trong cắn quần Bé lôi đến bên
cái lỗ. Chú lại quên! Bé chui sao lọt!
Mực bỗng rít lên, cuống cuồng day day chủ. Bé chưa đoán ra tại
sao thì đã nghe bên ngoài loáng thoáng tiếng người. Có tiếng mở khoá. Theo phản
xạ tự nhiên, Bé định tìm nơi núp, nhưng rồi cậu vẫn đứng yên. Cánh cổng hé ra,
hai bóng người lách vào. Đó là lão Sẹo và Gi Pích. Hai người từ nhà Bé trở về
trong chiếc xe đã vô tình chở Mực, sau khi cho Gồ xuống xe trước để lo liệu gì
đó, đã đi ăn nhậu với Tài Râu, bây giờ mới khật khưỡng về tới đây. Họ bỗng giật
mình toát mồ hôi, tỉnh cả rượu, khi thấy lờ nhờ có người đứng ngay trước mặt.
Lão Sẹo bấm đèn pin. Khi nhận ra Bé, lão trấn tĩnh ngay, lấy giọng hồ hởi:
- Thanh đấy à? Bọn qua đi mua thức ăn về cho em đây. Em đi
đâu đấy? - Lão lờ tịt không hỏi làm sao Bé thoát ra khỏi phòng được.
Bé giận dỗi:
- Đi về nhà. Chờ các anh lâu quá.
Nói rồi, Bé xăm xăm đi về phía cánh cổng đang mở hé. Lão Sẹo
ra hiệu cho Gi Pích khép nhanh cánh cổng lại rồi tiến lại gần Bé:
- Các anh chữa xe mà chẳng được. Thôi để đến mai. Bây giờ quá
khuya rồi, đi đường công an họ bắt chết.
Bé kêu to: - Không! Và, né tránh lão, Bé chạy đến bên cổng định
mở ra. Nhưng Gi Pích đã cài sập then lại rồi. Anh ta túm lấy Bé lôi trở vào. Bé
vùng vẫy một cách bất lực:
- Bỏ tôi ra! Bỏ tôi ra!
Nãy giờ, Mực đứng trong bóng tối lừ mắt trông chừng. Đến lúc
này, chỉ hai bước chân, chú chồm tới ngoạm vào tay kẻ đang bức hiếp chủ và bạn
của chú. Gi Pích thét lên một tiếng đau đớn buông Bé ra, đưa tay trái chịt chỗ
bị cắn. Lão Sẹo lia đèn pin, kêu lên kinh ngạc:
-Ở đâu ra con quỉ này? Chà mẩy ghê. Được chầu nhậu trời cho
đây.
Nhanh như làm trò ảo thuật, lão rút ra một con dao găm nhoặn
hoắt giấu ở đâu trong người không biết, lấy thế lừ lừ tiến lại gần con chó. Bé
vội lao tới đưa cả hai tay giữ chặt cổ tay cầm dao của lão, kêu to như quát:
- Không được đụng tới chó của ta!
- À, té ra là chó của bé Thanh. - Lão Sẹo thốt lên ra vẻ thán
phục - Giỏi nhỉ! Tìm được đến đây với chủ cơ đấy. - Lão gỡ tay Bé một cách dễ
dàng, thu dao lại - Dữ khiếp! Thôi được. Biết bảo vệ chủ thế là tốt. Qua sẽ thưởng.
Nhưng Bé phải dỗ nó để nó đừng hiểu lầm bọn qua, nghe! - Lão ra hiệu ngầm cho
Gi Pích đang muốn quật chết tươi con vật.
Bé không thấy cái hiệu ngầm ấy, nhưng cậu cảm thấy trong giọng
nói ngọt xớt của lão Sẹo mối đe doạ đối với bạn của cậu. Trong vùng ánh sáng của
chiếc đèn pin, Bé thấy Mực đang ém mình thủ thế, mắt hết liếc chủ lại gườm gườm
nhìn hai kẻ kia. Bé đến bên Mực vuốt nhẹ từ đầu đến cổ rồi bất ngờ chỉ tay ra
phía cái lỗ hổng, miệng suỵt. Hiệu lệnh có nghĩa là “chạy đi!” đã quen
thuộc đối với Mực mỗi lần chú theo chủ đi xa khỏi nhà mà Bé muốn Mực quay về. Lần
nào Mực cũng làm theo ngay. Nhưng lần này Mực vẫy đuôi, thè lưỡi liếm mép nhìn
chủ, lưỡng lự. Gi Pích vẫn ôm tay đau đứng cạnh lão Sẹo, bèn huých cùi tay vào
lão có ý giục lão phải ra tay ngay kẻo con mồi sổng mất. Song lão ghé tai y bảo
nhỏ: “Điều cần là làm yên bụng thằng bé và giữ được con chó ở lại với nó, rồi
thịt sau”. Lão hắng giọng bảo Bé:
- Thôi mà! Cứ để chú khuyển này ở lại cho vui, quanh quẩn làm
bạn với em càng tốt chứ sao. Chẳng ai làm gì nó đâu. À, qua có quà cho nó đây.
Lão vừa dứt lời thì một mẩu bánh mì kẹp ba - tê thơm phức rơi
bộp xuống cạnh Mực. Mực đưa mũi ngửi ngửi nhanh rồi ngửng nhìn chủ dò hỏi. Chú
đã được luyện không ăn từ tay người lạ. Bé xua tay và đẩy nhẹ lưng Mực ra lệnh,
giọng dứt khoát: “Mực! về nhà!”. Mực ngọ nguậy đôi tai, quất
nhẹ đuôi, xoay người, và chỉ một thoáng đã trườn qua lỗ hổng.
Gi Pích dậm chân, nhưng lão Sẹo lại cười lên khà khà:
- Úi chà! Xua chó đi rong ngoài phố, người ta cấm đấy. Họ đập
chết mất thôi. Kìa! Gọi nó trở lại đi!
Bé đâm bối rối, nhưng cậu quyết định ngay:
- Mở cổng ra để tôi về cùng nó!
Lão Sẹo sầm mặt lại, nhưng rồi tươi cười ngay:
- Nói vui vậy thôi. Con chó này khôn chán. Chẳng ai làm gì được
nó đâu. Nào! Bé Thanh hãy vào đây chờ một lát để anh Gi Pích đi kiếm xe đưa bé
về nhà nào. Kiếm hẳn một chiếc ôtô ấy.
Lão lại gần, giơ tay định xoa đầu Bé. Bé nguẩy người tránh,
phụng phịu:
- Chẳng cần xe nữa đâu.
- Cần chứ! - Lão Sẹo vồn vã - Đi bộ hết đêm cũng chẳng tới
nơi được. Cứ vào đây đã, bé phải ăn chút gì chứ. Cả ngày nhịn đói rồi. - Bé lắc
đầu - Ừ, không muốn ăn thì thôi, nhưng cũng phải vào lấy cặp sách. Hay là vứt
sách vở đi để đến trường cô giáo không cho vào lớp.
Bé cắn móng tay nghĩ ngợi rồi miễn cưỡng quay vào.
VIII. BƯỚC PHIÊU LƯU TIẾP CỦA MỰC
Ra thoát ngoài bức tường, Mực quay đầu nhìn lỗ hổng giây lâu
rồi mới rời đi. Ban đầu chú bước rồi chuyển sang chạy. Đã quen lối nên chẳng mấy
lúc chú đã ra đến đường phố lớn lúc này vắng tanh vắng ngắt. Đi hướng nào bây
giờ? Gay quá! Đường phố vốn là chốn khá xa lạ đối với Mực. Đường phố nơi đây lại
thênh thang và dài tít tắp làm chú ngợp. Chú nghi ngại, trông trước, ngó sau,
nhìn ngược, ngóng xuôi, cái đuôi quặp xuống. Lưỡng lự mấy thoáng rồi chú rẽ phải.
Hãy cứ thế đã. Chú chạy gằn trên vỉa hè sát trước các nhà dọc phố. Chốc chốc
chú dừng lại làm cái việc đánh dấu đường đi, có nghĩa là chú ghếch một chân sau
tè ra ít giọt vào gốc cây, gốc cột điện hoặc một góc khuất trước hiên một nhà
nào đó. Đấy là thói quen của họ nhà chó mỗi khi đi vào xứ lạ. Rõ ràng việc này
phạm vào qui tắc vệ sinh đường phố. Nhưng cũng chẳng sao. Một là, quả tình chú
không biết, chẳng như con người có khi biết sai mà vẫn cứ làm bừa. Hai là, chẳng
ai mắng chú cả, vì có bóng người nào đâu. Ba là, chỗ chú són ra chẳng bằng một
tẹo so với những gì mà một số cậu bé ngỗ nghịch và xấu tính vẫn đứng ngay trên
hè đường ngang nhiên phóng bậy ra. Vậy là Mực ta vừa chạy vừa đánh dấu đường
đi. Tất nhiên là cả đánh hơi nữa. Nhưng chẳng có gì để đánh hơi ở đây. Chú cứ
tiến hoài theo đường phố thẳng. Đôi lúc thân hình chú khẽ run lên. Hơi lạnh đêm
khuya thấm vào hay nỗi cô đơn, lạc lõng làm chú rùng mình? Chưa bao giờ chú đi
xa mà không có cậu chủ. Mà lần này thì xa quá là xa! Phải về được đến nhà tìm
ông chủ lớn. Cậu chủ còn ở nơi kia không chui ra được.
Chú vừa chạy quá một ngã tư thì từ một phố ngang nghe có tiếng
chân rầm rập, rồi những tiếng quát giật giọng: “Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!”. Chẳng
hiểu mô tê gì, chú hoảng kinh soãi chân phóng. Đằng trước chú cũng có một kẻ
đang chạy, vác một bọc to sù. Tiếng chân chạy và tiếng quát phía sau vẫn đang
bám theo. Kẻ chạy trước Mực ngoái cổ lại trông thấy Mực mỗi lúc một gần bèn quẳng
cái bọc nghe đánh “phịch”. Mực giật thót mình, nhảy chéo sang một bên tránh
theo bản năng loài chó. Rồi cũng theo bản năng, chú dừng vội ngửi cái bọc. Chẳng
có gì dính dáng đến chú. Chú lại tiếp tục chạy. Thằng trộm đã biến mất. Những
người mất của chạy đến vui sướng nhặt cái bọc lên. Hẳn họ không biết Mực đã vô
tình góp công quyết định giúp họ lấy lại của bị trộm.
Mực càng không biết công tích ấy của chú. Chú đi tiếp con đường.
Phía trước hiện lên một đám cây, rất nhiều cây, giống cái vườn của chủ Mực, mà
cũng không giống hẳn vì rộng hơn nhiều, thưa cây hơn, có bãi cỏ, có ghế đá, có
mưa trên một cái ao tròn. Mực đi vào đó luẩn quẩn một lúc rồi đứng lặng, đuôi bất
động, tai giương lên, lưỡi hơi thè ra, mắt hơi đung đưa. Ấy là dấu hiệu chú
đang nghĩ lung lắm. Khó ghê! Chú liếm mép, hấp háy mắt, rồi quyết định quay lại
phía đường. Chợt chú nép vào dưới một lùm cây. Có hai người đang đi đến. Mực vẫn
đứng yên trông chừng. Bỗng chú quẫy đuôi rồi vẫy loạn lên. Đó là hai người công
an, trong đó có một người đã đến nhà Bé lúc ban chiều sau khi được báo Bé bị lạc.
Còn người kia hay đến nhà Bé xin nước mưa pha trà. Anh này cũng đã có lần giúp
ông nội của Bé tập cho Mực. Hai người phát hoảng khi thấy một con chó từ bụi
cây xồ ra. Một anh đã đưa tay sờ bao súng đeo bên hông. Nhưng con vật không có
vẻ gì là có ác ý. Trái lại, nó nhẩy quẩng lên hoan hỉ, đuôi ngoáy lia lịa. Anh
kia nhìn kĩ nghi hoặc:
- Quái! Hình như là con Mực nhà bé Thanh. Làm sao mà nó lang
thang ở đây nhỉ? Bọn ta đi tìm chủ nó thì lại vớ được nó.
Số là ở nhà Bé, sau khi lão Sẹo đi rồi, ông nội đi báo công
an. Mẹ hơi lo vì lời đe doạ bóng gió của kẻ kia. Nhưng ông đã quyết. Người công
an trực đồn nghe ông tả kẻ đến tống tiền cứ gật gù. Trong trí anh ta, đang hiện
lên hình dạng của một tên lưu manh lợi hại mấy lần tự nhiên lặn mất. Sau đó, một
điều tra viên được phái đến nhà Bé tìm hiểu thêm. Anh này chú ý đến chiếc khăn
tay lão Sẹo để lại. Anh thận trọng dùng cặp gắp bỏ vào một tờ giấy sạch gói lại
mang về đồn.
Sự việc được báo gấp lên cấp trên. Chừng một giờ sau, mấy tốp
công an tuần tra được giao nhiệm vụ săn lùng kẻ gian vừa ló ra đã lại biến đi.
Có tốp mang theo chú béc-giê mà Mực đã biết và không mấy thiện cảm. Có tốp đi
xe ba bánh. Hai người mà Mực bắt gặp trong công viên thuộc tốp thứ ba. Anh người
quen của gia đình Bé đang định cúi xuống xoa đầu Mực thì chú đã cắn áo anh giật
giật, rồi nhả ra chạy đi. Hai người công an ngớ ra. Mực chạy một quãng, ngoảnh
đầu lại thấy họ vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ, chú bèn kêu lên: “Gâu! gâu!mau!
mau!”. Hai người chợt hiểu, bèn đi theo con vật. Chú chó mừng rỡ rít lên khe khẽ
quay ngoắt lại chạy trước dẫn lối. Lúc đầu chú còn hay ngoái lại dòm chừng. Về
sau, thấy hai người vẫn bám sát chú, chú yên tâm tập trung vào việc nhận đường.
Đã đến đầu đường phố lớn trổ vào công viên. Tới đây, Mực lâm
vào thế lúng túng to. Lúc nãy, mải chạy hoảng vì cảnh đuổi trộm, chú đã quên
đánh dấu đường một quãng dài. Chú sục xuống ngửi lòng đường, hè phố mãi mà chẳng
lần ra. Chú bối rối đưa mắt nhìn hai người ra vẻ chịu lỗi rồi lại cúi xuống
đánh hơi rà tìm. Lúc lúc chú lại liếc mắt nhìn hai người. Chú mong được trợ
giúp, hay chú sợ bị họ cho là chuyện vớ vẩn, họ chán họ bỏ đi mất? Mà một trong
hai người đã định bỏ đi thật, nếu người kia không khuyên ráng chờ. Vừa lúc tốp
đi xe ba bánh trờ tới. Hai tốp bàn định với nhau. Sau một hồi bàn cãi, họ đồng
ý với nhau là kiên nhẫn đợi xem chú chó này giở trò gì. Anh công an quen lại gần
vẫy tay động viên Mực. Mực vững tâm dò tìm xa ra mãi. Khi tất cả mọi người đều
đã bắt đầu sốt ruột thì thấy Mực chạy tới, đuôi ngoắt tíu tít. Mực chỉ kịp kêu
lên một tiếng “gâu!”, ý giả là giục “mau!”, rồi vòng gấp chạy ngược trở lại. Cả
hai tốp tuần tra vội ngồi dồn lên chiếc xe ba bánh bám theo Mực. Hết đoạn đường
phố lớn, rẽ vào ngõ, Mực dẫn công an đi mãi. Và kia, chiếc cổng sắt không còn
xa lạ đối với Mực đã án ngữ trước mặt. Mọi người xuống xe đứng nhìn ngắm và
quan sát một lúc. Đây là mặt sau khu tiểu công nghiệp bị thua lỗ đang chờ thanh
lí mà lại đang vướng chuyện tranh chấp đất đai. Toàn bộ đang bỏ trống, nơi ẩn
náu lí tưởng cho chuột bọ và kẻ gian. Chẳng biết bọn nào đang lót ổ tại đây? Mọi
người tiến đến chiếc cổng. Cánh cổng khép kín, lì lợm, bí hiểm. Một người, rồi
hai người ghé vai đẩy vẫn không chuyển. Đã mấy lần Mực chui qua lỗ hổng vào
trong rồi lại chui ra chạy đến bên đám người đang bàn tính, cặp mắt ướt ngước
nhìn như chất vấn, như hối thúc. Mấy người xúm lại công kênh một người trèo lên
nhảy vào trong. Phía trong cài then ngang rất chắc. Cánh cổng vừa mở ra, Mực đã
bươn bả chạy trước.
Nhóm người để một anh ở lại trông xe rồi theo Mực xông vào. Họ
đi đến căn phòng mà Bé vừa bị nhốt. Cửa phòng đóng. Nhưng khi một người thử kéo
cánh gỗ thì nó kêu rít lên và mở ra ngay. Dưới ánh đèn pin sáng loá, trong
phòng bày ra một cảnh tượng lộn xộn, bừa bãi những thứ vất đi. Không còn đống
bánh kẹo trên bàn. Những ngăn tủ gỗ xấu xí há rộng phô ra những vỏ đồ hộp, những
vỏ chai, những vỏ bao thuốc lá nhập lậu. Nhóm công an quyết định giữ nguyên hiện
trường chờ bộ phận chuyên môn đến làm việc. Mọi người đang định quay ra theo lối
cũ thì Mực đã kêu lên một tiếng chạy tót về hướng ngược lại. Đầu chú chuồi tới
trước, mõm rà sát đất, đuôi ngúc ngắc. Chú chạy gằn, không ngoái lại dòm chừng
từng lúc nữa, tin chắc mọi người sẽ đi theo. Mực dẫn nhóm người theo một lối đi
ngoắt ngoéo, có khi len giữa các bức tường, cuối cùng lần đến một cái cửa ngách
nhỏ trổ ra một đường phố hẹp tối om không có đèn đường. Đến đây, Mực nhảy cẫng
lên, rồi tung tăng chạy quẩn giữa đám người ra vẻ hể hả lắm. Nhưng chú sớm thất
vọng. Mấy người công an sau khi cúi xuống lò dò xem xét một hồi, ngửng lên ra
hiệu cho chú dẫn đường tiếp. Nhưng Mực cũng đang bí. Mới đầu, Mực hăm hở vì hơi
người thân dậy lên, nhưng rồi chú chỉ bắt được hơi ấy trong một vòng khá hẹp. Đến
một lúc, chú đành dừng lại, đứng yên, đuôi lia ngang rồi thõng hẳn xuống, đầu
ngửng lên thẳng đơ, mắt hấp háy, và … chú lại liếm mép. Mấy người kia cũng bối
rối không kém.
IX. BÉ TÌM CÁCH THOÁT THÂN
Để Mực sổng mất không chỉ là mất bữa đánh chén, mà sẽ tai hại
hơn nhiều. Gi Pích muốn đuổi theo giết; lão Sẹo biết không thể, trừ phi chúng sẵn
súng. Mà dùng súng lúc này thì “lạy ông tôi ở bụi này” còn gì! Thế là chúng quyết
định chuyển ổ. Hai người bàn nhau bằng tiếng lóng nên bé không hiểu, nhưng qua
thái độ và giọng nói của họ, cậu cảm thấy có điều gì mờ ám. Nhưng Bé tạm yên
lòng vì lão Sẹo cả quyết rằng sẽ dùng ô tô chở cậu về nhà. Sau khi Gi Pích đi,
lão Sẹo vơ trên bàn, trong tủ những thứ cần mang đi nhét đầy một bị lớn. Xong,
lão cẩn thận khép cửa phòng lại, rồi dắt Bé theo một lối mà chẳng bao lâu sau
đó Mực đã lần ra. Đến cái cửa ngách, lão Sẹo loay hoay không mở được vì lão đã
để lạc mất chìa khoá. Bực mình, lão dùng một thanh sắt nhỏ ngoéo một cái, ổ
khoá bị bật tung. Ngoài đường đã có một chiếc ô tô chờ sẵn, trong ca-bin là Tài
Râu và Gi Pích. Tài Râu cằn nhằn:
- Người ta đang ngon giấc cũng cứ lôi dậy.
Lão Sẹo giọng giễu cợt:
- Phải rời mèo vào giờ này thì cũng sầu đời đấy nhỉ.
Lão đẩy Tài Râu ra, tự mình ngồi vào trước tay lái:
- Để tao lái cho. Chú mày dành sức mai vù đi sớm lấy hàng cho
kịp kế hoạch của chúng nó, không thì chúng nó gõ vào sọ chú mày lại liên luỵ đến
bọn anh.
Lão để Bé ngồi sát bên cạnh, đưa cho Bé một chai nước mở nút
sẵn bảo uống. Bé nói mình không khát, lão cũng cứ ấn vào miệng. Trong bóng tối,
Bé không thấy rõ là nước gì. Nhưng khi nhấp một tí, Bé nhận ra thứ nước màu hồng
mà lão đã đưa cho Bé uống hồi trưa. Bé sợ mùi nước thơm hắc này. Bé sực nhớ hồi
nãy trước khi đi gọi xe theo lệnh lão Sẹo, Gi Pích lục tủ lấy một chai đưa lên
miệng định tu thì lão Sẹo quát khẽ:
- Chớ đụng vào chai nước màu hồng!
Gi Pích lầu bầu:
- Bừa thật! Để lung tung thế này thì có ngày ông cho tôi gục
trên tay lái khi xe đang lao nhanh.
Lão Sẹo đã mở máy. Chiếc xe rung lên rồi chuyển bánh. Lão lái
một cách tự tin. Bé liếc nhìn lão rồi lén giấu cái chai xuống dưới ghế ngồi. Gi
Pích và Tài Râu đang chuyền tay nhau một cái chai khác. Mùi rượu mạnh hoà trong
mùi xăng. Bé dựa người vào lưng ghế, duỗi người ra, nhắm mắt lại. Bé đã mệt lắm,
song không muốn ngủ, không thể ngủ được. Mẹ và ông nội đang lo lắm đây. Còn Mực
nữa. Chẳng biết nó đã về tới nhà chưa? Buổi chiều có cuộc họp lớp bàn chuyện đi
cắm trại, vậy mà…
Xe đã rẽ qua mấy phố hẹp. Lão Sẹo dừng xe, bảo Gi Pích và Tài
Râu chạy đi lấy những gì đó mà lão bảo “phòng xa”. Lão thò đầu ra ngoài cửa xe
dặn hai người, giọng khê nặc:
- Chớ có la cà! Không phới nhanh thì om xương đấy!
Hai người kia đi rồi, lão Sẹo xoè lửa soi Bé. Mắt lão gườm gườm.
Chẳng còn đâu vẻ mặt xởi lởi mà lão vẫn trưng ra với Bé. Thấy Bé có vẻ ngủ say,
lão nhếch mép cười ruồi. Lão châm một điếu thuốc lá, ngả người chếch đầu vào
thành ghế phì phèo hút. Trong tư thế nửa nằm, nửa ngồi ấy, lão vẫn luôn luôn đảo
mắt quan sát phía ngoài xe và lắng tai nghe động tĩnh. Ánh sáng đèn thuỷ ngân
cao áp từ một ngã tư phía xa chiếu lờ mờ đường phố nhỏ nơi chiếc xe đang đậu.
Chợt lão dụi tắt vội điếu thuốc lá và thu người lại. Phía sau, có hai người đi
tới mang theo con gì to bằng con bê mấy tháng tuổi. Đến cạnh xe, con vật khịt
khịt mũi, rồi kêu hực lên chồm cả hai chân xô mạnh vào cánh cửa buồng lái, nơi
lão Sẹo đang nép người cảnh giác theo rõi. Nhanh như cắt, lão xoay người, vừa sửa
thế ngồi sau tay lái, vừa đưa tay mở nút công-tắc-điện, khởi động máy và dậm
chân ga. Một tiếng quát: “Đứng lại!”. Nhưng chiếc xe đã rú máy phóng vèo đi để
lại đằng sau mấy tiếng sủa ồm ồm tức tối. Đúng là tiếng sủa của chú béc-giê đã
từng được nói tới trên kia. Sau khi được ngửi chiếc khăn mà kẻ gian đã để lại
trong nhà Bé, chú được hai công an đưa đi sục ở những khu vực nghi bọn Sẹo lẩn
quất. Và chú đã đánh hơi đúng kẻ cần phải truy lùng. Nhưng tiếc thay!
°
Lão Sẹo lái xe lao nhanh ra đường phố lớn, đèn pha bật đàng
hoàng, Lão không cho xe chạy qua các đồn công an, các trạm gác, và chú ý phát
hiện từ xa những toán tuần tra. Tay lão ôm vòng lái, mắt lão chăm chăm nhìn ra
trước, nhưng óc lão đang suy tính lung lắm.
… Lão cho xe sà vào một quãng đường tối và đỗ sát dưới một
tán cây rậm. Lão cúi xuống Bé khẽ gọi: “Bé Thanh, Bé Thanh!”. Đợi một tí lại gọi:
“Thanh! Thằng Thanh sún ăn c …”. Thằng nhóc có bị xách tai cũng chẳng tỉnh dậy.
Thuốc mê này là nhạy lắm. Lão nhanh nhẹn rời buồng lái, nhẹ nhàng khép cửa và
biến đi.
Nhưng “thằng nhóc” chẳng ngủ say như lão Sẹo nghĩ. Sự thật
thì nỗi lo âu và mối nghi ngại chẳng thể giúp Bé cưỡng nổi cơn mệt mỏi và buồn
ngủ. Lại thêm tí thuốc mê trót nhấp phải. May mà lúc Bé đang ríu mắt lại thì tiếng
chân con béc-giê cào mạnh ngoài cửa xe làm cậu giật mình mở mắt ra. Bé đang định
ngồi thẳng dậy thì chiếc xe rồ máy giật chồm lên, cậu bị ép mạnh vào thành ghế.
Chiếc xe xóc và lắc dữ. Một thoáng đèn đường hắt vào, Bé nhìn nghiêng thấy mặt
lão Sẹo đanh lại dữ tợn. Bé cảm thấy sợ. Hai người kia chưa trở lại, lão đã vội
cho xe chạy. Tiếng quát. Lão hoảng tiếng quát. Thế thì lão đúng là chẳng phải
người tử tế. Ông ơi! Mẹ ơi! Bé nhớ đến những chuyện đọc được hoặc nghe kể về những
bạn nhỏ dũng cảm không may sa vào tay kẻ gian hoặc quân địch. Bé nhắm mắt mường
tượng. Nếu các bạn ấy lâm vào cảnh ngộ của mình… Lão Sẹo đã cho xe dừng. Lão
nghiêng xuống bên Bé. Bé nghe rõ từng lời lão chọc tức mình. Bình thường thì Bé
đã “bật lò xo” ngay. Nhưng lúc ấy có gì xui Bé giả vờ ngủ. Tim Bé đập hơi mạnh.
Bé như nghe tiếng ông nội mách bảo: “Cứ nhắm mắt nằm im!”, “Đừng thưa!”. Nghe
thấy tiếng lão tụt xuống xe. Tiếng đóng cửa xe. Bé hé mắt, rồi mở hẳn. Phía
trên cửa xe có một khoảng mờ mờ. Bé đưa tay sờ, đụng phải tấm kính dày. Dịch
lên nữa. Tay Bé thò qua một khoảng trống. A, cánh cửa này hở trên. Bé đâu biết
tấm kính ấy nằm trong cửa xe có thể nâng lên hạ xuống bằng một cái tay quay. Vừa
nãy, khi ngồi hút thuốc, lão Sẹo đã hạ tấm kính ấy xuống nửa vời để thông gió.
Sau đó, mải lo chạy trốn, lão không nghĩ tới nữa. Bé thò đầu định chui qua.
Không được! Phía ngoài chẳng có chỗ nào để bám cả. Phải cho chân ra trước rồi
đu hai tay mà thả chân xuống như lần cùng lũ trẻ đố nhau tụt tường cạnh ngõ ấy
mà. Lần ấy bị ông nội mắng và mẹ phạt đứng quay mặt vào tường trong góc phòng.
Nhưng bây giờ… Phải nhanh lên mới được! Khó khăn lắm Bé mới trườn được nửa người
dưới ra ngoài. Hai chân Bé chơi vơi trong không khí. Bề mặt cánh cửa trơn nhẵn,
đạp chân vào cứ chuội đi. Nhưng rồi may, chân quơ đúng tay nắm cánh cửa xe. Tì
một chân vào đó, Bé từ từ thả chân kia, vừa thận trọng kéo đầu ra ngoài khung cửa.
Khi cả thân mình đã lủng lẳng đầu hai cánh tay, Bé mới buông hai bàn tay đang
bám vào mép tấm kính dày ra. Cậu rơi phịch xuống và ngã ngồi trên đất. Ôi chao!
Mông đau ê đi, hai tay buốt xót vì bị sượt mép kính lại vừa phải chống mạnh xuống
đường. Bé gượng đứng lên, chỉ nhăn nhó tí ti thôi. Cậu ngó về phía lão Sẹo vừa
đi, rồi chạy về phía ngược lại. Dẫu có hơi cà nhắc thì vẫn là chạy.
X. PHẢI TÌM CHO ĐƯỢC MỰC
Nơi chú Mực và mấy người công an đang tìm kiếm thì sao? Câu
chuyện có vẻ nghiêm trọng đây! Quan sát kĩ mặt đất, những người truy tìm biết rằng
có một chiếc xe tải đã đến đây, đỗ lại, và đã chạy đi chưa lâu lắm. Như vậy là
những người mà họ đang truy tìm đã lên xe rồi, Mực còn đánh hơi vào đâu được nữa!
Họ bèn lộn trở lại bàn nhau cử một người đến báo với đồn công an gần nhất, cắt
một người phục lại giám sát căn phòng và khu nhà. Số còn lại lên xe về báo cáo
cấp trên xin chỉ thị mới. Họ quên Mực. Còn lại một mình, Mực đứng nhìn bọn người
bỏ đi, đuôi thõng phân vân. Cậu chủ biến đi đâu nhỉ?
Nhưng chú chẳng bỏ cuộc. Không đời nào! Chú tiếp tục sục tìm.
°
Bé chập choạng chạy. Có vẻ như Bé đã chạy được thật xa, nhưng
đường phố trước mặt cứ hun hút và vắng vẻ. Bé rờn rợn. Cứ cảm thấy ớn sau lưng
mà không dám ngay cả liếc nhìn lại. Giá có con Mực bên cạnh lúc này! Bé nhặt vội
hai hòn đá thủ vào hai tay và vẫn chạy. Bước chân Bé đã chuệch choạc lắm. Bỗng
có tiếng gọi: “Cháu ơi! Chạy đi đâu đấy?”. Bé giật mình, càng cố chạy nhanh
hơn. Có tiếng chân đuổi theo phía sau, chỉ một chốc đã gần kịp. Bé quyết định dừng
lại, xoay người thủ thế, mắt giương to, miệng mím lại, sẵn sàng sử dụng thứ vũ
khí đang nắm chặt trong tay. Nhưng người chạy tới chỉ là một cô còn trẻ. Cô này
đang đi gánh nước đêm, trông thấy một đứa trẻ đang hớt hải chạy lúc khuya khoắt
thế này bèn đặt đôi thùng xuống đuổi theo hỏi sự thể ra sao. À, một người không
quen, chẳng làm hại gì mình. Bé nghĩ vậy, định tiếp tục chạy đi. Người đàn bà
giữ lại:
- Cháu làm sao? Cho cô biết xem cô có giúp được gì cháu
không.
- Nó bắt. - Tiếng Bé gần bị lấp trong hơi thở dồn.
- Ai?
- Ở đằng chiếc ô tô ấy. - Bé chỉ tay về phía xa.
- Kể rõ cho cô nghe nào!
Bé chẳng biết kể thế nào, nói lộn xộn chẳng đâu ra đâu, nhưng
chị đoán chừng đã có một tai hoạ xẩy đến với Bé. Chị đưa Bé đến đồn công an phường
gần đó.
°
Bé rời chiếc xe độ mươi phút thì lão Sẹo từ trong một ngõ hẻm
quay trở ra. Vừa đi, lão vừa lầm bầm mắng người đi bên cạnh lão:
- Ngủ gì mà ngủ kĩ thế? Réo mãi mới chịu thòi mặt ra.
Vừa ngồi vào sau tay lái, lão đã mở máy ngay. Nhưng lão sớm
nhận thấy mất đứa bé. Lão lặng đi, nhưng rồi lão cũng đoán ra được khi nhìn thấy
kính cửa xe để hở. Dù đang rất vội, lão cũng nhảy xuống đường nhìn ngược, ngó
xuôi, đưa mắt sục sạo khắp xung quanh. Lão muốn lùng đuổi theo, nhưng lại không
dám nấn ná. Lão gầm gừ trong cổ. Lão cáu lắm. Lão muốn bóp chết tươi “thằng
nhãi”. Vì không thể làm thế nên lão càng cáu. Lên lại xe, lão tháo cái cáu vào
đầu tên tay chân đang ngồi cạnh ngẩn tò te chẳng hiểu chuyện gì đã xẩy ra.
Lão Sẹo chuồn xe ra ngoài thành phố. Nhưng mới đến chiếc cầu
nằm rìa ngoại ô, lão đã bị tóm. Lão không biết rằng nhờ Bé mách về chiếc ô tô,
mạng lưới săn lùng của cơ quan an ninh đã kịp thời thít lại.
Lão bị giải về trụ sở công an quận. Ngồi trước bàn hỏi cung,
lão tỏ vẻ ngoan ngoãn phục tùng cam chịu tội lái trộm xe người khác. Khi bị
truy hỏi về bé Thanh, lão tỏ ra ngơ ngác không hiểu gì cả. Có tiếng mở cửa sau
lưng lão, và một tiếng nói nghiêm khắc cất lên:
- Anh có biết em bé này không?
Lão giật mình quay lại. Bé đang đứng cạnh một người công an.
Lão sụp mắt nhìn xuống. Óc lão quay cuồng. À, thằng bé này ghê thật!
°
Ông nội và mẹ được báo tin. Không chờ người ta đưa cháu về trả,
ông nội đạp xe đến đón. Vừa thấy ông, chưa để ông kịp mừng, Bé đã hỏi ngay:
- Ông ơi, con Mực đã về tới nhà chưa?
- Cháu tìm thấy nó ở đâu? - Ông ngạc nhiên.
- Nó tìm đến chỗ cháu đang bị nhốt không ra được.
- Giỏi! Nó không đi theo cháu à?
- Cháu sợ người ta giết mất nó, cháu đuổi về.
- Ông chưa thấy nó về, nhưng bây giờ thì chắc nó đã ở nhà rồi.
Ta về thôi, cháu!
- Nó bị lạc rồi. - Bé lo lắng.
- Con Mực nhà ta khôn lắm chẳng lạc được đâu.
- Không! Nó lạc rồi. Cháu phải đi tìm.
Cả ông nội, cả mấy người công an không khuyên dỗ được Bé.
Nhưng tất nhiên Bé không được phép tự đi tìm. Bé ngồi ỉu xìu. Bây giờ Mực ở
đâu?
Ông nội đoán rằng nếu Mực lạc thì hẳn nó lại tìm về những chốn
có hơi hướng Bé. Lúc này có thể nó đang quẩn quanh nơi Bé bị nhốt mới đây.
XI. CÓ MỰC ĐÂY
Mực vẫn mải mê sục sạo đánh hơi khi mấy người công an đã rời
đi. Mực quẩn quanh trong ngõ tối mờ mờ. Chợt Mực dỏng tai. Có tiếng chân người.
Ai đó đi có vẻ lén lút về phía cái cửa ngách nhỏ mà lúc nãy Mực dẫn người đi
ra. Hơi người quen quen. Mực bèn lẹ chân đi theo. Bóng đen chui qua cửa ngách,
lần theo lối đi về cái phòng mà bọn gian đã giữ Bé. Khi gần tới, bóng đen thụt
lại nấp sau một gốc cây nhòm ngó. Đó là Gi Pích. Gi Pích và Tài Râu lo xong việc
lão Sẹo sai làm quay lại thì chiếc xe đã vù đâu mất. Chúng đoán đã có chuyện.
Tài Râu bèn đi cất giấu những thứ vừa mang đến. Còn Gi Pích thì lẻn về phòng cũ
để xem kĩ lại có gì cần phi tang không. Đang đi, y ngửi thấy mùi thuốc lá. Đứng
ở chỗ nấp, y nhìn thấy bóng một người ngồi nép cạnh cửa phòng, điếu thuốc lập
loè trên môi. Bọn cớm. Hừ! Rình chộp người ta mà không nhịn thèm được, y cười
thầm. Y rón rén quay lui, rồi luồn nhanh trở lại lối cũ. Nhưng Mực đã chồm tới
quát to: “Gâu! gâu! Chạy đâu?”. Gi Pích cố lẩn. Mực đớp một
miếng vào bắp chân y. Y xoay người rút dao đâm một nhát sượt mang tai Mực. Đã
được luyện, Mực ngoạm vào tay cầm dao của đối thủ. Con dao rơi xuống. Gi Pích cố
sức bóp cổ Mực. Mực đưa hai chân trước cào liên hồi vào ngực, vào tay kẻ thù,
có nhát chân đập trúng cằm Gi Pích. Hai bên đều quyết liệt. Gi Pích to khoẻ,
đêm nay đi lại thong dong toàn ngự trên xe, ăn nhậu xả láng. Không như Mực long
đong gần suốt đêm, đầu hôm ăn cũng không ra bữa. Mực đuối sức dần. Bỗng Gi Pích
oằn người khuỵu xuống. Thì ra anh công an ngồi gác hiện trường đang thả hồn
theo khói thuốc thì choàng tỉnh vì tiếng Mực sủa. Anh ta rút súng cầm tay lần tới
chỗ vật và người đang quần nhau. Không cần đến súng, một nhát chém tay vào gáy
rất ngọt, thế là kết thúc trận kịch chiến cứu nguy cho Mực. Gi Pích bị dẫn đi.
Còn Mực thì ngã vật xuống gần như ngất lịm, chỉ còn thoi thóp. Một lần nữa, Mực
lại bị bỏ quên.
Chưa hốt trọn bọn gian còn náu mình thì chưa yên được. Người
ta đến nghiên cứu căn phòng đã giữ Bé và khu nhà. Bé cũng được đưa tới cùng ông
nội. Người ta chăm chăm muốn hỏi Bé kĩ hơn về bọn gian, nhưng Bé chẳng bụng dạ
nào để trả lời. “Cháu phải tìm thấy con Mực của cháu”.
Mực đang nằm thở khó nhọc trong tình trạng nửa mê, nửa tỉnh.
Bỗng nhiên như có phép thần trợ giúp, chú cất đầu dậy, dỏng tai lên. Chú vừa
thoảng nghe giọng nói thân thương. Đúng rồi! Cái hơi hướng thân thuộc. Chú bật
dậy một cách kì lạ. Chú bước đi, ban đầu còn hơi lảo đảo, rồi chú lao đi. Mọi
người còn chưa kịp ngạc nhiên thì đầu Mực đã đặt gọn vào lòng Bé, một bên đầu
đang chảy máu.
°
Một chiếc com-măng-ca được dùng để đưa ông nội, Bé và Mực về
nhà. Chiếc xe đạp của ông được buộc sau đuôi xe. Sắp lên xe thì Bé sực nhớ đến
chiếc cặp sách. Trước đây, lúc đưa Bé đi, lão Sẹo và Gi Pích đã hứa là sẽ đem
lên ô tô. Sau đó, Bé mệt quá nên quên hỏi. Đến lúc này, Gi Pích cũng ngẩn ngơ
ra không nhớ đã quẳng chiếc cặp nơi nao. Chúng quả quyết là chỉ để quên ở đâu
đó trong khu vực chúng giữ Bé, và xin đi tìm, - cố nhiên có người kèm.
Ông nội bảo Bé:
- Thôi, để rồi mẹ cháu sẽ mua cho cháu chiếc cặp khác đẹp
hơn.
Ông lo Bé ốm, mà mấy người công an cũng đã phờ ra rồi. Nhưng
Bé bần thần:
- Trong cặp của cháu có sách giáo khoa nhà trường cho mượn,
và vở làm bài của cháu nhiều điểm chín, điểm mười cơ.
Ông nội khó nghĩ. Đã mất khá thì giờ mà xem ra vô vọng, thì
may quá! Mực (lại chính là Mực!) đã chạy tót về, miệng ngoạm cái cặp sách.
Trên chiếc xe con, Bé ngồi cạnh ông nội. Chú bạn bốn chân ngồi
dưới chân cậu chủ. Cái đầu quấn băng trắng vươn lên hướng về Bé, đôi tai quặp lại.
Thỉnh thoảng chú đưa cái mũi ướt hít hít quần áo Bé hoặc đưa lưỡi liếm tay Bé.
Bé ấp hai bàn tay phía trên cổ Mực xoa nhẹ. Trong ánh sáng lờ nhờ của đêm về
sáng, cậu thấy đôi mắt mà ánh đèn đường thỉnh thoảng rọi vào ánh lên long lanh
đang nhìn cậu không rời. Mọi nỗi lo âu đã tan biến đi. Bây giờ là một sự bình
yên ấm áp dễ chịu.
Nhà đây rồi. Đèn vẫn sáng. Nghe tiếng xe, mẹ chạy ra ngõ. Bé
ngã vào lòng mẹ. Từ khi lạc vào tay kẻ gian tới giờ, chưa lúc nào Bé để nước mắt
ứa ra. Vậy mà lúc này đây, Bé đang khóc rấm rứt trong vòng tay của mẹ. Chú Mực
chạy quýnh lên quanh hai người, đuôi thì nhong lên hoan hỉ, mồm kêu cuống quít:
“Âu! âu! (Đừng khóc! đừng khóc!)”. Rồi chú len vào giữa, rúc mõm vào bụng
Bé dụi dụi như cù. Bé bị nhột bật cười lên nắc nẻ.
Hải Phòng, 1/1996
Khải Nguyên
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét