Richard Wagner - Thiên thần hay
ác quỷ?
Richard Wagner là một trong
những nhân vật gây tranh cãi nhất trong lịch sử âm nhạc, và có lẽ là trong cả
nghệ thuật. Những cuộc tranh luận bắt đầu từ chính cuộc đời nhà soạn nhạc, hơn
10.000 cuốn sách về Richard Wagner được xuất bản sau cái chết của ông vào năm
1883 và đến nay vẫn còn tiếp tục. Thế giới âm nhạc bị chia rẽ bởi những người
tán thành Wagner và những người chống lại Wagner. Nhiều người đã thay đổi quan
điểm của mình khi họ tìm thấy thêm nhiều tư liệu về nhà soạn nhạc yêu quý của
họ, hoặc tên ác quỷ mà họ căm ghét. Nếu xét về thuộc tính cao nhất của nghệ sỹ,
những thông tin về cuộc sống riêng tư của họ không phản ánh đúng bản chất những
tác phẩm mà họ đã sáng tạo ra. Thông qua cuộc đời Wagner mà không cần giảng giải về sáng
tác của ông, không cần chú tâm hoặc phân tích các phẩm của ông, bởi vì người ta
thường bị hướng về những phản đề trong tinh thần của ông…. Wagner quả thật hết
sức hấp dẫn: một nhà soạn nhạc gây ấn tượng sâu sắc lạ lùng nhưng cũng là một
quái vật đích thực.
Wagner là một hỗn hợp đầy khó
hiểu của tốt và xấu, của sự vĩ đại và tàn bạo, mẫu người thỉnh thoảng lại xuất
hiện trong lịch sử Đức, đất nước của Immanuel Kant và Heinrich Himmler, của
J.S.Bach và Walter Uilbricht, của Johann Wolfgang von Goethe và Joseph
Goebbels. Tính kiêu ngạo của Wagner hoàn toàn bệnh hoạn. Nhà văn Deems Taylor
đã từng viết rằng, Wagner có sự xúc động đầy kiên định của một đứa trẻ 60 tuổi.
Oâng hoàn toàn ngây thơ trước bất kỳ ý thức trách nhiệm nào và không có nguyên
tắc nào trên mọi nẻo đường. Cosima, người vợ thứ hai của Wagner từng là vợ của
một người bạn tận tâm của ông. Và trong khi Wagner cố gắng thuyết phục bà chia
tay người chồng đầu tiên, ông đã viết thư cho một người đàn bà giàu có khác,
người mà ông có thể lấy vì tiền… Wagner có nhiều kẻ thù, từng lăng mạ một người
bạn chỉ vì bất đồng trong quan điểm về thời tiết. Ông hoàn toàn được kết luận
là một kẻ còi cọc, đau ốm hay gắt gỏng nhưng lại là người đàn ông nhỏ bé đầy
sức lôi cuốn của mọi thời đại. Điều gì sẽ xảy ra nếu Wagner là không phải là kẻ
hay lật lọng với bạn bè của mình và những người vợ của họ? Trên thực tế, Wagner
đã lừa dối những người bạn tử tế nhất của mình. Ví dụ, Otto Wesendock, người đã
mua bản quyền hai tác phẩm “Rheingold” và “Walkure” vào năm 1859, đã có nhiều
bài học kinh nghiệm với những đặc điểm tính cách của Wagner, và có thể không
quá giật mình khi được biết rằng, “Rheingold” đã được bán lại một lần nữa cho
NXB Schott of Mainz mà không có lấy một phần hồi đáp từ Wagner cho người giữ
bản quyền. Có vẻ như Otto được đền bù phần bản quyền cho “Gotterddammerung”
nhưng tờ chứng nhận lại chưa bao giờ được thảo.
Sự căm ghét bệnh hoạn của
Wagner với các nhà soạn nhạc Pháp, Đức và Do Thái đã đem lại cho ông một vị trí
biểu tượng đối với Adolf Hitler. Nếu còn sống chắc Wagner có lẽ cũng không
tưởng tượng ra nổi vị đắng này. Cuộc đối đầu giữa Wagner với các nhà soạn nhạc
đương thời như F.Mendelssohn, J.Brahms… đã trở thành những cuộc chiến kỳ lạ
trong thế giới âm nhạc. Không chỉ có vậy, Wagner còn căm ghét tất cả những nhà
soạn nhạc bạn bè và ông ghét tất cả những gì mà ông học được từ họ. Wagner ghét
symphony Scottish của Mendelssohn, ghét Meyerber (mặc dù trong thời gian ở Pháp
đã từng nhờ cậy đến sự giúp đỡ của Meyerber) và nhạo báng những vở grand opera
đặc trưng kiểu Pháp nhưng sau đó lại sáng tác vở grand opera “Rienzi”. Oâng
ghét Scribe (Augustin Eugene Scribe: nhà viết kịch Pháp nổi tiếng đương thời)
và tự viết phần libretto cho vở “Meistersinger”. Sự khác biệt giữa quan điểm mỹ
học, những tác phẩm bút chiến và âm nhạc, những vở kịch của Wagner khiến người
ta cảm thấy hoang mang. Trong “Oper và Drama”, luận thuyết quan trọng nhất của
Wagner về opera cũng như hình thức nghệ thuật, xuất bản năm 1951, ông đã chỉ
trích hết sức khắt khe Mozart: Trong “Opera và tính kịch”, luận thuyết quan
trọng nhất của Wagner về opera như một hình thức nghệ thuật, xuất bản năm 1951,
ông đã chỉ trích hết sức khắt khe Mozart: “Có vẻ như sự nghiệp sáng tác opera
của Mozart không có nhiều nét đặc biệt, cách tiếp cận và khai thác vấn đề của
ông ta thiếu cẩn thận. Mozart không suy nghĩ về tính mỹ học ẩn sâu trong các vở
opera, trái lại ông chỉ sáng tác dựa trên bất cứ đề tài nào bắt gặp mà không hề
có ý thức về nó”.
Trên lý thuyết, Wagner chỉ
trích các đoạn duet (*) và hợp xướng bởi vì phần lời của các trích đoạn này
thường rất khó nghe. Theo những gì Wagner viết, phần lời cũng có vị trí quan
trọng như âm nhạc, thậm chí có thể quan trọng hơn. Thế rồi khi sáng tác
“Tristan và Isolde”, lại có một duet tình yêu kỳ diệu một cách phi thường trong
màn 2 với phần lời được viết ra gần như không thể hiểu nổi bởi sự lấn át hoàn
toàn của phần nhạc tràn ngập cảm xúc. Trong “Meistersinger”, không chỉ có aria,
hợp xướng và ballet (tất cả những thứ mà Wagner căm ghét và xem thường ở
Meyerbeer)… mà còn có cả một quintet! (*) Và bởi vì Wagner là một nhà soạn nhạc
thiên tài nên quintet đó đã trở thành một quintet vĩ đại được viết lên trên sân
khấu opera. Về cuốn sách của Gotterdammerung (Hoàng hôn của các vị thần), với
những chai rượu bỏ thuốc độc, những đoạn hợp xướng và lối sáng tạo đầy táo bạo
trên sân khấu kiểu Scribe, Bernard Shaw, một người bạn thân thiết và ngưỡng mộ
Wagner, đã viết rằng, trong đó có nhiều điểm chung với “Un ballo in Maschera”
(Vũ hội giả trang) của Verdi. Wagner thường tranh cãi rất quyết liệt với các
nghệ sỹ opera về việc dàn nhạc và kịch bản vẫn bị phụ thuộc vào sự trưng trổ
của giọng hát như trong các vở opera của Rossini và Bellini. Wagner đã loại trừ
điều đó ra khỏi “Rheingold” và một phần của “Die Walkure”. Nhưng trong
“Gotterdammerung”, “Meistersinger” và “Parisfal”, với những đoạn hợp xướng đầy
sức mạnh được kế thừa từ Meyerber, Wagner đã sáng tác một vở siêu grand opera
kiểu Meyerber, và trong “Der dliegende Hollander” và “Tanhause”, Wagner thường
chấm dứt các trận đánh bằng những aria đẹp tuyệt mỹ.
WagnerDieWalkure:http://www.youtube.com/watchv=05eVjgMEuWs
Vấn đề chính của Wagner thường
gặp phải, trớ trêu không xảy ra với đối thủ của ông mà lại là với những người
bạn thân thiết. Người bạn gần gũi là Friedrich Niezsche trẻ tuổi, một nhà tư
tưởng vĩ đại của nửa cuối thế kỷ 19, người cho rằng Wagner đã đem lại ý tưởng
về “super man” (siêu nhân). Nhà triết học trẻ Niezsche tìm thấy và ngưỡng mộ
con người lý tưởng lẫn con người nghệ sỹ trong Wagner. Thậm chí, đối với
Niezsche thì Wagner đứng ở vị trí thứ hai sau nhà triết học Schopenhauer. Oâng
nhìn thấy trong Wagner hình bóng người anh hùng của Dionysus… Sự rạn vỡ xuất
hiện khi sự ngưỡng mộ đầy lãng mạn của Niezsche bị thách thức bởi những bài phê
bình âm nhạc đầy sức nặng của Wagner. Niezsche bắt đầu choáng váng khi cảm nhận
được sự giả dối của Wagner. Với đặc ân là người bạn thân thiết, ông đã được đọc
bản thảo viết tay cuốn tự truyện của Wagner và có thể đã có những nghi ngờ đầu
tiên về bản chất của chính tác giả. Niezsche đã lên tiếng sau đó…
Rằng cuốn tự truyện được ban hành của Wagner có nhiều hư cấu. Tôi có thể thú nhận rằng tất cả mọi điểm mà tôi biết từ sự miêu tả của Wagner tôi đều quan tâm với một sự nghi ngờ lớn. Ngay cả trong cuốn tiểu sử, ông ta đã thể hiện một sự thật của mình – ông ta là một nghệ sỹ.
Rằng cuốn tự truyện được ban hành của Wagner có nhiều hư cấu. Tôi có thể thú nhận rằng tất cả mọi điểm mà tôi biết từ sự miêu tả của Wagner tôi đều quan tâm với một sự nghi ngờ lớn. Ngay cả trong cuốn tiểu sử, ông ta đã thể hiện một sự thật của mình – ông ta là một nghệ sỹ.
Vào năm 1873, Nietzsche đã viết
cho Wagner rằng ông không còn tin tưởng bất cứ điều gì thành thật ở trong con
người Wagner nữa. Cuộc tan vỡ này được ấn định chính thức vào 9 năm sau, khi
Nietzsche đến nghe vở “Parsifal”, thứ mà ông gọi là đạo Cơ đốc được cải biên
cho những người hâm mộ Wagner. Nietzsche biết rằng Wagner là một người theo
thuyết vô thần nhưng điều đó đã thay đổi hoàn toàn khi Wagner lấy Cosima.
Nietzsche mặc dù có quan hệ hết sức thân thiết với Wagner nhưng vẫn cứ hoài
nghi về tín ngưỡng của Cosima. Đó không còn là điều bí mật bởi Nietzsche đã
biên tập rất nhiều bức thư bút chiến chống đạo Cơ đốc của Wagner. Nietzsche vốn
thấu hiểu Wagner hơn bất kỳ ai, nên đã cảm nhận sự cơ hội chủ nghĩa và thiên về
tín ngưỡng trong “Parsifal”. Wagner là người quan tâm nhiệt tình đến trạng thái
tâm lý cao đạo kiểu tư sản của người Đức dành cho Chúa, Vua và đế chế.
Nietzsche biết rằng đó là sự ngượng ngùng của Wagner nhằm thỏa mãn công chúng
và thứ tâm lý số đông. Và đó là đoạn kết của một tình bạn đẹp. Wagner có thể
sau này đã sống rất lâu nhưng Nietzsche thì nghiền ngẫm về sự thất vọng và lưu
giữ phần nào sự tin tưởng về việc có khả năng đóng góp vào cuối sự nghiệp.
Nhiều người cho rằng, Wagner là
người có trạng thái tâm lý phát xít bởi về cơ bản, tất cả những điều đó đã hiện
lên một cách tự nhiên trong “Ring”. Tâm lý phát xít là một sự thiên vị sức mạnh
chống lại hòa bình, bạo lực chống lại hòa nhã, trả thù chống lại khoan dung;
một sự ngợi ca sức mạnh và sự khinh miệt với sự yếu ớt; một sự tâng bốc sức
mạnh và chế giễu những đau khổ. ……..
Wagner bắt đầu làm thơ và học triết học. Vào năm 1831, khi 19 tuổi, ông bắt đầu học nghệ thuật đối âm. Hai năm sau, Wagner viết “Die Feen” (Thần tiên) và một vở grand opera lịch sử “Rienzi”. Oâng bắt đầu chịu ảnh hưởng của những người đi trước như Meyerbeer, Halévy, Spontini, Spohr, Méhul, Marschner) và vay mượn thoải mái nghệ thuật của họ. Eduard Hanslick, một nhà phê bình âm nhạc người Aùo gốc Czech, đã phát hiện ra phần cuối màn 1 là sự pha trộn giữa Donizetti vớiø Meyerbeer và phần hợp âm sớm của Verdi. Wagner giận dữ về điều đó nhưng sau đó ông đã im lặng và viết “Der fliegende Hollander” (Người Hà Lan bay), tác phẩm thể hiện tài năng của Wagner một cách rõ rệt (trên cuộc hành trình từ Riga vào năm 1839, Wagner đã phải trải qua những cơn gió dữ dội và theo lời miêu tả của ông thì khủng khiếp hơn cả chuyến thám hiểm của Columbus). Những trải nghiệm này ngay lập tức đã được đưa vào “Der fliegende Hollander”, như sự xuất hiện của người Hà Lan ở màn 1, bài hát của Senta và cuộc gặp gỡ của cô với người Hà Lan và cả phần hợp xướng của những hồn ma ở cuối màn 1. Vở opera được trình diễn ở Dresden vào năm 1843 nhưng khán giả đều cảm thấy đau khổ vì câu chuyện buồn thảm này. Sau 4 lần trình diễn, tác phẩm đã không được dàn dựng trong vòng 22 năm. “Tannhauser” (1845), “Lohengrin” (năm 1847) đều là những vở opera lãng mạn nhưng một lần nữa, đều là sự tỏa sáng của thiên tài Wagner. Với “Tannhauser” là sự kịch tính và kích động trong trạng thái tâm thần phân liệt của phụ nữ, qua hai nhân vật Elisabeth và Venus. “Lohengrin” là một vở opera thần tiên kiểu Đức và trong đó Wagner đã sử dụng những âm sắc cho dàn nhạc theo cách thức hoàn toàn mới mẻ, chưa từng xuất hiện trước đó. “Tannhauser” đã được trình diễn lần đầu tại Dresden vào năm 1845 nhưng trước đó, Wagner đã từng trải qua phiền toái với tác phẩm này vào năm 1861 tại nhà hát Opera Paris. Khi đó, để công diễn tác phẩm, Wagner đã phải viết một phiên bản khác và ngày nay, người ta gọi đó là “phiên bản Paris”. Trong buổi trình diễn lần thứ 2, rủi ro đã xảy ra khi các nhà quý tộc của câu lạc bộ đua ngựa đã tới nhà hát muộn và đã làm ầm lên khi biết rằng đã để lỡ phần ballet lộng lẫy ở đoạn mở đầu màn 1. Sau đó, họ đã tập hợp thành một hội phản đối Wagner. Khi vở opera trình diễn đến lần thứ 3, Wagner bị mất việc.
Wagner bắt đầu làm thơ và học triết học. Vào năm 1831, khi 19 tuổi, ông bắt đầu học nghệ thuật đối âm. Hai năm sau, Wagner viết “Die Feen” (Thần tiên) và một vở grand opera lịch sử “Rienzi”. Oâng bắt đầu chịu ảnh hưởng của những người đi trước như Meyerbeer, Halévy, Spontini, Spohr, Méhul, Marschner) và vay mượn thoải mái nghệ thuật của họ. Eduard Hanslick, một nhà phê bình âm nhạc người Aùo gốc Czech, đã phát hiện ra phần cuối màn 1 là sự pha trộn giữa Donizetti vớiø Meyerbeer và phần hợp âm sớm của Verdi. Wagner giận dữ về điều đó nhưng sau đó ông đã im lặng và viết “Der fliegende Hollander” (Người Hà Lan bay), tác phẩm thể hiện tài năng của Wagner một cách rõ rệt (trên cuộc hành trình từ Riga vào năm 1839, Wagner đã phải trải qua những cơn gió dữ dội và theo lời miêu tả của ông thì khủng khiếp hơn cả chuyến thám hiểm của Columbus). Những trải nghiệm này ngay lập tức đã được đưa vào “Der fliegende Hollander”, như sự xuất hiện của người Hà Lan ở màn 1, bài hát của Senta và cuộc gặp gỡ của cô với người Hà Lan và cả phần hợp xướng của những hồn ma ở cuối màn 1. Vở opera được trình diễn ở Dresden vào năm 1843 nhưng khán giả đều cảm thấy đau khổ vì câu chuyện buồn thảm này. Sau 4 lần trình diễn, tác phẩm đã không được dàn dựng trong vòng 22 năm. “Tannhauser” (1845), “Lohengrin” (năm 1847) đều là những vở opera lãng mạn nhưng một lần nữa, đều là sự tỏa sáng của thiên tài Wagner. Với “Tannhauser” là sự kịch tính và kích động trong trạng thái tâm thần phân liệt của phụ nữ, qua hai nhân vật Elisabeth và Venus. “Lohengrin” là một vở opera thần tiên kiểu Đức và trong đó Wagner đã sử dụng những âm sắc cho dàn nhạc theo cách thức hoàn toàn mới mẻ, chưa từng xuất hiện trước đó. “Tannhauser” đã được trình diễn lần đầu tại Dresden vào năm 1845 nhưng trước đó, Wagner đã từng trải qua phiền toái với tác phẩm này vào năm 1861 tại nhà hát Opera Paris. Khi đó, để công diễn tác phẩm, Wagner đã phải viết một phiên bản khác và ngày nay, người ta gọi đó là “phiên bản Paris”. Trong buổi trình diễn lần thứ 2, rủi ro đã xảy ra khi các nhà quý tộc của câu lạc bộ đua ngựa đã tới nhà hát muộn và đã làm ầm lên khi biết rằng đã để lỡ phần ballet lộng lẫy ở đoạn mở đầu màn 1. Sau đó, họ đã tập hợp thành một hội phản đối Wagner. Khi vở opera trình diễn đến lần thứ 3, Wagner bị mất việc.
Vở “Người Hà Lan bay” kể về
truyền thuyết Davy Jones – truyền thuyết được sử dụng trong bộ phim “Những tên
cướp biển Caribean”: http://www.youtube.com/watch?v=ibWxhwcZI_w
“Lohengrin” là một vở xuất sắc
và có quy mô lớn. Wagner đã viết một mạch 3 màn và khúc prelude. F.Liszt (cha
vợ tương lai của Wagner) đã dàn dựng vở opera này ở nhà hát nhỏ Hoftheater của
ông tại Weimar. Nhưng đáng tiếc quy mô dàn nhạc nhỏ chỉ có 38 nhạc công và ca
sỹ thì chỉ là hạng 2. Dần dần, “Lohengrin” đã được biết đến như một tác phẩm
phổ biến nhất của Wagner. Aûnh hưởng từ Weber hết sức rõ ràng nhưng phải công
nhận rằng Wagner đã tỏ rõ sự vượt trội của mình, không nhà soạn nhạc nào trước
ông lại có thể viết cho dàn nhạc ấn tượng hơn đến mức có thể nói rằng đó là
trường phái ấn tượng.
Vào năm 1849, Wagner đã tham
gia cuộc cách mạng ở Dresden và phải trốn đến Thụy Sỹ nên đã không được thấy
“Lohengrin” được trình diễn tại Đức cho đến năm 1861. Là người tị nạn ở Zurich,
ông đã viết những tiểu luận “Das Kunstwerk der Zukunft” (Công việc nghệ thuật
của tương lai) và “Oper und Drama” (Opera và kịch). Oâng đã bị lôi cuốn bởi
triết lý bi quan của Arthur Schopenhauer và tìm thấy câu trả lời đầy lãng mạn
từ nhà triết học này về bản chất hài hòa tự nhiên của âm nhạc (âm nhạc là giai
điệu… whose text is the world – Âm nhạc là giai điệu mà lời ca của nó (giai
điệu) là thế gian). Ý tưởng vĩ đại và đúng đắn của Schopenhauer đã gây ấn tượng
mạnh mẽ lên tâm hồn của Wagner. Nhưng Schopenhauer còn nói, âm nhạc quan trọng
hơn ca từ, mối quan hệ giữa âm nhạc và phần ca từ là một cuộc hôn phối của một
vị quý tộc và kẻ hành khất. Chủ nghĩa lãng mạn Đức thường cho rằng âm nhạc
chiếm vị thế tối cao trong nghệ thuật nhưng Wagner viết rằng thi ca có thể bắt
nguồn từ thần thoại, rằng nhạc sỹ có thể trở thành bè bạn của nhà thơ.
Dẫu sao, Wagner đã mở ra một khái niệm vĩ đại của sân khấu, nơi kịch, âm nhạc, và ánh sáng đều được kết nối để tạo thành một sức mạnh toàn thể.
Dẫu sao, Wagner đã mở ra một khái niệm vĩ đại của sân khấu, nơi kịch, âm nhạc, và ánh sáng đều được kết nối để tạo thành một sức mạnh toàn thể.
Wagner đã lao động cật lực cho
phần libretto cho các vở opera của chính mình. Trong một lá thư gửi nhà soạn
nhạc Richard Strauss, Hugo von Hofmannsthal, một người chuyên viết libretto, ca
ngợi cấu trúc kịch và sự xuất sắc không thể bắt chước của Wagner đã mở ra một
con đường riêng cho âm nhạc. Một phần libretto tốt có thể đem lại một vở kịch
hay và một người viết libretto vĩ đại hiếm khi xuất hiện hơn là một nhà viết
kịch.
Thơ của Wagner nổi trội ở sự
điệp âm. Trọng âm của âm tiết thứ 3 thường lặp lại âm đầu của âm tiết đầu tiên
hoặc thứ hai, hoặc cả hai. Wagner thường lạm dụng điều này, hy sinh phần cảm
xúc và sự trong sáng, rõ ràng của ngôn ngữ, như aria “Tình yêu sự chết” của
Isolde trong vở “Tristan và Isolde”: “In des Wonnenmeeres wogenden Schwall, In
des Welt-Atems wehendem All” (tạm dịch nghĩa: Hơi thở cuộc sống của tôi đã rời
xa trong hương thơm ngọt ngào, trong sự ráng sức tột đỉnh, trong tiếng vọng
vang rền, trong hơi thở chung của thế gian…). Tại Festival Bayreuth lần thứ
nhất vào năm 1876, Lilli Lehmann vào vai Woglinde trong “Rheigold” đã đem lại
một niềm vui bất ngờ khi hát dòng chữ đầu tiên trong “Ring”: “Weia! Wag! Woge,
du Welle, walle zur Wiege! Wagala weia! Wallala weiala weia”. Đó là vẻ đẹp vô
nghĩa trong tiếng Đức hoặc bất kỳ thứ tiếng nào khác nhưng tất cả các nhà phê
bình âm nhạc đều cảm thấy lâng lâng khi chìm đắm trong âm nhạc. Phần viết dàn
nhạc của Wagner luôn luôn tuyệt vời, có thể trình diễn riêng biệt và không bao
giờ chỉ là phần đệm trên sân khấu.
Giới phê bình âm nhạc đã từng
tranh cãi rất nhiều về việc sử dụng yếu tố leitmotif của Wagner. Wagner đã
không sáng tạo ra nó, Monterverdi đã từng sử dụng yếu tố chủ đề được nhắc đi
nhắc lại này, và sau đó là André Grétry và C.W.Gluck nhưng Wagner đã phát triển
nguyên lý này với một sự phóng túng lạ lùng. Leimotif của ông không phải là sự
rập khuôn kỹ thuật này một cách cứng nhắc và máy móc. Wagner sử dụng leimotif
để miêu tả đặc điểm của hoàn cảnh, nhân vật, xây dựng kỹ thuật viết cho dàn
nhạc. Debussy đã gọi leimotif là danh thiếp của Wagner, nhưng quả thật đôi khi
Wagner đã quá lạm dụng leimotif một cách ngớ ngẩn. Khi Brunhilde rơi lệ trong
màn 3 của Siegfied, motif con rồng lại xuất hiện bất ngờ. Một vài người nghĩ
rằng có thể đây là vấn đề khôi hài cá nhân nhưng sự hài hước của Wagner không
hề tinh tế, ngoại trừ trong “Meistersinger”, khi ông bất ngờ gây ấn tượng cho
người nghe với những sắc thái hài hước kỳ lạ (nhưng tất cả những điều về Wagner
đều không thể đoán trước, cho mọi điều trong thói quen của ông, và cũng có
nhiều biệt lệ). Trong khúc prelude của “Gotterdammerung”, chủ đề tình yêu của
Siegmund và Sieglinde đã được sử dụng một cách khéo léo và đồng thời với sự
hiến dâng của Brunhilde cho con ngựa 8 chân Grane, đã được sử dụng làm
leimotif.
Khi Wagner bị yếu tố hoa mỹ,
tráng lệ lôi cuốn, thứ thường xuất hiện trong các tác phẩm cuối đời, ông viết
những phần âm nhạc giao hưởng tuyệt diệu của vẻ đẹp kỳ diệu của giác quan và
sức mạnh cảm xúc, một trong những điều kiến bất cứ đôi mắt người nghe nào cũng
phải nhắm nghiền và bị chi phối. Vấn đề của việc nghe opera của Wagner là sự
đắm chìm của cảm xúc trên tất cả các nhà hát. Nếu như chúng ta tới tất cả các
buổi biểu diễn opera của Wagner, chúng ta sẽ nhận biết một cách đồng thời những
gì nghe được và thấy được trên sân khấu… và khoảng cách trong chúng ta.
Mọi nhà soạn nhạc đều cảm thấy
vui mừng khi tác phẩm được trình diễn còn Wagner thì còn hơn cả thế. Wagner dù
thế nào cũng là một kẻ ích kỷ nan y – Thomas Mann gọi ông là theatromaniac (một
thứ tình yêu quá mức của nhà hát) – đã đòi hỏi hỏi phải trình diễn tác phẩm ở
nơi linh thiêng, một đài kỷ niệm âm nhạc của ông ta, Festspielhaus tại
Bayreuth, một thứ Valhalla của đế chế Đức (Valhalla là một ngôi nhà khổng lồ,
tráng lệ trong thần thoại Na Uy) . Wagner đã từng ở Bayreuth khi 24 tuổi vẫn
còn là một nhạc trưởng trẻ túng quẫn, vào mùa hè năm 1835 và từng tuyên bố
rằng, đến 10 con ngựa cũng không thể kéo ông ra khỏi nơi này. Wagner thường có
những lời phát biểu ngông cuồng vào những năm đầu đời như thế. Trong vòng một
ngày hoặc hơn thế, Wagner đã lên đường tới Nuremberg để chỉ huy một buổi hoà
nhạc và ông không trở về đây suốt 35 năm. Vào năm 1870, khi cố gắng hoàn thành
“Ring”, ông mới trở lại Bayreuth. Wagner mong muốn xây dựng một nhà hát riêng.
Oâng đã từng viết: “Tôi sẽ xây dựng một ngôi nhà riêng và rèn luyện các ca sỹ
của riêng tôi. Tôi không quan tâm sẽ phải thực hiện điều đó trong bao lâu”.
Wagner đã tới Bayreuth để tham quan nhà hát opera Margrave, một nhà hát theo
phong cách baroque và rộng lớn nhất nước Đức thời kỳ ấy để có thể giải đáp cho
những nhu cầu của ông. Nhưng Wagner đã quyết định lập tức là không bằng lòng
với nguyên mẫu ấy. Khán phòng quá nhỏ và độ vang âm không đặc biệt. Sau đó, ông
đã tới Green Hill, một triền đất dốc nhiều cây cối rộng khoảng một dặm ở phía
bắc thành phố, và kết luận rằng đây sẽ là nơi xây dựng nhà hát lộng lẫy, nguy
nga của mình. Oâng nói: “Không ở bất kỳ nơi nào khác! Chỉ có thể là nơi này!”.
Vào ngày 22-3-1872, công việc xây dựng bắt đầu. Wagner đã sáng tác hành khúc
Imperial nhân sự kiện này và sau đó ông dàn dựng bản giao hưởng số 9 của
Beethoven, tác phẩm yêu thích của ông. Wagner tin tưởng rằng mình đã nhận được
sự ủy thác tiếp tục sự nghiệp âm nhạc từ Beethoven vĩ đại.
Festspielhaus đã được khai
trương vào ngày 13-8-1876. Trong ngày mở màn, một cuộc diễu hành trang trọng
của những nhân vật nổi tiếng và nhà soạn nhạc đã từ trung tâm của thành phố
Bayreuth đến Green Hill. Festival đầu tiên là một màn nghệ thuật thành công
nhưng lại thất bại thảm hại về tài chính (số tiền thiếu hụt lên tới 150.000
mark) và Wagner đã không thể trả nổi nợ cho đến tận năm 1882, một năm trước khi
qua đời. Vào ngày 26-7-1882, Parsifal được trình diễn lần đầu tiên, đây là vở
opera ba màn dựa trên thiên anh hùng ca bằng thơ về Parzival, chàng hiệp sỹ của
Vua Arthur, và cuộc truy tìm Chén Thánh của chàng. Wagner đặc biệt coi Parsifal
không phải là một vở opera mà như một “ein Bühnenweihfestspiel “ngày hội cho sự
hiến dâng của sân khấu”. Wagner đã tập hợp được một dàn diễn viên ngôi sao:
Hermann Winkelmann (Parsifal), Amalie Materna (Kundry), Emil Scaria
(Gurnemanz), và Theodor Reichmann (Amfortas). Người được vinh dự trao trọng
trách chỉ huy vở opera mang tính ngợi ca tinh thần Cơ Đốc giáo này là Hermann
Levi, một người Do thái. Trong Parsifal có một nhân vật pháp sư Klingsor, người
cố gắng mua chuộc các hiệp sỹ Thánh chiến. Thực sự Wagner còn là một pháp sư
cao tay hơn cả Klingsor. Klingsor chỉ là một sự giễu nhại, Wagner thôi miên
chúng ta bằng thứ âm nhạc đẹp kỳ diệu.
Có thể Wagner không phải là một
nhà soạn nhạc theo logic của nhiều người và theo cách đó hình ảnh của ông luôn
thăng trầm bằng tình cảm của khán giả yêu âm nhạc trên khắp thế giới. R.Wagner
đã đưa ra nhiều vấn đề về triết học và đạo đức, một thiên tài … Và có thể cây
hỏi này không thể dễ dàng có được một câu trả lời, nhưng có một điều có thể
chắc chắn. Wagner là một con người phức hợp giữa con người âm nhạc và một người
đạo đức, sẽ còn gây ngạc nhiên, tò mò cho khán giả nhiều năm nữa.
Diana Glazer
Nguồn dịch: Mèo Ngoan Blog
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét