Dù từng chiếm địa vị độc tôn kéo dài nhiều thế kỷ, nhưng ngày nay tuồng Huế
đang dần bị mai một bởi nhiều lẽ. Xét cho cùng, loại hình nghệ thuật độc đáo hội
tụ những cái hay, cái đẹp của: kẻ mặt nạ, trang phục, ca từ, vũ đạo… vẫn còn ẩn
chứa nhiều điều mới lạ đối với người xem trong thế giới hiện đại hôm nay. Điều
này được thể hiện thông qua ngôn ngữ của vũ đạo- một thứ ngôn ngữ múa giúp người
xem có thể cảm nhận được nội dung biểu cảm của nhân vật trên sân khấu.
Diễn viên thể hiện một động
tác trên sân khấu
Vũ đạo tuồng là những động
tác hình thể, được biểu diễn một cách nhịp nhàng cân đối với sự kích thích giàu
tính tiết tấu và giai điệu. Đạo diễn La Hùng (con trai cố nghệ nhân La Cháu-
nghệ nhân tuồng cung đình cuối cùng của triều Nguyễn) cho biết, trong kịch bản
sân khấu tuồng, tác giả có thể mô tả nội tâm nhân vật bằng những đoạn độc thoại.
Nhưng nếu nhân vật chỉ hát mà không có biểu hiện động tác vũ đạo, thì sự chuyển
tải nội dung biểu đạt đến người xem sẽ yếu đi. Do đó, vũ đạo tuồng là một thứ
ngôn ngữ độc đáo, nó có khả năng bổ trợ cho lời nói, điều này giúp khán giả vừa
nghe, vừa xem. Đặc biệt, vũ đạo tuồng có thể phơi bày phần nội tâm của nhân vật
mà lời hát chưa lột tả được.Trong vở tuồng “Giáp thập điều”, Hoàng Phi Hổ khi bỏ
vua Trụ dâm dật, tàn ác ra đi, đồng thời cũng lìa quê cha đất tổ, nỗi lòng “đi
cũng dở, ở cũng không đành” ấy được mô tả: Lụy san san nửa đi nữa ở…Mấy chữ nửa
đi nửa ở thực chưa nói hết được sự ray rứt của Hoàng Phi Hổ, nếu nhân vật không
sử dụng vũ đạo để biểu hiện sự đấu tranh giằng co trong lòng khi sắp vượt qua
biên giới quê hương. Như vậy có thể thấy, vũ đạo tuồng chẳng những góp phần làm
cho việc biểu hiện nội tâm của nhân vật được sâu sắc đầy đủ hơn, góp phần làm
cho sân khấu tác động vào người xem mạnh hơn, mà còn làm cho sân khấu càng trở
nên sinh động đối với người xem.Theo nghệ nhân Hồ Hữu Có- nguyên là giáo viên dạy
vũ đạo tuồng thuộc Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật Thừa Thiên- Huế, nghệ
thuật diễn viên sân khấu đều có hai bộ phận chính: bộ phận “động tác lời” và bộ
phận động tác hình thể. Hai bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ. Trong đó, động
tác hình thể lấy lời ca làm cơ sở, mặt khác nó dựa vào những động tác có thật của
con người trong đời sống hàng ngày.
Trong sân khấu tuồng Huế, khi người diễn viên vừa hát, vừa múa thì vũ đạo tuồng phải tuân thủ nguyên tắc “tứ tương” cổ truyền: Nội ngoại tương quan Tả hữu tương ứng Thượng hạ tương phù Phì sấu tương chế (Nghĩa là: Trong ngoài quan hệ gắn bó nhau, bên trái bên phải ứng tiếp nhau, phía trên phía dưới phù hợp nhau, gầy béo bù sớt cho nhau). Ngoài ra, người diễn viên khi thực hiện các động tác của vũ đạo tuồng, luôn tuân thủ: “phải có âm có dương, có vay có trả, chân nọ tay kia”. Như vậy, nếu hệ thống làn điệu tuồng là phương tiện giúp diễn viên làm cho tình cảm của nhân vật, của tác giả và của bản thân anh ta trở thành “cái có thể nghe được”, thì hệ thống động tác vũ đạo lại làm cho tình cảm trở thành “cái thấy được”. Không những thế, nó còn làm cho không gian trừu tượng trên sân khấu trở thành không gian hình tượng trong tâm trí khán giả. Và các học giả sân khấu khi nghiên cứu về loại hình nghệ thuật này đều cho rằng, nếu hát tuồng là một tổng thể gồm ngữ điệu, ngữ khí, ngữ phong, thanh nhạc, thì vũ đạo tuồng cũng là một tổng thể gồm: động tác tự nhiên, động tác kịch câm, múa.
Trong sân khấu tuồng Huế, khi người diễn viên vừa hát, vừa múa thì vũ đạo tuồng phải tuân thủ nguyên tắc “tứ tương” cổ truyền: Nội ngoại tương quan Tả hữu tương ứng Thượng hạ tương phù Phì sấu tương chế (Nghĩa là: Trong ngoài quan hệ gắn bó nhau, bên trái bên phải ứng tiếp nhau, phía trên phía dưới phù hợp nhau, gầy béo bù sớt cho nhau). Ngoài ra, người diễn viên khi thực hiện các động tác của vũ đạo tuồng, luôn tuân thủ: “phải có âm có dương, có vay có trả, chân nọ tay kia”. Như vậy, nếu hệ thống làn điệu tuồng là phương tiện giúp diễn viên làm cho tình cảm của nhân vật, của tác giả và của bản thân anh ta trở thành “cái có thể nghe được”, thì hệ thống động tác vũ đạo lại làm cho tình cảm trở thành “cái thấy được”. Không những thế, nó còn làm cho không gian trừu tượng trên sân khấu trở thành không gian hình tượng trong tâm trí khán giả. Và các học giả sân khấu khi nghiên cứu về loại hình nghệ thuật này đều cho rằng, nếu hát tuồng là một tổng thể gồm ngữ điệu, ngữ khí, ngữ phong, thanh nhạc, thì vũ đạo tuồng cũng là một tổng thể gồm: động tác tự nhiên, động tác kịch câm, múa.
Mặt
nạ tuồng Huế được triển lãm tại Festival Huế 2012
NSƯT Thanh Long (người được
các bạn nghề chọn là diễn viên hát tuồng hay nhất Việt Nam) cho rằng, khi thể
hiện vai diễn, diễn viên dù có giọng hát hay đến đâu, nhưng vũ đạo không thuần
thục, không đẹp thì khó chuyển tải nội dung biểu hiện của nhân vật đến khán giả
một cách chân thật nhất. Bởi vì, ngôn ngữ của vũ đạo tuồng luôn có một nội dung
riêng của nó, ví dụ: khi nói đến Lưu Bị là nói đến điệu bộ vuốt râu, nói đến
Trương Phi là nói đến bộ khai giáo, nói đến yêu tinh, quỷ sứ, cọp… là nói đến
những điệu bộ riêng mô tả từng loài cụ thể. Ngôn ngữ vũ đạo tuồng Huế là một
phương tiện của nghệ thuật diễn viên chứ không phải là một ngôn ngữ độc lập. Nó
là một kiểu múa của sân khấu, một kiểu “múa tạo hình”. Do đó, người diễn viên
khi biểu diễn trên sân khấu không thể hát múa tùy tiện, mà phải trải qua rèn
luyện, học tập cả một hệ thống cơ bản về vũ đạo cũng như về hát. Đó là điều tất
yếu của mọi loại hình nghệ thuận, nhất là nghệ thuật biểu hiện. Điều này chính
là cái cốt lõi, cái tất yếu, khi người nghệ sỹ muốn chuyển tải những giá trị
nhân bản của nhân vật, của tác phẩm đến với người xem.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét