Trong vườn hoa thơ 6
16- Tiếp khách hoa thơ [6]
13.
Sau khi xa cách Vườn Thơ, Chức Thành có câu:
Nhớ vườn hoa nở ngọt ngào,
Dưới trăng chung bóng ra vào cùng thơ.
Nhưng đã ngót mấy năm nay, nàng không có thơ từ chi cho Vườn Thơ cả. Lão đinh ninh rằng:
Hoa còn đượm mãi vườn xưa,
Lòng thơ năm trước bây giờ đã phai.
Vừa rồi trong khi không chờ đợi, lão nhận được hai nhánh hoa thơ nàng gởi tặng vườn:
DŨ BỤI PHIỀN BA
Thinh thinh áp giũ bụi phiền ba,
Vui với con thơ với mẹ già.
Dâu lúa thú quê mùi đạm đạm,
Ráng mây tình bạn bóng xa xa.
Dịu dàng cánh bướm hương đưa mộng,
Mát mẻ vườn thơ gấm trải hoa.
Thương kẻ tình duyên xuân mới nở
Bên thêm hoa lý lắng oanh ca.
NƠI THÔN QUÊ
Quên tính trăng thu mấy độ tròn,
Mùi quê quen thú lợt mà ngon.
Chuyện đời theo nước trôi đi hết,
Tình cũ trong thơ mở vẫn còn.
Am ỷ ngọn đèn canh nhớ bạn,
Dịu dàng tao võng khúc ru con.
Mây ai biết được lòng vui tẻ
Mỗi bận xuân về dịch véo von.
Xem tình ý trong thơ, lão tự cười mình hay nghi ngờ lẩm cẩm:
- Tình thơ xưa cũng như nay, đông cũng như tây, có bao giờ phai lạt. Tuổi già hay nghĩ lếu thật!
Lão còn đương gật gù ngâm:
Chuyện đời theo nước trôi đi hết,
Tình cũ trong thơ mở vẫn còn.
Thì có khách đến: Bác Vân Sơn TRẦN QUANG DỤC và chị MINH LỆ, một người bạn mới của Vườn Thơ.
Đương lúc cao hứng lão giới thiệu ngay với khách hai thi phẩm của Tuyết Nga. Bác VÂN SƠN trầm ngâm giây lâu rồi nói:
- Lời thơ thanh lão. Vị thơ mới nếm qua đường lợt, nhưng càng chíp chắp càng đượm đà. Câu:
Dịu dàng cánh bướm hương đưa mộng,
Mát mẻ vườn thơ gấm trải hoa.
Thật kịch sự!
MINH LỆ tiếp: - Văn chương đã luyện quá thành ra tự nhiên. Câu:
Am ỷ ngọn đèn canh nhớ bạn
Dịu dàng tao võng khúc ru con.
Rung cảm lòng người một cách nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Cảnh thì là cảnh thông thường mà tình lại là tình riêng biệt.1 tấm điềm đạm nhưng thiết tha.
VÂN SƠN: - Nếu người của tác giả không sống trong cảnh ấy, lòng của tác giả không sống với cảnh ấy, nghĩa là thơ nhất định phải chơn.
Lão tiếp: - Mà thơ muốn chơn thì trước hết người làm thơ phải có tánh tình. Nếu không tánh tình mà cố gắng làm cho có thơ, thì thơ ấy chỉ là những nhánh không hoa lá. Dù có cách vẫn không có thú.
VÂN SƠN: - Có nhiều người không mừng mà reo, không thương mà khóc… Nhưng họ reo cũng rất giòn, học khóc đến ra nước mắt! Những kẽ ấy tưởng có tài làm thơ đấy chớ?
Lão cười: - Bác làm lão nhớ đến một câu chuyện trong Tùy Viên Thi thoại.
- Câu chuyện thế nào?
- Có một thầy đồ đến xin nương tựa nơi một nhà quyền quí. Để tỏ tài văn chương của mình, thầy đồ dâng lên một tập thơ. Nhà quyền quí lặng lẽ ngồi xem, xem hết trang này đến trang khác, không một lời khen cũng không một tiếng chê. Sau đọc đến bài “Thuận hoài” có câu:
Cha chết nằm Vi bắc,
Em đày sang Giang Đông. (1)
Nhà quyền quý buông sách thở dài, và than: “Tình cảnh sao mà thảm quá thế!”. Thầy đồ liền đứng dậy khúm núm bẩm rằng: “Bẩm Đại Nhân, sự thực thật không có như thế. Ngu phu mồ côi cha từ lúc thơ ấu, và trên không anh, dưới cũng không em. Nhân nhớ đến cảnh Vi Bắc mà phải dùng cảnh Giang Đông để đối cho chỉnh, và đã có cảnh rồi phải mượn tình lồng vào cho câu thơ có đủ cảnh đủ tình vậy thôi.
MINH LỆ: - Ở đời sao lại có người kỳ cục đến thế?
Lão đáp: - Đó là không bệnh của những người “cốt lý vô thi” mà lại sính làm thi, chớ có gì là lạ.
VÂN SƠN ngắt lời: - Kết thúc câu chuyện “Vi Bắc Giang Đông” thế nào?
- Không thấy Tùy Viên nói. Nhưng chắc nhà quyền quý mời thầy đồ sang Vi Bắc hay Giang Đông, vì một người không thành thật trong văn chương, thì ngoài đời nhất định không thể thành thật được, mà người đời ai lại thích gần người không thành thật làm chi?
MINH LỆ cười: - Nếu không do miệng thầy đồ nói sự thật ra thì ai biết được rằng thơ thầy nói dối.
Lão đáp: - Hồ ly là giống dấu đuôi rất khéo mà nhiều khi còn bị lộ, huống hồ loài người không tinh ranh bằng hồ ly. Vì thế nhà thi hào Racine của Pháp quốc nói rằng: “II n’y a point de secret que le temps ne révèle”, nghĩa là không có điều bí mật gì mà thời gian không tiết lộ.
VÂN SƠN: - Nãy giờ mãi ham chuyện người mà quên chuyện mình!
- Chuyện gì thế!
- MINH LỆ có một ít hoa thơ muốn tặng lão vườn, nhưng e ngại nên cậy già đến mở “Lời phi lộ”.
- Lời phi lộ đã mở rồi, vậy hãy cho lão xem thơ.
MINH LỆ rụt rè: - Đem Vạn Thọ, nở ngày… đến nơi vườn đầy tường vi, thược dược… thì thật là…
Lão cười, ngâm:
Thanh bằng cung chủy đô tu túy,
Vị tẩn toan hàm chỉ yếu tiên.
VÂN SƠN: - Thơ của ai thế?
- Của Viên Mai.
MINH LỆ: - Viên Mai là người đời nào? Và câu ấy nghĩa như sao?
- Một đại thi hào đời Thanh. Ông ấy luận thi thì dường khoan mà kỳ thật rất nghiêm. Khi soạn bộ Tùy Viên thi thoại, ông đặt ra câu kia để làm khẩu hiệu, đại ý nói rằng: “Tiếng thì cung tiếng chủy chi cũng được miễn sao cho giòn; Còn mùi thì chua mặn chi cũng xong, cốt cho tươi là được”.
Người đồng thời của Viên Mai là TỪ SƠN cư sĩ lại có câu:
Thi chơn khởi tại phân Đường Tống
Ngữ diệu hà tằng lộ khắc điêu
Nghĩa là “Thơ hay há phải chia ra Đường Tống; Lời diệu cần chi phải có sự chạm trổ”, tức là thi cốt ở tánh tình, và không cần phải giống thơ Đường hay thơ Tống mới gọi là hay. Mỗi lần bàn luận về thơ lão không quên hai câu thơ ấy. Vậy MINH LỆ không nên ngại lòng.
MINH LỆ trao tập thơ. Lão xem qua một lượt, nhận thấy phần nhiều nói đến thân phận, tả về nỗi lòng... Có một số bài văn chương đã luyện lắm. Trổi nhất là bài “Chắp mối tơ thưa”.
Tơ đứt cầm loan chắp mối thưa
Ba năm chung gối mộng thờ ơ
Tình xưa nỡ để trôi dòng biếc
Kiếp sống thôi đành ủ giấc mơ.
Gượng nét tàn dung vui với cảnh,
Gói niềm tâm sự gởi vào thơ…
Nỗi lòng ai xét ai không xét
Thương cũng nhờ ơn ghét cũng nhờ.
VÂN SƠN: - Theo già này thì bài "NHỚ HUẾ" ở trong tập cũng là một nhành hoa khả thủ.
Chẳng biết bao giờ viếng cố hương
Cho vơi nỗi nhớ cạn niềm thương.
Gió trăng Cù hải tùy đằm thắm,
Mây ráng Bình sơn mãi vấn vương.
Bến nước còn sâu tình Vĩ Dạ?
Nhịp cầu đã bắt nghĩa Kim Luông?
Đêm qua giấc ngủ rủ hồn theo mộng,
Con bướm ngu ngơ dẫn lạc đường!
Lão gật đầu:
- Văn chương lưu loát lắm. Câu kết thật liến! Lời trong tứ mới. Những câu thơ như thế không phải lúc nào cũng làm được, chứ không phải người nào cũng làm được.
MINH LỆ:
- Lão Vườn muốn khuyến khích mà khen quá lời chăng?
Lão đáp:
- Thơ không hay mà khen thì lời khen chẳng những không có lợi cho người được khen mà còn làm hại cho người khen. Lão đâu có dại. Có người trách lão sao hay khen mà ít thấy chê. Lão chỉ đáp: “Bởi vì lão nhận thấy hay thì lão khen, còn lão không trông thấy dở thì bảo lão chê thế nào được”. Nói là nói vậy, chứ thật ra lão không dám chê ai, nhưng khen người cũng không phải đụng đâu khen đó.
VÂN SƠN: - Thơ hay thì mỗi bài hay mỗi vẻ. Xem thơ thì mỗi người thích mỗi cách. Lời khen chê phần nhiều do sở thích mà ra. Ca dao có câu:
Hoa huệ hoa lan hoa lài hoa lý
Anh yêu hoa nào hoa ấy là xinh.
Cho nên người xem thơ thấy thích thì cứ khen, khen cho sướng miệng; người nghe khen thấy thú thì cứ nghe, nghe cho sướng tai; chớ hơi đâu ngại lời thị phi, phi thị.
Lão cười: - Vậy hãy khen một câu nữa trong tập cho thêm vui.
VÂN SƠN: - Câu nào?
- Câu kết bài “Nhập đoàn Thanh Nữ tự trào”.
Ghé tai chàng lén thì thầm hỏi:
Thanh nữ sao mà lại lắm con?
- Thật là dí dỏm! Lão Vườn quả tinh mắt. Chình già này xem tập thơ đã nhiều lần mà không để ý.
- Đó là vì những câu trên có phần vụng, nếu không chịu khó tìm thì thường bỏ rơi.
MINH LỆ: - Không phải vì MINH LỆ, mà chính vì vườn hoa thơ, chính vì Hoa vì Thơ thì đúng hơn. Bởi:
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi.
Thơ hay ai nỡ tiếc lời khen hay.
VÂN SƠN: - Lão Vườn thường ngâm câu ấy, và nghe ngâm có một ít bạn gởi hoa thơ đến cho vườn. Không hài lòng khi thấy tác phẩm mình không được tán thưởng.
MINH LỆ: - Sao thế?
VÂN SƠN cười: - Vì “tự kỷ văn chương” chứ sao!
Lão phân trần: - Kể ra cũng đáng trách chớ chẳng không. Vì ngoài những nhánh hoa khô héo, có nhiều nhánh đủ sắc đủ hương, có nhiều nhánh đầy nhựa sống, song chỉ dành riêng cho tác giả cùng lão vườn thưởng thức với nhau mà thôi chớ không tiện chưng bày ra giữa nghìn mắt… Như vậy:
Nỗi lòng ai xét ai không xem,
Thương cũng nhờ ơn ghét cũng nhờ.
VÂN SƠN:
- Câu chuyện văn chương còn dài. Bây giờ chúng tôi xin tạm biệt.
Đưa khách ra cửa, lão ngâm đùa:
- Không ở không cầm, cầm chẳng ở.
VÂN SƠN đối ngay:
- Vừa đi vừa tiếc, tiếc nhưng đi.
MINH LỆ ngâm tiếp:
Tái lai còn lắm giai kỳ.
Ra về mượn ít hương thi đem về.
Chú thích:
(1) Hai câu thơ của thầy đồ bằng chữ Hán nhưng vì lão quen nên phải thay hai câu thơ trên diễn đúng ý tác giả, (hoặc có sai đôi chút nhưng không sai xa)
16- Tiếp khách hoa thơ [7]
14.
Vừa rồi ra Bình Định, lão có hái được một ít hoa, hương không nồng lắm, sắc không thắm lắm, nhưng đượm đà khí vị non sông.
Phần nhiều là những dã hoa mọc nơi cổ tháp Chiêm Thành.
Đây khóm hoa tháp PHỐC LỐC:
Lên thăm hòn Phốc lốc,
Núi cao đường dốc,
Em nghĩ thương dân tộc người Chiêm:
Gặp cơn bể nổi dâu chìm,
Đã không người vá khuyết lại không chim lấp thù!
Tháp đành ôm hận nghìn thu,
Nấu nung vàng đá mịt mù khói mây…
Nhưng em nghĩ rằng:
Trời còn đây đất cũng còn đây,
Lẽ đâu trục đất lại không vần xây cơ trời.
Tháp Phốc Lốc tên chữ là Phú Lộc, Pháp gọi là Tour d’or (Tháp vàng), đứng trên hòn thổ sơn ở giữa cánh đồng mênh mông, một thửa thuộc Phù Cát một nửa thuộc An Nhơn.
Đối diện cùng tháp Phốc Lốc là tháp CÁNH TIÊN. Tháp ở trong phạm vi thành Đồ Bàn. Gần bên tháp có lăng miếu thờ hậu quân Võ Tánh. Vì vậy bên tháp có một khóm hoa mọc đã trên một thế kỷ rồi, cánh đã khô mà hương còn ngát:
Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên,
Cảm thương ông Hậu thủ thiền ba năm.
Cách tháp Cánh Tiên chừng mươi cây số, bên cạnh quốc lộ số 1, gần cầu Bà Di, có tháp BÁNH ÍT đứng trên một ngọn núi cao, in bóng xuống dòng sông xanh bên đường cái. Qua đây lão hái, được nhánh hoa này:
Tháp Bánh Ít đứng khít cầu Bà Di
Sông xanh núi cũng xanh rì,
Vào Nam ra Bắc ai cũng phải đi con đường này.
Nghìn thu gương cũ còn đây,
Lòng ơi, hãy lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu.
Xuống đến địa dầu thành phố Quy Nhơn thì thấy hai chiếc cầu bắt song song bên đường Quốc lộ. Tháp ấy gọi là THÁP ĐÔI, và cầu ấy gọi là CẦU ĐÔI. Những cặp yêu đương ở đó thường hái những đóa hoa này để tặng nhau:
Tháp kia còn đứng đủ đôi,
Cầu nằm đủ cặp, huống chi tôi với nường.
Tháp ngạo nắng sương,
Cầu nương sắt đá.
Dù người thiên hạ
Tiếng ngã lời nghiêng,
Cao thâm đã chứng lòng nguyền,
Còn cầu còn tháp còn duyên đôi đứa mình:
Non sông nặng gánh chung tình.
Nếu chúng ta đi ngược dòng sông Côn đến quận Bình Khê thì chúng ta thấy ở hai bên sông có hai cụm tháp. Cụm phía Bắc ba ngọn đứng trên một nổng gò đất sỏi. Đó là tháp DƯƠNG LONG. Cụm phía Nam, một ngọn đứng trên một dãy gò thấp chung quanh có ruộng nương nhà cửa. Đó là tháp THÚ THIỆN. Hai tháp này xưa kia làm móc ranh giới cho ấp Tây Sơn là nơi phát tích nhà Tây Sơn. Gần đây nhà anh hùng Mai Xuân Thưởng, lãnh tụ đảng Cần Vương Bình Phú, xây đồn lũy ở núi Hương Sơn gần bên tháp, để đánh Tây. Do đó mọc lên một khóm hoa mà người Bình Khê luôn luôn gìn mưa giữ nắng:
Vững vàng tháp cổ ai xây?
Bên kia Thú Thiện bên này Dương Long.
Nước sông trong
Dò lòng dâu bể,
Tiếng anh hùng
Tạc để nghìn thu.
Xa xa con én liệng mù,
Tiềm long hỏi chốn vân du đợi ngày.
Nhân đi tìm hoa nơi tháp Thú Thiện và Dương Long, lão ghé lên Phú Phong ở gần đó, mà người Bình Khê có vịnh rằng:
Nhất huyện Bình Khê đất Phú Phong,
Ruộng nương màu mỡ chợ làng đông.
Chàm pha núi Kính cây sum trái,
Lụa trải sông Côn nước khỏa dòng.
Cây Cốc phố phường danh Tấn Sĩ;
Đồng Hưu đồn lũy hận anh hùng.
Cổ Bàn non nước còn thiêng mãi,
Có thuở Hầm Hô cá hóa rồng.
Muốn biết phong cảnh Hầm Hô như sao mà cá lại hóa rồng được, lão nhờ người địa phương đưa đi xem.
Đó là một dòng suối rộng lớn chảy giữa hai dãy núi sườn đứng sững và đá mọc ngổn ngang. Lòng suối cũng đá là đá. Hòn hòn to như bồ đựng lúa. Nhiều hòn đá bị nước chảy lâu ngày biến thành những hình dạng kỳ quái. Có nơi trông như bầy voi tắm. Có nơi trông như bầy ngựa đua. Vân vân…
Lại có một ngọn thác nước chảy ồ ồ. Mùa gió Nam và mùa nước lụt, cá sông về nguồn đẻ phải nhảy qua thác này. Ông già bà cả bảo rằng đó là cá thi để hóa rồng. Cho nên thác gọi là Long Môn hoặc Vũ Môn, và người Bình Khê dựa vào đó mà có câu “Hầm Hô cá hóa rồng” vậy.
Vào Hầm Hô, lão thấy nơi vách đá có nhiều hoa mọc lắc la lắc lẻo trong im lặng. Sẵn tay lão hái một nhánh gần:
Nguồn ân núi Tượng Nhảy sông Côn,
Qua suối Hầm Hô nước dập dồn.
Dòng cuốn ngựa voi sừng sững đá,
Bờ xây thành quách trập trùng non.
Lấp hờn, giục giã mây xua sóng,
Vá khuyết, chơi vơi cuốc gọi hồn.
Ngòi lạch nhắn nhe bầy cá trẻ:
Nắng mưa rèn luyện chí long môn.
Xem Hầm Hô xong, lão trở về Phú Phong, tình cờ đi ngang qua một dãy gò có dấu nền cũ chứng tỏ rằng nơi đây xưa kia có những tòa ngang dọc. Hỏi thăm, người địa phương cho biết rằng gò đó là gò Cây Cốc, trước chiến tranh có hãng dệt của ông L.ĐELIGNON tục gọi là ông Tấn Sĩ. Hãng dệt to lớn, đã nuôi sống hàng ngàn thợ thuyền do đó xứ Cây Cốc trở nên một nơi thị tứ. Hãng dệt bị Việt Minh phá hoại năm 1947. Hiện nay chỉ còn một dãy gò không thả bò ăn.
Gò nằm bên nam ngạn sông Côn. Bên gò có bến nước gọi là bến Cây Sung. Từ xưa đến nay thuyền câu luôn luôn đậu nơi bến, lúc giặc giã cũng như lúc bình thường. Do đó mọc lên một khóm hoa khép nép trong đám bìm lau, người đời qua lại ít ai để ý:
Xưa dãy gò không, nay đất không…
Thuyền câu chẳng đổi bến Cây Sung.
Buông tơ sớm tỏ lòng dâu bể,
Lặng lẽ nằm nghe sáo mục đồng.
Trên gò thấy lác đác đôi khóm hoa. Nhưng gò có nhiều gai gốc nên lão không vào, chỉ đứng ngoài vói hái vài cành:
Ráng mây thấp thoáng hồn Vương Thạch.
Hoa cỏ xuê xoang giống Lạc Hồng. (1)
Rồi lão theo bờ sông Côn đi lần xuống để tìm thêm một ít ngâu núi sim rừng. Chợt lão nghe tiếng cười khúc khích. Ngước lên nhìn thì lờ mờ thấy một người đàn bà ẵm đứa con. Thấy một ông già lụ khụ dậm sỏi vẹt gai để tìm hoa, người đàn bà chế nhạo:
Thương ông đầu bạc đa tình
Dày sương dậm sỏi băng mình tìm hoa.
Không chịu nổi với lời mai mỉa, lão liền đáp:
Hoa ơi, tóc bạc lòng son,
Hương chưa nhạt gió lão còn yêu hoa.
Người đàn bà phá lên cười. Lão xích lại gần, nheo mắt nhìn kỹ thì té ra là chỗ quen biết! Đó là TUYẾT NGA, người đã đến viếng vườn hoa thơ Lành Mạnh và thường gởi hoa đến tặng vườn. Lão mừng rỡ hỏi: - Từ đâu đến?
Rằng:
Từ nơi núi mọc bên sông,
Hoa chen lũy cỏ mây lồng tháp cao.
Hỏi: - Đến làm chi?
Rằng:
- Thương lòng bền bỉ sương sao
Vườn lòng bẻ nhánh hương trao tặng lòng.
Lão trân trọng nhận lấy hoa, một bó hoa mới hái, cánh hương chưa ráo giọt sương mai:
LÒNG KHUYA VẮNG
Tiếng đồng tan vỡ ngập âm ba
Phòng vắng xanh, xao ngọn nến tà.
Xuân mộng trở trăn thành cựu mộng;
Phồn hoa run rủi lụy tài hoa.
Sầu tuôn mắt mẹ dòng thơ mật,
Tình đọng môi con giọt huyết ngà.
Trà ướp hương xưa duyên đã nguội,
Còn chăng? Đắng đót ngọt ngào pha….
Từ giã TUYẾT NGA, tấm lòng già cỗi khô khan bỗng sanh bồi hồi áo não! Nhánh “Lòng khuya vắng” của Tuyết Nga xui lão nhớ đến cành “DẠ CỐ NHÂN” mà lão đã hái được mấy mươi năm về trước:
Đêm mấy lần mưa gió mấy lần!
Hoa tuy còn giữ nét thanh tân,
Am thầm nuốt biết bao nhiêu lệ!
Muôn dặm dừng cương, dạ cố nhân…
Rồi lão lại liên tưởng đến cành hoa của Uông phu nhân đất Dương Châu bên Trung Quốc gởi tặng chồng đi viễn chinh:
Thủ chiết ba chi thúy đại tần!
An cần dục ký viễn chinh nhân.
Minh tri đáo nhật ưng tiều tụy,
Tức thử ba chi kiến thiếp thân.
Nhánh hoa này lão đem về ương nơi vườn nhà ở Bình Khê, và đã trổ thành một đóa hoa Việt:
Nhành hoa tay bẻ mày nhăn!
Sa trường thăm thẳm ân cần gởi trao.
Tới nơi héo nhụy phai đào…
Chàng ơi! Thân thiếp khác nào thân hoa!
Đó là những khóm viên hoa.
Lão nhận thấy những viên hoa của lão hái được toàn là những đóa hoa lòng, nghĩa là thiên về tâm tình, còn những khóm dã hoa đều là giống hoa cảm hứng thiên về lý trí.
Dã hoa là của chung
Viên hoa là của riêng.
Mà chung hay riêng cũng đều nhờ ơn đất nước mà có. Và đây chỉ là những đóa hoa lão hái được ở những nơi gần. Còn nhiều lắm… Còn nhiều nơi lắm hoa… Khắp các tỉnh, trong những nơi thôn dã trong những nơi sơn lâm, hiện có nhiều vườn hoa trồng nhiều giống lạ giống quí, nhưng chủ nhân nhất thiết không đem ra bán phố phường. Lão vái chín tầng trời, mười lớp đất cho lão mạnh tay khỏe chân để đi khắp nước, lục lạo tìm cho được những kỳ hoa dị thảo ẩn bóng trong đồng rộng núi cao, đem về hiến cho các bạn yêu hoa thân mến.
Chú thích:
(1) Thơ của Hương Sơn Nguyễn Đình Mẫn.
15.
Trần Thúc Lâm và Nguyễn Hoài Văn là hai nhà cựu học, tuổi hơn “nửa thế kỷ” rồi mà chưa chịu đi tìm thọ viên, cứ lẩn quẩn bên thi uyển. Một hôm lão “Quở”. Hai ông bạn cười:
Mình chẳng còn răng mà tưởng trẻ
Người chưa bạc tóc lại chê già.
Lão đáp ngay:
Bạn già chẳng biết lòng ta trẻ.
Không đợi lão ngỏ hết ý, họ Trần ngắt lời:
Bầy trẻ thường chê tánh bác già.
Lão không nhịn thua:
Tánh già già khác người ta
Hoa thơm cách mấy ngàn xa vẫn tìm.
Họ Nguyễn cười:
- Hoa thơm thì cách mấy ngàn xa vẫn tìm, còn hoa không thơm mấy, người ta đem đến tặng có nhận chăng?
Lão đáp:
Hoa chẳng hương thời sắc
Hoa nào không sắc hương
Đìu hiu lau trỗ bạc
Dầm bút vị văn chương.
Họ Trần hỏi:
- Hoa lau trổ văn chương, xuất xứ ở đâu thế?
- Nam có bắc có. Các bác không nhớ tích bà mẹ nhà đại văn hào Au Dương Tu dùng lau làm bút dạy con học ư? Lý Bạch có bài thơ:
Au mẫu dương niên thiện giáo nhi
Nhất tòng lưu đắc tả thu ti
Giang dầu phong thối sương đinh ốc
Mộng lý ba khai tuyết mãn chi.
Nhạn quá bình sa tương tác tự
Nguyệt minh Hán thủy tự lâm trì
Tố hồi tiện dục tài tân sinh
Trâm hướng cao quan thị ngọc trì.
Nghĩa là: Vịnh Cây bút bằng lau. Bà mẹ ông Âu Dương Tu năm xưa khéo tay dạy con. Một khóm để lại được, chép lòng nhớ thu. Đầu sông, gió lui thì sương đầy từng dãy. Trong mộng hoa nở thì ánh tuyết tràn cả nhánh. Nhạn qua bãi cát phẳng cùng viết thành chữ; trăng soi sáng dòng sông Ngân Hán tự tìm đến ao. Nghĩ lại việc ngày xưa, bèn muốn trồng giống mới tốt, vì chính nơi thềm ngọc, trâm dắt đầu hướng nhìn mũ cao.
Thế là “bút lau” có sản xuất. Còn “dầm vị văn chương” thì như bài “lô bút” của Lý Bạt. Văn Thiên Tường có câu nói đến lau:
Mãn địa lô ba hòa ngã lão
Cự gia yến tử vị thùy phi.
Nghĩa là: Đầy đất hoa lau cùng già với ta, còn nơi nhà cũng đoàn én vì ai mà bay?
Trong bài Chiêu Hồn của cụ Nguyễn Du có đoạn nói đến hoa lau:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não nùng thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuộm bạc lá ngô rụng vàng….
Trong bài THU của Chế Lan Viên cũng có đoạn nói đến hoa lau:
Cũng mới độ nào trong gió lộng
Nếu lau bừng sáng núi lau xanh
Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rũ trước thành Vân vân…
Đó hai bác thấy chưa: Tình hoa lau mà khách văn chương còn chẳng nỡ phụ huống hồ các giống hoa khác, trừ hoa cốc. Nhưng hoa cốc, chưa thấy dáng đã nghe mùi rồi. Các bác cũng như lão, cũng như tất cả những người yêu hoa, đều tránh xa thứ hoa ấy. Vậy lão chắc chắn rằng những hoa hai bác đem đến tặng vườn, thế nào cũng quí giá hơn hoa lau. Vậy xin đưa đây, đừng khách sáo.
Nhân và xem qua mấy bó hoa thơ của hai ông bạn, lão rất mừng. Chẳng những mừng vườn thơ có hoa chưng bày, mà còn mừng bước tiến vượt mức của hai bạn.
Nguyễn Hoài Văn và Trần Thúc Lâm mấy mươi năm bị tiêm nhiễm lối thơ cử nghiệp. Làm thơ lo giữ gìn cách luật cho nghiêm túc, thành tứ thơ tình thơ bị gò bó, khô khan. Lấy tình cố giao, lão thường đem lời người xưa ra khuyến cáo. Lão thường nhắc câu của Tùy Viên:
Thi hữu cán vô ba thị khô mộc giã (1)
Thi hữu cách vô thú vị thổ ngưu giã (2)
Họ Nguyễn hỏi:
- Thế nào gọi là hoa có cọng không hoa, thế nào gọi là thơ có cách không thú?
- Giảng rườm lời mà khó nhận thức, nên xin đưa ví dụ ra cho tiện. Và xin lấy một bài của một quan trạng đời Lê mà lão quên tên, bài thơ rất được truyền tụng và các nhà dạy thơ trước đây thường đem làm mẫu. Đó là bài:
CÁI CẮNG ĐÁNH NHAU
Vừa mưa vừa nắng bởi vì đâu?
Cái cắng làm sao lại đánh nhau?
Vác gậy bà chằn phang dưới gối
Vơ dùi ông hểnh choảng trên đầu.
Cha căng mất vía bon lên trước,
Chú kiết kinh hồn lẫn lại sau.
Cái cắng từ rày còn thế nữa
Thì ra đi rủ cái bồ câu.
Nguyên tục ngữ có câu: “Vừa mưa vừa nắng, cái cắng đánh nhau, bồ câu ra chữa, tí nữa thời tạnh”. Bài này các ông dạy thơ Đường luật khen là hay về phép tắc (3). Bởi đúng phép làm thơ: Đề trạng luận kết không có chỗ bắt bẻ được. Tám bệnh không mắc bệnh nào. Cũng không phạm ngũ kỵ, không phạm tứ bất nhập cách (4). Cho nên khen là phải. Nhưng chúng ta ngâm đi ngâm lại xem có thú vị chi chăng? Chúng ta ngắm đi ngắm lại xem có đẹp đẽ chi chăng? Chắc hai bác cũng như tôi, không ai thấy đẹp mắt khoái lòng. Không thích mắt thỏa lòng, đó là hữu cán vô ba, hữu cách vô thú.
Nói cho rõ thêm: Thơ hữu cán vô ba là thơ không có sắc, trông như một cây khô. Không bông không lá.
Thơ hữu cách vô thú là thơ không vị, chẳng khác một con trâu đất không hồn.
Họ Trần tiếp: - Tức là thơ không hồn.
Rồi lại hỏi: - Anh thường bảo thơ phải gồm đủ THANH,SẮC,VỊ, mới là thơ hay. Nhưng đó chỉ mới nói đến sắc và vị. Vậy nếu thơ thiếu THANH thì gọi như thế nào?
- Lão chỉ đưa hai khuyết điểm mà quý bác thường mắc phải đó thôi. Chớ thật ra còn nhiều như “hữu nhân vô ngã”, “hữu trực vô khúc”, “hữu thanh vô tận” v.v… Điểm bác hỏi đó là “hữu thanh vô vận”.
Hữu thanh vô vận thị ngõa phẫu giã (5).
Bài thơ “Cái cắng đánh nhau” đọc nghe chẳng êm tai tí nào cả. Đó là tiếng của một chiếc phẫu đất vậy.
Đem một bài thơ thiếu cả thanh sắc vị để làm mẫu cho kẻ học làm thơ thì bảo thơ hay thế nào được? Nhưng thơ làm đúng cách thức như thế, vào trường dễ đậu, xướng họa để đua tài lẫn nhau, không ai bắt bẻ được, nên những sĩ tử ít tài, những thi công háo thắng, rất ưa làm. Chúng ta làm thơ là để ký thác tâm sự, để giải phóng tâm hồn, thì không nên theo lối thơ cử nghiệp.
Một ông khách bành thính nói:
- Làm thơ thất ngôn bát cú đã bị niêm luật ràng buộc, lại còn bị bệnh này bệnh kia nữa. Chi bằng làm thơ lục bát khỏi niêm khỏi luật, khỏi bệnh khỏi hoạn chi cả, chẳng khỏe hơn sao?
Lão đáp:
- Đã thích thì dù khó đến đâu cũng cố gắng. Còn nếu không thích thì dù dễ đến đâu cũng không dùng. Nhưng bảo thể lục bát không niêm không luật thì không đúng. Trong các sách dạy thơ như sách của Lam Giang, của Dương Quảng Hàm, v.v… đã nói rõ. Còn đã gọi rằng bệnh, thì thơ nào tránh khỏi nếu kẻ làm thơ kém kỹ thuật kém tài năng. (6)
Quí bạn thử đọc những câu này xem sao:
Trèo lên cây bưởi hái bòng
Hái chẳng được bòng khóc ròng nãy giờ
Biết ai mà phỉnh mà phờ
Đút tay vô lờ mới lỡ một lần
Ơ sao phải phải phân phân
Củ chóc củ nần không bằng củ từ…
Những câu ấy nghe đâu có êm tai bằng những câu:
- Một mai ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim
- Chim chuyền bụi ớt líu lo
Lòng thương quân tử ốm o gầy mòn.
- Nhà em có bụi mái mưng
Có con chó dữ anh đừng vô ra…
Vì sao vậy? Chỉ vì một bên không theo đúng qui củ của thể lục bát còn một bên thì tuân thủ triệt để.
Ở trên đời này có thứ ngôn ngữ nào không có nguyên tắc? Có thể thơ nào không có nguyên tắc? Đâu phải chỉ có thơ Đường luật mới có nguyên tắc. Thơ Mới, thơ Tự Do… vẫn có nguyên tắc của Thơ Mới thơ Tự Do… Cũng như nước nào có luật lệ của nước ấy. Chỉ khác nhau ở điểm rộng hay hẹp, tồn cổ hay duy tân... đó thôi.
Luật thơ Đường mới ban đầu cũng rộng rãi lắm. Nhưng càng ngày càng thêm chi tiết mới trở thành khó khăn cho người mới học làm thơ. Thể này chỉ thích hợp với những tâm hồn đã được tiết chế, những tâm hồn bình tĩnh, những tâm hồn vô ngại… chớ không thích hợp với tâm hồn người đời nay. Vì vậy nên không cần mạt sát đả đảo, thể Đường luật cũng phải chết theo những nhà thơ cữ, không kíp thì chầy.
Lão công nhận rằng thể Lục bát ít bó buộc hơn thể Đường luật nhiều. Nhưng lão nhận thấy: thơ Đường Luật khó làm nhưng dễ hay, thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Do đó từ xưa đến nay chỉ có một quyển Đoạn Trường Tân Thanh.
Trần Thúc Lâm và Nguyễn Hoài Văn nghe lão nói nhìn nhau. Lão hiểu ý, khuyên:
- Hai ông bạn thử đổi thể thơ.
- Xin lĩnh ý.
Trà ấy gắng công Lão mừng: Thơ Lục Bát của hai ông bạn khác hẳn thơ Đường luật mà lão được xem bấy lâu. Không còn khô khan gò gẫm như trước. Trong thơ có chất thơ ngoài thơ có tiếng nhạc. Đây thơ của họ Trần:
TẤC LÒNG QUÁN TRỌ
Bao phen là nhuộm vàng thu
Lênh đênh thương gót lãng du chưa về
Bồi hồi ngoảnh lại trời quê
Núi sông ngăn cách tư bề nước mây.
Non Nam cách nhạn lạc bầy
Cỏ hoa đất Bắc độ này tuyết sương
Riêng phần sông vệ núi Dương
Gió mưa xoáy cuộc tang thương đã nhiều
Còn chăng trẻ trĩu nhánh điều
Ruộng mai vàng lúa bãi chiều xanh dâu
Và người năm ấy giờ đâu
Trên sông hoài vọng đứt cầu âm hao
Lạnh lùng bóng nguyệt mài dao
Quốc cừu biết có lúc nào trả xong
Ngập ngừng chiếc én sang song
Ngóng xuân luống những phập phồng tin xuân.
Và đây là thơ của họ Nguyễn:
MỘT NHOÁNG SE MÀU
Cuộc đời thay biển đổi dâu
Thương vườn xưa cũng hoan màu phong sương
Cỏ gai rấp nghẽn lối đường
Bìm leo nách dậu bốn tường trơ vơ
Hoa buồn bướm lại thờ ơ
Liễu gầy oanh luống ngẩn ngơ giọng chiều
Một mình đứng giữa cô liêu
Hồn nghe vang vọng sóng triều cõi sâu
Xuân xanh một nhoáng se màu
Gió về run rẩy mấy tàu chuối khô…
Chưa phải là khúc Dương A giới lộ, nhưng không đến nỗi bị liệt vào hàng khối lỗi lậu chi (7). Và những câu như:
- Riêng phần sông Vệ núi Dương
Gió mưa xoáy cuộc tang thương đã nhiều
Khối lỗi là con nộm nang Lậu chi là chén thủng. Chữ mượn trong câu: Hữu nhơn vô ngã thị khối lỗi giã; hữu trực vô khúc thị lậu chi giã.
Và câu:
Một mình đứng giữa cô liêu
Hồn nghe vang vọng sóng triều cõi sâu
Xuân xanh một nhoáng se màu
Gió về run rẩy mấy tàu chuối khô.
Thì có thể khen hay mà không chút ngượng ngại. Câu của họ Trần tuy dùng chữ TANG THƯƠNG là chữ cũ mà nhờ có chữ XOÁY thành ra câu văn trở nên mới mẻ. Cổ nhân gọi là “Xuất tân ý, khử trần ngôn”. (8) Còn mấy câu của họ Nguyễn thì tứ mới lời mới, thoát hẳn ảnh hưởng của thơ cử tử ngày xưa.
NGUYỄN ĐÔN PHỤC có câu:
Đất đã đắp đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao;
Đường dù đi đi dốc đến nơi, nghìn dặm chi mài khó nhọc.
Lão xin mượn để tặng hai ông bạn họ Nguyễn họ Trần.
Bỏ là bỏ cách dùng. Chữ không có mới cũ. Mới cũ là do cách dùng. Cho nên mới nói là “trần ngôn”. Tức là bỏ cách nói đã mục nát thành bụi.
Chú thích:
(1) Có cọng mà không có hoa đó là cây khô.
(2) Có cách không có thú đó là con trâu đất.
(3) Trong báo Hữu Thanh số 10 năm thứ tư nơi mục “cái bàn cách làm thơ” ông Đào Nguyên Thiện cũng đưa bài “Cái cắng đánh nhau” ra làm mẫu.
(4) Trong quyển Thi Pháp Nhập Môn có nói rõ, người làm thơ Đường Luật ai cũng biết, nên miễn bàn thêm.
(5) Có tiếng mà không có âm vận thì là phẫu đất. Chữ THANH đây là tiếng. Còn chữ THANH của bạn Thú Lâm hỏi đó là thanh điệu, là âm vận. Câu “Hữu thanh vô tận” nghĩa là có lời mà không có nhạc, đọc nghe không êm tai.
(6) Quy tắc về thể lục bát các sách đã nói nhiều rồi nên không cần phải nói thêm.
(7) Dương A Giới Lộ (ánh mặt trời chiếu vào giọt sương móc) là một khúc ca nổi danh, giá trị kém hơn Dương Xuân Bạch Tuyết một bậc.
(8) Xuất ý mới, bỏ lời trần hủ.
18- Hoa bến sông Tương
Nghe tin nữ sĩ kỳ cựu TƯƠNG PHỐ di cư vào Nha Trang, lão muốn tìm thăm, nhưng chưa hỏi ra địa chỉ.
Một hôm, lão đương đứng nơi vườn ngắm hoa mận ánh nắng chiều thì nữ sĩ đến.
Thật là bất ngờ!
Ban đầu lão hơi bỡ ngỡ vì mấy mươi năm trời chỉ biết nhau trên sách báo, mà người trên ảnh là một thiếu phụ mắt đẫm lệ thu, còn người trước mặt là một phu nhân tóc chen ánh tuyết. Nhưng khi đã biết là người mình đương mong gặp, thì mừng quá đỗi mừng!
Nữ sĩ tặng cho Vườn Hoa Thơ hai tập thơ:
- Giọt lệ thu xuất bản ở Hà Nội năm 1952
- Mưa Gió Sông Tương xuất bản ở Sài Gòn năm 1960.
Tuy ra đời cách nhau đến 8 năm, song không thể định ngôi thứ em chị:
Giọt Lệ Thu là bài thơ trường thiên làm theo lối thi văn liên hành, và soạn năm 1923.
Mưa Gió Sông Tương gồm những giai tác soạn từ 1915 đến 1949.
Như thế là Mưa Gió Sông Tương vừa sanh trước vừa sanh sau Giọt Lệ Thu, và Giọt Lệ Thu vừa là em vừa là chị Mưa Gió Sông Tương. Tuy không giống hẳn trường hợp Cao Bá Đạt, Cao Bá Quát, nhưng cũng có thể mượn lời của Nguyễn Siêu nói về họ Cao mà tặng hai tập thơ của Tương Phố: “Nhất bào song sinh nan vi tĩ nan vi muội”.
Hai thi phẩm này là những mảnh lòng tan ra thành lệ và đọng lại thành thơ. Cả hai đều mang chung một tánh chất: Sầu.
Giọt Lệ Thu là tiếng khóc chồng của người thiếu phụ, tiếng khóc âm thầm áo não, sùi sụt liên tiếp như mưa thu, hết cơn này đến cơn khác, từng cơn từng cơn..
Dễ ai có thể cầm lòng, khi đọc những câu, như:
Thu có hạn sầu dài không hạn
Cảm thu sang nhớ bạn lứa đôi
Đoạn trường biết mấy tao nôi
Khóc rồi lại khóc, hờn thôi lại hờn!
Khúc uyên dạo dây đàn ai dứt
Dao sầu kia cắt đứt lòng son
Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn
Hờn duyên tủi phận lệ còn chứa chan.
Hoặc như:
Thần hôn đã lỗi đạo thường
Còn côi mẹ góa lại nương cha già!
Muối dưa đắp đổi ngày qua
Phơ phơ đầu bạc cũng pha lệ sầu! Vân vân...
Còn Mưa Gió Sông Tương là tiếng than não nuột của con người ngót 35 năm trời luôn luôn gặp bước gian truân!
Trong Giọt Lệ Thu có những câu áo não thê lương thì trong Mưa Gió Sông Tương cũng có những câu lâm ly bi thiết. Như:
Vóc mai gầy gõ tuyết sương
Tám thu chiếc bách cách buồm bơ vơ
E dè buổi gió chiều mưa
Con côi mẹ góa dễ nhờ nương đâu
Bước đi âu cũng thương nhau
Dừng chân đứng lại cơ màu dở dang!
Giây loan chắp nối đoạn tràng
Ngâm câu tái tiếu hai hàng lệ sa…
Thân này đôi dẫu đủ đôi
Lòng này riêng vẫn lẻ loi tấm lòng...
Cửa hầu gởi áng xuân tàn
Chén vinh hoa nhắp muôn vàn đắng cay
Nỗi lòng chua xót ai hay
Tấm thân bồ liễu võ gầy riêng thương
Vì chàng tâm sự dở dang
Vì con thôi mấy đoạn tràng cũng cam…
(Tái Tiếu Sầu Ngâm)
Hoặc như:
… Nỗi ly hận mây chiều gió sớm
Tình tương tư khoảng vắng đêm trường
Gió mưa tâm sự thê lương
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây!...
Kể từ độ phong trần lạc bước
Mười lăm năm mặt nước cách bèo
Gieo lòng theo ngọn thủy triều
Lênh đênh thôi cũng mặc chiều nước sa!...
(Khúc Thu Hận)
GIỌT LỆ THU đã buồn thương, MƯA GIÓ SÔNG TƯƠNG lại thêm cay đắng! Và theo thiển kiến thì tập sau văn chương có phần trác luyện hơn tập trước. Những câu, như:
- Thân này đôi dẫu đủ đôi
Lòng này riêng vẫn lẻ loi tấm lòng.
- Cửa hầu gởi áng xuân tàn
Chén vinh hoa nhắp muôn vàn đắng cay
- Gió mưa tâm sự thê lương
Chỉ kim ai vá đoạn trường cho đây.
- Gieo lòng theo ngọn thủy triều
Lênh đênh thôi cũng mặc chiều nước sa! v.v…
Thì đến Tiên Điền tiền bối cũng phải khen:
- Tuyệt diệu!
GIỌT LỆ THU và MƯA GIÓ SÔNG TƯƠNG là hai tác phẩm lớn của Tương Phố. Phu Nhân còn nhiều thi văn đương nằm trong tủ sách chờ thiện duyên để ra đời, như tập TRÚC MAI, một tập sách cho trẻ em.
Phu Nhân có cho lão nghe một số thơ mới làm gần đây. Mỗi bài có một lai lịch liên quan hoặc nhiều hoặc ít đến hai tác phẩm Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương:
Chàng Phan chia rẽ hai ta
Chị vào văn sử em ra cõi ngoài
Bâng khuâng chị nhớ em hoài
Văn chương để mối hận dài bao khuây
Chàng Phan đây là Vũ Ngọc Phan, tác giả Nhà Văn Hiện Đại. Năm 1941 họ Vũ soạn bộ Nhà Văn Hiện Đại, gởi thư xin ảnh Tương Phố. Sẵn có tấm ảnh phu nhân chụp chung cùng người em gái là Song Khuê (1), Phu Nhân gởi ra cho họ Vũ, với dụng ý là khi in ra sách có chị có em cho vui. Chẳng ngờ Vũ Ngọc Phan lại cắt bỏ ảnh Song Khuê, chỉ in ảnh Tương Phố. Khi Nhà Văn Hiện Đại đến tay, thấy chỉ có ảnh mình trong sách, Phu nhân động lòng cảm tác mấy vần trách Vũ Ngọc Phan.
Năm 1951 nhà xuất bản Ngày Mai (tức nhà in Văn Hồng Thịnh Hà Nội) thương lượng cùng Phu nhân để xuất bản tập Giọt Lệ Thu. Sách in 2.000 quyển, tác quyền là 3.000$00, đưa trước 1.000$00, còn 2.000$00 sẽ nạp khi sách ra đời. Giao ước ký kết xong, Phu Nhân giao bản thảo cho nhà xuất bản. Nhưng chờ mãi không thấy sách ra đời, Phu Nhân bèn gởi cho Văn Hồng Thịnh bức thư:
Thu qua, đông đã lạnh trời
Văn Hồng chẳng có nhớ lời Lệ Thu?
Nhà văn túi một xu không dính
Năm cùng rồi toan tính sao đây?
Đợi chờ ngày lại qua ngày
Người quên quên bẵng cả ngày tháng qua!
Ai hào hiệp sao mà lơ đãng?
Ham kinh doanh nỡ lãng quên đây!
Cánh hồng gởi ngọn gió tây,
Lòng phong nhã với thơ này tặng ai…
Đó là về thời Tiền Chiến. Thời Hậu Chiến khi quyển Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại của Phạm Thanh ra đời, thấy soạn cẩu thả quá, Phu Nhân bực mình viết:
Cuốn Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại
Của Phạm Thanh tai hại vô cùng!
In sai be bét lung tung
Sách ra đời thế, thẹn thùng biết bao!
Một vết nhọ in vào Văn Sử
Hỏi lỡ rồi, gột rửa sao đây?
Nghìn thu còn vết hận này!
Mỗi lần có sách liên quan đến Phu Nhân ra đời là mỗi lần làm cho Phu nhân có chuyện bực mình, không nhiều thời ít. Đến như quyển MƯA GIÓ SÔNG TƯƠNG được Đông Hồ vẽ bìa vẽ nền và coi sóc việc ẩn loát, là một tập thơ đẹp trong những tập thơ đẹp nhất trong khoảng thời gian 1955 - 1960, mà vẫn gây ít nhiều khó chịu cho tác giả.
Nguyên bản thảo giao cho nhà xuất bản Bốn Phương đã hàng năm mà chưa in. Phu nhân rất nóng lòng mong đợi. Khi in xong, nhiều người đã có sách đọc, gởi thư đến ca tụng tác giả, nhưng tác giả trông đứng trông ngồi vẫn chưa thấy mặt đứa con tinh thần ra sao cả! Phu Nhân có mấy vần hờn dỗi:
Mưa Gió Sông Tương xuất bản rồi
Thành Nha tác giả quá xa xôi
Nghe đồn quảng cáo mà chưa đọc
Có sách ra đời biết vậy thôi!
Cái nghèo rắc rối chao ôi!
Muôn vàn thanh lịch biết…, thôi cũng lờ.
Hồn phong nhã gởi trong thơ
Mà lòng phong nhã đã thừa tổn thương!
Phù sinh một cảnh hí trường
Nghèo là người khách qua đường trái duyên.
Muôn vàn nguyện chẳng như nguyền
Rồi lăng nhăng kết những duyên vật vờ!
Sự chậm trễ gởi sách không phải do nhà xuất bản quên tác giả, mà tại Mộng Tuyết muốn “làm tốt” cho quyển thơ dành riêng cho bà chị. Mộng Tuyết đem đi đóng bìa da mạ vàng, đợi sách đóng xong mới gởi ra cùng một số sách không đóng bìa cứng. Đó là nguyên nhân việc gởi trễ. Khi biết được ý mỹ của bạn, Phu Nhân rất cảm động. Nhưng vẫn không giấu giếm lòng hờn dỗi của mình khi chưa nhận được sách.
Đọc MƯA GIÓ SÔNG TƯƠNG, Vũ Hoàng Chương có mấy câu cảm đề:
Đêm qua hoa rụng hẳn nhiều đây?
Lệ cũ tuôn đôi một bến đầy
Ơi hỡi! Sông Tương mưa gió mãi
Còn chăng? Hương muộn giáp hoa bay!
Phu nhân họa lại:
Hoa giáp xuân tròn sáu chục đây
Ao thơ đẫm lệ sóng thu đầy!
Còn say khóm cúc vườn hiu quạnh
Sương lạnh hương chiều phảng phất bay.
Tương Phố làm thơ chỉ để nói lên những gì chất chứa trong lòng, cho nên rất chân thật.
Người xưa nói:
- Thơ khó chân vậy. Có tánh tình rồi sau mới chân được. Bằng không thì chỉ phu diễn thành văn mà thôi (2).
Thơ Tương Phố chân thật là nhờ trong lòng sẵn chứa bao nhiêu mặn ngọt chua cay của đời dồn dập. Lúc còn thanh xuân lời thơ còn sửa soạn chải chuốt nhiều ít. Trong những năm gần đây, thì nghĩ sao viết vậy, và viết xong là xong chớ không hề sửa đi sửa lại. Do đó những tác phẩm sau này, văn chương không đẹp bằng văn chương trong hai tập Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương. Nhưng vẫn có biệt thú.
Tương Phố sở trường về Lục bát và Song thất lục bát. Thơ Đường luật của Phu Nhân lời có hơi cứng, vị có hơi khô, chớ không mềm mại đượm đà như Lệ Thu và Mưa Gió.
Năm 1939, Phu Nhân gặp Phan Sào Nam Tiên sinh tại Huế, Tiên sinh tặng Phu Nhân một luật:
Cái nợ cầm thi mới trả xong
Khi vui bút mực cũng mây rồng
Tưởng là rồi kiếp cùng trời đất
Đâu ngỡ còn duyên với núi sông.
Mở cửa gió lùa thông họa vận
Cuốn rèm trăng rọi bạn soi lòng.
Đàn Nha nay gặp Chung Kỳ gái
Muôn thuở Hồng Lam với Tản Hồng.
Phu Nhân họa vận:
Ngày tối đường dài việc chửa xong
Biển đông rồng đã cuốn vây rồng
Dạ hờn quên nghĩ năm cùng tháng
Máu nóng còn sôi núi với sông
Giọt lệ năm canh ngầm khóc nước
Tấm thân bốn bể nguyện theo lòng (3)
Anh hùng sá kể chi thành bại
Vẫn nhớ ngành Nam tổ Lạc Hồng.
Khi Tương Phố về Bắc, Tiên sinh có bốn câu tặng biệt:
Vừa bắt tay nhau đã rẽ tay
Duyên thơ nợ bút hãy giàu ngày
Ai về nhắn với mây Tam Đảo
Gió Bắc đe Nam thổi nhạn bay
Phu nhân họa vận:
Sông Hương ngơ ngẩn buổi chia tay
Lời ước trùng lai khó hẹn ngày
Hoài bão lớn lao mong chúc cụ
Cánh bằng muôn dặm vút cao bay.
Năm 1959, tập Hoa Đăng của Vũ Hoàng Chương ra đời, Phu Nhân có bài:
ĐỌC HOA ĐĂNG CẢM ĐỀ
Hoa Đăng thi phẩm Vũ Hoàng Chương
Một buổi thu về giạt bến Tương
Nhịp trúc mùa thơ ca khẳng khái
Trăng rằm phố cũ bến thê lương
Trả ta vang tiếng gầm sông núi
Cảm chuyện chìm châu hận phố phương
Mây suối về đâu hoài niệm mãi
Tình si mai trắng vẩn canh trường. (4)
Những tác phẩm làm sau Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương, ngoài một số ít bạn thân ra, Tương Phố phu nhân không hay đưa cho ai xem. Nhận thấy đều là những áng văn chương quí giá, lão xin phép phu nhân trích một ít đem ra chưng bày nơi Vườn Hoa Thơ (1960) để độc giả thân yêu đồng lãm. (5)
Chú thích:
(1) Song Khuê là người đã gởi rau sắng chùa Hương tặng Tản Đà Tiên Sinh. Hiện ở Sài Gòn.
(2) Thi nan kỳ chân giã, hữu tánh tình nhi hậu chân, phủ tắc phu diễn thành văn kỹ (Tùy Viên).
(3) Trong khi đàm đạo, Sào Nam nói cùng Tương Phố: “Mặc dù một mái tóc sương, tóc dẫu thay màu, lòng không đổi sắc, mai đây nếu được cơ hội tháo cũi sổ lồng, tôi quyết lại xuất dương”.
(4) Phần nhiều chữ dùng trong bài đều mượn ở tập Hoa Đăng, như “Nhịp trúc mùa thơ”, Trăng rằm, Bến Cũ, Trả Ta (Trả ta sông núi), Chìm Châu (Khúc hát chìm châu) Mây suối về đâu, Hoài Niệm, Tình Si, Mai Trăng... Đó là những đề bài trong Hoa Đăng.
(5) Tương Phố mất tại Đắc Lắc năm 1975. Bài nấy viết 14 năm trước lúc nữ sĩ ở Nha Trang.
Sau khi nữ sĩ qua đời, tôi có viết thêm một bài kỷ niệm trong Bóng Ngày Qua (Trình Thầy Sạn) 1975 và một bài trong Hương Phấn nàng Hương (1981).
19- Hoa trái non hương
Anh Hương Sơn, người sông Côn núi Hương, băng ngàn vào thăm vườn hoa thơ, và tặng lão một tập thơ chưa xuất bản: Hoa Trái Non Hương.
Anh Hương Sơn là người thuộc phái cựu học. Thơ của anh toàn làm theo thể Đường luật.
Thể Đường luật đã trở thành một vật cũ kỹ. Luật thi dù hay đến đâu cũng ít được chú ý. Cho nên những con cháu Hàn Thuyên không chịu thoát xác. Có người hỏi tại sao. Anh cười hả hả đáp:
- Trót ghiền nặng rồi, không thể cai được.
Vì không thể cai được nên anh đành ngồi nơi ba ngọn tháp Dương Long (1) chạm gió trổ mây để mua vui cùng ngày tháng. Nhân thấy Vườn Hoa Thơ đón tiếp tất cả các khách yêu thơ, không phân biệt mới cũ, anh mới không ngại đường xa.
Tiếp bạn đón thơ, lão cao hứng ngâm:
Mặt lão vườn sắc thu dù nhạt
Có hoa vàng còn ngát mùi hương. (2)
Rồi cùng bạn chọn một ít nhánh chưng ra vườn hoa thơ:
KHÓC MẸ
Thềm huyên thấp thoáng bóng mây qua
Đối cảnh lòng thêm nhớ mẹ gì
Chín chữ cao dày cân nặng chín
Ba đường sau trước giữ tròn ba
Những ngờ tuổi thọ dài trăm chục
Mong trả ơn sâu được một và
Mở sách người xưa ghi chữ hiếu
Nghĩ câu phong thọ lệ dầm sa
Đọc bài này lão nhớ lại một câu chuyện rất cảm đông lão được chứng kiến mùa xuân năm Ất Dậu (1945):
Lúc ấy anh Hương Sơn cùng lão và một số thân hào nhân sĩ Bình Khê xuống An Nhơn thăm cụ Biểu Xuyên Đào Phan Duân. Cụ Biểu Xuyên đậu phó bảng, làm quan đến chức tuần vũ, nổi tiếng thanh liêm và chánh trực. Phái cựu học tỉnh Bình Định suy tôn là Thái Sơn Bắc Đẩu. Hỏi thăm gia cảnh của mọi người, biết được anh Hương Sơn còn mẹ già gần tám chục, cụ mừng rỡ như mình còn mẹ già:
- Đại phước, đại phước!
Đến khi khách xin bái biệt, cụ trao cho anh Hương Sơn một gói nhỏ:
- Tuổi già cần dùng quế cho thường. Tôi có miếng quế Thanh, xin gởi về kính biếu cụ bà với lời chúc thọ.
Lòng Cụ Biểu Xuyên cao đẹp quá!
Cụ Phan Sào Nam có câu:
Thảm vì cái kiếp con không mẹ
Hổ cũng như ai sãi có chùa
Lòng cụ Biểu Xuyên, lời cụ Sào Nam là tấc lòng là lời nói chí thành của những bậc đại hiếu.
Bài thơ KHÓC MẸ của anh Hương Sơn xúc động lòng lão chẳng những do chỗ chí thành trong thơ mà còn do những ký ức bị lời thơ làm sống dậy.
Thơ cảnh của anh Hương Sơn cũng có nhiều giai cú:
- Lũy cổ gió đưa mùi chính khí
Sông dài sóng gợn thức văn chương.
(Trường Mai Xuân Thưởng) (3)
- Lũy xưa một dãy bền son sắt
Tháp cũ nghìn thu ngạo nắng sương.
(Cảnh Hương Sơn)
- Bãi thắm hương rao làn gió nhẹ
Dòng trong sóng lộng ánh trăng vàng.
(Chơi bến Đá Hàng) vân. vân…
Anh Hương Sơn cùng lão vốn có tình khế nghị, nên lão không chút dè dặt trong việc chê khen. Lão thành thật cho biết rằng tập HOA TRÁI NON HƯƠNG, cũng như phần nhiều những tập thơ Hàn luật lão đã nhận được của các thi hữu gởi tặng, không tránh khỏi khô khan, và thường vấp phải những cổ sáo.
Hương Sơn hỏi: - Làm thế nào để tránh những bệnh ấy?
- Nên đọc nhiều cổ thi, nên đọc nhiều thi thoại.
- Đọc nhiều lại càng bị cổ nhân chi phối chớ làm sao giải thoát được?
- Nước Việt Nam ta bị thực dân Pháp đô hộ là vì bế môn tỏa cảng. Chớ nếu mở lòng đón tất cả những người Tây Phương đến xin giao hảo, thì đâu đến nỗi bị nô lệ ngoại bang. Thờ nhiều người làm thầy thì rồi không ai có thể làm thầy mình được cả, hoặc chỉ còn một ông thấy xứng đáng để mình noi gương.
- Nên đọc thơ nào nhiều nhất và nên xem sách nào có ích nhất? Theo kinh nghiệm bản thân của anh.
- Thơ Đường, thơ Tống, và Tùy Viên Thi Thoại.
Đọc thơ Đường để học lấy cách điệu và hớp lấy không khí man mác mơ màng cùng hương vị của hoa lan, hoa mai, hoa cúc. Đọc thơ Tống để thấy rõ cái hay của thơ Đường và vị triết lý, mà thơ Đường có còn ít.
Ở Bình Định xưa nay ít người chuyên tâm nghiên cứu về thơ. Cho nên sách dạy làm thơ, sách nói chuyện thơ, không nhiều người tích trữ. Khách yêu thơ muốn mở mang kiến thức, không biết nương tựa vào đâu. Lão nhận thấy đọc bộ Tùy Viên Thi Thoại cho thật kỹ cũng có thể biết đại khái về lịch trình tiến hóa của thơ Đường luật, về các môn phái trên thi đàn, về bút pháp của các đại gia văn chương… Tư tưởng của tác giả là Viên Tử Tài có nhiều chỗ giống các nhà đại thi hào Đức Rainer Maria Rilke.
Anh Hương Sơn than:
- Tuổi đã lớn rồi. Sức thu nhận của trí óc đã kém lắm. Cho nên lực bất tùng tâm. Gặp nhau mong cho nghe đôi điều sở đắc.
- Trước hết xin nói về tánh chất:
Làm người chẳng khá chẳng hiện cho rõ như cùng nhược, can cùng bạn, hậu cùng hôn, minh cùng khắc, tự trọng cùng tự đại, tự khiêm cùng tự tiện. Vì những cái ấy ngó dường giống nhau mà thật ra thì khác nhau xa. Làm thơ cũng chẳng khác chẳng biện cho rõ Đạm cùng Khô, tân cùng tiêm, phác cùng chuyết, kiện cùng thô, hậu trọng cùng nhu trệ, tung hoành cùng tạp loạn. Vì những cái ấy ngó dường giống nhau mà thật ra thì cũng khác nhau xa. Cổ nhân gọi là “Tợ thị nhi phi”. Nếu không tinh thì thường bị lầm lẫn.
Khô lầm với đạm, chuyết lầm với phác, là những cái lầm khách làng thơ thường mắc phải.
Lấy ngay ví dụ trong Hoa Trái Non Hương:
Tấc lòng gởi gắm thơ đôi vận
Câu chuyện khuây khoa bạn mấy người
Đó là khô chớ không phải đạm. Vì chíp chắp xem vẫn không thấy ý vị. Nếu đem sánh với hoa thì đó là hoa chim chim, hoa chành rành. Nếu sánh với trái thì đó là trái thị đẹt, trái ổi non. Có thể gọi là đạm, câu:
Hồi hộp chim kêu hoa trước dậu
Bùi ngùi gió thổi trúc bên song.
Không có gì giàu không có gì sang, song có vị, vị thanh thanh dịu dịu. Người đọc có cảm giác đứng bên khóm hoa lài, đứng dưới giàn hoa lý, hay ăn một miếng dưa gang, ăn một nhúm hạt dẻ.
Đèn khối nhá nhem sân cỏ gấu
Cơm mì trệu trẹo mắm cua chua
Đó là phác, tức là thực thà, thực thà chớ không quê kịch. Đó cũng là đạm vì vị thơ không nồng nàn nhưng có thú. Trong thơ, chất phác và thanh đạm thường đi đôi. Nhưng trong chất phác thường thường có thanh đạm, mà trong thanh đạm không có chất phác. Ví như trong các bài thơ về mùa thu của Tam Nguyên Yên Đỗ:
- Lưng dậu phất thơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
- Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe.
- Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Đó là đạm mà không phác. Cho nên gọi là thanh đạm. Câu “hồi họp.. Bùi ngùi” thượng dẫn cũng là thanh đạm.
Còn chuyết tức là vụng về thì như câu:
Quán trọ muối dưa dâng tấc thảo
Vườn quê hoa quả chạnh ơn dày
Hương Sơn nghĩa cả còn ghi đó
Nại hải lòng con tạm náu đây. (4)
Vì chuyết cho nên không rung cảm lòng người đọc, mặc dù đó là lời than của người tản cư nhân ngày kỵ của song thân. Cảnh tình thật là buồn thương, nhưng vì lời thơ vụng không đủ sức truyền cảm như câu “ Đèn khối… Cơm mì…”.
Mà thơ chuyết vì thiếu công trác luyện. Nhưng lắm khi trác luyện quá mức cũng trở thành chuyết:
Màn vẹt khói mây tân vận hội
Màu phơi hoa gấm cựu gian san. (4)
Mới ngó thì đẹp, nhưng ngắm kỹ thì ngấn vết dụng công thấy rõ ràng quá. Dụng điển đừng để thấy chỗ cắt xén, dụng xảo đừng để bày dấu chạm trổ thì mới là khéo là diệu. Thi đến được mức giản luyện phải trải không biết bao công phu học tập hàm dưỡng, chớ không phải tự nhiên mà nên. Có được một chậu thủy tiên lưa thưa năm bảy đóa hoa chiếc lá, đâu phải chỉ mua vài ba củ tươi tốt đem về để vào bát sứ ngâm nước là xong. Phải có đôi bàn tay khéo léo của giai nhân gọt tỉa từng chút nâng niu từng chút, chớ để tay phàm phụ đụng vào thì ô hô! Cho nên đừng thấy giản dị mà tưởng dễ dàng.
Sơ Bạch lão nhân thường dạy kẻ học làm thi rằng:
- Thơ hậu tại ý chớ không phải tại lời. Thơ hùng tại khí chớ không phải tại câu. Thơ linh tại không chớ không phải tại xảo. Thơ đạm tại diệu chớ không phải tại cạn. (Thi chi hậu tại ý bất tại từ. Thi chi hùng tại khí bất tại cú. Thi chi linh tại không bất tại xảo. Thi chi đạm tại diệu bất tại thiển).
Tác giả Tùy Viên Thi Thoại rất tán thưởng lời này.
Anh Hương Sơn hỏi:
- Những câu nói về hậu về hùng về đạm, tôi lãnh hội được. Còn LINH là sao? KHÔNG là sao?
- LINH về hình thức là linh động, về tinh thần là linh diệu. Thơ linh là thơ có một sức sống dồi dào, có một sức truyền cảm mạnh mẽ, tức là thơ có hồn.
- KHÔNG là hồn nhiên và tự nhiên như vòm trời xanh không là gì hết nhưng là tất cả.
Trong Hoa Lá Non Hương có câu:
Nghĩa nặng nặng hơn vàng đá nặng
Tình chung chung gánh nước non chung.
Đó là xảo. Lời êm câu khéo. Nhưng xét kỹ tình nghĩa không có gì là thâm hậu, vì quá trừu tượng. Người đọc thấy vui vui chớ không bị rung cảm. Đọc rồi là rồi chớ không còn thấy chút dư vị. Như thế là không hậu không linh. Vừa linh vừa hậu thì như câu thơ của cụ Phan Sào Nam:
Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào..
Anh Hương Sơn có ý buồn:
- Như thế thì thơ tôi chưa đi tới đâu cả!
- Vậy chớ trong làng thơ Việt Nam, nhất là xóm thơ Hàn luật, đã có mấy người đến được diệu xứ?
Trong tập Hoa Trái Non Hương, lại có nhiều thơ xướng họa. Sợ ông bạn mắc phải bệnh chung của các người làm thơ Hàn luật, lão bèn đem lời cổ nhân ra mà khuyên.
Viên Tử Tài nói:
- Thi ngôn chí. Tình sanh văn, văn sanh vận. Đó là lý nhất định. Người đời nay muốn dùng điển đó là không chí mà muốn làm thi, muốn điệp vận đó là nhơn vận mà sanh văn, muốn họa vận đó là nhơn văn mà sanh tình. Bọn trẻ đua đối (đấu thảo) tuy nhiều cũng không ích chi.
Cố Linh Nhân lại nói:
- Người khéo họa thơ ấy là người trong bụng không có thi mà tự khoe cái vụng ra vậy.
Lúc nhỏ lão rất ưa họa vận, vì háo thắng. Nhưng từ khi biết qua loa được thế nào là thơ, thì đành mang tiếng là dốt là ngạo, chớ nhất thiết không họa thơ và cũng rất ít muốn xem thơ họa.
Anh Hương Sơn gật đầu biểu đồng ý và tỏ vẻ hoan hỷ:
- Khi đi học, học phép làm thơ để đi thi. Học đủ niêm đủ luật, học cho biết thế nào là khởi thừa, thế nào là trạng luận, thế nào là chuyển kết. Thế là đủ. Nói cho thật đến quyển Thi Pháp Nhập Môn là quyển sách vỡ lòng, mà lắm người, trong đó có tôi, còn chưa đọc hết hoặc đọc kỹ, huống hò những sách cao xa! Như vậy bảo làm thơ cho giỏi cho tinh thế nào được?
- Sách Lễ Ký nói rằng “Học nhiên hậu tri bất túc”. (5)
- Nhưng lại có sách nói: “Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc” (6). Hai lời dạy có trái nhau chăng?
- Tri túc không phải tự cho mình như thế là đủ, mà là biết rằng mình mới có chừng đó phải bằng lòng sử dụng mớ vốn mình có một cách hợp tình hợp cảnh, chớ đừng đòi hỏi quá nhiều. Biết rõ cái mình có, để tiêu dùng cho vừa mức, để cho cái cầu không quá cái cung, để cho cung cầu tương xứng, chớ không phải để nằm ôm những gì mình đã có, mà không chịu học thêm những cái mình chưa có. Bởi vậy sau khi nhắc đến câu trong sách Lễ Ký, Viên Tử Tài nói thêm: “Xem đó là biết rằng những kẻ tự cho mình là đủ đều là những kẻ bất học. Cho nên con giạ lang (7) tự cho mình là lớn thật không quái vậy”.
- Cổ nhân nói rằng càng học càng thấy mình dốt, là vậy đó. Nhưng còn học gì nữa? Già rồi!
- Đức Khổng Tử lúc đã lớn tuổi rồi mà vẫn còn học, huống chi bọn mình.
Anh Hương Sơn cười:
- Đem tặng Vườn Hoa Thơ một quyển thơ mà nghe được nhiều lời thú vị và bổ ích. Xin lĩnh ý về ráng học để có thơ vào tặng nữa...
Trước khi ra về anh lên thăm miếu Sinh Trung ở trên núi Hà Ra trong thành phố Nha Trang, và để lại mấy vần lục bát:
Vui xuân khách cũng đồng vui
Sinh Trung dìu bạn lên chơi với mình
Non sông vẽ bức tranh tình
Hồn hương tướng sĩ đền linh ngạt ngào
Biển lồng hoa thắm lầu cao
Cách thôn dừa liễu dạt dào sóng xanh
Danh lam ẩn bóng thị thành
Gặp tuần giai tiết thỏa tình lãng du (8)
Chú thích:
(1) Tháp Dương Long ở phía Bắc thôn An Chánh, quận Bình Khê tỉnh Bình Định của tác giả Hoa Trái Hương Sơn.
(2) Lấy ý thơ cổ:
Mạc hiềm lão phố thu dung đạm
Do hữu hoàng hoa vãn tiết hương.
(3) Trường Mai Xuân Thương lập thời Việt Minh do một nhóm người có tinh thần quốc gia điều khiển. Trường ở dưới chân núi Hương Sơn có một dấu đồn lũy nghĩa binh Cần Vương, và ở trên bờ sông Côn là một con sông lớn của Bình Định.
(4) Những câu Thượng dẫn đều trích trong Hoa Trái Non Hương.
(5) Học rồi sau mới biết rằng không đủ
(6) Biết rằng đủ thì là đủ, đợi cho đủ biết đời nào đủ.
(7) Con ễnh ương.
(8) Bài này viết năm 1965 anh Hương Sơn đã mất năm 1968 thọ 69 tuổi.
20- Hai nhánh Thiên Thai
Cụ Đào Tấn là một đại gia văn chương tỉnh Bình Định. Tác Phẩm của cụ bị thất lạc quá nửa, vì quí ông con trai mất sớm, cháu chắt không biết quí sự nghiệp tinh thần của tiền nhân.
Cũng may cụ còn hai bà con gái là bà ĐÀO TRÚC TIÊN và bà ĐÀO CHI TIÊN, hai bậc nga mi phong nhã, thông Hán tự thạo Quốc âm. Hai bà còn thuộc được một số thơ và một số tuồng hát của cụ cố. Bà Đào Chi Tiên đã ra công ngồi chép lại và đem gởi vào Vườn Hoa Thơ nhờ lão giữ giùm. Lão hết sức cảm động.
Giai phẩm của Đào Tiên công, lão đã trích một ít trình bày lên Vườn Hoa Thơ rồi.
Nay lão xin giới thiệu hai bà Trúc Tiên và Chi Tiên.
Bà Trúc Tiên, ở Bình Định thường gọi là bà Tú Cây Da, vì gia đình bà ở Cây Da (Tuy Phước) và vị phu quân đậu tú tài. Bà nổi tiếng hay chữ, các nho sĩ Tuy Phước, An Nhơn, Bình Khê đều phục tài.
Bà sở trường thơ chữ Hán.
Được nhiều người thuộc là bài:
TRUNG THU CẢM TÁC
Thu nguyệt canh thâm hạo
Mãn đình dạ lan hương
Ly sầu tầm cựu mộng
Hà xứ tả thê lương?!
Bán chẩm quyên đề lệ
Diêu cầm tấu Tiêu Tương
Cầm thanh hồ minh yết
Hoài nhân bất năng vương
Sầu tư nan thổ tận
Khả ủy dữ quần phương
Tác giả tự diễn ra Việt Văn:
Canh muộn trăng càng tỏ
Đầy sân lan dạ hương
Sầu xa tìm mộng cũ
Về đâu gởi nỗi buồn!
Gối chích quyên rơi lệ
Đàn rao khúc Tiêu Tương
Tiếng đàn sao ngượng ngập
Nhớ người tơ rối vương
Nỗi sầu khôn tỏ cạn
Cùng hoa khuây nhớ thương.
Thơ quốc âm bà ít hay làm, nhưng một khi đã hạ bút thì văn chương đều thanh lão, như bài thơ dịch trên đây và bài sáng tác sau đây:
XEM HOA ĐÀO NỞ CẢM HOÀI
Bích đào mấy đóa nhụy đua tươi
Sau trước nào đâu thấy bóng người!
Biển đổi tang điền thề biển lạnh
Châu lìa Hiệp Phố lệ châu rơi!
Gối xuân lỡ giấc tìm hương cũ
Đoạn thảm cùng ai kể khúc nôi?!
Bông nở làm chi ngơ ngẩn bấy!
Chàng Lưu đã lạc lối Thiên Thai.
Bài Xem Hoa Đào cũng như bài Trung Thu, không phải là những khúc ngâm hoa vịnh nguyệt, mà là tấc lòng gởi gắm vào văn chương.
Cổ nhân có câu: - Ta hồ! Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ.
Như trường hợp bà Đào Trúc Tiên là một.
Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Việt của bà hầu hết đều theo thể Đường luật. Nhưng thơ lục bát thỉnh thoảng mới làm, lời vẫn không kém thanh tao:
NHỚ CHIỀU
Cố đô còn vương mối tình
Dòng Hương sóng nhẹ non Bình thông reo
Đò ngang xuôi ngược bến chiều
Giọng hò mái đẩy nhịp chèo lửng lơ…
Những tà áo tím phất phơ
Nghiêng nghiêng chiếc nón bài thơ ngỡ ngàng.
Cung son điện ngọc huy hoàng
Nền xưa mấy lớp thời gian bụi mờ!
Văn Lâu bến cũ hững hờ
Bức tranh dài các bây giờ là đâu?
Hè sang ve trổi nhạc sầu,
Tịnh tâm sen nở phơi màu thắm tươi.
Bình Dương u tịch nơi nơi
Chuông ngân chiều lắng một trời mộng thơ.
Bao năm sông núi đợi chờ
Sao dời vật đổi xa mờ nước mây...
Nhớ thương giọt lệ càng đầy
Lời keo sơn hẹn với ngày tha sinh.
Mai viên phong cảnh hữu tình
Lê hoa trăng lộng liễu mành gió đưa.
Cảm hoài bao chuyện ngày xưa
Nhà Hương Thảo thất nắng mưa phũ phàng!
Ngậm ngùi giữa bước tha hương
Tình quê gởi lại nhớ thương đôi lời
Sông Hương núi Ngự muôn đời
Thông reo vi vút sóng trôi lờ đờ...
Dưới đèn mượn bút đề thơ
Hương quan hồn mộng vẩn vơ đêm dài.
Bà Đào Trúc Tiên là người Bình Định, nhưng sanh trưởng tại Huế và bà cụ thân sinh là người Thừa Thiên, có Hương Thảo Thất có Mai Viên ở Cựu Kinh đô, nên tình bà đối với Núi Ngự sông Hương cũng nặng như đối với sông Côn núi Phước.
Và những cảnh bà nhớ là những cảnh Huế ngày xưa, ngày mà các cô nữ sinh trường Đồng Khánh còn mặc toàn áo màu tím, ngày mà những cô thiếu nữ còn ngỡ ngàng trong chiếc nón bài thơ đội nghiêng nghiêng khiến anh học trò Bình Định ra thi trông thấy bỏ đi không đành. Chớ ngày nay sau bao nhiêu cuộc bể nổi dâu chìm, Cựu Thần Kinh còn đâu nữa cảnh “Cung son điện ngọc huy hoàng” thời trước.
Nhưng tuy rằng “Thành quách nhân dân bán dĩ phi” mà “sơn hà phong cảnh nguyên vô dị”. Nên lòng nhớ thương của bà Đào cũng như lòng những người không vong bản, vẫn cùng non sông sau trước một lòng.
Bà Đào Trúc Tiên là người trong khuê khổn, chỉ dùng văn chương để tả nỗi lòng đối với người thân yêu cảnh thân yêu. Tác phẩm ít khi ra khỏi vòng thân mật trong gia đình, bằng hữu.
Bà em, bà ĐÀO CHI TIÊN, đường giao thiệp rộng hơn. Bà thường xướng họa cùng tao nhân mặc khách Trung Nam. Cho nên tác phẩm của bà được nhiều người biết.
Cũng như bà chị, bà CHI TIÊN thường làm thơ chữ Hán hơn thơ Quốc âm. Nhưng thơ quốc âm bà cũng tao nhã lắm.
Một lần đến thăm Vườn Hoa Thơ, bà có đọc cho nghe 10 bài liên hoàn “Mơ về vườn cũ” họa vận thơ một nhân sĩ Bắc Việt di cư. Lão nhớ được một thủ:
Thương lúc mưa sa gió dập dồn
Cành xuân lã tã bóng hoàng hôn
Sắc dù úa nhạt nơi u cốc
Hương vẫn nồng nàn đến viễn thôn.
Ngày hạ bao lần cơn hốc nhiệt
Đêm thi chi xiết nỗi hàn ôn.
Ai về nhắn với hoa vườn cũ
Rằng bướm Trang sinh gởi mộng hồn.
Bà CHI TIÊN lại có thuật giữ gìn hoa rất khéo. Cứ mỗi mùa xuân đến, bà lựa những nhánh hoa thật xứng ý, đem ép thật khô rồi kết thành những bức tranh tuyệt mỹ. Khách thưởng tranh chẳng những được thấy y nguyên màu sắc của hoa, mà còn được đón lấy mùi hương phảng phất. Và trên mỗi bức tranh có một vài câu thơ điểm xuyết do bà làm ra và viết lấy. Lão còn nhớ được một câu đề bức anh đào:
Xuân sắc dũ thâm hồng dũ thiển
Mỹ nhân trang dạng bất tùy thân
Nghĩa là “Sắc xuân càng đậm bao nhiêu thì màu hồng của hoa càng lợt bấy nhiêu, bởi người đẹp không bao giờ theo người đời mà trang điểm”.
Thật thanh cao!
Những thơ đề tranh hầu hết đều bằng chữ Hán. Lão nhớ được một bài Quốc âm làm theo điệu ca Nam Bình, đề nơi một bức tranh hoa khô Đào Trúc Cúc Mai chen lá lan cánh bướm:
Cúc mai vàng rực bên cây
Ngắm mà say!
Đượm đà xuân sắc,
Ngào ngạt hiên tây.
Bên trời tròn vạnh trăng đầy
Bóng trăng đầy
Chói trên sân
Lan điệp sum vầy
Hoa đào xinh mướt,
Trúc xanh xanh đôi cành tha thướt…
Hồn mộng mơ màng...
Mộng mơ màng tiếc thương hoa,
Bao nài mấy độ thu già.
Tấm thân vàng ngọc. Ai ơi!
Nào ai biết,
Biết ai nói cười!
Tâm sự này chưa phai
Sương nhuộm màu hoa đượm
Đượm càng tươi
Gặp kỳ xuân lai
Nhụy hồng phơi
Yêu hoa mấy người!
Thơ bà Đào Chi Tiên ngấm vị sầu. Thơ bà Đào Trúc Tiên đượm màu tươi. Một bên đài các, một bên phong lưu. Mỗi người một vẻ, nhưng cả hai đều chịu ảnh hưởng của cụ cố Đào Tiên Công.
Hai bà hiện ở Sài Gòn. Tuổi tuy đã trên tám mươi, nhưng tinh thần còn minh mẫn, ngày ngày vui thú cùng hoa kiểng và văn chương.
Hai bà có mấy tập thơ Hán Văn và Quốc âm chưa xuất bản. Rất tiếc lão chưa được xem, nên chỉ xin đưa lên Vườn Hoa Thơ những vần hương hai bà đã gởi tặng.
Và đọc những vần thơ thượng dẫn, những bạn chưa được biết hai bà, chắc không ngờ rằng tác giả đã lên hàng thượng thọ.
Gương soi đôi mái dù sương tuyết
Bút trỗ nghìn thu vẫn phấn hương.
(1960)
21- Thơ Vườn Xuân xa và Hoa Nắng
VƯỜN HOA THƠ mở ra để đón tất cả hương sắc bốn phương đưa đến, không phân mới cũ. Nhưng lâu nay chưng bày trên vườn phần nhiều là những thứ hoa nở trong địa hạt thơ Đường luật. Cho nên lắm bạn ngờ rằng lão giữ vườn này chủ trương phục cổ.
Những lời phân trần… không đủ làm cho các bạn ấy tin rằng trong lòng lão không có những con đê ngăn cách những dòng Thơ. Lão muốn mổ bụng ra cho các bạn xem, song tánh lão ưa hòa bình, không thích thấy đổ máu, lại sợ đau, nên đành phải tìm cách khác để chứng minh lòng không thiên vị: Giới thiệu cho nhiều thơ lối mới.
Cách này thật là giản tiện, song thật là khó khăn! Bởi vì trong bao nhiêu bó hoa thơ các bạn thân yêu gởi đến, phần nhiều chưa đúng kỳ hái mà đã vội hái, năm ba đóa màu sắc dễ coi song lại thiếu hương vị, một vài đóa có nhiều ít hương vị lại màu sắc không được xinh tươi…
Đương cơn lúng túng thì lão tiếp đặng mấy bó hoa của một ông bạn thơ trẻ tuổi, từ Ba Lê gởi về: Thơ của THI VŨ. Lão xem qua một lượt…, rồi thì một tiếng khoan khoái và vội vàng giới thiệu cùng các bạn thân mến của Vườn Hoa Thơ.
Thi Vũ, hiện ở Pháp. Thân tuy ở tha phương nhưng lòng vẫn luôn luôn hướng về Tổ Quốc: Ở nơi quê hương, một nơi phồn hoa đô hội mà văn chương phơi bày nghìn sắc muôn hương, ông vẫn chăm rèn luyện quốc âm, và thương gởi tác phẩm về đăng ở các báo chí, nhất là ở Liên Hoa nguyệt san Huế. Ông đã hoàn thành được hai tập thơ Mùa Xuân Xa và Hoa Nắng.
Những hoa thơ ông gởi về cho lão phần nhiều trích ở hai tập kia và một số mới sáng tác. Ông bảo:
Một vài cánh hoa dại đơn sơ và bé nhỏ, hái trên những đường nắng xin đem tặng người mười phương…
Vườn mọi người đã thơm lừng chục giống danh hoa, trăm màu nghìn vẻ.
Đem Hoa Nắng đến phải chăng định tráo trở vàng, đồng? Quyết rằng không! Biết chăng sao bì kịp với gót mây hương, với bao tà lụa sắc kia… chỉ vì thấy vườn hoa nào cũng trải vàng thảm cỏ cho mát bước chân đi và phủ nền đất bụi.
Lòng bỗng thôi e dè: biết đâu trong số người chơi hoa đông đảo kia lại chẳng có vài tâm hồn thích đôi chồi Hoa Nắng dại để rải lên các đệm cỏ kia.
Tâm trí tạm yên để trình dâng chút sắc nõn hoa trời
(Lời thưa trước - Hoa Nắng)
Ông lại bảo tác phẩm của ông “như chiếc thuyền trôi trên sông, chở chút gió, chút nắng, chút hơi mây, hương sông..., chở một mẩu không gian bé tí, hạn định của Đại Thể bao la, không cùng, cứ thế trôi đi, bình lặng trước mọi ồn ào của biến chuyển bởi như đã biết rồi, sẽ đến ngày về biển sáng đầu vòm trời” (Mùa Xuân Xa).
Đó là những lời tâm sự ngỏ cùng những ai là tri âm.
Ai tri âm đó hãy cùng lão vào vườn thơ để thưởng thức những đóa hoa lão đã lựa trong những bó mà lão ưa thích nhất, đây:
ĐỘC MÃ
Trời hương sực tỉnh sương thu rụng
Mai mốt thôi còn ý lá rung…
Nhớ đã se tim đường lữ thứ
Một mình đem vó đọ mông lung!
(X/6I)
THƯƠNG HỜ
Mùa thu đổ hoàng hôn lên mái lá
Dấu chân hè mất dạng dưới sương sa
Buồn không biết cùng ai nói
Mắt lặng thương hờ đóm lửa xa.
(X/6I)
Bài Bát ngôn cũng như bài Thất ngôn, âm tiết và khí vị phảng phất Đường Thi.
Bài HỒ ĐIỆP sau đây:
Hồ điệp lượn đầy vòng quyến luyến
Rồi một đêm thôi quyến luyến ngọn đèn
Hạ mình trên mắt gỗ
Trông hoàng lạp múa men.
(Mùa xuân xa)
Cả lời lẫn ý đều mới, đọc lên lão có cảm giác đọc một bài thơ Nhật Bản lối Tanka hay Haikai.
Những bài trên đây đều có “tiếng đàn ở ngoài giây tơ”, đừng đọc trong nơi ồn ào, trong lúc chộn rộn, thì mới hưởng trọn ý vị thanh tao.
THI VŨ thiên về lối thơ không vần. Những bài có vần chỉ rải rác trong số thơ lão nhận được.
Lắm người không chấp nhận lối thơ không vần. Họ bảo “Thơ khác văn ở vần, mà không vần không thể gọi là thơ”. Nói thế là lầm to: Vận văn mới khác tản văn ở vần, chớ Thơ khác văn ở chỗ “trong Thơ có thơ, trong văn không có thơ”. Vần chỉ giúp cho người làm thơ dễ tạo âm nhạc mà thôi. Nếu bỏ vần đi mà âm nhạc câu thơ vẫn dồi dào thì mới thật là xuất chúng. Kìa như Kinh Phật, các bạn ai chưa đọc thử đọc xem, có cần chi vần mà thật đầy thơ đầy nhạc.
THI VŨ vốn là một Phật tử, có lẽ ông đã nhận thấy chỗ kỳ diệu của văn chương trong Kinh và muốn nương theo bút pháp của hai ngài TRẦN HUYỀN TRANG và CƯU MA LA THẬP? Có lẽ đúng hơn là ông đã chịu ảnh hưởng phong trào văn học hiện đại của nước Pháp như một số thi nhân bên Việt Nam, các nhà thơ Tự Do.
Theo quy luật của người xưa đặt ra, học lấy bút pháp của những tay cự phách đương thời, hoặc tự tạo ra những nguyên tác để theo, điều đó không quan trọng. Điều tối quan trọng đối với kẻ làm thơ là làm thế nào cho thơ mình nhập diệu.
Vậy chúng ta thử xem thơ không vần của ông THI VŨ còn ở xa hay đã đến gần diệu xứ? Lão xin đưa ra đây một ít bài trong những bài lão đã đọc kỹ:
ĐỢI
Lá úa trở về như đàn bướm
Cuối mùa xuân lảo đảo bay tìm
Ngày đâu hoa phong nhụy bừng tươi
Cũng như thu tâm hồn tôi đến tuổi
Màu xanh rụng để cành trơ chịu đựng
Trái chưa mùi nắng hạ đã đi xa
Dáng hanh thu không ráo đủ sương tà
Cũng như lá tâm hồn tôi lưu lạc
Nát trong bùn cầu gặp ít mầm xanh
Như muôn cây đương vươn thẳng ngọn cành
Tôi đứng đợi mặt trời lên chân biển
Để lòng quên đôi cảm giác cô đơn
Bài này từ điệu còn theo lối bát ngôn thời Tiền Chiến, và còn chen một ít câu có vần với nhau. Thi Vũ có nhiều bài hoàn toàn không vần và thể cách có phần mới mẻ. Như:
NHƯ Ý
Những chùm nắng
Lìa xa bến trăng
Chở vào không gian thành nho tươi óng
Sáng tằm tơ vàng rực ướp hương lòng
Nỗi buồn đời
Đã có hơi tăm
Giọng cười ngọt ngào xôn xao trao ướm
Tâm hồn đầy vạn dáng mắt tơ ươm
Đường tinh tú
Cửa mây thu
Gót hài cài sao băng từng vĩnh viễn
Chiều triền miên cuối chầu triều thiên
Ta trả ta về ngọn sóng xuân xa
Trong một bức thư gởi cho lão, tác giả cho biết rằng thể thơ này là thể thơ mà tác giả “nhận thấy rất thoải mái để ghi đúng tâm tư cùng ý tứ của mình”
Các bạn thấy hai bài ấy như sao?
Theo lão thì cả hai, tứ mới, có nhiều câu hay. Song đọc nghe chưa thật khoái tâm khoái khẩu.
- Vì sao vậy?
- Trong nghệ thuật làm thơ, kỹ thuật hòa hài quan trọng thứ nhất. Âm hưởng phải quán thông, phải du trường, tiết tấu phải luôn biến đổi, nhưng trên dưới phải hòa hợp, trước sau phải liên tục, thì lời thơ mới đạt cảm và truyền cảm sâu xa.
Hai bài thơ trên, lão nhận thấy nhạc thơ điều hòa chưa được khéo. Đọc từng câu từng đoạn thì êm ái nhịp nhàng. Song đọc toàn bài, nhất là đọc một hơi, còn gặp nhiều cho gập ghềnh ngượng ngập, không nhất khí quán hạ, nên không đủ sức lôi cuốn lòng người đọc và gây nhiều hứng thú cho người nghe, nhất là những người cũ kỹ như lão.
Lối thơ không vần, thơ Tự Do, hiện đương ở trong thời kỳ xây dựng. Phải đợi một thời gian kinh nghiệm để rút những ưu khuyết điểm, đặt thành nguyên tắc chung, thì người làm thơ mới thấy rõ con đường đi đến chỗ tuyệt đỉnh, và người phê bình mới có chỗ đứng vững chân.
Nhưng đối với THI VŨ, một nhà thơ trẻ tuổi “luôn luôn tìm tòi một thể thức diễn đạt mới mẻ để làm giàu cho văn học...”, một nhà thơ biết tự trọng nhưng không tự ái, luôn luôn vui vẻ đón tiếp những lời khen chê vì, như ông đã nói “Quả nào muốn trở chín lại không qua mùa xanh? Lại không cần bàn tay của thiên nhiên hay người làm vườn vun vén”, lão không ngần ngại phát biểu ý kiến, mặc dù lão chưa nghiên cứu kỹ về lối Thơ không vần. Huống nữa phát biểu ý kiến như thế may ra có đúng thì sẽ giúp ích cho ông bạn vong niên THI VŨ phần nào, bằng rủi mà sai thì sẽ được các bậc cao minh chỉ giáo. Nói đúng thì có lợi cho người, nói sai thì có lợi cho mình. Như thế lão sợ gì mà không nói chứ.
Thơ Thi Vũ gởi cho lão khá nhiều. Những bài lão đã trình bày đó là những bài lão thích, và lão còn thích nhiều bài khác, nhưng không tiện trình bày hết ra đây, vì còn để thì giờ giới thiệu cùng quý bạn, một loại thơ khác của Thi Vũ: Loại Thơ Tản Văn.
Về loại này, có thể mạnh dạng nói rằng tác giả đã thành công trong nhiều bài. Ví dụ:
LÒNG THẲM GIẾNG
“Giếng ngọt, tình thơm… Ngại chi mưa chiều nước lũ! Mắt chúng ta là những vì sao sáng thắp bởi ngọn đèn hồn. Những vì sao của những vì sao trên trời, của trời sao đêm găm đầy mái tóc giếng.
Nghiêng mình em nhìn xem lòng thẳm giếng, em sẽ thấy cõi vô cùng bàng bạc ở thẳm sâu.
Hoa rụng tròn dư ba. Mặt nước gương sẽ lại vẹn toàn phản chiếu.
Tội chi ủ dột lòng nước sóng. Tiếng chân đêm gánh sao về lóng lánh. Giọng hồ ngày rực rỡ mở đời ra. Một vài thoáng heo may làm sao giá buốt được cõi đời?
Nghiêng mình em nhìn xem lòng thẳm giếng!
Đó là cái nhìn tận trong thăm thẳm của tâm tư. Cái nhìn của con người có đời sống bên trong dồi dào và sâu sắc, đã nhận thức được cái Đẹp vô biên và bất biến của Chơn Tâm”.
Lời dịu, ý thâm, vị thơ thanh đạm nhưng thấm thía.
Tập HOA NẮNG của THI VŨ gồm hầu hết thơ Tản Văn, và thơ Tản Văn trong Hoa Nắng phần nhiều đều đáng yêu và dễ yêu như Lòng Thẳm Giếng.
Để quí bạn thưởng thức thêm thi tài của tác giả Hoa Nắng lão xin đưa ra một bài nữa:
TRĂNG
“Trăng đêm nay sáng, nền trời thẩm đen xanh ánh ngọc thạch.
Chỉ một tí chút vòng cung, song án ngự tất cả vòm cao. Vẻ sáng không chói lóa mà trong vắt, mát dịu và hiền.
Trăng không cần lớn như vòm trời
Trăng không thích bé như những vì sao.
Trăng vừa vặn trong toàn vẹn hồn nhiên thanh thoát.
Chốc chốc thoáng qua chút mây che, nhưng rồi mây tan biến như hơi nước, để ta thấy rõ hơn màu ngọc trai ánh nước, điềm đạm hiện giữa vòm cao.
Những vì sao quần tụ và tản mát nói lao xao cho nhau nghe về người chị yêu dấu đang vỗ về bóng tối…”
Trăng - trăng vừa vặn trong toàn vẹn và hồn nhiên thánh thoát kia có phải bóng dáng của Bản Thể thanh tịnh và nhiệm mầu?
Thật là đẹp và nên thơ!
Nếu Hàn Mặc Tử còn sống, sẽ tìm đến vỗ vào đùi lão mà bảo:
- Uống vào thật ngọt lịm cả hàm răng!
Thơ Tản Văn không phải mới. Trước Thi Vũ đã có Xuân Diệu và Chế Lan Viên. Hai tập Phấn Thông Vàng và Vàng Sao cùng Cai Lửa là những tập Thơ Tản văn rất có giá trị. Nhưng ngót vào mươi năm nay chưa có tập nào kế túc. Tập Hoa Nắng của Thi Vũ ra đời chẳng những bổ túc cho chỗ khuyết kia, mà còn đưa vào làng Thơ một khí vị thanh thoát và mới mẻ.
Thi Vũ còn đợi gì mà không cho Hoa Nắng ra mắt bạn mười phương? (1)
Lão chưa được gặp Thi Vũ. Song qua những bức thư và những thi phẩm gởi cho lão, lão nhận thấy bạn là một nhà thơ có tâm hồn phong phú, có văn thái phong lưu, và rất dày công học hỏi tu luyện. Những tác phẩm đã hoàn thành kia mới là bước đầu trên đường văn nghệ. Thế mà đã có nhiều đặc điểm như thế, thì với tuổi trẻ, với tài năng, với công phu học tập, Thi Vũ sẽ xây dựng nên một sự nghiệp văn chương cao lớn và vững vàng (2)
Giới thiệu THI VŨ, lão có hai điều vui sướng:
- Được đưa ra vườn thơ yêu quí của chúng ta, một khóm hoa lạ mới trổ hương và đầy nhựa sống, chưa từng lọt vào mắt của những khách tìm hoa.
- Được quý bạn thân yêu tin rằng lão tuy lù khù lọm khọm, nhưng bụng dạ không đến nỗi chỉ chứa toàn những gạch bể đá nát của nghìn xưa, như lòng các ngọn tháp Chàm rêu đóng.
Nghĩ vậy, lão đắc ý vuốt râu ngâm to rằng:
Mạc hiềm lão phố thu dung đạm
Do hưu hoàng hoa vãn tiết hương.
Chú thích:
(1) Lúc viết bài này (1960) Hoa Nắng chưa xuất bản. Hoa Nắng vừa xuất bản đầu năm 1970.
(2) Bài này viết năm 1960. Trong mấy năm nay thi đàn của THI VŨ lên cao và thơ Thi Vũ sáng tác được nhiều tác phẩm giá trị. Có dịp sẽ nói cặn kẽ. Bài này trước viết sao nay giữ y vậy để làm kỷ niệm.
22- Thơ vườn Vũ Hân
Thân dù bệnh hoạn, Vũ Hân vẫn băng ngàn tìm đến thăm lão và tặng Vườn Hoa Thơ ba tác phẩm:
- Diễm Trang (Thơ)
- Để xây dựng kịch (Lý thuyết văn nghệ)
- Giảng sách dưới Trăng (Kịch dã sử).
Những văn thơ trong ba tập, lão đã được xem từ khi còn là bản thảo.
Thơ trong Diễm Trang phần nhiều làm tại Liên Khu V thời Kháng Chiến chống Pháp (1945-1954). Thời bấy giờ hầu hết các văn nghệ sĩ đều chạy theo hoặc bị lôi cuốn theo tân trào. Vũ Hân và lão đứng yên một chỗ, cam chịu tiếng lạc hậu và lời đả kích của cán bộ văn nghệ địa phương.
Lão ở Bình Khê xa cơ quan đầu não, ít khi gặp gỡ các vị lãnh đạo văn hóa. Vũ Hân ở Hoài Nhơn là nơi tập trung hầu hết các nhân vật cao cấp Liên Khu V, nên thường bị tay chân các vị này làm khổ.
Một hôm lão ra Hoài Nhơn có việc. Vũ Hân đọc cho nghe bài thơ mới sáng tác:
NGHẸN BƯỚC
Nắng rụng gầy sương đường lỡ thì
Thương người khăn gói nghẹn chân đi
Quán nghiêng nửa mái chờ giông tố
Cửa hẹp mây đùn sập nét mi
Quỷ dựng đằng sau muôn lớp ải
Lòng nghe nai gặm cỏ biên thùy
Xoa tay nhớ lại mùa xuân trước
Phấn bướm còn vương nhịp trúc ti.
Lão tán thưởng:
- Bỏ luật mà âm tiết vẫn điều hòa. Cặp kết tuyệt diệu! Đã mấy năm trời rồi mới gặp được một bài thơ hay!
Vũ Hân sung sướng:
- Nghe anh khen, tôi mừng. Vừa rồi cán bộ văn hóa Miền Nam đem mổ xẻ. Họ bảo rằng tôi có tư tưởng phản động nên đả kích tơi bời.
- Chỉ đả kích chớ không đề nghị đưa đi an trí, kể cũng đã khoan hồng lắm rồi, còn than gì nữa. Từ nay có cao hứng sáng tác thêm được bài nào thì phải dấu kỹ, và phải luôn luôn nhớ lời mụ quản gia của Hoạn Thư dặn Thúy Kiều:
Ở đây tai vách mạch rừng
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
Vũ Hân nghe lời và từ ấy thơ làm ra chỉ dành riêng cho lão đọc. Đọc thầm dưới bóng dừa, dưới bóng giây tiêu, trong miếu hoang, trên bãi vắng... Đọc với nhau, chê khen với nhau, hễ thoáng thấy bóng người liền nít bặt. Lão nói bỡn cùng Vũ Hân:
- Trên đời ăn và ngủ là hai cái thú. Nhưng cổ nhân dạy rằng chưa thú bằng ăn vụng và ngủ gật. Từ bé chí lớn chưa từng ăn vụng và ngủ gật, nên tôi chưa biết thú đến mức nào. Nay tôi khám phá được một cái thú mới: Đọc thơ bình thơ là một cái thú, song chưa thú bằng đọc trộm bình thơ lén như hai đứa mình.
Vũ Hân vỗ đùi cái đét, ngửa mặt lên cười:
- Hay!
Một hôm gặp Vũ Hân ở Phù Cát, Vũ mừng rỡ mời lão:
- Vào quán, tôi đãi anh.
- Tiền đâu mà phung phí thế? Bán được thơ cho cơ quan Văn Hóa à?
- Bán tập thơ Hàn Mặc Tử cho một thằng bạn yêu sách cũ. Nó theo năn nỉ hoài. Nhân lúc túng tôi đành bán cho nó và tự an ủi rằng “nó giữ cũng như mình giữ”.
Đoạn đọc cho nghe bài thơ cảm tác:
XUÂN TÚNG BÁN THƠ HÀN MẶC TỬ
Ta bán tình ai dưới nắng đào
Tình ơi! đừng khóc chuyện xưa sau
Đổi thương nghĩ cũng tình đen bạc,
Nuốt lệ mà mua chén ngọt ngào.
Thôi đuổi cô sầu về dĩ vãng,
Đành cho độc mộng lại chiêm bao.
Giật mình hoa rụng xao lòng chén
Chẳng biết hồn hương lạc hướng nào!
Lúc ấy nghe đọc thơ đến câu:
Giật mình hoa rụng xao lòng chén
Chẳng biết hồn hương lạc hướng nào!
Lòng lão tự nhiên cảm thấy bơ vơ lạnh lẽo. Rồi mỗi khi ngâm lại câu thơ, không cầm được nỗi thương kẻ còn người khuất, vì kẻ còn cũng như người khuất “chẳng biết hồn hương lạc hướng nào”!
VŨ HÂN là một nhà thơ thuộc lớp mới, nhưng ưa làm thơ thất ngôn bát cú. Nhiều câu có cách điệu Đường Thi, như câu kết hai bài thượng dẫn. Song thường thường Vũ Hân không thạo luật thi một cách chặt chẽ như phái thơ Cũ. Có người tưởng rằng họ Vũ không rành thi pháp. Lão cải chính:
- Không phải thế. Chính Vũ Hân noi bước Vũ Hoàng chương tháo bỏ bớt những điều ràng buộc của người xưa, nhất là về sự đối trượng.
Trong tập Mây của Vũ Hoàng Chương có bài:
NGHE HÁT
Phách ngọt đàn say nêm khói êm
Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm
Canh khuya đưa khách lời gieo ngọc
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm
Ai lạ nghìn thu xa tám cõi
Sen vàng như động phía châu liêm
Nao nao khói biếc hài thương nữ
Trở gối hoa lê rụng trắng thềm.
Thật ý vị!
Xem bài này và bài Nghẹn Bước của Vũ Hân thì thấy rõ thơ thất ngôn bát cú hà tất phải có đối mới hay.
Cổ nhân bày ra phép tắc luật lệ là cốt để điều khiển nguồn cảm hứng khỏi hỗn loạn vì quá tự do. Phải áp dụng một cách linh động. Nhiều khi phải quá bỏ qui tắc để theo hứng. Không phải đợi phong trào Thơ Mới nổi lên mới có người bỏ đối. Chính ở đời Đường là thời luật thơ phát xuất, thời các thi gia đua nhau tu luật cho thêm chỉnh đốn, mà vẫn có người không theo luật, có người nặng lời công kích. Thôi Hiệu làm bài Đăng Hoàng Hạc lâu, Lý Bạch làm bài Đăng Phượng Hoàng đài... đều không theo đúng qui tắc ổn định. Và Hàn Sơn mà thơ nổi tiếng là cao nhã đã chê các thi nhân chú trọng niêm luật là bọn thong manh:
Ngã tiếu nị tác thi
Như manh đồ vịnh nhật
Nghĩa là:
Ta cười ngươi làm thơ
Như đui vịnh mặt trời
Qua đời Tống, các thi gia áp dụng thi luật lại càng nghiêm nhặt hơn nữa. Do đó có người đã thốt câu “thi luật thương nghiêm tợ quả ân” nghĩa là “luật thi vì quá nghiêm mà làm thương tổn tánh tình như người ít hay thi ân đức”.
Giá trị của thơ vốn ở phong phú chớ không ở cách luật. Mà phong phú do tánh linh mà ra. Cho nên người hiểu rõ đạo làm thơ thì lo uẩn nhưỡng tâm tư, còn những kẻ tài kém mà hay khoe tài thì cứ lo thôi xao từ điệu.
Lúc ở Liên Khu V, lão thường đem ý ấy mà bàn cùng Vũ Hân. Cho nên thơ luật của họ Vũ ít câu nệ phép tắc, tình ý lui tới được thong dong. Lắm bài có biệt thú.
Thơ Lục bát của họ Vũ có phần lưu lợi hơn thơ luật. Những câu như:
… Em đi bóng ngã lưng đồi
Ta nghe suốt hát bên trời xanh mơ
Thuyền ta ghé đổ ven bờ
Suối rung rinh nắng lững lờ không gian…
(Áng tóc chiều)
... Có về đâu đất Liêu Dương
Mà sao mây trắng vấn vương tình người?
Người đi nào, nệ trăng vơi
Đường sương trắng trẻo, ngày trời vẫn thanh.
Dặm thu hoa cỏ hiền lành
Nhuốm màu du tử nửa xanh nửa vàng…
(Đường thu)
… Em tôi hồn mới dậy thì
Thơ tôi vừa mới chợp kỳ lên phương
Chấp tay tôi khấn mười phương
Gửi giùm thương nhớ cho nường phụ tôi.
(Nhớ). Vân vân…
Đều là những vần thanh lệ, hương vị không nồng nàn nhưng đượm đà, như mùi hoa ngọc anh.
“Áng tóc Chiều” có nhiều hình ảnh đẹp.
Trong “Đường Thu” có những chữ Liêu Dương, Du tử rất cổ. Song khéo sử dụng làm cho câu thơ trở nên mới mẻ cả ý lẫn lời. Đó là phiên trần xuất tân. (Lật lớp bụi cũ lên để bày cái mới ra)
Bài “Nhớ” câu cuối trước kia lão nghe đọc như trên. Nhưng trong Diễm Trang lại chép là “Gửi giùm thương nhớ cho nàng THƠ tôi”
Câu cũ hay hơn.
Câu “Cho nàng thơ tôi” là trực tức ngay thẳng.
Câu “Cho nường phụ tôi” là khúc tức quanh co.
Cổ nhân dạy: “Làm người quý trực, làm văn làm thơ quý khúc”. Vì sao vậy? Vì ở đời khúc thì ra giả dối, còn văn thơ trực thì chẳng khác một dòng nước chảy thẳng băng xuống biển, trông không mấy đẹp mắt khoái lòng. Chớ nhìn một dòng nước chảy quanh co, thì thấy nhiều cảnh chồng lên nhau chỗ ẩn chỗ hiện, nhìn hoài thấy mới hoài, nhìn mãi không chán.
Nghe đọc “Gửi giùm thương nhớ cho nàng thơ tôi” thì không có gì phải thắc mắc phải suy nghĩ. Chớ “… cho nường phụ tôi” thì làm gì cũng khiến người đọc người nghe phải đặt ra nhiều câu hỏi:
- Nường đã phụ mình sao mình còn thương nhớ?
- Mà thương nhớ thì thương nhơ chớ gửi lòng mình đến mà làm chi vì đã phụ rồi thì cần chi đến lòng người bị phụ? Vân vân…
Bao nhiêu câu hỏi ấy bấy nhiêu câu trả lời. Đúng ý tác giả càng hay, không đúng ý tác giả vẫn có lý thú.
Cho nên “Nường phụ tôi” quý giá hơn “nàng Thơ tôi” là vậy đó.
Thưởng thêm một bài nữa:
TẠ TỪ
Gặp nhau đang độ mưa trưa
Lòng không ấm lắm, tình chưa lệ kiều.
Tạnh mưa trời bỗng đìu hiu
Gió đưa khăn gói sợ nhiều nhớ thương.
Nhớ nhau tuy chẳng đoạn trường
E chiều vàng võ bên đường liễu xanh
Thương nhau dệt mộng chưa thành
Thà hoen tay áo nghiêng mình tạ nhau
Thật dễ thương!
Thơ lục bát của Vũ Hân phần nhiều đều như thế cả.
Còn các thể khác không làm cho lão “phải lòng”.
Trong tập kịch GIẢNG SÁCH DƯỚI TRĂNG có hai bài thơ, một theo thể song thất lục bát, một theo thể cổ phong. Bài cổ phong có cốt cách một cây lão mai bên bờ suối, cành khẳng khiu nhẵn nhụi, trỗ lác đác vài đóa hoa tươi:
CUỒNG CA
Cõi trần điên! Vua Tần điên!
Oán cừu ngập cả núi sông Yên
Bốn trăm sáu chục hồn nho sĩ
Cuồng hận cười rung sóng cửa tuyền
Khói huyền!
Ngọn khói huyền!
Sự nghiệp thôi rồi! Bụi bút nghiên!
Một thuở thư sinh tàn mộng lớn,
Muôn đời Tần chủ nặng oan khiên
Đốt nữa lên! Đốt nữa lên!
Đây trang thảm sử chép lưu truyền...
A phòng khóa kín nghe chăng nhĩ?
Lửa múa, ta cười,
Nguyệt mãn thiên.
Nguyệt mãn thiên! Khói mãn thiên!
Hàm Dương sừng sững mộ ngang hiên!
Đêm nay có kẻ nhìn pho sách
Nhớ buổi sơ khai, rợ khắp miền!
Thơ Vũ Hân còn nhiều bài chưa xuất bản, và thơ đã xuất bản rồi không được sức ủng hộ của các cơ quan ngôn luận, không được sự chiếu cố các nhà phê bình nên không được phổ biến sâu rộng.
Cầm mấy tác phẩm trên tay, nhìn người bạn “Viễn phương lai” lòng tự nhiên sanh cảm khái, lão buột miệng ngâm bài ngũ tuyệt lão đã tặng biệt bạn về Hội An chữa bệnh, lúc còn ở Liên Khu V:
Mẹ già canh lửa đóm
Thân bệnh nẻo mưa thu
Muốn khóc không còn lệ
Lai giang lạnh khói mù
23- Hoa trong Ngưỡng Cửa Chiều Hôm
Vũ Phan Long ở Quy Nhơn gởi tặng lão vườn một tập thơ vừa hoàn tất.
Tập NGƯỠNG CỬA CHIỀU HÔM.
Đó là tập thơ thứ hai của họ Vũ.
Tập thứ nhất là tập ĐÌU HIU ra đời năm 1968.
Trong tập Đìu Hiu có một câu làm cho lão để ý đến họ Vũ. Đó là câu:
Cánh ong trên lá rập rình
Môi em mật ngọt nụ tình nở hoa.
Câu này, theo mắt lem hem của lão, là một cái mầm đầy nhựa sống cho thấy trước rằng tâm hồn của tác giả là một khoảng vườn phì nhiêu có nhiều giống kỳ hoa dị thảo chưa gặp thiện duyên để nảy lộc sanh chồi.
Lão chờ đợi.
Nhận được NGƯỠNG CỬA CHIỀU HÔM, lão nửa ngại nửa mừng. Mừng được sớm thấy những gì mình mong thấy. Ngại rủi những gì mình mong thấy không được thấy, lại thấy toàn những gì mình không mong.
Tuy đương bận cuốc cỏ vườn và chọn hoa để đón tiếp bạn đến thăm vườn đầu tháng theo thường lệ, lão phải tạm gác lại để xem hoa trong Ngưỡng Cửa Chiều Hôm.
Lão nhận thấy:
Từ ĐÌU HIU đến NGƯỠNG CỬA CHIỀU HÔM, Vũ Phan Long đã bước được một bước dài trên con đường thơ muôn dặm.
Và trên con đường thơ muôn dặm, họ Vũ lại ưa lách vào những nẻo đen tối đìu hiu, để tìm những cảm giác thê lương rùng rợn.
Trong vườn hoa thơ của họ Vũ, thương nổi lên những nấm mồ, những nấm mồ đẹp đẽ, nhưng cô quạnh lạnh lùng:
Gió xua bóng nắng về ngàn
Tổ chiều con nhện giăng tràn mối tơ
Run run nhánh gẫy.. mô hồ
Bước chân thiên cổ đáy mồ âm vang
(Nhánh Gầy)
Bóng tràn ngưỡng cửa chiều hôm
Chập chờn nhân thế mồ chôn khắp trời
Mình tôi riêng đứng trên đời
Có ai tương biệt đây lờ viễn ly.
(Ngưỡng Cửa Chiều Hôm)
Ô kìa!
Nắng tắt bên sông
Bờ thu gió nổi
Mờ rung cây cành
Rơi rơi bước lá khuynh thành
Dưới sương vun nấm mồ xanh
Má hồng!
(Vun nấm mồ xanh)
Nắm xương biếc rụng vàng rơi
Lệ ai mộ lạnh? Ai lời nhắn nhe?
(Một mai)
Một mai gốc đổ tay rìu
Tìm nhau sắc cỏ tiêu điều mộ sương.
(Cây cố quận) Vân vân…
Đó là hình ảnh tâm trạng của tác giả, một tâm trạng ảm đạm và luôn luôn dằn vật bồi hồi. Tâm trạng ấy do cảnh bất hạnh trong đại gia đình, cảnh bất hạnh tác giả phải chịu từ thuở bé, và do những cuộc thất bại trên đường đời, những nỗi phụ phàng bạc bẽo của nhân tình thế thái, gây nên.
Thường thường những người gặp cảnh bất xứng ý, cố tìm cách giải thoát. Nguyễn Phan Long lại đi ngược lại. Chẳng những không tìm cách khai phóng những nỗi u uất trong lòng, mà còn nuôi nấng ấp iu, lắm lúc còn sợ mất là khác. Vì tâm tư khắc khoải mà:
Ma đưa lối quỉ đem đường
Lại tìm những nẻo đoạn trường mà đi.
Đi trên nẻo đoạn trường, nhiều khi họ Vũ cảm thấy ngoài thân không có gì, trong thân cũng không có gì ngoài giọt máu sơ sinh. Hồn không biết nương vào đâu tựa vào đâu, bơ vơ lạc lỏng đành bám víu vào những cái không bám víu được là cái đã mất đã qua, để mà khóc mà cười, khóc cười trong bóng tối, khóc cười với tiếng rùng rợn của đau thương:
Cành run nắng vàng tắt thở
Trần gian gò đống xanh xao
Hư vô giật mình mắt mở
Trong sương gà gáy quê nào
Bàng hoàng sông ngưng tiếng hát
Cô đơn xuôi một dòng sầu
Đôi bờ cỏ thơm lạnh ngát
Về đâu viên xứ trăng thâu
Tôi đứng bên cầu lá rũ
Thân trần giọt máu sơ sinh
Tay vội níu hồn vãng sự
Khóc cười rợn bóng u minh.
(Bên cầu)
Thật là lạnh lẽo não nùng, lạnh lẽo não nùng như tiếng than của Hàn Mặc Tử:
- Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu!
- Một vũng cô liêu cũ vạn đời!
Bước đi trên nơi chôn nhau cắt rún, đôi khi họ Vũ cảm thấy hiu quạnh lẻ loi như người đày ra miền xa xôi lạnh lẽo:
Tôi về châu quận sương thâu
Nẻo xuôi cố thổ vang màu viễn phương
Theo chân nức nở máu hường
Hắt hiu khói sóng con đường hắt hiu
Tay nào đón đỡ nâng niu
Mắt nào quán lạnh đìu hiu lệ sầu…
(Ngưỡng Cửa Chiều Hôm)
Đứng giữa mùa xuân, đứng trong ánh nắng tươi sáng, họ Vũ thường nhìn thấy màu âm u cảm thấy khí hiu hắt của mùa thu mùa đông:
Mùa xuân ẩn náu sa mù
Mình tôi giữa cõi ngục tù đăm chiêu
(Đăm Chiêu)
Long lanh giọt nắng nghiêng soi
Nghiêng đông đông thắm nghiêng đoài đoài xanh
Mắt em rạng ánh đa tình
Hồn tôi lũng tối cam đành tuyết dâng
(Giọt nắng)
Trong trăm năm là thế, ngoài trăm năm thì sao? Họ Vũ nghĩ “không còn gì hết”:
Ngày đi! hồng rụng vội vàng
Trời cao lớp lớp tro tàn phới sương
Tìm chi dưới cõi vô thường
Nghiêng tai cổ tháp miên trường lắng trông
Về đâu hỡi một giống dòng?
Tiếng viên gạch vỡ phiêu bồng dưới trăng!
(Phiêu bồng dưới trăng)
Đời cứ trôi, âm thầm trôi, trôi mãi như không bao giờ đứt không bao giờ ngừng, còn con người như viên gạch rụng nơi tháp cổ hay một viên sỏi ném giữa dòng sông:
Đời trôi biền biệt âm thầm
Một viên sỏi ném chìm tăm giữa dòng.
(Một mai)
Nghĩa là một phen nhắm mắt buông xuôi tay, thì không còn tăm không còn dạng.
Nhưng “không còn tăm dạng” không có nghĩa là mất hẳn, là hết. Cổ nhân gọi CHẾT là KHUẤT BÓNG, tức là “vẫn còn” vẫn còn ở “phía bên kia”. Cũng như viên gạch tuy vỡ mà tiếng vang vẫn còn mãi trong ánh trăng, ánh trăng bất diệt.
Tiếng viên gạch vỡ phiêu bồng dưới trăng
Một con ốc chết trên cồn vắng
Xác tuyết nghìn thu lạnh bể khơi
Đêm nay trăng lạnh chìm sau núi
Một bóng tre nghiêng mãi cuối trời.
Nhưng vì đức tin quá mong manh không đủ sức đánh bạt nổi màn hắc ám trong tâm hồn để đưa ánh từ quanh vào thay thế.
Lão không bảo thế là phải hay là quấy. Vì đối với Thơ, màu đen huyền và màu đỏ thắm, màu xanh lơ…, không màu nào đẹp hơn màu nào, nếu người sử dụng biết áp dụng cho đúng nơi, đúng lúc và đúng mức. Lão nói qua tâm trạng của họ Vũ - nói vì biết rõ nhờ gần gũi lâu ngày cốt để giúp bạn đọc thân yêu dễ nhận thức những cái ưu cái khuyết trong thơ Ngưỡng Cửa Chiều Hôm mà thôi.
Tâm hồn của Vũ Phan Long đại khái là thế.
Còn tài nghệ?
Những bài những câu trích dẫn trên đây chứng tỏ rằng họ Vũ có thi tài, và nghệ thuật cũng đã luyện.
Ngoài những bài thượng dẫn, trong Ngưỡng Cửa Chiều Hôm còn một số giai tác. Lão thích nhất là những bài về đàn:
ĐÀN TRANH
Cành khô lộng ánh sương mù
Bốn con thú lạ nhìn thu gọi đàn
Chân rú mỏ chạm gió ngàn
Tuyết rơi nắng sớm hương tràn sóng khuya.
VĨ CẦM
Nghiêng hồn vũ trụ lên vai
Một trời đông muộn ngủ dài trong cây
Lằn sương kiếm loáng ngang mày
Xôn xao hoa tuyết bay đầy bướm xuân.
ĐÀN KHUYA
Đàn khuya từng giọt châu sa
Kìa em! áo tuyết đâu mà ghé thăm
Vế đây, em gối em nằm
Nghe em năm ngón âm thầm máu rây
Từ phen mây nước lìa tây
Bực cung quen thói đắng cay lỡ rồi
Lệ sầu ngăn lại… em ơi
Cho anh phổ trọn mảnh đời lá lay
Này đây khúc “một bàn tay”
Này đây nửa bản "xuân thì" dở dang
Điệu buồn “Sa Mạc” “Tao đàn”
Thương ai “Bến Ngự Đêm tàn”... hỡi em!
Lòng đang chín khúc say mềm
Một dây bỗng đứt đường chim sững sờ
Giật mình đâu bóng người thơ
Vườn khuya con nhện thẫn thờ dệt trăng
Bạn THI VŨ thích bài Đàn Tranh
Bạn TRẦN THÚC LÂM, trong số Xuân Canh Tuất Niềm Thương, khen bài Đàn Tranh và bài Đàn Khuya.
Nói về Đàn Khuya, họ Trần có những lời ý vị:
"Tôi liên tưởng đến những khúc đàn của Vương Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh và bài Nhị Hồ của Xuân Diệu. Liên tưởng để mà thưởng thức chớ không phải để so sánh. Nếu mà có so sánh chăng là so sánh cái cảm giác khi đọc mỗi bài thơ, khi nghe mỗi khúc đàn, chớ không phải so sánh văn chương cao thấp.
Tác giả Đoạn Trường Tân Thanh, tác giả Nhị Hồ là những khách thẩm âm, tức là người nghe đàn. Tác giả đàn khuya lại là người gảy đàn, còn người nghe đàn không phải là con người bằng xương bằng thịt, mà là con người của mộng của thơ. Cho nên đọc Nguyễn Du, Xuân Diệu, chúng ta dù vui dù buồn, dù nhẹ nhàng dù trầm tệ..., lòng chúng ta vẫn thấy yên và ấm. Còn đọc Vũ Phan Long, chúng ta vừa cảm thấy lạnh lẽo lẻ loi, vừa cảm thấy rờn rợn như đối cảnh “Vườn khuya con nhện thẫn thờ dệt trăng”.
Còn về phần lão thì cả ba bài đàn với những bài lão trích dẫn trên kia đều là những bài lão cho là trổi nhất trong Ngưỡng Cửa Chiều Hôm.
Những câu:
- Vườn khuya con nhện thẫn thờ dệt trăng
- Tuyết rơi nắng sớm hương tràn sóng khuya
- Xôn xao hoa tuyết bay đầy bướm xuân
Theo lão, là những giọt sương mai đọng trên những cánh hoa hường mới nở dưới màu trời rạng đông. Ước có được nhiều để kết chuỗi tặng nàng Thơ, tặng nàng yêu trong mộng. Và đọc câu “xôn xao hoa tuyết bay đầy bướm xuân” lão chợt nhớ đến bài thơ Nhật của FUJITOMI YASUO mà Phạm Công Thiện đã dịch cho lão nghe mấy năm về trước:
Ồ thật!
Từ trong đàn vi ô lông
Từng cánh bướm lao xao
Bay ra và tản mạn
Chao! Đẹp!
Câu thơ của Vũ Phan Long không thanh thoát bằng câu thơ Nhật, nhưng giàu hình ảnh hơn. Hai bên tánh chất lại khác nhau. Thơ Nhật ấm và nhẹ, thơ họ Vũ lạnh và trầm. Một bên là hoa đào, một bên là hoa mận. Cả hai đều có biệt thú.
Có người bảo rằng trong Ngưỡng Cửa Chiều Hôm, lắm bài phảng phất quỉ khí.
Nhận thức như thế chưa đúng hẳn mà cũng không phải sai. Vũ Phan Long có khuynh hướng về quái đản. Đó là do tâm trạng như trên đã nói. Nhưng chưa đạt được ý muốn.
Thơ có quỷ khí, hay tiên phong, hay đạo vị, không phải muốn mà được. Tác giả phải hàm dưỡng tu luyện lâu ngày. Những giống phi phàm kia thâm nhiễm vào cốt tủy, biến thành tinh khí, thành huyết hãn. Một khi hứng đến, tự nhiên theo tâm tư mà len ra bút mực, tác giả không tự biết, độc giả phải tinh lắm mới nhìn ra. Nghĩa là thơ có quỷ khí, có tiên phong, có đạo vị... luôn luôn xuất ư vô tâm.
Riêng nói về thơ có quỷ khí. Ví dụ nói về ngày lễ thanh minh, thơ Tống có câu:
Nhật lạc hồ ly miên trủng thượng
Dạ quỉ thiếu nữ tiếu đăng tiền.
Nghĩa là: Mặt trời lặn, con hồ ly nằm ngủ trên gò mả. Đến tối trông thấy đứa con gái nhỏ ngồi cười ở trước đèn.
Đó chỉ là câu thơ tức cảnh, có ngờ đâu lại làm cho độc giả nhạy cảm phải lạnh mình! Tác giả đã chuyền quỷ khí nơi nghĩa trang vào thơ: Còn gì rùng rợn bằng hình ảnh con hồ ly nằm ôm gò mả ngủ lúc chạng vạng vắng bóng người? Bị ám bởi cảnh tượng hồ ly, ai khỏi lạnh mình khi trông thấy cô gái nhỏ ngồi cười trước ngọn đèn hiu hắt? Người trần thế hay là hồ ly hóa nên?
Chủ ý của tác giả là đem hai cảnh trái ngược nhau ở ngoài đường và ở trong nhà: Ngoài đường lạnh lẽo đìu hiu như kia, còn trong nhà tươi cười ấm áp như thế. Nhưng “Âm khí nặng nề” nơi nghĩa trủng, chẳng ngờ lại theo tác giả về nhà làm cho cảnh nhân thế trở thành nửa âm nửa dương, hắt hiu rờn rợn!
Đọc câu thơ Tống, còn dễ nhận thấy quỷ khí, vì phát hiện ra ngoài. Có nhiều câu thơ quỷ khí len lỏi ở bên trong, không. Có nhà thơ “cao tay ấn” chỉ cho thì khó mà nhận thấy. Lão xin kể một câu chuyện trong Tùy Viên:
Vương Xuân Khê dạy học ở Sơn Trung, lấy trong thơ Đào Tiềm bốn chữ “Hạ trử Thanh âm” (mùa hạ chứa bóng trong mát) mà ra đề cho học trò. Kẻ tộc đệ tên Như Sơn có câu kết rằng:
Dạ thâm vi võ quá
Tích túy trích thành âm
Nghĩa là: Đêm sâu trận mưa nhỏ quá, đọng chứa sắc xanh rơi thành tiếng.
Họ Vương đem khoe cùng Viên Tử Tài. Viên khen rằng tác ý cao, song hiềm có quỷ khí.
Không đầy một tháng sau tác giả Như Sơn mất. Viên khóc:
Nam vong tích túy thành âm cú
Thị ngã tầm thiềm phúc thống thì.
Nghĩa là: Khó quên câu “tích túy thành âm”, đó là lúc ta nương thềm đau xót.
Tại sao bảo rằng câu đó có quỷ khí?
Bởi vì màu xanh mà đọng lại thành giọt đã quái rồi mà giọt xanh ấy lại nhỏ xuống thành tiếng thì lại càng quái thêm.
Ông thầy đồ họ Vương chỉ thấy hay mà không thấy quái. Phải có con mắt tinh tế của Viên Mai, phải có tâm hồn tế nhị thâm thúy của Viên Mai mới nhận thấy, mới cảm thấy nổi.
Cổ nhân rất sợ thơ có quỷ khí.
Năm 1947, viếng mộ bạn Tam Hà ở Thuận Nghĩa (Bình Định) lão có câu:
Bên mồ nắm trấu riêng sùi sụt
Nhen bóng hoàng hôn đóm lửa xanh.
Cụ Chuyết Nhân ở Phú Thọ nhận thấy có quỷ khí, nhưng không dám nói. Mỗi lần cụ nghe có biến cố trong quận, nhất là nghe lão bị bắt an trí, là cụ lo… Nhưng rồi lão vẫn được bình yên. Mãi đến 10 năm sau, cụ mới cho lão biết. Lão cười:
- Như sơn chết là vì không có ai chết để làm cho câu thơ thêm linh thiêng. Còn tôi không chết là vì ông bạn đã chết, khí thiêng của bạn cũng đủ làm cho câu thơ kia linh rồi.
Nói tóm lại, theo lớp người cổ hủ như lão, thơ đeo quỷ khí không phải là chỗ sở cầu.
Song lão vẫn hoan nghênh những nhà thơ hướng về cõi tối tăm lạnh lẽo của âm phủ để tạo cho thơ mình một sắc thái riêng biệt, một khí vị riêng biệt. Bởi sĩ các hữu chí. Kẻ thích lên non cao tìm ngọc, người ưng xuống biển sâu mà châu. Các bửu kỳ bửu, bất tất phải đồng loại mới tương ái tương thân. Nhưng muốn đạt được mục đích, người làm thơ phải ra công hàm dưỡng tu luyện, như trên đã nói. Nghĩa là không nên chạy theo tư tưởng, mà phải sống với tư tưởng, để cho tâm linh thấm nhuần tư tưởng, rồi mặc cho nguồn sống tràn ra thi ca lúc nào thì tràn, không cần phải quan tâm lưu ý.
Theo quan niệm của lão, thơ hay không phải tại có quỷ khí hay không quỷ khí, cũng như có tiên phong đạo vị hay không tiên phong đạo vị. Thơ hay ở chỗ diệu. Tức là rung cảm lòng người về mặt tâm lý, hay sinh lý, hay trí tuệ, sức rung cảm càng mạnh, càng thấm thía thì thơ càng hay. Và tức là gây cho người đọc một thú vị hoặc kín đáo mà thấm thía, hoặc bồng bột mà háo hứng, thú vị càng lâu dài càng bền bỉ thì thơ càng hay.
Nói một cách khác, thơ hay là loại thơ làm cho người đọc khi đọc xong, tự thấy mình giàu sang thêm cao quý thêm, như người được của báu, được sách quý, hoặc tự thấy mình thấp hơn, như hà bá sông Hoàng Hà lạc ra biển đông, như một phú nông Bình Định vào Nam nhìn thấy đồng lúa phì nhiêu của các nhà đại tư bản.
Thơ được như thế là nhờ công uẩn nhưỡng phanh luyện. Tức là sống, sống mãnh liệt với ngoại cảnh cũng như nội tâm, sống đến mức độ ngoại cảnh và nội tâm nhập một. Chớ nếu sống một cách hời hợi, thì bút pháp dù tinh luyện đến đâu cũng không thể đi đến diệu xứ.
Lại có người chê Vũ Phan Long nặng về phần kỹ thuật, nên thơ không được tự nhiên.
Không đúng. Thơ không được tự nhiên không phải vì nặng về kỹ thuật, mà chính vì kỹ thuật chưa luyện đến mức tinh vi. Chớ bảo kẻ làm thơ không nặng về kỹ thuật thì nặng về gì? Bởi thơ là một môn mỹ nghệ kia mà. Huống nữa những nhà thơ xưa nay hơn kém nhau, đâu phải về nội dung mà chính về hình thức, tức về kỹ thuật. Ví dụ thơ Đường hơn thơ Tống, thơ Đoạn Trường Tân Thanh hơn thơ Hoa Tiên. Biện Hòa bị hai lần chặt chân là vì có ngọc mà không biết mài dũa. “Ngọc bất trác bất thành khí”. Hồn thơ, tứ thơ... là chất ngọc, là ngọc ở trong đá, nếu không có kỹ thuật thì làm sao biến viên ngọc phác thành viên ngọc liên thành? Nhưng cổ nhân thường dạy “dụng xảo vô phủ tạc ngấn”, tức là đừng để ngấn vết dụng công thì mới là khéo. Mà muốn không có ngấn vết dụng công trong thơ thì phải dày công phu rèn luyện kỹ thuật, chớ đâu phải vất bỏ kỹ thuật. Cái khéo của người lên đến cực điểm trở thành cái khéo của hóa công, tức là tự nhiên.
Phạm Công Thiện có câu:
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Trong Ngưỡng Cửa Chiều Hôm cũng có câu:
Đêm nay trăng lạnh chìm sau núi
Một nhánh tre nghiêng mãi cuối trời.
Là những câu thơ tự nhiên. Làm được những câu như thế không phải là việc dễ.
Không nên lẫn lộn tự nhiên với chất phác và thô thiển. Một bên là màu xanh của nước biển của da trời, một bên là màu xanh của nước chàm chưa lọc, của nước hồ lẫn thành phần chưa tan.
Và muốn đến mức tự nhiên thì phải gắng luyện cho đến mức tinh xảo trước, cũng như muốn đi đến mức thanh đạm phải luyện cho đến mức nùng diệm trước. Đó là lời của cổ nhân dạy môn đệ, và chính lão đã vâng theo hầu mong một ngày nào đó dệt thơ mình thành được một tấm áo trời không đường may.
Lão cũng thường đem những lời của cổ nhân ra khuyên Vũ Phan Long. Xem Ngưỡng Cửa Chiều Hôm lão nhận thấy họ Vũ đã thực hiện được nhiều ít.
Lão mừng.
Nhưng lão cũng rất tiếc:
- Trong Ngưỡng Cửa Chiều Hôm, tác giả để bìm lau chen vào nhiều quá. Những đóa hoa đẹp nhiều khi bị che khuất, khiến người yêu hoa phải mất công mới tìm ra.
- Họ Vũ ưa dùng phân hóa học của Tây Phương để bón cho hoa mình, mà không chịu nghiên cứu xem chất đất của vườn hồn mình có thích hợp với chất phân do người ngoài đem vào nước mình để thí nghiệm, không chịu nghiền ngẫm kỹ xem mình có đủ sức dùng mãi mãi như các nhà thơ ngoại quốc, như các nhà thơ Việt Nam đã tiêm nhiễm văn hóa Âu Mỹ, hay chăng. Phân phải hợp với đất, và người dùng phân phải cho thật rành tánh chất của đất cũng như của phân thì cây mới sanh nhiều hoa, hoa mới sanh nhiều hương nhiều sắc.
Nhưng viết bài này, chủ đích của lão không phải là phê bình Ngưỡng Cửa Chiều Hôm, mà chỉ cốt giới thiệu cùng bạn đọc thân yêu một ít hoa thơ trong tập. Những ý kiến đưa ra chỉ để làm gia vị cho cuộc thưởng lãm. Còn những ưu điểm và khuyết điểm trong tập thơ, thật như sao thì xin nhường cho các phê bình gia khi Ngưỡng Cửa Chiều Hôm xuất bản. Riêng phần lão nhận thấy thì tương lai của họ Vũ còn hứa hẹn nhiều thắm tương. (1970)
Chú thích:
(1) Tác giả đổi Ngưỡng Cửa Chiều Hôm ra Dưới Bóng Ngậm Ngùi và xuất bản năm 1970.
24- Hoa Thành Phú Xuân
Ở Nha Trang, gần đây có sản xuất một bài Thất Ngôn luật thi làm xôn xao dư luận làng phong nhã cổ điển.
Đó là bài:
PHÚ XUÂN THÀNH CẢM TÁC
Nhìn cảnh Hương Giang cảnh Ngự Bình
Nước mây chờn chợ nét điêu linh
Đàn Giao cỏ lấp khôn xây mộng
Bến Ngự trăng lên luống chạnh tình
Cung điện chưa nguôi sầu khói lửa
Phố phường đã ngút bụi công danh
Nghìn sau đời dẫu còn đâu bể
Vẫn nhớ rằng đây cựu Đế thành.
Tác giả là ai thật chưa ai được rõ. Cứ người này nghe thấy thích thì truyền cho người khác, người khác nghe thấy thích lại truyền cho người khác nữa...
Người thích thì truyền
Người không thích thì chê.
Người xưa có câu:
Văn chương tự cổ vô bằng cứ
Đản nguyện Châu y ám điểm đầu (1)
Vì văn chương vô bằng cứ cho nên người đời thường dạn miệng chê khen. Người thức giả có độ lượng nghĩ rằng:
Ngâm thành ngũ cá tự
Dụng tận bán sinh tâm (2)
Nên thường tìm những cái hay trong thơ người mà phát huy hoặc thưởng thức. Còn những kẻ “tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp”, thì lời chê bai mạc sát luôn luôn nằm sẵn trên đầu môi (3)
Bài Phú Xuân Thành Cảm Tác không tránh khỏi lệ chung. Có lắm người chưa nghe trọn bài đã trề môi bĩu miệng. Hỏi dở ở chỗ nào thì đáp:
- Trong một câu 7 chữ mà có đến 2 chữ CẢNH!
- Nói về Huế thì nội Hương Giang là đủ, còn thêm Ngự Bình vào làm chi?
- Cùng trong một giải mà đến hai chữ Ngự! Ngự Bình, Bến Ngự.
- Huế thiếu gì cảnh đẹp dấu xưa, sao chỉ nói đến đàn Nam Giao, sông Bến Ngự? Vân vân...
Rõ là xuy mao cầu tỳ. Không phải thái độ của hàng thức giả. Có người đến Vườn Hoa Thơ hỏi lão. Lão thành thật phát biểu ý kiến:
Phàm xem thơ, kẻ thức giả trước hết xem coi bài thơ có nhập cách chăng, tác giả lập ngôn như thế nào, có ngụ ý gì chăng, rồi mới xem văn có tao, điệu có hòa, vần có linh, tự có ổn…, hay chăng. Nếu bài thơ có giá trị cao thì xem thêm coi thi pháp của tác giả nương theo Lý Đỗ Huỳnh Tô... hay độc sáng cơ trử. Khi nắm vững các yếu tố đó rồi thì tha hồ mà nọc mà khuyên. Nhận thấy hay thì khen, nhận thấy dở thì chê. Chưa chắc lời khen chê của mình đã đúng, vì biết lấy chi làm thước ngọc khuôn vàng. Nhưng dù khen dù chê, người đã tự coi mình là khách làng thơ, đã từng chuốt lời đúc chữ, thì luôn luôn phải giữ thái độ ôn hòa tao nhã. Những lời “thị trung chi chữ” không nên đem vào nơi “hàn mặc chi hương” (4)
Bài Phú Xuân Thành Cảm Tác thượng dẫn, tuy không phải là một kỳ công kiệt tác, không phải là khúc Bạch Tuyết Dương Xuân, nhưng không đến nỗi là tất điệu Cùng thinh, không đến nỗi thuộc hàng ba Nhân Hạ Lý. Chúng ta thử đem ra phân tách đại lược: (5)
Trong đề bài “Phú Xuân Thành Cảm Tác” chủ ý của tác giả nằm ở hai chữ “Cảm Tác”. Nghĩa là động tác của bài thơ là “Cảm” còn “Phú Xuân Thành” là môi trường hoạt động. Bởi vậy tác giả mới lấy sông Hương núi Ngự mà phá đề để cho mối cảm của mình có chỗ đứng, và đặt ngay chân đứng của mối cảm ở môi trường bằng chữ “Nhìn”. Câu thừa tựa vào chân đứng ở câu khởi để giới thiệu rõ rằng mối cảm kia do cảnh điêu linh của đất nước mà có, rồi đưa mối cảm xuống trạng, xuống luận, để xả tình qua câu kết đến chỗ bất tận của không gian và thời gian.
Lập thế thật vững!
Xem từng câu, thì cặp trạng cảnh nằm trong tình, cặp luận tình nằm trong cảnh. Một bên là cảm hoài, một bên là cảm khái. Một bên ngậm ý điếu cổ, một bên tỏ lòng thương kim. Còn đầu thì lấy cảnh mà mở, cuối thì lấy tình mà đóng. Thủ vĩ tương ứng, như cửa sông sắp ra biển còn ngoái cổ trông lại đầu nguồn, và nguồn vừa mới phát sinh đã thoáng bóng mình nơi cửa biển.
Như thế là tâm cảnh tương giao thủ vỹ tương cố, khai thừa chuyển hiệp phân minh.
Thi pháp quả là già dặn.
Đây là một bài thơ xúc cảnh sanh tình.
Nhưng tình trong thơ không phải ngẫu nhiên phát xuất, mà chính đã hàm dưỡng lâu ngày như nước chứa nơi hang hố trên non nhân gặp mưa mà tràn ra thành suối. Tác giả phải là người sống ở Huế lâu ngày và đã từng cảm xúc trước những cuộc hưng vong, tiêu trưởng.
Những cảnh tác giả lựa đem vào thơ, mỗi cảnh mang một mảnh lòng, mỗi cảnh dấu một dụng ý.
Chọn Đàn Giao chớ không chọn di tích nào khác, chọn Bến Ngự chớ không chọn phong cảnh nào khác, là vì chúng có tình cùng tác giả, chúng hấp dẫn tác giả hơn các nơi khác cảnh khác. Cũng như sắc đẹp của Thúy Vân đâu phải chỉ có màu da nước tóc, sắc đẹp của Thúy Kiều đâu phải chỉ có làn mắt nét mày. Song dưới mắt Thi bá Nguyễn Du, màu da nước tóc, làn mắt nét mày của song Nga nổi bật, làm cho tuyết phải nhường mây phải thua, hoa phải ghen liễu phải hờn. Do đó nói về Vân tác giả Đoạn Trường Tân Thanh chỉ nói đến da tóc, nói về Kiều chỉ nói đến mắt mày. Cũng như nói đến Phú Xuân Thành, tác giả bài Phú Xuân Thành Cảm Tác chỉ lựa Đàn Giao Bến Ngự. Đó là dùng chi tiết đặc sắc để làm đại biểu cho toàn bộ.
Chẳng những thế. Lựa Đàn Giao Bến Ngự, vốn tác giả có dụng ý sâu sắc: mượn cảnh vật bên ngoài để diễn tả niềm uẩn khúc bên trong.
- Đàn Giao là nơi tế Trời, nguồn gốc sinh thành của muôn vật, là điểm tựa tinh thần của Quốc Gia, là nơi tôn nghiêm bất khả xâm phạm.
- Bến Ngự là nơi, trước kia bọn thực dân Pháp an trí nhà ái quốc cách mạng Phan Sào Nam, và hiện nay ngang nhiên thành lăng miếu.
- Đàn Giao thể hiện tinh thần Quốc gia. Nghĩ đến Đàn Giao là nghĩ đến nước Việt Nam mà thiên thư đã định phận.
- Bến Ngự tượng trưng tinh thần cách mạng. Nghĩ đến Bến Ngự là nghĩ đến chí quất cường của dân tộc đã cụ thể hóa nơi Phan Sào Nam mà tục gọi là “ông già Bến Ngự”.
Đàn Giao cỏ lấp khôn xây mộng
Bến Ngự trăng lên luống chạnh tình.
Ý tác giả muốn nói:
- Đứng trước cảnh “Đàn Giao cỏ lấp” tiêu biểu cho cảnh điêu linh do bàn tay phá hoại của bọn tiểu nhân vong bản gây nên, tác giả tự thấy mình bất lực, không hy vọng làm được việc gì có thể cứu vãn tình thế!
- Chợt “Bến Ngự trăng lên” làm bừng sống dậy tinh thần dân tộc trong tâm hồn tác giả. Song tìm đâu thấy những nhà ái quốc, những nhà cách mạng suốt đời hy sinh tận tụy như Phan Sào Nam? Nhìn vầng trăng lên, vầng trăng đã tầng chiếu cổ nhân, lòng ai khỏi bồi hồi áo não!
Câu thơ mới nghe qua thì dường như tầm thường. Nhưng nhận kỹ thì thật là thâm viên.
Món ăn có nội vị chi vị. Tiếng đàn có ngoại huyền chi thanh. Thơ có ý tại ngôn ngoại. Có nhận thấy được những cái NGOẠI ấy mới hưởng được hết thú vị.
Và làm được một câu thơ như câu “Đàn Giao… Bến Ngự..” không phải là việc dễ, làm được một bài thơ như bài “Phú Xuân Thành Cảm Tác”, không phải ai ai cũng làm được. Tác giả nhất định đã sống nhiều, đã cảm nhiều va khi cấu tứ hành văn, hẳn đã dùng nhiều công phu nhiều tâm lực. Đọc lại thơ mình, biết đâu tác giả lại không cao ngâm mấy vần của Giả Đảo:
Lưỡng cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất ngộ
Quy ngọa cố sơn thu
Nghĩa là:
Ba năm lòng gởi đôi câu
Ngâm lên một tiếng lệ châu ướt dầm
Đường đời không gặp tri âm
Non xưa trở lại ôm nằm với thu.
Trong nơi ẩn dật, không biết tác giả “Phú Xuân Thành Cảm Tác” có nhận kẻ nói những lời này là tri âm? Hay lại mắng:
- Khéo đa sự! Ta làm thơ là để ký thác tâm sự nào phải để mua danh với đời mà lại đem ra bàn tán!
Nhận là tri âm hay mắng là đa sự không phải là điều quan trọng. Vì nói ra những lời trên lão không phải vì tác giả mà chỉ vì văn chương, chỉ vì thấy bài thơ có giá trị mà bị chỉ trích bất công. Nói ra chỉ vì công khí.
Lòng ai ai biết cho lòng
Vì đâu tằm phải chịu vòng tơ vương.
Châu trấp đông tây vãng phục hồi
Hồng kiều hoàng xứ thủy môn khai
Vân liên sơn sắc thiên biên khứ
Phong quyện đào thanh hải thượng lai
Vãn thị ỷ la nhân hội hợp
Dạ thuyền ti trúc nguyệt bồi hồi
Ca nhi bất quản Giang Nam oán
Thời hữu hoàng xuy xướng Lạc Mai.
Bài này của Lữ Đường THÁI THUẬN, một thi bá đời Lê Thánh Tông (1460-1479).
Thuận Hóa Thành là tên cũ kinh thành Huế.
Kinh thành Huế gọi là Phú Xuân Thành từ khi nhà Nguyễn xây thành tại làng Phú Xuân.
Trường Xuyên đã dịch bài Thuận Hóa Thành Tức sự ra Quốc âm:
Ghe thuyền qua lại sớm liền trưa
Cầu mống giăng ngang nước khỏa bờ
Mây lẫn bóng non trời rộng mở
Gió dồn tiếng sóng biển xa đưa
Chợ chiều tấp nập thân là lụa
Thuyền nguyệt bồi hồi nhịp trúc tơ
Ca nữ quản bao dòng huyết hận
Địch dài thổi khúc Lạc Mai xưa.
Bài thơ của Lữ Đường tuy là một bài tức sự, song vẫn ngụ ý châm biếm.
Và đọc bài Thuận Hóa Thành Tức Sự, chúng ta thấy rằng đất Huế vốn thanh lịch tự đời Lê, chớ đâu phải đợi đến khi nhà Nguyễn đóng Kinh đô mới trở nên phồn hoa đô hội.
Cũng không có chi là lạ. Tỉnh Thừa Thiên ngày nay là miền châu Ô châu Lý của Chiêm Thành ngày xưa đã cắt đổi cho nhà Trần để lấy Huyền Trân Công Chúa. Thành Phật Thệ của vua Chiêm trước kia đóng tại miền này, hiện nay còn di tích tại làng Nguyện Biểu cách thành Huế chừng năm cây số. Chốn cũ phiền ba của người Chiêm, khi về cùng người Việt, nếu không tăng phần mỹ lệ thì ít ra cũng giữ được phong quang ngày xưa.
Con sông tấp nập thuyền bè chắc không có con sông nào khác hơn sông Hương, và nơi mà cầu Mống bắc ngang chắc là nơi bắc cầu Trường Tiền hiện tại. Còn Chợ hợp lụa là, nếu không phải Đông Ba thì là Gia Hội, chớ chắc không phải đâu xa.
Và trên con sông Hương, cái thú chơi thuyền ban đêm là cái thú từ nghìn xưa để lại, và từ nghìn xưa cái thói “vong quốc” đã có sẵn trong đám ca nữ của sông Hương!
Ca nhi bất quản Giang Nam oán
Thời hữu hoàng xuy xướng Lạc Mai.
Đem câu này so cùng câu:
Cung điện chưa nguôi sầu khói lửa
Phố phường đã ngút bụi công danh
Thì thấy hai câu đều ngậm ý phúng thế. Nhưng một bên đắng mà ngọt, ngọt nên dễ nuốt, song nuốt rồi càng chíp chắp càng đắng thêm, đắng thấu ruột thấu gan! Còn một bên thì đắng một cách gắt gao, đắng như bòn hòn như ký ninh, bỏ vào miệng chưa nhai đã thấy đắng, đắng khó chịu khiến người ngậm phải, lắm khi tức mình phun bừa bãi làm bẩn khách bàng quan. Thế mới biết thơ xưa thâm hơn thơ nay. Nhưng đối với thời đại bị huỳnh kim làm tê liệt vị giác, thì lối thơ đắng vị bồ hòn mới có hiệu quả.
Cho nên bài Phú Xuân Thành Cảm Tác tưởng cũng nên phổ biến sâu rộng vì có lợi không nhiều thì ít cho văn chương và thế đạo nhân tâm.
Chú thích:
(1) Từ xưa văn chương không lấy gì làm bằng cớ để dựa vào đó mà phân định dở hay, nên cầu được thần áo đỏ ám trợ bằng cách gật đầu.
(2) Ngâm nên 5 chữ, dùng hết tâm lực của nửa đời người.
(3) Lời của Lỗ Tấn, ý nói: Văn thơ của mình thì mình cho là hay là đẹp hơn của thiên hạ, còn vợ người thì lại cho là đẹp là tốt hơn vợ mình. Do đó mới có chuyện khen thơ mình chê thơ người, bỏ vợ mình đi với vợ người.
(4) Ngôn ngữ nơi chợ búa không nên đem vào làng văn chương.
(5) Điệu đã tiếng trăng Ba Nhân Lý Hạ là khúc hát dở.
25- Mùi đạo trong thơ
Có mấy ông bạn thân đem câu “Văn dĩ tải Đạo” của Hàn Dũ đến chất vấn. Lão thưa:
- Đạo đây là Đạo Nho của Thánh Hiền đời xưa.
- Sao Lão Vườn dám quả quyết?
- Trong bộ Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc, nhà văn Nguyễn Hiếu Lê đã nói rất rõ ràng (Quyển II - Đời Đường). Quí bạn mở sách xem đoạn nói về Phong Trào Phục Cổ đời Thịnh Đường thì rõ.
- Có thể dùng câu ấy để nói những Đạo khác được chăng?
- Cổ nhân sắm lọ sứ để cắm lan theo sở thích của cổ nhân. Nếu mình không thích lan thì dùng lọ sứ ấy cắm hoa ưu đàm, hoa mimosa, oeillet, gleieul…, ai cấm. Nhưng…
- Sao lại thêm “Cái đuôi của Tôn Hành Giả” vào?
- Bởi nhiều khi có những cái dư mà không thể bỏ được. Không thể bỏ được nên nhiều khi có hại. Như Tôn Hành Giả khi hóa ngôi cổ miếu để gạt Nhị Lang Hiển Thánh, vì cái đuôi vô dụng không biết dấu vào đâu phải hóa làm trụ cờ ở sau miếu, khiến Nhị Lang nhìn chỗ sơ hở “cột cờ ở sau miếu” mà biết miếu đó là Tề Thiên đại thánh biến hình.
- Ý Lão vườn muốn nói gì mà cà kê dê ngỗng thế?
- Ý muốn nói về việc dùng văn tải Đạo, dùng thi tải Đạo. Không khéo sẽ làm trò cười cho kẻ thức giả như Tề Thiên trong truyện Tây Du.
- Mong nói cho rõ thêm.
- Đạo vị đem được vào trong văn thơ thì còn gì quí bằng. Song người hữu tâm phải thấm nhuần đạo lý, đạo lý phải thâm nhập vào cốt tủy vào khí huyết để biến thành sức nóng thành hơi thở đủ nuôi dưỡng thân tâm, rồi mới dùng văn thơ tải đạo.
Đạo đem vào thơ văn, nhất là thơ, phải như chất bổ trong trái chín.
Người ăn trái chín, cũng như người đọc thơ, cái thú là được hưởng mùi thơm vị ngọt, chớ không phải vì được thêm chất bổ vào người. Nhưng trái không có chất bổ, người tri vị cũng không mấy thích dùng.
Đạo cũng như thuốc chữa bệnh, thuốc bổ rất khó uống, vì hoặc đắng, hoặc lạt. Để giúp cho người có bệnh, người thiếu sức khỏe nuốt trôi, các dược sư phải mượn đến đường đến mật trong khi bào chế. Mượn văn thơ, nhất là thơ, để chở đạo đó là người thiện tâm theo phương pháp bào chế của các dược sư.
Thuốc dù chế khéo đến đâu, dù ngon ngọt đến đâu, dùng cũng không thích thú bằng ăn trái chín.
Cho nên người muốn dùng văn thơ tải đạo phải làm sao cho tác phẩm mình thành trái cây thơm ngon thì người đọc mới thích đọc.
Thi vị trung hữu đạo vị.
Đó là thơ hay, thơ của các nhà thơ thấm nhuần đạo lý, thơ của các nhà đạo sĩ giác ngộ có tâm hồn thơ.
Họ không cần nói đạo mà có đạo. Họ không cần làm thơ mà có thơ. Còn những nhà thơ chưa thấm đạo mà ưa nói đạo, những nhà đạo sĩ không có hồn thơ mà ưng làm thơ, thì đó là hoa sen đem trồng trên đất, hoa Đà Lạt đem xuống trồng nơi trung châu nhiều nắng ít mưa, nhiều nóng ít lạnh.
- Nước Việt Nam ta có những nhà thơ mà trong thơ có đạo?
- Các thiền sư đời lý đời Trần mà lão đã giới thiệu đôi vị trong dịp trình bày “Thơ Xuân Vườn Cũ” (1)
- Còn hiện thời?
- THI VŨ với tập Hoa Nắng vừa xuất bản.
Trong Hoa Nắng, Thi Vũ cho lão thấy rằng chàng đã được ánh sáng Hoa Nghiêm chiếu rọi. Dưới mắt chàng trong tâm chàng, sự vật vật đều hiển hiện trong ánh Đạo Vàng:
Gió mai này trĩu nặng những chùm hoa
Mấy lẵng hương lưng trời đưa vất vưởng.
Gió mai mày khẽ nói lọt tai người: Hoa
Nhiều sao không hái? Người cười thưa với gió:
Lòng là vườn hoa, hái rồi biết cất đâu?
Gió ngừng sau đèo mây thả hoa về trong nắng.
(Hoa nắng)
Hương thơ và vị đạo đã chan hòa, ánh sáng vạn vật và ánh sáng tâm linh nhập một. Muốn hiểu cho rõ thêm thì xin đọc kỹ Hoa nắng. Lão đưa một bài của Thi Vũ ra đây và nói qua đôi lời chỉ để cho câu đáp của lão khỏi mang tiếng là “nói giữa trời” đó thôi.
- Thời Tiền Chiến có nhà thơ nào mà trong thơ có Đạo như các thiền sư Lý Trần, như Thi Vũ, chăng?
- Lão không nghiên cứu kỹ các tập thơ đã ra đời thời Tiền Chiến cũng như thời Hậu chiến, nên chỉ biết được hai người là Bích Khê và Hàn Mặc Tử là hai người bạn thân, và chính nhờ tình thân đã giúp lão thấy rõ được tâm hồn của bạn. Nhưng hai bạn đưa đạo vào thơ một cách vô tình chớ không phải cố ý.
Để khỏi phải dài dòng, xin quý bạn đọc lại hai bài lão đã viết đăng ở Đời Sống Đạo và Liên Hoa mấy năm trước đây về hai ông bạn quá cố của lão:
Chú thích:
(1) Xem ở trước mục “Thơ Xuân Vườn Cũ”
ẢNH HƯỞNG ĐẠO PHẬT TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
Hàn Mặc Tử là người Công Giáo. Tử có bài thơ “Thánh Nữ Đồng Trinh MARIA” rất được truyền tụng. Trong bài có đoạn rằng:
Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên Triều Thiên ngời chói vạn hào quang!
Bài này Tử làm năm 1937. Không biết rõ xuất xứ hai chữ “Phượng Trì”, tôi viết thư hỏi. Tử đáp:
- Đạo vốn có một. Người đời hiểu sai lạc rồi phân chia ra đạo này đạo nọ. Cho nên tôi nghiệm Đức Mẹ chỉ có một, nhưng vì óc chia rẽ kia, nên bên đạo Phật gọi là “Quan thế Âm Bồ Tát”, bên đạo Tiên gọi là “Tây Vương Mẫu”, bên đạo Thiên Chúa gọi là “Thánh Nữ Đồng Trinh MARIA”. Tên tuy khác nhưng theo tôi, chỉ là một Đấng. Mà Tây Vương Mẫu ở “Phượng Trì”, nên tôi dùng chữ “Phượng Trì” để chỉ nơi Thánh nữ Đồng Trinh ngự.
Nơi Tây Vương Mẫu ở là “Giao Trì” chớ không phải “Phượng Trì”. Tử đã lầm.
Sau đó, nhân ra Quy Nhơn thăm Tử, tôi đính chính. Tử cười và sửa lại trong bản thảo, nhưng trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Không được! Chữ “Giao trì” không nói lên được gì cả! Chữ "Phượng Trì” tiếng ngân đã dài lại ấm.
Lời Tử nói rất đúng. Âm hưởng chữ Phượng Trì thật hơn chữ Giao Trì. Tôi lại tự nghĩ:
- Thế giới của Tây Vương Mẫu cũng như thế giới của Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là cõi Thơ cõi Mộng. Cổ nhân có thể dùng Giao Trì mà đặt tên Vương Cung, thì sao Tử không có quyền dùng Phượng Trì để đặt tên cho Thánh Thất?
Nhưng tôi chưa kịp nói ra thì Tử vội tiếp:
- Sắc lông chim phượng hoàng vàng ánh. Thật khêu gợi quá!
Hai tiếng “vàng ánh” trong câu nói của Tử có một mãnh lực lạ lùng. Nó gợi ngay trong trí tôi một quang cảnh lộng lẫy. Huy Hoàng: Nơi Thánh Nữ ngự. Và khi Tử đắc ý cất tiếng ngâm cao:
Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên Triều Thiên ngời chói vạn hào quang!
Thì tôi có cảm giác là thơ Tử và hồn Tử xòe to đôi cánh vàng rực rỡ bay vào nơi sáng lạn mênh mông. Tôi buột miệng khen:
- Tuyệt diệu!
Từ ấy chữ “Phượng Trì” thành một “Tân điển” trong thơ Hàn Mặc Tử. Và “điển” ấy Tử dùng một lần thứ hai nữa trong bài PHAN THIẾT:
Ta mê man như tới chốn Phượng Trì,
Ở mãi đó không về Thiên cung nữa.
Câu chuyện trên chứng tỏ rằng:
1/ Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó là vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; Để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc, nhất là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những cái tế nhị, u ẩn của tâm hồn. Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho âm thanh tiết tấu phù hợp với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn, một tâm hồn mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ, mà văn tự chính xác nhiều khi không diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt được đúng như ý muốn của người thơ.
Cho nên xem thơ Hàn Mặc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ thì phải thưởng thức nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý không ở trong lời mà ở trong nhạc.
2/ Trong tâm hồn Tử, không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật Giáo.
Vì lẽ đó, Tử đã đi tìm nguồn cảm hứng trong đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng là “Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật Giáo vào dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào những bài có tinh thần Thiên Chúa Giáo nhiều nhất. Ví dụ bài “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria” trích dẫn trên kia là một.
Bài này là những lời Tử dâng lên đức Maria để ca ngợi “ơn phước cả” mà Thánh nữ đã ban cho Tử trong “cơn lâm lụy”. Trong bài có những chữ “Từ bi, ba ngàn thế giới” dùng một cách sướng khoái:
Lạy bà là Đấng tinh truyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi.
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế...
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ.
Ngọc Như ý vô tri còn biết cả
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh.
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới...
Hai chữ “Từ bi” còn thấy dùng trong nhiều bài khác, như trong bài CAO HƯNG:
Thơ tôi thương huyền diệu
Mọc lên đạo từ bi
Trong bài HAY NHẬP HỒN TA:
Bỗng hôm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu.
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.
Trời Từ Bi cảm động ứa sương mờ
Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá.
Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã.
Anh đoán chừng cơn ấy em ngất đi….
Nhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như “Hằng hà sa số” “Cực lạc”. “Mười phương” v.v... cũng thường gặp trong thơ Tử:
Mây vẽ hằng hà sa số lệ
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.
(Cuối Thu)
Giây phút, ôi chao! Nguồn Cực lạc!
Tình tôi ghen hết thú vô biên.
(Ghen)
Có tin thôn xa đến,
Có điều lạ đêm nay:
Đóng cửa mười phương lại,
Dồn ánh sáng vào đây.
(Điềm lạ)
Ta cho một dòng thơ rất mát
Mới tinh khôi và tinh sạch bằng hương
Trời như hớp phải hơi men ngan ngát
Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương…
(Nguồn thơm) vân vân….
Nhưng đó mới là những dấu tích ở bên ngoài.
Trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo. Ví dụ bài PHAN THIẾT:
Nhớ khi xưa ta là chim phụng hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất...
Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất,
Và lùa theo không biết mấy là hương..
Lúc đằng vân gặp ánh sáng chận đường
Chạm tiếng nhạc, va nhằm thơ thiên cổ...
Ta lôi đình thấy trăng sao liền mổ:
Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,
Trăng tan tành rơi xuống một cù lao
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ
Ơ ngôi cao, ngước mắt ra ngoài bể,
Phong lưu ghê, sang trọng chẳng vừa chi
Ta mê man như tới chốn Phượng Trì
Ơ mãi đó không về Thiên cung nữa.
Nhưng phép lạ! Có một vì tiên nữ
Hao hao như nường nguyệt cõi Đào Nguyên.
Ta đắm mê trong ánh sáng trần duyên
Và van lạy xin cô nường kết ngãi.
Mỉa mai thay cho phụng hoàng si dại
Là ta đây đương ở kiếp muôn chim..
Trở lại trời tu luyện với muôn đêm,
Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả.
Ta trở nên như ngọc đàng kim mã
Rất hào hoa, rất phong vận: Người thơ…
Ta là trai khí huyết ước ao mơ
Người thục nữ sanh giữa thời vô thượng.
Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng,
Ta lang thang tìm đến chốn Lầu trang;
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang,
Nơi đã khóc, đã yêu đương da diết..
Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi...
Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi!
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết:
- Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu!
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư…
Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của con nhà Phật, như “Thành chánh quả”, “Sông Hằng”..., ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời “Đao lỵ”, trời “Đâu Suất” những cõi Phật xa xăm đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh sáng, chúng ta nhận thấy trong bài PHAN THIẾT, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình: Con chim phượng hoàng, vì sân si, mà phải đọa; và khi tu đã thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn nên phải trở xuống “nơi đã khóc, đã yêu đương da diết” để mà “sầu muộn, ngất ngư”, để mà “chôn hận nghìn thu”
Trong bài PHAN THIẾT, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ. Những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hóa:
Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,
Trăng tan tành rơi xuống một cù lao
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ!…
Và cõi đời này là nơi giả tạm, là nơi khổ lụy, nên Tử phải đi tìm cõi giải thoát, và đã tìm thấy Cực lạc Quốc độ của Phật A Di Đà. Trong nhiều vần thơ của Tử, chúng ta thấy ẩn hiện những hình ảnh trang nghiêm kiềm diễm của cõi Tây Phương:
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền,
Không u ám như cõi lòng ma quỷ
Vì có Đấng hằng Sông Ngự Trị
Nhạc thiêng liêng đồn trổi khắp hư linh.
(Ngoài Vũ Trụ)
Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc
Rất trọng vọng, rất thơm thơ, man mác,
Rất phương phi trên hết cả anh hoa.
(Ra đời)
Bút xuân thu mùa nhạc đến vừa khi
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi:
Cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc
Và đầu hôm một vì sao liền mọc
Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô!
Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo.
(Đêm xuân cầu nguyện)
Những “ánh sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền”, những tiếng “nhạc thiêng liêng”, những “điệu nhạc thơm tho, trọng vọng...”, những “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc” v.v... ở trong thơ kia là vang là bóng của “vô lượng quang” của “thiên nhạc” của “hoa sen đủ màu sắc đủ hào quang” mọc trong “ao thất bảo”… trên thế giới Cực Lạc. Mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.
Tinh thần Phật Giáo còn ảnh hưởng trong nhiều thơ văn của Tử; nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh Thơ lấn át, nên chúng ta không trông thấy nếu chúng ta không chú ý không lưu tâm. Như trong bài tựa tập Xuân Như Ý có đoạn rằng:
Ôi! Trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao?
Lòng vô lượng đây không phải do phép tắc mầu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung?
Đưa ra nào là nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm...
Đưa ra nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiến, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hương, niềm mộc dược…
Vẫn là chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao!
Phải mời cho được XUÂN THIÊN ra đời..
Bình an cả và thiên hạ…
Vì chưng muôn xuân là lương thức ngon ngọt, mĩ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho, tinh khiết, khí xuân là mạch trường sanh bất tử, tình xuân là cung nguyệt cầm mê ly, tuổi xuân là NGỌC NHƯ Ý, tên xuân là DẠ LAN HƯƠNG.
Và Xuân là phong vị thái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời, châu lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc cả giải Hà Sa chen lấn vô tận hồn tạo vật…
Đó chẳng phải là chữ "TÂM" được thi vị hóa bằng những hình ảnh tượng trưng?
Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của TÂM lòng vô lượng mà biểu hiệu nhiệm mầu là Mùa Xuân thơm tho trong đẹp, tràn lan khắp không gia trời muôn trời, “chen lấn vô tận hồn tạo vật” và tồn tại cùng thời gian. (năm muôn năm).
Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, Tử đã biến cái TÂM bất sanh bất diệt thành Đấng Vô Thỉ Vô Chung, và coi những hiện tượng do “lòng vô lượng” đã “đưa ra” kia là “công trình châu báu” của đức Chúa Trời, nên “cao rao danh Cha cả sáng”.
- Như thế, Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ của đạo Thiên Chúa? Nghĩa là có phải một tín đồ dùng thơ cốt để phụng sự tôn giáo mình?
- Không. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thuần túy. Tử tìm vào Đạo - Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là THƠ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho THƠ thêm giàu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn Tử đã thốt ra những lời có thể gọi là “phạm thượng” đối với những đấng thiêng liêng Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám nói:
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ:
Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn Thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp biết bao nhiêu khí vị.
Và miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào quang…
Thật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa! Thậm chí trong “Đêm Xuân Cầu Nguyện” mà chàng vẫn nói một cách ngang tàng rằng:
Ta chấp tay lạy quỳ hoan hảo,
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian,
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.
Nghĩ đến những gì “Giàu sang hơn Thượng Đế”, Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn, thầm nguyện:
Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giê Su
Ban ơn xuống cho mùa Xuân hôn phối.
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng Sông Hằng.
Lời xưng tội vẫn không thật nghiêm trang thành kính! Trong khi viết những lời tạ lỗi, Tử đã nghĩ đến Thơ nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử vẫn thờ Chúa trên Thơ.
Còn đối với đạo Phật?
Hàn Mặc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệu. Tử đi vào Đạo Từ Bi, cũng như một lãng nhân vào một Vườn hoa nghìn hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu giống, không cần biết. Cách trồng hoa như thế nào cho hoa nở thạnh, không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều sắc lạ nhiều hương lạ, và chỉ biết trải lòng hứng lấy những gì có thể hứng được trong cõi thơm thắm mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm kham thỉnh thoảng tràn ra ngọn bút những lúc Thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng…, và tràn ra một cách tự nhiên, lắm lúc nhà thơ tưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng.
Và tất cả những gì đã thâu thập được trong Tôn giáo trong Phật giáo cũng như trong Thiên Chúa Giáo, một khi đã vào Thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến chế, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình.
Bởi vậy, khi đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta nên mở cõi lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm thông cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.
Nha Trang, mùa Xuân năm Tân Sửu (1961)
KINH A DI ĐÀ đối với nhà thơ BÍCH KHÊ
BÍCH KHÊ, tác giả tập Tinh Huyết (xuất bản năm 1939) và tập Tinh Hoa (sắp xuất bản), là một thi nhân thời Tiền Chiến, đồng trường thơ cùng Hàn Mặc Tử và danh gần ngang với Hàn.
Tên thật là Lê Quang Lương,
Quán Thu Xà, tỉnh Quảng Nghĩa,
Sanh năm 1916
Mất năm 1946
Gia đình Bích Khê là một gia đình Nho giáo, nhưng Khê rất thích xem sách Phật, nhất là Kinh A DI ĐÀ. Chàng lại hay giao du cùng các nhà sư, ưa lui tới những cảnh chùa chiền. Năm 1936, buồn vì thói đời vôi than, chàng đến ở nơi chùa Tà Cú tỉnh Bình Thuận ngót mấy tháng. Và vào cuối năm 1937 đầu năm 1938 lại đến ở dưỡng bệnh tại Chùa Thu Xà, gần một con trăng ăn chay trường, niệm Phật.
Tuy vậy chàng vẫn không quy y.
Và có một dạo chàng hướng về đạo Thiên chúa, và ảnh hưởng của đạo này thấy phảng phất trong đôi bài thơ của chàng, như trong bài:
XUÂN TƯỢNG TRƯNG
…
Rồng uốn vóc tùng cong;
Ao bạch mai khoát khoát;
Môi đào chờ khoái lạc...
Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá
Y xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã!
Và trong bài NGŨ HÀNH SƠN (bài tiền):…
Hai ta là mảnh vỡ
Của ngôi báu Thiên Đường.
Hai ta là chất bổ
Gắn ở trái Đau Thương...
Nhưng rồi chàng lại trở về với Đạo Phật. Và trong bài hậu NGŨ HÀNH SƠN, hình ảnh đức Chí Tôn thoạt hiện:…
Sực nức lò hương xông,
Trập trùng màu xiêm áo,
Lớt đớt trỗ mưa bông,
Phật Như Lai thoạt hiện
Trên bảy sắc cầu vồng.
Quý thay hòn Non Nước,
Nghe giảng đủ mười tông.
Muôn năm lòng đá rắn
Nhuần thấm giọt từ bi
Biển xanh thay chất mặn,
Rừng thẳm lọc hơi sầu.
Có ai biết trên cao
Da trời màu thịt sứa,
Da trời se chất sữa,
Thuyền cảm hứng mênh mông?
Gió thơm vùng nổi dậy:
Cảnh sắc biến thành không!...
Cuối cùng vì không có nhân duyên tìm được thầy, BÍCH KHÊ đành chỉ quy y Phật, quy y Pháp. Và trong mấy tháng trước khi chết, ngày ngày chàng trì tụng kinh A DI ĐÀ.
Cuộc đời của BÍCH KHÊ là một cuộc đời đau thương. Vừa mới bước chân ra đời, chàng liền bị bạn phản. Rồi tiếp bị thất bại trong công việc xây dựng sự nghiệp với đời và trong đường tình ái. Kể lại mang phải chứng nan y bệnh lao phổi trở thành người “vô dụng”.
Vì thế lòng chàng ít khi yên vui. Nhất là từ khi thấy bệnh mình mỗi ngày mỗi thêm nặng thì bức màn u ám luôn luôn vây bọc chàng, và cái buồn “nghe đất lạnh” thấm tận đáy lòng chàng! Chàng thường sụt sùi khóc một mình, và ước mong “sống thêm đôi năm nữa để hoàn thành tập thơ đương dở dang”.
Nhưng từ khi trì tụng kinh A DI ĐÀ, chàng trở nên vui vẻ và mong được sớm về cõi Tây Phương. Đó là vào khoảng mùa đông năm Ất Dậu (1945). Chàng thường nói cùng người chị thân yêu nhất của chàng là bà Ngọc Sương, rằng:
- Em sắp về quê, nơi quê hương cực lạc, hoa muôn thơm nghìn sáng, và chim biết thuyết pháp tụng kinh.
Chàng nói một cách vui vẻ và tin tưởng.
Rồi khí dương sanh, hoa mai nở. Chàng mời bà thân sinh đến bên giường, âu yếm thưa:
- Thưa mẹ con sẽ chết trong tháng chạp này, song chưa biết ngày nào. Chết không phải là mất. Xin mẹ và các anh các chị chớ buồn.
Đoạn bảo người lấy giấy bút chép lời di chúc, trong có khoản dặn “khi chết không ai được khóc, và ngày kỵ không cúng cơm cá, mà chỉ cúng một nén hương hay một lư trầm cùng một bình hoa”.
Cách mươi hôm sau, một tối cơm nước xong, chàng mời mẹ vào, kéo ngồi bên cạnh, cầm tay thưa:
- Con chỉ còn ở với mẹ trong ba ngày nữa. Đúng ngày rằm tháng chạp thì con chết. Con có quen một nhà sư ở chùa Phú Thọ, mẹ cho người xuống rước lên tụng cho con ba ngày kinh.
Nhà sư đến. Bàn thờ Phật đặt giữa nhà chính, bên cạnh phòng Khê nằm. Chàng chấp tay lên ngực, nằm lặng lẽ nghe kinh. Qua ngày rằm, chàng bảo nấu nước lá thơm tắm gội. Tối đến thưa cùng mẹ:
- Con còn ở với mẹ nửa đêm nữa. Ngày trăm tuổi già của mẹ, con sẽ về rước mẹ đi.
Bà cụ ôm mặt khóc. Chàng khẽ bảo:
- Mẹ đã quên lời của con rồi sao? Mẹ đừng buồn để cho con về nơi An Lạc.
- Bà cụ lau nước mắt ra nhà ngoài. Khê nằm lim dim nghe kinh, với một nụ cười hiền lành và tin tưởng. Đến 11 giờ khuya, một cơn ho xé ruột người thân yêu! Cơn ho ngớt, chàng mở mắt nhìn đồng hồ. Hồi lâu tỏ vẻ ngạc nhiên, buột miệng thốt mấy tiếng “Ủa! ủa!”.
Chàng ngạc nhiên có lẽ vì nghĩ rằng:
- Sao đến giờ này mà chưa thấy kim đài lai tiếp? Hay là dự cảm của mình không phải là linh cảm chăng?
Nhưng rồi chàng bình tỉnh ngay trở lại. Lúc bấy giờ nhà sư vừa tụng xong kinh A DI ĐÀ, đương tán bài “Nguyện sanh Tây Phương”. Khê chấp tay niệm theo…
Bốn bề không một tiếng động. Mùi hương phảng phất đó đây. Chợt người nuôi Khê ở trong buồng chạy ra, sợ hãi:
- Ôi chao! Kinh quá! Một làn ánh sáng xanh dờn từ nơi giường cậu bay lên nóc nhà, làm tôi lạnh mình rợn ốc!
Bà cụ vội vàng chạy vào buồng Khê, nhưng không thấy gì lạ cả. Khê nằm thẳng người, tay chấp lên ngực, đôi mắt lim dim. Dưới bóng đèn khuya, vẻ mặt chàng trông có phần nhợt nhạt. Bà cụ ghé bên tai hỏi khẽ:
- Con có mệt lắm chăng?
Khê từ từ mở mắt và nở một nụ cười âu yếm:
- Trong người con lúc này nhẹ nhàng và khỏe khoắn hơn lúc nào hết. Con muốn ngủ một tí. Mẹ hãy đi nghỉ đi.
Thấy thái độ bình tĩnh của con, nghe lời nói trong và dịu của con, bà cụ yên lòng đi nghỉ. Nhưng vừa đặt lưng xuống chiếu thì người nuôi liền gọi cho hay rằng Khê “đã đi”.
Đồng hồ từ từ đổ 12 tiếng… Đúng nửa đêm! Nửa đêm ngày rằm tháng chạp năm Ất Dậu, tức 17 tháng 01 năm 1946. (1)
Để cho hương hồn Khê được siêu thăng, những tiếng nức nở của người thân yêu đều phải dồn ép vào bên trong, và thay thế bằng tiếng tụng kinh, niệm Phật.
Và từ ấy mỗi năm cứ đến đêm rằm tháng Chạp, người thân yêu của Khê cúng Khê một nén hương thơm, một bình hoa thắm, và thành kính trang nghiêm niệm phật A DI ĐÀ.
Viết tại Nha Trang, mùa Xuân năm Tân Sửu (1961)
Chú thích:
(1) Lúc này theo đồng hồ Nhật.
26- Hoa thơ xứ Anh Đào
Đối với Việt Nam cũng như Trung Quốc, Nhật Bản là nước đồng văn.
Cho nên Thơ Nhật Bản bằng chữ Hán không khác thơ Trung Quốc và thơ Việt Nam nhiều như thơ Pháp thơ Ấn Độ. Bài “Cửu Châu đệ nhất mai” trích dẫn trong mục “Dưới Mai bàn Thơ” trước đây, là một bằng chứng.
Nhưng thơ Haikai khác hẳn thơ Việt thơ Hoa, khác cả tinh thần lẫn hình thức.
Lão không biết tiếng Nhật. Song nhờ PHẠM CÔNG THIỆN tặng cho quyển LA POESIE JAPONAISE của Karl Petit mà lão nhận thức, qua Pháp văn, được ít nhiều cái hay cái đẹp trong thơ Haikai, và thưởng thức được một giấc mộng kỳ thú.
Để gởi niềm tương thân tương ái, lão chép lại giấc mộng và thêm vào những vần anh đào hái được, làm món quà xuân tặng ông bạn vong niên.
Có nhiều bạn thân mến ngỏ ý muốn thưởng thức thơ Haikai. Lão xin đem giấc mộng đã chép ra Vườn Hoa Thơ cống hiến quí bạn. Theo mộng, quí bạn có thể tìm thấy được nhiều ít hương sắc của hoa thơ xứ anh đào trong khi tự mình chưa đến được quê hương của Thái Dương Thần Nữ.
Và trước khi bước vào mộng, xin mời quý bạn thưởng thức bài Haikai của thi sĩ SAIGYO:
VÉRITÉ INADMISSIBLE
Que vraie! La réalité
Ne le soit aucunement,
J’ en suis persuasé
Mais que les rêves soient ce qu’ils sont
Comment donc l’admettre?
THỰC TẾ KHÓ CHẤP NHẬN
Đúng làm sao!
Không thể nào
Mà thực tế quả như thế
Lòng tôi quyết chẳng nghi ngờ.
Nhưng những giấc mơ
Như thế nào là thế ấy.
Biết làm sao tin được vậy?
MỘNG GIAO THỪA
Thân tặng Phạm Công Thiện
Chỉ còn nửa đêm nửa là sang năm mới. Thế mà bốn bề vẫn vắng thiu thiu. Vì theo lệnh bề trên, pháo xuân đợi đến Giao Thừa mới được đốt.
Ngồi một chắc trong phòng thơ, LÝ SINH lấy giấy bút ra tìm vần khiển muộn. Tờ băng cơ trải ngay ngắn trên mặt bàn, chàng ngồi trầm ngâm cấu tứ. Ngót giờ lâu, không nghĩ ra được một gì mới lạ, chàng quăng bút, mở cửa bước ra sân. Mùi hoa mận bay phảng phất trong ngọn gió biển ngọt ngào làm chàng trở nên khoan khoái. Thấy ngõ còn bỏ trống, chàng lững thững bước ra đường, rồi theo bóng đèn điện mà đi. Chàng không định đi đâu, thấy lòng thích đi thì cứ đi, đi mãi, không cần nghĩ đến mục đích. Chàng đi lang thang hết nẻo này sang nẻo nọ. Chợt đi ngang qua một kỹ viện; tiếng trống chiến, tiếng kèn vang vọng như thúc giục như khuyên mời. Trước cửa viện treo một tấm quảng cáo to tướng:
- Bạn Bình Định đêm nay diễn tuồng Trầm Hương các.
Đã lâu lắm Lý Sinh không xem hát bội, vì các ca đông theo thị hiếu của thời nhân, đã phải hạ nghệ thuật xuống đến bậc quá thấp làm cho chàng ngứa mắt ngứa tai. Nhưng đêm nay, chàng thấy cao hứng, bèn vào để mua vé xem. Nhưng vừa bước lên thềm thì người gác cửa vội đến mời vào trong rạp. Chàng bước vào cửa: Trên sân khấu bài trí cảnh hoàng cung trướng thêu màn gấm, rực rỡ trang nghiêm. Chàng đi thẳng đến hàng ghế đầu, vừa ngồi xuống, thì một anh kép đóng vai Trụ Vương, áo long cổn, mão thiên miện, đai ngọc dày thêu trịnh trọng bước ra biểu diễn.
Anh kép trạc đã ngoài năm mươi, nhưng hơi hám còn tốt lắm. Giọng cao và trong, hơi dài và ấm. Điệu bộ lại thật mềm mại dịu dàng. Tinh thần của câu tuồng thật lột được trọn vẹn. Lý Sinh ngồi thưởng thức, lòng vô cùng thích thú. Chàng mừng thầm rằng nghệ thuật cổ điển chưa đến nỗi điêu tàn đến tận gốc, cái cốt cách của đời thịnh - đời Tự Đức, Đào Tấn vẫn còn có người giữ được y nguyên. Nhưng không một tiếng trống thưởng! Và khán giả không được mấy lăm người! Nơi đây năm ba người đàn ông ngồi im lìm như thiền định, sáu bảy bà lão ngồi vừa ăn trầu vừa kể sự tích trong tuồng cho nhau nghe. Nơi kia vài cậu thanh niên áo cao bồi ngồi gác chân lên lưng ghế trước mặt, ngó lên trần nhún vai trề môi. Gần đó mấy cô thiếu nữ ăn mặc đúng thời trang luôn luôn phàn nàn “sao không ca vọng cổ nghe cho sướng”. Anh kép dường say sưa cùng nghệ thuật, không để ý đến cảnh bên ngoài, nên thái độ của khán giả không làm cho anh thối chí. Anh múa hát một cách tự nhiên. Anh hát đến câu:
Gió hương thổi lọt hoàng bào
Kiều mai tuyết điểm, động đào mây giăng.
Nghe giọng hát, nhìn điệu bộ, LÝ SINH cảm thấy mùi hương bay phảng phất, khí tuyết xông lạnh lạnh, và trước mắt bóng mây bay chập chờn.. Chàng lim dim đôi mắt để tận hưởng cái tuyệt mỹ của nghệ thuật và văn chương. Bỗng chàng vẳng nghe có tiếng:
- Hay! Hay lắm! Hãy đánh trống thưởng đi .
Liền đó, một người đàn ông ăn mặc lịch sự bước lên cầm chầu. Tiếng trống vang dội... Anh kép cao hứng thêm, phất tay áo rộng, vuốt chòm râu dài, cất tiếng hát tiếp:
- Khương cù ngợi hát…
Mở miệng hát mới đến đó thì một tiếng trống “đánh lọt vào cuống họng” làm anh ta cụt hứng. LÝ SINH bực mình xô ghế, đứng dậy bỏ ra về…
Nhưng vừa ra đến cửa rạp thì cảnh trời cao gió rộng làm dịu ngay lòng chàng. Chàng vừa đi vừa nghĩ đến sự tích trong vở tuồng Trầm Hương Các. Cảnh đền thờ bà Nữ Oa và pho tượng Nữ Thần bằng trầm hương hiện ra trước mắt. Thật quả là “Đầy áo rơi muôn hộc thiên hương, Đôi mắt vẽ một người quốc sách”. Rồi những cảnh “Tô Hộ đem Đắc Kỷ ra kinh kỳ dâng cho vua Trụ”, những cảnh “Đắc Kỷ bị Hồ Ky tinh hớp hồn…”, những cảnh "Vua Trụ cùng Hồ Ly tinh đội lốp Đắc Kỷ đi dạo vườn hoa”, những cảnh lộng lẫy trong hoàng cung, những nét nũng nịu yêu kiều của mỹ nữ... lần lượt xuất hiện trong trí chàng như một cuốn phim màu trên màn bạc.
Chàng đương say sưa với mơ thì chợt đến ngõ nhà chàng. Một người đàn bà ở trong ngõ bước ra, nói khẽ:
- Còn sớm. Đi chơi một chốc nữa cho vui.
Nói đoạn, cắp tay chàng đưa đi. Chàng ngoan ngoãn đi theo… Chàng tưởng chừng mình là Trụ Vương cùng Đắc kỷ đi trong vườn Thượng Uyển… Nhưng đi được một đoạn đường, chàng nhìn kỹ giai nhân thì là một người đàn bà Nhật Bản!
Giai nhân tuyệt đẹp: Má không phấn mà hường, môi không son mà thắm. Đôi mắt trong sáng nhưng hiền hậu và đôi chăn mày như đôi lá lan vẽ vừa đen vừa dài. Tấm thân dong dảy, cân đối, ẩn hiện trong bộ áo kimono tha thướt màu hồng.
Tuy thường sống trong cảnh mộng nhiều hơn trong cảnh thực tế của đời, tuy coi đời và mộng như nhau, nhưng trông thấy giai, Sinh không khỏi ngạc nhiên, chàng dừng lại và tự nghĩ:
- Không lẽ ta đương chiêm bao?
Giai nhân nhìn thấy thái độ của chàng thì mỉm cười:
- Có lẽ anh ngờ em là Hồ Ly Tinh?
Sinh vụt nghĩ:
- Ta có xúc phạm chi đến Nữ Oa đâu mà Ngài sai hồ ly tinh đến báo thù? Ủa mà ta có ngôi vàng đâu mà sợ mất chứ?
Ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy làm cho chàng bật cười, và tươi cười đáp:
- Nếu quả là hồ ly hiện hình thì còn chi thú bằng! Chính Bồ Tùng Linh đã nhờ Hồ Ly mà sống.
Giai nhân tỏ ý không bằng lòng, rút tay ra khỏi cánh tay SINH. Biết mình lỡ lời. SINH vội nắm tay nàng lại, xin lỗi và khẽ hỏi:
- Em là ai?
Giai nhân đổi giận làm lành, âu yếm đáp:
- Là người anh đã gặp tại gác Trịnh Phong.
Chàng sực nhớ lại: Mùa hoa đào năm ngoái, đến phường TRỊNH PHONG, thăm TƯƠNG GIANG nữ sĩ, chàng thấy trên vách treo một bức tranh mỹ nhân vẽ hình người đàn bà Nhật. Bức vẽ rất thần tình, trông vào như sống! Từ ấy bóng dáng mỹ nhân thường lảng vảng nơi tâm trí chàng. Nhưng mấy lúc sau lại vắng bặt. Nay nghe nhắc đến thì tranh xưa hiện rõ trước mắt chàng. Nhìn lại giai nhân thì giống hệt người trong tranh. Chàng liên tưởng đến chuyện Bích Câu Kỳ ngộ, cầm tay giai nhân, hỏi:
- Em là Giáng Kiều từ trong tranh xuất hiện. Còn tôi là Tú Uyên tái sinh?
Giai nhân nắm tay chàng dắt đi, vừa đi vừa đáp:
- Không phải. Anh là LÝ SINH, người của Thơ của Mộng. Còn em là KOMACHI từ trong tiềm thức của anh ra.
Lời nói dịu dàng, giọng nói ấm áp làm cho Sinh khoái trá, không muốn bận tâm nghĩ ngợi gì thêm. Chàng ôm giai nhân sát vào mình và lững thững cùng đi như đôi tình nhân trong màn ảnh. Vừa đi vừa nói chuyện. Giai nhân hỏi:
- Sao khi nãy anh lại bực mình người đánh chầu?
- Vì hắn đánh bậy.
- Hắn đánh bậy vì hắn không biết đánh, chớ nào phải hắn cố ý đánh bậy đâu? Huống nửa ai lại đem nghệ thuật cũ trình bày cho người mới xem, thì bảo người ta thưởng thức thế nào cho đúng mức được.
- Vậy thì đừng khen đừng chê.
- Những người hiểu thấu đáo một vấn đề gì thì thường thường hay dè dặt vì thận trọng. Còn những người không hiểu chi cả, hoặc chỉ hiểu đại khái, lại hay khen hay chê, khen chê để khoe khoang sự hiểu biết của mình. Đó là sự đời, hơi đâu mà bận tâm.
Nghỉ một chút, âu yếm nhìn Sinh, rồi tiếp:
- Có phải chăng anh? Xem văn chương, xem mỹ nghệ phẩm là một nghệ thuật, mà nghệ thuật ấy phải có nhiều ít thông minh, nhiều ít học vấn mới có thể đạt được.
- Cũng chưa đủ. Phải có chất Đẹp trong tâm hồn, phải có chất Thơ trong cốt tủy. Bằng không thì nhìn vào đâu cũng không thấy được cái Đẹp cái nên Thơ.
Giai nhân cười ngất:
- Vậy phải cần có tâm hồn đẹp mới thấy một nữ nhân đẹp chăng?
Sinh không cười đáp:
- Giai nhân là một bài thơ toàn bích, một mỹ nghệ phẩm của Hóa công. Người không có tâm hồn đẹp, không có cốt thơ, thì nhìn vào chỉ thấy cái vẻ đẹp tầm thường, cái vẻ đẹp của xác thịt, cái đẹp chốc lát…, chớ không bao giờ nhận thức được cái đẹp của ĐẸP, cái đẹp của THƠ, tức là cái đẹp SIÊU PHÀM, cái đẹp VĨNH CỬU, cái ĐẸP THẬT. Nhà nghệ sĩ cũng như nhà thơ, ham mê, tìm kiếm, là ham mê tìm kiếm cái ĐẸP THẬT kia vậy.
- Dường như chàng say mê cái ĐẸP của Trung Hoa?
- Say mê cái ĐẸP của Á Đông thì đúng hơn.
- Vậy anh có thích cái ĐẸP của Nhật Bản?
Sinh nhìn giai nhân mỉm cười:
- Nếu bảo rằng thích thì người ta sẽ cười rằng nịnh. Sự thật thì tôi đương tìm cái Hay cái Đẹp trong thơ Haikai. Nhưng chưa nắm vững, nên những mong được gần gũi người Nhật có học có tâm, và mơ ước được sang Nhật một chuyến, thì mới mong hiểu thấu đáo những cái hay trong thơ Haikai.
- Vì cảm bụng anh nên em mới tìm đến.
Nói đoạn kéo tay Sinh bảo ngồi xuống bên gốc cây ở vệ đường. Đi lâu thấy đã mỏi, sinh vui sướng ngồi tựa lưng vào thân cây. Giai nhân ngồi tựa mình nơi lòng chàng, đôi mắt nhìn vẩn vơ những ngôi sao vàng trên nền trời cao rộng. Một luồng khoái cảm chạy êm êm dìu dịu khắp châu thân chàng. Chàng tự hỏi khe khẽ:
- Có phải mộng chăng?
Giai nhân kéo mặt sinh sát mặt nàng và nói:
- Nếu mộng thì đã sao?
Sinh cười:
- Thì khi tỉnh ra tiếc chết!
Giai nhân cười ngất:
- Thì mộng trở lại có khó gì.
- Nếu muốn mà được thì ai có muốn tỉnh làm chi cho khổ trí khổ tâm.
- Thôi hãy ngủ đi may ra có nằm mộng.
Nói rồi tựa má nàng vào má Sinh mà ngủ. Khí mát của da thịt, mùi thơm ấm của hơi thở... làm cho sinh ngất ngây đê mê... Rồi chàng ngủ thiếp…
Bỗng tiếng cu cu gáy. Vài giọt sương rụng trên má SINH. Sinh giật mình mở mắt: Trước mắt chàng, một cánh đồng cỏ xanh ngát và rộng mênh mông. Xa xa một hòn núi sắc biếc, đỉnh nhọn và đầy tuyết trắng, mà bối cảnh là lưng trời xanh nhuộm ánh hồng buổi rạng đông. Chàng lấy làm lạ lùng, nắm chặt tay giai nhân hỏi:
- Nơi đây là nơi nào?
Giai nhân âu yếm đáp:
- Đây là quê hương em.
- Nhật Bản?
- Vâng, chính là Nhật Bản. Và núi kia là Phú Sĩ sơn.
Sinh hết sức kinh ngạc:
Sao mới ở Việt Nam, mà chỉ cách một đêm ngủ đường lại sang đến Nhật Bản?
Giai nhân ôn tồn đáp:
- Vì sức mạnh của lòng mơ ước đã đưa thân thể anh vượt qua không gian một cách mau chóng, mau chóng đến nổi anh không cảm thấy được.
- Chứ không phải mộng?
Giai nhân liễm dung:
- Mộng là gì, nếu không phải là sự thực không nắm được? Còn sự thực là cái gì, nếu không phải là một giấc mộng mà lòng ngộ nhận rằng thực? Anh thường lấy mộng và thực trộn lẫn nhau, và coi nhau như một, sao lúc này cứ lẩn quẩn nghĩ ngợi “thực mộng mộng thực” như thế? Kìa hãy trông kìa..
Lý Sinh trông theo ngón tay trỏ của giai nhân: Mặt trời lần lần lên khỏi đỉnh Phú Sĩ Sơn, huy hoàng, oai vệ. Từng lớp người, y trang đẹp đẽ, kéo nhau đi. Giai nhân nói:
- Người ta đi xem hoa anh đào nở, vì xuân đã sang. Em xin đưa anh đi xem cho biết
Tay trong tay, hai người đi về hướng đông. Người đi nượp đường xá. Hầu hết là người Nhật, rồi đến người Âu, Mỹ. Người Tàu và người Việt chỉ lưa thưa. Đi giây lâu thì xa xa thấy cánh rừng anh đào bát ngát.. Giai nhân nói:
- Trong rừng, người ta có tổ chức nào quán rượu, nào quán trà, nào trò chơi, nào vũ nhạc… Rộn rịp tưng bừng... Nhưng chúng ta nên tránh nơi náo nhiệt, để có thể hưởng được nhiều thú vị thiên nhiên.
Nói đoạn đưa Sinh trẽ sang con đường khác vắng bóng người, rồi đến một quảng rừng hoa trỗ đầy nhánh. Cảnh đẹp thần tiên, sinh không biết nói làm sao cho rõ được những gì mình đã nhận thấy cảm thấy! Chàng đứng ngẩn ngơ. Giai nhân cười:
- Tả làm sao được vẻ thần tiên của anh đào? Các nhà thi sĩ Nhật Bản cũng đành gác bút. Xưa kia mà thi hào TEISHITUS (1610-1673) thú thật rằng không đủ lời để ca tụng, đành phải than lên mặt giấy “Kore Wa! Kore Wa!” Nghĩa là “Ôi đẹp quá! Ôi đẹp quá!” Mà thôi.
- Vâng nhà thơ dù có tài đến đâu cũng chỉ có thể nói lên được những cái hữu hạn. Còn những cái vô cùng đành phải nhượng cho hóa công.
- Không nói được những cái vô cùng, nhà thơ lại nói được những cái mà người thường không thấy hoặc thấy mà không nói lên được. Như trong khung cảnh đi xem hoa anh đào, thi sĩ KIKAKU (1661-1707) nhặt được một hình ảnh vừa thương tâm vừa đáng kính mến:
Xem anh đào nở hoa,
Theo sau mẹ
Em bé lòa!
Chao ôi! Vì ưa thích hoa đến nỗi không thấy gì mà cũng cứ đi xem! Trong lúc nghìn muôn mắt đều để cả vào vẻ đẹp của hoa, ngoài thi nhân ra, có ai để ý đến em bé đáng thương ấy! Thi sĩ SHIKO (1665-1731) lại trông thấy một cảnh tượng khác buồn cười nhưng cũng đáng thương:
Đi xem anh đào nở,
Tiền mất cắp không ngờ:
Chàng nông phu ngu ngơ!
Trong quanh cảnh đẹp đẽ như thế ai ngờ lại có những chuyện đáng buồn đáng thương như kia! Mà phải chi trong cảnh đi xem hoa anh đào! Trong đời, cảnh nào lại không có mâu thuẫn tương trợ, mà hai bài anh đào là tượng trưng.
Sinh nói:
- Vì không hiểu tính cách tượng trưng của thơ Haikai, nên có nhiều người bảo rằng thơ Nhật chỉ đẹp như những con poupées của trẻ em chơi.
Giai nhân đáp:
- Người Việt Nam có câu: “Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời”. Người Nhật cũng có câu tương trợ: “Nhái ở giếng làm gì biết được đại dương”. Mình cũng không nên trách họ. Thấy được cái lớn trong cái nhỏ, thấy được vũ trụ trong giọt sương mai, phải là người có con mắt tinh vi, có trí não sáng suốt, có học thức sâu rộng… chớ “loài ếch loài nhái” thì chỉ có “đẻ vãi xuống sông, trứng bám theo rong, nở ra nòng nọc...” vậy thôi.
Sinh cười ngất:
- Nghe nói người đàn bà Nhật hiền lành lắm mà?
Giai nhân cười, đáp:
- Bởi vì sanh trưởng nơi Việt Nam nên bị biến chất.
- Thế thì làm gì hiểu thấu đáo được thơ Nhật?
- Tuy không thấu đáo nhưng cũng có thể hiểu được sâu vì chưa mất gốc.
- Vậy xin nói cho nghe qua về thơ Nhật.
- Em chỉ xin nói đại khái về thơ Haikai, và chỉ nói đại khái về tánh cách:
Thơ Haikai rất thịnh hành ở thế kỷ thứ XVII. Và chỉ gồm có 3 câu. Câu thứ nhất 5 tiếng, câu thứ nhì 7 tiếng và câu thứ ba 5 tiếng (syllabes: ngũ ngôn, thất ngôn, ngũ ngôn). Ba câu ấy là ba hình ảnh hợp lại để tạo thành một hình ảnh mới lạ đầy mộng đầy thơ. Người thơ không nói hết ý. Họ chỉ nói lên một phần thôi, còn một phần lớn thì để cho trí tưởng tượng của người đọc. Thơ Haikai chỉ gợi chứ không tả, không nói rõ. Nó chứa đựng những cái bí ẩn mà người đọc phải tự tìm lấy. Ý tứ trong thơ rất dồi dào. Chúng ta có thể hiểu nhiều cách, tùy khả năng lãnh hội của từng người.
Simh tiếp:
- Đọc thơ là sáng tác. Lời này áp dụng vào lúc đọc thơ Nhật lại càng đúng.
- Nhưng thôi. Khi khác sẽ bàn rộng. Hôm nay nên để ý đến hoa.
- Mùa xuân ở Nhật Bản chỉ có hoa anh đào thôi ư?
- Hoa anh đào là tượng trưng tâm hồn người Nhật. Ngoài ra còn rất nhiều thứ hoa khác. Như hoa Mai chẳng hạn, âu là chúng ta hãy đi thăm vườn mai của quan thị thần TSURAYUKI.
Giai nhân đưa Sinh đến một khoảng vườn rộng chừng mươi mẫu, hoa bạch mai nở đầy và mùi hương đưa bát ngát. Giữa vườn, một khóm mai cao lớn, thân hình cổ kính, nhánh nhóc hoành tà trông thật đẹp mắt. Giai nhân dắt SINH luồn qua hoa mai, đến bên cạnh khóm lão mai ấy, và nói:
- Khóm mai này sống đã trên 10 thế kỷ. Vào khoảng cuối thế kỷ thứ X, trong vườn Ngự có một khóm mai quý bị sùng ăn gốc, héo rồi chết dần. Thiên Hoàng MURAKAMI truyền cho quan giữ vườn tìm cây mai khác thay thế. Nhân thấy nơi vườn quan thị thần TSURAYUKI có khóm mai mới ra hoa xinh đẹp không kém khóm mai vườn Ngự, viên quan giữ vườn bèn tâu cùng Thiên Hoàng. Thiên Hoàng liền hạ lệnh cho quan thị thần bứng khóm mai kia đưa vào Thượng Uyển. Người con gái của Thị thần thương tiếc khóm mai, làm một bài thơ treo nơi cành. Thơ rằng:
Vì lệnh Mikado
Nên thiếp vui lòng phụng hiến.
Nhưng thiếp biết nói lời gì
Khi chim hoa lau về hỏi chốn ngày xưa!
Thiên hoàng xem thấy, cảm động, liền truyền đem mai trồng lại nơi vườn xưa. Và từ ấy đến nay, chủ vườn đã tàn không biết bao nhiêu lớp, mà khóm mai vẫn tươi thắm cùng tuyết sương.
Sinh vỗ tay khen:
- Thật nên thơ! Thật đẹp đẽ thay tâm hồn người Nhật!
Giai nhân cười:
- Thi nhân mà cũng biết nịnh ư?
- Không. Đó là thật lòng khen ngợi. Những gì dối trá đâu có nên thơ.
Giai nhân sung sướng, dắt Sinh ra khỏi vườn. Hoa mai rơi dính đầy mình hai người, chẳng khác những điểm tuyết có mùi hương. Sinh thích ý nói:
- Em là một tiên nữ mình mọc đầy sao!
Giai nhân cười:
- Còn anh là người thơ của Hàn Mặc Tử “đầy mình lốm đốm những hào quang”.
Lý Sinh thích quá ôm giai nhân vào lòng. Giai nhân cười:
- Người thơ lắm lúc không nên thơ tí nào cả.
Sinh cũng cười:
- Đó là tại cái chất của thơ chưa tan biến.
Giai nhân cười ngặt nghẽo, rồi nói:
- Hãy mang chất thơ ấy đi theo tôi đến thăm khóm mai của thi sĩ MICHIZANE (844-903). Đây là một cây mai biết bay.
- Cây mai biết bay?
- Vâng, đã trên nghìn năm nay người Phù Tang vẫn truyền thế. Truyền rằng thi sĩ MICHIZANE đi xa, xuân đến không về thăm nhà được, nhớ khóm mai trong vườn, bèn sáng tác mấy vần thơ “Nhắn Mai Vườn Tôi” rằng:
Ngọn nồm bay sang
Hương đưa dịu dàng.
Ơi mai vườn cũ
Em dù vắng chủ
Chớ lòng quên xuân.
Khóm mai nơi vườn thông cảm, đương đêm bay đến nơi thi sĩ trú và mọc ngay ở trước sân, hoa nở đầy nhánh. Sáng thức dậy trông thấy cành mai của mình, thi sĩ cảm động quá, ôm mai mà khóc. Cây mai cũng khóc, những giọt lệ hoa nhỏ đầy tóc thi nhân, biến thi nhân thành một khóm mai bằng ngọc, nhưng biết nói…
SINH lấy làm thích thú quá, giục giai nhân đi cho mau. Giai nhân làm bộ giật mình:
Ủa! Mà quên!
- Quên cái gì?
- Quên nói rằng sau đó ít lâu thi sĩ qua đời, cây mai liền bay theo hồn thi sĩ. Nay nơi đó chỉ còn khoảng đất không. Chúng ta có đến cũng vô ích…
Sinh cười lớn:
- Thế là cụt hứng!
Giai nhân hóm hỉnh đáp:
- Miễn chất thơ vẫn còn.
Đoạn chỉ ra trước mặt:
Kìa mấy khóm thùy dương. Đó cũng là một nguồn thơ xuân của Nhật Bản.
SINH nhìn theo. Nơi khoảng đồng cỏ xanh non điểm hoa nhiều màu, mọc rải rác những khóm dương lá cành tha thướt. Một ngọn gió đưa, tiếng nghe như sáo thổi, và tơ xanh bay phất phơ… Giai nhân nói:
- Sau những trận mưa xuân, trông những khóm dương kia mới thật là đẹp. Thi sĩ ISE của thế kỷ thứ X có bài “hạt châu xuân” rất lý thú, rằng:
Trên khóm dương xanh
Đeo nơi cành
Mưa xuân từng giọt..
Sợi tơ mành
Xuyên qua thành chuỗi hạt minh châu.
Giai nhân vừa nói vừa dắt Sinh đến ngồi dưới gốc một khóm dương. Mặt trời đã lên cao, bầu trời quang đãng. Vạn vật tắm ánh xuân vừa lộng lẫy vừa dịu dàng. Tiếng chim trên cành đua nhau hót véo von. Giai nhân ngồi sát bên cạnh Sinh, lấy tay Sinh choàng lên vai mình, và ngả đầu vào vai Sinh, ngồi lim dim đôi mắt:
- Đến Nhật Bản, ai nấy đều tìm đến Đông Kinh trước. Đông Kinh là nơi giàu sang nhất nước Nhật. Nhưng đến đó sẽ bị cái hào nhoáng của vật chất đánh lạc mất cái thâm thúy của tinh thần. Vì anh muốn tìm hiểu tâm hồn người Nhật qua thơ Haikai, nói cho đúng hơn là tìm chân vị trong thơ Haikai, nên em phải đưa anh đến những nơi thanh vắng của nước Nhật. Rồi đây tự anh sẽ đi lần lần vào trong các nơi sâu xa hơn, bí ẩn hơn.
Sinh hơi chột lòng, nắm chặt tay giai nhân hỏi:
- “Tự anh sẽ đi tìm lấy”? Như vậy em muốn bỏ tôi sao?
- Bỏ thế nào được. Em đã do lòng mơ ước của anh hòa với Thơ với Mộng mà kết tinh, thì em chỉ xa anh khi nào anh đã chán ghét… Nhưng thôi đi mệt quá. Anh để cho em nghỉ giây lát cho lại hơi.
Nói xong nhắm nghiền đôi mắt. Sinh cảm thấy một hơi lành lạnh thấm từ vai chàng thấm dần xuống ngực…, xuống tay chân… Chàng cũng nhắm đôi mắt lại để hưởng cái cảm giác lạ lùng ấy. Chàng cảm thấy say say như ngửi quá nhiều mùi hoa dạ nguyệt hương trong gian phòng kín… Chàng đương bàng hoàng thì một bàn tay đập lên vai chàng... Chàng giật mình mở mắt, thì thấy mình đương úp mặt trên tờ băng cơ, và đứa con gái đứng bên chàng gọi:
- Ba dậy cúng giao thừa!
Và ngoài trời tiếng pháo bắt đầu nổ… Chàng đứng dậy nhìn lên hương án. Lư trầm bốc khói bay lờ mờ bóng áo long cổn và bóng áo kimono… Xuân 1963
27- Tạm đóng cửa vườn
Từ mùa thu năm Nhâm Dần (1962) tình hình trong nước không được yên ổn về mọi mặt, kinh tế, văn hóa, quân sự. Thuốc khai quang Mỹ lại vãi tung khắp nơi làm cho ruộng nương vườn tược hư hại quá sức! Vườn Hoa Thơ cũng bị ảnh hưởng lây. Khách đến xem vườn mỗi ngày một thêm vắng. Hoa của nhà không nảy nụ đơm hương. Xuân Quý Mão về, để cho vườn khỏi đìu hiu quạnh quẽ, lão đã phải mượn hoa Nhật Bổn về chưng bày.
Rồi xuân qua rồi hè đến…, Vườn hoa thơ không còn kẻ tới lui. Một mình ngồi ngắm những cánh hoa anh đào thấp thoáng trong mơ, lão chợt nhớ đến một số hoa Nhật Bản được người Pháp đem về trồng nơi công viên Paris, và con trai lão (Quách Giao) bẻ mấy nhánh từ Paris đem về ươm phía sau vườn. Lão bèn mượn đưa ra phía vườn trước, phòng có khách đến tạm mua vui:
SYNCHRONISME
À chaque fleur qui s’ouvre
Aux branches du prunier,
Le printemps un peu plus s’attie’dit
TỊNH PHÁT
Mỗi lần nở một đóa mai
Mùa xuân trở ấm thêm vài chút xuân.
ILLUSION
Fleur tombée
Retournant à la branche?
Oh! C’était un papillon!
ẢO ẢNH
Hoa rơi,
Hoa trở lại cành?
Ồ! Con bươm bướm nặng tình với hoa!
LE COUCOU
Coucou!
Coucou!
Il se fait jour
CHIM TU HÚ
Cu cu! Cu gáy trước nhà,
Trước nhà cu gáy,
Trời đà rạng đông.
FRATERNITE BOUDDHIQUE
Viens près de moi
Et jouons ensemble,
Petit moineau orphelin
LÒNG TỪ BI
Lại đây,
Em sẻ mồ côi!
Lại đây, Em sẻ,
Cùng tôi vui vầy .
NE PLEUREZ PAS
Insectes! Ne pleurez pas!
Il y a đes douleurs à partager
Même dans le ciel
ĐỪNG KHÓC
Dế ơi! Đừng khóc dế ơi!
Cao xanh kia vẫn có người đau thương.
NOSTALGIE
Quoi que bien résolu
À ne point retourner sur mes pas,
Ah! combien m’est chère ma maison!
NHỚ NHÀ
Ra đi quyết một không về,
Nhớ lều tranh cũ não nề lòng đây!
APPRITION
Parmi les oeillets,
Un papillon blanc:
Est-ce une âme?
XUẤT HIỆN
Cẩm nhung rực rỡ màu hoa,
Lẫn con bướm trắng:
Phải là hồn hương?
OUBLI
Chose depuis longtemps oublíée:
Un pot où éclot une fleur..
Jour printanier!
DI VONG
Bấy lâu lòng nỡ quên đành
Đóa hoa nở thắm trong bình
Ngày xuân!
Cây có hoa cũng như cây ăn trái vốn sanh trưởng ở nơi này mà đem trồng sang nơi khác, thì dù thủy thổ có hạp đi nữa, thế nào cũng phải biến chất hoặc ít hoặc nhiều. Nhưng chỉ biến chất mà thôi chớ không đến nỗi mãng cầu hóa thành đu đủ.
Thơ cũng thế!
Mấy bài thơ Nhật dịch ra thơ Việt qua tiếng Pháp thượng dẫn, tuy đã bị Việt Nam hóa hoàn toàn, song nếm vẫn có đôi chút khí vị của hoa anh đào núi Phú Sĩ.
Một mình ngồi ngắm mấy khóm “hoa lài”, lão liên tưởng đến ông Đào Tiềm đời Tấn, ông Lâm Bô đời Tống. Một ông thì thui thủi cùng hoa cúc, một ông quấn quýt theo hoa mai, mùi thế lạc nồng không cần để tâm đến. Lão lại chạnh nhớ đến vườn hoa ở Phú Ân của lão.
Phú Ân là một sơn thôn thuộc quận Bình Khê, tỉnh Bình Định. Khoảng 1947 - 1948, lão tản cư đến đó. Nhà lão ở trọ vốn là một từ đường bỏ không, lại có sân có vườn rộng rãi. Vợ con lo đi chạy gạo, một mình lão ở nhà coi nhà. Để mua vui lão tìm hoa vạn thọ, hoa vạn niên, là hai thứ hoa không cần phân, chỉ cần nước, đem về trồng mấy luống. Nhờ sự chăm sóc hằng ngày của lão, hoa trắng hoa vàng nở đầy.
Những đêm trăng tỏ, một mình với một ấm trà lá vối ngồi thưởng hoa, lão hưởng được một khí vị thanh thú, buồn buồn lạnh lạnh. Sắc trắng của vạn niên, sắc vàng của vạn thọ gợi trong tâm hồn lão bóng dáng khóm mận ba nhành, hai chậu mai và thềm giếng cúc trong vườn Nha Trang của lão. Nỗi thương tiếc niềm nhớ nhung, hòa lẫn cùng hương vạn niên vạn thọ và vị trà lá vối, tạo thành một chất sầu dìu dịu lắng dần vào thịt xương… Ngày một ngày hai, tự nhiên thấy ghiền. Hễ đêm có trăng sáng thế nào cũng phải ra nơi thềm với ấm trà lá vối, ngồi cùng hoa. Lúc bấy giờ mà có được một người đồng điệu đến chơi thì không còn gì thú bằng.
Để ghi lại chút lòng, lão có một luật:
Vạn niên trắng vạn thọ vàng
Quán trọ vườn thu chút điểm trang
Mùi thế nỡ cam phần lạnh lạt
Đời hoa đâu phải lúc xuê xoang
Chung tình mai mận hương đôi nhánh
Chia ánh sương sao ngọc mấy hàng
Lặng lẽ song khuya dừng chén nguyệt
Sân rêu mường tượng bước Vương lang (1)
Cảnh Vườn Thơ Lành Mạnh trong mấy lúc nay thật không khác cảnh Vườn Hoa Phú Ân:
Khép áo dừng bên trúc
Lòng se bóng cố nhân
Thương sương thu còn đọng
Anh hoàng hôn mùa xuân (2)
Một ông bạn láng giềng thấy vườn không khách thưởng hoa, liền sang:
- Sao không tạm đóng ngõ lại, rồi “cao ngọa thả gia xan”. Khi nào có khách đến gọi sẽ ra. Tội gì ngày ngày tựa ngõ đứng nhìn mây nhìn nước như thể đá vọng phu:
Nước mây quạnh vắng tròng khô lệ
Mưa nắng phôi pha má lợt hồng. (3)
Nghe lời nói phải, lão gật đầu... Và đưa ông bạn ra về nhớ lại bài thơ cũ, lão ngâm:
Tiệc bãi lầu ca lạnh ánh sương
Bâng khuâng tay ngọc xếp nghê thường
Ra về chớ tiếc đêm xuân lụn
Vườn cũ nghìn hoa đợi bóng dương. (4)
Ông bạn mỉm cười, ngâm tiếp:
Sương gieo ngàn cổ thụ
Mây nước vọng buồn thương
Hẻo lánh vườn hương muộn
Lòng thu, xuân náu nương. (5)
Chú thích:
(1) Vương Hoằng đời Tấn bạn Đào Tiềm. Một hôm ông Đào thèm rượu toan bứt hoa cúc nhai cho đỡ thèm thì họ Vương đưa rượu đến biếu. Vương tử Kỉnh đời Đường đi ngang qua vườn hoa của một phú ông, thấy đương mở tiệc thưởng hoa, Vương ghé vào xem qua vườn, rồi vào khen chủ nhân ít lời, đoạn từ giã, cầm mấy cũng không ở. (Trong bài dùng điển họ Vương nào cũng được cả).
(2) Bóng Xuân Xưa, trong Mộng Ngân Sơn.
(3) Cặp trạng bài Đá Vọng Phu trong Mùa Cổ Điển.
(4) Tiệc Bãi trong Đọng Bóng Chiều.
(5) Náu Nương trong Mộng Ngân Sơn.
Nha Trang, Thu Quý Mão 1963Quách Tấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét