Thứ Bảy, 6 tháng 3, 2021

Trong vườn hoa thơ 5

Trong vườn hoa thơ 5

Đôi nét cương yếu về thi học [7] [8]
7.
Nói chuyện cùng các em học sinh, lão tự thấy mình trẻ trở lại. Nhưng ngót mấy tháng nay không biết vì sao vì mắc lo học thi tấn ích chăng hay đã chán nghe chuyện về thơ cũ mà không có một em nào quen hay lạ đến thăm Vườn Hoa Thơ. Lòng lão thấy nhớ lạ!
Đương ngồi nghĩ vẩn vơ thì bóng dáng tươi xinh của tuổi xuân bị chòm râu nửa xanh nửa trắng của ông bạn Thúc Luân làm tan biến mất! Lão bật cười:
Mơ trẻ thấy già duyên cắt cớ!
Khôn qua lú lại nợ loanh quanh!
Dường như ông bạn không để ý đến câu khẩu chiếm của lão, nên vừa ngồi xuống thảm cỏ dưới bóng bạch ngọc lan, liền cười tích toác:
- Hôm trước mình sợ lão vườn cùng họ Lý chê dốt thi pháp, nên có nhiều điều muốn hỏi mà không dám hỏi.
- Nghiền ngẫm những áng văn chương truyền thế, cổ nhân rút ra được những bút pháp tinh diệu, viết thành sách để giúp đời. Chúng ta đã học được bao nhiêu, hiểu được bao nhiêu? Chẳng qua gặp đâu nói đó cho vui vậy thôi. Đường xa diệu vợi, kẻ đi được vài ba cây số đã thấm gì mà dám lên mặt cùng kẻ đủng đỉnh theo sau.
Thúc Luân gật đầu:
- Một bài thơ bát cú gồm có khởi thừa trạng luận chuyển kết. Tôi nhận thấy Lão Vườn, khi nói chuyện, ít dùng những tên kia mà lại thường gọi khai thừa chuyển hiệp, hoặc hạm liên, cảnh liên, là ý làm sao?
Biết rằng Đoàn Thúc Luân nhác đọc sách nhưng siêng làm thơ, và thơ có nhiều câu khả ái:
- Người xúm tranh đành lo việc nước,
Mình riêng thong thả chuốt lời thơ.
- Đời đục lo sao mình khỏi đục,
Thần linh chưa chắc quỉ không linh.
- Tơ kéo mưa thu trùng dệt nhớ,
Sen dầm lệ sáp bút sanh thương
- Non gió lao xao tùng nổi sóng
Hồ trăng lai láng nước đông sương.
- Cúc vàng nở thạnh vườn sương sớm,
Buồm trắng thưa dần bến trúc xưa.
Lão cười, nói bỡn:
-  Ông bạn thật giống ông Lục Đinh (Jourdain) trong tuồng Trưởng Giả học Làm Sang (Bourgeois Gentilhomme) của Ma Lợi Nhĩ (Molinere) nước Pháp. Lục Đinh làm văn xuôi ngót bốn mươi năm mà không biết rằng mình làm văn xuôi. Còn ông bạn làm thơ đã vượt ra khỏi vòng ngôn ngữ không cần thiết của thơ mà không biết còn muốn trở lại hỏi thăm!
- Mặc người ta. Người ta hỏi thăm thì mình cứ nói.
- Người đời Đường đặt ra Luật thơ, nhưng không “phân nhiệm” cho từng câu, chỉ theo thứ tự mà gọi từng cặp: cặp Nhất Nhì, cặp Tam Tứ, cặp Ngũ Lục, cặp Thất Bát. Đến đời Tống trong tập Thương Lang Thi Thoại, Nghiêm Võ gọi là cặp Nhất Nhị là PHÁT ĐOAN, cặp Tam Tứ là HẠP LIÊN, cặp Ngũ Lục là CẢNH LIÊN, cặp Thất Bát là LẠC CÚ. Sang đời Nguyên, trong sách trong sách Thi Pháp Gia Số, Dương Tái chia bài thơ ra làm bốn phần: KHAI,THỪA,CHUYỂN,HIỆP. Qua các đời sau, phần đông khách làm thơ, nhất là hàng cử tử, thường theo đề chớ ít theo hứng, nên mới “coi mặt đặt tên”, gọi cặp Nhất Nhì là câu ĐỀ, có phá đề và thừa đề, gọi tắt là phá thừa, gọi cặp Tam Tứ là câu TRẠNG hay câu THỰC, cặp Năm Sáu là câu LUẬN hay câu BỒI, cặp bảy Tám là CÂU KẾT, có thúc kết và hoàn kết, gọi tắt là Chuyển kết.
Thúc Luân cười:
- Không biết vẫn không hại gì cho việc sáng tác, song đã là khách làng thơ mà không thông thạo ngôn ngữ “bổn kiểng” thì chẳng khác người Việt mà nói bập bẹ tiếng Việt như người nước Ngô nước Lào.
Lão ngồi lặng thinh nhìn đoàn bướm lượn hoa. Thúc Luân ngã lưng vào gốc cây Ngọc Lan nhìn ánh nắng “bắt chước những vì sao” ở trên tàn lá biếc… Chợt ngồi dậy hỏi:
- Trong bài ĐỒNG QUÊ của Lão Vườn, câu “Cỏ thơm người cũ mộng tìm đâu” có dùng điển phải không? Người thì bảo sở xuất là câu cổ thi “Xuân du phương thảo địa”, kẻ lại bảo rằng mượn ý trong câu Sở Từ “Vương tôn du hề bất quy, xuân thảo sanh hề thê thê”. Điển nào trúng?
- Bài ĐỒNG QUÊ là một bài xúc cảnh sanh tình. Nhân thấy xuân về cố cảnh mà chạnh lòng hoài niệm viễn nhân. Câu thứ 2 không cố tâm dụng điển, làm rồi mới hay rằng điển đã theo hứng mà vào thơ. Nhưng điển tuy được một cách ngẫu nhiên, mà truy nguyên không phải do câu “Xuân du phương thảo địa”, cũng không phải do câu “Vương tôn du hề bất quy...”, vì một bên thiếu người, một bên thiếu mộng.
- Chớ điển gì?
- Điển Tạ Linh Vận. Tạ Linh Vận đời Lục Triều có người em họ tên Tạ Huệ Liên, người đẹp trai thơ khác tục. Linh Vận rất yêu quý, thường nói: “Ngồi bên Huệ Liên tự nhiên sanh hứng”. Một hôm Linh Vận ngồi một mình nơi bờ ao nghĩ thơ. Suốt buổi không nảy tứ. Trở về nhà mộng thấy Huệ Liên, tỉnh dậy làm được hai câu đắc ý:
Trì đường sanh xuân thảo
Viên liễu biến minh cầm
Nghĩa là:
Cỏ xuân nảy lục bờ ao
Xanh buông vườn liễu ngọt ngào tiếng chim.
Câu chuyện trở thành giai thoại trong làng phong nhã, và khách làm thơ thường mượn chữ “trì đường xuân thảo” để diễn ý nhớ tri âm. Trong bài LỮ THỨ TRỪ TỊCH của Nguyễn Du, có câu:
Trì thảo vị lan thiên lý mộng
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân
Nghĩa là:
Chằm cỏ chưa tan ngàn dặm mộng
Sân mai đà đổi một năm xuân.
Thúc Luân:
- Người thuộc nhiều điển cố thiệt chẳng khác người có tiền sẵn trong mình, khi muốn dùng chỉ có việc thọc tay vào túi.
- Trong một bài thơ, chủ ý là vua, điển cố là kẻ phò tá. Kẻ phò tá có khi phải cầu mới đến, như trường hợp Khổng Minh, nhưng lắm khi thấy vua hiền, tự nhiên tìm đến, như trường hợp Bàng Thống. Lại nhiều khi phải tìm đủ cách mới vời được, song đến chỉ để có đến, đến để choán hết một chỗ ngồi của người khác chớ không giúp được việc gì, như trường hợp Từ Thứ đối với Tào Tháo. Cho nên đừng thấy điển hay mà ham như ham tiền bạc.
Thúc Luận cười:
- Kẻ nghèo điển ham điển như kẻ nghèo tiền ham tiền. Như tôi đây là một phần tử điển hình.
- Ông bạn đã sánh điển với tiền, thì nên nhớ lời Tây triết “Tiền là người tôi tốt mà là ông chủ xấu” (L’argent est un bon serviteur mais un mauvais maitre). Cho nên kẻ nắm điển trong tay phải có bản lãnh vững chắc mới khỏi bị điển sai khiến.
- Lão Vườn có thường bị điển sai khiến chăng?
- Ông bạn có sợ vợ chăng?
- Sao Lão vườn lại hỏi thẩn thẩn thế?
- Bởi ca dao có câu:
Không ghen sao phải đàn bà
Có từng sợ vợ mới là đàn ông.
Mỗi khi chất sợ đã nằm sẵn trong người rồi thì bị vợ sai khiến đâu còn biết rằng mình bị sai khiến, lắm lúc còn tưởng rằng mình chủ động là khác. Chỉ người ngoài mới thấy rõ rằng mình có sợ hay không mà thôi.
Thúc Luân vuốt râu:
- Cứ nhìn đây thì biết.
- Ông bạn cũng thử nhìn lão.
- Lão Vườn không râu nên khó đoán. Nhưng nhìn vào thơ thì thấy Lão Vườn thường dùng điển quá!
- Lão còn sánh điển như cung phi mỹ nữ. Trừ bạo chúa Tần Thủy Hoàng buộc người đi bắt gái đẹp về nhốt đầy cung A Phòng, và trừ các bạo chúa hôn quân háo sắc khác, không nói làm gì. Đến như Lương Nguyên Đế thời Nam Bắc Triều là ông vua mê say đạo vô vi của Lão Trang đến việc nước còn không xem trọng huống hồ sắc đẹp của giai nhân. Thế mà trong cung cũng đầy cả hương phấn, hương phấn do các bề tôi tự ý đưa đến, đưa đến lúc nào nhà vua cũng không biết, đến nỗi thứ phi Từ Chiêu Bội, một tuyệt đại giai nhân, không được nhà vua đoái hoài sanh ra oán giận. Như thế có thể gọi Lương Nguyên Đế là háo sắc chăng?
- Nói chuyện thường mà cũng dùng điển, huống hồ làm thơ! Như thế bị Vũ Ngọc Phan chê là phải lắm. Chẳng những người trong làng văn chê mà thôi, người ngoài cũng thường trách. Chê trách việc lạm dụng điển cố làm mất sanh khí của thơ, họ lại còn chê trách lão vườn hay đạo văn cổ nhân làm suy yếu sức sáng tạo. Như trong bài XUÂN QUẠNH hai câu nhất nhị:
Thược dược gió bay màu túy vũ
Hải đường sương tỉnh giấc xuân tiêu.
Trùng với câu trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu:
Liều thược dược mơ màng thụy vũ
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Lão làm thinh. Thúc Luân gắt:
- Lão Vườn có thói xấu là không đáp lại những lời chỉ trích. Không nên giở thái độ ấy với bạn. Nghe không?
- Nghe.
- Thì cho biết ý kiến.
- Về việc dụng điển thì lão đã thuyết minh. Còn về việc đạo văn thì xin ông bạn xét lại: Hai câu thơ của lão và hai câu của Ôn Như Hầu chỉ trùng nhau một số chữ. Còn từ tinh 2 tứ đến thanh điệu, phong cách, ý thú..., hai bên đều khác hẳn nhau. Có thể bảo lão phỏng cổ chớ không thể bảo rằng đạo văn. Mà dù có người cho là du đạo cũng không xấu hổ gì, vì trước lão cũng đã có nhiều bậc danh gia “đồng điệu”. Như Đường Nhân Trương Cửu Linh là một. Trương có bài TỰ QUÂN NHI XUẤT HỸ:
Tự quân nhi xuất hỹ
Bất phục lý tàn ky
Tư quân như nguyệt mãn
Dạ dạ giảm thanh huy
Tản Đà dịch:
Từ ngày chàng bước chân đi
Cửi canh bỏ dở nghĩ gì sửa sang
Nhớ chàng như nguyệt tròn gương
Tiêu hao ánh sáng đêm thường lại đêm
Trước Trương, về đời Lục Triều, Trần Hậu Chúa cũng đã có bài TỰ QUÂN NHI XUẤT HỸ:
Tự quân nhi xuất hỹ
Lục thảo biến giai sanh
Tư quân như dạ chúc
Thùy lệ trước kê minh.
Tạm dịch:
Từ ngày chàng bước chân đi
Vắng thiu thềm vắng xanh rì cỏ xanh
Nhớ chàng như nến thâu canh
Lệ tuôn đài sáp sầu đoanh tiếng gà.
Cũng đời Lục Triều, Giảm văn Đế có câu:
Thấp hoa chi giác trọng
Túc điểu vũ phi trì
Phỏng dịch:
Cành hoa sương thấm nặng nề
Cách chim chậm chậm bay về nghỉ ngơi
Vi Ứng vật đời Đường lại có câu:
Mạc mạc phàm lai trọng
Minh minh điểu khứ trừ
Phỏng dịch:
Nặng nề buồm trở lại đêm
Bóng theo chậm chậm cách chim về rừng.
Những câu có chỗ tương đồng ấy, câu làm sau cũng như câu làm trước, đều được song song tồn tại trên nghìn thu rồi. Kẻ thức giả đã không nặng lời chỉ trích mà còn khen: “xanh kia khéo nhuộm đượm hơn chàm”. Không lẽ độ lượng người đời nay không bằng người đời trước?
Thúc Luân gật đầu:
- Đọc nhiều kể cũng có lợi
- Đọc nhiều không lợi bằng đọc kỹ, mà đọc kỹ không bằng nghĩ chín. Và đọc kỹ nghĩ chín là để rút lấy những tinh ba hầu mở rộng phạm vi kiến văn, nâng cao trình độ nhận thức, và nuôi dưỡng tính tình cho mỗi ngày mỗi thêm sung dật. Chớ nếu dùng sở học để làm thơ thì kết quả chỉ là một mớ sản phẩm đúng phép tắc, giàu điển cố, người đọc muốn chỉ trích không có kẽ hở để đặt ngòi bút, song muốn tìm chân thú chân vị thì dù nhai từng chữ nghiến từng câu rốt cuộc cũng chẳng khác ăn một dĩa thịt bò xào đã bị anh đầu bếp ép lấy hết cả huyết trước khi bỏ vào chảo.
8.
Nghe tin lão ba hoa về thi pháp cùng Đoàn Thúc Luân và Thường Kiến, các bạn quen biết cũ Phong Lâm, Đạo Thành và Lạp Mai kéo nhau đến vườn:
- Lão Vườn lâu nay dấu nghề! Chúng tôi tưởng lão chỉ có nghề tưới nước đuổi chim cho Hoa Thơ, chớ có ngờ đâu cũng theo việc trồng trỉa bón xới.
- Vào Vườn Hoa Thơ là để thưởng thức hương thơm sắc thắm, chớ đâu phải để tìm cho biết thứ này thuộc giống nào có họ với giống kia chăng, đâu phải để tìm cho biết đất nào thích nghi với giống nào, phân nào thích hợp với thứ nào… Gặp những ông khách tọc mạch gạn hỏi, không đừng được lão phải thưa qua cho vui câu chuyện vậy thôi.
Lạp Mai:
- Biết chìu lòng khách như thế đáng thưởng Hoa Mỹ Bội Tinh.
- Hoa nào đó? Mỹ nào đó?
Đạo Thành:
- Đừng, đừng! Để được thong thả ngắm hoa thưởng thơ, không nên đả động đến chánh trị.
- Sao lại sợ chánh trị? Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách kia mà.
Phong Lâm:
- Ai là “Thất Phu” thì mới “hữu trách” chớ chúng ta đây hoặc là  "Tứ phu”, hoặc là “Đắc phu” thì chỉ có “vô tiễu” thôi. Vậy xin Lão Vườn lo làm nhiệm vụ chiêu đãi viên của vườn Hoa Thơ mà chìu khách đi vậy.
- Chìu giống gì đây?
Lạp Mai:
- Nói về Hoa Thơ bát bệnh.
Vì nhận thấy thuyết thanh bệnh xưa nay đã bị nhiều người công kích, nên không mấy khi lão đề cập đến, mặc dù lão vẫn theo như theo một cô tình nhân nghiêm khắc nhưng trung thành… Nay nghe các lão hữu hỏi đến, lão ngần ngại, muốn tìm cách tránh né cho qua.
Lão nhìn Phong Lâm hỏi: - Câu thơ này của ai?
Chung một nước non hòn máu đỏ
Chia đôi nòi giống giải sông xanh.
- Đã biết rồi hỏi chi nữa?
Lão nhìn Đạo Thành hỏi? - Câu thơ này của ai?
Thôn xa nắng tắt trâu về chậm
Sông lạnh buồm xuôi gió thổi mau.
- Của tôi
- Còn câu này:
Có phải đông quân đà mở vận
Xui nên ẩn sĩ cũng theo thời. (1)
- Của Lạp Mai. Nhưng Lão Vườn cật vấn như thế là có ý gì?
- Có ý thưa cùng quí lão hữu rằng những câu thơ ấy đều vô bệnh. Mà làm thơ đã hết bệnh rồi thì còn hỏi thăm bệnh nữa mà làm chi?
Đạo Thành:
- Làm chi cũng chẳng làm chi,
Chẳng làm chi mặc hỏi thì phải thưa.
- Nếu quý lão hữu muốn biết rành mạch thì nên mua những quyển sách này mà đọc:
Thi học Thông Luận của Phạm Huống,
Thi Pháp Gia Số của Dương Tái,
Thi Pháp Nhập Môn của Mân Đàm Du,
Cựu Thi Lược Luận của Lương Xuân Phương, v. vân…
Những quyển sách này ở Chợ Lớn có bán, và đã có một vài học giả dựa theo các sách ấy mà viết sách dạy làm thơ bằng chữ Quốc Ngữ, bày bán khắp nơi.
Lạp Mai:
- Ngồi bên cô tình nhân mà lại nghe nói chuyện tâm tình bằng máy thu thanh, thì dù giọng kia lời kia du dương đến đâu thanh nhã đến đâu cũng không thích thú bằng được nghe chính miệng người tình thủ thỉ.
Lão ngồi ngẫm nghĩ: - Thơ Cũ đã bị coi thường như chữ Hán, Những nhà Hán học thông hiểu thi pháp của Trung Hoa, thấu rõ bệnh lợi của nghề làm thơ Hoa Việt, không muốn đem sở đắc của mình ra phổ biến làm gì cho thêm phiền. Do đó hơn nửa thế kỷ nay, những người còn luyến tiếc Thơ Cũ mà không thông Hán văn hoặc không gặp được những sách biên khảo về thơ Trung Quốc, rất ít người biết được thấu đáo những qui tắc của Thơ Cũ, ngoài những thể thức thông thường. May mình học lóm được đôi chút của tiền nhân, tưởng cũng không nên hẹp bụng cùng bằng hữu.
Lão ngẩng lên nhìn ba ông bạn: - Trước khi nói đến bệnh, lão xin trình qua về nguyên nhân sanh ra bệnh.
Thúc Luân: - Đừng cà kê. Nói mau đi .
- Từ đời Hán trở về trước, thi nhân không mấy khi bàn đến âm thanh tiết tấu. Đến đời Ngụy, Lý Đăng làm sách Thanh Loại, đời Tấn, Lữ Tịnh làm sách Vận Tập, mới gây lên phong trào nghiên cứu thanh vận. Khi đến Tề, Lương thuộc Nâm Triều, Chu Ngung, Vương Dung... đề xướng thuyết tứ thanh. Thầm Ước, sau khi giảng cứu tinh tường, đặt ra luật Tứ Thanh Bát Bệnh, được phần đông thời nhân hưởng ứng và gây ảnh hưởng lớn đến hậu thế, từ Đường Tống đến Minh Thanh…
Bày ra luật Thanh Bệnh, cổ nhân nhắm mục đích giúp cho người làm thơ sẵn phương tiện để đi đến chỗ hài mỹ của âm điệu. Song vì có nhiều người ham cầu lấy tinh mật, đua giành lấy tế vi, coi thanh luật là “thiên tử thánh triết” (2), thường chỉ chú tâm đến cái Đẹp của hình thanh, mà quên mất cái Chân của tính, tình, khiến trong hàng thức giả có nhiều người đứng lên phản đối. Như Chung Vinh đời Tề chê luật âm thanh câu thúc thi nhân làm thương tổn đến Chân Mỹ. Người đời Đường là Hàn Sơn Tử chê những người theo thuyết Thầm Ước là “Thanh điệu bài ưu” (3). Và Lý Thái Bạch cho thanh luật là “Thanh điệu bài ưu” (4). Qua các đời sau, đời nào cũng có kẻ khen người chê. Đến cuối đời Thanh thì lời chê lấn lời khen và sang đời Trung Hoa Dân Quốc thì lời chê trở thành lời mạc sát… Một số học giả Việt Nam chịu ảnh hưởng các học giả Trung Quốc, chưa thí nghiệm, chưa thể chứng, đã đưa ra nhiều lời phán đoán, theo lão, không mấy công minh.
Đạo Thành: - Lão Vườn theo phái chê hay phái khen?
- Lão theo Trung Đạo, không chấp sắc cũng không chấp không.
Phong Lâm: - Theo Lão Vườn thì luật thanh bệnh có bó buộc chăng? có khó chăng?
- Chưa biết thì thấy khó, chưa quen thí thấy bó buộc. Nhưng khi đã biết rồi đã quen rồi thì chẳng khác người tài xế vững tay lái thuộc đường sá cho xe chạy trên đường Quốc Lộ số 1 từ Nha Trang ra Cựu Thần Kinh  Phú Xuân. Các thứ  bệnh ví dụ như các ngọn đèo Rù Rỳ, Ruột Tượng, Cổ Mã, Đại Lãnh, Cù Mông, Hải Lương, Bình Đê, Hải Vân. Đường đã quen, tay lái đã vững, người tài xế chỉ cần để tâm vào việc lái xe, thì có “thiên thư định mệnh” mới xảy ra việc rủi ro. (5)
Đạo Thành: - Như vậy tám bệnh đã biết rồi thì có thể nhận thấy rõ lắm sao?
- Nhận thấy dễ dàng như bệnh ngoại thương đối với các vị Bác sĩ lịch duyệt. Ví dụ đọc câu:
Trời đã sang đầu hạ
Lòng ngỡ đương giữa thu
Hoặc:
Mái tây em thẫn thờ
Dưới hoa anh ngẩn ngơ.
Thì biết ngay là mắc bệnh BÌNH ĐẦU, tức là Bằng đầu.
Còn đọc câu:
Nhớ em đầu nhuộm trắng
Nhưng anh đành ngậm đắng.
Hoặc:
Cửa ải bóng cờ bay
Gió đưa lẫn cùng mây.
Thì biết ngay là mắc bệnh THƯỢNG VỸ, tức là Chỏng đuôi.
Đạo Thành:
- Bằng vào điểm nào để nhận chứng?
- Bệnh Bình Đầu mắc phải là do chữ thứ 1 và chữ thứ 2 vế trên cùng một thanh với chữ thứ 1 và chữ thứ 2 vế dưới: Trời và Lòng: Trường bình thanh. Đã và Ngỡ: Trường Thượng thanh. Mái và dưới: Đoản khứ thanh. Tây và Hoa: Đoản bình thanh. Âm điệu của câu thơ nghe bằng phẳng, không êm ái nhịp nhàng. Còn bệnh Thượng Vỹ mắc phải là do chữ thứ 4 và thứ 5 vế trên đồng thanh cùng chữ 4 và chữ 5 vế dưới: Nhuộm và Ngậm: Trường bình thanh. Bay và Mây: Đoản bình thanh. Câu thơ đọc nghe như tiếng xe đương chạy bị hãm vội lại (câu Nhuộm trắng, Ngậm đắng). Hoặc như tiếng nói hụt hơi (câu Cờ Bay Cùng Mây). Đọc xong không còn chút âm ba âm hưởng.
Chỉ chữ thứ 5 vế trên với chữ thứ 5 vế dưới cũng một thanh với nhau cũng bị bệnh Thương Vỹ:
- Giỏi thay Trần Quốc Toản
Tuổi trẻ mà can đảm. 
-  Vừa mới ra khỏi trường.
Đã gặp kẻ lỡ đường.
Đọc câu trên, có cảm giác đi vào một ngõ cụt. Đọc câu dưới như đương đi bị chuồi xuống hầm.
Bệnh Bình Đầu và Thượng Vỹ sanh ra là do sự “ngang trái” trong việc hài hòa của hai câu. Nghĩa là có đôi lứa mà ăn ở với nhau không thuận hòa, ăn nằm với nhau không điều độ thì mới sanh ra bệnh. Đến bệnh PHONG YÊU, thì độc thân mà không biết giữ vệ sinh cũng thường mắc phải:
Ngày xuân ngắm liễu tươi
Tháng hạ buồn hoa rụng
Trong câu nào chữ thứ 2 cũng đồng thanh cùng chữ thứ 5. Xuân va Tươi đều Đoản bình thanh. Hạ và Rụng đều trường khứ thanh. Đọc lên nghe thấy hai đầu to chính giữ nhỏ, như lưng ong vè vẽ, ong tò vò… Do đó mà mệnh danh.
Bệnh Phong yêu là bệnh Độc Thân, bệnh Bình Đầu, Thượng Vỹ là bệnh Đôi Lứa. Còn bệnh HẠC TẤT lại là bệnh Tổ Tam Tam, vì phải có một nhóm ba câu mới có thể sanh bệnh: Bệnh sanh ra do chữ cuối của các câu lẽ trùng thanh với nhau:
Gió bấc từng cơn thổi
Từng hàng mây trắng bay
Từng cơn mưa lá đổ
Trong bóng vàng xế tây.
Đọc từ trên xuống dưới một hơi, đến chữ thứ 5 (tức chữ cuối câu 1) và chữ thứ 15 (tức chữ cuối câu 3), thì thấy lời thơ bị gãy ở giữa. Đó là do chữ THỔI và chư ĐỔ cùng một thanh (Đoản Thượng thanh) làm cho âm hưởng dồn lại gây ấn tượng hai đầu nhỏ ở giữa to như đầu gối chim hạc. Nên gọi là bệnh Hạc Tất.
Nhưng nếu chữ thứ 15, tức chữ cuối câu thứ 3, cứ giữ thanh Đoản Thượng, nhưng lựa một chữ đồng vận cùng chữ thứ 5, tức chữ cuối câu 1, thì bệnh trở thành lợi:
Gió bấc từng cơn thổi
Từng hàng mây trắng bay
Từng cơn mưa lá nổi
Trong bóng vàng xế tây.
Thổi và Nổi vần với nhau làm cho bài thơ thêm nhạc. Bài thơ đã hết bệnh mà còn trở thành một thể thơ đặc biệt: Bằng Trắc lưỡng vận thể. (6). Cho nên trong bốn bệnh vừa kể, bệnh Hạc Tất nhẹ nhất, người làm thơ nhiều khi bỏ qua nếu không muốn lợi dụng biến bệnh thành lợi. Còn ba bệnh kia muốn chữa cũng không khó: Chỉ đổi thanh này ra thanh khác, hoặc chỉ đổi đoản ra trường, trường ra đoản.
Như chữa bệnh Bình Đầu:
- Tiết đã sang đầu hạ
Lòng ngờ đương giữa thu.
- Mái tây em thẫn thờ
Thềm hoa anh ngẩn ngơ. (7)
Chữa bệnh Thượng Vỹ:
- Nhớ em đầu nhuộm trắng
Nhưng anh đành im lặng.
- Cửa ải bóng cờ bay
Chờn vờn trong gió mây (8)
Chữa bệnh Phong Yêu:
- Xuân về ngắm liễu tươi
- Hạ đến buồn hoa rụng (9) 
Lạp Mai: - Tôi có đôi điều muốn thẩm vấn về Âm, nên xin để nói sau. Bây giờ xin nói về bệnh của Vận.
- Hai bệnh của Vận là Đại Vận và Tiểu vận.
Bệnh Đại Vận do chữ thứ 2 cùng một vần với chữ cuối câu hạ vận:
Anh mời bạn đến chơi
Đông người đã mất vui
Còn bị cảnh sát phạt
Trăm năm tiếng để đời.
Cũng bị bệnh Đại Vận nếu những tiếng bằng ở trên câu không hạ vận mà cùng một vần với vận bài thơ:
Mời muốn mời bạn đến
Đừng quá số năm người
Luật Quốc gia cứng rắn
Mình không nên để người
Trong câu hạ vận mà chữ thứ 1 hoặc chữ thứ 3 cùng 1 vần với chữ cuối câu, cũng bị coi là mắc bệnh Đại Vận:
Luật quốc gia cứng rắn
Không cho đời để ngươi
Hoặc:
Luật quốc gia cứng rắn
Không cho đời để người
Càng nhiều chữ đồng vận cùng vần câu thơ thì bệnh càng nặng:
Luật đời nay dẫu gắt
Người xu thời vẫn chơi
Còn bệnh Tiểu Vận do chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong mỗi câu, nhất là câu hạ vận, cùng một vần với nhau:
Thuê thuyền xuống miền đông
Mong cho gặp mặt chồng
Miễn chữ tùng giữ vẹn
Gian khổ ngó như không.
Nói tóm lại là trong khoảng 9 chữ ở trên chữ bỏ vần của bài thơ, không được dùng những chữ đồng vận, bất kỳ vận gì. Bởi có nhiều chữ vần với nhau nghe hơi chướng tai.
Những bệnh về Thanh và Vận, một bên nhờ những dấu chuyển thanh (`’.?~), một bên nhờ khuôn âm, mà thành dễ nhận thấy. Còn về hai bệnh của Âm thì nhiều người cho là khó phân biệt. Khó phân biệt bởi trong các sách dạy làm thơ thường giảng minh về thanh vận chớ ít quyển nói về âm.
Lạp Mai: - Chính vì vấn đề đó mà khi nãy tôi yêu cầu Lão vườn nói về vận trước âm. Bây giờ mong được nghe giải thích về âm trước khi thuyết minh về bệnh.
- Chữ ÂM chúng ta nói đây nghĩa lý khác với chữ ÂM trong câu “Thanh thành văn vị chi ÂM”, khác với chữ Âm trong câu “Đồng Âm dị nghĩa”.
Cổ nhân dạy rằng: “Đạo làm văn có ba nguyên lý là Hình văn do ngũ sắc tạo nên, là Thanh văn do ngũ âm tạo nên, là Tình văn do ngũ tính tạo nên “Chữ Âm trong câu” “thanh thành văn...” Ý nghĩa giống chữ Thanh văn.
Chữ Âm trong câu “Đồng âm dị nghĩa” gồm cả ba yếu tố của tiếng: Âm Thanh Vận. Ví dụ ĐÔNG là phương đông và ĐÔNG là mùa đông, là hai tiếng của đồng âm mà dị nghĩa.
Còn chữ Âm chúng ta nói đây chỉ là một yếu tố của tiếng mà thôi.
Và cũng như Thanh, Âm chia làm bốn đại loại:
- Hầu âm, tiếng họng, (sons gutturaux)
- Thiệt âm, tiếng lưỡi, (sons lingaux)
- Xỉ âm, tiếng răng (sons dentaux)
- Thần âm, tiếng môi (sons labiaux)
Mỗi loại chia ra làm nhiều nhánh: Hầu âm thì chia làm Thâm hầu và thiển hầu; Thiệt âm chia làm Thượng Thiệt và Đầu Thiệt; Xỉ Âm chia làm bán xỉ, chính xỉ Nha; Thầm âm chia làm Trọng Thần và Khinh thần. Mỗi nhánh chia ra làm nhiều nhóc. Tính có trên vài chục âm. Chúng ta nhượng việc nghiên cứu lại cho các nhà chuyên môn về ngôn ngữ học. Khách làm thơ chỉ nên phân biệt những tiếng nào chữ nào là đồng âm với nhau để tiện việc sử dụng trong khi làm thơ mà thôi.
Phong Lâm: - Âm và Thanh khác nhau như thế nào?
- Âm là tiếng gốc, chịu ảnh hưởng nhiều ở họng thì gọi là hầu âm, chịu ảnh hưởng nhiều ở lưỡi thì gọi là thiệt âm, chịu ảnh hưởng nhiều ở răng thì gọi là xỉ âm, chịu ảnh hưởng nhiều ở môi thì gọi là thầm âm. Âm phát ra một cách bằng phẳng. Giọng của âm biến chuyển khi cao khi thấp, khi đục khi trong, thành ra 8 thanh. Tám thanh là 8 cái ngọn của âm do các dấu huyền sắc nặng hỏi ngã tạo thành.
Đạo Thành: - Phân biệt được Thanh nhờ những dấu chuyển thanh, phân biệt được vận nhờ khuôn cọng với thanh. Còn phân biệt các thứ âm thì nhờ yếu tố gì?
- Nhờ 1 hay 2 mẫu tự ơ đầu hai mẫu chữ. Ví dụ “Bà bán bột bị bắt bỏ bót”, hoặc “Chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ”, đồng âm. Để cho tiện việc kêu gọi thì dùng chữ cái khởi đầu mà đặt tên cho mỗi âm: Âm B, âm Ch, âm Đ… vân vân… (10)
Lạp Mai: - Nói về âm chừng nấy cũng tạm đủ. Xin nói về bệnh.
- Hai bệnh của Âm là Bàng Nựu và Chánh Nựu.
Bệnh Chánh Nựu mắc phải là do hai hay nhiều chữ cách nhau mà đồng âm với nhau:
Phạm pháp thì bị phạt
Đem tiền đến chực lo
Rủi lo giám sát biết
Ai dám dạy giùm cho
Trong 1 câu 5 chữ mà đến 2 hay 3 tiếng đồng âm thì nghe lắp bắp quá!  Nhưng nếu 2 chữ đồng âm đứng sít nhau thì không bị bệnh:
Phạm pháp thì bị tù
Đừng thanh mình vụng tu
Quan tòa sáng suốt lắm
Lo lót chết bỏ bu
Chánh Nựu thì bệnh nằm trong từng câu. Còn Bàng Nựu lại phải do 2 hay nhiều câu “lục đục” với nhau mới sanh ra bệnh, và bệnh nằm ở chữ cuối mỗi câu:
Ai nấy đều người phàm
Tội lỗi sao khỏi phạm
Bắt nhốt vào nhà pha
Bị đọa đày nghĩ thảm.
Phàm phạm pha nối tiếp nhau nghe như nói cà lăm. Không cần đến ba chữ đồng âm như thế, chỉ hai chữ cũng đủ khó nghe:
Ai nấy đều người phàm
Tội lỗi sao khỏi phạm
Bắt nhốt vào nhà lao
Bị đày đọa nghĩ thảm.
Hoặc đổi chữ PHÀM trên câu 1 ra chữ TRẦN và để y chữ PHA ở câu thứ 3, thì đọc nghe cũng thấp lặp bặp.
Nếu như nghiêm khắc thì bài sau đây cũng bị bệnh Bàng Nựu:
Nghe đau tìm đến thăm
Đều những bạn tình thâm
Ai nấy mặt tươi tỉnh
Người bệnh được yên tâm.
Nói nghiêm khắc là nói về câu 1 và 2, chớ câu 3 và 4 thì bị bệnh hẳn hoi. (Tỉnh, Tâm)
Phong Lâm:
- Nếu thế thì câu này cũng bệnh sao:
Hiu hắt gió chiều đông
Mảnh tơi thân mục đồng.
- Câu  “Nghe đau tìm đến thăm.. tình thâm”, chỉ là bệnh sổ mũi. Có thể khoan thứ  cho là hiệp thức, vì nhờ vần với nhau. Còn câu “… Chiều đông… Mục đồng” thì không bệnh bởi nhờ sự khác thanh đã hóa giải được chất độc của sự đồng âm. Do đó câu “... đông… đông”, nghe êm ái dễ ưa.
(1 là trường bình thanh, 1 là đoản bình thanh)
Mà câu thơ nào nghe thuận tai đọc sướng miệng là câu thơ không bệnh.
Đạo Thành:
- Tùy âm dị thẩm âm nan
Phong Lâm:
- Bởi vậy trên đời không có nhiều Chu Lang, và Chung Tử Kỳ chết thì Bá Nha đập cầm.
Lạp Mai:
- Tám bệnh Thẩm Ước tìm ra tôi thấy cũng không đến nỗi khó nhớ và khó tránh. Những bệnh ấy quả làm hại âm điệu câu thơ không nhiều thì ít. Nếu mình muốn đi đến chỗ tinh diệu của âm thanh thì dùng công phu tập luyện, bằng không thì thôi chớ sao lại nặng lời cùng Thẩm Ước?
- Cụ Ngô Đức Kế và cụ Huỳnh Thúc Kháng nặng lời cùng cụ Nguyễn Du, tác giả Đoạn Trường Tân Thanh, nào phải ghét cụ Nguyễn Du hay ghét Đoạn Trường Tân Thanh, mà chính ghét nhà văn Phạm Quỳnh đã tán tụng Đoạn Trường Tân Thanh quá đáng gây thêm sức mạnh cho phong trào lãng mạn và phát sinh, trong khi các cụ đương ra công chấn khởi tinh thần ái quốc của nhân dân Việt Nam. Đối với Thẩm Ước cũng thế, những thi nhân văn sĩ công kích thuyết Tứ Thanh Bát Bệnh và buộc tội kẻ đề xướng, là cốt để ngăn chận bớt lòng sùng kính thái quá luật Thanh Bệnh, coi là giáo điều bất khả xâm phạm, dồn cả sức lực bình sinh vào hình văn thinh văn mà xao lảng tình văn, nghĩa là chỉ lo trau lời cho đẹp chuốt giọng cho kêu, còn tánh tình tư tưởng thì trống rổng.
Trong việc văn chương cũng như  việc trần thế, hễ cái gì thái quá thì cũng đều gây phản ứng.
Còn một hạng người nữa công kích Thẩm Ước là vì không đủ tài hoặc lười biếng không vượt qua khỏi những lỗi mà Thẩm Ước đã vạch cho nhiều khách yêu văn chương thấy rõ. Ví dụ: Ở Bình Định có một số người đọc sai Chính tả. Như Quả Xoài thì nói là Trái Xoài, Đi Về thì nói là Đi Dìa… Khuyên họ sửa lại cho đúng, họ đáp: “Nói sao hiểu được thì thôi”. Nếu khuyên nữa thì họ đổ khùng mắng: “mấy nghìn năm nay ông bà nói thế đã hại gì mà bây giờ bắt buộc phải nắn lưỡi uốn mồm cho mệt”.
Để kết luận lão lặp lại những ý lão đã trình bày ở đoạn trước:
- Người ta chỉ bệnh cho mình thấy, mình tránh được càng tốt, bằng không tránh được hoặc không cần tránh, không muốn tránh, mà tình ý diễn tả được đầy đủ, câu thơ nghe không đến nỗi trúc trắc ngượng ngập, thì cũng không hề gì. Dùng lời để đạt ý. Lời dù đẹp dù êm tới đâu mà không đạt được ý hoặc làm hại đến ý, thì đều không ích gì cho người làm thơ cũng không  lợi gì cho làng Thơ. Nhưng một người dù tài giỏi đến đâu, dù dung mạo có đẹp đẽ bao nhiêu mà bị bệnh nội thương hay ngoại thương khá nặng thì thiên hạ cũng ít muốn giao du. Thơ cũng thế.
Chú thích:
(1) Câu luận bài Vịnh Các Nở Cuối Năm của Lạp Mai.
(2) Lời của Chu Xả đáp vua Lương Vũ Đế khi hỏi về tứ thanh.
(3) Thằng đui vịnh mặt trời.
(4) Trò hề thanh điệu
(5) Kim nhân cũng như cổ nhân, nhiều người rất sành thanh bệnh, song thỉnh thoảng cũng vẫn “vi phạm”, muốn tránh nhưng không tránh được, nên phải hy sinh thanh điệu cho tánh tình.
(6) (7) (8) (9) ở đây chỉ đưa ví dụ ra chứng minh cho sự xuôi tai và không xuôi tai mà thôi, chớ không chú trọng đến nội dung.
Trong 8 bệnh của Thầm Ước, 4 bệnh Bình Đầu, Thượng Vỹ, Phong yêu, Hạc Tất, thuộc về Thanh. Còn 4 bệnh nữa thì hai bệnh thuộc về Âm và hai thuộc về Vận.
(10) Nói một cách tóm tắt: Phân biệt Thanh nhờ dấu `’.? ~ phân biệt âm nhờ vần xuôi, phân biệt vận nhờ vần ngược.
Đôi nét cương yếu về thi học [9]
9.
Vừa vào khỏi ngõ Đạo Thành đã la lớn:
- Lão Vườn không “tận kỷ”. Tại sao hôm trước chỉ dùng thơ Ngũ Ngôn để chỉ bệnh chớ không dùng thơ Thất Ngôn?
Biết ông bạn mắng khéo là “bất trung” vì không hết lòng làm cho người thông đạt cũng như mình, lão bèn mượn chữ “thứ” mà trả đũa:
- “Kỷ sở bất dục” mà lại đem “thi ư nhân”, Hành vi ấy có hợp với “Đức Khổng Tử nói rằng” chăng vậy? (1)
- Tôi vu oan cho Lão Vườn sao?
- Chính thế. Vì Thẩm Ước đã rút tám bệnh kia ở trong thơ Ngũ Ngôn ra, mà buộc lão dùng thơ Thất Ngôn để chứng minh thì xin ông bạn xét lại xem có “thượng tôn luật pháp” chăng?
- Chẳng lẽ thời Trầm Ước không có thơ Thất Ngôn ư?
Nhận thấy Đạo Thành cũng như một số thân hữu đến thăm Vườn, ít đọc văn học sử Trung Hoa, nên không biết đến lịch trình tiến triển của thơ Trung Quốc, lão phải lặp lại những nét đại cương mà trước đây lão đã trình bày: (2)
- Từ đời Hán trở về trước thơ Tứ Ngôn thạnh. Đời Ngụy và đời Lục Triều thơ Ngũ Ngôn thạnh, Thất Ngôn chỉ dùng làm những bài Nhạc Phủ. Qua đời Đường, thi nhân mới dựa theo luật Tứ Thanh Bát Bệnh của Trầm Ước điển chế ra luật thi. Từ đời Đường trở về sau, thơ Thất Ngôn thịnh hàng hơn thơ Ngũ Ngôn.
- Như vậy Bát Bệnh có áp dụng cho thơ Thất Ngôn chăng?
- Có nhưng vị trí và bệnh lý phần nhiều bị thay đổi. Bệnh BÌNH ĐẦUTHƯỢNG VỸ trong thất ngôn không còn là bệnh của từng cặp sanh ra, như trong thơ Ngũ Ngôn.
BÌNH ĐẦU trong Thất Ngôn sanh ra do hai chữ khởi đầu của Khai Thừa, hoặc của Thừa Chuyển, hoặc của Chuyển Hiệp, đồng một loại từ với nhau. (3)
Ví dụ bài ĐI THI TỰ VỊNH của Nguyễn Công Trứ:
Đi không chẳng lẽ lại về không
Gánh nợ cầm thư phải trả xong
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong lúc trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.
Bốn câu giữa bị bệnh Bình Đầu, vì những chữ Rắp Mượn, Trót Đem, Đã Mang, Phải Có, đều là những chữ đồng một loại với nhau, hoặc ở bốn câu đầu, hoặc ở 4 câu giữa, hoặc ở 4 câu chót. Ví dụ bài TÌNH BIỂN ÉN của Định Phong:
Mối tình biển én dệt văn chương (4)
Nở nụ cười xuân giấc hải đường
Điềm ứng thăng bình non vẳng phụng
Tranh vờn yên cảnh bút sanh hương
Mơ duyên Đằng các buồm theo mộng (5)
Dồi gót Lăng ba ráng điểm hường (6)
Ngày mới dám quên năm tháng cũ
Ô y đầu ngõ bóng tà dương. (7) 
Những chữ non vẳng phụng, bút sanh hương, buồm theo mộng, ráng điểm hường, làm cho khúc đuôi của hai liên đọc lên nghe bằng phẳng, như em bé vừa ngủ gật vừa học bài.
Bệnh Thượng Vỹ, căn nguyên nằm tại chữ thứ 5. nếu chữ thứ 5 khác loại thì dù chữ thứ 6 thứ 7 có đồng loại cũng coi là hợp thức, như 4 câu giữa bài Thăng Long Thánh Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thào
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương…
Ứng chứng của bệnh Bình Đầu và Thượng Vỹ là thế. Song chớ thấy hai hay ba chữ đầu, một hai ba chữ cuối của bốn câu liên tiếp cùng một từ loại, đã vội cho là một bài thơ bị bệnh. Bởi nhiều khi tài hòa hài của tác giả làm tiêu hẳn bệnh căn. Lão xin dẫn một bài thơ nổi danh của Thi hào THÁI THUẬN đời Lê:
CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI
Nam lai trình tận bắc lai trình
Nam bắc na kham trướng biệt tình
Vạn lý Hán thiên ba hữu lệ
Bách niên Hồ địa mã vô thanh
Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão
Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh
Phân phú quân vương an chẩm thưởng
Sầu thành nhất phiến thị trường thành.
Tạm dịch:
Bắc trình dõi bước dứt Nam trình
Nam Bắc đường chia mối thảm đoanh
Trời Hán muôn dòng hoa xót ngọc
Đất Hồ không tiếng ngựa reo binh
Ao cài xuân muộn bơ phờ dáng
Đàn gảy trăng khuya não nuột tình
Nhắn nhủ cung Rồng yên giấc ngự
Sầu thành một bức vững trường thành. 
Bài Hán Văn, cứ trên giấy trắng mực đen mà xét thì bị bệnh Bình Đầu rất nặng, vì đoạn đầu của Hạm liên và Cảnh liên chẳng những có 2 chữ đồng loại mà có đến 4:
Vạn lý Hán thiên...
Bách niên Hồ địa...
Nhất đoàn la ỷ...
Kỷ khúc tỳ bà...
Nhưng từ 500 năm nay, không thấy ai bắt bẻ.
- Tại sao vậy?
- Tại vì trong Hạm liên và Cảnh liên, tự loại tuy trùng, song tiết điệu lại khác. Theo ý thơ mạch văn, câu hạm nghỉ hơi ở chữ thứ 2, câu cảnh nghỉ hơi ở chữ thứ 4:
Vạn lý/ hán thiên ba hữu lệ
Bách niên/ Hồ địa mã vô thanh
Nhất đoàn la ỷ/ thương xuân lão,
Kỷ khúc tỳ bà/ tố nguyệt minh.
Cặp nấy có thể ngắt làm 3 đoạn, song không êm bằng ngắt làm hai như thế. Về tiết tấu của thơ, có dịp sẽ nói rõ.
Vì tiết tấu thay đổi nên âm điệu được điều hòa, làm tan biến không khí bằng phẳng của những chữ đồng loại đứng ngay hàng nhau.
Đối với bệnh Thượng Vỹ cũng thế. Âm điệu được hài mỹ thì bệnh tự nhiên bị tiêu trừ. Ví dụ bài GIÓ KHUYA trong Mùa Cổ Điển:
Ngọn gió muôn xa đưa đẩy vào
Nửa phòng mây rộng một trăng cao
Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu
Hương chập chờn bay khóm trúc đào
Vàng ngọc nhảy reo câu khiển hứng
Non sông huyền hoặc sắc chiêm bao
Lòng chan chứa biết bao cay đắng
Tan sạch còn lưu chút ngọt ngào.
Rừng Dương Liễu, Khóm Trúc Đào, Câu Khiển Hứng, Sắc Chiêm Bao rõ ràng là triệu chứng của bệnh. Nhưng nhờ chỗ đậu (césure) của Hạm Liên đã không trùng (Hạm đậu ở chữ 4, Cảnh đậu ở chữ 2) mà sóng nhạc của hai câu lại khác hẳn (nhạc của Hạm Liên thì dồn dập, nhạc của Cảnh Liên uyển chuyển), thành ra “chất độc” của sự trùng tự loại tự nhiên bị "hóa giải” hoàn toàn.
Cũng xin nói thêm một điểm nữa về bệnh Thượng Vỹ:
Bệnh Thượng Vỹ gốc ở chữ thứ 5 như trước đây đã nói. Chữ thứ 5 của cặp trên không đồng loại cùng chữ thứ 5 ở cặp dưới thì dù chữ thứ 6 thứ 7 có cùng một loại cũng “thông qua”. Nhưng nếu chữ 5 năm của cặp trên cặp dưới mà đồng loại thì dù chữ thứ 6 thứ 7 có khác loại cũng bị coi là bị bệnh, vì đọc nghe vẫn không êm dịu thảnh thót: 
VIẾNG LĂNG MAI ANH HÙNG
Lưng ngựa ba đông dặm chiến trường
Hoành Sơn đá chất nghĩa Cần Vương
Mây tuôn Linh Đổng hồn oanh liệt
Sóng dội Côn Giang chí quật cường
Vòi vọi hiếu trung bia chuốt ngọc
Làu làu thư kiếm sử hồng hương (7)
Trăng lên ba biểu chờ tin hạc
Một nén tinh thành gió bốn phương
Bốn câu đầu khỏi bị bệnh Thượng Vỹ là nhờ điệu câu thứ 2. Bốn câu giữa, dù chữ thứ 6 thứ 7 không đồng loại, song vì chữ thứ 5 đều là danh tự đứng hàng dọc thẳng băng như lính tập hợp nơi vận động trường, lại thêm liên nào cũng nghỉ hơi ở chữ thứ 4, cho nên điệu thơ bằng phẳng (mo-notone) như điệu đàn cò kéo đi kéo lại hoài.
Bài Viếng Lăng Mai Anh Hùng chẳng những bị bệnh Thượng Vỹ mà còn bị bệnh HẠC TẤT.
Bệnh Hạc Tất trong Thất Ngôn nằm ở chữ thứ 4 và thứ 7 trong Ngũ Ngôn nằm ở chữ thứ 2 và thứ 5.
Chữ thứ 4 và thứ 7 Thất Ngôn chữ thứ 2 và thứ 5 của Ngũ Ngôn được cùng một thanh và nhất là chữ Trường Bình. Nhớ câu năm nọ như ngày nọ nghĩ đến bao giờ khóc bấy giờ.
- Hiên quay vào núi mây giăng gấm
Cửa sát bên đình gió thoảng trầm
- Rừng um cổ thụ xôn xao quạ
Cỏ ngập hoang thôn đủng đỉnh nai
Bệnh Phong Yêu ở Ngũ Ngôn không có. Ơ Thất Ngôn, bệnh nằm ở chữ thứ 2 và thứ 7,
- Tiếng quạ bên song nghe đã rộn
Mặt trời gác núi ngắm thêm buồn
- Lạnh lẽo rêu xanh in dấu cũ.
Bơ vơ én tía liệng hiên không
Phong Yêu cũng như Hạc Tấc bệnh nặng nhất ở những câu hạ vần:
Câu thì thẳng đơ như khúc gỗ. Câu thì dùn như  giây đàn lỏng trục. Nghe không sướng tai.
Nhưng không phải luôn luôn là bệnh mỗi khi chữ thứ 4 điệp thanh cùng chữ thứ 7 (Hạc Tấc):
- Bụi nhờn mặt trắng da đen sạm
Tuyết nhuộm đầu xanh tóc bạc phơ
Tản Đà
- Khói lồng sắc đá non phơi gấm
Chùa nức hơi hương biển kéo mây
Bà Bang Nhãn
Những câu này âm điệu hòa hảo. Không bệnh là nhờ biết cách hòa hài.
Câu của Tản Đà vế trên không bệnh. Vế dưới nhờ chữ thứ 3 là tiếng trường bình làm cho chứng bệnh tiêu tan.
Câu của bà Bang Nhãn cả hai vế đều mang trạng thái của bệnh. Song vế trên nhờ nhiều tiếng đoản thượng nâng điệu thơ lên cao khiến bệnh không cần chữa mà tự nhiên khỏi. Ba chữ KHÓI ĐÁ GẤM đứng sừng sững như ngọn núi cao vút trong dãy Thất Sơn mấp mô lên xuống. Chữ Sắc đứng kề chữ Đá lại còn giúp cho “ngọn núi trung ương” thêm nguy nga đồ sộ. Câu thơ cả hình lẫn thanh điệu xông xảo. Nghệ thuật thật là cao! Còn vế dưới nhờ chữ thứ nhất là tiếng Trường Bình vừa giải trừ được bệnh, vừa giữ cho điệu thơ cao bằng điệu vế trước.
Vế trước có thể gọi là độc đáo. Vế sau Bà Bang Nhãn cũng như Tản Đà tiên sinh, đã học phương chữa bệnh của cổ nhân:
Thanh phong giang thượng thu phàm viễn
Bạch Đế thành biên cổ mộc sơ
Cao Thích
Tạm dịch:
Buồm thu nương ngọn thanh phong tếch
Cây cỗi ven thành Bạch Đế sưa.
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc
Hình thế không lưu bách chiến danh
Nguyễn Du
Tạm dịch:
Nước vững nghìn thu đời chửa thấy
Thế đương trăm trận tiếng còn lưu.
Đạo Thành:
- Như thế bệnh Phong yêu Hạc Tấc đều dễ trị.
- Biết cách trị thì không khó. Bằng không thì chẳng những không khỏi mà còn bị trúng thuốc. Bệnh nào cũng thế chớ chẳng riêng gì bệnh Phong Yêu.
- Còn bệnh Bàng Nựu và Chánh Nựu?
- Hai bệnh này trong Thất Ngôn cũng không khác Ngũ Ngôn:
Trưa mai trở lại trường Hưng Đạo
Lấy hết bài hay để học thêm
Đó là Chánh Nựu
Trong hai câu này mỗi câu đến 3 chữ điệp âm: Bệnh khá nặng song chỉ có hai chữ điệp âm ở cách nhau, nhất là ở vào những chữ nhì tứ hay tứ lực, thì bệnh cũng phải cần chữa:
Cảm thương Hòa Thượng chùa Long Khánh
Vừa đến Nha Trang bị trúng phong.
Nghe lắp bắp lặp bặp như tiếng bánh xe gỗ chạy trên đường có nhiều đá trái nằm lăn lóc.
Bệnh Bàng Nựu ở Thất Ngôn ít ai để ý vì chữ điệp âm cách nhau có hơi xa:
Bến xưa người cũ không qua lại
Hoa vút theo xuân nở lạnh lùng.
Khi hai tiếng đồng âm mà vần với nhau thì được khoan thứ, cho là hợp thức:
Trách cái tằm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tương tư.
Tản Đà
Và không còn là bệnh, khi hai chữ đồng âm vần với nhau mà một thuộc trường thanh, một thuộc đoản thanh:
Đêm suông suông lắm cái suông suồng
Suông bạn suông tình rượu cũng suông.
Bệnh Bàng Nựu Chánh Nựu không nặng bằng Tiểu Vận Đại Vận.
Đại Vận dễ thấy vì nằm vào chỗ yếu điểm của thơ: Vần. Còn Tiểu Vận dễ mắc vì ít ai để ý bởi ảnh hưởng đối với âm không lớn lao bằng Đại Vận.
TIỂU VẬN trong Ngũ ngôn nằm ở chữ thứ 2 và thứ 4. Trong Thất Ngôn, bệnh nằm ở chữ thứ 2 và thứ 6 hoặc chữ thứ 7.
Nằm trong câu không gieo vần, bệnh không quan ngại lắm:
- Cảnh cũ nhiều phen thay chủ mới
Đường xa kinh nỗi suốt đêm thâu
Tản Đà
- Quê người đành gởi thân trăm tuổi
Cuộc thế mong gì nợ bốn phương.
Thượng Tân Thị
- Tấm thân vì nước gian nan mượt
Gánh nợ làm trai nặng nhọc đành.
Khuyết danh
Nhưng bệnh nằm trong câu gieo vần thì nên “mời bác sĩ”.
- Khói tỏa hồn hoa hoa lẩn quẩn
Mây lồng bóng nguyệt nguyệt long lanh (8)
Câu này nhờ chữ hoa chữ nguyệt lặp đi lặp lại gây âm hưởng vui tai làm khuất bớt bệnh trạng. Có thể bỏ qua được. Đến như câu sau đây, thì không nên sợ “tốn công tốn của”:
- Gió lọt song khuya hàng sáp chã
Mưa dầm đêm quạnh ruột tằm khô
Lại càng phải lo chữa khi cả hai vế tiếp nhau đều có bệnh:
- Mùi hương chợt thoảng trong sương sớm
Nhớ hẹn năm xưa luống thẹn thùng.
Cũng thuộc về bệnh tiểu vận, hai hay nhiều chữ đồng vận nằm gần nhau, mặc dù ở ngoài nơi cấm kỵ:
- Trời tây ác rũ mây về núi
Nương quạnh hương theo gió lọt rèm.
- Lòng thơ những lúc mơ người cũ
Mực dẫn tràn hương bút vẫn khô!
- Tuổi già khó nỗi đền ơn nước
Lệ thảm tuôn khi cảm việc đời
- Lũy xưa rậm rạp mây xây núi (9)
Phố cổ đìu hiu lá đổ mưa.
Các câu bị bệnh tiểu vận đọc lên nghe mường tượng như tiếng nhái của lũ trẻ tinh nghịch. Người đã quen cùng những giọng thanh tao lịch sự không mấy vui tai.
ĐẠI VẬN, bệnh nặng nhất khi nằm ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7 câu gieo vần, tức là chữ thứ 4 đồng vận cùng vần câu thơ:
- Mưa sa nước chảy lên cao ở
Lửa đỏ dầu sôi nhảy tới chơi
Tú Quỳ
- Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm
Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe
Định Phong
Chữ thứ hai mà đồng vận cùng vần câu thơ cũng nên tránh vì thanh vận bị giảm:
- Gầy gọ gió sương tùng thế miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Hương Giang
(Quách Tấn)
Đó là bệnh tiểu vận không nặng, song Chu Lang không vừa lòng. Nhưng vì ý nên có khi đành phụ lòng tri âm.
Nói tóm lại là tám bệnh của Trầm Ước tìm ra trong thơ Ngũ Ngôn vẫn có trong thơ Thất Ngôn luật thi, mặc dù Luật đã được điển chế. Nhưng sang Thất Ngôn hai bệnh Bình Đầu và Thượng Vỹ không còn thuộc về Thanh mà trở thành bệnh của Tự loại không khéo dùng ở câu đầu và câu thơ. Thành ra âm, thanh, vận chỉ còn mỗi thứ hai bệnh.
Đạo Thành:
- Ngoài 8 bệnh của Trầm Ước, lão vườn có thấy bệnh nào nữa chăng?
- Những thi nhân học giả sanh sau Trầm Ước và sanh trước kẻ hậu sanh này, còn tìm thấy đến vài chục bệnh nữa. Nhưng đối với tất cả mọi bệnh, hễ nội công ngoại kỷ mà luyện cho cao độ, thì không cần đến lương y. Tuy thế người mới bước vào làng thơ cũng nên biết mấy bệnh thông thường này để tránh: Khổ độc, điệp âm…
Bệnh Khổ độc nhiều người thường mắc lắm, vì nằm trong số chữ bất luật của Luật thơ. Ở Ngũ ngôn thì bệnh nằm ở chữ thứ nhất. Ở Thất Ngôn bệnh lại nằm ở chữ thứ 3. Chữ thứ nhất của Ngũ ngôn, chữ thứ 3 của Thất Ngôn, tiếng đáng Trắc đổi ra bằng thì được, song tiếng đáng bằng mà đổi ra trắc thì sanh bệnh ngay:
VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Một dạ em cùng chị
Hai vai nước với nhà
Nêu cao cờ độc lập
Muôn thuở đức hai bà
(Khuyết danh)
Đó là bài Ngũ Ngôn không bệnh. Nếu chúng ta thử đổi bằng ra trắc ở những chữ thứ nhất của các câu thì liền thấy khó đọc:
Một dạ em cùng chị
Nặng vai nước với nhà
Dựng cao cờ độc lập
Vạn thuở tiếng hai bà.
Những người không rành thanh luật, xem qua hai bài cũng nhận được chỗ hơn kém.
Còn Thất Ngôn thì như câu luận trong bài Chê Gái Lấy Chồng Già của cụ Nguyễn Đức Nhuận:
Liên Kiều thước bắt so le nhịp
Sơn dác ngựa đua hụt chạt roi.
Ôn Đình Quân đời Đường có một câu thơ được truyền tụng nhưng vì đọc trại thanh ở chữ thứ 3 của một vế mà thành hư câu thơ:
Dạ văn mãnh vũ phan ba tận
Hàn luyến trọng khâm giác mộng da.
Câu đó phải đọc:
Dạ văn mãnh vũ phan ba tận
Hàn luyến Trùng khâm giác mộng da.
TRỌNGTRÙNG là một chữ mà đọc thành hai tiếng, tùy trường hợp mà thay đổi bằng trắc. Người không rành âm điệu không biết tùy nghi, làm hỏng câu giai tác.
Đạo Thành:
- Lão Vườn thử dịch câu ấy ra Quốc Âm.
- Dịch là diệt. Dịch là phản. Dù có gắng đến đâu cũng không lột được cái hay của nguyên tác:
Đêm gieo mưa nắng hoa tàn tạ
Lạnh quyến mền đôi mộng dập dồn
- Chữ TRÙNG thay chữ TRỌNG làm cho câu thơ trúc trắc trở thành nhịp nhàng. Cổ Nhân thường nói “Một chữ làm cho câu thơ đương chết thành sống, một chữ làm cho câu thơ đương sống thành chết” là vậy đó.
Đạo Thành:
- Nhưng tại sao chữ thứ 3 cũng là tiếng trắc mà câu này của Lão vườn nghe lại êm tai:
Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đó
Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu?
-  Vế thứ nhất bị bệnh, nhưng thứ nhất nhờ bệnh nằm ở vế không gieo vần, thứ hai nhờ chữ thứ nhất là chữ trường bình làm giảm bớt sức nặng và chát của tiếng trắc ở chữ thứ 3. Do đó âm điệu câu thơ được điều hòa, giọng nghe êm chớ không xẵng như đọc câu: Réo rắt tiếng ve còn vẳng đó
Còn vế dưới không bệnh
Câu của cụ Nguyễn Đức Nhuận, theo luật là phải:
“Trắc trắc Bình bình trắc trắc vần”. Tức là chữ thứ 3 phải bình. Thế mà cụ lại hạ tiếng trắc là chữ NGỰA cho nên mới khó đọc. Còn câu của lão, theo luật đúng như “Bao công xửa án” kia mà.
Đạo Thành:
- Rõ là “Tự kỷ văn chương”!
- Không phải vậy đâu. Câu đó theo luật “Bình bình trắc trắc trắc bình vần”. Chữ thứ nhất đáng bình mà lão để trắc, không phạm luật. Còn chữ thứ 3 là chữ trắc của luật định, lão cũng để trắc, thì bắt tội lão nỗi gì?
Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đó
Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu. (10)
Thật không bệnh. Vế trên có bệnh nhờ tiếng trường bình là chữ DÌU hóa giải. Còn vế dưới tuy không bệnh, nhưng nếu chữ thứ nhất và thứ nhì không phải là trường thanh (vội: trường khứ, Vàng: tr. Bình, mà là đoản thanh, thì âm điệu cũng không được hài mỹ. Ví dụ câu trạng bài Về Thăm Nhà Cảm tác của lão:
Trống trải ba gian nhà nhện choáng
Ngửa nghiêng bốn mặt dậu bìm leo (11)
Luật bằng trắc câu này cũng in câu trên, và vế thứ hai cũng không có bệnh. Song vì hai chữ Ngửa Nghiêng, một là đoản Thương, một là đoản bình, khiến câu thơ kém nhạc. Nhạc thơ sẽ trở nên êm ái nếu một trong hai chữ đó đổi ra trường thanh.
Đạo Thành:
- Vậy sao lão vườn không đổi
- Chưa tìm ra chữ thích đáng.
- Đã gọi là Bất Luận, mà vẫn không được hoàn toàn tự do sắp đặt bằng trắc!
- Việc thơ cũng như việc đời, có nhiều việc hợp pháp mà không hợp lý, cũng có việc hợp lý mà không hợp pháp. Cho nên Tây triết có câu “Không có quy tắc nào là không có ngoại lệ” (Il n’y a pas de règle sans exception confirme la règle), vì nếu không có qui tắc thì làm gì có ngoại lệ. Bởi vậy áp dụng quy tắc không nên áp dụng một cách máy móc.
- Hãy nói về bệnh điệp âm.
- Trong một câu thơ có nhiều chữ cùng một âm, thì đọc lên nghe lắp bắp (cacophonie), nhất là ba tiếng điệp âm đứng sít nhau hoặc đứng trong một tiết tấu:
- Trót đã trổ trời đi đến chị
Đành cam đục đất cố cầu anh. (12)
- Mưa tan tác liễu trôi ngần mặt
Móc võ vàng ve tạt bức rèm
(Cung Oán Thi)
- Trách cái tằm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tương tư
(Tản Đà)
- Đi không cũng khó đành khiên tạm
Khiên tạm khuôn tròn thật khó khiên
Bệnh Điệp Âm tương tợ bệnh Bàng Nựu, cho nên có thể coi như một cho dễ nhớ.
Để hình dung một ý trừu tượng, để minh thị một dáng dấp tự nhiên, để diễn tả một nhịp điệu…, thi nhân thường lối điệp âm; như câu thơ của vua Tự Đức:
Đua chen trước mắt mây mờ mịt, (13)
Đày đọa sau thân núi nặng nề
“Mây Mờ Mịt” vừa tả cảnh đen tối vừa gợi ý rối răm. “Núi Nặng Nề” vừa diễn ý đè nén, vừa vẽ cảnh chập chồng.
Tản Đà tiên sinh cố ý dùng ba chữ “bối rối mối” để hình dung vẻ bối rối của lòng tương tư. Song lão nhận thấy không đạt được ý, nên ghi vào sổ “phong thần” của “viện chữa bệnh thơ”.
Cụ Nguyễn Khoa Vi lại chế bệnh điệp âm thành thể thơ Điệp Âm:
Chạy chữa chai chân chẳng chịu chừa
Chín chìu chua chát chán chê chưa
Cha chài chú chớp chơi chung chạ
Chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ.
Bệnh thơ ví cũng như những cái mắt cái u trên khúc gỗ và người làm thơ giỏi ví cũng như anh thợ chạm khéo. Nhiều khi nhân chỗ tỳ vết của gỗ mà nảy ra tứ, biến bệnh thành lợi. Những cái mắt, những cục u kia được chạm trổ thành những đám mây vương nơi cách chim hạc, hoặc một hòn minh châu làm nổi bật vẻ tranh đấu của hai con rồng.
Nhưng đó là những tiểu xảo. Đôi khi dùng chơi cho vui chớ không nên lạm dụng.
Còn một bệnh nữa, người làm thơ vô ý cũng thường hay mắc phải. Đó là bệnh Điệp Thanh.
Một câu thơ dùng nhiều đoản thanh quá nhất là đoản bình thanh thì câu thơ nghe ngang chạng, tục gọi là “Đục”. Còn nếu dùng nhiều trường thanh quá, nhất là trường bình thanh thì câu thơ nghe chìm lỉm như tiếng nói của người mắc bệnh sốt rét kinh niên. Cũng có thể nói là một bên quá thẳng, một bên quá dùn, nghe không thích thú:
Mở ngắm tranh xưa thôn vẫn đó
Về tìm trường cũ bạn còn đâu
Vế trên chỉ có một tiếng trường thượng (Vẫn)
Vế dưới chỉ có một tiếng đoản bình (Đâu)
Điệu thơ một bên quá cao, một bên quá thấp.
Bến chiều lạnh lẽo thuyền về chậm
Ngõ vắng lao xao sóc nhảy mau.
Vế trên chỉ có một tiếng đoản khứ (Bến)
Vế dưới chỉ có một tiếng trường khứ (Ngõ)
Thành ra điệu thơ cả hai vế đều không điều hòa.
Về Trường Và Đoản, ở các thanh Thượng, Khứ, Nhập, không quan trọng bằng ở thanh Bình, Trường bình thường làm cho câu thơ mềm yếu, như những câu thượng dẫn. Nhưng lại thường cứu được câu thơ khỏi bệnh.
Ví dụ câu “Mở ngắm tranh xưa thôn vẫn đó”, đoản thanh chiếm hết sáu chữ. Nhưng xét cho kỹ, câu thơ bị “đực” là do nhiều đoản bình thanh. Nếu chúng ta đổi một tiếng đoản bình ra trường bình, hay một đoản thanh nào khác ra trường bình, thì điệu thơ được điều hòa ngay:
- Mở bức đồ xưa thôn vẫn đó,
- Nhìn bức tranh xưa thôn vẫn đó.
Còn trong những câu nhiều trường thanh quá thì bớt đi một vài tiếng trường bình câu thơ trở nên cân cái:
- Về nơi trường cũ bạn còn đâu
- Tìm về chốn cũ bạn còn đâu.
Vì vậy về bệnh Điệp Thanh, khách thơ chú trọng đến Bình Thanh hơn các thanh khác.
Đạo Thành: - Trước kia tôi lầm tưởng Thanh cũng như Âm, Âm cũng như Thanh. Nay mới rõ là có chỗ dị đồng. Và trước khi biết rõ bát bệnh của Trầm Ước, tôi đã từng nghe nói đến bệnh Điệp Chưởng và bệnh Điệp Sàng Đá Ốc. Nhân nghe mấy tiếng Điệp Âm và Điệp Thanh, tôi chợt nhớ đến hai bệnh ấy. Và biết rằng cũng như Thanh và Âm, hai bệnh ấy có chỗ khác biệt nhau chớ không phải hai lời nói một ý nghĩa. Vậy mong Lão Vườn chỉ điểm.
- Hai bên đều nói về sự trùng ý. Song Điệp Sàng Đá Ốc là bệnh trùng ý của toàn chương hay toàn thiên, ý trùng điệp nhau như giường chồng lên nhau, nhà gác lên nhau. Còn Điệp Chưởng là bệnh trùng ý của hai vế trong một liên, hoặc của hai liên kế cận, như hai bàn tay đấu chưởng.
- Xin cho vài bài làm mẫu.
- Nhớ sao nổi những thứ thơ dở! Nhưng cũng may lúc nhỏ lão thuộc được bài thơ PHÁO TRE của một vị tiền bối tục gọi cụ Hương Kiểu ở thôn Nhơn Thuận, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định. Lời văn đẹp, ý thơ cũng dễ ưa, song hạm liên và cảnh liên đều bị bệnh Điệp Chưởng. Tác giả không tự biết mà phần đông độc giả cũng không ai biết. Mãi đến khi học được chút đỉnh Thi Pháp lão mới biết là bài thơ có bệnh. Không ngờ nay có dịp dùng đến, mới biết là “tiền duyên”:
Đông tàn xuân đã tới đây be
Bốn phía rền vang nổ pháo tre
Mắn tiếng giật mình loài quỷ xó
Nghe hơi mất vía lũ ma hè
Trêu người trướng gấm kinh hồn điệp
Ghẹo kẻ màn loan tỉnh giấc hòe
Trừ cựu mượn chàng vang một tiếng
Mừng xuân muôn cửa chán tai nghe.
Đạo Thành: - Những bệnh lão vườn nói trước đây là những bệnh Ngoại Thương. Hai bệnh tôi nêu ra đó là hai bệnh Nội Thương. Nội cũng như Ngoại chắc còn nhiều lắm. Nhưng thôi, tôi không nỡ biến Vườn Hoa Thơ của lão thành lớp giảng “Thực vật học”, hay Vườn thí nghiệm của Sở Canh Nông, và biến Lão Vườn thành ông giảng viên về các bệnh của thảo mộc.
Hầu mong bổ sung cho những lời bàn của chúng ta nãy giờ lão xin thêm: Muốn cho âm điệu được hài mỹ thì Bình Trắc phải hòa hiệp, Trường Đoản phải thỏa thiếp, Hướng lượng phải tương xứng, Dương Ức phải tương ứng (14). Cổ nhân dặn: “Âm vận kỵ tán hoãn, kỵ bức xúc" (15), tức cũng như dây đàn không nên dùn cũng không nên thẳng quá.
Nhưng theo kinh nghiệm bản thân của lão thì lo trau dồi âm tiết không bằng lo nuôi dưỡng tánh tình. Hễ thần khí sung đủ thì bệnh tự tiêu, lời tự ổn, âm điệu tự điều tiết. Cũng như con người sức khỏe đầy đủ thì tự nhiên “lương y bất đáo gia”.
Chú thích:
(1) Cổ nhân giải thích nghĩa chữ TRUNG:
- Tận kỷ vị chi Trung. (hết mình tức là trùng).
- Trung: Dục lập nhi lập nhân, dục đạt nhi đạt nhân (Mình muốn đứng vững mà làm cho người cũng đứng vững, mình muốn đạt nên làm cho người cũng đạt như mình).
Nghĩa chữ THỨ: Sở kỷ bất dục vật thi ư nhân (Cái gì mình không muốn chớ nên đem làm cho người) cũng như câu: Ne fais pas à autrui ce que tu ne veux pas qu’on te fit.
(2) Xem những bài trước đây.
(3) Đây chỉ nói về Thanh điệu chớ không nói về ý thú.
(4) Biển En là Nha Trang, vì biển Nha Trang có nhiều hòn lao có yến sào, nên tục gọi là Hải Yến.
(5) Mượn tích Vương Bột dong thuyền đến Đằng Vương Các.
(6) Mượn tích Bí Phi lướt sóng ở Lạc Phố. Bài thơ Tình Biển En trích dẫn chỉ có mục đích trình cho các bạn thấy rõ bệnh Thượng Vĩ.
(7) Mượn ý câu “Ô Y hạng khẩu tịch dương tà” để hồi cố lên câu khởi cho đúng phép làm thơ và cũng để gởi chút tâm sự.
(7) Bài này văn chương có lực, tình cảnh lại chân thiết, riêng tiếc có bệnh. Nếu sửa lại câu cảnh liên được thì quý lắm.
Lăng anh hùng Mai Xuân Thưởng ở trên triền Hoàng Sơn quận Bình Khê. Phía Nam có Kinh Đổng là mật khu của nghĩa binh Cần Vương, phía Bắc có sông Côn chảy cạnh làng anh hùng. 
(8) Đây là một câu trong tập CUNG OÁN THI chưa rõ tác giả là ai. Có người bảo là của Ôn Như hầu song không dám tin.
(9) Nếu những chỗ bị bệnh mà câu trên câu dưới đều bệnh cân nhau thì hết bệnh, vì là sự cố ý của tác giả: Ví dụ trên “mây xây núi” mà dưới “lá rã mưa”.
(10) Câu này còn nhiều điểm dễ thương về âm điệu, nhưng vì ở đây chỉ nói về bệnh, nên không dám dài dòng.
(11) Khoảng 1937 - 1938 Tản Đà Tiên Sinh đã bảo tìm chữ sữa lại, song mãi đến nay vẫn chưa tìm ra chữ vừa ý.
(12) (13) Hai câu: “Trót đã… Đành cam…” để riêng ra thì mới bị đánh, còn để chung lại thì được chấp nhận bởi vì nhờ bệnh đối với bệnh rất chỉnh. Hai câu của vua Tự Đức cũng thế. Nếu vế trên để là “mây tan tác” thì vế dưới bị bệnh nặng nề.
Câu “Trót đã... Trổ trời” đã bị bệnh điệp âm ở những chữ 1,3,4, lại còn bị bệnh ở những chữ 2,5,6. Thế mà nhờ đối khéo nên được hưởng hai chữ “bình an”.
Cho nên đối ngẫu cũng là một lợi khí trong việc điều khiển âm thanh.
(14) Xem thêm bài số 10 ở sau, điền này có nói lại bốn lần nữa.
(15) Tán hoãn: Rời rạc chậm chạp
Bức xúc: Gấp rút hối hả như bị bức bách.
Đôi nét cương yếu về thi học [10]
10.
PHONG LÂM giắt tay Lạp Mai xô ngõ bước vào Vườn, vừa đi vừa ngâm:
Há dám thương đâu khách má hồng
Thương vì một nỗi chực phòng không
Thương con cuốc lẻ kêu mùa hạ
Thương cái bèo non giạt bể đông
Thương vợ chồng Ngâu duyên chếch mác
Thương cha mẹ nhện phận long đong
Thương thời thương vậy thương sao đặng
Há dám thương đâu khách má hồng.
Lão cao hứng ngâm tiếp:
Há dám thương đâu gái có chồng
Thương vì một nỗi có mà không
Thương vườn sương muộn sương xao xác
Thương cánh đào thơ gió lạnh lùng
Thương chị trăng già cầm chắp nối
Thương ông đầu bạc khéo riêng chung
Nghĩ thương mà nói rằng thương vậy
Há dám thương đâu gái có chồng.
Lạp Mai: - Nghe đồn rằng lão vườn không ưa lối thơ du hí, cớ sao cũng thuộc những bài vận ngữ không được liệt vào “phổ ý mục lục” của nhà thơ?
- Lúc nhỏ khi mới học thơ, chính những thứ thơ ấy chui vào tâm trí trước nhất. Lớn lên mặc dù chúng bị bao nhiêu thơ hay khác che lấp, thỉnh thoảng vẫn “chường mặt” ra “múa men với thiên hạ”. Cho nên quý lão hữu có dạy bọn trẻ làm thơ, nên đem những bài thơ thật ra làm mẫu.
Phong Lâm:
- Lo đi học mà không rồi đây, còn thì giờ công sức đâu nữa mà làm thầy!
Biết rằng hai ông bạn già này đến quấy rầy mình về Thi pháp nữa đây, lão bèn chận đầu:
- Người Á Đông cũng như người Âu tây... khi biết nói thì tự nhiên nói đúng mẹo. Cho nên trước khi cụ Trần Trọng Kim và cụ Dương Quảng Hàm viết sách Văn phạm Việt Nam, ông cha chúng ta có ai nói ngược ngạo, nói sai nguyên tắc ngôn ngữ đâu, và từ khi có sách Văn Phạm, các lão hữu có khi nào dùng đến, đọc đến đâu…
Lạp mai cười hả hả: - Lão già tinh quái! Muốn “Bế môn tạ khách” đây! Đâu có được! Câu “Dục lập nhi lập nhân, dục đạt nhi đạt nhân”, lão vườn thường nói, vẫn còn văng vẳng bên tai đây.
- Thật là hoa từng khẩu xuất!
- Dù cho là hoa đi nữa, thì khi đã thấm nhuần thuyết vị tha và vô ngã, cũng không đáng quan tâm.
- Thôi đừng dông dài. Hãy nhập đề cho rồi.
Phong Lâm: - Đạo Thành đã đem lời lão vườn nói cho chúng tôi rõ về các thứ bệnh phổ thông của thơ. Vậy xin hỏi hai bài thơ Thương đó có bị bệnh Bình Đầu chăng?
- Nhân có bệnh Bình Đầu mà người xưa biến chế ra thể thơ Bình Đầu. Hai bài thơ Thương thuộc thể Bình Đầu. Bịnh đã biến thành Thể thì làm gì còn có bệnh nữa.
- Còn các bệnh khác có được biến thành thể chăng?
- Có một số bệnh được mượn tên đặt cho thể. Như thể Phong yêu mà bài ngũ Ngôn QUA ĐÒ GẶP NGƯỜI CŨ lão đã chưng ra Vườn Hoa Thơ mấy tháng trước (1) có thể dùng làm điển hình. Thể Điệp Âm như bài “chạy chữa chai chân...” của cụ Nguyễn Khoa Vi, Thể Song Thanh Điệp Vận, như bài của Tuy Lý Vương:
Mây xây núi túi chim tìm tổ
Khách cách đường trùng nốt cột lau
Lỏng khỏng đào cao ngường phậu xấu
Lơ thơ liễu yếu chị đàu đau
Thể Điệp tự, như bài của cụ Nguyễn Thượng Hiền:
Vất vất vơ vơ cũng nực cười
Cằm cằm cụi cụi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Có có không không lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại ngoẳn xong đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi (2)
Lạp Mai:
- Những bệnh Điệp Tự, Điệp Vận... chưa nghe lão vườn nói…, mà sao đã nói đến thể thơ do những bệnh kia mà có?
- Đó là không nói mà nói, nói mà không nói. Người rành thơ như  lão hữu sao còn hỏi những điều sơ đẳng của Đạo làm thơ như thế? Nguyên tắc của Thơ đâu quí bằng Đạo của Thơ. Quý lão hữu tuy chưa thuộc một số nguyên tắc, nhưng lão nhận thấy đã hiểu Đạo thơ nhiều lắm. Bằng cớ là đã có những câu thơ hay.
- Chúng tôi làm thơ như các bà lão theo đạo Phật. Cứ ngày rằm mồng một là sắm hương đèn hoa quả lên chùa lạy Phật, và đọc thuộc những bài kinh bài kệ do Thầy dạy cho đó thôi, chớ nào có hiểu thấu Giáo Lý cao thâm, lịch trình tiến triển của Phật giáo.
- Thế mà các bà ấy sẽ thành phật vì theo đúng phép tu hành hơn nhiều nhà ra công nghiên cứu Đạo Phật, miệng nói toàn chữ của Phật mà tâm không có mảy may giống bồ đề. Khách theo Đạo thơ cũng thế.
Phong Lâm: - Chỉ có tâm mà không có học, thì việc tu hành không thể tinh tiến. Mấy mươi năm theo đuổi nghề thơ, mãi nay mới tỉnh ngộ. Kể cũng hơi chậm. Song chậm còn hơn không. Rất mong lão vườn nhớ câu “Tự giác nhi giác tha” kẻo chúng tôi phải buộc lòng ngờ rằng lão vườn bị ảnh hưởng thời đại “miệng đọc nam mô, ruột chứa bồ dao găm”.
- Thi Pháp cũng như Đạo Pháp, nói thế nào cho hết, nói thế nào cho đủ?
- Người ta hỏi gì thì mình nói nấy.
- Vâng. Hỏi đi
- Thể thơ còn nhiều?
- Nhiều, khá nhiều. Riêng nói về thể Đường luật, từ Vãn Đường trở về sau đã biến ra nào Xúc cú, nào Câu thi, nào phong yêu, nào Đoàn huyền, nào cách cú, nào du xuân, nào toàn bình, nào toàn trắc, v.v… Rồi sang Việt Nam còn chế thêm một số biến thể nữa như thể của cụ Nguyễn Khoa Vi và cụ Tôn Thất Mỹ:
- Nhắc bạn thêm thương tình nhạn bắc
Trông đời thêm ngán cảnh trời đông.
(N.K.V)
Đó là thể nói lái:
- Tin nhạn mong chờ e ít hát  (E-X-H)
Gối loan trằn trọc ép anh ca (F-N-K)
(N.K.V)
- Huyền vi máy tạo e lời lậu (` - E)
Sắc sảo câu thơ ít chữ đề (' - X )
(T.T.M)
Đó là thể "tạm mệnh danh" là thể cắc cớ. Vân vân…
Người muốn đi đến diệu xứ của Thơ, nên tránh những lối “chơi nghịch” ấy, nên để công sức và thì giờ lo súc tích và hàm dưỡng.
Lạp Mai: - Xin lĩnh ý. Nhưng hôm nay mong được cởi mở một ít thắc mắc định đến nhờ cởi mở: Xin cho biết về Ngũ Kỵ và Tứ Bất Nhập Cách.
- Chỉ nói sơ qua thôi. Các lão hữu sẽ tự nghiên cứu lấy nếu muốn hiểu thấu đáo:
NGŨ KỴ là năm điều kỵ trong việc làm thơ. Đó là Cách nhược (cách yếu ớt), Tự tục (chữ tục tàn) tài phù (tài xốc nổi, tài để lộ ra ngoài), lý đoản (lý cạn cợt), ý tạp (ý tứ tạp nhạp).
TỨ BẤT NHẬP CÁCH là bốn điều hễ phạm đến là bị quan trường đánh hỏng:
Khinh Trọng bất đẳng (nặng nhẹ không giống nhau, không bằng nhau; hoặc nặng nhẹ lẫn lộn, hoặc nặng quá nhẹ quá không cân xứng nhau).
Chỉ sự bất thiệt (chỉ việc dối trá, nói láo).
Dụng ý thái quá (ví dụ tặng I người mới làm thơ sạch nước cản mà bảo là tài Lý Bạch, Đỗ phủ...)
Dụng ý thiên khô (dùng ý lệch lạc chểnh mảng. Nhạt nhẽo khô khan).
Phong Lâm: - Không có gì cao siêu mầu nhiệm.
- Những gì lão đã thưa chuyện cùng các lão hữu lâu nay đều là một số nguyên tắc sơ đẳng, mà những người đã lão luyện việc làm thơ như quý lão hữu không cần biết, bởi không biết vẫn không có hại cho việc sáng tác. Một người thợ mộc đã quen tay sử dụng đục chàng rồi, không biết vì sao phải nắm đục như thế này nắm chàng như thế này, vẫn tạo được những sản phẩm khả ái. Và những nhà thạo về sinh lý học chưa chắc sinh con đã được khỏe mạnh bằng bọn mình.
Lạp Mai: - Đó là hành dị tri nan. Chúng tôi muốn tri hành hiệp nhất. Bác Phong Lâm bảo không có gì cao siêu mầu nhiệm. Song ở đời có những gì cao siêu mầu nhiệm và có những gì không cao siêu mầu nhiệm? Theo ý tôi chưa biết thì là huyền bí, biết rồi thì hết huyền bí... Chỉ thế thôi. Cho nên cứ tìm biết những gì mình chưa biết và muốn biết. Còn những điều ấy có cao siêu mầu nhiệm hay không, chẳng cần nghĩ đến. Vậy tôi xin trở lại vấn đề Thanh Bệnh mà tôi cần biết thêm.
- Muốn là được (Vouloir c’est pouvoir).
- Hàn Sơn Tử đời Đường có bài thơ chỉ trích những người theo thuyết Thanh Bệnh của Trầm Ước, tôi nhớ được mấy câu:
Vân bất thức phong yêu
Nhưng bất hội hạc tất
Bình trắc bất giải áp
Phàm ngôn thủ thứ xuất.
Tạm dịch:
Vốn chẳng biết phong yêu
Cũng không thông hạc tất
Nõ sắp xếp trắc bằng
Lời cứ tuần tự xuất.
Y kiến lão vườn đối với lời nói của Hàm Sơn Tử như thế nào? Lão có tật hay nói quanh co kiểu các thiền sư giảng Đạo. Tôi thích lão nói thẳng cho mau.
- Bắt con rắn phải đi thẳng, bắt con rùa phải lắt lư châu thân khi bò. Điều đó dù độc tài như Hích Lê (Hitler) cũng không nỡ làm. Huống nữa đường vào con tim vốn khúc chớ không trực, thì cách nói quanh co chẳng cần lắm sao? Quý lão hữu có lẽ không quên rằng đây chúng ra dùng tâm mà đãi nhau chớ không dùng trí.
- Chỉ sợ nói quanh co tốn thì giờ đó thôi.
- Mình nói chuyện thơ chớ nào phải giảng văn ở học đường mà bài phải soạn trước, giờ phải theo đúng. Nói chuyện thơ là những cuộc lãng du bằng miệng. Gặp đâu nói đó, thích gì nói nấy, cuộc nói chuyện không có chương trình vạch sẵn, câu nói chuyện không có bố cục dàn sẵn. Muốn dừng đâu thì dừng, muốn nghỉ lúc nào thì nghỉ, không qui định thời hạn, không hạn định đề tài. Nói chuyện thơ khác giảng văn, khác làm việc nghiên cứu thi ca, khác làm việc soạn thảo văn học sử, tuy những thứ này vẫn chen lẫn trong câu chuyện.
Phong Lâm: - Thông cảm rồi. Yêu cầu cho biết ý kiến về bài thơ của Hàn Sơn Tử.
- Điểm này lão đã có lần trình bày cặn kẽ. Nay xin nhắc lại đôi nét đại cương: Vì quan niệm về thơ không phải chỉ có một, nên làng thơ Á Âu Kim Cổ chia ra nhiều phái. Phái nào có lý riêng có phép riêng pháo nấy. Ai cho phái nào phải thì theo. Nếu đều cho là quấy cả thì tự lập ra một phái mới cho thêm đông xóm đông làng. Lão không đủ trình độ học thức cũng không đủ khả năng lý luận để biện bạch thị phi.
Lạp Mai: - Khách làng thơ kể cũng đa sự!
- Thơ ở giữa Đời và Đạo. Đạo không nói. Thơ không nói làm thinh cũng không nói nhiều. Tức là Thơ ở Giữa Đời và Đạo. Đời là Tục , Đạo Thoát Tục, Thơ không tục cũng không xa tục, khách tục vì lợi danh mà sanh nhiều chuyện, đó là lẽ tất nhiên. Khách làng tu là những người đi tìm những gì thanh cao và trường cửu hơn danh lợi, mà còn nặng lòng Ngân Ngã, mà còn ra công gắng sức tranh giành ảnh hưởng ở thế gian, còn đả kích lẫn nhau như kẻ phàm phu tục tử…, huống hồ khách làng là hạng người “nửa tục nửa tiên”.
Phong Lâm: - Lý sự không đến nỗi “cùn”. Tạm được. Hãy cho biết mình có nên theo thuyết Thanh Bệnh chăng?
- Theo ý lão thì nên theo, nhưng phải linh động. Và làm thơ cũng như tìm người Đẹp. Vì muốn khôi phục nước Việt nên Phạm Lãi mới phải lội suối trèo non hàng bao nhiêu ngày tháng, rồi đưa cô gái thôn Trữ La về dạy múa dạy ca, dạy làm duyên làm dáng…, phải hao bao nhiêu sức tốn bao nhiêu của bao nhiêu công…, Phải tử công phu như vậy vì nhắm mục đích cao xa. Chớ nếu muốn tìm kẻ nội trợ cho con cháu, thì cô gái nào mà dung công ngôn hạnh, từ 10 điểm trở lên, 15 điểm trở xuống, là chấm đậu với niềm hân hoan của người lịch duyệt.
- Tức là nên theo, nhưng không nên cố chấp.
- Chính vậy. Và muốn cho âm điệu được hài mỹ, chẳng những chỉ tránh được bệnh là đủ. Mà còn phải lựa chữ có hướng lượng cho thích đáng, phải dùng tiếng ức tiếng dương cho thích ứng, phải tiến phải đậu cho thích nghi… (3)
Không phải là việc dễ.
Chẳng phải những kẻ bất tài như chúng ta khó đạt, mà cả những bậc đại gia văn chương nhiều khi cũng vấp phải bệnh, hoặc nằng hoặc nhẹ, hoặc ít hoặc nhiều. Để chứng minh lão xin “giới thiệu” hai thi hào đời Đường nổi tiếng là làm thơ rất công phu: Đỗ Phủ và Lý Thương An. Và lão xin đưa ra hai tác phẩm mà người Việt Nam yêu thơ không mấy ai không biết:
THU HỨNG
Ngọc lộ điêu thương phong thọ lâm
Vũ Sơn Vu Giáp khí tiêu sâm
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô châu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đê thành cao cấp mộ châm
Đó là một trong 8 bài Thu Hứng của Đỗ Phủ mà Thánh Thán, nhà phê bình trứ danh đời Nguyên, đã hết lời tán tụng, và cổ nhân đã dịch ra Quốc âm:
Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn Vu hiu hắt khí thu mờ
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây ùn cửa ải xa
Khóm cúc tuôn thêm hàng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch dồn châm bóng ác tà. (4)
Và sau đây là bài của Lý Thương An, một trong những bài mà phái Tây Côn đời Tống dùng làm phạm thức:
CẨM SẮC
Cẩm sắc vô đoan nhị thập huyền
Nhất huyền nhất trị ức hoa niên
Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục Đế xuân tâm thác đỗ quyên
Thượng hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Điền nhật noãn ngọc sanh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên
Tố Như Tiên sinh đã mượn bốn câu giữa dịch thành khúc đàn Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe. Nay lão xin nối điêu cho trọn thủ vĩ:
Đàn Cẩm Sắc hai mươi dây
Mỗi dây mỗi trục nhớ ngày tuổi hoa
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ quyên
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên
Âm sao hạt ngọc Lâm Điền mới đông
Tình kia nghĩ đã thành không
Bận chi thương nhớ cho lòng xót xa
Đừng để cho uy danh của tác giả chi phối, chúng ta hãy bình tâm mà xét thì sẽ thấy ngay tỳ vết trong hai viên ngọc của Đường nhân:
Bài Thu Hứng, 4 câu đầu và câu thứ 6 không có một tiếng trường bình. Bài Cẩm Sắc, câu 4 câu 5 cũng thiếu trường bình. Tiếng thơ không du trường, giọng thơ không uyển chuyển. Đó là do bệnh Điệp Thanh và phong yêu gây ra.
Nhiều câu thơ của Đỗ Phủ được coi là trác tuyệt, mà vẫn mang bệnh âm thanh:
Tức khiển ba khai thâm tháo thứ
Tiện giao yến ngữ thái đinh ninh
Ba chữ THÂM THÁO THỨ cùng một âm đọc nghe như ngọng (5). Đó là bệnh điệp âm. Nếu đánh gắt thì vế thứ nhất còn một bệnh thứ hai nữa là bệnh bàng nựu do chữ KHIỂN và chữ KHAI gây nên.
Thế mà cổ nhân lại khen Đỗ Phủ có tài dùng song thanh điệp vận và lấy câu “... thâm tháo thứ... thái đinh ninh” làm thí dụ.
Lại như câu này cũng của Đỗ Phủ:
Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc
Lộ lãnh liên phòng truy phấn hồng (6)
Diệp Mộng Đắc đời Tống khen là “hàm cái kiền khôn” tức là ngậm che cả trời đất. Ý nói rộng rãi sít sao, không có kẽ hở để có thể dòm thấy.
Theo lão: vế trên âm điệu hoàn hảo. Vế dưới mắc đến ba bệnh là Điệp âm (lộ lãnh liên), Phong Yêu (phòng hồng: đều trường bình thanh), Đại vận (phòng và hồng cùng một thanh và một khuôn). Giọng thơ mới cất lên thì nghe lặp bặp, đọc tiếp nghe trầm trầm và gãy ở khúc giữa, không mấy vui tai.
Phong Lâm:
- Như thế tại sao cổ nhân lại khen?
- Thơ hay có nhiều cách: Hay về thanh vận, hay về phong cách, hay về ý thú… Một bài thơ gồm đủ ba yếu tố đó xưa nay rất hiếm. Lão chê những câu bị bệnh đó là đứng về phương diện Thanh Vận mà chê. Còn cổ nhân khen là đứng trên phương diện phong cách và ý thú mà khen.
Lạp Mai: - Lão vườn phải hay cổ nhân phải?
- Lão có cái phải của lão. Cổ nhân có cái phải của cổ nhân. Cổ nhân không thể sống dậy buộc lão phải theo cổ nhân, và sau này lão có gặp cổ nhân cũng giữ vững lập trường của lão. Lão thờ kính cổ nhân, song nhất thiết không làm nô lệ.
Phong Lâm:
- Bằng theo lời nói của lão vườn thì thơ cổ kim hiếm bài tuyệt tác lắm sao?
- Xưa nay thường khen bài này là tuyệt tác, bài kia là tuyệt diệu…, là đứng về mặt tương đối mà khen. Chớ tuyệt đối thì đến Hóa công mà còn có chỗ khuyết huống hồ Thi Nhân. Nhưng thơ cũng như người đẹp. Những tuyệt đại giai nhân là những bài thơ toàn bích bằng xương bằng thịt, Thử xem ở nước Trung Hoa đất rộng người đông kia, từ xưa đến nay được mấy Mao Tường Muội Hỷ, Đắc Kỷ, Bao Tự, Tây Thi, Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi…? Mà vì tuyệt đại giai nhân có ít, nên trên đời nhiều người đàn bà chỉ có sắc chớ không có tài có đức, nhiều người chỉ có tài đức chớ không có sắc, nhiều người chỉ có thanh chớ kém sắc kém đức... mà vẫn chiếm được địa vị cao sang, vẫn được tưng bừng kẻ đón người đưa, và hầu hết các phụ nữ có chút ít nhan sắc đều khỏi bị cảnh phòng không gối lẻ. Cho nên thấy có người tán tụng những bài thơ mình không lấy làm hay, và chê bai những bài mình cho là gián đoạn tác, thì không nên bận tâm, không nên kinh dị.
Lạp Mai: - Khen hay chê thường thường đều do quan niệm, do sở thích.
Phong Lâm:
- Không lẽ những lời phê bình xưa nay đều chủ quan cả sao?
- Ông bạn thấy màu đỏ thích mắt khoái lòng, ông bạn khen “Đẹp quá”. Lão thấy màu xanh tươi mát dịu dàng, lão khen “Đẹp quá”. Có nhiều người khác cũng khen như ông bạn, lại có nhiều người khác cũng hay khen như lão. Như vậy những lời khen đó khách quan hay chủ quan?
- Như vậy có thể lấy số nhiều ít của lời khen chê làm tiêu chuẩn để định giá văn chương chăng?
- Nếu lấy Đa Thiểu làm tiêu chuẩn thì khúc hạ Lý Ba Nhân có giá trị hơn khúc Dương A Giới Lộ, khúc Dương A Giới Lộ có giá trị hơn khúc bạch Tuyết Dương Xuân. (7) 
Lạp Mai: - Làm thơ khó mà xem thơ cũng không phải dễ!
- Bởi vậy Giả Đảo đời Đường mới có câu:
Lưỡng cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất ngộ (8)
Quy ngọa cố sơn thu.
Tạm dịch:
Ba năm lòng gởi dôi câu
Ngâm lên một tiếng lệ châu ướt dầm
Đường đời không gặp tri âm
Non xưa trở lại ôm nằm với thu.
Hạ Lý Ba Nhân là tên một khúc hát tầm thường, mỗi lần hát lên được trên vài nghìn người hoạ
Dương A Giới Lộ là tên một khúc hát trung bình, mỗi lần hát lên thì được một vài trăm người hoạ.
Dương Xuân Bạch Tuyết là tên một khúc hát khá cao, hát lên chỉ chừng mươi người họa.
Phong Lâm:
- Làm chi mà phải lao tâm khổ tứ đến thế?
- Ông bạn thật xứng đáng làm người trong cửa Khổng Sân Trình!
- Vì sao vậy?
- Vì ý ông bạn giống hệt ý nhà hiền triết đời Tống là Trình Di. Đọc câu Đường Thi:
Ngâm thành ngũ cá tự
Dụng tận bán sinh tâm
Nghĩa là:
Nhọc nhằn năm chữ rèn xong
Ai hay dùng cả lòng trong một đời.
Nhà hiền triết phán:
Khả tích nhất sinh tâm
Dụng tạo ngũ tự thượng.
Nghĩa là:
Khá tiếc lòng một đời
Đem dùng đúc năm chữ
Ngụ ý chê là phí tâm vô ích
Đỗ Phủ có câu:
Xuyên ba giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi.
Nghĩa là:
Bướm bướm luồn hoa thăm thẳm hiện
Chuồn chuồn giỡn nước chập chờn bay
Trình Di chê: “Như thử nhàn ngôn ngữ, đạo xuất tố thâm?”
Nghĩa là: “Lời nhảm nhí như thế nói ra làm chi nhiều?”
Trình Di vừa là một bậc hiền vừa là một nhà thơ, và thơ đối với thầy là một phương tiện để tải đạo, không tải đạo thơ không có giá trị gì.
Nhưng thơ của Thầy cũng như của các nhà hiền triết khác lại bị chê là lý trí quá văn từ, lạt lẽo vô vị, và giọng bằng phẳng giống như bài luận đạo đức.
Cho nên chúng ta phải thận trọng khi xem thơ mà cũng phải thận trọng khi nghe lời bình phẩm, dù là lời cổ nhân.
Lạp Mai:
- Phong Lâm rủ tôi đến chỉ có mục đích là hỏi thêm đôi chi tiết về Thanh Bệnh, không ngờ được lão vườn cho thưởng thức nhiều hương vị của hoa thơ.
Phong Lâm:
- Kể có phần đông dài khiến tôi chưa được thỏa mãn về thuyết Thanh Bệnh.
-  Nhìn màu thuốc tiếm, ngửi mùi ten dót thích thú hơn hay nhìn màu hoa ngửi hương hoa thích thú hơn? Huống nữa, lão đã nói rằng chúng ta “lãng du bằng miệng”. Ông bạn muốn đến Ngũ Hành Sơn đặng xem lại Động Huyền Không. Đó là mục đích nhắm sẵn. Nhưng vừa lên khỏi đường dốc hòn Non Nước tức hòn Thủy Sơn, liền thấy ngôi chùa Tam Thai đứng sừng sững trước mặt, vừa cổ kính vừa trang nghiêm, thì lẽ nào không ghé vào viếng cảnh. Vào chùa gặp một Thiền sư phong nhã vừa đưa chúng ta đi xem chùa, vừa giải thích cho chúng ta nghe những thắng tích quanh chùa. Trong lời giải thích có nhiều chi tiết giúp cho chúng ta hiểu rõ về động Huyền Không mà vào động chưa chắc chúng ta đã nhìn thấy tìm thấy. Như thế chẳng có lợi lắm sao? Huống nữa động Huyền Không đâu phải lá Trung Tâm Điểm của Ngũ Hành Sơn, đâu phải là cảnh đẹp nhất của hòn Thủy Sơn?
Lạp Mai gật đầu và nhìn Phong Lâm:
- Lão Vườn lập ý khuyên chúng ta  không nên chuyên chú vào Thanh điệu, mà còn phải lưu tâm đến nhiều phương diện khác, nhất là phong cách và Ý thú mà khi nãy lão đã hé cho chúng ta thấy… Ngũ Hành Sơn có năm ngọn núi, ngọn nào cũng có kỳ quan thắng tích…
Lão ngắt lời:
- Những công việc chọn hoa đòi hỏi nhiều thì giờ lắm, lão không rảnh đâu để làm hướng dẫn viên. Xin nhị vị lão hữu nếu muốn du lãm thì nắm tay nhau mà đi… Ngoài các tiệm sách có bán sẵn bản đồ và sách hướng dẫn… Chớ lo không biết đường...
Lạp Mai: - Xin lĩnh ý. Song trước khi “tự lực cánh sinh” mong được nghe thêm đôi lời “phế phủ”.
- Lão xin mượn lời của Jules Lachelier, một triết gia người Pháp sống vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, để làm quà cho hai lão hữu: “Để lý giải một hệ thống thì điều kiện thứ nhất là phải thể nhập, điều kiện thứ nhì là phải giải thoát” (pour comprendre un systère con dition est d’y entrer, la seconde est d’en sortir).
Lạp Mai dắt tay Phong Lâm đứng dậy:
- Tức là chúng ta phải tìm hiểu những quy luật của thơ, khi hiểu đã thấu đáo rồi thì phải phá quy luật mà ra, để đứng trên quy luật mà sáng tác.
Đó là đạt lý.
Chú thích:
(1) Thể Phong Yêu, hạm liên không đối, đến cảnh liên mới đối. Đọc 4 câu có cảm giác thon thon, đến câu cảnh vì sự đối chọi làm cho khí thơ đọng lại và nở ra, khiến khúc trước như lưng ong khúc sau như bụng và đít (Xem bài số 5).
(2) Bài này cụ Phan Bội Châu có phê bình và hoạ vận trên một tờ báo, nhưng lão không nhớ tên báo mà cũng không nhớ bài hoạ vì lâu ngày quá.
(3) Đã nói rõ trong bài số 9 ở trước.
(4) Bài này các Ả Đào thường hát trước bài dịch Tỳ Bà Hành nhưng không biết rõ tác giả là ai.
(5) Ấy khiến hoa nở rất mực vội vàng (Tháo thứ cũng như cấp cự, có người đọc là tạo thứ). Lại dạy con yến nói quá sức khăng khăng.
(6) Sóng chao bụi lúa mồ côi làm chìm sắc đen của mây. Móc lạnh gương sen làm rơi màu hồng của phấn.
(7) Chữ mượn trong bài phú của Tống Ngọc.
(8) Có chỗ chép là “Tri âm như bất thưởng”.
16- Tiếp khách hoa thơ [4]
10.
Hai ông bạn già VÂN SƠNĐỨC HUY đến vườn tìm mấy bận đều thấy cửa đóng, bèn thẳng đến thảo lư của lão.
- Bớ Lão Vườn, lâu nay làm gì mà vắng tăm vắng dạng như thế?
Lão đương lom khom rảy nước cho mấy giỏ hoa vừa nhận được, nghe tiếng người quen liền bước ra đón:
- Chà! Đến cả cặp. Thú quá!
- Háo khách như thế mà sao lại đóng cửa vườn?
- Vì mưa gió…
Bác VÂN SƠN thong thả đọc:
Chẳng tạnh cho mình ngó chút chơi
Gió mưa sao cứ gió mưa hoài!
Hai hàng lụy ngọc tuôn vì nước,
Một tấm lòng son ngó với trời
Trước mắt thấy mây giăng lớp lớp.
Bên tai nghe sét đánh nơi nơi,
Gió mưa chẳng tiện bề lui tới,
Kẻ ở trong trông kẻ ở ngoài. 
Bác ĐỨC HUY vuốt râu cười:
- Hay thì hay thật, song không hợp cảnh hợp thời!
Bác VÂN SƠN đáp: - Hợp thế nào được, vì thơ làm đã trên năm mươi năm nay, lúc Phan Sào Nam tiên sinh còn ở hải ngoại. Đó là tấc lòng của một nhà ái quốc nóng chờ tin tức của các đồng chí xuất dương. Nay nghe Lão Vườn thốt hai chữ “Gió mưa” chợt nhớ đến ngâm cho vui vậy thôi.
- Tác giả là ai?
- Không được rõ.
Lão chen vào:
- Thơ của các nhà ái quốc tiền bối có nhiều bài rất hay, ngọc lấp hương tan, nhưng vì không có người sưu tập nên bị mai một gần hết. Thật là uổng!
Bác VÂN SƠN liền ngâm:
Vì lòng thương ngọc tiếc hương,
Nhặt hoa đem trải lên vườn hoa thơ…
Phụ phàng dù gió dù mưa,
Nghìn sau thơm thắm vẫn lưa ít nhiều.
Đoạn nói:
- Xin tặng lão vườn mấy câu lạo thảo. Và Lão Vườn lâu nay chắc thâm lượm được nhiều hoa thơ, hãy đem ra cho nhau thưởng thức với.
Lão trải chiếu nơi hiên mận rồi vào lấy hoa đem ra:
- Đây “Những cành nhớ nhung” của các thi hữu đất Bình Khê vừa gởi đến. Nhờ hai bác lựa giùm những đóa thơm tươi.
Hai ông bạn trịnh trọng đón hoa… Hồi lâu đưa ra một cành:
Bấy chầy lão phố lánh nơi đâu
Mà để vườn thơ vắng trước sau?!
Hường huệ ngổn ngang sầu cỏ rối;
Liễu dương sùi sụt lệ mưa ngâu..
Chờ mong tin gió đưa chim thước,
Thương nhớ hoa xuân trỗ mái đầu.
Đường trạm biết vui về lũng thủ
Giang Nam cành mộng gởi trao nhau.
Bác Đức Huy cười:
- Người tặng hoa không để tên, nhưng nghe hơi hám cũng có thể đoán biết là giai nhân.
Bác Vân Sơn tiếp: - Nếu giai nhân thì càng tốt bằng không phải giai nhân cũng không sao. Điều cốt yếu là thử xem có chi xuất sắc chăng vậy.
Lão đáp:
- Cặp trạng từ điệu đáng yêu. Người làm thơ thường thường ngắt hơi ở chữ thứ tư, chữ thứ ba, chớ ít khi nghỉ ở chữ thứ 5 hay chữ thứ nhất.
Vân Sơn: - Tôi muốn bỏ phức dấu hai chấm, để ai muốn đọc sao thì đọc hiểu sao thì hiểu. Cành hoa nửa ẩn nửa hiện trông mới thật là đẹp, ngắm mới thật là thú. Các bác nghĩ sao?
- Đồng ý.
Bác ĐỨC HUY phê tiếp: - Cặp luận, vế dưới hay, vế trên hơi kém.
Bác VÂN SƠN cãi: - Không kém. Hai vế đối nhau đã cân mà ý tứ lại rất liền lạc. Đọc hai câu này tôi liên tưởng đến câu:
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại,
Con thước qua song lại ỡm ờ!
Trong Mùa Cổ Điển, câu:
Tương tư nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, và câu Đường thi:
Cổ Viên thơ động kinh niên tuyệt,
Ba phát xuân thôi mãn kính sanh.
Mà Trường Xuyên đã dịch là:
Năm mòn mỏi mắt tin nhà vắng,
Hoa trập trùng gương mái tóc sanh.
Khi làm hai câu:
Chờ mong tin gió đưa chim thước,
Thương nhớ hoa xuân trổ mái đầu.
Không biết tác giả có nghĩ đến mấy câu kia chăng?
ĐỨC HUY: - Chưa chắc. Có nhiều khi tình cờ ý người này trùng ý người nọ. Cho nên Tây triết có câu: “Những kẻ đại tài thường gặp ý nhau" (Les grands esprits se rencontrent).
Lão bồi thêm:
- Chính thế. Vô tâm mà giống nhau là chuyện thường trong làng văn thơ. Tùy Viên có trích dẫn hai câu thơ của hai thi nhân ở cách xa hàng vạn dặm và chưa hề quen biết nhau, mà tình ý giống nhau như hai anh em ruột. Một câu trong bài “Ngẫu thành” của Đào Hoàng Thôn rằng:
Đa tình chỉ hữu tiêu tiêu trúc,
Thời đới tà dương lục đáo song.
Nghĩa là:
Đa tình riêng khóm trúc hoa,
Ngày ngày đeo ánh dương tà vào song.
Và một câu trong bài “Lương giai” của Diêu Cơ Truyền rằng:
Nhân tích bất như tu trúc ảnh,
Mỗi tùy minh nguyệt đáo trung đình.
Nghĩa là:
Dấu người thua bóng trúc xanh
Đêm đêm theo ánh trăng thanh vào thềm.
VÂN SƠN: - Hay quá!
ĐỨC HUY: - Mà dù có mượn ý của nhau cũng không sao, miễn lời văn đừng giống nhau là được. Các nhà văn nhà thơ khác nhau ở cách diễn tả, mà hơn nhau cũng ở cách diễn tả. Còn ý thì ai cũng thể có những ý hay.
Lão biểu đồng: - Huống nữa, mượn ý nhau, người xưa cũng thường có. Như Lý Thái Bạch mượn thơ Tạ Khương Nhạc, Đỗ Phủ tập thơ Dũ Tử Sơn, Âu Dương Tu phỏng thơ họ Hàn… Có người cho là “du dạo”, Lưu Cống Phủ cười đáp: “Nhưng không thiệt hại đến sự chủ”.
VÂN SƠN: - Nhiều khi những gì mình thâu thập được trong sách vở ăn sâu vào đáy lòng, rồi lúc cao hứng, vụt tuôn ra một cách bất ngờ khiến mình ngỡ rằng chính mình đã nghĩ được.
Lão đáp: - Quả có thế. Và đó là “tiêu hóa”: Đồ ăn ăn vào đã biến thành khí huyết. Những “ gì ấy” trước kia là của sách vở, mà một khi đã thấm vào lòng rồi tuôn ra bút như thế, thì trở thành của mình chớ không còn là của sách vở nữa. Ví dụ bọn già mình đây dùng cho thật nhiều nhung nhiều lộc giác giao vào rồi sanh thêm út một út hai nữa, thì những út đó là con cái nhà mình, chớ nào phải con hươu con nai.
Bác VÂN SƠN vỗ vế cười ngất: - Lão Vườn ví dụ thú vị quá!
Bác Đức Huy, tai thì để nơi câu chuyện, còn mắt thì để vào giỏ hoa, và tay luôn luôn tỉa lựa. Nghe Lão nói, liền giơ cao một nhánh hoa thơ, cười hả hả: - Lão già phong tình! Hèn chi TIÊU LIÊU TẨU gởi nhắn rằng:
Ông bảo rằng ông tuổi tác già…
Ông già ông vẫn khác người ta:
Nguyệt lồng gối mộng say sưa nguyệt,
Hoa bén vườn thơ ấp ủ hoa.
Đầy vạt thanh sam hương phấn điểm,
Quên đài minh cảnh tuyết sương pha.
Đường đời còn lắm duyên tri ngộ,
Gậy chạm đầu cưu hãy chống ra. (1) 
Bác VÂN SƠN khen:
- Cha chả! Ông lão nào đây mà văn chương tươi trẻ như thế?
Lão đáp: - Đó cũng là giống phong tình, già một lớp da ba lớp mỡ đó.
Bác ĐỨC HUY khích: - Tiêu Liêu Tẩu khai chiến. Lão Vườn định nghinh chiến hay quy hàng?
VÂN SƠN: - Quy hàng thế nào được. Chúng mình buộc lão phải giao phong kẻo mất danh lão tướng.
Vốn không “tập vợt” đã lâu ngày, không còn đủ khí lực, song bị thôi thúc, lão phải cố gắng hươi tay:
Tôi đã già rồi, bác cũng già,
Phong lưu còn nặng nợ đôi ta.
Xùng xình với nguyệt vì ưa nguyệt,
Ấp ủ giùm hoa kẻo lạnh hoa.
Hương ngấm lòng thơ riêng ấm áp,
Gương vờn mái tuyết lắm phôi pha.
Vườn xưa tạm đóng phòng mưa gió
Mừng đón dương xuân hé mở ra… 
Bác VÂN SƠN vuốt râu khen:
- Giỏi! Giỏi lắm! Rõ là:
Ông già, già tóc, già râu,
Những ngón tí tửng ông đâu có già!
Bác ĐỨC HUY cao hứng họa ngay bài lão:
Tuổi tác tuy già tâm chẳng già,
Trần gian lắm kẻ há riêng ta.
Đeo gương ngắm nguyệt say tình nguyệt,
Chống gậy tìm hoa bẻ nhụy hoa.
Hương sắc trăm năm cho thắm đượm,
Phong trần hai mái mặc phôi pha.
Phải như lão phố người tri kỷ
Thời cửa vườn thơ mở rộng ra. 
Bác VÂN SƠN tán thưởng: - Lanh lắm! Lanh lắm! Thật là:
Ông già ông khác người ta,
Cười hoa cợt nguyệt ông ma hơn người.
Bác Đức Huy nhìn bác Vân Sơn:
- Tới phiên bác.
- Thôi, vừa rồi. Huống nữa ai nấy đều hát thì còn ai cầm chầu.
- Ừ, thì gióng chầu lên.
- Nãy giờ đánh trống thưởng đã nhiều rồi, bây giờ xin gõ tang chút chơi: Hai bài của Tiêu Liêu Tẩu và của Lão Vườn không có gì đáng nọc. Có thể gọi là toàn bích. Riêng bài của Đức Huy, ba chữ “ bẻ nhụy hoa” lời thanh nhưng ý không nhã. Đề nghị sửa lại.
Lão đồng ý.
Đức Huy cười: - Thì tìm cho ba chữ khác.
Lão đáp: - Nên sửa là “ Đẹp ý hoa”.
Bác VÂN SƠN vỗ tay khen:
- Hay! Lời nhã, đối chỉnh, ý kín, lại đổi hẳn khí thế câu thơ. Câu nguyên tác chỉ diễn tả hành vi của người đeo gương chống gậy. Nguyệt và hoa bị thụ động, người ngoài không rõ được phản ứng của chúng như sao. Còn trong câu:
Đeo gương ngắm nguyệt say tình nguyệt,
Chống gậy tìm hoa đẹp ý hoa.
Thì bên năng (người chống gậy đeo gương), bên sở (hoa nguyệt) tương ứng, có vẻ ý hiệp tâm đầu. Trong nguyên tác vì hai chữ “bẻ nhụy” rõ ràng là nói về người chống gậy, cho nên hai chữ “say tình” ở trên nhất định phải thuộc về người đeo gương. Trong câu phủ chính, chữ “đẹp” là của hoa, nên chữ “say” trở thành của nguyệt. Trong câu nguyên tác, ý đi xuôi một chiều như dòng nước xuống biển. Trong câu phủ chính có hô có ứng, như tiếng gọi buông ra tiếng vang dội lại. Khí thế của hai câu khác nhau ở chỗ đó. 
Bác ĐỨC HUY gật đầu. Lão hỏi: - Trong giỏ hoa còn nhành nào khả thủ chăng?
- Muốn tìm một nhánh danh hoa mà không thấy.
- Diêu hoàng Ngụy Tử làm gì có được nhiều. Trong cơn mưa nắng thất thường mà tìm thấy được một nạm hoa ngâu, một búng hoa lài cũng đã đáng quý rồi vậy.
- Thì đây, nhánh hoa lài của Vương Kính Sơn:
Vườn thơ vắng lão nhặt hoa thơ,
Con én rường cao đứng thẫn thờ!
Lạnh lẽo thềm mai hương gởi gió,
Bơ phờ mái liễu nhện buông tơ..
Ba xuân du tử buồn qua lại,
Bốn bể tri âm luống đợi chờ.
Ngoài dặm ráng mây tình có thắm,
Phấn hương vườn cũ nỡ thờ ơ?! 
Và đây khóm hoa ngâu của Trương Ỷ Hương:
Vườn thơ vắng lão giữ vườn,
Để lan chờ đợi để hường nhớ nhung!
Cầm trăng liễu để tơ chùng,
Thềm mai để mộng lạnh lùng hương khuya.
Gió xuân mấy độ đi về,
Hoa không người hứng quanh hè hoa rơi!
Ráng mây tầm mát chơi vơi...
Ai tri âm đó? Đây lời tri âm. 
Bác VÂN SƠN ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Giá không sánh kịp hải đường tường vi, song cao hơn hoa lài hoa ngâu một bậc. Bài của Ỷ Hương có thể sánh với hoa cẩm nhung. Còn bài của Kỉnh Sơn thì chưa tìm ra giống hoa thích đáng...
Bác ĐỨC HUY ngắt lời: - Thì để đó đã. Bây giờ xin cho biết Kính Sơn dùng chim én vào thơ có ý gì chăng?
Lão đáp: - Tác giả họ Vương nên mượn chim én để nói mình, vì Đường Thi có câu:
Cựu thời Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tánh gia.
Nghĩa là:
Én xưa đình Tạ đình Vương
Lạc loài đến chốn tầm thường nhân gia.
VÂN SƠN:
- Con én trong vườn hoa thơ lại không bay đi nơi khác, mà cứ đậu nơi rường cao mà chờ lão vườn. Có tình thật!
ĐỨC HUY:
- Hai bài này, bài của Ỷ HƯƠNG trội hơn bài của KỈNH SƠN.
Bác Vân Sơn đồng ý. Lão tiếp:
- Khi nãy bác ĐỨC HUY có nói đến cách diễn tả. Chúng ta có thể mượn hai bài này để chứng minh lời nói ấy. Trong hai bài này có nhiều ý giống nhau, và mối tình nhớ thương cũng không lấy gì làm khác cho lắm. Riêng nói về câu 3 câu 4 của hai bài: Kính Sơn và Ỷ Hương đều dùng liễu dùng mai để tả nổi lòng của mình. Nhưng đọc lên câu của Ỷ Hương rung cảm chúng ta hơn câu của Kính Sơn. Vì sao vậy? Chẳng phải vì câu của Ỷ Hương giàu hình ảnh và giàu âm nhạc hơn câu của Kính Sơn đó ư?
VÂN SƠN: - Nghĩa là kỹ thuật của Ỷ HƯƠNG tinh diệu hơn Kính Sơn?
- Chính thế. Các nhà văn thơ khác nhau ở kỷ thuật và hơn kém nhau cũng do kỷ thuật. Lời của bác Đức Huy quả thật đúng vậy.
ĐỨC HUY: - Nhưng có kỹ thuật mà không có tâm hồn thì trở thành những anh thợ làm hoa giấy.
Lão tiếp: - Còn có tâm hồn mà không có kỹ thuật thì chẳng khác có giống hoa quí trong tay mà không biết cách trồng trỉa.
VÂN SƠN: - Tức là nội dung và hình thức phải tương xứng thì tác phẩm mới thành giai phẩm, bằng mích một bên thì là hạ phẩm. Hoa dúi dẻ có hương, hoa bìm bìm có sắc, nhưng chỉ có các em bé là bạn tương tri. Còn những nhánh hoa thơ chúng mình lựa nãy giờ, tuy không phải “quốc sắc thiên hương” song sắc hương đều có đủ, thật đáng đem chưng nơi phòng khách, phòng văn.
Lão toan vào lấy thêm một ít hoa nữa ra nhờ lựa giùm, nhưng bác Đức Huy bác:
- Để hôm khác. Hôm nay chừng nớ tạm đủ dùng để tiếp khách yêu hoa.
Bác VÂN SƠN tiếp: - Bữa nay nhân trời tốt, lại lựa được một ít hoa vừa ý, âu là chúng ta giúp lão vườn dọn dẹp để mở cửa vườn trở lại.
Thế là dưới ánh nắng vàng dịu buổi mai cuối xuân, ba mái tóc bạc bay phất phơ theo ngọn gió nồm, trong mảnh vườn nhỏ mà rêu đã phong nửa đường lối đi. Chốc chốc vang lên tiếng cười tích tác và tiếng ngâm nga:
- Ra công quến mận vun đào
Nghìn thu hương phấn thấm vào văn chương.

- Trải lòng dấp hạnh ủ hường,
Ngòi hoa chi ngại gió sương phụ phàng.

- Chút tình thương huệ tiếc lan.
Từng xâu ngọc đúc từng hàng sao đông.
Chú thích:
(1) Chim cưu là giống chim ăn không nghẹn. Cây gậy ông già chạm đầu chim, có ý như ăn uống ngon lành.
16- Tiếp khách hoa thơ [5]
11.
Bóng mặt trời vừa lên khỏi rặng núi phương đông. Gió biển thổi dìu dịu. Một mình ngồi dưới gốc mận già, lão ung dung mở từng bó hoa thơ của bạn phương xa gởi đến để so hương đọ phấn. Chợt ông bạn già LA DUNG và cô bạn trẻ TUYẾT MAI đến kêu mở cửa vườn. Lão vội vàng ra đón khách với niềm hân hoan của tuổi già nở hoa.
LA DUNG hỏi: - Lão Vườn đương làm gì đó?
- Tuyển hoa khôi.
TUYẾT MAI mỉm cười: - Hẳn là “Nghìn thắm trăm thơm đấu mỹ miều”?
Lão đáp:
Từng quen với lửa cao vàng đá.
Trót gọi rằng hoa tụ phấn hương.
LA DUNG tỏ vẻ nghi ngờ: - Như thế thì tấc cả hoa thơ gởi đến lão vườn chắc đều được nâng niu tán thưởng?
Lão cười:
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Thơ hay chẳng luận của người của ta.
Khách cả cười và mỗi người trao tặng lão một bó hoa bọc kín. Lão toan mở giấy, LA DUNG ngăn lại: - Khoan. Hãy cho xem hoa trong vườn lão trước đã. 
Lão đưa khách đến bên giỏ hoa lão vừa soạn. LA DUNG vói rút một nhánh thuận tay, xem qua rồi nói: - Đây là “Cành hoa anh thảo” của VŨ HUYỀN DƯ ở Huế. Vũ quân gặp trên đường Van Thế cành hoa ấy, thấy có hương có sắc bèn nhặt gởi tặng lão vườn. Cả nhánh trổi nhất là hai đóa này:
Nhặt chiếc hoa rơi xin kính lão
Hương lòng hòa nhịp sắc hương hoa.
TUYẾT MAI phê bình: - Kể cũng có tình, song ai lại nhặt hoa rơi mà tặng? Nếu có thương hoa thì Vũ quân nên “Nhặt cánh hoa về ấp ủ hương” Còn muốn gởi tặng lão vườn thì thiếu chi hoa tươi trên cành? Nhặt hoa rơi dưới đất, dù là danh hoa đi nữa cũng là thất lễ, huống hồ anh thảo hoa.
Lão nói: - Đó chỉ do chỗ nghĩ không chín của Vũ Quân, chớ xem tình ý trong thơ thì thấy Vũ Quân có lòng muốn “đắc thọ”.
LA DUNG: - Tình thì quá đáng mến, nhưng lý thì không thể không trách. Khách phong tao cần phải thận trọng khi ngọn bút vào tay.
Lão tiếp: - VƯƠNG KINH CÔNG đời Tống nói rằng: “Chữ THI một bên chữ NGÔN, một bên chữ Tự. Tự là nơi quan cửu khanh ở, lời nói phi lễ phép không được vào”. (Thi giã TỰ NGÔN giã. Tự vị cữu khanh sở cư, phi lễ phép chi ngôn bất nhập). Đó là sợ kẻ làm thi mang lỗi bất kính nên KINH CÔNG mới nói ra lời ấy. Vì phần đông bạn thanh niên ít xem cổ văn nên không biết vậy.
TUYẾT MAI đón cành hoa xem kỹ: - Vũ Quân sắp xếp những cánh hoa đầu cành thành chữ LÀNH MẠNH, kể cũng đã công phu.
LA DUNG: - Đó là cách chơi chữ rất phổ thông trong làng thi Đường luật, và là ngón sở trường của những bạn lấy thơ làm món tiêu khiển như rượu cờ. Muốn trở nên một nhà thơ chân chính (un poète) thì những món tiểu xảo như thế nên nhường lại cho các ông thợ làm thơ (les versificateurs).
Lão nói thêm: - Trong một bài thơ, cũng như trong một khóm hoa, tình ý là gốc, từ cú là nhánh. Ca dao có câu:
Tiếc công vun quến cây tùng.
Săm soi trên ngọn dưới gốc sùng không hay.

Và cổ nhân dạy rằng: “Làm thơ trước hết phải lập ý. Ý lập được rồi thì lời tự đạt, vận tự hiệp, bài dễ tự thành. Nếu chẳng lo lập ý mà cứ lo trau dồi từng câu từng chữ, thì dù không rơi  vào chỗ cắt xé, cũng rơi vào chỗ chắp vá”.
Việc chuốt chữ còn phải tránh huống hồ việc chơi chữ. Phải tránh vì không khéo bị lâm vào cảnh “vun quến cây tùng”.
TUYẾT MAI: - Theo lời lão vườn vừa nói thì thơ hay ở ý. Nhưng đã có lần lão bảo rằng “Thơ là giai nhân nên trước hết phải đẹp”. Hai lời nói dường như mâu thuẫn nhau.
- Không có gì là mâu thuẫn. Thơ là giai nhân, giai nhân là hoa. Cho nên Thơ cũng như giai nhân trước hết phải đẹp. Đó là chân lý của muôn thuở. Nhưng giai nhân mà có là nhờ thịt nhờ xương. Tình ý là xương của thơ, mà từ cứ là thịt. Và giai nhân đẹp là nhờ thịt, nhưng nếu không có xương, hoặc xương bị gãy hay bị cong, thì liệu thịt có thể tự chải chuốt cho giai nhân trở nên đẹp?
LA DUNG: - Người năng thuyết phải tùy đối tượng mà thuyết, thì sở thuyết mới có hiệu quả đối với người nghe. Lão Vườn đã theo phép ấy.
TUYẾT MAI gật đầu, rồi lựa chọn một nhành hoa vừa ý đưa ra giới thiệu: - Đây nhánh “Sầu trăng” của CAO HOÀNG NHÂN, một nhánh hoa, theo ý tôi, có thể gọi là hoàn hảo:
Rạo rực hồn yêu là bóng trăng,
Mang mang tình ái vướng gương Hằng.
Triều thơ tưởng vọng chìm hương quế,
Sóng lệ hoài mơ loáng gác Đằng.
Nửa mảnh trời êm sầu vợi vợi..
Một màn sương dịu nhớ giăng giăng.
Người ơi! Hương lạnh trang tình sử,
Hư ảnh người xây mộng kịp chăng?
LA DUNG khen “thanh tao”, rồi hỏi lão: - CAO HOÀNG NHÂN là ai?
- Là một thanh niên trước đây tòng học ban Trung Học đệ nhị cấp trường Võ Tánh Nha Trang, hiện làm giáo sư một trường tư thục ở Phan Rang. CAO HOÀNG NHÂN có thi tài, nhưng thi học chưa được sâu rộng, nên thi phẩm thường được hoa lệ mà thiếu phần hàm súc, thâm thúy. Tuy vậy không có gì đáng ngại: Tuổi chàng đương trẻ, sức chàng đương hăng, bước tiến của chàng trên đường văn nghệ sẽ đi xa chưa biết đến đâu là cùng nếu chàng chịu khó nghiên cứu thêm văn chương Ầu, Á.
- Sách Á cũng như sách Âu dạy phép làm văn làm thơ thật là sâu xa, rành mạch. Rất tiếc phần đông thanh niên ta hiện giờ Hán văn đã kém mà Pháp văn cũng kém. Còn bên quốc văn lại chỉ có lơ thơ đôi quyển thi pháp nhập môn quá ư sơ lược. Kẻ cầu tiến bộ thật không biết đâu để đặt chân.
TUYẾT MAI: - Tôi thường nghe nói rằng: Thơ hay là do thiên tài chớ không phải nhờ học vấn. Như Anh Thơ. NGUYỄN BÍNH,… thời tiền chiến, học lực không quá mức tiểu học mà văn chương vẫn nổi tiếng một thời.
Lão đáp: - Không phải rằng đậu bằng nọ bằng kia mới gọi là có học. Cũng không phải đọc được thiên kinh vạn quyển mới gọi rằng có học. Học là thâu thập những tinh ba của người xưa người nay gởi trong sách vở, rồi nhào trộn biến chế thành vật sở hữu riêng biệt của mình, như con ong hút mật, con tằm ăn dâu…
TUYẾT MAI: - Nhưng có lắm người học vấn uyên thâm mà suốt đời không thấy một thi phẩm truyền tụng. Như thế học vấn có lợi gì cho thơ?
Lão cười: - Dường như NGHIÊM VÕ ngày xưa biết trước rằng TUYẾT MAI sẽ thắc mắc điểm ấy nên đã giải thích rành mạch.
- Giải thích thế nào?
- Rằng: “Thi có biệt tài chớ không quan hệ ở sách. Thi có biệt thú chớ không quan hệ ở lý. Nhưng không đọc nhiều sách, không hiểu thấu lý, thì thi không đến chỗ cùng tột được”. (Thi hữu biệt tài phi quan thơ giã. Thi hữu biệt thú phi quan lý giã. Nhiên phi đa độc thơ đa cùng lý, tắc bất năng cực kỳ chí giã). Lưu Tri Cơ: “Có tài không có học như người thợ mộc khéo thiếu gỗ, không hay vận búa được. Có học không có tài như người đi buôn ngốc cầm vàng, không hay chứa hàng được” (Hữu tài vô học như xảo tượng vô mộc, bất năng vận cân. Hữu học vô tài như ngu cổ thao kim, bất năng đồn hóa). Lão xin nói thêm cho “rậm đám”: Thiên tài là giống tốt của trời gieo, học vấn là phân nước của người bón tưới. Giống dù tốt đến đâu mà thiếu nước thiếu phân thì lộc có nảy chồi có sanh đi nữa cũng không được thạnh mậu. Nếu NGUYỄN BÍNH, ANH THƠ... chịu khó học hỏi thêm thì sự nghiệp văn chương nhất định sẽ cao thêm năm mười bậc nữa.
Nhưng thôi, lý luận mãi sanh nhàm. Hãy lo thưởng thức những hoa còn lại ở trước mắt.
TUYẾT MAI lựa thêm được hai nhánh. Một nhánh của Hoàng Khanh ở Bình Định đối chọi nhánh “Nhắn lão vườn” của nữ độc giả đã được giới thiệu kỳ trước. Một nhánh của VŨ TÒNG ở Kon Tum “Gởi tặng lão Vườn Thơ”. Nàng cầm xem hồi lâu rồi lấy kéo xắp những lá lảy rườm rà và những đóa hoa bầm héo, chỉ còn để mỗi nhánh hai đóa song sanh.
Đây là hoa của họ Hoàng:
Xuân gầy gõ bướm duyên cành phấn
Thu sụt sùi mưa lệ bến ngâu.
Và đây thơ họ VŨ:
Bút ngưng ý nhạc lời gieo ngọc
Mực thấm tình hoa giấy trải hương.
LA DUNG khen hay. Lão nói:
- Nếu không nhờ bàn tay khéo léo của TUYẾT MAI thì những đóa hoa kia đã bị khuất lấp trong mớ lá rậm hoa hư. Giai nhân lắm lúc thật có lợi cho văn chương lắm vậy.
TUYẾT MAI mỉm cười. LA DUNG vội lấy lại bó hoa trao cho lão khi nãy:
- Phải lắm, những gì không đáng để mà để lại thì rất bất lợi cho những cái đáng để.
Nói đoạn mở vất tất cả những giỏ hoa, chỉ để lại có hai nhánh. Một “tức cảnh”, một “tức sự” và mỗi nhánh chỉ còn vỏn vẹn có hai đóa hoa tịnh để cân phân:
Mây hồng nắng hạ non xung bạc
Trăng gợn song thu nước mạ vàng.

- Nhẹ gót non mai choàng gió mát,
Neo thuyền bến lách vọc trăng trong.
Lão khen:
- Đẹp! Cặp trên dụng công. Cặp dưới tự nhiên, ba chữ “vọc trăng trong” thật liến!
TUYẾT MAI cười: - Rõ là khẩu khí khách phong lưu!
LA DUNG cũng cười: - Văn là người kia mà.
TUYẾT MAI: - Tôi nhận thấy trong số hoa thơ gởi đến cho Lão vườn đa số thuộc giống Đường luật. Có lẽ vì lão vườn thích thơ Cũ hơn thơ Mới xui nên thanh khí ứng cầu? Hay người đời nay trở lại thích sự ràng buộc của người trước?
- Đối với lão, không có thơ Mới thơ Cũ mà chỉ có thơ dở thơ hay mà thôi. Và đối với Thơ chỉ có chất thơ và vị thơ là đáng chú ý, còn thể thơ là phụ thuộc, người làm thơ tùy sở thích mà chọn lựa thế nào phù hợp với tâm hồn. Thể Đường luật, qui tắc chặt chẽ, chỉ thích hợp với những tâm hồn nhã đạm, trầm tĩnh…, những tâm hồn đã được tiết chế kỹ càng. Đối với những tâm hồn phóng túng, những tâm hồn nhiệt động… thì Đường luật bị coi là chướng ngại vật, nên rất ghét và tránh xa. Nhưng đã gọi là Thơ thì dù là Thơ Tự Do đi nữa cũng vẫn có qui tắc, chớ nào có phải tự do múa gậy vườn hoang. Mà đã có qui tắc tức đã có sự buộc ràng. Có lẽ TUYẾT MAI đã có nghe lời của văn hào André GIDE?
- André GIDE nói thế nào?
- Nói rằng: “Nghệ thuật sanh do cấu thúc, sống nhờ tranh đấu và chết vì tự do”. (L’ art nâit de contrainte, vit de lutte et meurt de liberté).
LA DUNG:
- Vấn đề nghệ thuật nói không biết bao giờ cho hết. Hãy gác lại để thưởng hoa của TUYẾT MAI đây.
Vừa nói LA DUNG vừa mở gói giấy: - Đây là nhánh là giây thì đúng hơn hoa antigone hái nơi lưng thành một blokhaus hoang vắng đứng dưới bóng chiều tà.
Lửa nguội lòng chinh chiến
Đỉnh lô cốt chon von..
Lưng tường chiều trải bóng
Tươi thắm màu ty gon.
Lão gật gù:
- Đó là một bức tranh chấm phá! Lời ít mà ý nhiều! Có phải TUYẾT MAI muốn diễn cái ý “vạn vật vô tình”?
- Phải. Ngọn lô cốt kia nào phải vì ghét nhân loại mà phun lửa đạn ra giết người, và cũng không phải vì thương hoa nên trải lưng cho hoa nương tựa. Còn hoa kia nở dưới bóng chiều là đến lúc phải nở chớ nào phải để Tuyết Mai thưởng thức rồi hái tặng lão vườn.
LA DUNG:
- Đây là một bài thơ tượng trưng, có tánh cách gợi cảm hơn là phô diễn.
Lão tiếp:
- Vì vậy ngoài cái ý vạn vật vô tình, nó còn gợi hình ảnh con người và dục vọng. Ngọn lô cốt kia là thân xác của con người. Những người núp trong lô cốt với súng đạn là dục vọng. Khi dục vọng nổi dậy thì con người trở nên xấu xa và độc ác biết bao nhiêu. Nhưng khi tham sân si đã diệt được hết rồi, thì còn gì đẹp đẽ bằng hình ảnh con người giác ngộ: cao siêu tự tại như ngọn tháp đầu non, và hiền lành như bóng chiều, vui tươi như màu hoa sắc lá.
TUYẾT MAI: - Ý tưởng ấy, xin thú thật rằng tôi không nghĩ thấu. Lão vườn đã phong phú thêm cho bài thơ.
Lão đáp: - Có nhiều khi ý tưởng nằm sâu trong tiềm thức, nhân cơn hứng nổi dậy mà theo ra cùng văn chương. Tác giả vô tình không trông thấy, nhưng độc giả hữu ý nên tìm ra.
LA DUNG: - Nhìn vào mặt nước, khách si tình thấy bóng mình, thường tưởng là bóng tình nhân.
Lão cười: - Tây Thi nhìn thấy bóng mình trong lòng giếng Cô Tô. Narcisse trông thấy bóng mình dưới dòng khe ngưng túy. Rồi Tây Thi yêu giếng, Narcisse mê khe. Ý hẳn chàng cũng như nàng đã lầm tưởng bóng mình là bóng khe giếng? Nhưng nói chi thì nói, chớ nước mà đã in rõ được bóng người soi thì chất nước nhất định phải trong lắm lắm. Mà còn gì quí hơn chất thơ trong?
Khách thích ý cười to. Nhưng khí nóng của mặt trời quá buổi giục khách phải tạm biệt.
12. 
Nghe tin lão đi Nam Đô vừa về bạn Hồng Sơn đến thăm:
- Đi Nam Đô về có đem về được nhiều hoa thơ quí giá chăng hỡi?
- Đi không chẳng lẽ lại về không.
Nhưng hoa thơ lão đem về đây không phải hái cũng không phải mua trong cảnh tưng bừng nhộn nhịp của Đô thành. Ở nơi phồn hoa đầy hoa: Hoa Giai Nhân, hoa Đà Lạt, hoa ni lông, hoa đèn điện… nghìn sắc muôn hình. Nhưng thiếu hoa thơ, vì quá náo nhiệt, nàng Thơ phải lánh mình trong  những nơi đường hẻm, ngõ sâu.
Đi chơi cùng lão có anh chàng họ CAO và anh chàng họ NGUYỄN. Biết lão muốn tìm nàng Thơ, hai chàng bèn rủ vào vườn Thảo Cầm mà xưa kia gọi là Vườn Bách Thảo, là nơi có rào chắn ngựa xe.
Trong vườn này có nhiều cây to và nhiều thú, chớ không phải chỉ có những giống cỏ và những giống chim, như  tên đã đặt. Và ở đây cũng có nhiều giống hoa như ở ngoài phố.
HỒNG SƠN:
- Trong nơi yên tịnh, đã có nhiều hoa thì chắc là nhiều thơ lắm lắm?
Lão cười:
- Chắc tìm cũng không thấy thơ, nếu không gặp được ông VƯƠNG HỒNG SỂN ở Tàng Cổ Viện trong Thảo Cầm Viên.
Hồng Sơn vỗ vế cười ngất: - Thế thì Vương tiên sinh đã “cù” nàng Thơ vào Tàng Cổ Viện rồi chớ gì?
- Không phải nơi Tàng Cổ Viện, mà nơi mấy chén cổ, tô cổ của ông.
Ngoài bộ chén Mai Hạc có in câu thơ lục bát của cụ Nguyễn Du đề lúc đi sứ sang Trung Hoa:
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ, hạc là người quen.
Ông Vương còn có một cái chén và một cái tô cổ vẽ sơn thủy và đề thơ Nôm.
Trên chén vẽ một người hành khách đứng bên ngựa, ngước mặt nhìn một cảnh cung điện nguy nga. Bên cạnh đề bốn câu thất ngôn rằng:
Một cảnh lâu đài tốt mỉa tiên
Những con mắt tục ắt ưa nhìn .
No nao tay phiếm giây cầm sắc
Kẻo nhọc thung thăng sứ điệp truyền.
Bài này lão nghi là của PHAN HUY ÍCH đời Tây Sơn, vì tương truyền rằng khi đi sứ sang Trung Hoa cùng Vũ Văn Dũng, họ PHAN có đề tặng một nhà làm đồ sứ một bài thơ, mà văn chương bài này thật giống văn họ PHAN. Nhưng đó chỉ là ức đoán chớ không có chi làm bằng.
Còn chiếc tô của ông VƯƠNG là một tô chữ NHẬT vẽ phong cảnh nước non, và đề một bài ngũ ngôn bát cú:
Một thức nước in trời
Đò ai chiếc lá khơi .
Non cao xem vọi vọi,
Dòng biếc thấy vơi vơi.
Mắn khúc Thương Lang khảy,
Ở đây nhiều khách chơi
Mong chờ yên sóng gió,
Qua lại mặc người đời.
Ông VƯƠNG bảo rằng chiếc tô này do vua Tự Đức đặt người Trung Hoa làm, nhưng chưa kịp phân phát ra ngoài dân gian thì vua băng, nên tô này ít nơi có.
Cũng như bài tứ tuyệt trên, bài bát cú này do ông Vương đọc cho lão nghe, chớ lão chưa được nhìn nét chữ ẩn hiện dưới nước men Trung Hoa. Và bài ngũ ngôn bát cú này lão thấy có sách chép dưới nhan đề là “Đề tranh sơn thủy” với đôi chỗ hơi khác:
Một thức nước in trời,
Đò ai chiếc lá khơi,
Non xanh cao vọi vọi,
Dòng biếc chảy vơi vơi,
Mắn khúc Thương Lang gãy
Ứa tình lữ khách chơi.
Mong chờ yên sóng gió
Qua lại mặc người đời.
Ông Vương còn cho biết rằng chén Mai Hạc có đến hai thứ, hình vẽ giống nhau, nhưng một thứ đề câu thơ lục tát của cụ NGUYỄN DU, một thứ đề hai câu ngũ ngôn chữ Hán:
Mai sơn xuân tín tảo,
Tiên hạc tháp vi đầu.
Nghĩa là:
Tin xuân mai mách sớm,
Tuổi thọ hạc bay cao.
Nói đến đồ cổ, lão chợt nhớ đến câu chuyện lão được nghe lúc thiếu thời. Rằng:
Một hôm có người Trung Hoa đến tặng bà Huyện Thanh Quan một bộ chén sứ, và xin bà một câu đối. Bà liền hạ bút viết hai câu thơ nôm:
Như in thảo mộc trời Nam lại,
Mang cả sơn hà đất Bắc sang.
Người Trung Hoa không hiểu ý nghĩa câu thơ như sao, mừng rỡ đem về Tàu, và lần sau sang, đem đến tặng bà huyện một bộ chén có in hai câu thơ ấy. Một người xem thấy, nói đùa:
- Phải chi sự thật được như thơ, thì dân tộc Việt Nam không đến nỗi phải dùng đồ đất!
Kể cũng là một chuyện có lý thú, song nếu mắt được nhìn thấy bộ chén có hai câu thơ của bà Huyện Thanh Quan, thì thú càng thêm thập bội.
Hồng Sơn cười:
- Hoa thơ Việt Nam mà mọc trong men Trung Quốc, ngày xưa đã lấy làm quý, đến bây giờ lại càng quý biết bao! Vừa nghèo vừa quê như chúng mình, làm gì có những bảo vật ấy, để mà thưởng thức! Nhờ lão vườn cao hứng đi Nam Đô mà già này biết thêm được đôi cái chưa biết. Đó cũng là DUYÊN. Nhưng đó là hoa trong men sứ. Thủ đô là nơi tụ tập nhân tài, có lẽ lão vườn cũng có hái được ít nhiều hoa của các thi hào thi bá?
Lão liền vào nhà, khuân ra một chồng cao “hương sắc”:
- Đây là của Vũ Hoàng Chương, đây là của Đinh Hùng, đây là của Đông Hồ, Mộng Tuyết, đây là của Bùi Khánh Đản, đây là của Hà Thượng Nhân, đây là của Bút Trà thi ông...
Hồng Sơn vội ngắt lời:
- Các danh nhân trước, lão vườn chỉ kể tên, sao đến Bút Trà, lão vườn lại phải thêm hai chữ thi ông ở cuối?
- Bởi vì trên 30 năm nay người ta chỉ biết có bà BÚT TRÀ là một vị phu nhân đã dùng ngòi bút và giấy mực, tạo nên sự nghiệp “vĩ đại” ở Việt Nam. Nay nếu chỉ nói trổng hai tiếng BÚT TRÀ thì sợ e có cảnh “cằm râu lầm lẫn”.
- Thơ của BÚT TRÀ thi ông có hay chăng?
Lão thành thật đáp:
- Cũng như các thi nhân lão vừa kể và hầu hết các tao khách trong nước, thơ Bút Trà đã  hành thế.
Hoa thơ đã bán chợ đời,
Vườn lòng đã mở cho người thưởng chung.
Thì xin mời bác “tùy thích tùy nghi” vậy.
Hồng Sơn ung dung ngồi xem những giai phẩm từ Nam Đô lão mang về:
- Cỡi ngựa xem hoa, không thể nhận thức được chu đáo. Già xin mượn câu thơ của Lão Vườn, để phát biểu ý kiến, sau khi xem xong các tập còn thơm nét mực đô thành:
Hoa nào hoa lại không hương sắc,
Một cánh hoa tươi một điểm tình.
Lão biểu đồng và tiếp:
- Riêng về ĐÔNG HỒBÙI KHÁNH ĐẢN, ngoài những giai tác đã in thành sách, hoặc đã đăng lên báo chí, hai nhà còn nhiều văn thơ mới lọt qua mắt năm mười bạn tương tri như:
ĐỀ VƯƠNG GIÃ HƯƠNG ĐÌNH
Đâu đây thoang thoảng gió hương ngàn?
Hương gió ngàn chăng? Hương gió lan?
Cho mực đượm vào hương sực nức,
Cho thơ hòa với gió mơn man..
Phương tâm tìm được trong vương giã,
U cốc gần nhau giữa thế gian.
Dầu chẳng đá rêu dầu chẳng  suối,
Lòng tiên cõi tục cũng thanh nhàn.
Bài bày tác giả tự  tay viết viết chữ quốc ngữ bằng ngòi bút lông - thành một bức trướng rất đẹp…
Hồng Sơn chận lại: - Khoan. Vương Giả Hương Đình ở nơi nào, xin cho biết trước đã, rồi muốn nói chi thì nói.
Lão cười: - Là Đình thơm của Đông Hồ ở tại Sài Gòn vậy.
Bốn chữ này nếu viết “Vương Giả Hương Đình” thì có nghĩa là Đình thơm của bậc Vương giả. Còn viết “Vương Giả Hương Đình” thì nghĩa là Đình đầy mùi hương Vương giả, tức là Đình hoa lan. Nghĩa tuy khác nhưng ý vẫn như nhau, cho nên chủ nhân viết không có những ngang nối, để cho rộng nghĩa.
- Lão Vườn đã đến Vương Giả Hương Đình chưa?
- Lão có đến thăm Đông Hồ mấy lần. Song nơi chủ nhân tiếp lão, không biết có phải là Vương Giả Hương Đình chăng. Lão không thấy hoa lan, nhưng mùi hương sực nức, vì hai đỉnh trầm luôn luôn cuốn khói xanh.
Đông Hồ có phong thái của người xưa, và thi sĩ sống một cuộc đời phong lưu đài các, có thể nói là một cuộc đời vương giả.
Hiện giờ tại Thủ Đô cũng có một số nhà văn nhà thơ sống trong cảnh phú quý. Song giàu thì giàu, sang thì sang, vẫn nhượng Đông Hồ, đọc bài thơ trên, Già cũng thấy qua được con người của thi sĩ.
Còn BÙI KHÁNH ĐẢN?
Lão lấy tập Đường thi trích dịch của họ Bùi đưa cho ông bạn:
- Chỉ làm được bấy nhiêu công việc cũng đã hết sức hết hơi. Thế mà đó mới là phần I, còn phần II nữa dày gần gấp đôi. Chưa hết, Bùi quân sắp cho ra đời một tập thơ gồm 400 bài sáng tác. Sức bút của họ Bùi thật là khỏe, tứ thơ của họ Bùi thật là giàu.
Và đây lão xin giới thiệu cùng bác một bài tác giả vừa mới làm ngày 1/2/1962:
BẠCH CHỈ HOA
(Đề dàn hoa giấy trắng trên cụm hoa giấy hồng tại tư thất Đoàn Thi sĩ)
Bạn hỏi: Mây tan hay tuyết rơi?
Thưa: Thơ nghìn mảnh nguyệt đương cài.
Lá phô nền biếc đàn thân mật,
Hoa rủ khung hồng kết thắm tươi.
Đài khép thanh sương trời sớm đọng,
Cánh đưa luân vũ gió đông cười.
Dù cho giây phút dù muôn thuở
Cũng đã nên duyên cảnh với người.
Văn thật là già dặn, tứ thật là mới mẻ. Trong làng Thơ Đường luật hiện thời, những bài như Bạch chỉ hoa, Vương Giã Hương Đình... là những ngôi sao trong lúc trời gần sáng!
BÙI KHÁNH ĐẢNĐÔNG HỒ thường qua lại với nhau trong bút mực. Tự đề Đường Thi trích dịch, Bùi quân có bài:
GIÓ NHẸ TRĂNG NON
Đây chút tơ tằm trả nợ sâu
Đem lòng người trước gởi người sau.
Mong làm gió nhẹ qua hiên gác,
Luống thẹn trăng non xế mái lầu!
Ai xót Thanh Liên bờ Thái Thạch,
Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu.
Đêm đêm đọc lại dòng thơ cũ,
Có thấy tâm tình gặp gỡ nhau.
ĐÔNG HỒ họa vận, dưới đầu đề THỬ TÀI LÝ ĐỖ:
Chớp mắt tàn theo mấy bể dâu
Nghìn xưa còn sống với nghìn sau.
Thời gian mực xóa bờ kim cổ,
Hồn mộng thơ xây nếp thấn lầu.
Đàn sáo dặt dìu ca vũ địa,
Vàng son lộng lẫy đế vương châu.
Đâu là Lý Đỗ đâu Bùi Đỗ.
Khéo trộn vào nhau cho lẫn nhau.
HỒNG SƠN: - Thật xứng đào xứng kép. Nhưng trong câu chuyển bài của Đông Hồ, có chữ BÙI ĐỖ, Bùi là Bùi Khánh Đản còn Đỗ là của ai?
Lão lật quyển Đường Thi trích dịch:
- Đỗ bằng Đoàn, người cộng tác cùng Bùi quân trong việc dịch Đường Thi. Bùi quân lo việc dịch vần, Đỗ quân lo dịch nghĩa và chú thích.
Hồng Sơn: - Thơ Đông Hồ có vẻ đài các. Thơ Bùi Khánh Đản đượm buồn.
Lão đáp “Thơ là Người” rồi đọc tiếp bài thơ của Bùi quân đã “Trả lời” cho những bạn đọc quen biết:
Đừng hỏi thơ sao vẫn đượm buồn.
Đời tôi: lá úa đọng hoàng hôn.
Tình theo sương nhạt tan đầu núi
Ý gởi trăng mờ lạc cuối thôn.
Bốn ngả anh em đều góp hận,
Hai phương sông núi đã chia hồn.
Vườn hoang còn một bông hồng nhỏ,
Mưa gió e rồi cũng rụng luôn!
Hồng Sơn cảm động. Một thoáng mây buồn lướt qua gương mặt lúc nào cũng thấy vui. Ông bạn khe khẽ ngâm:
Vườn hoang còn một bông hồng nhỏ,
Mưa gió e rồi cũng rụng luôn!
Và nói:
- Sao bi quan đến thế? Trong bài, hai câu này và câu thứ 2 thật hay. Cổ nhân thường nói “Đời sông của Bùi quân đối với Đông Hồ chắc cũng bên chú bên bác?
Tự nhiên lão cảm thấy buồn, nhưng với giọng thản nhiên lão đáp:
- Vì sanh kế BÙI KHÁNH ĐẢN thi nhân đã trở thành một công chức làm việc một ngày hai buổi tại nhà Văn Hóa Sài Gòn.
HỒNG SƠN cười: - Như thế BÙI quân vừa là bạn đồng điệu vừa là bạn đồng nghiệp với Lão Vườn.
- Đồng nhưng bất đồng. Riêng nói về nghiệp: Bùi quân là một công chức văn hóa. Lão là một công chức hành chánh…
Tuy thế vẫn là công chức.
Mang lấy nghiệp công chức, lắm lúc thật buồn cho sự nghiệp văn chương. Tuy văn chương là lẽ sống ở đời, nhưng hết bảy phần trăm thì giờ phải bỏ ra để lo tròn nhiệm vụ người công chức. Lại còn một sự thật rất đau xót: Hồn thơ Đường không phù hợp với cuộc đời hành chánh, nên tình đời khi ghét khi thương…
Nửa trái đào tặng bạn đương khi bạn vui, thì bảo đó là tình chân thành tha thiết. Cũng nửa đào ấy mà khi ghét, thì người tặng đào bị mang tiếng khinh ngạo khi thường.
Đã bao lâu hồn Thơ lạc loài nơi các công sở, văn nghiệp bị thương tổn khá nhiều, mà nạn nhân là lão, vì gánh nặng gia đình, phải cam lòng chịu vậy.
Nghĩ phận lão, lão chạnh thương Bùi quân.
Nhưng lão lại mừng cho Bùi quân, vì bùi quân được làm việc trong một công sở lo về việc văn hóa, lại gặp được ông phó giám đốc là một nhà văn có bụng lẫn tài. Bùi quân khỏi bị sống bơ vơ giữa những người suốt đời xa lạ tuy sớm thấy mặt nhau, chiều thấy mặt nhau.
Hồng Sơn đứng dậy cáo từ, vừa đi vừa ngâm lớn:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Lão ngâm tiếp:
Trăm năm trong cõi người ta,
Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều.
Văn chương mang lụy dẫu nhiều,
Vườn hoa thơ miễn mai chiều phấn hương.
(1962)
Quách Tấn
Theo https://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những trường đại học của tôi 2XXX

Những trường đại học của tôi 2 Kèm theo lời nói, cánh tay trái lông lá của ông ta làm điệu bộ giống như chém vào không khí, còn tay phải t...