Thứ Năm, 11 tháng 3, 2021

Hương vườn cũ 7

Hương vườn cũ 7

36.I

Phù Cát có nhiều tay hay chữ. Những khoa thi ở Bình Định, Phù Cát đã mấy lần chiếm thủ khoa. Lại có người không thi đậu chi cả mà tiếng nổi từ xưa, mãi nay còn vang vọng.
Đó là kỳ sĩ PHẠM TRƯỜNG PHÁT.
Kỳ sĩ trước ở thôn Chánh Mẫn sau dời sang Đại Hữu.
Người đồng thời cùng NGUYỄN BÁ HUÂN và cùng họ Nguyễn nổi tiếng là cuồng chữ, tục gọi là Bình Định song cuồng.
Khoa nào hai cụ cũng đi thi, nhưng không lều chõng, không giấy bút. Vào trường thi thì thẳng đến thập đạo lãnh giấy bút ngồi làm văn.
Cụ Nguyễn thì bầu đựng nước chứa đầy rượu. Hễ làm được một câu hay thì thưởng một chén, thưởng mãi đến say vùi… [1]. Còn cụ Phạm thì đầu quấn khăn trắng ràng rịt dọc ngang đến mấy bận. Hỏi lý do. Đáp:
- Hay chữ quá sợ rủi nổ đầu. Ngồi nơi thập đạo, chẳng may não văng lây chữ cho quan trường uổng, nên phải đề phòng.
Bút giấy vào tay thì viết thao thao bất tuyệt. Viết đã, ngừng đọc lại, cao hứng lấy bút khuyên:
- Để quan trường khuyên uổng.
Rồi cáo bệnh bỏ ra.
Cụ Phạm cũng như cụ Nguyễn đi thi từ ngày trường thi mở tại Bình Định.
Trường thi Bình Định mở năm Tự Đức thứ tư (1851), mở cho các tỉnh từ Quảng Nghĩa vào đến Bình Thuận.
Khoa đầu tiên là khoa Nhâm Tý (1852). Người Quảng Nghĩa dựt thủ khoa. Nên có câu:
Tiếc công Bình Định xây thành
Để cho Quảng Nghĩa vô giành thủ khoa.
Nhưng đến khoa sau là khoa Ất Mão (1855), rồi tiếp hai khoa nữa là khoa Mậu Ngọ (1858) và khoa Tân Dậu (1861) ngôi thủ khoa đều vào tay người Bình Định. Nên lại có câu:
Tiếc công Quảng Nghĩa đường xa
Để cho Bình Định thủ khoa ba lần.
Tuy thủ khoa ba lần liên tiếp vào tay người Bình Định, nhưng sỹ tử Quảng Nghĩa không phục, nên sau khi yết bảng, thường tìm cách hạ thể giá vị thủ khoa. 
Một lần, trong một quán nước, một tân khoa Quảng Nghĩa gặp vị thủ khoa Bình Định là Phan Võ Hoành người Phù Cát, liền buông lời thách thức. Nhân trong quán có trang thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ, phía trước dán câu đối:
Trạc trạc khuyết linh
Dương dương tại thượng. 
Thầy tân khoa Quảng Nghĩa bèn ra đối, thách vị tân thủ khoa Bình Định đối:
Trạc trạc khuyết linh,
Anh thấy em xinh, dương dương hồ tại thượng. 
Người ra đối mượn cảnh trước mắt, lại mượn chữ có sẵn ghép lại thành câu. Câu đối khúc mắc ở những điểm đó. Vị thủ khoa chưa kịp cấu tứ, thì một người Bình Định ngồi gần đó, đứng lên thưa:
- Tôi là một tên thi hỏng. Nhưng thấy vế đối ra kia quá tầm thường, không xứng để quan thủ khoa đối. Nên xin cho phép tôi đối thế.
Đoạn bảo chủ quán đêm rượu và thức nhấm lên để trợ hứng. Chủ quán liền đi lấy rượu và gọi vói xuống bếp bảo vợ đem thức ăn lên. Người vợ dạ một tiếng lớn. Tiếng dạ vừa dứt, thì người Bình Định liền đối ngay:
Cấp cấp bất hạ,
Chồng kêu vợ dạ, đản đản kỳ nhiên tai. 
Ai nấy đều thất kinh!
Người Bình Định đó không ai khác hơn là PHẠM TRƯỚNG PHÁT mà thầy tân khoa Quảng Nghĩa đã từng nghe danh nhưng chưa biết mặt.
Thơ văn của cụ, bên chữ Hán cũng như bên Quốc âm, làm đâu bỏ đó, chớ không bao giờ chép lại. Vì vậy chỉ còn truyền được một bài: 
CÁ CHẬU CHIM LỒNG
Chim thời quen núi cá quen sông
Lúng túng vào ra chậu với lồng
Khó vẫy khó vùng trong nước túng
Khôn bay khôn liệng giữa trời không
Trông chừng biển bắc tung đuôi ngạc
Ngắm vọi non nam chớp cánh hồng
Lồng chậu một mai thân thoát khỏi
Chim trời nên phụng cá nên rồng. 
Vị phụ lão tiền bối ở thôn Phú Phong quận Bình Khê, là Chuyết Nhân tiên sinh cho biết rằng bài này cụ Phạm sáng tác sau khi phong trào Cần Vương Bình Định bị dứt. Cụ cùng các thân hào nhân sỹ ứng nghĩa đều bị bắt giam. Ở trong ngục, để khiển hoài, cụ cùng các đồng chí làm nhiều bài khẳng khái. Bài này được nhiều người thuộc nên được lưu truyền. Sau khi được trả tự do, cụ về nhà được ít lâu thì mất, mất vì uất hận không diệt được thù cứu được nước.
Chú thích:
[1] Đã nói ở đoạn trước rồi.
36.K
Ở An Nhơn và Phù Cát có ba nhà túc nho đầu Phật, nổi tiếng về thơ Quốc âm:
- Hòa thượng Bích Liên ở An Nhơn.
- Cư sĩ Minh Tịnh ở Phù Cát.
- Thượng Tọa Liên Tôn ở Phù Cát.
Cả ba đều đậu tú tài triều Thành Thái. Thượng Tọa Liên Tôn lúc còn nhỏ học Nho cùng Cư sĩ Minh Tịnh, khi lớn học Phật cùng Hòa Thượng Bích Liên.
Ba vị đều đã qui tịch trên dưới ba mươi năm nay.
Hòa Thượng Bích Liên và Thượng Tọa Liên Tôn còn để lại:
- Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm diễn dịch (dịch chung).
- Một số thi ca đăng ở tạp chí Từ Bi Âm.
Cư sĩ Minh Tịnh còn để lại:
- Tuồng hát bội Lưu Bình Dương Lễ.
Minh Tịnh thi tập (một nửa chữ Hán, một nửa Quốc âm). 
Thơ của Hòa Thượng Bích Liên và Thượng Tọa Liên Tôn, tôi đã được đọc, song không còn thuộc được bài nào vì một là đã lâu ngày, hai là lối thơ tải đạo khô khan khó nhớ.
Hòa Thượng Bích Liên và Thượng Tọa Liên Tôn luyện tánh khắc khổ từ lúc nhỏ. Trái lại Cư sĩ Minh Tịnh, lúc thanh xuân là một tay phong lưu tài tử. Cho nên mặc dù qui y Tam Bảo, tánh tình vẫn khoáng đạt hào hoa. Tác phong trông có vẻ tiên hơn vẻ Phật. Do đó văn chương lúc già cũng như lúc trẻ, không bị bệnh hữu thanh vô vận, hữu cán vô ba.
Tập Lưu Bình Dương Lễ rất được giới ca sĩ hoan nghênh. Khách, câu ngâm, câu bạch, câu thán…, và thường diễn sự tích Trung Hoa. Tuồng Lưu Bình Dương Lễ phá lệ: Tất cả các lối đều dùng Quốc âm và diễn sự tích phổ thông của người Việt.
Tôi còn nhớ được bài thơ của Lưu Bình ngâm lúc bị Dương Lễ bạc đãi: 
Bạn bè như thế thế thời thôi!
Ôm tấm lòng này ỷ ỷ ôi!
Sống thác đã thề chung giữ một
Sang hèn sao vội rẽ làm đôi?
Tiếng đàn tri kỷ nghe sao vắng
Chén rượu đồng tâm lạt hẳn rồi
Miệng cắn răng cười, cười lại khóc
Bạn bè như thế thế thời thôi! [1] 
Thơ làm đủ lối: Tả tình, tả cảnh, vịnh sử, vịnh vật, phúng thế, tức sự…
Cư sĩ cùng tôi vốn có mối liên hệ gia đình, nên tập thi và bổn tuồng tôi có đủ. Song trải mười năm kháng chiến, hầu hết văn thơ của tiền nhân tôi sưu tầm được đều tàn trong khói lửa! May trong Minh Tịnh thi tập, có một số bài tôi thích nên còn nhớ được: 
CHÙA ÔNG NÚI [2]
Thạch đổng xưa tu nổi tiếng thầy
Thầy nay đâu vắng dấu còn đây
Giữ chùa ông hộ non xây đá
Cúng phật vùa hương biển kéo mây
Nước nhỏ lon bon chuông dưới suối
Gió khua lốc cốc mõ đầu cây.
Những ai phiền não trường sanh lợi
Thấy cảnh thời lòng cũng giải khuây. 
DẠY HỌC
Cầm thư một gánh nặng hai vai
Cái thú phong lưu nghĩ nhớ hoài
Mở quyển thanh huỳnh roi dấu thánh
Rèn câu trung hiếu đúc lòng trai
Lạc quần sớm nhủ đôi trò bé
Nhàn dưỡng chiều ngơi một giấc dài
Nho nhã mặn nồng riêng một thú
Bên đương danh lợi mặc dù ai. 
VỊNH HOA LAN
Mai cúc cùng nhau kết bạn bè
Dám đem xanh đỏ với đời khoe
Bóng chen sân Tạ càng cao cách
Hương ngát đình vương lắm phẩm đề
Giục khách tài ba ngơ ngẩn mộng
Say tình công tử sững sờ xe
Ôm màu tuyệt sắc chờ người thưởng
Bao quản phong trần mấy lớp che. 
Đưa một thanh niên đi thi, có câu:
Quyển xếp thầm cưới râu lão đố,
Đường dài mặc sức vó long câu. 
Buổi trung niên bị đoạn huyền, Cư sĩ cưới một quả phụ làm kế thất. Người quả phụ vốn là người có học, nên đêm hợp cẩn, Cư sĩ có nhiều thơ tặng. Có câu:
Vin nhánh hương trời tuy có muộn
Nhìn gương nước thủy vẫn chưa trôi. 
Những bài khác trong thi tập, văn chương đều lão luyện như thế cả. Không biết hiện thời, gia đình còn giữ được toàn tập Minh Tịnh chăng? 
Đồng thời cùng cụ Phạm Trường Phát, nhưng thuộc lớp hậu bối, ở Phù Mỹ có cụ NGUYỄN XUÂN KIỀU cũng nổi tiếng hay chữ và ngông cuồng.
Lực học uẩn súc. Tài văn hoạt bát. Song tánh tinh ưa trào lộng châm biếm. Nên trải bao nhiêu khoa, khoa nào vào trường tư cũng bị quan trường đánh hỏng. Tức mình bỏ thi, theo ghe đi ngao du khắp trong Nam ngoài Bắc. Qua lại những nơi phiền ba đô hội cùng khách phong lưu, cụ mang phải bệnh nghiện A phiến. Tài ba cũng như tài sản lần lần tan theo khói mây. 
Mãi đến năm Ất Dậu (1885), kinh đô Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, cụ mới giật mình tỉnh ngộ. Bởi chiếu Cần Vương vừa ban bố, cá sỹ phu trong nước đều rập nhau. Kẻ đem tài thao lượt ra diệt thù, kẻ đem tài kinh luân ra cứu quốc. Cụ nghĩ mình cũng mang danh học thức như người, mà trong lúc quốc gia hữu sự lại đành đắm mình trong vòng trụy lạc, trương mắt trắng ra nhìn cảnh tang tóc của nước non, thì còn cảnh bi ổi nào hơn nữa. Cụ bèn quyết chí trừ bỏ, gian khổ nhưng kiên trì, chỉ một tuần trăng là thành hiệu. Cụ ăn mừng bằng một bì văn tế ả Phù Dung. Có nhiều câu xuất sắc: 
Chẫu Mãn sinh thành, cõi nam tụ bạ.
Trên lượng thánh biết tệ đoan nhặt cấm, nghiêng mình nương náu lánh người đông;
Dưới thằng Ngô xin nạp thuế những nay, trỗ mặt nghênh ngang ngoài cõi hạ...
Giường thất bảo đặt yên một cõi, ngửa nghiêng nương gối bích thảnh thơi;
Màn bát tiên vây phủ bốn bề, lần lượt cởi xiêm vàng thong thả... 
Ối thôi thôi!
Đất chinh chinh xe trước đã gập ghềnh,
Đường phẳng phẳng ngựa sau đừng vội vã.
Ra tay quyết dẹp nơi khói lửa, rửa gan vàng bồi đắp lại giang san;
Cất lưng này dậy khỏi chiếu chăn, xuê gót ngọc vững bền trên xa mã.
Đổi đèn lửa làm cây ngọc chúc, để mà soi bốn bê điều hòa;
Thay móc tim làm ngọn kim qua, để mà dẹp hai phương giặc giã...
Quả như lời cụ tế Nha phiến, khi vừa bỏ hút, cụ liền gia nhập phong trào Cần Vương. Cụ chịu chung một số phận cùng các văn thân Bình Định. Sau khi được phóng thích, cụ về nằm nơi quê hương, lấy việc ngâm thơ đọc sách, viếng bạn thăm thầy, làm thú tiêu khiển.
Cụ sở trường về Quốc âm và có tài thất bộ. Nhưng văn thơ của cụ không còn truyền được mấy. Ở Bình Định nhiều người thuộc bài văn tế nha phiến và bài văn lục bát trường thiên kể những hải khẩu, những thắng cảnh, những địa danh có nhiều đặc điểm…, ở dọc theo bờ biển Việt Nam, từ Phú Xuân vào Gia Định, mà cụ đã soạn trong lúc theo ghe bầu đi ngao du.
Bài này văn chương bình dân. Cụ soạn ra chỉ để giúp cho bạn đi ghe hát mua vui, cho nên cần giản dị cho dễ thuộc dễ nhớ: 
… Gác ra mấy mũi Sa Hoàng
Kìa Kìa lố thấy Tam Quan nhiều dừa
Anh em thề thốt buổi xưa
Nam thanh nữ tú ắt vừa con ngươi
Gặp nhau chưa nói đã cười
Bước vô Từ Phú là nơi nhiều ghè
Dông trên suối biếc đẹp ghê
Muốn cần nước củi ta về Lộ Giao… 
Thơ còn truyền được đôi ba bài. Nhiều người thuộc là bài Vịnh nhóm đảo Trân Nằm (Iles aux buffles) ở trước cửa biển Đề Gi: 
Trâu ai cắc cớ chẳng ăn đồng
Lúc ngúc ra nằm giữa biển đông
Sóng bạc lô nhô xao trước mặt
Rong xanh lóm đóm đóng bên hông
Cán rồi Nịnh Thích không sờn dạ
Ngọn lửa Điền Đan khó cháy lòng
Phải gặp ông Y mà hỏi thử
Nội Sằn lúc trước có cày không? [3]
Lúc còn đi đó đi đây, cụ có giao du với một người học sanh tên Lê Lưu quán Nghệ An. Họ Lê tới lui Bình Định, nhận thấy người em gái cụ có hạnh có học [4], muốn kết nghĩa trăm năm.
Giai nhân cũng tỏ ý thuận. Họ Lê bèn gởi một bài thơ tỏ tình keo sơn: 
Đặng lời mừng đã thấm tâm can
Trước gió trong trăng thử đá vàng
Bước gặp chàng Kim hiên Lãm thúy
Duyên ưa chị Trác khúc Cầu hoàng
Trầu nguồn nhỏ miếng cay mà đượm
Chuông gióng xa miền khẽ cũng vang
Một chuyến nữa là ba xuống đó
Mau mau sắm dọn chén quỳnh tương. 
Cụ gà cho cô em họa vận nguyên xướng, lại tục thêm một bài trường thiên song thất: 
Vẫn biết Bình Nguyên gởi ruột gan
Ý cao vâng lãnh mấy lời vàng
Bốn phương đường cả giong kỳ ký
Trăm thước nhành cao đỗ phụng hoàng
Phận liễu còn đương tang tóc nặng [5]
Duyên cưu chi tiện sắc cầm vang
Một lời đã hẹn trăm năm nhớ
Lọ phải cầu Lam bách cảm tương. [6]
Bách cảm tương hay khoan khoan đã
Bạn bố kinh vội vã chi mà
Phải người sớm nguyệt trưa hoa
Khúc đàn ghẹo Trác nhành thoa trao Kiều [7]
Đó có dạ ít nhiều non nước
Đây cũng nguyền sau trước lửa hương
Mấy khi gặp gỡ bạn vàng
Thi đầy túi Mạnh rượu tràn chén Lưu [8]
Cửa đào lý ngao du lắm lúc
Nhà chi lan thưởng độc đòi khi
Cùng nhau tâm phúc tương kỳ
Dẫu cho giao tấc khôn bì trúc mai
Nửa con mắt dầu ai xanh trắng
Một đoạn lòng đây chẳng bạc đen
Càng năm càng biết càng quen
Tóc tơ mong vấn sách đèn thêm thân
Nên cũng muốn Châu Trần đem lại
Há ngại rằng hồ hải đưa qua
Còn đương tang tóc nỗi nhà
Dám cho phận liễu vội ca thơ Đào
Đỉnh Vu hiệp chiêm bao dầu đó
Gái Dương Đài vân vũ dám đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Hay tình có vội mặc dầu ai ai… 
Theo những vần thơ trên thì cụ Nguyễn Xuân Kiều không đeo thói khinh bạc như tiếng đồn. Rõ là người có tình có nghĩa, có lượng bao dung. Bản tánh là thế. Nhưng trước những cảnh chướng tai gai mắt, những kẻ bất lương khả ố… thì lời văn của cụ trở nên cay chua, độc địa. Như để chỉ trích một viên tri huyện tham ô, cụ có bài VỊNH ỐNG NHỔ, còn truyền được cặp trạng:
Góp giùm bọt dãi làm nên phận
Rửa hết tanh hôi mới sạch mình [9] 
Có một khóa sanh người Quảng Nam có ý chê học lực cụ tầm thường. cụ bèn thách làm thơ đọ tài. Đề bài “Rắn muốn nuốt voi”, hạn vận VOI. Nhang thắp chưa được nửa cây, cụ đã đưa thơ ra trình chính: 
Hủy chà con rắn khéo loi choi
Bụng dạ dường bao muốn nuốt voi?!
Nghểnh cổ lay hoay bò dưới gót
Phùng mang lỏm ngỏm ghé bên vòi
Thêm chân mấy cũng coi còn nhỏ
Úp thúng xem qua vẫn cứ lòi
Cao thấp nhủ cho kia biết phận
Leo thang mặc cóc chớ theo đòi. [10] 
Những áng thi ca cụ Nguyễn Xuân Kiều còn để lại, thơ phúng thích cũng như thơ tình thơ cảnh, văn chương không trang sức. Lời không được văn nhã, giọng không được du trường, song vẫn có hương có vị. Hương của các giống hoa đồng, khô khô lợt lợt. Vị của quả đu đủ:
Chả nem tuy chẳng bằng khi có
Nộm gỏi nào hay đỡ lúc không. [11] 
Cho nên người Bình Định rất quí. Hế nghe được bài nào câu nào cũng đều ghi chép lại, để gìn giữ cùng những di sản tinh thần của các vị tiền bối khác, làm kho tàng văn học cho tỉnh nhà. 
Ở Hoài Ân có hai nhân vật mà những người thuộc lịch sử Việt Nam không mấy ai không biết. Đó là nhà chí sĩ Tăng Bạt Hổ và vị trung thần Vũ Đình Phương. 
Cụ TĂNG BẠT HỔ có công lãnh đạo phong trào Cần Vương miền Bắc Bình Định và sau khi phong trào bị dập tắt lại cố sức hô hào cách mạng cùng hướng dẫn cụ Phan Sào Nam sang Trung Hoa.
Đi ngang qua Hoài Ân nhìn đỉnh hoàn Tổng Dinh là nơi cụ đóng nghĩa binh chống Pháp, khách du quan có câu:
Mây chiều quấn quít hòn Dinh
Nhớ Tăng Tổng trấn hết mình cứu dân
Non sông chưa sạch bợn trần
Nắng mưa bao quản tấm thân quê người
Tre tàn còn có măng tươi
Gương sưa còn tỏ còn người soi gương. 
Cụ văn võ toàn tài, song vì mãi lo việc cứu quốc, nên không có thì giờ để chạm trỗ văn chương. 
Còn cụ VŨ ĐÌNH PHƯƠNG thì sở trường về tuồng hát bội. Sau khi đậu cử nhân, cụ được bổ làm việc tại Các. Vua ra sắc chỉ cho cụ cùng cụ Đào Tấn và cụ Ngô Quý Đồng soạn bộ tuồng Vạn Bửu Trình Tường.[12]
Văn chương trong những đoạn Vạn Bửu Trình Tường do cụ soạn không biết như sao, vì ngoài dân gian ít người được đọc. Và ngoài việc soạn chung cùng hai cụ Ngô Đào, tuồng Vạn Bửu, không nghe truyền giai phẩm nào khác của cụ.
Cụ làm quan đến chức Long Võ Đình Kiểm viện. Sau tòng vong vua Hàm Nghi và qua đời nơi đất khách.
Trong cơn quốc biến năm Ất Dậu, sống chết theo vua chỉ một mình cụ! Thời nhân có câu:
Ăn nhờ lộc nước bao nhiêu kẻ
Sống thác theo vua chỉ một mình. 
Chú thích: 
[1] Nhất tác: Bạn vàng, ơi hỡi! Bạc hơn vôi!
[2] Chùa Ông Núi tức là chùa Linh Phong ở trên núi Phương Phu quận Phù Cát. Cảnh chùa rất đẹp. Xưa kia có một thiền sư người Trung Quốc đến tu trong hang đá, tục gọi là Ông Núi (Xem bài Linh Phong của cụ Đào Tấn ở đoạn trước. Trong Nước Non Bình Định, tôi có nói rõ về chùa này).
[3] Bài này nghe đỗi chỗ truyền khác:
Trâu ai sao chẳng ăn ngoài đồng
Cắc cớ ra nắm mé bể đông
Sóng bạc lao xao quơ trước mỏ
Rêu xanh lún phún mọc bên hông
Câu ca Nịnh Thích không vào dạ
Ngọn lửa Điền Đan chẳng sém lông
Phải gặp ông Y mà hỏi thử
Nội Sằn thuở trước có cày không.
[4] Cụ ông là Nguyễn Xuân Nhã, đậu tú tài. Hai anh em đều học cụ ông.
[5] Trong tập Danh Nhân Bình Định của giáo sư Bùi Văn Lăng thấy chép đôi câu, đôi chữ khác với ba bài thượng dẫn.
[6] Câu này sách của giáo sư Bùi chép:
Đành lòng chờ đó rồi đây đã
Gởi nói khoan khoan sắm tửu tương.
Câu này lấy tích họ Hàn gặp tiên tặng thơ, có câu “Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh”, sau gặp vợ đẹp tại Lam Kiều.
[7] Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như, Thúy Kiều và Kim Trọng.
[8] Mạnh Hạo Nhiên đời Đường, Lưu Linh đời Tấn.
[9] Trong sách Danh Nhân Bình Định, chép:
Góp người bọt dãi làm nên nước
Cởi lớp tanh hôi mới sạch mình.
[10] Trong Danh Nhân Bình Định chép bốn câu sau:
Thêm chân đó cũng coi còn  nhỏ
Úp thúng đây rồi ngõ cũng lòi
Lớn nhỏ nói cho xin biết phận
Leo thang ớ cóc chớ quen đòi.
[11] Cặp luận bài Vịnh Thu Đủ của cụ tú Nguyễn Khuê (Đã giới thiệu ở đoạn trước).
[12] Đã nói rõ ở đoạn trước.
36.L
Cũng như Mai Xuân Thưởng, TĂNG BẠT HỔ là một hào kiệt gồm đủ tài văn võ.
Tên thiệt là TĂNG DOÃN VĂN. Sanh năm Kỷ Tỵ (1859) tại làng An Thường, quận Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Bạt Hổ là vinh hiệu do Mai nguyên soái tặng (Bạt Hổ tướng quân).
Năm Ất Dậu (1885), cùng Mai Xuân Thưởng lãnh đạo nghĩa binh Cần Vương. Làm Tổng Trấn miền Bắc Bình Định. Sau khi nghĩa binh bị bại, Ngài tránh được nanh vuốt giặc và trốn ra hải ngoại.
Truyền rằng:
Khi Tăng Tổng rấn lên đèo Dốc Đót để theo đường núi ra khỏi tỉnh Bình Định, thì gặp một con cọp chận đường. Tổng trấn bình tĩnh nói:
- Tôi vì đại nghĩa mà phải băng ngàn. Nếu Ngài có thương kẻ mang nặng quốc thù trong mình thì hãy tránh đường cho tôi đi. Bằng không thì xin biếu Ngài tấm thân bảy thước. [1]
Cọp liền tránh đường. 
Tăng Tổng trấn sau khi ra khỏi vùng vây chận của giặc rồi thì đến cùng Lưu Vĩnh Phúc. Sau làm thủy thủ một tàu buôn, qua lại Trường Kỳ, Hoành Tân, rồi xung vào Thủy Quân Nhật Bản. Tổng trấn có công lớn trong các trận Đại Liên, Lữ Thuận, được Nhật Hoàng thưởng huy chương quân công.
Trong bữa tiệc Nhật Hoàng khao thưởng các tướng sỹ thắng trận năm 1905, Tăng Tổng trấn có tham dự. Nhật Hoàng tự rót rượu thưởng. Tổng Trấn uống cạn rồi khóc lớn, kể nỗi nước mất nhà tan. Ai nghe cũng cảm động.
Sau đó Tổng Trấn xin viện binh về Việt Nam đánh Pháp. Thủ Tướng Khuyển Dưỡng Nghị khuyên nên lo phát triển tinh thần duy tân trong nước trước đã, và hứa giúp du học sinh Việt Nam được phép cư trú ở Nhật và được miễn học phí. Tổng Trấn bèn về nước cùng Phan Sào Nam gây phong trào Đông Du.
Tăng Tổng Trấn về nước hai lần. Lần thứ nhì, bị bệnh mất tại nhà chí sĩ Võ Bá Hạp [2]. Mất ngày 19 tháng 7 năm Đinh Vị (27-8-1907). 
Chí sĩ Đặng Thái Thân ở Nghệ An, nghe tin làm câu đối điếu:
Quân khởi kỳ sanh tác hý ư thời gia? Đề binh thập nẩm, khứ quốc trấp dư niên, ký khốc ư Xiêm, ký khốc ư Hoa, ký khốc ư Nga, hốt hốt nhiên đại khốc ư Đông; thùy giao tứ nhập thu phong, hướng ngã thần kinh mai hiệp cốt.
Ngã bất tri tử chi vi hà vật giả, độc thư ngũ châu, kết giao sổ thập bối, hoặc chiến dĩ thiệt, hoặc chiến dĩ bút, hoặc chiến dĩ não, đoan đoan trích thực chiến dĩ thiết, yếu đắc huyết lưu ôn đới, vị quân hoàng chủng thụ hồng kỳ.
Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Người há sinh làm giỡn với đời sao? Cầm binh một độ, bỏ nước hai mươi năm, đã khóc với Xiêm, đã khóc với Tàu, đã khóc với Nga, đùng đùng sang khóc lớn bên Đông, ai dè gió phất trời thu, nắm cốt về chôn thành đất Huế.
Ta chả biết chết là cái gì vậy! Đọc sách năm châu, kết giao vài chục bạn, hoặc đánh bằng lưỡi, hoặc đánh bằng bút, hoặc đánh bằng não, khăng khăng chỉ độc đánh bằng sắt, thề quyết máu trôi đất nóng, cờ đào tỏ mặt giống da vàng. 
Sau khi Phan Sào Nam về ở nơi Bến Ngự, bia mộ của Tăng Tổng Trấn mới dựng. Nhưng để bọn Thực Dân Phòng Kiến khỏi biết, bia không mang tên họ của Tổng Trấn, mà mang tên trại là: LÊ THIỆU DẦN. 
Dần là Hổ. Nhưng không hiểu sao lại lót chữ Thiệu và lấy họ Lê.
Tăng Tổng Trấn lại còn một biệt hiệu là ĐIỀN BÁT TỬ. Cũng không hiểu thụ nghĩa như sao.
Hiện nơi quê hương của Tổng Trấn chưa có đài tưởng niệm, nhưng đi ngang qua Hoài Ân, nhìn lên hòn Dinh là nơi Tổng Trấn đóng mật khu khi xưa, thì người có tâm cùng đất nước đều lắng nghe người địa phương hát:
Mây chiều quấn quít hòn Dinh
Nhớ Tăng Tổng trấn hết mình cứu dân
Non sông chưa sạch bợn trần
Nắng mưa bao quản tấm thân quê người
Tre tàn còn có măng tươi
Gương sưa còn tỏ còn người soi gương. 
Gương Tăng Tổng Trấn nêu cao là gương phấn dũng.
Ở Bình Khê, trông vào Linh Đổng nơi mật khu của Mai Nguyên soái, người địa phương hát:
Hầm Hô cữ nước còn đầy
Còn gương phấn dũng còn ngày vinh quang. 
Thì ở Hoài Ân nhìn gương phấn dũng treo nơi Hòn Dinh, đồng bào cũng cất cao giọng hát:
Tre tàn còn có măng tươi
Gương sưa còn tỏ còn người soi gương. 
Hy vọng tràn trề trong lòng Côn giang, Lại giang và nhẫy đầy mọi lòng người yêu quê hương yêu chủng tộc ở Bình Định nói riêng ở Việt Nam nói chung.
Đó là công nghiệp anh hùng.
Còn sự nghiệp văn chương?
Tăng Tổng Trấn học giỏi nhưng không chịu đi thi, và không thích luyện văn bằng luyện võ. Trong những án văn chương quốc cấm thời Thực Dân Phong Kiến, còn truyền lại một bài của Tổng Trấn: 
Á TẾ Á
Á Tế Á năm châu đệ nhất [3]
Người nhiều hơn mà đất rộng hơn
Cuộc đời mở hội dinh hoàn
Anh hùng bốn bể giang san một nhà.
Ngẫm từ thuở Âu La tiếm đất [4]
Vượt Chi Na qua đất Triều Tiên [5]
Xiêm La Diến Điện gần liền
An Nam Chân Lạp thông miền Ai Lao.
Thịt một miếng trăm dao bâu xé
Chiếc kim âu đã mẻ khôn lành
Lang sói Pháp muỗi ruồi Anh
Nén hơi đại Đức nép mình cường Nga
Gương Ấn Độ chẳng xa đâu đó
Chẳng máu đào cũng họ da vàng
Mênh mông một giải Đông Dương
Nước non nô lệ trông càng thêm đau… 
Đoạn giữa, đoạn dài nhất, kể rõ tình trạng nước Việt Nam dưới ách đô hộ Pháp và dưới tay đè nén của vua quan tôi tớ.
Kế đến là đoạn hô hào đồng bào lo việc duy tân để giành lại độc lập cho đất nước.
Đoạn kết nói qua về thân phận riêng mình: 
Thân phiêu bạt đã đành vô lại
Bấy nhiêu năm Thượng Hải Hoành Tân
Liêu Đông nhân lúc tùy quân
Tủi thân bôn bá theo chân khải hoàn
Bưng chén rượu ân ban hạ tiệc
Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu
Trời Nam mờ mịt ngàn dâu
Gió thu như thổi cơn sầu năm canh
Biết bao nỗi bất bình khôn giải
Mượn bút hoa mà gởi quốc âm
Thân lương bao quản cát lầm
Khuyên ai dốc chữ đồng tâm sau này… 
Bài ca đã làm sôi nổi lòng đồng bào Việt Nam, và mặc dù bọn cầm quyền ngăn cấm, ảnh hưởng vào tận nơi hang cùng ngõ hẻm ở khắp nước Việt Nam. Người có tâm cùng thổ võ không ai không thuộc lòng ít ra cũng một đôi đoạn. Ở Bình Định nhiều ông lão bà lão thuộc từ đầu đến cuối. Các cụ khoái nhất là khi đọc đến những đoạn như: 
Nhiều hạng thuế kể chi cho xiết
Thuế “phát xia” mới thiệt lạ lùng! [6]
Nói ra luống những đau lòng
Cha con khổ nhục vợ chồng lìa tan
Cũng có lúc bầm gan tím ruột
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cũng dòng máu đỏ con nhà Lạc Long…
Thế mà chịu trong vòng trói buộc
Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than
Than ôi! Bách Việt giang san
Thông minh đã sẵn khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa? Chưa tỉnh!
Anh em mình phải tính sao đây?
Hoa là bạn Nhật là thầy
Trí khôn phải học điều hay phải tìm… [7] 
Đọc những đoạn ấy và đoạn kết, nhiều khi các cụ cắn răng vào nước mắt, tay run theo lời ngâm. Và ngày nay đọc lại, chúng ta cũng khó nén lòng bi phẫn cảm khái.
Tăng Tổng Trấn đã nói:
Thân lương bao quản cát lầm
Khuyên ai dốc chữ đồng tâm sau này.
Thì chúng ta kính cẩn thưa:
Tre tàn còn có măng tươi
Gương xưa còn tỏ còn người soi gương.
Chú thích: 
[1] Có người lại truyền rằng: Tổng trấn bị cọp chận đường, phải cùng cọp đánh nhau cả buổi. Sau cọp đuối sức không dám đấu nữa phải bỏ chạy.
Ở Bình Định, người cùng cọp đánh nhau là chuyện thường xảy ra. Song chuyện đánh cọp hay nói chuyện nhân nghĩa cùng cọp ở trong núi sâu, ai thấy mà biết? Có lẽ người ta bày ra để giải thích tên Tăng Tổng trấn vì không biết sự thật Bạt Hổ là danh hiệu do nguyên soái Mai Xuân Thưởng tặng: Bạt Hổ tướng quân.
[2] Thân sinh ông Võ Như Nguyện. Ông Nguyện lo việc hương hỏa cho Tăng Tổng Trấn, từ khi cụ Võ Bá Hạp quy thần.
[3] Á Tế Á: phiên âm chữ Asie tức Châu Á.
[4] Âu La: Âu La Ba, phiên âm chữ Europe tức Châu Âu.
[5] Chi Na: phiên âm chữ Chine là nước Trung Hoa. Đông Dương thường gọi là An Độ Chi Na là dịch chữ Indo-Chine ra.
[6] Thuế phát xia là thuế cầu tiêu.
[7] Bái Á Tế Á này, có nhiều người nói là của cụ Tham Tán Nguyễn Thiện Thuật, có người lại nói của cụ Mai sơn Nguyễn Thượng Hiền, lại có người bảo là của cụ Phan Sào Nam. Nhưng đều sai vì năm 1905 quí vị ấy đều không có ở Nhật. Huống đoạn kết đã kể rõ việc “đổng khốc” khi Nhật Hoàng ban rượu. Như thế đủ chứng minh rằng tác giả là Tăng Tổng Trấn.
36.M
Ở Bình Định, những danh nhân có văn chương lưu thế, hầu hết đều sống từ đời Minh Mạng trở về sau. Những tác phẩm của các bậc tiền bối từ đời Gia Long trở về trước, tôi chưa tìm thấy tác phẩm nào khác ngoài một số thi ca văn tế của:
- Đào Duy Từ.
- Đặng Đức Siêu. 
ĐÀO DUY TỪ, người huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Thông suốt kinh sử, tinh tường thiên văn, thuật số từ lúc thiếu thời. Đi thi hương đời Lê Trung hưng, bị quan Chủ khảo xét là con nhà ca xướng, đuổi không cho thi. Cụ bèn bỏ vào Bình Định. Thân nghèo cảnh lạ, xin ở giữ trâu nhà cự phú làng Tài Lương, huyện Bồng Sơn (tức Hoài Nhơn hiện thời), là Lê Phú. Được ít lâu Lê Phú nhận biết là người có tài lớn chí lớn, mới giới thiệu cùng người đồng hương là Trần Đức Hòa làm Khám Lý phủ Qui Nhơn (tức Bình Định hiện thời). Trần Khám Lý liền đón về nhà, gả con gái cho, rồi tiến cử lên Chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên.
Chúa Nguyễn cho vời cụ đến. Cụ đến cửa dinh, tháy Chúa Sãi mặc thường phục đứng nơi dịch môn, liền lùi bước trở ra. Chúa hội ý, vào mặc triều phục chỉnh tề, rồi vời cụ vào điện kiến. Cụ đem kế hoạch chống giữ và mở mang miền Nam ra trình bày. Chúa Sãi xứng ý, phong làm chức Nha Úy nội tán, kiêm quản việc quân cơ. Cụ lo xây đắp lũy Trường Dục ở Phong Lộc và lũy Thầy ở Nhật Lệ, làm bảo chướng cõi phương Nam. Phụ chánh tám năm, lên đến chức Lộc Khê hầu, đứng đầu trong hàng khai quốc công thần đời nhà Nguyễn.
Danh lưu thiên cổ. Ngoài sử sách dành cho hàng học vấn, người bình dân đi ngang qua Phong Lộc, Nhật Lệ lúc nào cũng văng vẳng bên tai những câu ca dao nhắc đến công đắp lũy ngăn giặc của cụ:
- Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa độ
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang.
- Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ nội tán cấm ngăn
Dân lành vui thú làm ăn
Sông Đồng câu nguyệt nội Sằn cày mây.
- Khôn ngoan qua cửa sông La
Dù ai có cánh khó qua lũy Thầy.
Lúc cụ còn thác thân nhà Lê Phú, cụ có soạn khúc ngâm bằng quốc văn nhan là Ngọa Long Cương tự sánh  mình với Gia Cát Lượng, và khi ra giúp chúa Nguyễn có soạn tập Hổ Trướng Khu Cơ. Khúc Ngọa Long Cương thời Tiền Chiến đã có nhiều sách báo lục đăng. Tập Hổ Trướng Khu Cơ nghe nói có nơi Thư Viện Bải Đại thời Pháp thuộc, hiện nay không biết có còn chăng?
Theo các bậc tiền bối tỉnh Bình Định thì Hát Bội do cụ Đào Duy Từ sáng chế, các tài tử đời sau cải tiến lần lần, đến cụ Đào Tấn thì nghệ thuật cũng như văn chương lên đến tột đỉnh. Vì vậy bạn hát bội thờ cụ Đào Duy Từ làm tiền hiền và cụ Đào Tấn làm hậu hiền.
Nói đến cụ Đào Duy Từ và cụ Đào Tấn, tôi chợt nhớ một câu chuyện rất nên thơ:
Một người Bình Định họ Đào đến hỏi cụ Đào Tấn không biết cụ Đào Duy Từ có phải là vị sơ tổ họ Đào Bình Định chăng? Trước khi trả lời, cụ xin kể chuyện Địch Thanh đời Tống rằng:
Địch Thanh sau khi bình Tây Nhung về được phong vương tước. Có người đem một bức cổ họa đến dâng và bẩm:
- Đây là di tượng của ngài Địch Nhân Kiệt, gia đình tôi truyền cho nhau đã ba đời nay. Tuy rằng gia bảo, song tôi tự nghĩ vị trung thần đời Đường chắc là tiền nhân của vị trung thần đời Tống là Ngài. Nên tôi xin đem đến dâng Ngài để làm kỷ niệm.
Địch Thanh đứng dậy tạ từ:
- Nhận một vật gia bảo truyền thế của người, tôi thật không dám nhận. Còn bảo rằng tôi là miêu duệ của ngài Địch Nhân Kiệt thì tôi rất ngại. Bởi ngài là một bậc trung thần danh lưu thiên cổ, tài đức kim toàn. Còn tôi nhờ đức quân vương mà làm nên được đôi chút danh phận. Nếu quả tôi là cháu chắc của Ngài, hẳn Ngài buồn cho hậu duệ mình lắm lắm. Cho nên tôi cũng không dám nhận là hậu duệ của Ngài.
Cụ Đào kể chuyện xong nói tiếp:
- Nghĩ tôi với ông đều họ Đào mà không biết có bà con với nhau chăng, huống hồ từ ngài Lộc Khê hầu đến chúng ta đã gần ba trăm năm, thì làm sao biết được có phải hay không phải sơ tổ của họ Đào. Thêm nữa, nếu Ngài quả là sơ tổ của họ Đào mà người họ Đào hiện nay không làm nên được công nghiệp gì thì chỉ thêm làm cho Ngài xấu hổ, như lời Địch Thanh đã nói. Bằng Ngài không phải sơ tổ họ Đào, mà họ Đào lo tu thân lập công, thì Ngài cũng vui mừng rằng người Bình Định nói riêng, người Việt Nam nói chung, không đến nỗi tệ.
Thật là một bài điệp khúc không cần vần điệu mà ý vị như một bài thi ca. 
Cụ Đào Duy Từ tuy là người Thanh Hóa, nhưng con cháu đều lử Bình Định. Hiện nay còn từ đường tại Tài Lương. Đại Nam Nhất Thống Chí chép cụ vào hàng danh nhân Bình Định. Và từ trước đến giờ người Bình Định kính trọng và yêu quí cụ như các nhân vật tiền bối của địa phương. 
ĐẶNG ĐỨC SIÊU, người làng Phụng Cang, huyện Bồng Sơn (Hoài Nhơn), đậu Hương Tiến đời Lê Trung Hưng. Không phục nhà Tây Sơn, vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, được trao chức Trung dinh Tham mưu, lập được nhiều công lớn. Khi vua Gia Long lên ngôi cửu ngũ thì nghi văn chế tác đều do tay cụ thảo ra. Làm quan đến Lễ Bộ Thượng Thư. Khi mất được tặng chức Tham Chính. Đến triều Minh Mạng được truy thăng Thiếu sư Hiệp biện Đại học sỹ. Qua triều Tự Đức được liệt tự vào miếu Trung Hưng Công Thần.
Đại Nam Nhất Thống Chí chép: “Đức hạnh tiết tháo của Đặng công đáng làm nhân vật đệ nhất của triều Nguyễn.
Còn người Bình Định thì riêng nhớ việc đặt tên cho Tỉnh và ơn xây móng cho nền quốc văn đất Đồ Bàn.
Nguyên năm Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Vương lấy được thành Quy Nhơn, theo lời tấu của cụ, cải tên Quy Nhơn là tên có từ đời Lê (Quy Nhơn phủ) ra Bình Định (Bình Định trấn).
Tên tỉnh mà. được người trong tỉnh lựa chọn thì thật là một vinh dự, một thích thú, đối với những người nặng tánh địa phương, như phần đông người Bình Định.
Cụ Đặng Đức Siêu nổi tiếng tài cao học rộng. Nhưng tác phẩm bằng Hán văn ở Bình Định không được phổ biến, tôi chỉ nghe truyền những giai tác bằng Quốc âm:
- Hồi loan cửu khúc ca.
- Những bài văn tế.
- Một ít thơ Đường luật.
Hồi Loan Cửu Khúc Ca, tôi mới nghe tên.
Những bài văn tế, các sách báo đã chép, ở nhà trường đã dùng trong việc giảng văn.
Ở đây tôi chỉ xin nói về thơ.
Được nhắc đến nhiều nhất là bài ĐÊM TRỪ TỊCH bị khuyết cặp luận:
Tháng lụn năm cùng sự chẳng cùng
Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông
Chi lan tiệc cũ hương man mác
Đào lý vườn xưa tuyết lạnh lùng
Gà kêu pháo nổ năm canh trót
Mừng cội mai già gặp chúa Đông.
Người đầu tiên lục đăng bài này lên sách báo là Chương Dân tiên sinh. Trước đăng ở Nam Phong tạp chí (1918) sau in vào tập Chương Dân Thi Thoại (1936). Bốn mươi năm sau khi bài Trừ Tịch có mặt trong làng thơ thì Đông Hồ Đại ẩn ra công “vá xong chỗ áo khuyết của nàng thơ họ Đặng”:
Đất có bâng khuâng chờ hội ngộ
Trời như thao thức đợi tao phùng. [1] 
Rằng khéo thì thực là khéo. Nhưng hàng xưa và nay, màu mới và cũ, ngắm gần hay nhìn xa đều trông thấy rõ rệt.
Những vật cổ giữ gìn làm kỷ niệm, tưởng cứ sao để vậy thì hơn.
Các ngôi tháp Chiêm Thành đứng sừng sững trên đầu non, những tượng Chàm sứt tay gãy chân trong các tàng cổ viện, được các nhà mỹ thuật, các nhà khảo cổ, các nhà du lịch có óc thẩm mỹ yêu chuộng, là nhờ không bị những vật liệu kim thời lẫn vào. 
Ai đã đến Nha Trang viếng tháp Thiên Y A Na được tu bổ, ai đã ra Huế thăm chùa Thiên Mụ được trùng tu, thì thấy rõ kỹ thuật của người nay và kỹ thuật của người xưa khác nhau xa lắm. Người đời nay dù tài ba đến đâu cũng không sao bắt chước y ái người xưa được.
Tôi còn nhớ thời Tiền Chiến, có một chuyên viên ở trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội vào coi sửa tháp Thiên Y A Na. Viên ấy nhất định không dùng gạch mới và xi măng. Những đống gạch cổ nằm ngổn ngang ở trong vườn tháp cũng được chọn lựa cẩn thận, bởi những ngọn tháp nơi đây xây cất ngọn này trước ngọn kia đến hàng thế kỷ, gạch xây tháp mỗi thời mỗi khác không thể dùng một cách xô bồ. Do đó có nhiều chỗ hư mà không tìm ra gạch thích hợp, họ cứ để y nguyên như cũ. 
Nhân chuyện “vá áo nàng thơ” tôi kể lại chuyện vá tháp, không có ý gì khác hơn là để mua vui cùng bạn đọc.
Ngày xưa cổ nhân làm thơ Quốc âm chỉ để mua vui, nên ít khi chép lại. Vì vậy những bài còn lưu thế, bài thì bị thiếu hụt, như bài Trừ Tịch, bài thì lộn tên tác giả như bài GÀNH MÓM và bài TRÂU GIÀ sau đây:
Bài GÀNH MÓM, trong tập Thi Sĩ Trung Nam của Vũ Ngọc Phan thấy ghi là của cụ Hoàng Mẫn Đạt, và chép: 
Tượng mãng non xanh tác chẳng già
Cớ chi Gành Móm lại dô ra?
Rêu xanh lốm đốm râu Bành Tổ,
Đá mọc gio gie mép Tử Nha.
Súc miệng trêu trao con sóng lượn,
Khăn lau tích toát thức mây qua.
Xuân thu hỏi độ bao nhiêu tuổi?
Rằng thuở khai thiên đã có ta. 
Bài TRÂU GIÀ trong Văn Đàn Bảo Giám, Trần Trung Viên ghi là của cụ Nguyễn Khuyến, và chép: 
Một nắm xương khô một nắm da
Bao nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi kia biếng vẫy Điền Đơn hỏa
Tai nọ buồn nghe Nịnh tử ca
Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh
Tối về chuồng quế thơ nghi nga
Có người đem dắt tô chuông mới
Ơn đức vua Tề lại được tha. 
Trong tạp chí Việt Dân thời Tiền Chiến lại thấy đăng là của cụ Huỳnh Mẫn Đạt, và câu luận cùng câu kết có đôi chữ khác bài trong Văn Đàn Bảo Giám: 
Sớm dạo nguồn đào nhơi hủng hỉnh
Tối về tử lý thở hê ha
Bôi chuông nhớ thuở qua đường hạ
Ơn đội Tề vương bắt lại tha. 
Ở Bình Định lại truyền GÀNH MÓMTRÂU GIÀ là của cụ Đặng Đức Siêu. Tôi đã thuộc lòng cả hai bài từ lúc còn “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện”. Hai bài tôi thuộc lại có lắm chữ khác những bài đăng trên sách báo: 
GÀNH MÓM
Từng mắn non xanh tác chẳng già
Cớ chi Gành Móm lại dô ra?
Rong rêu quộp quạp râu Bành Tổ, [2]
Đá gộp do de mép Tử Nha. [3]
Nước súc phều phào cơn sóng vỗ
Khăn lau quộc quạch đám mây qua.
Có ai hỏi lão xuân thu mấy?
Rằng thuở khai thiên đã có ta. 
TRÂU GIÀ
Một nắm xương tàn một nắm da
Bao nhiêu cái ách cổ từng qua
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa [4]
Tai nặng buồn nghe Nịnh Thích ca [5]
Nương bóng rừng đào nhơi lễ lảo
Nhìn gương cung quế thở phì phà
Bôi chuông nhớ thuở thân gần lụy
Ơn đội Tề vương chết được tha. [6] 
Hai bài thơ tôi chép đó văn chương già dặn hơn các bài sách báo chép. Tôi tin rằng tôi chép đúng nguyên văn. Bởi những tay bút như quí cụ Đặng Đức Siêu, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Khuyến là những đại gia văn chương, không bao giờ làm những câu non nớt như một số câu các sách báo đã chép trong hai bài, nhất là trong bài Trâu Già.
Những chữ “Đồng Đào, Nguồn Đào, Chuồng Quế, Tử lý không “bà con” gần xa chi đến giống “không biết nghe đàn” cả. Nếu bảo rằng đó là những mỹ từ dùng để trang điểm câu thơ, thì tác giả phạm vào lỗi “dụng ý thái quá” trong “tứ bất nhập cách” của thi pháp cổ điển rồi. Quí cụ ngày xưa, thi pháp tinh luyện, đời nào phạm cấm trong lúc hành văn, dù là văn chơi.
Câu “Nương bóng rừng đào… Nhìn gương cung quế…” dụng điển:
- Rừng đào lấy điển vua Châu Võ Vương sau khi diệt Trụ xong, phóng trâu vào Đào lâm, thả ngựa lên Thái Hoa, để tỏ cùng dân chúng rằng trong nước từ đây sẽ luôn luôn thái bình nên trâu ngựa dùng trong việc binh không cần đến nữa.
- Gương cung quế tức mặt trăng, mượn ý trong câu “Ngô Ngưu suyền nguyệt” nói chuyện con trâu nước Ngô cả ngày cày mệt mỏi, tối về chuồng vừa nằm nghỉ chợt thấy trăng mọc ngỡ trời sáng, nghĩ đến thân phận mà thở dài.
Câu thơ, văn luyện điển sát như thế mới xứng là của các ngọn bút sành sỏi lọc lõi của quí cụ Đặng hay Huỳnh hay Nguyễn mà không còn ai lạ gì thi tài.
Hai bài Gành Móm và Trâu Già, cung cách và từ điều giống hệt nhau. Rõ là bút pháp của một người. Văn chương lão luyện, song giọng văn có phần nặng và mang nhiều tánh chất của người Nam Việt và miền Nam Trung Việt, khác với giọng lưu loát của người miền Bắc, nhất là giọng tự nhiên thanh thoát của cụ Nguyễn Khuyến mà những bài Thu Vịnh, Thu Điếu, Thu Ẩm là tượng trưng.
Cho nên có thể quả quyết rằng tác giả hai bài này, một là cụ Huỳnh Mẫn Đạt, hai là cụ Đặng Đức Siêu, chỉ một trong hai cụ mà thôi.
Tôi dám tin chắc tác giả là cụ Đặng.
Bởi vì ngoài những tiếng thổ âm dùng trong hai bài như “Từng mắn tức là từng nghe nói, quộp quạp, quộc quạch, lễu lảo, phì phà…” là những tiếng rất thông dụng ở Bình Định, thông dụng hơn ở trong Nam. Tôi lại được các bậc tiền bối cho biết rằng cụ Đặng có ký thác tâm sự trong văn chương:
- Câu kết Gành Móm, cụ Đặng muốn nói rằng mình là bậc khai quốc công thần của nhà Nguyễn.
- Bài Trâu Già tượng trưng cho cảnh an nhàn của tuổi già sau bao nhiêu năm nhọc nhằn cùng phận vụ. Câu kết tác giả nhắc đến một việc xuýt bị nguy trong đời làm quan của mình:
nguyên sau khi vua Gia Long nhất thống thiên hạ, công thần chia làm hai phe có thế lực: Phe ông Nguyễn Văn Thành và phe ông Lê Văn Duyệt. Cụ Đặng Đức Siêu không đứng vào phe nào, nghĩa là cụ trung lập chịu lưỡng đầu thọ địch. Một lần vì rủi sơ xuất điều gì đó, bị đối phương đàn hoạch. May cụ được vua Gia Long thương, nên khỏi bị nạn “lấy máu bôi chuông”. [7]
Có lần tôi đem những điều trên đây ra nói chuyện cùng một ông bạn văn chương. Ông bạn mắng:
- Óc địa phương anh nặng quá!
Ông bạn mắng thế là vì cụ Đặng Đức Siêu là người Bình Định mà tôi cũng người Bình Định. Tôi cười:
- Đưa những điều kia ra là mong sao, sau khi các nhà khảo cứu xét kỹ, những gì của Chúa trả về Chúa, những gì của César trả lại cho César đó thôi. Chớ còn hai bài Gành Móm, Trâu Già là những giai phẩm thuộc loại “điêu trùng tiểu kỷ” chớ đâu phải là những khúc “Bạch Tuyết Dương Xuân” mà tôi phải giành cho tỉnh Bình Định thân yêu của tôi. Còn đối với cụ Đặng Đức Siêu thì có hai bài này danh giá của cụ không tăng, mà không có hai bài này danh giá cụ cũng không sút giảm. Bởi trong giới văn học nhắc nhở đến cụ là do những bài văn tế kiệt tác còn chép nơi sử xanh, chớ đâu phải do những vần thơ “tam sao thất bổn”. 
Và những bài văn tế của cụ Đặng, các sách báo đã lục đăng, những người ưa thích văn biền ngẫu không mấy ai không thuộc, ít ra cũng thuộc vài ba câu tuyệt bút: 
Sửa mũ áo lạy về Bắc khuyết, ngọn lửa hồng mát mẻ tấm trung can;
Chỉ non sông giã với cô thành, chén thuốc độc ngọt ngon mùi chính khí [8]
Tiếng hiệu lệnh mơ màng trước gió, ân tín xưa, người bộ khúc thương tâm;
Bóng tinh trung thấp thoáng dưới đèn, phong nghi cũ, kẻ liêu bằng sái lệ
Hai chữ cương thường nghĩa nặng, rỡ khổn hoa cũng thỏa chốn u minh;
Nghìn thu Hà Nhạc khí thiêng, sắp mao Việt để mở nền thịnh trị.
(Tế Võ Tánh, Ngô Tùng Chu)
Cho nên tôi khỏi phải dài dòng khen Phò mã tốt áo, nói theo giọng kẻ giữ vườn là khỏi dư công ngắt hoa dắt lên mái tóc giai nhân cài trâm ngọc. 
Xem qua một ít di sản tinh thần thượng dẫn, chúng ta thấy rõ tính chất bi hùng và chất phác trong thi ca Bình Định, như trên kia đã nói. Bên cạnh lại còn một điểm nữa cũng không kém quan trọng: trào lộng, châm biếm.
Bi hùng thì nổi bật là thơ Mai Xuân Thưởng, tuồng Nguyễn Diêu, Đào Tấn, văn tế Đặng Đức Siêu…
Chất phác thì tìm thấy hầu hết trong các tác phẩm, hoặc ít hoặc nhiều, chớ không có tác phẩm nào hoàn toàn tinh công nhã trí.
Trào lộng châm biếm thì Nguyễn Đôn Phục, Huỳnh Bá Văn… xuất sắc nhất. Nhưng trong các nhà khác thì mười nhà cũng có đến sáu bảy nhà luôn luôn sẵn sàng đôi câu mỉa mai cười cợt ở trên môi.
Về điểm này tôi chợt nhớ một câu chuyện đã xảy ra tại Quảng Ngãi:
Ông Đào Nhữ Tuyên, con thứ cụ Đào Tấn, là một tay phong lưu tài tử. Hát bội hay, điệu hát rành. Đậu cử nhân, được bổ làm tri huyện Mộ Đức. Vừa nhậm chức hôm trước thì sáng hôm sau đã thấy hai bên trụ cổng huyện bốn chữ “Hát Hay, Học Dốt” viết cân đối nhau. Lính vào bẩm. Ông Đào mỉm cười, rồi sai lấy bút mực ra viết thêm mỗi bên trụ năm chữ nữa thành hai vế đối vừa hợp cảnh vừa hợp tình:
Hát hay rõ kép Quy Nhơn thật,
Học dốt làm quan Quảng Ngãi chơi. 
Câu chuyện na ná với chuyện Án Bình Trọng, quan Đại phu nước Tề sang sứ nước Sở. Bình Trọng thân vóc nhỏ bé nhưng tài trí xuất quần. Vua Sở trông thấy liền hỏi:
- Quái lạ! Người nước Tề không có ai hay sao mà lại sai đứa bé này đi sứ?
Bình Trọng đáp:
- Nước tôi có lệ: Người hiền sang nước hiền, người ngu sang nước ngu, người bé sang nước bé. Tôi thân phận hèn mọn nên được phụng mệnh sang quý quốc.
Chợt có ba bốn người vũ sĩ giải một tù nhân đi ngang qua đền vua. Sở Vương hỏi:
- Tù nhân người nước nào? Phạm tội gì?
Vũ sĩ tâu:
- Người nước Tề, can vụ trộm.
Sở Vương mỉm cười hỏi Bình Trọng:
- Dễ thường người nước Tề hay ăn trộm lắm sao?
Bình Trọng đáp:
- Tôi trộm nghe nói quýt ở xứ Giang Nam đem trồng sang xứ Giang Bắc thì dù ngọt mấy cũng hóa chua. Đó là tại phong thổ không giống nhau. Nay người nước Tề, khi ở Tề không ăn trộm, mà lúc đến ngụ nước Sở lại ăn trộm, đó cũng tại phong thổ cả.
Sở Vương hối hận, than:
- Ta tìm cách để làm nhục người, chẳng ngờ lại bị người làm nhục!
Châm biếm, trào lông là bản chất của người Bình Định. Truyền rằng chính nhà Tây Sơn đã dùng những chuyện đùa cợt, những chuyện tiếu lâm trong ba quân để làm cho binh sĩ vui thích quên nỗi nhớ vợ nhớ con trong lúc ngồi rảnh. Tôi lại nhận thấy, tuy rằng bản tánh ưa phúng thứ, người Bình Định thường dùng lối trào lộng hơn châm biếm, và chỉ dùng lối châm biếm để tự vệ khi bị người khác tấn công.
Trường hợp ông Đào Nhữ Tuyên, ông Nguyễn Xuân Kiều… là những bằng chứng.
Mà trào lộng châm biếm, bi hùng, chất phác…, không phải riêng người Bình Định mới có. Đó là dân tộc tánh. Nhưng người Bình Định mang nặng hơn và để lộ ra ngoài rõ rệt hơn người các tỉnh khác đó thôi.
Duyên cớ bởi vì đâu?
Do khí thiêng của sông núi một phần. Một phần nữa do hoàn cảnh xã hội:
- Người Bình Định từ thời Pháp thuộc trở về trước, phần đông ít khi ra khỏi tỉnh. Những người đã từng sống trong nơi đô hội phồn hoa, như cụ Đặng Đức Siêu, cụ Đào Tấn… thì văn chương không còn quê thật như hầu hết các danh nhân chưa từng đi xa.
- Sự thất bại của nhà Tây Sơn, của các sĩ phu Cần Vương gieo vào tâm hồn người Bình Định một niềm uất hận buồn thương, đồng thời âm thầm un đúc tánh bất khuất chí quật cường để chờ cơ thuận tiện…
- Từ ngày Nguyễn Quang Toản sợ người Bình Định cầm quyền cai trị ở Bình Định sẽ bất lợi cho ngôi báu củ mình, đưa người Thừa Thiên vào thay thế, thì người Bình Định luôn luôn bị đè nén bị kỳ thị. Chưa có thể đứng lên giành lại quyền sống hiên ngang như ngày trước, người Bình Định phải dùng, hoặc tiền của để che thân, hoặc tài châm biếm trào lộng làm lợi khí cự địch.
Đại khái là thế.
Và nền thi ca Bình Định, tôi nhận thấy khá đồ sộ. Nếu các nhà khảo cổ ra công khai thác thì nhất định sẽ thu được kết quả dồi dào.
Chú thích: 
[1] Xem Úc Viên Thi Thoại của Đông Hồ.
[2] Bành Tổ sống 800 trăm năm.
[3] Khương Tử Nha đến 70 tuổi mới lập nên công danh. Mượn hai ông già xưa để thích chữ móm.
[4] Điền Đan hỏa: Lửa Điền Đan - Điền Đan người đời Đông châu, làm tướng nước Yên. Quân Tề đánh Yên, vây thành quá ngặt. Điền Đan bèn lập trận hỏa ngưu, bó củi khô sau đuôi trâu, cột gươm trước sừng trâu, rồi mở thành, đốt củi. Lửa cháy bừng bừng, râu vừa sợ vừa giận chạy vụt sang phía quân Tề, vừa chém vừa đâm. Quân Tề không chống nổi, vỡ chạy.
[5] Nịnh Thích ca: Tiếng ca của Nịnh Thích - Nịnh Thích cũng là một danh tướng thời Đông Châu. Lúc còn hàn vi, đi chăn trâu, thường gõ sừng hát “Nam sơn xán, bạch thạch lạn…” để tỏ chí khí của mình.
[6] Ơn đội Tề Vương: Sách Mạnh Tử: Có người dắt trâu đi ngang qua điện vua Tề. Vua thấy trâu vừa đi vừa run, mới hỏi. Người dắt trâu tâu rằng dắt đem làm thịt lấy máu bôi chuông mới đúc. Vua động lòng thương bảo tha trâu và bắt dê thay thế.
[7] Chuyện này nghe truyền chớ trong sử không thấy chép. Nhưng có thể tin lắm, vì thời bấy giờ nạn giết công thần đương hoành hành. Ông Nguyễn Văn Thành công lớn gấp trăm công cụ Đặng mà chỉ vì một bài thơ của con rể còn bị tru di thay huống chi một văn thần chỉ có tài bút mặc. Và trong cảnh làm quan làm sao tránh khỏi sơ xuất, méo hay tròn, nặng hay nhẹ chỉ do chỗ ghét thương.
[8] Câu này trong các sách chép là:
“Sửa mũ áo… ngọn quang minh un mát tấm trung can;”
“Chỉ nước non… chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí.”
Nhưng tại miếu Song Trung thờ Võ Thánh Ngô Tùng Châu, nơi cột chính điện thấy khắc là:
“… Ngọn lửa hồng mát mẻ tấm trung can;”
“… Chén thuốc độc ngọt ngon mùi chính khí.”
Theo thiển kiến, câu khắc nơi cột văn chương tự nhiên và êm ái hơn câu in trong các sách.
37.

Thơ Vịnh Vật mà không có ý ngoại thì không khác đồ chơi tết của trẻ con. Và đọc thơ Vịnh Vật mà không nhận chỗ ngụ ý thì cũng như răng nhai món ngon mà lưỡi không biết rõ chân vị của món ăn. Không còn gì là hứng thú.

Làm thơ vịnh vật có phần khó hơn thơ tình thơ cảm. Vì tình cũng như cảnh, bản chất vốn sẵn có thơ. Còn vật thì lắm vật khó tìm thấy chất thơ thấp thoáng. Thế mà một khi vào tay nhà thơ có tài thì tất cả những gì đặc sắc ẩn núp trong vật đều xuất hiện.
Ví dụ MẢNH SÀNH là một.
Mảnh sành có gì đáng nói? Thế mà cổ nhân đã nói lên được những cái đáng nói: 
Sẩy tay một phút hóa tan tành
Thiên hạ còn bia tiếng sỏi sành
Bén chẳng nhường gươm người gớm mặt
Rán sao ra mỡ chúng bêu danh?!
Ghe phe sấp cất nằm trong cát
Có thuở chôn chân đứng trước thành
Chuông khánh miếu đường không dám sánh
Gõ nghe thời cũng giọng canh canh. 
Không có gì kỳ dị, không có gì cao siêu. Thế mà trước khi tác giả nói lên, chúng ta không nghĩ đến! Châu Mỹ đã có từ thuở khai thiên lập địa, nhưng phải đợi Kha Luân Bố phát kiến, người văn minh mới biết đến Mỹ Châu. Cũng như đối với Mảnh Sành, ai lại chẳng biết là hậu thân của đồ bể, ai lại chẳng biết tánh chất của nó là sắc bén như gươm…, ai lại chẳng biết câu tục ngữ “rán sành ra mỡ”, và câu ca dao: 
Chuông khánh còn chẳng ăn ai
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre.
Nhưng trước bài này, đã mấy nhà thơ dùng làm tài liệu ngâm vịnh?
Thơ như thế, cổ nhân gọi là “tứ tốt”, gọi là “đãi cát lấy vàng”.
Tác giả bài Mảnh Sành là Phò mã Lâm Duy Trạm, người Bình Định, con trai Lâm Duy Hiệp (tức Lâm Duy Nghĩa) đời Tự Đức. Cụ Lâm Duy Hiệp cùng cụ Phan Thanh Giản ký hòa ước năm Nhâm Tuất (1862), nhượng ba tỉnh miền Đông Nam phần là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Sau đó ba tỉnh miền Tây bị Pháp chiếm cứ luôn. Cụ Phan Thanh Giản tuẫn nghĩa. Cụ Lâm Duy Hiệp bị Triều Đình Huế bắt tội “làm mất đất”. Phò mã Lâm cũng bị tội lây.
Phò mã làm ra bài Mảnh Sành để ký thác tâm sự.
Bài thơ đọc qua thì dường như hài hước, nhưng gẫm lại thì ngấm ngầm đắng cay: thân không còn vinh hiển như xưa mà danh còn bị miệng đời làm thương tổn. Nhưng câu kết vừa nhún nhường vừa tự đắc: vấn vô tâm quá, nếu người đời chịu khó nghĩ kỹ xét công thì vẫn nghe được tiếng nói của chân lý.
Thời Kháng Chiến chống Pháp (1945-1954) để tỏ chút tâm chí của mình cùng kẻ có quyền thế, nhà nho họ Ôn ở Bình Định cũng có một bài VỊNH MẢNH SÀNH: 
Vò tan chén vỡ cũng thành danh
Rắn rỏi xưa nay tiếng mảnh sành
Ném sẻ đã từng lên tột nóc
Đắp lân càng rạng vẻ trên thành
Rán cho ra mỡ nồi thêm lủng
Đánh lắm đau con bát chẳng lành
Tom góp thử chơi về một đống
Đúc nền nện móng cũng ra vành.
Thời bấy giờ đám nhà Nho bị kẻ cầm quyền cho là “đồ vô dụng”. Tuy coi khinh nhưng lại tổ chức giới phụ lão cứu quốc mà phần đông là các nhà cựu nho! Trong khi nhóm hợp, một viên giáo sư Hán học “giác ngộ” buông nhiều lời khả ố. Họ Ôn mới làm ra bài trên gởi cho viên giáo sư.
Trong bài tác giả dùng nhiều phương ngôn tục ngữ:
- Câu thứ ba mượn ý bài hát của trẻ em:
Con chim se sẻ
Nó đỗ mái tranh
Anh vác mảnh sành
Anh quăng chết giãy…
Anh nấu một bảy
Anh dọn một mâm
Anh bưng lên ông
Ông hỏi thịt gì
Thưa thịt se sẻ. 
- Câu thứ tư mượn ý trong bài vè:
Ai khéo đem mẻ
Đắp vẻ kỳ lân
Kẻ xa người gần
Xúm nhau mà ngó. 
- Câu thứ năm, mượn ý câu tục ngữ “rán sành ra mỡ”.
- Câu thứ sáu mượn ý câu “Bát bể đánh con không lành”.
Bài của ông Ôn cũng như bài của Phò mã Lâm, câu nào cũng đi sát đề. Bài của Phò mã Lâm, khí mạnh. Bài của ông Ôn, văn luyện. Mỗi bài hay mỗi vẻ, và tâm dự gởi vào thơ cũng là tâm sự riêng của mỗi người thơ.
Đảng Văn Thân Bình Định ứng nghĩa Cần Vương (1885), có người không theo, nói:
- Khéo bày chuyện trật cuống họng.
Người trong đảng nghe được làm bài thơ VỊNH CỐI XAY:
Công linh trong thế mấy ai tày
Có gạo nhờ ơn cái cối xay
Ngàn bận chi sờn thân gió bụi
Trăm vòng nào ngại sức lung lay
Mòn răng nợ chúa chưa đền đáp
Trật họng hờn ai khéo đặt bày
Bao quản thớt trên đè thớt dưới
Chỉn e còn dặt phải ra tay. [1]
Đó là mượn vật để tỏ chí khí.
Phan Tây Hồ có bài thơ VỊNH ĐÈN SÁP:
Năm nhồi mười nặn cũng không hoai
Đèn sáp khen cho thật dẻo dai
Thẳng rẵng sợi tim hơn mấy tấc
Lăn tròn cái xác biết bao ngoai
Cháy đầu dốc tỏ đêm tăm tối
Nóng ruột lo toan việc sáng soi
Hé cửa trách ai cho gió lọt
Năm canh giọt lệ ngỏ cùng ai [2].
Tâm chí của Phan tiên sinh, thân thế hành vi của Phan tiên sinh hiện rõ ràng trong ánh Đèn Sáp!
Nhưng cũng như bài Cối Xay, bài Đèn Sáp thiên về lý trí. Thi vị có phần khô khan. Người đọc đọc xong không còn thấy vị ngòn ngọt đăng đắng của trà cam khổ.
Tức là không có dư vị. Tứ là vị thơ không thấm lòng người đọc được lâu.
Có người bảo:
- Vì đề tài không mấy nên thơ, nên thơ làm ra có nhiều thi vị đủ sức trì hứng thế nào được.
Chỉ đúng một phần, chớ không phải hoàn toàn đúng. 
Làm thơ cũng như nấu ăn. Cá thịt dễ nấu hơn bầu bí. Nhưng với bà nội trợ giỏi nấu nêm, thì bát canh bí dĩa bầu um vẫn làm khoái khẩu khoái tâm những người tri vị.
Nghĩa là vị thơ nhiều hay ít, thấm lâu hay mau lợt, phần lớn do tài làm thơ. Thi cảm, thi tình, thi tứ, thi liệu là cốt yếu. Song tự chúng không tạo nên thi vị được. Phải cần tài khéo léo của người nấu ăn, tức là thi tài. 
Tác giả bài Vịnh Cối Xay cũng như tác giả bài Vịnh Đèn Sáp là chí sĩ chớ không phải thi sĩ. Dọn món ăn ra cốt để cho no lòng chớ không phải để sướng miệng. Cho nên chỉ chú ý ở việc nấu cho chín chớ không lưu tâm đến việc nêm cho ngon. Do đó thi vị bài thơ không đủ sức thấm sâu và ngấm lâu trong lòng người đọc.
Những vị tiền bối dùng thơ để tải đạo, dùng thơ để truyền bá tư tưởng, phần nhiều đều lo nấu chớ ít nghĩ đến việc nêm. Cho nên thi vị khô khan hoặc ít ỏi chẳng những trong thơ vịnh vật mà cả trong thơ tả tình, vịnh cảnh, vịnh sử…
Không ngon, không thật ngon, nhưng lại bổ. Nên những bài thơ như bài Vịnh Cối Xay, Vịnh Đèn Sáp giá trị không nhỏ.
Ở Huế không mấy ai không thuộc bài VỊNH CHIẾC THUYỀN của cụ Tôn Thất Diệm:
Ngựa xe ai đó chớ cười tôi
Ngang dọc giang hồ đủ thú vui
Hít gió hôn trăng nên trớt mũi
Hờn mưa giận nắng hóa cong mui
Trải lòng đỡ dưới vì lo nước
Dày mạn thêm cao chẳng sợi mòi
Chèo chống tha hồ ba chú lính [3]
Còn hà có cắn có người hui.
Thân thế và hành vi của tác giả được thác ra lời chiếc thuyền. Không đọc qua tiểu sử, chúng ta cũng có thể biết qua bài Vịnh Chiếc Thuyền, tác giả là người có địa vị trong xã hội, tuy tánh vốn phong lưu nhưng lòng không quên thế sự.
Văn chương thanh lão khinh khái, đọc lên như thấy bóng dáng con thuyền trôi trên dòng sông Hương.
Tôi liên tưởng đến CHIẾC THUYỀN NANCHIẾC TÀU AN NAM của Tản Đà tiên sinh: 
I/
Thả chiếc thuyền nan bé tẻo teo
Cũng buồm cũng lái cũng dây lèo
Nghìn trùng sóng gió ba khoang nứa
Bốn mặt non sông một mái chèo
Những hẹn nước mây thu mấy độ
Thử xem trời biển rộng bao nhiêu
Con đường vô hạn vui chăng tá?
Mà hỡi dòng sông tiếng nước reo. 
II/
Bốn bể năm châu náo cuộc đời
Con tàu bản quốc chị em ơi
Tấm thân dầm nước đà nên sắt
Tiếng hiệu sang sông mới hét còi
Vồn vã gió mưa cơn giục khách
Mênh mông trời biển bước ra khơi
Hỏi thăm Âu Mỹ bờ đâu bến
Mở máy quay guồng quá cuộc chơi. 
Bài trên Tản Đà tiên sinh lấy đề là “Sông Cái, chiếc thuyền nan”, ngụ ý nói về tờ An Nam tạp chí do tiên sinh chủ trương ra số 1 ở Hàng Lọng Hà Nội. Bìa phía sau tạp chí có vẽ một chiếc thuyền lướt sóng. 
Bài dưới cũng là bài đề An Nam tạp chí lúc báo ra đời lần thứ hai ở Nam Định. Kỳ này bìa vẽ một chiếc tàu sắt ra khơi.
Bài thơ của Mộng Phật Tôn Thất Diệm là hình ảnh của ông quan phong lưu. Hai bài thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là gan ruột của nhà thơ ái quốc. Tánh chất khác nhau, nên phong vị cũng khác.
Cụ Mộng Phật còn một bài thơ vịnh vật nữa được phổ biến còn có phần sâu rộng hơn cả bài Chiếc Thuyền. Đó là bài: 
BÙNG BINH
Chỉ biết tiền thôi có biết gì
Bụng to mà miệng tỉ tì ti
Chành bành ra rứa đeo ăn mãi
Đút nhét vô hoài chẳng nói chi
Làm tướng đời mô còn tiếng lại?
Để quân trẻ nó cứ thu đi! [4]
Bấy lâu lúc lắc coi chừng đã
Chừng đã đầy thời phải đập mi. 
Văn giản mà ý súc. Đọc nghe như tuồng nói chơi, nhưng đối sít sao từng chữ. Đối sít sao từng chữ nhưng không hề có tí vết dụng công. Thật chẳng khác nắm cây bút rảy mực xuống giấy một cách ơ hờ mà mỗi giọt mỗi nét đều trở nên hoa nên lá… Những chữ “chành bành ra rứa, đút nhét vô hoài”, “làm tướng đời mô, để quân trẻ nó”, dường đợi sẵn ở đâu đó, đến khi tác giả mở miệng, hươi tay…, liền kéo nhau đến phục vụ. Một nhà thơ có tài sai khiến chữ thơ cũng giống một tay phù thủy cao tay ấn sai khiến âm binh, không phải nhọc công tốn sức. 
Nhưng làm thơ cũng như tu hành. Tu đã đến mức thần thông mà nếu lo dùng phép thần thông để biểu dương tài nghệ, chớ không lo hàm dưỡng huân tập, thì không mong gì thành đạo. Người làm thơ cũng thế. Nếu bút pháp đã đến chỗ tinh vi, mà chỉ lo dùng kỹ thuật để làm vui tai mắt người đời, hoặc chỉ để tìm thú tiêu khiển cho mình, chớ không lo uẩn nhưỡng tâm tư, phong phú kiến thức, thì cũng không mong gì đến được diệu xứ của thơ. 
Một số đông thi nhân xưa nay cậy mình đã “cao tay ấn”, ngày ngày lo phô trương “pháp thuật”, quên nhãn tu hành, nên thơ thường đi đến mức “bùng binh” rồi dừng bước hoặc lui bước.
Thơ vịnh những vật chết khó hay hơn thơ vịnh vật sống. Vì vật sống tự nó đã có sẵn sinh khí dễ làm cho thơ linh động. Nhưng dễ là đối với những bậc có thi cốt, thi học, thi tài, nhất là thi tài, chớ cá thịt ê hề mà tài nấu nước quê vụng thì cũng khó có được món ăn ngon.
Về thơ vịnh vật sống, trước hết tôi xin giới thiệu bài thơ vịnh con vật rất nhỏ: 
VỊNH MUỖI
Hỡi muỗi mày danh giáp tý nào?
Bay cao bay thấp mặc tiêu dao
Ngày thời đủng đỉnh chơi màn thắm
Tối lại vo ve ấp má đào
Ghẹo kẻ anh hùng khi thức tỉnh
Trêu người thục nữ lúc chiêm bao
Tiếng vang thiên hạ đều kinh sợ
Cung quế phòng tiêu tỏ lối vào. 
Tương truyền bài này của vua Minh Mạng.
Không lấy gì làm chắc, vì vua Minh Mạng là người trọng chữ Hán khinh chữ Nôm, đã cấm dùng chữ Nôm viết công văn, viết chiếu biểu, thì lẽ đâu còn làm thơ Nôm, lại làm thơ con muỗi để tự ví mình. 
Nhưng nếu không phải của vua Minh Mạng thì là của ai? Trong bài có khẩu khí đế vương: “Cung quế phòng tiêu tỏ lối vào”. Nếu không phải là vua thì ai dám vào phòng tiêu cung quế? Ngoài vua ra thì chỉ có các ông thái giám, các nàng cung phi. Nhưng những hạng này chỉ có thể “chơi màn thắm” chớ không thể “ấp má đào”. Lời văn lại đẹp đẽ chải chuốt. Các nhà vua hay làm thơ Nôm như Lê Thánh Tông, như Tự Đức, Thành Thái… đều không có giọng thơ du dương uyển chuyển như thế. Âu đành để vào chỗ tồn nghi. 
Văn chương bài này thật hay, song ý bị điệp. Câu bốn câu sáu và câu tám chỉ quanh quẩn bên mình khách giai nhân. Đó là bệnh điệp sàng giá ốc, chứng tỏ rằng tâm hồn tác giả sang mà không giàu.
Không bằng bài sau đây của cụ tú Nguyễn Diêu:
Muỗi hỡi muỗi ơi sướng đủ điều
Còn chi chi nữa hỡi còn kêu
Lầu son gác tía ngày qua lại
Má ngọc da ngà thú ấp yêu
Béo miệng nào thương con trẻ dại
Cành hông chi sá lũ dân nghèo
Trong tay mà có ba tiêu phiến
Xử tội nhà ngươi quyết chẳng nhiêu. 
Đoán rằng bài này chắc vì bài kia mà có. Văn chương thanh lệ, phê phán công minh. Đây là lời nói của kẻ có tài có học có khí phách. Đọc lên thấy phấn khởi trong lòng.
Gần đây có xảy ra vụ thơ CON MUỖI có lý thú:
Kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp năm 1963, Bộ Quốc Gia Giáo Dục lấy bài thơ CON MUỖI sau đây làm đề bình giảng Việt Văn: 
Mình thì ngăn ngắn cẳng thì dài
Nho nhỏ nhưng mà chẳng sợ ai
Ít sức biết đâu mang nổi núi
To gan có lúc cắn càn voi
Xua tanh lũ kiến tuồng vô dụng
Gầy mật bầy ong dạng bất tài
Minh bạch gẫm ra thua nghỉ hết
Ăn người rồi lại nói bên tai. 
Bộ Giáo Dục chép là của Tây Hồ Phan Châu Trinh.
Dư luận xôn xao! Kẻ thì bảo bài đó như thế này, người thì bảo như thế kia. Người thì quả quyết tác giả là Tây Hồ tiền bối, kẻ lại cãi không phải của Tây Hồ. Nhà thơ Đông Hồ phải viết một bài nói trắng rằng bài CON MUỖI là một bài bất thành văn lý. “Nội dung chẳng chứa đựng được một nghĩa lý một tư tưởng gì, chẳng ký thác được một câu tâm sự một khí phách nào để nhận ra đó là bản sắc người hào kiệt đất Quảng Nam. Mà lời thơ thì hết mực tầm thường… Không đáng để một thi sĩ nào trọng nghệ thuật dám ký tên nhận mình làm tác giả của nó”. [5] 
Lời của Đông Hồ thật chí lý.
Tuy vậy trong cát vẫn có một đôi chút vàng:
Câu trạng tôi nghe truyền có đôi chữ khác:
Nhỏ vóc nhưng mà mang nổi núi
To gan khi cũng cắn càn voi.
Tứ thơ thật mới. Không phải tạc không đỗ soạn [6]
Vế trên dựa vào câu “sử mân phụ sơn” trong sách Trang Tử. Vế dưới mượn ý câu tục ngữ “Mèo quào vách muỗi cắn voi”. [7]
Câu tục ngữ cũng như câu của Trang Chu đều ngậm ý chê, mà hai câu thơ lại chuyển thanh khen. Như thế cổ nhân gọi là “phiên án”, là “cánh tấn nhất tằng”. [8]
Hai câu ấy, ý thì xảo mà lời lại phác. Tôi nhận thấy có biệt thú, nên lời quê dông dài hầu mong được mua vui cùng bạn tri âm. 
Sau khi quân Pháp đặt xong nền đô hộ lên đất nước Việt Nam thì hàng sỹ phu trong nước, một số tuẫn quốc, một số lui về thôn quê giữ lòng cô trung cùng Tổ Quốc, còn phần đông thì ra cộng tác cùng quân thù. Trong số này cũng có một ít người giữ được thiên lương, còn bao nhiêu đều là bọn sâu dân mọt nước.
Ở Bình Định thời bấy giờ có sản xuất bài thơ: 
VỊNH RẬN
Chí ở đầu người lắm nỗi rầu
Lại thêm loài rận rúc trong bâu
Áo xiêm trên chúa nương nhờ ấm
Máu mỡ ngoài dân cắn nút hao
Gối bính thuở an na bụng tới [9]
Giáp binh khi động thụt đầu vào
Phải chi ta được quyền xanh vạc [10]
Trứng mén nhà bay thảy tận cào. 
“Chí ở đầu người” ám chỉ bọn thực dân Pháp. “Loài rận ở trong bâu” ám chỉ bọn tham quan ô lại.
Có người hỏi:
- Bài này là một bài thơ hay là bài vận ngữ?
Xin thưa:
- Minh định thế nào là một bài thơ thế nào là một bài vận ngữ không phải là việc dễ, vì từ xưa đến nay không lấy gì để làm khuôn thước. Những bài thật hay hoặc thật dở thì dễ phán đoán. Những bài “không có mùi nhưng có vị” như gân gà của Tào Tháo thì việc xét định lắm lúc thật phân vân. Như bài Vịnh Rận, Vịnh Cối Xay…, tuy văn chương không điêu luyện công phu, nhưng vẫn có linh hồn, có khí cốt, có bẳn sắc…, vẫn gây cho người đọc có tâm huyết ít nhiều cảm xúc ít nhiều hứng thú. Như thế, theo thiển kiến, đều là thơ, đều là những bài thơ đáng truyền tụng. 
Nói tóm lại những bài văn vần nào đủ sức truyền cảm, tức có thể làm rung động lòng người đọc gây hứng thú cho người đọc, đều là thơ. Còn những bài đọc thấy khô khan, nhạt nhẽo, thì dù văn chương điêu trác đến đâu, cách điệu nghiêm chỉnh đến đâu, cũng thuộc vào hàng vận ngữ. Nói một cách khác, là bài văn vần nào có hồn thì gọi là thơ còn chỉ có xác thì gọi là vận ngữ.
Bài Vịnh Rận có hồn, nên không phải là vận ngữ. 
Nhưng thơ hay có ba hạng: Thượng Thừa, Trung Thừa, Hạ Thừa. Bài Vịnh Rận thuộc hàng hạ thừa. Còn những bài vịnh vật khác trích dẫn trên đây đều thuộc hàng trung thừa trở xuống. Chưa bài nào, theo thiển ý, được liệt vào hàng thượng thừa. 
Cũng thuộc hàng thơ hay đáng truyền tụng, bài VỊNH CHIM BỒ CÂU của cụ cử Tuệ: 
Đen trắng coi ra nghĩ cũng màu
Trăm chim hồ dễ sánh bồ câu
Len mình cửa nguyệt không tên đạn
Dán cánh cung mây có bạn bầu
No đói chẳng nguôi lòng cố chủ
Lứa đôi cho tỏ nghĩa hà châu [11]
Gật gù sính lễ cùng con cháu
Còn lối lên trời muốn bảo nhau. 
Tương truyền cụ cử làm tri phủ Nho Quang bị cách chức, lui về vui thú điền viên, làm thơ để tỏ niềm ưu ái.
Lời thơ giản luyện, ý thơ trung hậu. Riêng tiếc không được biết rõ thân thế và hoàn cảnh của tác giả khi sáng tác bài thơ, để khám phá những gì ẩn náu dưới hàng chữ câu văn. Vì đây là thốn tâm thiên cổ chớ không phải dư vị cuộc ngẫu hứng nhất thời.
Nhưng dù có khám phá được gì thêm, bài này vẫn ở hàng Trung Thừa, vì chưa làm cho người đọc kinh khiếp. 
Bên thơ Hán tự, thơ Việt Nam cũng như thơ Trung Hoa, có nhiều bài nhiều câu đọc xong nghe ớn lạnh. Tôi chưa được gặp bài thơ vịnh vật nào tuyệt diệu trong làng thơ Quốc âm. Triều Nguyễn đã nhượng chức Trạng Nguyên cho Trung Hoa, Đình thí chỉ lấy từ Bảng Nhãn trở xuống. Về thơ Vịnh Vật, chẳng lẽ hàng thơ Quốc âm cũng theo gương khoa cử triều Nguyễn mà nhượng hàng Thượng Thừa cho Hán văn? 
Thơ Vịnh Vật thường thường thuộc về thể tỷ: Hầu hết các tác giả vịnh vật không phải vì vật, mà vì người. Mượn vật để thác từ, ngụ ý, nói lên những gì chất chứa trong lòng mà không tiện hoặc không muốn nói thẳng, nói trắng, về mình hoặc về người khác. Người thơ làm thơ vịnh vật thường thường ngậm chứa hai nghĩa: nghĩa đen nói về vật, nghĩa bóng nói về chí hướng, tâm sự, hoài bão, khí phách, ý kiến… của người làm thơ. Trong thơ Vịnh Vật, phần nghĩa bóng lại là phần quan trọng phần chính yếu. 
Trong những bài thơ vịnh vật thượng dẫn,
- Bài Mảnh Sành của họ Ôn, bài Cối Xay của một người trong phong trào Cần Vương, bài Đèn Sáp của Phan Tây Hồ, bài Chiếc Thuyền của Mộng Phật, bài Chiếc Thuyền Nan, bài Con tàu An Nam của Tản Đà…, bài vịnh Chim Bồ Câu của cụ cử Tuệ… là thơ vịnh vật tự nghĩ.
- Bài Mảnh Sành của Phò mã Lâm, bài Vịnh Muỗi (vận Nào) là thơ vịnh vật tự phúng.
- Bài Vịnh Muỗi (vần Điều), Vịnh Rận, Bùng Binh… là thơ phúng thế.
Nghĩa đen nghĩa bóng đều thích đáng. Những tay tầm thường không dễ gì làm nên.
Chú thích:
[1] Dặt là những hạt thóc còn sót lại khi xay xong. Ở Bình Định đọc những chữ khởi đầu bằng chữ D và GI không khác nhau và những chữ cuối cùng T và C cũng như nhau. Cho nên mới mượn chữ DẶT để nói đến GIẶC (giặc dã).
[2] Có chỗ chép: Canh trường rơi giọt ngỏ cùng ai.
[3] Có chỗ bảo là: “Khách khứa nhiều khi quan lớn cả”. Lời tuy có khác, nhưng ý vẫn ngụ rằng mình là hàng thượng lưu.
[4] Bài này trong Hương Bình Thi Phẩm của ông Hoàng Trọng Thược chép có nhiều chỗ khác. Nhất là cặp luận:
Mấy thuở đua tài người gọi tướng
Cả đời giữ của mọi là mi.
Những câu khác chỉ cách một vài chữ  (Xem H.B.T.P. trang 56).
Chữ “làm tướng” tác giả mượn ý câu tục “Đại tướng bùng binh”.
[5] Xem Úc Viên Thi Thoại của Đông Hồ.
[6] Tạc không: khi không mà bày chuyện ra.
Đỗ soạn: Ngày xưa có anh Đỗ Mặc làm thơ thường sai luật, do đó, thi văn không đúng luật không nhập cách giọi là Đỗ soạn, soạn tức do họ Đỗ soạn ra. Đặt bày ra cũng gọi là đỗ soạn, nghĩa giống như tạc không.
[7] Sử mân phụ sơn: khiến muỗi vác núi.
[8] Phiên án: bỏ tội án đã định mà xét xử lại, tức là bỏ nghĩa thông thường mà dùng theo nghĩa mới.
Cánh tấn nhất tằng: lại tiến thêm một tầng nữa.
[9] Gối bính: do câu “bính dạ bất an chẩm” của Đường Thế Tông mà ra (Bính dạ là nửa đêm: giờ bính tý).
[10] Xanh vạc là đồ dùng để nấu.
[11] Hà Châu: doi cát bên sông - Chữ Kinh Thi: Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yếu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.
38.

Nổi tiếng về thơ phúng thế, ở Bắc có Tú Xương Trần Tế Xương, ở Nam có Học Lạc tức Nguyễn Văn Lạc, người Mỹ Tho.

Thơ phúng thế của Tú Xương thường dùng thể phú.
Thơ phúng thế của Học Lạc thường dùng thể tỷ.
Thơ phúng thế của Tú Xương chúng ta đã thưởng thức rồi [1]. Tôi xin giới thiệu thơ của Học Lạc. 
Thơ vịnh vật phúng thế của Học Lạc, tôi biết được rất ít, nhưng đủ cho tôi thấy được khí tượng và thi tài, vì bài nào cũng đích đáng:
- Vịnh đôi gà chọi
- Vịnh trâu
- Vịnh chó chết trôi sông
- Vịnh tôm
- Vịnh ông làng hát bội. 
Tôi thích nhất bài VỊNH TRÂU
Mài sừng cho lắm cũng là trâu
Coi lại mà coi thật lớn đầu [2]
Trong bụng lam nham ba lá sách
Ngoài nằm lẻm thẻm một chùm râu [3]
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy [4]
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu [5]
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đàn gảy biết nghe đâu.
Văn chương tự nhiên. Chân tướng của trâu được phác họa bằng những nét đơn sơ nhưng linh động. Rõ là một bức tranh truyền thần, nhìn vào không ai có thể lầm vật gì khác hơn trâu.
Như thế là nghĩa đen của bài thơ đã rõ.
Còn nghĩa bóng thì lời giải thích xưa nay có nhiều điểm dị đồng.
Các vị túc nho tiền bối tôi được hầu chuyện giải thích rằng:
- Bài con trâu làm ra để châm phúng bọn lý hương và bọn quan lại thời Pháp mới đặt nền đô hộ lên đất nước Việt Nam. Bọn này phần nhiều là hạng văn dốt võ nhát, bất tướng vô tài, vì dại dột mà cam thân làm trâu ngựa cho lũ thực dân, lắm khi bị chúng lợi dụng một cách quá đáng.
Trong Giai Thoại Làng Nho, Lãng Nhân giải thích: - Nhìn thấy bọn sĩ phu cậy có dăm ba cuốn sách trong bụng mà lên râu với bà con, đến khi gặp giặc thì chạy tơi bời, chỉ sợ máu huyết phải đem làm lễ bôi chuông, giống như nông nỗi con trâu trong bài. 
Tôi biểu đồng ý kiến của các vị túc nho tiền bối. Nhưng thiết tưởng bài con trâu không phải ám chỉ tất cả bọn người ra làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp mà chỉ nhắm một số người nào đó trong bọn này, và số người nào đó đã bị thực dân đem làm vật hy sinh trong một vài trường hợp nào đó, nhân dịp bị hy sinh đó, ông Học Lạc mới đem trâu ra mà tỷ. Tức là trường hợp sáng tác bài con trâu, không phải là trường hợp phổ biến, mà là trường hợp đặc biệt. Tôi có ý nghĩ này là do cặp luận trong bài:
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.
Điển Điền Đan, điển bôi chuông là những điển thông dụng. Trong bài VỊNH TRÂU GIÀ, cặp trạng:
Đuôi cùn biếng vẩy Điền Đan hỏa
Tai nặng buồn nghe Nịnh Thích ca.
Câu chuyển kết:
Bôi chuông nhớ thuở thân gần lụy
Ơn đội Tề Vương chết được tha.
Tuy cùng một điển, nhưng cách dùng đôi bên khác hẳn nhau. Bên Trâu Già thì dùng theo nghĩa tốt. Bên ông Học Lạc thì dùng theo nghĩa xấu. Đó là do bài Trâu Già là thơ tự nghĩ, còn thơ ông Học Lạc là thơ phúng thế. Còn một điểm khác biệt trong cách dùng của đôi bên nữa là: Tác giả bài Trâu Già nương theo điển, còn ông Học Lạc lại khiến điển theo mình.
Ông khiến điển theo mình bằng hai chữ “mắc mưu”.
“Đốt đít, làm lễ bôi chuông” là sự kiện hiển nhiên ở trước mắt. Còn “mắc mưu” là nguyên nhân sanh ra những sự kiện kia và đã được ông Học Lạc tìm thấy. Không phải nước lã khuấy nên hồ, mà vốn có duyên cớ vững chắc.
Chúng ta thử nghĩ: Tại sao bị đốt đít, bị bôi chuông? Có phải tại bị mắc mưu chăng? Và tại sao lại bị mắc mưu? Có phải tại dại (lớn đầu), tại dốt (lam nham ba lá sách), tại ưa lên mặt ta đây là kẻ cả, là kẻ tuổi tác giàu kinh nghiệm (lẻm thẻm một chùm râu), tại không biết nghe điều hay lẽ phải (năm dây đàn gảy biết nghe đâu) hay chăng?
Như thế “mắc mưu” là nguyên nhân của việc đốt đít, bôi chuông, nhưng là hậu quả của dại, dốt, ưa lên mặt, không biết nghe điều hay…
Ông Học Lạc nắm được “nhân quả” của sự việc trong điển nên điều khiển điển được dễ dàng.
Mà dốt, dại, ưa lên mặt, không biết nghe điều hay lẽ phải là tánh chất chung của trâu. Song:
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu
không phải là tình trạng chung của giống “nghé ngọ già đời quen nghé ngọ”. Đó chỉ là trường hợp riêng của một số nghé ngọ bị mắc mưu nào đó mà thôi. Số nghé ngọ đó nhất định có liên quan hoặc nhiều hoặc ít với tác giả, và trường hợp đó nhất định đã được tác giả hoặc mắt thấy hoặc tai nghe.
Nghĩ vậy nên tôi mới dám bảo rằng trường hợp sáng tác của bài VỊNH TRÂU là một trường hợp đặc biệt. 
Vì không rõ trường hợp kia như sao nên không thể đi sâu vào bài thơ để khám phá những bí ẩn mà tôi cảm thấy có, ngoài những điều các vị túc nho tiền bối và ông bạn Lãng Nhân đã tìm thấy. 
Tôi đã dài dòng văn tự, mục đích chẳng phải chỉ để chứng minh lời nói của mình, mà còn để mách lẻo cùng bạn tri âm:
- Tìm biết trường hợp sáng tác một bài văn bài thơ, cũng như thời kỳ sáng tác, nguyên nhân sáng tác, động cơ sáng tác, rất cần thiết cho việc tri thức và thưởng thức văn chương.
- Điển cố cũng như tiền bạc, là kẻ làm tôi tốt mà là kẻ làm chủ xấu. Chúng ta nên bắt chước ông Học Lạc, sử dụng với tư cách chủ nhân ông.
Cổ nhân thường nói:
- Có điển mà không dùng, cũng như có thế mà không cậy.
Xem đó đủ thấy rằng dùng điển là sự bất đắc dĩ.
Những nhà văn nhà thơ ưa dùng điển là những chàng trọc phú khoe giàu, chỉ làm oai được với những hàng thấp kém.
Có nhiều bạn lầm tưởng rằng văn thơ có dùng điển mới súc tích. Không phải thế. Văn chương hàm súc thâm viễn là do công uẩn nhưỡng phanh luyện của tác giả, là nhờ tác giả đã sống một đời sống mãnh liệt và sâu sắc, rồi chuyển sức sống của mình sang văn chương.
Điển cố chỉ giúp phần nào vậy thôi.
Điển cố thường giúp tác giả dễ xoay chuyển trong những trường hợp khó khăn, như nói được nhiều với số chữ quá ít, như nói được kín đáo những gì không muốn hoặc không tiện nói trắng ra v.v…
Điển cố cũng như đồ trang sức. Đẹp không phải do nhiều mà do biết cách trang sức. Và nếu tướng xấu tánh xấu thì gấm vóc châu ngọc không thể biến Đông Thi thành Tây Thi, mà còn làm trò cười cho kẻ thức giả.
Vì vậy không nên lạm dụng. [6]
Ông Học Lạc là người khéo dùng điển, như chúng ta đã thấy. Nhưng ông lại ít hay dùng điển. Thơ ông tôi đọc chưa được nhiều. Song những bài tôi đã được biết, phần nhiều đều tự xuất tân ý, phần nhiều đều dùng những sự những vật ở trước mắt để tải ý diễn tình. Như:
CHÓ CHẾT THẢ TRÔI SÔNG
Sống thời bắt thỏ thỏ kêu rêu
Chết thả trôi sông xác phập phều
Vằn vện sắc còn phơi lẩn vẩn
Thúi tha danh hỡi nổi lêu bêu
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép
Đưa đón lao xao lũ quạ diều
Một trận gió dồi cùng sóng dập
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu! [7]
Không cần đến điển, không có một chữ khó, mà lời thơ già dặn, ý thơ hàm súc. Đọc lên là thấy ngay cảnh tượng chó chết thả trôi sông và càng đọc kỹ càng thấy những ẩn ý nằm dấu mình ở dưới hàng chữ.
Bài này phải chăng là làm để ám chỉ bọn chó săn của thực dân Pháp? Để tâng công cùng chủ, bọn này đã làm hại đồng loại biết bao nhiêu người! Nhưng đến khi không còn bắt được thỏ nữa thì thân phận chúng có ra cái quái gì! Công lao của chúng, một khi chúng tắt thở, trôi theo dòng nước chảy, nhưng tội ác của chúng danh nhơ của chúng vẫn còn mãi trên thế gian.
Bọn chó săn đã là bọn thúi tha nhơ bẩn. Song bên cạnh chúng lại còn những bọn thúi tha nhơ bẩn hơn. Đó là những bọn sống trên xác chết, ngoài mặt thì giả nhân giả nghĩa, mà trong lòng thì chỉ chực xé thịt moi gan người để nuôi thân cho béo bổ. Bọn người này đã được lũ quạ diều bầy tôm tép tượng trưng.
Ông Học Lạc chỉ cốt vẽ hình tướng bọn người sống bắt thỏ chết thả sông. Nhưng khi tô màu, ông lại làm xuất hiện thêm những hạng người hễ nghe mùi thây ma là xum xoe kéo nhau tới. Chỉ bắn một phát tên mà trúng đến hai ba cái đích. Có thể gọi là thần tình!
Ông lại còn nhủ thầm thế gian:
- Hễ lúc sống lo làm hại người thì lúc chết không thể giữ toàn thây.
Thơ như thế là súc tích.
Trong loại thơ Vịnh Vật, bài này có thể liệt vào hàng thượng thừa.
Bài này cũng như bài Vịnh Trâu ra đời đã trên dưới một thế kỷ [8], nhưng không mất thời gian tính, bởi thời đại nào lại không có trâu ngựa, không có chó săn, không có quạ diều tôm tép, và thời thế tuy đổi thay, nhưng bản chất của những giống kia có bao giờ thay đổi. Do đó, người đời nay đọc thơ vẫn thấy hay thấy thích.
Nhưng có lắm bài vịnh những vật mà hiện nay không còn nữa hoặc còn mà đã thay hình đổi dạng quá nhiều, bạn trẻ nhìn vào thơ không thể hình dung rõ rệt được những vật sở thuyết ấy, nên không thể lãnh hội được những cái hay cái khéo trong thơ. Bài VỊNH ÔNG LÀNG HÁT BỘI của ông Học Lạc sau đây bị rơi vào trường hợp ấy:
Chi chi trong khám sắp hai hàng
Xem kỹ thời ra mấy bợm làng
Trong bụng trống trơn mang cổ giữa
Trên đầu trọc lóc chít khăn ngang
Vô buồng gọi tổ châu đầu lạy
Ra rạp làm con nịt nách mang
Dám hỏi hàm ân người lớp trước
Hay là cũng rặt lũ quân hoang.
Chỉ đôi nét chấm phá mà vẽ được trọn vẹn những nét độc đáo của ông Làng Hát Bội. Văn chương không kém gì bài VỊNH TRÂUVỊNH CHÓ CHẾT THẢ TRÔI SÔNG. Nhưng phải biết ÔNG LÀNG HÁT BỘI là vật gì, hình dáng ra sao và dùng để làm gì thì mới thấy rõ tài ngâm vịnh của ông Học.
Tôi dám nói thế là vì đã gặp nhiều bạn thanh niên sanh thời kháng chiến chống Pháp trở lui, bị lúng túng, ngơ ngác, trước bài VỊNH ÔNG LÀNG. 
Không có gì lạ. Hát bội đã bị cải lương làm chết dần chết mòn gần nửa thế kỷ nay. Những gánh hát bội còn sống sót đã không đủ khả năng lôi cuốn tuổi trẻ, lại không còn giữ được tánh chất cổ nhã của ngày xưa. Từ kiểu áo xiêm của bạn hát đến cách trang trần sân khấu đều đã bị canh cải rất nhiều. Những Ông Làng, tức là hình tượng các tổ sư, cũng đã bị thời trang hóa: Những hình nhân bằng đất sét nhào với giấy bổi đầu chít khăn ngang, mình mang áo cổ giữa, đã được thay thế bằng những con người bằng nhựa với áo mão cân đai, xuê xoang lộng lẫy. Trong những lớp tuồng cần sự hiện diện của trẻ hài nhi, xưa kia dùng Ông Làng làm đại biểu, ngày nay lại dùng búp bê Tây, Mỹ hay Nhật Bổn thay ông Làng… Cảnh tượng trước mắt khác hẳn cảnh tượng trong thơ, như thế bảo kẻ hậu sinh nương vào đâu để phân biệt phi thị thị phi?
Muốn cho bạn đọc thấu triệt một bài thơ đã mất thời gian tính như bài Vịnh Ông Làng Hát Bội, người giải thích phải mất nhiều công phu.
Có người cho rằng những bài thơ đã mất thời gian tính thì không còn có giá trị.
Không đúng, nếu bài thơ là một mỹ nghệ phẩm hoàn hảo. Bởi sau khi nhận chân được những sự vật nói trong thơ, thì lẽ nào độc giả lại đi phủ nhận tài diễn tả hay cấu tạo của tác giả. Như thế là giá trị văn chương của bài thơ không mất. Bên giá trị văn chương, bài thơ lại còn đèo thêm giá trị lịch sử. Vì đó là những tài liệu quý báu giúp các nhà khảo cổ thấy được hình bóng của những gì đã bị tiêu diệt theo thời gian.
Cho nên không nên xem thường, không nên cho là lỗi thời, những bài thơ đã mất thời gian tính, mà bài VỊNH ÔNG LÀNG HÁT BỘI của ông Học Lạc là một.
Nói tóm lại: bài VỊNH ÔNG LÀNG HÁT BỘI cũng như bài VỊNH CHÓ CHẾT, VỊNH TRÂU, là thơ vịnh vật có giá trị. Trong làng thơ Quốc âm, chưa thấy có bài thơ vịnh vật nào hay hơn.
Và chỉ xem ba bài thượng dẫn cũng đủ thấy rằng ông Học Lạc là một nhà thơ châm phúng có biệt tài.
Ông thường mượn vật để nói người. Nhưng cũng có khi ông chỉ trích thẳng, như chỉ trích NGUYỄN CÔNG NHÀN chẳng hạn.
NGUYỄN CÔNG NHÀN cùng các sĩ phu miền Nam dấy nghĩa binh chống giặc xâm lăng. Tánh họ Nguyễn nóng như lửa, nhưng gan họ Nguyễn lại nhát như cheo. Giao phong cùng địch mấy trận, ông không dám tiếp tục đương đầu, phải tự trói mình ra hàng giặc. Ông Học Lạc bèn có thơ phúng: 
Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn
Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan
Giặc tới bến Tranh run lập cập
Tàu vô cửa Tiểu chạy bò càng
Mưu thần trước biết ngang sông chắn [9]
Kế diệu sau toan đóng cũi hàng [10]
Thất thủ muốn liều cho vẹn tiết
Ngặt vì con vợ bận chưa an.
Văn chương thật thà, thiếu giọng sắc bén của thơ Tú Xương, điệu dí dỏm của thơ Nhiêu Tâm. Những bài khác cũng na ná như thế [11]. Nếu đem những bài châm biếm một cách trực tiếp của ông Học Lạc so với những bài vịnh vật phúng thế, thì đây là tiến sĩ phó bảng, còn kia là tú tài học sinh.
Cho nên có thể kết luận rằng NGUYỄN VĂN LẠC là một nhà thơ châm phúng sở trường về lối tỷ mà không sở trường về lối phú.
Ngoài loại thơ châm phúng, ông Học Lạc còn truyền lại một ít thơ tình thơ cảnh. Xuất sắc nhất là bài VỊNH CẢNH THUỘC NHIÊU:
Đất linh bồi đắp cuộc Ba Giồng
Cảnh Thuộc Nhiêu nhiều khách ngợp trông
Đường thẳng ngựa phi chen ngại bước
Lạch cùng cá lội mến quên sông
Trường văn nhóm kẻ thêu rồng cọp
Miếu võ thờ trang vững bá tòng
Thanh đạm thú quê vui tục cũ
Vườn dâu ruộng lúa dễ cho không. [12] 
Lời hùng ý hậu. Dù chưa được biết Thuộc Nhiêu, khách xem thơ cũng đoán được là một nơi phồn thịnh, có phong cảnh đáng yêu, có nhân vật đáng kính, và tuy khách bốn phương, theo đường bộ có đường thủy có, tới lui đông đảo, nhưng cuộc tiếp xúc bên ngoài không gây ảnh hưởng xấu đến nền phong tục cổ truyền, đến thú quê thanh đạm tự nhiên của bổn kiểng.
Đây là một bài thơ cảnh. Song tác giả vịnh cảnh không phải vì cảnh, mà nhân xúc cảnh, mượn cảnh để lồng tình. 
Ông Học Lạc vốn người làng Mỹ Chánh thuộc Mỹ Tho. Năm Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế ký hòa ước nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Việt (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) cho Pháp. Văn học cũng như Chánh trị đều thay đổi mới. Không chịu theo thời, ông Học bỏ làng Mỹ Chánh về làng Thuộc Nhiêu (cũng thuộc Mỹ Tho nhưng xa nơi Pháp đóng), dạy học và hốt thuốc làm chước dung thân.
Cặp trạng:
Đường thẳng ngựa phi, chen ngại bước
Lạch cùng cá lội, mến quên sông.
Ngụ ý nói rằng:
- Vì không muốn chen chân trên đường thế cùng đám bôn xu, nên phải xa Mỹ Chánh về ở Thuộc Nhiêu. Và ở Thuộc Nhiêu lâu ngày quen thú, lòng khuây dần nỗi thương nhớ quê xưa.
Cặp luận:
Trường văn nhóm kẻ thêu rồng cọp,
Miếu võ thờ trang vững bá tòng.
Vừa ca tụng làng Thuộc Nhiêu, vừa tỏ lòng tin tưởng ở thuyết “Địa linh sanh nhân kiệt”, vừa nói lên lý do khiến tác giả mến Thuộc Nhiêu, xem Thuộc Nhiêu như Mỹ Chánh.
Chuyển kết:
Thanh đạm thú quê vui tục cũ
Vườn dâu ruộng lúa dễ cho không.
Ngậm ý cảm khái về việc nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông.
Trong cảm khái có khẳng khái:
Đất đai là của ông cha để lại. Tấc đất tấc vàng, lẽ đâu lại đem cho không thiên hạ. Thiên thư đã định phận, đất đai của Việt Nam phải thu lại cho Việt Nam. Nghĩ đến khí linh của đất nước, nghĩ đến những bậc có tài thêu rồng cọp, có chí vững bá tòng, mà xưa nay đã từng có, ngày nay thế nào cũng có trong số đồng bào đông đúc, ngoài hạng tranh danh giành lợi, thì niềm hy vọng khôi phục giang san của tác giả ngấm ngầm đâm chồi nảy lộc, xanh tươi như vườn dâu ruộng lúa của Thuộc Nhiêu!
Văn chương thật hàm súc!
Nếu ông Học Lạc không có tấm lòng phân phương phỉ trắc thì làm sao có được câu thơ trầm uất đốn tỏa như thế ấy.
Thơ ông Học Lạc, cả thơ châm phúng lẫn thơ cảnh thơ tình, tôi chỉ được xem trên dưới mươi bài, và tôi chỉ thích những bài thơ vịnh vật tôi đã trích dẫn với bài Vịnh Thuộc Nhiêu. Nhưng chỉ với số ít đó, tôi cũng nhận biết được đại khái về ông Học Lạc.
Theo chỗ tôi nhận thấy qua văn chương thì ông Học Lạc là một kẻ sỹ có khí tiết, có nhiệt tình cùng Tổ Quốc, song tự biết không đủ sức để cứu nguy phò khổn nên đành độc thiện kỳ thân, là một nhà thơ cốt ngạo nhưng tâm từ, giận ghét đời nhưng không nỡ bỏ đời, nên đành mượn văn chương làm liều thuốc đắng.
Những bài vịnh vật “Con Trâu, Chó Chết Trôi, Ông Làng Hát Bội”… là tiếng lòng công phẫn của ông Học đối với thế thái nhân tình. Còn lòng ông đối với Tổ Quốc đối với thời cuộc thì đã thể hiện phần nào trong bài Vịnh Cảnh Thuộc Nhiêu và bài VỊNH ĐÔI GÀ CHỌI:
Đôi bên chưa chắc đặng cùng không
Thiên hạ ngày tròn mỏi mắt trông
Một trận quyết đền ơn tấm mẳn
Hai ngươi chớ ngại nắm xương lông
Rủi may đã có người hương khói [13]
Khuya sớm cho cam kẻ ẵm bồng [14]
Lừng lẫy danh thơm trong mấy nước
Làm sao năm đức giữ cho cùng. [15]
Bài này làm hoặc trước hoặc một thời cùng bài Thuộc Nhiêu, nghĩa là trong thời kỳ Pháp chưa chiếm trọn sáu tỉnh Nam kỳ. Ông Học còn nuôi hy vọng quân ta chiến thắng địch.
Về mặt văn chương, bài này không sánh kịp bài Vịnh Cảnh Thuộc Nhiêu và ba bài Vịnh vật phúng thế Con Trâu, Chó Chết, Ông Làng. Bài thơ thiếu “tiếng đàn ngoài dây tơ” nên không gây được dư thú sau khi đọc. Chép ra chỉ để cho rõ thêm tấc lòng nước non của tác giả và cũng để làm nổi bật giá trị những bài thơ vịnh vật phúng thế, bài thơ Thuộc Nhiêu mà tôi đọc mãi đọc hoài vẫn thấy hay.
Chú thích:
[1] Xem bài số 27 ở trước.
[2] Trong nhiều sách thấy chép là:
Ngẫm lại mà xem thật lớn đầu.
Tục có câu “Lớn đầu thời dại bạo dái thời khôn”.
[3] Nhiều sách chép là “lém dém”. Lẻm thẻm là lưa thưa.
[4] Mắc mưu đốt đít: Lấy điển Điền Đan. Điền Đan làm tướng nước Tề. Nước Tề bị nước Yên vây khổn. Điền Đan dùng 1.000 con trâu, cho mặc áo đỏ vẽ rồng năm sắc, lấy khí giới nhọn buộc vào sừng, lấy củi khô tẩm dầu cột nơi đuôi. Khi ra trận châm lửa đốt củi khô, trâu bị nóng chạy thẳng sang phía địch chém giết… Quân Yên đại bại rút ra khỏi nước Tề.
[5] Làm lễ bôi chuông: Lấy điển trong sách Mạnh Tử - Sách chép rằng có người dắt trâu đi ngang qua điện vua Tề. Vua thấy vừa đi vừa run sợ, mới hỏi. Người dắt trâu tâu rằng đem trâu đi làm thịt lấy máu bôi chuông mới đúc. Vua động lòng thương truyền tha trâu và bắt dê thay.
[6] Xem thêm bài số 53 ở sau nói nhiều về việc dúng điển.
[7] Trong Giai Thoại Làng Nho chép đôi chỗ khác
Câu 2: Thác thả dòng sông bụng chướng phều.
Câu 3: Vằn vện xác còn phơi lững đửng.
Câu 4: Thúi tha danh hãy nổi lều bều.
[8] Ông Học Lạc sanh năm 1842 mất năm 1915. bài này làm trong thời kỳ Pháp chiếm trọn sáu tỉnh miền Nam, hoặc sau khi nền đô hộ thực dân đã đặt xong trên toàn cõi Việt Nam, tức cuối thế kỷ XIX.
[9] Bắt chước người xưa, ông Nhàn đóng cọc dưới sông để chặn tàu Pháp. Nhưng Pháp biết được, cho nhổ hết cọc rồi bất thần tấn công. Công Nhàn thất kinh, bỏ chạy!
[10] Bị thua ông toan đóng cũi tự nhốt mình vào, cho người khiêng đến hàng giặc.
[11] Trong Giai Thoại Làng Nho, Lãng Nhân sao lục được nhiều. Ở đây chỉ giới thiệu một bài tiêu biểu.
[12] Trong tập THI SĨ TRUNG NAM của Vũ Ngọc Phan, có đôi chỗ chép khác - Câu thứ 3: “Đường thẳng ngựa biêu chân ngán bước” - Câu thứ 5: “Trường văn giỏi kẻ thêu rồng cọp” - Câu thứ 6: “Miếu võ thờ tay trí bá tòng” - Câu thứ 7, thứ 8: “Cứng cát thú quê vui tục cũ, Thềm dâu ruộng lúa dễ cho không”.
Cặp trạng lại có người đọc:
Đường thẳng ngựa bon chân ngán bước
Lạch cùng cá lội mắt quen sông.
Không biết đâu phải đâu sai. Riêng tôi nhận thấy bài tôi được nghe truyền, văn lý thông hơn cả, nên dùng.
[13] Hương khói: mượn cảnh làm thịt gà để cúng quải.
[14] Ẵm bồng: Gà đá khi đem đi đá luôn luôn được chủ ẵm bồng trên tay.
[15] Gà có năm đức: Tín (gáy đúng giờ), dũng (không sợ địch), lễ (dùng vào việc cúng tế), thảo (gặp mồi thường túc con đến ăn chớ không ăn một mình), cần (suốt ngày bươi chải).
39.

Thơ phúng thế xưa nay thường nhắm về mặt trái của xã hội.

Người làm thơ mượn lời châm chọc, kích bác, trêu ghẹo, mỉa mai… với mục đích răn điều lỗi, trị thói xấu.
Thơ chia làm hai loại:
- Châm phúng.
- Trào phúng.
Châm phúng nặng về giáo dục.
Trào phúng nặng về hý lộng.
Một bên trong giáo dục có hý lộng.
Một bên trong hý lộng có giáo dục.
Thơ châm phúng thường thường lời lẽ nghiêm khắc gắt gao, như thầy giáo quở học trò, quan tòa kết tội kẻ phạm pháp.
Thơ trào phúng, lời lẽ có phần êm dịu hơn, nhưng vị chua chát đắng cay, càng chíp chắp càng thấm thía. Có thể bảo đó là bàn tay sắt bọc nhung, chén bòn hòn trộn đường cát.
Những bài thơ vịnh vật phúng thế đã trích dẫn ở các chương trước đây, hầu hết là thơ châm phúng.
Và đó là thơ châm phúng dùng thể tỷ.
Thơ châm phúng dùng thể phú, tức là nói thẳng, nói trắng chớ không cần giá một nơi đánh một nơi, tức là trực trần trực cáo, cũng rất thịnh hành trong làng thơ Việt Nam. Sở trường nhất có lẽ là ông Tú TRẦN KẾ XƯƠNG.
Thơ ông TRẦN nhiều khi rất độc.
Như để “sửa lưng” một cậu ấm có bà mẹ bất chính mà hay lên mặt ta đây là con nhà danh giá, ngày ngày điếu trắp xênh xoang, ông Tú có câu:
Thôi đừng điếu trắp xênh xoang nữa
Thẳng tiểu chùa Luông nó chửi mày.
Chú tiểu chùa Luông chửi cậu ấm là chửi bằng hành động chớ không phải chửi bằng ngôn ngữ. Việc chú tiểu cụ thể hóa tiếng chửi thông thường bằng việc làm thật sự, ai ai cũng biết nhưng không ai dám nói ra. Đến khi câu thơ của ông Tú ra đời, thì ai cũng đọc ai cũng thuộc và hễ thấy cậu ấm đi qua là xúm nhau “phát thanh” để cười cợt chế nhạo. Bị búa thanh nghị đập lên đầu, cậu ấm tỉnh ngộ, bà quan giật mình, nhà chùa sảng sốt… Chú tiểu phải bỏ chùa, mẹ con cậu ấm phải dời nhà đi tìm nơi sám hối.
Lại có một người đàn bà mới ba mươi tuổi mà đã có đến bốn đời chồng. Cả bốn đều chết sau khi ăn ở cùng vợ được ít lâu. Nhưng vì tuổi chưa thu, nên người đàn bà còn sửa soạn còn trau tria như thời son trẻ. Thấy chướng mắt, ông tú viết một câu lục bát dán nơi cửa bà ta:
Ba mươi, bốn độ chôn chồng,
Còn mong trang điểm má hồng chôn ai?
Người đàn bà xấu hổ đang đêm lén dọn nhà đi nơi khác. [1]
Tác động thơ châm phúng kể cũng đã mạnh!
Cụ Tam Nguyên Yên Đỗ cũng thường làm thơ châm phúng. Như trong thơ Vịnh Kiều cụ có câu:
Ba mươi lạng bạc mà xong nhỉ!
Ngày trước làm quan cũng thế a?
Lời nhẹ nhàng nhưng ý thật cay đắng sâu hiểm. Té ra không phải chỉ thời nay mới có nạn hối lộ, mà ngày xưa cũng không khác gì ngày nay! Và thời xưa, thời mà người đời còn trọng liêm sỹ còn biết trọng lễ nghĩa, mà còn có nạn tham nhũng như kia, huống hồ ngày nay là ngày phong hóa đã suy đồi, thì nạn tham nhũng hoành hành biết bao nhiêu nữa! Mượn chuyện người trước để khuyến cáo người đương thời, khuyến cáo một cách xa xôi kín đáo: Đưa tội lỗi cho người có lỗi thấy để tự sửa chữa lấy, chớ không bắt buộc phải sửa chữa theo ý mình.
Mà Yên Đỗ nhắm vào ai?
Nếu tôi không lầm thì nhắm vào viên quan Tuần Vũ Hưng Yên là LÊ HOAN, người đã tổ chức cuộc thi Vịnh Kiều mà người chủ trì là cụ Nguyễn Khuyến và cụ Dương Lâm, còn người trúng giải nhất là ông Chu Mạnh Trinh. [2]
Nhưng riêng gì Lê Hoan mới đáng chỉ trích. Từ khi thực dân Pháp đặt nền đô hộ lên toàn cõi Việt Nam, những sĩ phu có tâm huyết cùng quốc gia dân tộc thì náu mình giữ tiết, những kẻ xuất sĩ hầu hết là phường bôn xu danh lợi chỉ lo việc vinh thân phì gia. Do đó mà tham quan ô lại mỗi ngày mỗi thêm đầy nhẫy trong Chánh quyền. Cụ Yên Đỗ nhân dịp Lê Hoan mở cuộc thi Vịnh Kiều, bèn mượn đem làm đại biểu cho toàn thể quan lại.
Đối với cậu ấm, với cô gái góa là người ít học, ông Tú Xương phải nói rõ cho dễ lọt vào tai. Còn đối với đám tham ô có học, cụ Tam Nguyên Yên Đỗ nghĩ rằng chỉ đánh khẽ cũng đủ làm cho giật mình.
Song không phải lúc nào cụ Yên Đỗ cũng nhẹ nhàng kín đáo như thế đâu. Lắm lúc giọng thơ cũng xẵng lắm. Như để trả đũa ông án Chu tặng cụ một chậu trà là thứ hoa có sắc không hương trong lúc cụ đã mù, cụ có câu: [3]
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi
Đếch thấy hơi hương một tiếng khà!
Mượn hoa trà hữu sắc vô hương để chê họ Chu hữu tài vô hạnh. Thật đau độc! Song vẫn còn bóng gió. Xát muối vào mặt đối phương không chút vị nể, thì như bài:
TẶNG HÀ NAM TỔNG ĐỐC TRẦN
Ai rằng ông dại với ông điên
Ông dại sao ông biết lấy tiền
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp [4]
Khoét thằng mặt trắng lấy tam nguyên [5]
Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ [6]
Phép nước không chừa móng lợn đen [7]
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen. 
Không được rõ quan Tổng Đốc họ Trần kia là ai, cũng không rõ vì sao cụ Yên Đỗ lại nặng lời thóa mạ như thế. Song qua văn chương cũng đoán biết được rằng:
Họ Trần thi đỗ đến Đại khoa và làm quan đến Tổng Đốc, đáng lẽ biết trọng nhân phẩm biết quí thân danh. Nhưng vì vốn con nhà hạ tiện may phước làm nên, lại được Pháp tín dụng, nên sẵn quyền sẵn thế lo vơ vét cho đầy túi tham. Tiếu mạ mặc ai, cứ giả bộ điên điên dại dại. Nhân dịp họ Trần đè đầu một bạch diện thư sinh nào đó để ăn hối lộ ba đồng bạc, cụ Yên Đỗ thấy con người bất cố liêm sĩ, không thể chịu nổi mới làm thơ đả kích kịch liệt hầu mong có hồi tâm.
Nhưng có người cho biết:
- Họ Trần đây là TRẦN ĐÌNH TÚC làm Tổng Đốc Hà Nam rồi thăng Tổng Đốc Hà Nội. Khi cụ Yên Đỗ mới đậu Tam Nguyên (1871) về tỉnh nhà (Hà Nam) bị Trần Tổng Đốc cậy quyền hiếp đáp, tức mình làm thơ chống lại.
Và câu thứ tư bài thơ chính là: Hiếp thằng mặt trắng đỗ tam nguyên.
Câu chuyện có thể tạm tin, nhưng câu thơ không thể chấp nhận. Bởi “thằng mặt trắng” do chữ “bạch diện thư sinh” mà ra, mà Bạch diện thư sinh là người học trò chưa đỗ đạt chi cả, như thế đem “đỗ tam nguyên” ghép cho “thằng mặt trắng” thì khác gì lấy mâu đâm vào thuẫn để thuẫn hất mâu ra.
Lấy TAM NGUYÊN là cấp bậc khoa bảng mà đối với NHỊ GIÁP thì thật là xứng đào xứng kép. Song sao lý thú và thâm độc bằng dùng TAM NGUYÊN là ba đồng bạc. Bởi đem BA ĐỒNG BẠC TRẮNG đối với BẢNG VÀNG NHỊ GIÁP là ngụ ý nhủ thầm rằng cái Bảng vàng của quan Tổng Đốc giá trị ngang với ba đồng bạc trắng của chàng bạch diện thư sinh.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá văn chương ấy mới hời! [8]
Trong Văn Đàn Bảo Giám, câu thứ sáu trong câu ấy chép là:
Phép nước xin chừa móng lợn đen.
Không hiểu thủ nghĩa như sao, song nhận thấy lời thơ không tiếp liền với câu thứ bảy thứ tám, nên không dám tin ở sách chép mà tin ở miệng truyền, để cho mạch văn được thông ý thơ được thuận:
- Quan lớn mới từ nơi hạ tiện bước ra, tánh xấu chưa đổi, lại nhờ có thế lực của thực dân là là bọn đê hèn như lợn, nên bất chấp dư luận, chỉ cốt lo cho nặng lưng chặt túi mà thôi.
Trong bài thơ, câu thứ năm bồi ý cho câu thứ ba, câu thứ sáu bồi ý cho câu thứ tư và chuyển ý xuống câu bảy tám để hồi cố lên khởi thừa.
Ý độc địa văn đanh thép.
Nếu quan Tổng Đốc họ Trần mặt chưa lấy làm dày, xương chưa đến nỗi đã lạnh, thì khi tiếp được bài của Yên Đỗ gởi tặng chắc phải toát mồ hôi trán như khi Tào Tháo đọc bài hịch của Trần Lâm.
Thơ châm phúng của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ thua thơ ông tú Trần Tế Xương về giọng sắc bén nhưng hơn về điểm sâu sắc độc địa. Song cả hai đều phải nhượng bà HỒ XUÂN HƯƠNG. Bài VỊNH QUẠT của bà Hồ, nhất là câu:
Mát mặt anh hùng tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Văn chương đã lên đến bậc thượng thừa. Cả thơ Quốc âm lẫn thơ Hán văn, cả thơ Việt Nam lẫn thơ Trung Quốc, chưa thấy bài nào có thể sánh vai [9].
Còn các nhà thơ khác, từ đời Trần đến nay, hầu hết đều có thơ châm phúng, kẻ nhiều người ít và có bài được truyền có bài không được truyền. Cho nên thơ châm phúng trong làng thơ Quốc âm không đến nỗi hiếm.
Xin lục đôi bài nữa:
VỊNH CON TÔM
Loài ở lộn bùn cũng mọc râu
Ngo ngoe nỏ biết mốc gì đâu
Cong lưng cứ ỷ tài đâm bắn
Lố mắt khôn dò lạch cạn sâu
Ngoài ủ xum xoe càn múa gọng
Trong oi co quắp đít ngang đầu
Giỡn rồng ta bảo đứng quen thói [10]
Một nhủi là xong, lọ tát câu.
Tác giả là chí sĩ TRẦN CAO VÂN. Chí sĩ mượn con tôm để châm biếm bọn võ quan tay sai của Pháp, cậy thần thế xem thường cả vua.
Thời Pháp thuộc là thời mà nền đạo đức cũ đã bị phá đổ, nền đạo đức mới chưa được xây nên, khiến xã hội sanh nhiều cảnh chướng mắt. Các nhà thơ không thể dằn lòng công phẫn. Nhưng để tránh nanh vút cường quyền, họ phải dùng lời bóng bẩy quanh co, giá một nơi đánh một ngả. Kẻ có tật sau khi giật mình, muốn buộc tội kẻ thù không thể vin vào đâu để mà buộc. Cho nên thời Pháp thuộc, thơ vịnh vật ngụ ý châm biếm sản xuất nhiều hơn bao giờ hết. 
Chẳng những họ ngụ ý châm biếm trong các vật mà còn lồng vào lối chơi chữ một cách tinh vi. Như mừng cụ Hoàng Cao Khải ăn lễ thất tuần:
Vượng khí Lam Hồng đúc vỹ nhân
Trời ban thêm tuổi chúa thêm ân
Huân danh sự nghiệp: Hiến Thành Lý
Phú quý vinh ba: Nhật Duật Trần
Con cháu một nhà hai tổng đốc
Pháp Nam hai nước một công thần
Tuần này hạ thọ là tuần bảy
Còn biết sau đây mấy chục tuần!!
Cụ Hoàng Cao Khải vốn người Hà Tĩnh, đậu cử nhân, nhờ công đánh dẹp các cuộc kháng Pháp của Văn thân mà bước công danh lên đến tột bậc. Con cháu đều làm quan to. Hai người con trai làm đến Tổng Đốc.
Kể cũng đã thật hiển hách.
Nhưng cũng như Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc, họ Hoàng từ xưa đến nay luôn bị búa rìu thanh nghị.
Cho nên đem sánh họ Hoàng cùng Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, là hai bậc trung thần đời Lý đời Trần, tài cao đức cả, danh thơm còn để muôn đời, thì chẳng khác khen một người sức trói gà không chặt, học chưa biết chữ nhất mấy ngang, là lực ngang Hạng Võ, tài sánh Đông Pha. Đó là mỉa mai, là châm chích, mỉa mai châm chích theo lối để sắc trắng bên sắc đen, đặt Dương Quí Phi cạnh Chung Vô Diệm. 
Để cho độc giả dễ nhận thấy điểm dụng ý (lời xuôi ý ngược) trong câu thơ, tác giả dùng phép đảo ngữ: Lý Hiến Thành nói là Hiến Thành Lý, Trần Nhật Duật nói là Nhật Duật Trần.
Ý phúng thích ở câu luận lại càng sâu sắc hơn:
Pháp Nam hai nước một công thần. 
Theo danh giáo thì Trung thần bất sự nhị quân. Thế mà họ Hoàng lại là công thần của hai nước Pháp Nam, thì lòng trung đâu còn là một? Mà lòng trung không duy nhất thì đâu còn có thể gọi là trung thần?
Câu này làm cho ý châm phúng trong câu trạng thêm rõ.
Con người như thế mà gọi là vỹ nhân, mà cầu chúc trời thêm tuổi thọ, thì thật là hài hước!
Cụ Hoàng Cao Khải là người giỏi thơ Quốc âm, đọc bài thơ Mừng thọ kia chắc là xốn xang tâm bào lắm, nhưng chắc cũng phải khen thầm là văn chương già dặn sâu sắc.
Vì là “công thần hai nước” nên Hoàng Cao Khải được chính quyền Pháp cắt một vùng đất lớn ở ngoại ô Hà Nội cấp cho làm thái ấp để làm nơi hưu dưỡng, gọi là ấp Thái Hà. Nhân họ Hoàng có bài thơ Vịnh Thành Cổ Loa [11], một thi nhân phỏng theo bài vịnh sử đó làm một bài Vịnh ẤP THÁI HÒA:
Thái ấp mây mờ cỏ lẫn rêu
Pháp Nam trung tín cả hai triều
Hòa thân trót đã lầm hai chữ [12]
Ân oán xui nên đủ mọi điều
Nước Việt dẫu rằng cơ tạo đổi
Làng Tơ như có nợ tình đeo [13]
Hưng vong biết chửa anh Tường Thuyết
Hục hặc bao nhiêu chết bấy nhiêu. [14]
Mượn lời người để phúng thích người bằng cách sửa đổi một đôi chữ cho thích hợp hoàn cảnh, như bài trên, thì thật là tài tình. Mượn gậy ông đập lưng ông, người đập đã sướng tay, mà người bị đập vừa đau lại còn vừa tức, tức cho mình sơ hở để người có thể thừa cơ.
Có người bảo rằng thơ vịnh sử của Hoàng Cao Khải nhiều bài ký thác tâm sự. Bài Vịnh Thành Cổ Loa tác giả có ý hối hận về việc phủ dụ Phan Đình Phùng và việc hòa thân Pháp Nam bằng cách làm công thần cả hai nước, đồng thời biện bạch rằng mình hành động như thế là do lòng thành tín chớ không phải vì lợi danh.
Nếu quả đúng như thế thì ý châm phúng bài phóng tác trên đánh vào tâm hồn họ Hoàng lại càng thêm mạnh mẽ, càng thêm sâu sắc.
Hoàng công thần có người ái cơ ở làng Tơ, lại có một người thứ thất ở làng Bông. Nhờ đó mà tên hai làng được vào văn chương. Làng Tơ đã vào thơ Vịnh Ấp Thái Hà. Còn làng Bông thì phải đợi đến ngày bà thứ thất qua đời mới len vào thơ tả đám tang.
Đám tang bà thứ thất làng Bông tổ chức cực kỳ long trọng. Đưa đám có cả quan Toàn Quyền Đông Dương, quan Thống sứ Bắc kỳ và các nhà tai mắt tỉnh Nam Định (nơi Hoàng Mạnh Trí làm Tổng Đốc) tỉnh Hà Đông (nơi Hoàng Trọng Phu ngồi Tổng Đốc). Người xa gần đến xem chật cả đường sá.
Nhà thơ PHAN ĐIỆN quán Hà Tịnh có thơ ĐÁM TANG BÀ BÔNG rằng:
I.
Hỏi đám nhà ai ấp Thái Hà?
Người xem nô nức khắp gần xa…
Toàn quyền Thống sứ nâng tay cụ
Nam Định Hà Đông nể mặt cha [15]
Xe điện đông nêm người tứ xứ
Vòng hoa để chật bãi tha ma [16]
Tàu bay nghiêng cánh bay qua lại
Cái gái làng Bông sướng dữ a!
II.
Thay cả quốc dân khóc cụ bà
Non sông nay chỉ thấy ông già
Biết bao đau đớn người Nam Việt
Há những xôn xao đất Thài Hà
Lầu đá ngàn năm tơ tưởng ngọc
Cầu ô một dải ngậm ngùi hoa
Khen con cháu cụ nhà gia pháp
Cụ nghĩ làm sao phải đạo cha!
Cũng thì nhắm vào một người, mà bài VỊNH ẤP THÁI HÀ cũng như bài MỪNG THỌ THẤT TUẦN thuộc loại thơ châm phúng, còn bài thơ ĐÁM TANG BÀ BÔNG thứ I thuộc loại thơ trào phúng.
Bài này thuộc loại thơ trào phúng vì thiên về hý lộng tức bông đùa trêu cợt.
Đến bài ĐÁM TANG thứ II thì giọng đùa cợt lẫn giọng châm chích mỉa mải, lại còn ngậm ý răn dạy là khác.
Chua chát và đau độc nhất là câu kết:
Khen con cháu cụ nhà gia pháp
Cụ nghĩ làm sao phải đạo cha?
Đó là một cách nói mà người bình dân gọi là “nói mắc”, nói “đâm họng”. Vì đã con cháu nhà gia giáo mà còn bảo “làm sao phải đạo cha”.
Nhưng ai có biết việc quan Tổng Đốc Nam Định đánh quan Tổng Đốc Hà Đông trước mặt Duyên Mậu công Hoàng Cao Khải trong dịp đám tang bà Bông, thì mới thấy chỗ sâu cay độc địa của câu thơ.
Bài Đám Tang thứ nhất, giọng thơ mỉa mai, nhưng ý thơ không thâm độc.
Bài thứ nhì, giọng có vẻ dịu dàng xinh xắn nhưng ý vừa độc vừa thâm.
Cho nên bài I là thơ trào phúng mà bài II là thơ châm phúng vậy.
Mà chia ra châm phúng trào phúng là chia để cho dễ nói chuyện với nhau mà thôi. Chớ ranh giới giữa hai bên không được như ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam đã có thiên thư định phận và có núi cao ải vững chắn ngăn, mà chỉ vạch một cách “mềm dẻo” như ranh giới giữa Việt Nam và Cao Miên, tức là trên bản đồ thì chấm chấm ngang ngang rành mạch, nhưng trên thực tế thì xích bên nay một chút hay xê bên kia một chút, vẫn không ai nói năng chi. Song đó là lúc bình thời. Chớ nếu có sự tranh chấp với nhau thì gây ra nhiều rắc rối. 
Để cho ranh giới giữa châm phúng và trào phúng được rõ ràng thêm phần nào, tưởng nên thêm vào lời phân định trên kia một vài điểm nữa:
- Trào phúng lấy trêu cợt làm đầu.
- Châm phúng lấy chỉ trích làm gốc.
- Trào phúng làm cho người có tật giật mình.
- Châm phúng làm cho người có tật tím ruột.
Về châm phúng thì cụ Tam Nguyên Yên Đỗ và ông Tú Vị Xuyên nhượng bà Hồ Xuân Hương, như trên kia đã nói.
Nhưng về trào phúng thì không một nhà thơ nào có thể sánh với hai nhà, bên lượng cũng như bên phẩm.
Nói đến thơ trào phúng của Yên Đỗ, khách phong tao thường nhắc đến bài HỎI THĂM BẠN MẤT CƯỚP:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!
Xương gà da cóc có đau không?
Bây giờ mới thấy sầy da trán
Ngày trước đi đâu mất mảy lông
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông. 
Người bạn bị mất cướp của cụ Yên Đỗ là một quan Tuần hưu trí quê ở Châu Cầu. Quan Tuần tánh hà tiện, tiền của có đó mà không dám tiêu. Lúc về vườn dồn được một số bạc kha khá. Quân gian biết được bèn đến bắt khảo của. Cụ Yên Đỗ được tin gởi thư trêu cợt. Quan Tuần đáp lại:
Ông hỏi thăm, tôi cảm ơn ông.
Nó có lôi tôi đến giữa đồng…
Những tưởng vun thù phòng lúc thiếu,
Ai ngờ cóp nhặt cũng như không!
Chém cha thằng quỉ đen tai mắt,
Chẳng nể ông già bạc tóc lông!
Ông muốn khuyên tôi…, tôi biết vậy,
Thương ông tuổi tác cháu thì ngông. [17]
Đó là lời hai ông bạn già đùa nhau. Quan Tuần Châu Cầu bị cụ Yên Đỗ cười là dại. Cụ Yên Đỗ nghèo mà lại phóng túng nên bị quan tuần chê là ngông. Cười chê để bỡn cợt chớ không có ác ý. Nhưng chíp chắp giây lâu thì thấy hơi cay cay, nhất là bài của Yên Đỗ, nhưng là chất cay của gia vị, nên không chạm đến tình bạn mà chỉ làm tăng thú cho văn chương.
Cho nên hai bài trên có thể coi là thơ hài hước [18].
Có thể tiêu biểu cho thơ trào phúng là bài VAY NỢ SƯ KHÔNG ĐƯỢC của ông Tú Vị Xuyên:
Ông bám ông ăn đứa trọc đầu!
Đầu không có tóc bám vào đâu?
Nghĩ mình nghiện nặng cho nên kiết;
Đành nó ăn chay ý hẳn giàu.
Một vốn bốn lời mong có lãi,
Năm liều bảy lĩnh cũng không câu.
Thế mà không được buồn cười nhỉ!
Không được thì ông lại xuống tàu.
Một anh nghiện vay nợ một nhà sư! Rõ là một hài kịch trên trường đời, một bức hí họa bằng xương thịt. Với ngọn bút sắc sảo của ông tú Vị Xuyên, bức họa sống động trên mặt giấy, vở kịch tẩm dầm nhiều vị chua chát đắng cay.
Ông tú Vị Xuyên đối với cụ Tam Nguyên Yên Đỗ là hàng hậu bối. Xem thơ ông Tú cụ Tam Nguyên nói:
- Kế dư chi hậu nhi Xương hồ.
Nghĩa là “Sau này nối ta là anh Xương vậy”.
Cụ Yên Đỗ và ông Vị Xuyên từ Bắc chí Nam ai ai cũng biết danh. Thân thế của hai nhà cũng như thi nghiệp đã được nhiều sách nói đến.
Trong làng thơ Quốc âm còn nhà thơ phúng thế có tài, ngoài cụ Tam Nguyên và ông Tú. Những văn chương không được phổ biến nên sau những cuộc đổi thay trong nước, người yêu thơ chỉ còn giữ được một vài phần trăm. Như trường hợp ông Huyện Nẻ là một. 
HUYỆN NẺ là tên bình dân của ông NGUYỄN THIỆN KẾ vì ông là người làng Nễ Đô tục gọi là làng Nẻ thuộc tỉnh Hải Dương, và đậu cử nhân làm quan đến chức tri huyện. Ông là anh rễ Tản Đà tiên sinh và cũng chính là người đã khuyến khích nhà thơ sông Đà núi Tản bước vào đường văn chương.
Ông nổi tiếng về thơ phúng thế. Thơ ông phần nhiều nhắm vào đám qua trường tham ô, vào đám người có địa vị cao trong xã hội mà không biết trọng phẩm cách. Ông kịch liệt đả kích những thói hư tật xấu, nhiều khi đi đến chỗ thóa mạ nặng nề mất phong độ của làng tao nhã. Cho nên thơ ông hầu hết thuộc về loại châm phúng. Có thể coi là thơ trào phúng, bài VỊNH TRI PHỦ VĨNH TƯỜNG CÕNG ĐẦM:
Thằng cha phủ Vĩnh thế mà thâm!
Nịnh bố cu Tây cõng mẹ đầm.
Đôi vú ấp tai đầu nghễnh nghễnh,
Hai tay bưng đít mặt hầm hầm… [19]
Cũng may cứng cánh nhờ ơn tổ,
Nếu rủi sa chân chết bỏ bầm. [20]
Chẳng kể mề đay cùng tưởng lục
Ngửi tay tủm tỉm miệng cười thầm. [21]
Tác giả không có ý mạ lỵ viên tri phủ. Thấy việc vui mắt thuật lại cho vui vậy thôi. Cho nên giọng thơ không gay gắt, người bị trêu chọc tuy xốn ý, nhưng chắc “tủm tỉm cười thầm” chớ không thù hằn, căm tức.
Đề tài mang nhiều chất hài hước, song vì câu văn không có duyên, nên người đọc không lấy làm thích thú. Đó là món ăn ngon nhưng nấu không được khéo, khiến vị không quyến rũ được khách ưa khẩu khoái tâm.
Không ai không thích thú, không mấy ai có thể nhịn cười được, khi đọc bài VỪA VĂN VỪA RẮM của ông tú NGUYỄN KHÁNH DOANH ở Nam Định:
Phương xú lưu gì ở thế gian,
Vừa văn vừa rắm hỡi anh Đoan?
Vẽ voi thế cũng đòi thi cử!
Khéo nhỉ! Sao mà vãi ruột gan?
Làm mất tiếng thơm cho đất Bắc!
Thẳng đưa hơi thúi đến Trường An!
Vô duyên cái mũi Hồ Quang Bí,
Ngửi rắm lâu ngày phải hỏng oan!
Nguyên dưới triều Thành Thái (1889-1907), một năm các cử tú miền Bắc vào Huế thi Hội, trong đó có ông tú Nguyễn Khánh Doanh và ông cử Trịnh Văn Đoan. Vào trường thi, ông cử Đoan bị dở bụng…, làm cho ông cử Hồ Quang Bí người Trung, ngồi bên cạnh không chịu nổi phải kêu trời! Thi xong treo bảng, người Bắc bị hỏng nhiều mà ông cử Hồ cũng chung phận hẩm! Về quán trọ các vị hỏng thi cho chuyện Đoan Bí là một giai thoại trường thi, và thách nhau làm thơ, lấy đề “vừa làm văn vừa đánh rắm” và hạn vận “Đoan”. Bài ông tú Doanh được chấm đậu hạng nhất. 
Văn thật già, phép thật vững! Lấy việc lưu phương lưu xú mà mở đề, để thừa ý đi vào sát chỗ quan yếu, rồi cứ một câu thì văn một câu thì rắm, giải thích đề tài một cách chỉnh túc và linh động. Lại dùng ông Cử Đoan để khai mạc, ông cử Hồ để bế mạc. Rõ là tay lão luyện và tài ba. Ông Đoan và ông Bí bị đem ra chế giễu, nếu có bực tức thì cũng bực tức trong giây phút rồi nguôi, vì bài thơ chỉ có tánh cách bông đùa chớ không có ác ý, lại thêm văn chương quí giá, lẽ nào lại không bình tâm để thưởng thức những gì gởi gắm trong lời văn thoát sáo và có duyên. 
Bài của ông Huyện Nẻ, đề tài tục mà văn cũng tục. Bài ông Tú Doanh, đề tài tục mà văn lại thanh. Nói về giá trị văn chương, thì bài ông Tú hơn bài ông Huyện. Nhưng về giá trị lịch sử, thì bài ông Huyện là một tài liệu rất quý vì phản chiếu cho người đời nay thấy lại được phần nào tư cách của đám quần thần thời Pháp thuộc.
Phần đông các nhà thơ phúng thế thường lấy cá nhân, lấy những trường hợp lẻ tẻ…, làm đề tài ngâm vịnh. Chỉ trích những thói hư tật xấu chung của xã hội…, phê bình một cách tổng quát những nhân vật bất hảo của thời đại.., thì trước kia có NGUYỄN BỈNH KHIÊM, gần đây có NGUYỄN CÔNG TRỨ.
Thơ của hai nhà đã được nhiều sách sưu tập, nhiều tay biên khảo khai thác. Nên ở đây chỉ xin trích dẫn một ít để làm chứng cứ mà thôi:
- Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
+  Những buổi đắc thời mèo đuổi chuột
Đến khi thất thế kiến tha bò.
+ Chữ vị là vì biếng nói năng
Há rằng chẳng biết việc nên chăng
Nhá rau lại tiếc mùi canh ngọt
Nếm ếch còn thăm có giống măng
Vuốt mặt còn chừa qua mũi nọ
Rút dây lại né động rừng chăng?
Dù ai nghị luận điều lành dữ
Chữ vị là vì biếng nói năng.
+ Mâm thịt mỡ bùi ruồi đến đỗ
Chén bòn hòn đắng kiến đâu bò.
+ Trước đến tay không nào đón hỏi
Sau vào gánh nặng lại vui cười. [22]
- Thơ Nguyễn Công Trứ:
+ Lúc ghét dệt thêu ngay hóa vạy
Khi thương tô điểm méo nên tròn.
+ Hễ không điều lợi khôn thành dại
Đã có đồng tiền dở hóa hay. [23]
+ Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi. [24]
+ Cho hay trống thủng có làng bưng
Đã dễ rồi còn muốn dễ dưng!
Mặc sức đâm thùng và tháo đáy,
Tha hồ tráo đấu lại lường thưng.
Khéo đem muối nọ toan gieo biển,
Nghĩ rút dây kia sợ động rừng.
Xấu máu xin đừng ăn của độc,
Rượu làng thời uống rượu mua đừng. [25]
Thơ phúng thế thiên về lý trí và thường thường nhắm vào mặt trái của sự vật, của xã hội. Nên câu thơ thường cứng, giọng thơ thường gắt, vị thơ thường khô, khó làm cho người đọc nghiêm khắc thích mắt sướng miệng khoái lòng.
Đối với thơ phúng thế, các nhà thơ thuần túy, các bạn ưa thơ thuần túy cũng “kính nhi viễn chi”.
Nhưng đời đâu phải chỉ gồm những người chỉ ưa cái Trong, cái Đẹp.
Huống nữa nếu đừng chấp tha chấp ngã, mở rộng cõi lòng mà đón lấy tất cả những di sản tinh thần của ông cha để lại, thì:
Cảnh cũ vẫn còn non nước cũ
Chốn nào là chốn chẳng xuân phong. [26]
Chú thích:
[1] Về thơ Tú Xương đã nói nhiều ở chương 28, ở đây chỉ lặp lại đôi điểm cần thiết và nói qua đôi điểm chưa đề cập.
[2] Đã nói rõ ở chương 22, 23.
[3] Xem trọn bài ở chương 23 - Ở đây chỉ trích câu kết.
[4] Nhị giáp: khoa cử có từ đời Lý, năm Ất Mão niên hiệu Đại Ninh thứ 4 (1075), nhưng quy chế chưa chặt chẽ. Đến đời nhà Trần thi Thái Học Sinh (tức thi Tiến sĩ) mới bắt đầu chia làm ba giáp: Đệ nhất giáp, thì có Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa. Đệ nhị giáp gọi là Giáp bảng. Đệ tam giáp gọi là Ất bảng gồm những người trúng tuyển từ Hoàng Giáp trở xuống. Sang triều Lê phép thi mới định lại một cách rõ ràng chặt chẽ. Ở các Đạo thì mở khoa thi Hương. Ở Kinh đô thì mở khoa thi Hội. Cứ ba năm mở khoa một lần. Đến niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) đổi Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa gọi là Tiến sĩ cập đệ; Chánh bảng (tức là Giáp bảng) gọi là tiến sĩ xuất thân; Phó bảng (tức Ất bảng) gọi là Đồng tiến sĩ xuất thân. Từ đó thi Hương có bốn trường, thi Hội có 3 giáp: Đệ Nhất Giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ Nhị Giáp Tiến sĩ xuất thân, Đệ Tam Giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Qua triều Nguyễn còn thay đổi nhiều ít nữa: Bỏ Trạng Nguyên. Người trúng tuyển Đệ Nhị giáp gọi là Hoàng giáp, dưới Hoàng giáp là Tiến sĩ (Giáp bảng) và Phó bảng (Ất bảng). (Phó bảng là người thi Hội được đủ số điểm nhưng không được vào thi Đình).
[5] Tam nguyên: Ba đồng bạc. Mặt chữ giống y Tam Nguyên là người đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, Hội, Đình.
[6] Sừng trâu đỏ: Trong luận ngữ có câu: “Lê ngưu chi tử tuynh thả dác, tuy dục vật dụng, Sơn xuyên xả chư”. (Con của giống trâu vằn mà sừng đỏ, tuy người có ý không muốn dùng, song Thần Sơn Xuyên há bỏ ư). Đó là lời đức Khổng Tử nói để an ủi thầy Trọng Cung.
Thầy Trọng Cung là một bậc hiền nhân, song ông thân sinh là kẻ hạ tiện lại hay làm điều quấy, người đời đàm tiếu. Đức Khổng Tử bác đi. Đại ý nói: Thầy Trọng Cung cũng như con trâu vằn nghé có sừng đỏ kia, tuy con nhà hạ tiện song đạo đức cao trọng. Kẻ phàm phu không biết xem thường, nhưng kẻ thức giả vẫn trọng vọng.
Trong bài, Tam Nguyên Yên Đỗ dùng về nghĩa xấu, ngụ ý bảo rằng quan Tổng Đốc họ Trần kia vốn con nhà hạ tiện xuất thân.
[7] Móng lợn đen: Súng lục liên, vì súng lục hình giống giò lợn.
Tác giả dùng súng lục để tượng trưng cho quyền lực của Pháp, vì thời bấy giờ chỉ có người Pháp và người Việt được Pháp tin dùng mới được dùng súng lục.
[8] Câu luận thơ Vịnh Ông Nghè Tháng Tám của cụ Yên Đỗ.
[9] Đã nói về thơ Hồ Xuân Hương ở chương 9, nên ở đây chỉ nhắc qua về điểm châm phúng.
[10] Thơ xưa có câu: Rồng nằm nước cạn tôm lờn mặt
Cọp xuống đồng bằng chó ngoắc đuôi.
[11] Bài đó như vầy: Thành ốc mây mờ cỏ lẫn rêu
Biển tê trăng lặn nước dâng triều
Hòa thân trót đã lầm hai chữ
Ân oán xui nên đủ mọi điều
Quy thảo dẫu rằng cơ tạo đổi
Nga mao như có nợ tình đeo
Hưng vong biết chửa người thiên cổ
Thành tín bao nhiêu dối bấy nhiêu.
[12] Tường, Thuyết chủ trương chiến, Hoàng chủ trương hòa.
[13] Làng Tơ là quê quán người ái cơ của họ Hoàng. Người này đã gây nhiều ân oán trong dân gian làm cho họ Hoàng đã mang tiếng thêm mang tiếng.
[14] Ý nói Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chủ trương chống Pháp đều bị thất bại, sao bằng họ Hoàng chủ trương hòa thân để làm tôi trung tín cả hai triều Pháp Nam, làm quan đến tột phẩm lại được có thái ấp dưỡng hưu.
[15] Vì bà Bông không phải mẹ đẻ của hai quan Tổng Đốc Nam Định (Hoàng Mạnh Trí) và Hà Đông (Hoàng Trọng Phu). Hai quan nể mặt cha mà về dự tang lễ đó thôi.
[16] Trong Giai Thoại Làng Nho thấy chép là: “Ô tô để chật…”
[17] Quan Tuần phần bị mất cướp phần bị bạn trêu mà vẫn không bực tức. Lời thơ thản nhiên và vui đùa một cách nhẹ nhàng lý thú. Nếu là người keo kiết thì bụng dạ hẹp hòi, làm gì có được những lời dễ thương như thế.
[18] Về thơ hài hước sẽ nói rõ ở đoạn sau.
[19] Mặt hầm hầm vì đầm nặng phải ráng sức bình sanh chớ không phải vì giận.
[20] Tiếng thổ âm, nghĩa là mẹ.
[21] Trong Giai Thoại Làng Nho, Lãng Nhân có lục đăng nhiều bài và có kể nhiều câu chuyện lý thú.
Thơ ông Huyện cũng có nhiều bài thanh nhã. Nhưng ở đây chỉ nói về thơ phúng thế và chỉ dẫn một bài trào phúng.
[22] Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, những bài ca tụng cảnh nhà cũng như những bài nói về nhân tình thế thái, đều không có đề.
[23] Thơ Nguyễn Công Trứ đều có đề. Hai cặp trên, một ở trong bài TRÒ ĐỜI, một ở trong bài THÓI ĐỜI.
[24] Trích trong bài NGÁN CUỘC ĐỜI.
[25] Nhan đề là “Phường danh lợi”. Bài này dùng toàn tục ngữ.
[26] Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như thơ Nguyễn Công Trứ chẳng phải gồm toàn thơ phúng thế, mà có nhiều loại khác. Vì mục này nói về thơ phúng thế, nên không đề cập đến các loại kia.

14/4/1971
Quách Tấn
Theo http://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Công dân áo gấm Henry Cabot Lodge000000

Công dân áo gấm Henry Cabot Lodge TỰA - LỜI TÁC GIẢ Hồi đó, tám năm qua… Tháng 8.1963, tình hình căng thẳng, ngột ngạt, các phóng viên các...