Thứ Tư, 10 tháng 3, 2021

Hương vườn cũ 6

Hương vườn cũ 6

28.

Trần Kế Xương, tục gọi là Tú Xương, vì đậu tú tài!

Ông Tú Xương là một nhà thơ cận đại được và bị nói đến rất nhiều. Thời Tiền Chiến có một dạo, các nhà phê bình cao hứng đưa ông Tú ra làm đề tài tranh luận trên báo chí. Kẻ thì tôn ông lên hàng Vương Bá, người thì đòi kéo ông ra khỏi làng thơ. Thương nên tốt, ghét nên xấu, khách văn chương làm sao tránh khỏi thường tình trong thế gian. [1]
Theo thiển kiến, Trần Kế Xương là một thi nhân chính cống, tức là một người có thi cốt, thi học thi tài, tức là người có tâm hồn thơ và rành nghệ thuật làm thơ. Không ai có thể phủ nhận. Nhưng chưa phải là bậc thi bá thi vương, bởi chung quanh ông không có một số đông nhà thơ thần phục, coi ông là Bắc Đẩu Thái Sơn. Chức Thi Bá Thi Vương là để cho khách làng thơ phong tặng cho nhau, chớ đâu phải do các nhà phê bình chọn lựa. Làng thơ theo chế độ dân chủ từ nghìn xưa, và luôn luôn giữ vững tinh thần độc lập không bao giờ để người khác làng nhúng tay vào nội bộ, dù cho ngoại thôn thế lực đến đâu. Mà từ trước đến nay, làng thơ Hàn luật chưa hề lập đàn tôn minh chủ hay làm lễ tôn vương, đối với bất kỳ thi nhân nào chớ không riêng gì Tú Xương. Nếu các nhà phê bình có rộng lượng thì gọi ông Tú là thi hào hay đại gia tùy ý. Còn trong làng thơ Hàn luật thì vẫn luôn luôn kính trọng ông là một thi nhân.
Thi nhân Trần Kế Xương xưa nay được khai thác nhiều nhất về mặt phúng thứ. Vì thơ trào phúng của ông rất đặc sắc: khi thì kín đáo, khi thì bộc lộ. Khi thì lời tao mà ý cay, khi thì lời xẵng và ý độc…
Như chế diễu một chàng công tử mà mẹ bị chú tiểu chùa Luông “phạm thượng” nhưng không biết, cứ lên mặt là con nhà danh giáo đi đâu cũng điếu trắp xuê xoang, ông Tú có câu:
Thôi đừng điều trắp xuê xoang nữa
Thằng tiểu chùa Luông nó chửi mày.
Nếu cứ tưởng “chửi” là chửi thật sự chớ không nghĩ đến những chữ mở đầu của lời chửi thông dụng mà chú tiểu đã cụ thể hóa dùm cho viên công tử, thì không thấy chỗ dụng ý của tác giả, không thấy chỗ kín nhẹm của câu thơ.
Như chê học trò thi khóa nọ:
Văn chương chẳng thấy ai rằng tốt
Chỉ tốt hai làng lúa mạ thôi. 
Đó là bảo trong bụng đám thi sinh chứa toàn những món riêng có ích cho lúa mạ của hai làng ở chung quanh trường ốc, cho nên văn chương trở nên “bất hảo”.
Thật là thâm mà cũng thật là độc! 
Một ông nọ văn dốt võ nhát mà vẫn được ra làm quan. Và một nhà giàu nọ có cô con gái góa, “nghĩ rằng quan lớn thế là sang”, nên đem con mà gả. Ông Tú có thơ chế nhạo nhan đề là “Gái góa lấy chồng quan”.
Sáu câu trên dễ hiểu. Câu kết có phần hiểm hóc:
Ông này ắt hẳn hay nghề sáo
Dây vũ dây văn vụng ngón đàn. 
Hai câu thơ ngó như lời nói thường, thế mà ngấm ngầm dụng điển, lại dùng đến hai điển!
Câu “hay nghề sáo” mượn chuyện Tề Tuyên Vương.
Tuyên Vương thích nghe sáo. Có kẻ muốn cầu chút công danh đem đàn đến trước đền rồng mà gảy. Gảy ngót ba năm mà không được nhà vua hỏi đến. Kẻ ấy giận, gắt:
- Ta đánh đàn cả quỉ thần cũng say mê, thế mà nhà vua không đoái tưởng!
Có người nghe nói, cười:
- Vua thích nghe sáo, bác lại gảy đàn. Dù cho đàn bác hay đến đâu đi nữa mà vua không thích thì làm thế nào được. Bác chỉ giỏi ngón đàn chớ không hay nghề sáo, thì chớ nhọc công cầu danh ở nước Tề này.
Câu “vụng ngón đàn” mượn tích Tư Mã Tương Như nhờ gảy khúc Phụng Cầu Hoàng mà lấy được Trác Văn Quân là một cô gái góa có tài có sắc và con nhà giàu.
Cả hai điển đều dùng với ý đảo ngược. Điển trên ý đảo ngược một cách gián tiếp; điển dưới, ý đảo ngược một cách trực tiếp. 
Hai câu thơ đại ý nói rằng: Ông quan kia vốn “võ văn vô hữu”, mà được vua dùng làm quan, được nhà giàu gả con gái, đó có lẽ là nhờ những ngón xảo trá đánh nhằm sở thích của kẻ có thẩm quyền, chớ không phải nhờ tài năng như Tư Mã Tương Như đời Hán.
Dụng điển mà ngó như không dụng điển. Người biết điển đọc hiểu theo điển, người không thuộc điển cũng có thể hiểu đại ý theo chỗ nhận xét thông thường: “Ông này không có tài gảy đàn, nhưng hẳn có tài hót hay như sáo cưỡng, nên mới được như thế”.
Cách dụng điển như hai câu trên, cổ nhân gọi là “Ám trung dụng điển”. 
Những câu thơ như những câu thượng dẫn, nếu không tiềm tâm thì không thấy trọn chỗ dụng ý của tác giả. Và đó là những câu tiêu biểu cho lối hiểm hóc trong thơ phúng thế của Trần Tế Xương.
Nhưng không phải bài nào cũng hiểm hóc mắc mỏ. Phần nhiều đều dễ hiểu, như: 
VỊNH ÔNG CÒ HÀ NAM
Hà Nam danh giá nhất ông cò
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hai mái trống trơn đành bỏ dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co
Người quên mất thẻ âu trời cãi
Chó chạy ra đường có chủ lo
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
Chuyến này ý hẳn kiếm ăn to!
Đau đớn nhất là cặp luận: Người Việt Nam đi trong nước Việt Nam mà phải mang thẻ thuế thân theo luôn luôn, nếu rủi đánh mất hay bị bỏ quên ở nhà thì bị tù tội! Cả đến chó rủi sẩy chạy ra đường, chủ nhà cũng bị phạt! Nhưng chó có tội thì còn có chủ lo, chớ người rủi phạm lỗi nào có ai lo cho đâu! Rõ là chó còn có phước hơn người!
Nguyễn Vỹ có câu “Nhà văn khổ như chó”. Tản Đà rầy: “Sao anh sánh nhà văn với chó?” Nguyễn Vỹ đáp: “Sánh như thế chó mất danh giá chớ nhà văn à?”
Câu thơ của Trần Tế Xương và lời nói của Nguyễn Vỹ nói lên chỗ cay đắng, nổi tủi nhục, của người mất nước, từ đám có học cho đến đám người quê mùa, và nói lên chánh sách khắc khe độc địa của bọn thống trị, sự bất lực của bọn người Việt Nam tự cho mình là cha mẹ của dân!. 
Cặp trạng nhờ cặp luận mà ý được sáng thêm mạnh thêm.
Nhưng những câu trạng luận mới nêu sự độc ác của chế độ mà viên cò làm đại biểu. Câu kết mới là một nhát búa đánh lên đầu bọn thực dân.
Bài  “Ông cò” lời xẵng. Lời ngọt mà ý sâu cay thì như bài: 
CÔ HẦU GỞI CHO QUAN LỚN:
Biết trách người sao chẳng trách mình
Mình trung chi đó bảo người trinh
Áo dày cơm nặng bao nhiêu đức?
Chiếu cạnh màn bên mấy hột tình?
Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét
Giang san nghĩa cả nỡ mần thinh
Cổ cong mặt lệch người đâu tá
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình! 
Sáu câu đầu chỉ là “lời thỏ thẻ” của giai nhân. Đó là mật gấu pha mật ong. Nhưng đến câu 7, 8 thì nỗi bực tức không còn đè nén được nữa!
Cũng có đôi bài, người bị diễu cợt nghe chỉ tức cười chớ không khó chịu, vì không có ác ý. Như bài: 
LẤY LẼ
Cha kiếp sinh ra phận má hồng
Khéo thay một nỗi lấy chung chồng
Mười đêm chị giữ mười đêm cả
Suốt tháng em nằm suốt tháng không
Hầu hạ đã cam phần cát lũy [2]
Nhặt khoan còn ỏi giọng Hà Đông [3]
Ai về nhắn với đàn em bé
Có ế thì tu chớ có chung.
Thử đem so cùng bài của Hồ Xuân Hương:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chông chung
Năm thì mười họa nên chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Chịu đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước âu đành ở vậy xong.
Bài của họ Hồ có phần chua chát hơn. Bài của ông Tú có vẻ thản nhiên. Đó là do một bên chủ quan một bên khách quan. Ông Tú “thấy vậy mà thương mà nói vậy” chớ đâu đã biết được thực chất của nỗi khổ “có cũng không”, như họ Hồ.
Bài thơ LẤY LẼ thuộc về loại hài hước. Xem đó đủ biết ông Tú không phải gặp ai cũng châm chọc cả.
Và thơ phúng thứ của ông Tú có nhiều giọng chớ không phải chỉ rặc giọng xẵng xói cay độc, như những bài trên đây đã chứng tỏ.
Nhưng giữ vững địa vị thi nhân trong muôn thuở, không phải nhờ số thơ phúng thứ, mà chính là do số thơ ngôn tình của Trần Kế Xương.
Thơ ngôn tình của Trần Kế Xương còn truyền lại cũng được nhiều như thơ phúng thứ, và có nhiều giai tác:
GÁI Ở CHÙA
Con gái nhà ai dáng thị thành
Cớ chi nỡ phí tuổi xuân xanh
Nhạt màu son phấn say màu đạo
Mở cánh từ bi khép cánh tinh
Miệng đọc nam mô quên chín chữ
Tay lần bồ tát phụ ba sinh
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cắt tóc thề với quyển kinh.
GỬI TÌNH NHÂN
Vướng vít tơ vương biết mấy vòng
Mối tình này quyết gỡ cho xong
Vẽ người thanh lịch khi đưa mắt
Câu chuyện phong tao lúc tỏ lòng
Bình tước mặc tranh treo trước án [4]
Cầu ô sẵn nhịp bắt qua sông [5]
Sắc tài đôi lứa nên dan díu
Dan díu thì xin chớ ngại ngùng. 
KHÓC BẠN TÚ TÀI Ở PHONG CHÂU
Quả núi Phong Châu mới bắt cầu
Thương anh về trước chị về sau!
Tên đề bảng phấn ai không tiếc
Tiếng khóc non xanh vượn cũng sầu
Có mẹ tưởng là vui gượng lại
Không chồng hồ dễ sống chi lâu
Bắt thang lên hỏi ông cầm sổ
Cao tít mù xanh ngất một màu! 
Văn chương bình dị nhưng có cảm, không trau chuốt nhưng đẹp đẽ và êm ái. Chính nhờ giọng thơ êm ái, tức âm nhạc đã đưa tình ý trong thơ vào lòng người đọc. Chớ thiếu nhạc thì lời thơ dù đẹp đến đâu, ý thơ dù thâm hậu đến mấy, cũng khó mà rung động lòng người. Cho nên phái tượng trưng Pháp tuyên bố:
- De la musique avant toute chose. [6] 
Và thi hào Viên Mai nói:
- Thi hữu thanh vô vận thị ngõa phẩu giã. [7] 
Đông Tây đều quí âm điệu. Và thơ khác văn một phần, theo thiển ý phần lớn, do âm điệu.
Thơ Trần Kế Xương, mặc dù không chú trọng âm điệu như phái tượng trưng Âu Á [8], mà giọng du dương uyển chuyển, nhất là thơ tình [9], như những bài tiêu biểu thượng dẫn.
Những bài thượng dẫn là những bài thơ hay trong số thơ hay của nhà thơ Trần Kế Xương. Nhưng tôi chưa thích bằng bài thơ tặng bà Tú và bài Mùa Nực Mặc Áo Bông: 
TẶNG BÀ TÚ
Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi nấng năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi bãi vắng [10]
Eo xèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc [11]
Có chồng hờ hững cũng như không!
MÙA NỰC MẶC ÁO BÔNG
Nóng bức nhưng mình vẫn áo bông
Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không!
Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Đất biết bao giờ sang vận đỏ
Trời làm cho bỏ lúc chơi ngông
Gần chùa gần cảnh ta tu quách
Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng. 
Cả hai bài thơ đều nhất khí quán hạ. Ngó như lời nói chuyện nhưng không có một chữ non một tiếng ngọng. Thật tự nhiên mà cũng thật hồn nhiên!
Bài Tặng Bà Tú mới đọc qua thì có vẻ thản nhiên, nhưng càng gẫm càng thấm thía. Bởi chỉ đưa tình trạng ra chớ không nói đến tâm trạng mình trước tình trạng ấy. Nhưng nói lên những tình trạng làm gì nếu mình không thiết tha đến chúng? Những chữ “lặn lội, eo xèo, âu đành, dám quản” ngầm chứa nỗi xuýt xoa nỗi bức rức của tác giả. Câu:
Có chồng hờ hững cũng như không.
Vừa bông đùa vừa than trách. Bao nhiêu tình ý đều dồn nơi chữ “hờ hững”. Đọc câu này phải ngó lên câu thứ nhì:
Nuôi nấng năm con với một chồng.
Nếu “hờ hững” thì sao có đến năm con? Đừng nghĩ vơ mà mang tội. Ông Tú đã đắp bờ con rồi đó. Cái bờ con ấy là chữ “một chồng”. “Năm con với một chồng” vừa có nghĩa là “năm đứa con và một ông chồng” mà cũng có nghĩa là “năm đứa con của một ông chồng” [12]. Ông chồng “hờ hững” mà có đến năm con, thì nếu “không hờ hững” còn có đến mấy chục nữa? Hờ hững đây không phải hờ hững trong công việc có con, mà hờ hững trong công việc làm ăn… Hờ hững trong công việc này mà không hờ hững trong công việc kia, tức là gieo thêm nợ cho bà Tú. Gieo nợ thì gieo, chớ đối với vợ hiền miễn tình thâm là được. Mà tình ông Tú đối với bà rất thâm như đã trình bày trên kia. Cho nên nếu bà Tú hay chữ và hiểu thơ sâu sắc thì chắc phải ngâm:
Tu đáo nhân gian tài tử phụ
Mạc hiềm thanh sấu tợ mai ba. [13]
Còn về bài MÙA NỰC MẶC ÁO BÔNG, thần tình nhất là câu:
Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không.
Trực tiếp nói đến cảnh thiếu mặc, gián tiếp nói đến cảnh thiếu ăn. Vì thiếu mặc nên phải dùng áo trái mùa, vì thiếu ăn nên thân hình võ vàng gầy gọ như mới ốm dậy. Thiếu mặc là bề nổi, ai cũng thấy rõ, thiếu ăn là mặt chìm, phải để ý mới biết. Ngoài thực tế là thế, trong câu thơ cũng thế.
Lời thơ thật là giản dị mà ý thơ thật là hàm súc. Và giọng thơ ngó như bông đùa mà vị thơ thật là đắng mà cũng thật là cay!
Đó là một tuyệt cú, một ông vua ngồi trên ngai vàng mà các câu khác là bá quan văn võ đứng chầu hai bên tả hữu.
Khách làm thơ Hàn luật thường dồn tâm thần của mình vào một câu hoặc một cặp, không nhất định là câu nào cặp nào. Người xem thơ, muốn thấy rõ chiều sâu trong bài thơ, tưởng nên tìm cho thấy chỗ dụng tâm của tác giả.
Hai bài trên đây có lẽ là hai bài đắc ý nhất của Trần Kế Xương, trong số thơ nói về hoàn cảnh gia đình nói về thân thế. Đắc ý vì nói lên được, nói được một cách đầy đủ và kín đáo, những nỗi niềm tâm sự và theo đúng lời dạy của cổ nhân:
- Thơ quý ở phác chớ không xảo, nhưng phải thật xảo rồi mới phác. [14] 
Ý nói thơ chất phác không phải “nói chuyện làm sao thì làm thơ cũng vậy” mà được. Phải dày công trác luyện, trác luyện cho đến mức tự nhiên. Lời thơ đã đến mức tự nhiên thì chân tình cũng tự nhiên phát hiện. Chân tình phát hiện trên lời thơ tự nhiên là phác. Mà phải phác trong xảo, chớ không phải phác trong vụng. Phác trong vụng gọi là thô phác. Phác trong xảo gọi là thanh phác. Thanh phác mới là thơ. 
Hai bài thơ Tặng Bà Tú và Mùa Nực Mặc Áo Bông là thơ thanh phác.
Một bài thơ thanh phác giống như một kẻ sĩ đã lập được công danh hiển hách với đời rồi về ở nơi thôn dã, ăn cơm rau, mặc áo vải, tháng ngày vui thú cùng ruộng lúa nương dâu. Người tầm thường trông thấy cho là một ông lão nhà quê. Nhưng người có đôi mắt sáng suốt thì nhận thấy những nét cao sang thấp thoáng ở bên ngoài, những độ thâm thúy dấu giếm ở bên trong.
Cho nên đọc những bài thơ thanh phác, tự nhiên, như thơ Tặng Bà Tú, Mặc Áo Bông của ông Tú Xương, đừng tưởng dễ mà hững hờ. Nước sông trong thấy đáy, nhiều khi làm cho người vô ý tưởng sông cạn mà lội bừa, bị sụp uống nước thường lắm. Thơ lời cạn mà ý sâu, trong số thơ của tiền nhân để lại, không phải riêng gì Trần Kế Xương, và trong thơ Trần Kế Xương, không riêng gì hai bài trên đây. Cho nên người đọc, để khỏi đem lòng kỳ thị mới cũ, tưởng nên dụng công ít nhiều lúc xem thơ xưa. 
Có nhiều người bằng theo bài ngũ tuyệt sau đây, không biết là của ông Tú tự trào hay của người khác nhạo ông Tú: 
Vị Xuyên bác Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Tổ đĩ lại chơi lường.
mà cho ông Tú là người phóng đãng, không có lòng với tổ quốc nhân quần, cho là con người vị kỷ chỉ vì lận đận trên đường công danh mà sanh ra khinh thế ngạo vật. Đó là thường tình trong thiên hạ. Tôi không nghiên cứu kỹ về thân thế về hoàn cảnh của ông Tú Xương, nên không dám quả quyết rằng lời phê bình kia là đúng hay không đúng. Từ trước đến giờ đối với thi nhân Trần Kế Xương cũng như các thi nhân tiền bối khác, tôi luôn luôn nhìn con người - đúng hơn là nhìn tâm hồn - qua thơ, chớ không khi nào nhìn thơ qua con người. Bởi cái đáng quí, đáng gìn giữ là những gì còn lại trong thơ, chớ không phải những cái đã mất theo thể xác. Tìm cho thấy bóng dáng của tác giả chỉ để xác định những gì đã nhận thấy trong thơ mà thôi, chớ không phải vì yêu thích cá nhân của tác giả.
Qua thơ văn Trần Kế Xương, tôi nhận thấy tác giả là một người thiết tha với quốc gia xã hội: 
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. [15] 
Con người không có lòng với nước non, với nòi giống, con người chỉ nghĩ đến bản thân đến danh lợi, thì làm gì có được những vần thơ thâm trầm thống thiết như kia!
Cũng thật thâm trầm thống thiết bài: 
HỌC TRÒ NGỦ CẠNH THẦY [16]
Chẳng phải mình con ngủ cạnh thầy
Con xin con kể để thầy hay
Sử kinh chưa trải mùi ngon ngọt
Trò chuyện càng nhiều nỗi đắng cay
Nước bốn nghìn năm hồn chửa tỉnh
Người hăm lăm triệu giấc còn say
Bên giường dẫu ngáy nhưng còn sợ
Nghe mõ thầy truyền thức dậy ngay. [17] 
Tâm chí của tác giả dồn ở cặp luận. 
Con người có tâm có chí mà không thực hiện được chí hướng của mình thì làm sao khỏi bất mãn. Trong khi bất mãn không biết làm sao giải thoát được những nỗi u uất trong lòng, đành đem tâm sự gởi vào thơ, để cho vơi được phần nào hay phần nấy.
Biết rõ được tâm chí của Trần Kế Xương, nên Phan Sào Nam đã tìm gặp.
Phan Sào Nam đậu thủ khoa năm Canh Tý (1900). Thi đậu không phải để đi làm quan, mà để đi làm cách mạng cho dễ. Sau khi kết nạp được một số đồng chí ở miền Trung, năm Giáp Thìn (1904) cụ ra miền Bắc và gặp ông tú Vị Xuyên. Không biết ông có nhận một nhiệm vụ gì trong công cuộc giải phóng dân tộc hay chăng. Chỉ biết rằng sau khi cụ Phan sang Trung Quốc, ông Tú có bài thơ nhớ bạn: 
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa - xa quá! - Nhớ ta không?
Đã từng vui lắm xui buồn bã
Vừa mới quen nhau hóa lạ lùng
Lúc thấy thấy gì cơn mộng tưởng
Khi riêng riêng cả mảnh tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn khuya trống điểm thùng. [18] 
Và sau đó, nhân có ông bạn đồng chí của cụ Phan sang Trung Quốc, ông Tú làm thêm một bài nữa gởi sang cụ: 
Mấy phen vượt bể lại trèo non
Em hỏi thăm qua bác vẫn còn
Mái tóc giáp thìn đà nhuộm tuyết
Điểm đầu canh tý chửa phai son [19]
Vá trời gặp hội mây năm vẻ
Lấp bể ra công núi một hòn [20]
Vi được như ai mà chẳng chết [21]
Dang tay chống vững trụ kiền khôn. 
Ông bạn đọc thuộc lòng cả hai bài. Khi gặp cụ Phan, ông nói:
- Ông tú Vị Xuyên có gởi cho cụ tấc lòng đây.
Cụ Phan mừng rỡ:
- Đâu? Đưa mau.
Ông bạn vén áo vỗ bụng cười thích thú, rồi thong thả đọc… Cụ Phan vô cùng cảm động…
Và trong khoảng thời gian cụ bị bọn thực dân Pháp bắt về an trí tại Bến Ngự Huế, những khi khách văn chương ở xa đến thăm, cụ thường nhắc đến hai bài thơ trên và khen là kiệt tác.
Chú thích: 
[1] Không nhớ tên các tờ báo , chỉ nhớ quyển sách Trần Kế Xương của Trần Thanh Mại, và nhớ chừng như vì họ Trần ca tụng thái quá mà thành ra bị phản ứng.
[2] Cát lũy: dây sắn dây bìm, chỉ người vợ bé (Chữ mượn ở Kinh Thi: Nam hữu cù mộc, cát lũy lôi chi…)
[3] Hà Đông: sư tử Hà Đông: vợ ghen. (Chữ mượn trong thơ Tô Đông Pha trêu người sợ vợ: Hốt văn Hà Đông sư tử hống, trụ trượng lạc thủ tâm man nhiên).
[4] Bình tước: Xưa Đậu Nghị kén rể cho con, vẽ hai con chim sẻ trên bình phong, hễ ai bắn trúng mắt chim sẽ gả con. Sau Lý Uyên bắn trúng.
[5] Cầu ô: Tích ô thước bắt cầu qua sông Ngân để chàng Ngưu và ả Chức sang thăm nhau đêm mùng bảy tháng bảy.
[6] Câu thơ đầu trong bài L’ART POETIQUE của Verlaine, nghĩa là “âm nhạc trước hết mọi sự”.
[7] Thơ có lời mà không có âm vận (tức nhạc) là phẩu đất vậy.
[8] Viên Mai tuy chú trọng tâm linh, nhưng bàn về thơ rất giống phái tượng trưng của Pháp.
[9] Thơ tình là thơ thiên về tâm, về tình cảm, chớ không phải riêng thơ tình ái.
[10] Có chỗ chép là “khi quãng vắng”, hoặc “khi sóng cả”.
[11] Cha mẹ đây là tiếng chửi đổng.
[12] Thơ ông Tú Xương rất lắt léo, phải hiểu một cách lắc léo mới hưởng được trọn những cái hay kín đáo trong thơ.
[13] Câu thơ trong một bài tuyệt cú của một nữ sĩ Trung Hoa thời xưa (quên tên và quên triều đại), nghĩa là: “Kiếp trước nhờ  tu mà kiếp này được làm vợ kẻ tài tử, nên ốm o gầy gọ như khóm mai cũng chả cần.
[14]  Lời trong Tùy Viên Thi Thoại. (Thi nghi phác bất nghi xảo, nhiên tất tu đại xảo chi phác)
[15] Nhan đề là Vi Hoàng hoài cổ - sông Vi Hoàng ở quê Tú Xương, trước kia là nơi hẹn hò của các nhà ái quốc mưu đồ đại sự.
[16] Ngủ đây là ngủ gật, ngồi nghe sách mà ngủ.
[17] Mõ: Thầy học dùng mõ để kêu gọi học trò, nên có câu: Mộc đạc truyền thanh (mõ gõ truyền tiếng).
[18] Câu này sách Văn Đàn Bảo Giám chép nhiều chỗ khác:
- Câu 2: Người xa xa có nhớ ta không?
- Câu 3: Sao đương vui vẻ ra buồn bã.
- Câu 4: Vừa mới quen nhau đã lạ lùng.
- Câu 5: Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng.
- Câu 6: Khi riêng riêng cả đến tình chung.
- Câu 7: Tương tư lọ phải là mưa gió.
Hai bài tôi chép trên đây được nghe các vị tiền bối đọc lúc tôi làm việc ở tòa Khâm Huế (1930). Tôi tin là đúng hoặc gần nguyên văn hơn bài trong Văn Đàn Bảo Giám vì quí cụ thường qua lại cùng cụ Phan.
[19] Giáp Thìn đây là năm hai bên gặp gỡ nhau, chớ không phải tuổi của cụ Phan hay tuổi của ông Tú, vì cụ Phan sanh năm Đinh Mão (1867), ông Tú sanh năm Canh Ngọ (1870).
[20] Vá trời: Nữ Oa rèn đá vá trời.
Lấp bể: Tinh Vệ ngậm đá lấp bể.
Cụ Phan sang Tàu nhằm lúc có phong trào ngũ tộc cộng hòa, quốc kỳ Trung Hoa có 5 giải năm sắc chạy song song, mỗi màu tượng trưng một sắc dân Hán, Mông, Mãn, Tạng, Hồi. Cho nên mới nói “gặp hội mây năm vẻ”. Lại có ý chúc “vá trời thành công” vì thời cơ đã đến.
[21] Nhiều sách chép: Há phải như ai mà chẳng chết.
29.

Tìm hiểu tác giả qua thơ là một phương pháp thông dụng của những người yêu thơ vì thơ.

Còn tìm hiểu thơ qua tác giả là phương pháp của phần đông các nhà nghiên cứu.
Phương pháp sau dễ đạt được mục đích hơn phương pháp trước. Vì không biết rõ tác giả thì không biết rõ được tâm sự gởi gấm trong thơ, không biết rõ được trường hợp sáng tác để tìm thấy ảnh hương của ngoại cảnh vào nội tâm của tác giả. không biết được những cái ấy thì không sao thấy được những gì chìm ở dưới nét chữ lời văn.
Ví dụ bài NGŨ TỬ TƯ XUY TIÊU mà nhiều người ở Trung và Nam thuộc lòng: 
Lạc loài nước bước dạ trăm chiều
Ngơ ngẩn quê người một ống tiêu
Trời Sở oán theo mây cuộn cuộn
Đất Ngô buồn giục gió hiu hiu
Tấm ơn da tóc so dày mỏng
Nghìn dặm non sông cảm ít nhiều
Lòng bạn tri âm chưa gặp gỡ
Thẹn thùng cúi ngửa biết bao nhiêu. 
Giọng văn êm dịu, nghe thích thú như nghe tiếng tiêu vẳng trong sương chiều thu.
Chắc cũng có bạn vì ít đọc sách Tàu nên thắc mắc:
- Ngũ Tử Tư là ai mà có tiếng tiêu đẹp nhưng buồn như thế ấy?
Xin thưa:
- Ngũ Tử Tư là người nước Sở đời Đông Châu Liệt Quốc. Cha và anh bị vua Sở giết oan, Tử Tư giận trốn sang nước Ngô lánh nạn và tìm kế phục thù. Đến Ngô lương cạn, phải dong các chợ thổi tiêu xin ăn.
Lúc bấy giờ công tử Quang muốn cướp ngôi vua nước Ngô, sai người tâm phúc là Bi Ly đi tìm kẻ có tài về phò tá. Bi Ly đến chợ Mai Lý thì nghe tiếng tiêu của Tử Tư, biết là người có tâm sự, lại xem tướng mạo biết là bậc phi thường, bèn tiến dẫn lên Công tử Quang. Công tử Quang gặp được Ngũ Tử Tư như rồng gặp mây, Ngũ Tử Tư gặp được công tử Quang như cá gặp nước. Rồi tương y tương ỷ, công tử Quang nhờ tài lực của Tử Tư mà được lên làm vua nước Ngô, Ngũ Tử Tư nhờ binh mã của nước Ngô mà rửa được hận.
Biết được sự tích dùng trong thơ rồi thì ngoài cái thú do hình ảnh âm nhạc câu thơ gây nên, chúng ta hưởng thêm cái thú về tình ý khéo chọn lựa khéo sắp xếp.
Nhưng đó mới là cái thú thưởng tiếng đàn trong dây tơ, mùi ngon trong vị của thực phẩm. 
Nhà thơ chân chính ít khi làm thơ để mua vui hoặc để khoe tài, mà luôn luôn để ký thác. Cho nên thơ vịnh sử, vịnh cảnh, vịnh vật… hầu hết không phải vì người trong sử, không phải vì cảnh trước mắt, vật trước mắt, mà trải ý chuốt lời, mà chính vì lòng của tác giả. Cho nên người đọc có thấy được chỗ dụng tâm của tác giả thì mới là tri âm, và mới hưởng được cái thú của “ngoại vị chi vị, ngoại huyền chi thanh”.
Bài thơ Ngũ Tử Tư Xuy Tiêu trên đây, không biết tác giả là ai, nên không thể biết được tâm sự gởi gắm trong thơ.
Có người bảo là của ông Thủ khoa BÙI HỮU NGHĨA. Không lấy gì làm chắc. Huống nữa dù quả thật tác giả là ông Thủ khoa Bùi đi nữa, cũng không biết được ông làm bài đó trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào để tìm hiểu tâm sự. Bởi trong nét đại cương từ bối cảnh lịch sử cho đến cuộc đời chìm nổi của ông Thủ khoa không có chỗ giống cảnh ngộ của Tử Tư. 
Nghe tiếng tiêu lâm ly, Bi Ly biết được Ngũ Tử Tư là người có tâm sự. Xem lời thơ bi tráng chúng ta cũng biết rằng người làm thơ có nỗi cô phẫn không giải tỏa được nên phải mượn văn chương để khiển hoài. Nhưng không biết rõ tâm sự như sao, nên cam chịu chung cảnh của Lý Thanh Liên thấy mỹ nhân khóc: 
Mỹ nhân quyển châu liêm
Thâm tọa tần nga mi
Đản kiến lệ ngân thấp
Bất tri tâm hận thùy. 
Nghĩa là:
Người xinh cuốn bức rèm châu
Ngồi im thăm thẳm nhăn cau đôi mày
Chỉ hay giọt lệ vơi đầy
Đố ai biết được lòng này giận ai?!
(Tản Đà)
30. 

Những người thích thơ xưa không mấy ai không thuộc hoặc không nghe biết bài thơ sau đây:

Xe ngựa lao xao giữa cõi trần
Biết ai thiên tử biết ai thần
Nhạc thiều tấu dứt khôn trông phụng [1]
Sử Lỗ tu rồi uổng khóc lân [2]
Mỏi mắt Hy Di trời ngũ quý [3]
Nhọc lòng Gia Cát đất Tam Phân [4]
Thôi thôi đã vậy thôi đành vậy
Nhờ lượng cao dày cứu lấy dân. 
Các nhà làm sách, người thì bảo của Nguyễn Đình Chiểu ở trong Nam, người thì cãi là của Phạm Như Xương miền Trung. Bảo là của cụ Nguyễn thì như Lãng Nhân là một, và trong Giai Thoại Làng Nho, mệnh đề là “Mang tật mù”. Bảo là của ông Phạm thì như lão tiền bối Phan Khôi trong Chương Dân Thi Thoại và lấy đề là “Quốc biến năm Ất Dậu”. 
Bài trong Chương Dân Thi Thoại nhớ chừng [5] không khác bài tôi chép. Bài trong Giai Thoại Làng Nho thì có nhiều chỗ sai thù: 
Nhạc Thiều tiếng dứt khôn trông phụng
Sách Lỗ biên rồi khó thấy lân
Khỏe mắt Hy Di trời Ngũ Quý
Mỏi lòng Gia Cát đất Tam Phân
Công danh chi nữa! Ăn rồi ngủ
Mặc lượng cao dày xử với dân. [6] 
Riêng tôi thì từ trước tới nay, vẫn nghe các bậc tiền bối truyền là của Hoàng giáp Phạm Như Xương, và chính là lời than cho hoàn cảnh xã hội từ 1885 trở về sau, thời kỳ mà “chính giữa Đồng Khánh hai đầu Hàm Nghi”.
Không biết chắc tác giả là ai, nhưng vì là một bài thơ nói về thời cuộc - thời cuối triều Tự Đức mà trong Nam cũng không khác gì ở Trung ở Bắc bao nhiêu - nên ai đã đọc qua lịch sử cận đại đã biết qua những điển cố dùng trong thơ, thì hiểu rõ được ý tứ trong toàn bài. 
Bài thơ dùng nhiều điển cố. Không phải để khoe khoang chữ nghĩa, vì hoặc cụ Nguyễn Đình Chiểu, hoặc ông Phạm Như Xương, kẻ làm thầy trong một xứ, kẻ đậu hoàng giáp, quốc dân có ai lại không biết mình hay chữ, cần gì phải khoe. Dùng điển thường là để có thể nói được nhiều trong khuôn khổ chật hẹp của Đường luật, và như trường hợp bài này, để diện mục bớt phơi bày hầu tránh đám khuyển ưng trong buổi phụng hoàng kỳ lân không xuống núi.
Cũng mục đích “che mắt thế gian”, một người ở vùng Nam, Nghĩa, Bình, Phú, đã làm bài: 
VỊNH LỤT
Mưa từng chặp gió từng hồi
Bốn phía non sông ngập cả rồi!
Lũ kiến bất tài theo bọt tấp
Đám liều vô dụng kết bè trôi [7] 
Cheo leo rừng rậm nghe chim gáy
Lỏm xỏm giường cao thấy chó ngồi
Nỡ để dân đen chìm đắm mãi
Nào vua Hạ Võ ở đâu? Ôi! [8] 
Bài này làm lúc vua Hàm Nghi chưa bị bắt, vua Đồng Khánh vừa lên ngôi, chiếu Cần Vương từ rừng xanh đưa xuống làm sôi động lòng sỹ phu yêu nước từ Bắc vào Nam.
Biết được điểm đó thì thấy rõ cặp luận nói gì và cặp trạng ám chỉ những ai.
Đám nắm quyền sanh sát lúc bấy giờ dù có bắt được tác giả cũng không thể làm tội được.
Bài này cũng như bài trên kia, không biết được tác giả nhưng biết được thời kỳ sáng tác, nên dễ nhận được ý tứ trên hàng chữ, giữa hai hàng chữ.
Cũng không biết rõ tác giả là ai, bài: 
THAN THỜI LOẠN:
Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Đòi chốn lầm than cảnh được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Muốn tới Vị Xuyên mà hỏi Lã [9]
Rằng Thương xưa cũng thế này ru? 
Truyền rằng đây là tình trạng xã hội thời Lê Mạc, sau khi đám kiêu binh làm loạn trong triều đường.
Có sách chép là thơ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhưng không lấy gì làm chắc. Và cũng như hai bài trên kia, tác giả có biết rõ được càng tốt, không biết được cũng không ảnh hưởng gì đến sự nhận thức nội dung bài thơ.
Về mặt văn chương, bài này vừa cổ kính vừa tự nhiên. Rõ là một gốc tùng già đứng sừng sững trên sườn non. Ý cũng rất hàm súc. Nhưng không có những nét đặc sắc làm cho người đọc thấy rõ được những khác biệt của thời loạn tác giả muốn tả với những thời loạn khác. Do đó bài này nói về thời loạn thời Lê mạt cũng được mà nói về thời loạn thời Pháp chiếm Kinh Đô Huế cũng cứ được. Cho nên so về mặt ý tứ thì bài Vịnh Lụt trổi hơn bài này và bài “Xe ngựa lao xao…” bởi bài “Xe ngựa lao xao…” cũng không có nét độc đáo.
Những bài thơ như những bài trên thường gọi là thơ thời thế.
Và có thể kết luận:
- Về thơ thời thế, biết được tác giả càng tốt, không biết được cũng không sao. Điều cần thiết là phải rõ thời kỳ sáng tác.
Có những bài thơ tình, không cần biết đến tác giả cũng không cần biết thời kỳ sáng tác, mà vẫn nhận thức đầy đủ nội dung, vì tình ý trong thơ không có gì bí ẩn, độc đáo. Như bài sau đây: 
KÝ NỘI
Con tạo ghen ai những quấy rầy
Quan hà muôn dặm kẻ riêng tây
Gương thiềm ngắm bóng năm hầu nửa [10]
Thư nhạn mong tin tháng đã đầy [11]
Xuân vắng vườn đào màu phấn nhạt
Thu qua bờ liễu vóc sương gầy
Chung tình hai chữ khen ai đặt
Một giấc phần du tỉnh lại say. [12] 
Văn chương diễm lệ, phảng phất giọng thơ Đường. Nhưng không làm cho người đọc phải cảm xúc, phải nghĩ ngợi. Vì tình cảnh trong thơ là tình thông thường, cảnh phổ biến, người nào cũng có, thời nào cũng có, và nơi nào cũng có cả. So với bài Ký Nội của cụ Phan Thanh Giản [13], thì bài này văn đẹp hơn nhưng ý không thâm tình không hậu bằng.
Bài cụ Phan đọc lên như uống trà Cam Khổ, nước đã qua khỏi cổ từ lâu mà hương còn thoang thoảng thơm, vị còn ngon ngót đắng. Còn đọc bài này thì chẳng khác uống coca-cola, còn uống còn thấy ngọt, uống xong không còn chút dư vị dư hương.
Nghĩa là thơ cụ Phan cảm lòng người sâu đậm hơn. 
Cho nên cổ nhân luận thơ rằng:
- Thi chi hậu tại ý bất tại từ, thi chi hùng tại khí bất tại cú, thi chi linh tại không bất tại xảo, thi chi đạm tại diệu bất tại thiển. [14]
Bài Ký Nội trên đây được truyền là nhờ từ chương.
Và những thơ như thế thuộc về hàng hạ thừa.
Chú thích:
[1] Vua Thuấn soạn khúc nhạc Tiêu Thiều xong, tấu lên, chim phụng nghe tưởng đồng loại gáy liền bay đến. Cho nên có câu: “Tiêu Thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi”.
[2] Người nước Lỗ săn được con lân, đức Khổng Tử khóc rằng thời thạnh trị không còn trở lại nữa, bèn đóng cửa viết sách Xuân Thu (Sách Xuân Thu thường gọi là Lỗ sử). Cho nên có câu: Lỗ Tây thú hoạch lân, Khổng Tử tác Xuân Thu.
[3] Hy Di là Trần Đoàn thấy đời loạn lạc, nằm ngủ trên núi Ngọa Sơn cho đến lúc Triệu Khuông Dẫn dẹp xong loạn dựng nên nhà Tống.
Đời Ngũ Quý, cũng gọi là Ngũ Đại (907-960) gồm năm nhà nối tiếp nhau cai trị Trung Quốc  là Lương Đường Tấn Hớn Chu. Cứ nhà này làm vua được ít lâu thì bị nhà khác lật đổ… Trong nước không mấy lúc được yên vui. (213-280)
[4] Gia Cát Lượng tức Khổng Minh - Đất Tam Phân tức là thời Tam Quốc (213-280) Trung Quốc chia làm ba nước là Ngụy Thục Ngô. Khổng Minh giúp Thục hết lòng nhưng không dựng lại nhà Hán nổi. Đất Tam Phân đây là ám chỉ ba kỳ của Việt Nam.
[5] Nhớ chừng vì không tìm được tập Chương Dân Thi Thoại để xem lại.
[6] Phan Chương Dân tiên sinh cũng như hầu hết các vị túc nho ở Trung Việt đều bảo bài “xe ngựa lao xao…” là của Hoàng giáp Phạm Như Xương. Lãng Nhân cùng một ít nhà viết sách trong Nam tin là của Nguyễn Đình Chiểu vì có những chữ “Không trông, khó thấy, khỏe mắt” làm bằng chứng.
[7] Có người đọc là: “Lũ… hì hụp lội, đám… bập bềnh trôi”.
[8] Ông Võ trị thủy có công, vua Thuấn nhường ngôi, lập nên nhà Hạ, nên gọi là Hạ Võ. (Bài này kẻ thì bảo của Lê Trung Đình, người bảo của Trần Quý Cáp).
[9] Lã tức Lã Vọng tức là Khương Tử Nha ngồi câu nơi sông Vị. Văn Vương đem xe bồ luân đến rước về làm quân sư. Nhờ tài của Lã Vọng mà trừ được nạn vua Trụ của nhà Thương, lập nên nhà Châu thạnh trị.
[10] Gương thiềm: Mặt trăng - Trên cung trăng có con thiềm thừ, tức cóc, ở. Do đó gọi mặt trăng là gương thiềm.
[11] Thư nhạn: Tô Võ bị Hung Nô đày lên núi tuyết chăn dê, bắt được chim nhạn, cột thư nơi chân, nhạn bay sang Nam, người Hán bắt được đem trình lên vua… Do đó mà có tiếng thư nhạn, tiếng nhạn mang thư.
[12] Phần du là hai thứ cây thường trồng ở thôn quê. Chữ dùng để chỉ quê hương, cũng như chữ tử phần trong Kiều:
Xót thay muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
[13] Xem bài số 16 ở trước.
[14] Thi hậu tại nơi ý chớ không phải tại nơi lời, thi hùng tại nơi khí chớ không phải tại nơi câu, thi linh động tại nơi không có chất tục chớ không phải tại khéo, thi thanh đạm tại nơi tinh diệu chớ không phải vì thiển cận.
36.A
Hễ nói đến Bình Định, trăm người như chục, mười người như một đều nói đến Võ chớ không mấy khi nói đến Văn.
Không phải vì Bình Định là đất hữu võ vô văn, mà chính vì ánh sáng của các ngôi văn tinh bị ánh trăng hào kiệt là lu mờ như cảnh tượng đêm rằm tháng tám.
Võ Bình Định nổi tiếng khắp trời Nam đất Bắc do các vị anh hùng nữ kiệt:
- Tây Sơn tam kiệt
- Bùi Thị Xuân
- Trần Quang Diệu
- Võ Văn Dõng
- Lê Chất
- Võ Trứ
- Mai Xuân Thưởng
- Tăng Bạt Hổ,… vân vân…
là những nhân vật lịch sử mà không ai không biết danh. 
Ngoài ra còn có các võ sư đem tài nghệ, kẻ ra Bắc người vào Nam, truyền thụ cho những tay anh tuấn. Như Đội Chương và Voi Con ra Nghệ Tĩnh huấn luyện nghĩa quân Quang Phục của Phan Sào Nam. Như Nguyễn Đa vào Gia Định dùng núi Thất Sơn làm võ trường đào tạo được nhiều trang nghĩa hiệp, cải tạo được một số lục lâm thảo khấu trở thành những tay hảo hớn, mà ngày nay ở địa phương còn nhắc nhở đến tên.
Thanh danh của các nhà võ chẳng khác tiếng trống tiếng chuông… lấn át những tiếng tơ tiếng trúc của các nhà văn dù có tài năng lỗi lạc. Thậm chí có nhiều vị văn võ toàn tài, nhưng hào quang bên võ quá rực rỡ làm chói mắt bàng nhân, khiến nhiều nhà hữu tâm khi đề cập đến quí vị cũng chỉ nhắc đến võ công mà bỏ sót văn nghiệp.
Trong trường hợp này, anh hùng MAI XUÂN THƯỞNG là nhân vật tiêu biểu.
Mai anh hùng người thôn Phú Lạc, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định, đồng hương cùng Tây Sơn tam kiệt.
Năm Ất Dậu (1885), sau khi đậu cử nhân về, anh hùng ứng nghĩa Cần Vương, dấy nghĩa binh chống Pháp. Ngót ba năm trời chiến đấu anh dũng, nghĩa binh bị đại bại trận Bàu Sấu. Một thân một ngựa, Mai anh hùng chạy vào mật khu Linh Đổng (Bình Khê), quyết xây dựng lại lực lượng để diệt thù.
Lúc vào Linh Đổng anh hùng có bài: 
CẢM THUẬT
Không tính làm chi cuộc mất còn
Nợ trai lo trả ấy là khôn
Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước
Đá tạc lòng trung núi mấy hòn
Tái ngắt mặt gian xương tợ giá [1]
Đỏ lòa bìa sách máu là son
Rồi đây ngọc luật đưa xuân lại
Một khóm mai già nảy lộc non. 
Linh Đổng là nơi bí hiểm, có thế “bách nhị sơn hà”. Giặc biết anh hùng ẩn náu ở đó, nhưng không dám truy tầm. Kẻ cầm đầu quân giặc là hai tên khát máu: Trú sứ Aymonier và Đốc Phủ Sứ Trần Bá Lộc. Chúng bắt lý hương và tráng đinh ba thôn Phú Phong, Phú Lạc, Trinh Tường (Bình Khê) cùng bà cụ thân sinh Mai anh hùng, đem tống giam tại đình làng Phú Phong, và hẹn trong mười hôm nếu anh hùng không xuất thú, thì bắt đầu từ ngày thứ 11, cứ mỗi ngày sẽ đem ra giết năm người, và đến ngày thứ 21 thì giết hết già trẻ ba thôn, đốt hết nhà cửa trong toàn hạt.
Tánh háo sát và tàn bạo của giặc đã làm cho xương máu người Việt Nam, từ Bình Thuận trở ra, chập chồng lai láng. Và từ ngày chúng đến Bình Định, lương dân đã bị thảm sát không biết bao nhiêu người vô tội, vô can. 
Mai anh hùng được tin, hết sức đắn đo suy nghĩ. Liệu không thể cứu vãn tình thế trong một mai một chiều được, nếu kéo dài cuộc kháng chiến sẽ gây thêm tang tóc cho nhân dân, anh hùng bèn đích thân đến trại giặc để thay chết cho mẹ và cho đồng bào. Giặc dụ hàng. Anh hùng khẳng khái đáp:
- Chỉ có đoạn đầu tướng quân chớ không có hàng đầu tướng quân.
Lúc ngồi trong ngục ở Phú Phong, anh hùng khẩu chiếm bài thơ: 
CHẾT
Chết nào có sợ chết như chơi
Bởi chết vì dân chết bởi thời
Chết hiếu chi nài xương thịt nát
Chết trung bảo quản cổ đầu rơi
Chết nhân tiếng tốt bia ngàn thuở
Chết nghĩa danh thơm rạng mấy đời
Thà chịu chết trong hơn sống đục
Chết nào có sợ chết như chơi. 
Giặc giam anh hùng ở Phú Phong một ngày một đêm, rồi đưa xuống thành Bình Định. Đoàn quân áp giải theo nam ngạn sông Côn mà đi. Mai anh hùng ngồi trên ngựa, hai tay bị trói. Mai phu nhân khăn gói theo chồng, thoăn thoắt đi trước đầu ngựa. Xúc cảnh sanh tình, anh hùng ứng khẩu:
Giang thượng đông lưu vô tử đệ
Mã tiền tây hạ hữu giai nhân. 
Nghĩa là:
Trên sông nước chảy xuôi dòng
Con em ngoảnh lại tịnh không bóng nào
Riêng thương chút phận má đào
Khoan thai trước ngựa anh hào đưa chân. 
Một bức tranh vừa bi vừa tráng!
Nhớ lại cảnh Cai Hạ thời Hán Sở tranh hùng: Bốn mặt tiếng ca nước Sở vang dầy. Trong trướng Hạng Võ cùng Ngu Cơ ngồi uống rượu. Hạng cảm khái vỗ kiếm ngâm: 
Lực bạt sơn hề khí cái thế
Thời bất lợi hề chùy bất thệ
Chùy bất thệ hề khả nại hà?
Ngu hề Ngu hề nại nhược hà!? 
Nghĩa là:
Sức nhổ núi hề hùng khí ai bì
Thời không lợi hề ngựa Chùy không đi.
Ngựa không đi hề biết làm sao đây?
Ngu hề Ngu hề tính làm sao đây? 
Ngu Cơ rút gươm vừa múa vừa họa lại:
Hán binh dĩ lược địa
Tứ diện Sở ca thanh
Đại vương ý khí tận
Tiện thiếp hà liễu sinh. 
Nghĩa là:
Đất đai binh Hán chiếm rồi
Bốn bên tiếng Sở vang trời khúc ca
Khí anh hùng đã tiêu ma
Tấm thân bồ liễu sống mà chi đây! 
Đoạn quày gươm tự vẫn. Hạng Võ lên ngựa chạy ra bờ sông Ô Giang…
Treo hai bức tranh tình Cai Hạ và Côn Giang bên nhau, thì một bên là Tây Thi một bên là Chiêu Quân. Nhưng nhân vật Cai Hạ có phần phẫn hận ai quan. Nhân vật Côn Giang, phong độ ung dung, thật thanh thoát tự tại.
Hai bài thơ CHẾTCẢM THUẬT, văn chương bi hùng. Các vị tiền bối phê là “Cảm khái chi trung hữu khẳng khái tại”. Còn hai câu khẩu chiếm trên bờ Côn Giang thì ngậm chứa khí vị phong lưu. Đều là những giai phẩm. 
Và anh hùng MAI XUÂN THƯỞNG là một bậc phong nhã anh hùng. Công cuộc cứu quốc tuy không thành, sự nghiệp văn chương để lại tuy không lớn, nhưng tài đức vẫn treo cao cùng núi Tượng sông Côn. 
Trong Kiều có câu:
Xưa nay những đấng tài ba
Chết là thể phách còn là tinh anh.
Trường hợp Mai anh hùng chứng minh cho lời ấy.
Ở Bình Định các bà mẹ ru con, các người chị ru em thường hát:
Chim kêu dưới suối Đá Dàng
Em còn chút mẹ cậy chàng viếng thăm. 
Suối Đá Dàng ở trên hòn Dương Thạch Sơn thuộc thôn Phú Lạc, quê hương Mai Anh hùng. Và câu thơ kia là của Mai anh hùng nhắn cùng bạn đồng chí là cụ nghè Vân Sơn.
Nguyên Mai anh hùng tuẫn quốc, bà cụ thân sinh cùng một số sĩ phu tham gia phong trào - trong đó có cụ nghè Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì - được miễn tội nhưng bị quản thúc chặt chẽ. Mãi sau khi đã đặt vững nền đô hộ trên toàn cõi Việt Nam, bọn thực dân mới nới vòng kiềm tỏa. Chừng ấy các thân hào nhân sĩ mới qua lại với nhau được tự do. 
Dưới triều Khải Định (1916-1925), một đêm nọ, các nhân sĩ hạt Bình Khê hội nhau tại Phú Phong, cầu tiên để hỏi thăm việc nhà việc nước. Tiên giáng cọ, nhưng không xưng tên chỉ viết:
- Thỉnh Vân Sơn tiên sinh.
Từ Phú Phong xuống Vân Sơn có trên vài chục cây số. Nếu đi thỉnh cho được cụ Nghè thì trời sáng rồi còn cầu khẩn gì nữa. Nên ai nấy đều ngó nhau… Chưa biết nên giải quyết cách nào cho ổn thì cọ viết cho biết rằng cụ Vân Sơn hiện nằm tại nhà một người bạn ở xóm trên.
Các nhân sĩ cho người đi mời. Cụ Nghè đương nằm mát nơi Tây hiên. Trời nóng nực ghẻ ngứa ngáy, cụ không ngủ được bèn nghĩ thơ Ghẻ làm vui. Không giấy bút, nghĩ được câu nào cụ lấy ngón tay viết lên không trung câu nấy. Nghe nói “tiên mời”, cụ cao hứng trở dậy khoác áo đi ngay. 
Cụ Nghè vừa đến nơi thì cọ liền cử động viết ngay một bài thơ. Cụ Nghè giật mình, vì chính là bài “thơ ghẻ” cụ vừa phúc thảo. Tiếp theo cọ viết luôn bài thơ họa là một toa thuốc chữa ghẻ. Hỏi danh hiệu, cọ không đáp mà chỉ thách xướng họa thơ. Hai bên xướng họa cho đến gà gần gáy. Thơ xướng họa toàn bằng Hán tự và chỉ chứa đựng khí vị phong lưu, chớ tuyệt nhiên không đả động đến thời thế. Các nhân sỹ có ý chán, lần lượt bỏ về hết. Lúc đã thưa người, cọ liền viết một câu thơ Quốc âm: 
Nghìn thu Hà Nhạc vương theo bóng
Một gánh quân thân gởi lại chàng. 
Cụ Nghè biết thần tiên không phải người xa lạ, nhưng chưa đoán biết là ai. Muốn hỏi mà chưa kịp hỏi thì cọ viết tiếp: 
Chim kêu dưới suối Đá Dàng
Em còn chút mẹ cậy chàng viếng thăm. 
Cụ nghè liền ôm cọ khóc rống:
Mai nguyên soái! Mai nguyên soái! Cố nhân ôi, cố nhân!
Câu chuyện không mấy lúc đã truyền xa. Nhưng rồi ngày lại ngày qua, già đi trẻ đến, câu chuyện bị gió mưa phai lạt, chỉ còn nghe “Chim kêu dưới suối Đá Dàng”. [2]
Song khách du đi ngang qua sông Côn, nghe các cô hái dâu ven bờ sông, các cô chống đò dọc theo con sông… cất cao giọng hát:
Ngó vô Linh Đổng mây mờ
Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây
Hầm Hô cữ nước còn đầy
Còn gương phấn dũng còn ngày vinh quang.
Thì những trang lịch sử máu hòa son lâm ly bi tráng sao khỏi mở dần ra trước mắt và trước mắt sao cho khỏi:
Biển sâu thấp thoáng hồn Tinh Vệ
Trời biếc mơ màng đá Nữ Oa… [3]
Chú thích:
[1] Xương tợ giá: mượn ý câu cổ thi “Vị tử gian du cốt dĩ hàn” (Kẻ gian nịnh tuy chưa chết nhưng xương đã lạnh rồi).
[2] Suối Đá Dàng: ở tại Phú Lạc, quê Mai anh hùng.
[3] Tác giả câu này là người hiện đại. Tôi đọc trên báo, lâu ngày quên tên. Xin lỗi tác giả và độc giả.
36.B
Phong trào Cần Vương bị dẹp tắt, nền đô hộ Pháp đặt lên đất nước Việt Nam. Những kẻ xu thời thì chạy theo quân thù tìm vinh hoa. Những người ái quốc thì ôm lòng cô trung sống trong thâm khê bồng thất, và thỉnh thoảng nhìn non sông mà than dài: 
Mây mưa lợt đợt gió hiu hiu
Một tiếng tò loe ruột chín chiều!
Cây cỏ đòi nơi buồn dượi dượi
Non sông bốn mặt vắng thiu thiu.
Ải lang mờ mịt trời un khói [1]
Chằm nhạn lênh đênh nước tản bèo!
Ướm hỏi bao giờ bờ cõi cũ
Ngậm cơm vỗ bụng thấy trời Nghiêu. 
Đó là tiếng than đứt ruột của cụ Tây Sơn NGUYỄN KHUÊ.
Cụ tú người thôn Vân Sơn, quận An Nhơn, đậu ba khoa tú tài. Sau chán khoa cử vào Phú Yên dạy học. Lúc vãn niên trở về Bình Định, đến trú ngụ tại Phú Phong (Bình Khê).
Cụ rất sở trường về thơ Quốc âm. Thơ không phải nghĩ, hễ mở miệng là thành. Cho nên lúc nào làm cũng được, đề gì ngâm cũng được. Được nhiều người thuộc nhất là những bài: 
ÁO VÁ QUÀNG
Mặc ai tím tía mặc the hàng
Con mắt xiu vì áo vá quàng
Mới cũ rõ ràng in mật mực
Trước sau khăng khít lượt hai đàng
Tình chàng sánh với khi đằm thắm
Nghĩa thiếp nào quên lúc cũ càng
Giúp đỡ anh hùng cơn lỡ vận
Thân này chi bận chốn giàu sang.
VỊNH THU ĐỦ
Phải chăng chẳng phải tại hồi trồng
Cái đực bây giờ đủ cũng xong
Trên dưới chập chồng hoa lại nụ
Trước sau dải dóc trái cùng bông
Chả nem tuy chẳng bằng khi có
Nộm gỏi nào hay đỡ lúc không
Cái đã nên yêu thời vẫn phải
Đừng nên phụ đực mới là công. 
ĐÚC BÁNH XÈO
Mồi còn nhử được để chi meo
Cất quán xây lò đúc bánh xèo
Mặt phấn gây nên đôi nút rỗ
Lòng vàng xếp lại nửa vòng eo
Thơm quần dép bướm lần vào cửa
Béo quến dù dơi rủ xếp kèo
Lọ phải nường Văn chìm hũ thiếc
Vật này cũng đỡ khách quên nghèo. 
DỞ CÁI BÒ
Sớm mai thức dậy chấp tay co
Chạy thẳng ra sông dở cái bò
Quì gối mở dây môi tím ngắt
Khom lưng nhổ nọc dái đen mò
Tôm càng đập dập kho cùng cải
Cá chạch dần sơ nấu với ngò
Lếu láo miễn rằng qua cửa cổ
Không tiền ra chợ chẳng ai cho. 
Thời Tiền Chiến, ở hạt Bình Khê, những người có học và yêu văn chương, từ 20 tuổi trở lên, không mấy ai không thuộc hoặc không nghe truyền những bài ấy. Các vị phụ lão thích ngâm nhất bài CẢM THỜI trên kia và hai bài sau đây: 
CẢNH GIÀ
Già này cũng bởi lúc còn trai
Khóm róm bao giờ dám trách ai
Béo sợ ngây dầu không hảo mỡ
Chua e nhăn mặt chẳng thèm xoài
Mắt lờ chậm thấy ai ai mãi
Tai nặng lâu nghe hữ hữ hoài
Tuy vậy thấy già ai cũng ước
Sống mà vô ích sống chi dai. 
BẤT ĐẮT DĨ TÙNG TỤC
Ối, thôi thôi, ối ối thôi thôi
Bày biện làm chi lắm hỡi đời
Chè nhỏ mất công tìm chén bịt
Rượu ngon nhọc sức kiếm ve vòi
Thuốc hao giấy quyến thêm hao lửa
Trầu tốn cau dầy lại tốn vôi
Cãi chẳng tiện bề theo khó nỗi
Người răng ta cũng rứa cho rồi. 
Tất cả bài nào, lời thơ cũng như lời nói chuyện, bình dị tự nhiên. Mới nghe qua mới xem qua, tưởng ai cũng có thể làm được. Nhưng bắt chước làm thử, thì khó khăn như kết cánh bay theo bướm theo chim.
Bướm và chim chỉ vẫy cánh là bay. Tài làm thơ của cụ tú cũng dễ dàng lanh lẹ như bướm như chim vẫy cánh. Cho nên rầy học trò, mắng học trò, khuyên học trò, cụ dùng thơ thay lời nói: 
Chẳng học thời thôi học phải siêng
Đừng làm lếu láo uổng cơm tiền
Ngày thời tráo chác dong chơi mãi
Tối lại nghêu ngao chúi ngủ liền
Chẳng thuộc mượn hơi hùa đứng đám
Không thông nhận lớp nín ngồi riêng
Năm nào cũng rứa sao hay chữ
Chẳng học thời thôi học phải siêng. 
Hay:
Mơ màng trước mắt kiều lưng ngựa
Rổn rảng bên tai lạc cổ cầy
Cơm mấy mo cau ăn cũng hết
Chữ lưng lá mít đựng không đầy. Vân vân… 
Dạy con cháu trong nhà, cụ cũng dùng thơ: 
- Cà luột sồn sồn um chẳng thấm
Măng còn nhân nhẩn nấu sao ngon. 
- Rau lang bóp dập vừa chừng chín
Canh mướp sôi lâu bẫy hết ngon. 
- Mền gối sắp ngay khi thức dậy
Chiếu mùng giũ kỹ lúc vô nằm. 
- Cơm ăn miễn đặng thường ngon miệng
Áo mặc cầu cho đủ kín thân.  Vân vân… 
Thấy cụ làm thơ quá dễ dàng, bạn bằng thường ra đề và buộc cụ phải làm tịch thượng. Không khi nào cụ từ chối. Có một lần cụ cùng mấy ông bạn ngồi uống trà nơi chái tây. Một người đàn bà láng giềng vô ý ra tiểu nơi rào phía trước. Các bạn cười bảo:
- Con mẹ kia ra đề thi cho anh đó.
Cụ cười và đọc: 
Bốn phía trông chừng thấy chúng xa
Hay tay khẽ trụt bức quần là
Gành ngao thấp thoáng rêu mờ đá
Bãi hạc lao xao nước trỗ hoa
Kiến tưởng mưa dông tha trứng chạy
Cóc ngờ lụt ói cõng con ra
Cũng vì méo mó nên che đậy
Nắng giữ mưa gìn của mẹ cha. 
Một thầy đồ Nghệ nghe tiếng cụ hay thơ, dùng một đầu đề rất thô tục và hạn những vận rất khó, đưa đến thách cụ:
- Tàn một cây hương mà làm xong, dù hay dù dở cũng xin tôn làm thầy học.
Đề bài: L… lớn tày mo. Vận: to, mo, so, đo, bò.
Không chút phật ý, cụ ung dung lấy giấy bút viết: 
Tày cái bàn tay nghĩ đã to
Cái này cha chả lớn tày mo
Xấp ba lá chóc không bì kịp
Vạch một bồ đài mới xứng so
Tắm giếng hãi hồn con gánh nước
Lội sông mất vía gã chèo đò
Gái mà như thế ai thèm đoái
Lỏm lẻm dòm chơi họa có bò. 
Đề bài thì tục mà lời thơ rất thanh, và bài này cũng như bài trên, trạng luận thật không còn chỗ bắt bẻ.
Cụ vốn là người trong phong trào Cần Vương còn sống sót. Viên tri huyện Bình Khê thường tỏ ý kỳ thị:
- Sắt còn chưa làm được việc gì, huống hồ cứt sắt.
Cụ nghe được, làm một bài thơ VỊNH CỨT SẮT gởi đến cho huyện quan. Bài thơ tám câu, còn nhớ được cặp luận:
Ủi lầm sợ nỗi heo trầy mũi
Cạp lỡ e khi chó gãy răng. 
Thật là ăn miếng trả miếng, mà miếng trả cay đắng gấp trăm lần miếng ăn. Không ai ngờ rằng một nhà nho hiền lành chẳng mấy khi nặng lời với một đứa bé, mà đến khi bị kẻ quyền thế phạm đến danh dự thì phản ứng một cách cang cường một cách mãnh liệt như thế.
Cụ sống trên 70 tuổi. Lúc cụ ngọa bệnh con cháu xúm nhau săn sóc. Cụ cảm động tặng cho mỗi người, cả lớn lẫn nhỏ, một luật thơ. Và đến khi gần tắt thở, cụ nhìn mọi người, đọc một luật nữa. Đọc xong thì từ từ nhắm mắt. Còn nhớ câu kết rằng: 
Rắn rít chi hòng thay vỏ lại
Tình thương mặc ý khóc hu hi.
Thơ cụ làm rất nhiều - sống trên 70 tuổi mà ngày nào cũng có thơ thì không nhiều sao được - nhưng không chép thanh tập, nên bị thời gian vùi lấp e đến tám chín chục phần trăm. 
Cụ sanh hạ được bốn người con trai mà người nào cũng hay chữ nổi tiếng:
- Nguyễn Bá Huân.
- Nguyễn Trọng Trì.
- Nguyễn Thúc Mân.
- Nguyễn Quý Luân.
Người đương thời sánh gia đình cụ với gia đình Tô Lão Tuyền đời Tống, mặc dù hai bên có đôi điểm khác nhau:
- Họ Tô thì ba cha con, Tô Lão Tuyền, Tô Thức, Tô Triệt, đều đỗ tiến sĩ. Thêm Tô Lão lại có người con gái là Tô Tiểu Muội hay chữ không nhượng hai anh và có chồng là Tần Thiếu Du cũng đỗ trạng.
- Còn họ Nguyễn thì cả bốn cha con đều ứng nghĩa Cần Vương, lấy bút nghiên làm mâu làm thuẫn.
Trừ ông Nguyễn Thúc Mân không nghe có tác phẩm lưu truyền, ba ông Bá, Trọng, Quí đều có thi văn Quốc âm và Hán tự để lại, kẻ nhiều người ít. 
Các con ông đều học cụ Tú.
Trong bốn ông, ông NGUYỄN BÁ HUÂN hay chữ nhất.
Hay chữ nhưng lại coi thường khoa mục. Ông cùng ông Phạm Trường Phát ở Phù Cát nổi tiếng là cuồng chữ [2]. Khoa nào ông cũng đi thi. Nhưng không mang lều chiếu giấy bút mà chỉ mang theo một bầu rượu đầy ăm ắp. Vào thập đạo lãnh giấy bút làm văn. Hễ làm được một câu thì thưởng một chén rượu. Thưởng mãi thành say, không còn biết gì trời đất… Nhờ học trò cùng đi thi giúp đỡ và quan trường vị nể, nên khoa nào trở về cũng được bình yên. Có một khoa vì muốn cho tên ông ghi bảng, quan trường bảo lính lén đập vỡ bầu rượu. Ông tức mình, cáo bệnh bỏ thi. Từ ấy không thèm đến trường ốc nữa. 
Cuộc khởi nghĩa Cần Vương bị thất bại, ông uất hận thành điên. Ngày ngày thống ẩm cuồng ca. lắm đêm đội hương án ra gò, đốt nhang đèn, đọc văn tế điếu các bậc anh hùng nghĩa sĩ cổ kim vì nước bỏ mình. Một đêm tế Trần Quang Diệu, rồi uống rượu say, nhảy lên hương án nằm ngủ, bị cảm mạo thương hàn mà mất.
Năm 1929, sau khi đậu bằng cao đẳng tiểu học, được rảnh rang, lão đi lượm lặt được một ít thi ca của các danh sĩ tiền bối ở Bình Định. Trong số sưu tầm được có ba tác phẩm của ông Nguyễn Bá Huân:
- Trinh Phụ Khốc Phu Từ, dài một trăm câu song thất lục bát, văn chương trầm thống.
- Dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, làm theo thể lục bát, văn chương lưu loát, so với bài dịch của Phan Huy Thực không thú.
- Chê Gái Lấy Nài Chăn Voi, làm theo thể Đường luật. 
Những tài liệu tôi sưu tầm được đều bị thất lạc thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Chỉ còn nhớ bài Đường luật: 
CHÊ GÁI LẤY NÀI CHĂN VOI 
Thiếu chi ông cống với ông đồ
Ứng kẻ đầu voi ứ hự cô!
Thể tốn vườn xuân măng đã lắm
Khiến nên nhà hạnh ngọc trao cho
Hèn đành hẹn với duyên bành vố
Cao lại nhường chi mặt võng dù
Bởi thố đố cho nên khiến thế [3]
Thôi thôi còn trách nữa chi mô! 
Bài này ông làm lúc còn thanh xuân.
Nguyên trong thời Tự Đức Hàm Nghi, ở thành Bình Định có nuôi mấy con voi. Trong số voi này có một con to lớn và rất hung dữ, gọi là Thú Đú. Ai thấy cũng sợ. Sợ voi sợ cả tên nài chăn voi.
Lúc bấy giờ ở vùng Kim Châu gần thành Bình Định có một thầy đồ dạy học trò khá đông. Thầy có cô con gái có nhan sắc. Nhiều người học trò gấp ghé muốn làm rể thầy. Nhưng không hiểu vì sao thầy đồ lại đem con gái gả cho tên nài chăn voi! Các văn nhân hay tin rủ nhau làm thơ “phúng điếu”. Bài của ông Nguyễn Bá Huân được nhiều người hoan nghênh.
Bài này lời văn cổ kính. Khí thơ mạnh nhưng đằm. Câu trạng thích thực đầu đề thật sít sao, mà còn ngậm được cái ý “thầy đồ gả con gái”. Vế trên mượn ý trong câu ca dao:
Có con chẳng gả cho voi
Để voi lên xuống cuốn vòi bẻ măng.
Vế dưới lấy tích đức Khổng Tử đứng gả chồng cho đứa con gái góa. [4] 
Câu thứ bảy có thể nghĩ vì sợ oai tên nài chăn voi thú đú (thố đố) mà đành kết duyên cùng “bành vố”, hoặc vì thích vóc lớn sức mạnh của voi thú đú mà đem thân trao cho nài chăn voi.
Lời chê bai tuy nặng, nhưng không có ác ý. Đó không phải vì không rõ nguyên nhân của cuộc gả bán, mà chính vì không muốn đem những bí mật của người phơi bày ra giữa thập mục, mà chỉ nói đến những gì thiên hạ đều thấy rõ ràng. Nói để trêu ghẹo cho vui vậy thôi. Đó là do tác giả không phải người khinh bạc như phần đông các nhà thơ châm phúng.
Bài lục bát và bài song thất lục bát, văn chương đại để cũng như bài Đường luật, giọng trầm, lời tươi, ý đọng. Bút pháp của ông NGUYỄN BÁ HUÂN khác hẳn cụ Tú, mà cũng không giống hai ông em Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Quý Luân.
Chú thích: 
[1] Ải lang: ải sói, nơi có giặc giã. (Lang tái). 
Chằm nhạn: Nơi dân ở đông đúc. (Nhạn trạch).
Ngậm cơm vỗ bụng: do chữ Hàm bô cổ phúc, tả thái bình thời vua Nghiêu.
[2] Bình Định song cuồng: Xem Nước Non Bình Định và xem tiếp đoạn sau về Phạm Trường Phát.
[3] Thố đố: đọc trại tiếng thú đó. Voi thú đú: Kẻ thì bảo tên của con voi cầm bầy, người thì nói tên địa phương sanh ra giống voi to lớn ở vùng An Khê. Có người lại bảo voi lúc đến thời kỳ động cữ mập ra thêm gọi là thú đú.
[4] Nhà Hạnh: Hạnh đàn, chỗ nền nhà cũ của đức Khổng Tử.
36.C
Văn chương của cụ NGUYỄN TRỌNG TRÌ về bên Hán tự đã được  cụ Huỳnh Thúc Kháng ca tụng trong tập Thi Tù Tùng Thoại. Ở đây chỉ xin giới thiệu một ít thi ca Quốc âm.
Và trước khi nói đến văn chương, xin nói qua về thân thế của cụ.
Ở Bình Định các sỹ phu thường gọi cụ Nguyễn là cụ Nghè Vân Sơn chớ ít khi gọi tên. Đó là do lòng kính trọng bậc có tài có đức, có danh vọng cao.
Vân Sơn là tên làng của cụ.
Còn Nghè là tiếng tôn xưng những người được triều đình ban cho hàm Hàn Lâm viện. [1]
Cụ Vân Sơn được hàm Hàn Lâm là vì cụ đậu cử nhân và có xuất sĩ. Cụ làm tư vụ cơ mật dưới quyền Tôn Thất Thuyết. 
Tôn Thất Thuyết là người tàn bạo, những quan lại lớn nhỏ đều sợ khiếp vía. Nhất là các quan hành tẩu, thường gọi là ông Nghè, mỗi lần ôm trắp công văn đến hầu chữ, là mỗi lần khổ tâm. Phải chầu chực cả buổi mới được vào hầu. Lắm khi còn bị trách mắng thậm tệ! Cụ Vân Sơn cũng là một trong những vị quan bưng trắp đi hầu chữ. Nhưng được Tôn Thất Thuyết biệt đãi. Ông Thuyết biệt đãi cụ là vì cụ không sợ uy quyền, hễ thấy việc trái là nói, nghe lời trái là cãi, và ông Thuyết biết cụ là người có tài lại có tâm huyết. Ông Thuyết biết tài cụ từ khi cụ chưa vào ngạch quan lại.
Nguyên một hôm nhân trời mưa vua Tự Đức ra câu đối:
- Thủy trích bích tường sanh khổng tử. 
Nghĩa là: “Nước mái hiên nhỏ xuống thềm sanh những giọt nho nhỏ không đứng yên”. 
Đình thần không ai đối được.
Không đối được là vì chữ “Khổng tử” vừa là những giọt nước nhỏ không đứng yên, vừa là tên của đức Thầy muôn đời.
Lúc bấy giờ cụ Vân Sơn đương nằm nơi quán trọ chốn Thần Kinh để đợi bổ dụng. Nhân quen cùng người thân cận ông Thuyết nên biết được câu đối của nhà vua. Ngồi nhìn ra hồ sen trước quán, thấy lá biếc gió lay, cụ cao hứng đối ngay câu đối vừa nghe đọc:
- Phong xuy hà diệp kiến nhan uyên. 
Nghĩa là: “Gió thổi lá sen làm cho người trông thấy mặt ao”. “Nhan uyên” vừa là mặt ao vừa là tên một vị trong bảy mươi hai ông hiền môn đồ đức Khổng Tử.
Ai cũng khen là tài. 
Được một người có tài ở dưới quyền mình, ông Thuyết cũng rất lấy làm hãnh diện, cho nên đối với cụ Vân Sơn có phần kiêng nể yêu vì. Tuy thế cụ không cho là vinh. Cụ có bài thơ tự trào:
Tro mạc thương thay mấy chú nghè
Biểu đừng bớn tớn biểu đừng khoe
Ngày hai cơm quán ăn qua bữa
Tháng một lương vua lãnh lấy lề.
Chỉ thắm đeo bài trông cũng lịch
Trắp sơn hầu chữ gẫm mà ghê.
Chi bằng lơ láo quan trên quở
Cho nữa làm chơi chẳng nữa về.
Được ít lâu, kinh thành Huế thất thủ. Chê ông Thuyết là người ngu lỗ không đảm đương được việc lớn, cụ bỏ về Bình Định cùng anh hùng Mai Xuân Thưởng ứng nghĩa Cần Vương.
Nghĩa binh Cần Vương bị bại, các võ tướng đều tuẫn quốc. Cụ là văn quan được tha chết, về sống một cuộc đời ẩn dật lấy thơ rượu dạy học làm vui cùng ngày tàn.
Thơ Quốc âm cũng như thơ Hán tự của cụ còn truyền được nhiều. Vì cụ có nhiều học trò thành đạt. Mỗi người nhớ một ít, tích thiểu thành đa.
Văn chương Quốc âm của cụ rất thanh lão, như bài “Ông Nghè”. Cũng lắm bài hùng tráng. Như bài Vịnh Cây da, cặp trạng:
Chẳng cán tham thiên sao có một
Cũng tàn tuế nhật mới nên ba. 
Hoặc bài VỊNH CHỮ TRUNG:
Nghiêu Thuấn truyền nhau một chữ Trung
Xưa qua nay lại ngõ đi chung.
Lớn dường chưa thấy khuông trời đất
Gần thiệt từ nơi cuộc vợ chồng.
Thấp đến kẻ ngu không vói tới
Cao lên người trí cũng nào mong
Đã lòng mộ đạo thời nên gắng
Nghiêu Thuấn truyền nhau một chữ Trung. 
TRUNG đây là trung dung, là trung hòa.
Và bài này rút những điểm cốt yếu của chữ TRUNG để đúc thành thơ. Muốn hiểu thấu triệt ý nghĩa thì nên đọc Khổng Học Đăng của Phan Sào Nam và Nho Giáo của Trần Lệ Thần. Ở đây chỉ là Vườn Hoa Thơ chớ không phải Vườn Hoa Đạo, nên chỉ xin đưa ra những “điển” khó, để bạn đọc dễ nhận thức cái hay cái đẹp trong bài thơ mà thôi.
Trước hết xin nói qua về nghĩa chữ TRUNG:
TRUNG là chính đáng, cân bằng, không chếch lệch, không thái quá, không bất cập.
Đạo TRUNG rất khó theo. Để theo cho đúng, vua Nghiêu truyền cho vua Thuấn:
- Duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung.
Tức là dạy vua Thuấn phải giữ tâm mình cho tinh thuần và chuyên nhất thì mới có thể theo đúng được đạo Trung.
Rồi vua Thuấn truyền xuống cho vua Vũ:
- Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi; duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung.
Tức là vua Thuấn muốn cho vua Vũ hiểu rõ hơn, mới thêm vào đoạn đầu “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi” nghĩa là “tâm người thì nguy, tâm đạo thì vi” cho nên phải giữ tâm mình cho tinh thuần và chuyên chất thì mới giữ được đạo Trung.
Đó là “điển” dùng trong câu phá đề. 
Cặp trạng mượn ý trong sách Trung Dung:
- Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, cập kỳ chí giã sát hồ thiên địa. 
Phan Sào Nam giải thích câu này rất cặn kẽ, rằng: Bởi vì đạo của quân tử là chân lý sở dĩ có ra loài người, mà loài người sở dĩ sinh hoạt được mãi mãi cũng chỉ sinh hoạt ở trong vòng chân lý ấy. Nguyên lúc đầu sở dĩ có vũ trụ có loài người, chỉ vì nhất âm nhất dương tự nhiên hòa hiệp mà sanh ra trời đất muôn vật; gây mối cho đạo người thì bắt đầu chỉ một trai một gái thành vợ chồng mà sau mới có cha con anh em cho đến thảy cả loài người trong thế giới. (Tạo đoan hồ phu phụ). 
Chữ PHU là nói chung về phần trai. Chữ PHỤ là nói chung phần gái. PHU là nhất dương lử trong chữ ĐẠO. Kinh Dịch đã nói: “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo”. Cho nên nói “Phu phụ là mối tại ra đạo của quân tử”. Nhưng Đạo tuy tạo đoan ở nơi phu phụ, mà há phải chỉ phu phụ mà hết được công dụng của Đạo đâu. Do nơi phu phụ suy ra cho triệt để thì dầu thiệt cao cho đến tận trời, thiệt rộng cho khắp mặt đất, thì cũng chỉ là chân lý của nhất âm nhất dương, tràn trề rực rỡ, không biết bao giờ là cùng tận. Cho nên nói: “Cập kỳ chí giã sát hồ thiên địa”… Nói là “sát hồ thiên địa”, bởi vì thiên địa là phu phụ lớn, mà phu phụ tức là thiên địa nhỏ; người với trời đất chung nhau một chân lý tự nhiên mà thôi.
Lời giải thích của Sào Nam tiên sinh vừa làm sáng nghĩa câu sách, vừa làm rõ ý câu thơ. Mượn đem vào đây thật là nhất cữ lượng tiện. 
Câu luận bài thơ, tác giả mượn lời đức Khổng Tử:
- Đạo chi bất hành dã, ngã tri chi hỹ: Trí giả quá chi, ngu giả bất cập dã. 
Nghĩa là:
- Đạo Trung Dung sở dĩ không thi hành được, ta đã biết cớ vì sao. Đó là do loài người có hai hạng, một hạng tư chất cao trí thức rộng gọi là người trí, một hạng tư chất quá ư thấp trí thức quá ư hẹp gọi là kẻ ngu. Người Trí thường thường xu hướng cực đoan mà làm việc vượt qua trung dung; người Ngu thường mắc bệnh tự khí nên đến khi làm việc chẳng bao giờ theo kịp trung dung. 
Cặp trạng thích thực chữ TRUNG.
Cặp luận giải thích vì sao đạo TRUNG lại bất hành và ngầm khuyên kẻ học đạo chớ theo người Trí đi thái quá, cũng đừng theo người Ngu mà trở thành bất cập.
Dư ý của lời khuyên được cô đọng lại ở câu chuyển, để nhấn mạnh một lần nữa ý nghĩa và mức quan trọng của chữ TRUNG đã nói ở câu đề.
Chỉ vỏn vẹn tám câu thơ mà nói được Đạo TRUNG tương đối đầy đủ như thế, thì lòng phải thấm nhuần Đạo, bút phải sẵn sàng tài. Bằng không thì chỉ là kết quả của công trình “trói voi bỏ rọ”.
Bài VỊNH CHỮ TRUNG thuộc lối thơ tải Đạo mà các bậc túc nho thường dùng.
Bên cạnh những bài thơ đạo, cụ cũng có những bài thơ tình. Như:
GỞI NHẮN NGƯỜI TIỂU TINH
Nửa năm hơi tiếng mới làm quen
Hương lửa bao đành phụ tấc nguyền
Khắng khít nợ đà mang lấy nợ
Đèo bòng duyên cũng nặng vì duyên
Non xa tin nhắn nhàn khôn thấu
Nước thẳm thơ trông cá luống phiền
Tình có soi cùng hay chẳng nhẽ?
Mựa đem ai bạc trách ai đen.
Nguyên cụ đã lớn tuổi mà chưa có con trai, nên phải cưới tiểu tinh hầu mong khỏi mang câu bất hiếu. Nhưng về ăn ở được nửa năm thì đành phải kẻ Nam người Bắc, bởi vì bà chính thất không có lượng bao dung. Bài thượng dẫn là thư cụ gởi cho người cũ.
Chân tình chan chứa!
Đọc bài này sao khỏi liên tưởng đến câu “Gần thiệt từ nơi cuộc vợ chồng” trong bài VỊNH CHỮ TRUNG, à nhận thấy câu đó chẳng những chí lý mà còn hữu tình, chứng tỏ rằng tác giả không phải là người khô khan chỉ sống theo lý trí. 
Cụ là người giàu tình cảm và tuy tánh hiên ngang, lòng chánh trực, cụ thường bị tình cảm lôi cuốn. Ví dụ:
Một hôm cụ đi chợ Tết, mình mặc chiếc áo đoạn của một người học trò cũ may tặng. Tình cờ cụ gặp quả phụ của người bạn đồng chí. Hỏi thăm gia thế biết rằng mẹ con sống trong cảnh bần hàn, cụ liền cởi chiếc áo đoạn:
- Chị hãy đem bán đi để sắm chút đỉnh gì cho lũ cháu.
Bà quả phụ chưa kịp ngỏ lời, cụ bỏ áo vào rổ bà ta, rồi vội vã đi thẳng, lưng phơi trần vì không mặc áo lót. 
Thường thường cụ rất nghiêm, lắm khi nghiêm đến khắc! Những môn đồ, nhiều người đã có địa vị trong xã hội mà rủi có điều sơ xuất lọt vào tai mắt cụ, thì nhất định là bị quở trách nếu là lỗi nhẹ và bị đánh đòn nếu tội nặng. Một ông hương hào bị căng đánh trước sân đình Phú Phong vì ham chơi tài bàn, ba vị tân khoa bị căng đánh tại chợ Vân Sơn vì ham xem hát quên giữ lễ phép.
Nghe những chuyện ấy, nhiều người tưởng rằng không bao giờ cụ cười cợt bông đùa. Sự thật, cụ không hay câu nệ, và những khi không có điều bực tức trong lòng thì rất hiền từ vui vẻ. Để mua vui, cụ thường làm thơ châm phúng hài hước. Song vui đùa chừng mực, chớ không bao giờ đi đến chỗ khinh bạc như Tú Xuất Tú Xương. Xin trưng một bằng chứng: 
KHÔNG CHỒNG TRÔNG BÔNG LÔNG
(Dĩ đề vi vận) 
Lẽ thường ắt có cớ sao không?
Trong đục mơ màng khỏi nỗi chồng!
Gần ước tiện nơi xa cũng ước
Sớm trông gặp hội muộn càng trông
Thẹn thùng hiên nguyệt người chào bóng
Mong mỏi vườn xuân khách bẻ bông
Ướm hỏi thế tình hay chăng nhỉ?
Trông bông lông vậy nhớ bông lông. 
Những thơ Đường luật của cụ hầu hết văn chương đều tao nhã như các bài thượng dẫn.
Tôi được đọc một số bài làm theo thể lục bát, song thất lục bát, ca trù…, lời thơ cũng rất trôi chảy óng chuốt. Rất tiếc hiện không có trong tay để đưa ra cho bạn đọc đồng lãm.
Ngoài ra cụ còn để lại hai bổn tuồng hát bội là Lý Phụng Đình và Phụng Hoàng Anh. Về tuồng Lý Phụng Đình ở Bình Định có câu ca dao:
Bầu Đông đóng Lý Phụng Đình
Dù chồng có đánh thì mình cũng đi. (đi coi hát).
Chắc sự nghiệp văn chương của cụ Vân Sơn không bị thời gian và binh hỏa phá hoại. Vì cụ có con cháu nối nghiệp, nhất là các bà con gái, bà nào cũng biết làm thơ, như bà tú Năm ở Phú Phong là một. Nếu ra công sưu tầm hẳn sẽ gặp được nhiều vàng ngọc.
Chú thích:

[1] Ông Nghè: Ở ngoài Bắc những người đậu tiến sĩ mới gọi là ông Nghè. Còn ở Trung từ Huế trở vô, những người được hàm Hàn Lâm viện, dù chỉ biết vài ba chữ, cũng được gọi là ông Nghè. Các ông hành tẩu “trắp sơn hầu chữ” cũng thường gọi là “quan Nghè”.

Ở Bình Định “Nghè” do tiền bạc mà có, hoặc do công tác xã hội mà có, khá nhiều. Hiện nay vẫn còn có người lấy làm vinh, thường đem “chưng” nơi đám tiệc. Nhân đọc bài thơ của cụ Nghè Trì, một người nói: “Nghè thật mà kẻ trí thức còn cho là tro mạc, huống hồ nghè xin nghè mua”.
36.D
Không con cháu nối nghiệp là ông NGUYỄN QÚY LUÂN.
Tôi đã chứng kiến một cảnh thương tâm không sao quên được:
Năm 1929, như trên đã nói, tôi đi sưu tầm thơ Nôm Bình Định. Nghe tiếng thầy Bảy Phồn ở Phú Văn (thuộc làng Phú Phong, quận Bình Khê) [1] thuộc được nhiều thơ cũ, tôi tìm đến, và được đón tiếp ân cần. Thầy nói rất nhiều về NGUYỄN gia phụ tử và cho biết rằng thầy là học trò của ông Nguyễn Quý Luân. Sau khi đọc cho tôi chép một ít thơ của cụ tú Khuê, cụ nghè Trì, ông Nguyễn Bá Huân, thầy đọc cho nghe bài MẠ BẦN của ông Nguyễn Quý Luân mà thầy thích nhất:
Tám kiếp cha ông cái vận nghèo
Đã đi trốn nó nó còn theo
Vãi ba hột cải không thèm mọc
Trồng một dây bầu chẳng muốn leo
Bài xạo bát bồng lên cả cặp
Me tam chú khách mở ra yêu
Như vầy nghĩ thật đã vô vận
Tết nhất gần đây hết ngõ tiêu.
Thầy ngâm một cách thích thú, tiếng ngâm sang sảng.
Nhận thấy văn chương chất phác, tôi hỏi:
- Ông cụ chắc hiền lành lắm?
- Vâng, tuổi còn trẻ mà tánh tình thuần hậu như người sáu bảy mươi. Có lẽ vì vậy mà không thọ.
Thầy trầm ngâm giây lâu rồi nói tiếp:
- Thầy tôi tuyệt tự. Đệ tử hiện còn một mình tôi. Tôi đã tưởng thầy tôi không còn ai nhắc nhở đến khi tôi tạ thế. Không ngờ lại gặp cậu lo bảo tồn di sản tinh thần của tiền nhân. Tôi sung sướng quá! Thơ Nôm thơ chữ của thầy tôi, tôi chép thành tập có trên vài trăm bài. Để tôi lấy trao cho cậu.
Đoạn bắc thang leo lên lá mái lấy xuống một cuộn giấy gói thật kỹ trong một mo cau, bụi và váng nhện đóng đầy. Thầy trịnh trọng mở ra thì, than ôi! Giấy bị mối ăn nát hết!! Thầy bưng mặt khóc:
- Sao mà vô mệnh thế này! Con trên đời đã không có, chỉ có chút sự nghiệp lưu thế mà trời cũng nhẫn tâm làm tan nát thế này! Thật đau lòng quá!
Than rồi, đem mớ giấy tàn ra giữa sân, đốt hương khấn vái. Đoạn chân lửa đốt lấy tro bỏ lên đầu hàng rào dúi ở trước ngõ, và lau nước mắt than:
- Thế là hết!!
Tôi bị xúc động mạnh! Lòng yêu kính thầy học và quí trọng văn chương như thầy Bảy Phồn thật là hiếm! Tôi hỏi:
- Thầy có thuộc được nhiều chăng?
Thầy bệu bạo đáp:
- Làm gì thuộc được, vì nhiều quá. Thêm nữa thầy tôi mất lúc tôi mới hai mươi tuổi, nay đã gần ngũ tuần rồi, dù lúc nhỏ có thuộc, lúc này cũng quên. Bài thơ MẠ BẦN vì hợp cảnh hợp tình với tôi nên tôi mới nhớ kỹ.
Tôi toan hỏi, song chưa kịp hỏi vì sao lại để cho tập thơ bị mối ăn mà không biết, thì thầy nói tiếp dường như đón được ý tôi:
- Tôi cất quyển thơ của thầy tôi gần 30 năm này. Năm nào tôi cũng đem ra phơi. Hai năm nay trong nhà túng bấn quá, tâm trí dồn vào cả việc chạy ăn từng bữa nên quên lửng tập thơ! Rõ là “vạn tội bất như bần”!
Từ ấy hình ảnh của thầy bảy Phồn in sâu vào tâm khảm tôi và sự kiện kia làm cho tôi thêm quí trọng những di cảo của người trước. Hễ nghe được một bài thơ xưa dù không hay lắm tôi cũng chép lại với tấm lòng thành.
Cụ tú NGUYỄN KHUÊ và bốn ông con, “tình nghĩa” nửa thuộc Bình Khê nửa thuộc An Nhơn. Hoàn toàn An Nhơn thì có cụ NGUYỄN ĐỨC NHUẬN và cụ NGUYỄN ĐÔN PHỤC.
Cụ NGUYỄN ĐỨC NHUẬN, đậu tú tài, thân nho nhã mà lòng mang vũ trụ. Cụ ứng nghĩa Cần Vương và tuẫn quốc một lần cùng anh hùng Mai Xuân Thưởng.
Văn chương bặt thiệp. Nổi tiếng hay chữ từ lúc còn nhỏ. Nổi tiếng do một cuộc thi thơ của quan Tổng Đốc Bình Định dưới triều Tự Đức. Thi thơ Quốc âm, đề thi là “Gái lấy chồng già” và hạn: Từ Thứ vận, thượng cầm, hạ thú, nhất cú nhất vị được.
Quyển nạp hàng trăm. Bài cụ được chấm giải nhất:
Chim quyên bả đậu nhánh choi voi
Mang bạch đầu ông nõ mặn mòi
Phụng ước thung dung ăn trái trúc
Thỏ đâu cam toại ấp nhành còi
Liên kiều thước bắt so le nhịp
Sơn giác ngựa leo hụt chạc roi
Loan chạ từ cô đừng chuyện ấy
Kén lừa quân tử giá ngàn thoi.
Thật “điêu trùng tuyệt kỷ”. Quan Tổng Đốc thưởng một cây lụa đậu tư và hai nén bạc.
Đó là thơ buổi nhỏ còn sót lại. Tuy là thơ chơi, song vẫn ẩn chứa chí khí của kẻ làm trai: giữ vững tiết tháo, dù nghèo khó vẫn không chịu đem thân phục vụ cho kẻ có quyền thế mà thiếu thiên lương, cũng như người con gái thà chịu ế chồng chớ không thèm lấy người già cỗi.
Tương truyền thơ cụ làm nhiều. Song sau khi cụ bị cường quyền cho là giặc, thì không ai còn dám giữ dám đọc văn chương của cụ, thành ra bị mai một lần lần. Tôi chỉ nghe truyền được năm ba câu cụ làm lúc cùng Mai anh hùng chung lo việc nước: 
- Ngọn rau tấc đất nhờ ơn nước
Kiều ngựa thanh gươm trả nợ trai. 
- Mài nguyệt chi lo đầu sớm bạc,
Nhắp thù đã thấm mật càng ngon. 
- Biển chửa lấp bằng chim chửa nghỉ
Đường càng xa vút ngựa càng hăng. 
- Vó ngựa gập ghềnh mây ải nhạn
Hồn quyên não nuột gió đêm trăng. 
Đó là những mảnh lòng gởi vào thiên cổ. Rất tiếc không tìm được trọn luật và được nhiều câu, để cùng các bạn gần xa thưởng thức.
Cụ NGUYỄN ĐÔN PHỤC nổi tiếng về bài “Bằng Hữu Kim Ký” dùng toàn tục ngữ chép thành:
Người trong trời đất,
Học dõi thánh hiền.
Sang giàu đã có máy thiên,
Thương ghét mặt dù tình thế.
Cha nói ngang quan nói hiếp, hiếp ngang phận phải chìu lòn;
Cú rằng có vọ rằng không, không có công mô đội chối.
Đất đã đắp, đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao;
Đường dù đi, đi dốc tới nơi, nghìn dặm chi nài khó nhọc.
Có thân phải cóc, có vóc phải toan.
Đừng theo người múa gậy vườn hoang,
Chớ học kẻ trống qua cửa sấm.
Nghề tài trí xem còn chưa lắm, hát xay lúa múa lại tắt đèn;
Mỗi nhân duyên gẫm lại biết hèn, khóc hổ ngươi cười ra nước mắt... 
Bài dài đến trên trăm câu, đối chọi nhau rất chỉnh, và mạch lạc rất sít sao.
Mục đích sáng tác là để ngụ ý châm phúng các quan đầu tỉnh Bình Định, trong lúc cụ làm tri huyện Bình Khê. Nghe rằng cũng vì bài này mà quan Tỉnh kiếm chuyện làm cho cụ bị cách chức.
Lúc cụ ngồi tri huyện Bình Khê, thường nhóm bạn văn chương đến xướng họa.
Một hôm, nhân người nhà sắp làm thịt một con gà cồ để làm gỏi đánh chén, một ông bạn đề nghị làm một bài hịch lên án gà cồ trước rồi hạ sát sau. Một bài được ai nấy khen là xuất sắc: 
Tánh ưa bôi mặt,
Sao chẳng biết thân?
Thoát Mạnh Thường tài gã thấy đâu, chẳng qua là mô hồ tiếng khách nhân, nghìn thuở cũng khoe khoang công cứu nạn;
Khuông Đường thất mặt ngươi sao vắng, để đến nỗi lẫy lừng hơi Võ thị, bất nhiêu năm inh ỏi giọng tư thần!
Đức nghiệp gì đầu đội văn quan, trau chuốt xuê xoang hoài phấn nước;
Tài cán mấy chân đeo võ cự, lăm le bươi chải nát nhà dân!
Trời tạnh sáng chưa kêu, công báo biểu không xong một nỗi;
Mổng cối xay ăn quẩn, tội xẻ phay đã đáng mười phân. 
Cụ huyện Phục xem qua rồi cười:
- Các anh làm căn ưng nói lớn lối, mà nội dung rỗng như bồ trống!
Thấy các bạn chưa hiểu ý, cụ nói tiếp:
- Phàm lên án thì phải dựa luật. Những tội trạng nêu trong bài hịch kia phạm vào điều luật nào? Phạt vi cảnh còn chưa được huống hồ buộc đến tội “xẻ phay”.
Tác giả bài hịch thách:
- Thì quan lớn buộc tội xem.
Cụ liền đọc:
Mái chẳng chịu cũng lên lưng, coi sức nó đã ngang quá ghẹ;
Con có kêu thời mặc cẳng, sá chi mày mới ló đuôi tôm.
Và nói:
- Tội hiếp dâm và hiếp cô, mỗi ngày phạm không biết mấy trăm lần, rõ đáng khép tử tội. Không còn kêu ca vào đâu.
Ai nấy đều vỗ tay cười lớn:
- Thật là “đao bút”. [2]
Cụ NGUYỄN ĐÔN PHỤC có tài xuất khẩu thành thơ. Cụ có tài làm thơ từ lúc nhỏ.
Một hôm cùng các bạn đi học về, gặp một cô con gái nhà giàu trong một nơi vắng vẻ. Các bạn thách cụ làm thế nào bóp vú cô ả mà không bị đánh bị chửi. Cụ liền bước đến gần cô con gái, vừa đi vừa đọc:
Đã bấy nhiêu lâu gặp chị này
Lấy chi cho thỏa tấm lòng đây?
Kề vai đọ thử lưng cao thấp,
(vừa xích lại gần vừa đọc tiếp)
Xuống cánh rờ xem yếm mỏng dày. 
Miệng đọc tay làm theo miệng. Cô ả vì tai mắc nghe thơ nên trí không rảnh rang để phản ứng kịp thời. Cụ đọc tiếp:
Cũng đã thỏa tình trăng giỡn thỏ
Nhưng chưa phỉ chí nhạn trông mây.
Bên đường vắng vẻ không ai biết
Vuốt giận thôi thôi chị chớ ngầy.
Một lần nữa cụ thực hiện thuyết “ngôn hành hiệp nhất”.
Thật là mẫn tiệp!
Các học trò ngày xưa không biết tán gái, mà chỉ biết chọc gái. Bóp vú là một cách chọc. Gái bị chọc, thường “đáp từ” bằng những câu không mấy êm tai, lắm khi còn vào trường mắng vốn thầy là khác. Cho nên thơ “bóp vú” có những câu:
- Con cháu nâng niu đôi nấm đất
Ông cha lừng lẫy bốn phương trời. [3] 
- Tay ngọc nâng niu đôi chúa trẻ
Tiếng vàng sang sảng chín tầng cao. [4] 
- Quảng vắng dần lân tay đớp nhụy
Sân trường vun vút đít ăn mây. [5] 
- Ngực tròn chi lắm tay sanh ngứa
Miệng lấp không xong đít nổi vồng. 4 
Hai câu trên tả cảnh bị gái chửi. Hai câu dưới tả cảnh bị thầy đánh. Cụ huyện Phục tránh được cả hai nạn. Cho nên ai cũng khen là tài.
Tài nghệ lanh lẹ như cụ Nguyễn Đôn Phục thì nhất định sáng tác phải có nhiều. Nhưng vì chưa có người ra công sưu tầm, nên đành thưởng thức chừng nấy.
Chú thích:  
[1] Tên chữ là Trần Hoàng, nhưng tên này ít người biết. Tên tộc là Bích, còn Phồn là tên con. (Ở Bình Định thường lấy tên đứa con đầu lòng mà gọi cha mẹ).
[2] Ý nói bỡn: “Bút bén như đao” tức là giết người bằng bút.
[3] Thơ của Phan Sào Nam.
[4] Thơ của Trương Đăng Quế.  (Đã nói ở chương thi sấm).
[5] và 4 Thơ của nhân sĩ Bình Khê (không biết tên) do cụ Chuyết Nhân Nguyễn Dật đọc cho nghe.
Tiếng Bình Định đọc những chữ có G và không G như nhau nên chữ Vắng lầm với chữ Vắn, nên Trường đối với Vắng (Vắn) quí cụ thích thú lắm: Đối tiếng tức bạch đối.
Chữ Miệng lấp cũng có vị; vừa mượn chữ trong câu tục “cả vú lấp miệng em” vừa thủ nghĩa không làm cho cô gái mạnh miệng được.
36.E
Ở An Nhơn còn một vị túc nho, đối với hai cụ Nguyễn thuộc hàng hậu bối, nổi tiếng về Quốc âm mà sĩ phu trong tỉnh Bình Định không ai không kính mộ. Đó là thầy cử HUỲNH BÁ VĂN. 
Thầy Huỳnh con cụ cử Huỳnh Lý, người làng Thạnh Danh. Đậu tú tài lúc 18 tuổi, khoa Quí Mão, năm Thành Thái thứ 15 (1903), khoa sau tức khoa Bính Ngọ, năm Thành Thái thứ 18 (1906), đậu cử nhân. Đi thi hội hai khoa, không đậu, ở nhà làm thuốc.
Thầy cử Huỳnh Bá Văn sở trường về Văn Tế. Hạ bút thành văn, không cần sửa chữa, nhưng tế người nào thì những đức tánh buổi bình sinh của người ấy đều lột được đầy đủ.
Tánh tình của thầy thì điềm đạm trầm mặc, nhưng văn chương lại ngấm ngầm vị chua chát mỉa mai. Nhiều bài, lời lẽ lại có phần gay gắt, độc địa.
Được truyền tụng nhất là những bài có giọng châm phúng, hý lộng. Như văn tế con chuột sập bẩy chết, văn tế con có chết, văn tế cô bán nước mắm chết đàng, vân vân…
Xin trích đôi câu làm mẫu:
- Văn tế chuột:
Nhớ linh xưa:
Mắt tỏ làu làu,
Da đen trạy trạy.
Lúc nhúc những xù những xạ, tuy khác hình hài,
Nhộn nhàng rằng lắc rằng sành, vẫn trong nòi nảy.
Mở mặt cũng râu mày với thế, xoi thềm khoét lẫm ngập lòng tham;
Mập mình nhờ máu mỡ nhà dân, núp kín leo cao nhiều chước quỷ.
Ức chi đó phòng gây sự hiện, lăng nhăng vì chữ vô nha;
Lớn chừng mô mà phải kêu ông, kiêng nể vì câu hữu xỉ...
- Văn tế cóc:
Nhớ cóc xưa:
Đôi mắt lõ vờ,
Bộ lưng tròn trúc.
Bình rỉnh bụng dường bụng ếch, màn trời không nằm giếng ngó dòm;
Nhám sì da tựa da voi, chiếu đất sẵn trải thềm lăn lóc...
Cóc đi đâu bỏ hiu chiu chít cho nên nỗi hiu đứng hiu than!
Cóc đi đâu bỏ nhái mồ côi cho nên nỗi nhái ngồi nhái khóc!
Xuống xóm dưới đêm không nghe tiếng, nghe chăng những tiếng ễnh ương;
Lên làng trên ngày chẳng thấy hình, thấy chỉ thấy những hình óc nóc!...
Phận an phận không hề đi guốc, ai khéo bày ra chuyện trớ trêu?!
Thân thử thân há dám leo thang, ai nỡ đặt chi lời ghẻ chóc?!...
Những bài văn tế như trên làm ra để ám chỉ những nhân vật có quyền có thế nhưng bất liêm bất chính hay vô học vô tài… ở trong tỉnh. Đó là giá một nơi đánh một ngả. Kẻ bị châm chích dà căm gan cũng phải nuốt giận, chớ không thể cùng quyền thế sẵn có để trả thù. 
Người Bình Định, phần đông đều có tánh thích hài hước, châm biếm. Trên môi thường chực sẵn một nụ cười mim mỉm, một câu nói vui vui hoặc cay cay…, trong bụng thường chứa sẵn một câu chuyện tiếu lâm làm cho người đương buồn đương giận cũng phải bật cười, hoặc làm cho giật mình những người có tật… Bởi vậy hầu hết các nhà văn nhà thơ Bình Định, kẻ ít người nhiều, ai cũng mang tánh chất địa phương của nghìn xưa để lại. 
Các cụ ngày xưa có tiếng nghiêm nghị, thỉnh thoảng cũng để lộ tánh hý lộng tự nhiên. Cụ nghè Nguyễn Trọng Trì còn để lại bài văn “Bà Xã tế ông Xã” có thể dùng làm bài thuốc trị bệnh tham nhũng hiện thời: 
Ôi thôi!
Ba tấc lưỡi còn khua, dáo dác đầu ruồi sự nghiệp;
Một phút hơi vắng thở, bơ vơ sừng ếch công danh...
Nhớ lương nhân xưa:
Điêu ngoa thật giỏi,
Mưu sự đều lanh.
Hăm dọa thôn dân phách lạc,
Nhác hù kiêu ngụ đều kinh...
Ối, thôi thôi!
Đãy tư nang miệng thắt lại rồi, ngày tựa cửa buồn thôi sáu khắc;
Thước trường đạc tay không đo nữa, đêm giũ màn lụy ứa năm canh!
Thương là thương: Ngân thuế phù thâu, cha đem về cho con đứa lớn đứa nhỏ, mà nay cha bỏ con thơ chiu chít chốn trần hoàn, diêu vọng Hành sơn vân sắc ám!
Tiếc là tiếc: phì điền bao chiếm, chàng dành riêng cho vợ mẫu chín mẫu mười, mà nay chàng bỏ vợ dại bơ vơ nơi dương thế, diêu chiêm Tương thủy trúc ba sanh!
Hay chàng ăn của dân của xã đã nhiều, sợ ngày sau trầm nơi khổ hải, nên dục độ thác cửu, qua Tây phương cùng Thích Già Di Lặc tụng kinh, nay núi Thứu mai vườn Tỳ, ngỏ khoái lạc ẩn thân Thiên Trúc;
Hay chàng ăn của miếu của đình chi đã lắm, sợ ngày sau sa chốn mê xuyên, nên pháp ngoại di gian, sang Bồng Đảo cùng Thiết Quày Đồng Tân uống rượu, sớm non Thần tối biển Thánh, ngỏ tiêu diêu tá diện Châu dinh...
Cụ nghè Nguyễn Trọng Trì là một tay cự phách của Bình Định. Tác phẩm của cụ đều được sĩ phu đương thời thán phục. Bài văn tế trên đây rất được truyền tụng. Song văn chương khúc mắc chớ không được nhẹ nhàng trôi chảy như văn chương thầy cử Huỳnh Bá Văn. Cho nên mặc dù cụ nghè là bậc tiền bối, cụ vẫn khen ngợi cụ cử là bậc tài ba.
Phần đông các cụ khác trong tỉnh cũng thế.
Cho nên thường thường ở Bình Khê, An Nhơn, Tuy Phước, hễ có cuộc tế lễ long trọng, đều mời thầy cử Huỳnh Bá Văn đến soạn văn tế, mặc dù trong địa phương có người rành nghề. Như lễ Phần huỳnh của cụ Đào Tấn ở Vịnh Thạnh, tất cả các bài chúc văn đều do một tay thầy cử soạn.
Vì vầy nên văn tế của thầy làm ra rất nhiều, song không biên chép lại, nên hiện không còn được mấy lăm!
Thầy mới mất năm 1934.
Lúc nhỏ tôi nghe lóm được một giai thoại về thầy.
Tánh thầy vốn điềm đạm trầm mặc, như trên đã nói. Nhưng trong văn chương, nếu xem cho kỹ, vẫn đều có ớt có chanh, hoặc ít hoặc nhiều, khi kín khi hở, chớ rất ít bài hoàn toàn ngọt ngon.
Để trêu tức chơi, một người quen ở Bình Khê nói:
- Thầy Cử vừa làm thuốc hay, vừa làm văn tế có tài, thật là nhất cử lưỡng tiện. Nếu giỏi về địa lý nữa thì thân chủ được nhờ biết bao nhiều.
Thầy cười:
- Vì chơi dao nên bị đứt tay! Nhưng ông cũng nên cẩn thận kẻo có ngày uống vào chỗ mẻ đó.
Ai đã từng nghe chuyện tiếu lâm thì thấy rõ ẩn ý trong hai lời nói. Kể cũng ký thú.
Văn tế có tài, chắc thơ cũng bặt thiệp. Nhưng trong sách Danh Nhân Bình Định không thấy chép bài nào, mà ngoài nhân gian cũng không nghe ai đọc. Trong tỉnh Bình Định, hễ nói đến thầy cử Huỳnh Bá Văn, thì ai nấy cũng đều nhắc đến văn tế.
36.G
Ở Bình Khê và An Nhơn còn nhiều nhà Nho học có danh, song không thấy văn thơ truyền tụng.
Có văn chương truyền tụng và nổi danh nhất ở Tuy Phước là cụ NGUYỄN DIÊU và cụ ĐÀO TẤN.
Cụ NGUYỄN DIÊU tự là Quỳnh Phủ người làng Nhơn Ân, đậu tú tài, người Bình Định thường gọi là cụ tú Nhơn Ân.
Thời Tự Đức ở Bình Khê, An Nhơn, Tuy Phước có tám nhân vật mà ai cũng biết tiếng, gọi là “Bát danh tam huyện” gồm có bốn nhà phú hộ là Bình, Danh, Hanh, Huệ, và bốn nhà văn học là Đằng, Diêu, Trinh, Hiển. [1]
Cụ tú Nhơn Ân đứng vào hàng thứ nhì trong bốn nhà văn học nổi tiếng.
Thế mà suốt đời đi thi chỉ đậu tú tài!
Tuy chỉ đậu tú tài, song danh sĩ trong ba huyện, phần đông là môn sinh của cụ. Nhiều người thành đạt như cụ Đào Tấn là một.
Cụ đã hay chữ lại giỏi Nôm.
Cụ có bổn tuồng NGŨ HỔ BÌNH TÂY văn hay, dựng lớp khéo. Cụ Đào Tấn dâng lên vua Tự Đức. Nhà vua khen là văn chương thanh lệ. Nhờ bổn tuồng Ngũ Hổ và lời tâu của cụ Đào mà vua Tự Đức biết rõ được tài năng cùng cảnh lận đận nơi trường ốc của cụ tú Nhơn Ân. Nhà vua thương tình đặc cách cho cụ được thi Hội. Song lúc bấy giờ cụ đã già yếu, không thể lai Kinh. Để đền ơn vua, cụ soạn một bổn tuồng thứ hai là tuồng LIỄU ĐỐ nhờ cụ Đào Tấn dâng ngự lãm.
Tuồng Liễu Đố văn chương trác luyện, song xem thì hay, mà đem ra diễn không hấp dẫn. Cho nên nơi kịch trường chỉ thường dùng bổn Ngũ Hổ Bình Tây. 
Truyền rằng cụ Nhơn Ân bị lụy khoa là do quả báo:
Lúc nhỏ đi học, cụ tư tình cùng người con gái nhà trọ. Hai bên đã nặng lời nguyền và đối với nhau “non vợ chồng, già nhân ngãi”. Nhưng sau khi đậu tú tài thì có người kêu gả con. Bà thân sinh ép phải ưng thuận. Vì hiếu cụ phải cắn răng phụ tình. Người con gái hay tin liền nhảy xuống giếng tự tử. Nàng đã có mang mấy tháng, và khi người nhà hay thì sự đã lỡ rồi!
Sau cụ đi thi nữa. Mỗi khi cụ vào trường thì thấy một người đàn bà bồng con, mặt mày tiều tụy, đứng nhìn cụ giây lâu rồi biến mất. Cụ khiếp vía, tay run lòng rối. Nếu không phạm trường quy thì làm vấy mực vào quyển. Khoa nào cũng thế nên mãi đến lúc đầu bạc mà vẫn giữ chân tú tài.
Cụ không buồn về nỗi công danh lận đận, mà rất buồn về cuộc tình duyên dở dang. Tam sự ấy dụ đem ký thác vào tuồng Ngũ Hổ. 
Lớp Địch Thanh vì nghe tin mẹ bị Bàng Hồng sàm tấu, nhà vua bắt hạ ngục, phải bỏ Trại Ba Công Chúa để đi bình Liêu trong lúc công chúa đương có mang, là hoàn cảnh đau thương của tác giả được hóa trang. Những câu than của Trại Ba Công Chúa khi Địch Thanh trốn đi:
Tâm khổ hỹ! Tâm khổ hỹ! Lụy nan càn! Lụy nan càn!
Nỡ phụ thề lục thủy thanh san,
Mà tách dặm thiên nhai hải giác!
Bạc nên quá bạc! Chồng hỡi là chồng!
Rượu giao hoan mùi đã mặn nồng,
Tình phân ngoại cớ sao lạt lẽo?!
Chim ven trời chừ đành đoạn cao xa!
Vô duyên thay chút phận đàn bà!
Bạc tình bấy hỡi người quân tử?!... [2]
Thà đó đành phụ ngãi, đây há dám vong tình.
Giục vó lừa phỉ dặm non xanh,
Cắp bảo kiếm dò lần dặm tía.
(C.C. hát nam): - Bảo kiếm dò lần dặm tía
Nguyện theo chồng trọn nghĩa tòng phu
(Thế nữ hát tiếp): - Nghĩ thầy tớ cũng thêm sầu
Chim kêu ngao ngán hà châu một mình.
(C. Chúa): - Hữu tình mà hóa vô tình,
Bơ vơ thân thiếp linh đinh nỗi chàng!
(Thế nữ): - Non xanh nước biếc muôn trùng
Người quen cảnh lạ thẹn thùng với ai!
(C. Chúa): - Cang thường một gánh hai vai
Cũng nguyền sông giải non mài mà thôi. [3] 
Đó là tác giả mượn Công Chúa Trại Ba thay lời người yêu để trách mình phụ bạc, và đề cao lòng trinh tiết của người yêu.
Và những lời than của Địch Thanh cùng Công Chúa khi Công Chúa đã bằng lòng để cho Địch Thanh lên đường:
(Công Chúa):  Nếu cầm chân nguyên soái,
Khó che miệng thế gian.
Cắn răng mà ngậm chữ đoạn trường,
Nhắm mắt lại chờ ngày tái hợp... 
Chưa lạt rượu giao hoan một chén
Đã xem hình vĩnh biệt ngàn trùng!
Khó theo chân tảo tặc nguyên nhung,
Xin soi dạ tư phu thục nữ.
(Nam): Soi dạ tư phu thục nữ,
Đoạn thâm tình khứ khứ lưu lưu!
(Địch Thanh): - Ruột dường dao cắt chín chiều
Sương bay trước mặt gió hiu bên đàng.
(Công Chúa): - Cái duyên Chức nữ Ngưu lang
Cầu ô mới bắt lại toan dứt cầu!
(Địch Thanh): - Dùng dằng nghĩa trước tình sau
Dây phiền đó buộc chuỗi sầu đây mang.
(ĐTCC): - Dứt tình một khúc Dương quan
Tây Liêu anh tới, Đơn Bang em về…
Đó là những tiếng đoạn trường của cụ Tú mà gió mưa không thể nào làm phai lạt nổi. 
Xem đó đủ biết rằng câu chuyện “phụ tình vì hiếu” là chuyện có thiệt. Còn chuyện quả báo thì u u minh minh không dám tin hẳn cũng không dám ngờ hẳn.
Và chỉ đọc qua mấy đoạn văn thượng dẫn, cũng đủ thấy rõ thi tài của cụ Nhơn Ân. Bút pháp đã lên đế chỗ tinh diệu. Tình cảnh riêng của mình gói ghém trong lời văn câu thơ một cách khéo léo. Người đọc nếu không để ý thì không thấy được những chỗ dụng công. Như câu:
Cắn răng mà ngậm chữ đoạn trường
Nhắm mắt lại chờ ngày tái hợp. 
Những chữ “ngậm chữ đoạn trường”, “nhắm mắt lại” ngụ ý nói đến cái chết của người yêu, chết một cách đau đớn, chết nhưng vẫn còn mong “tái hợp” ở kiếp sau, ở nơi chín suối.
Tình của cụ đối với người bạc mệnh bên ngoài thì là bạc mà bên trong thì thâm hậu vô cùng. Câu:
Cang thường một gánh hai vai
Cũng nguyên sông giải non mài mà thôi.
là tâm chí của người yêu mà cũng là tâm chí của tác giả. 
Khuất Nguyên không bị đày ra Tràng Sa, thì đâu có Ly Tao để nối Kinh Thi, Tư Mã Thiên không bị thiến thì đâu có bộ Sử Ký làm rạng rỡ nền văn học Trung Hoa. Cụ tú Nhơn Ân nếu không có mối tình đau đớn, thì chắc chi đã có tuồng Ngũ Hổ Bình Tây, mà dù có đi nữa chắc chi văn chương đã thâm trầm và có sức truyền cảm như thế.
Âu Dương Tu nói:
- Cái giũ cùng tắc giũ công. 
Nghĩa là “Đời càng khốn cùng thì thơ càng hay”.
Là vậy đó. 
Nhưng Âu công lại nói:
- Nhiên tắc phi thi chi năng cùng nhân, đãi cùng giả nhi hậu công dã. 
Nghĩa là: “Không phải thơ làm cho người ta cùng khốn, mà chính vì có cùng khốn rồi mới thơ hay”.
Cho nên cái rủi trong đời tình ái của cụ tú Nhơn Ân trở thành cái may cho đời văn chương của cụ.
Và trong đời văn chương xưa cũng như nay, tình giai nhân là phân là nước bón cho vườn hoa thơ thêm sắc thêm hương.
Riêng tiếc không biết được danh hiệu người tình của cụ tú để ghi lại làm gương.
Văn nghiệp của cụ, ngoài hai bổn tuồng tuyệt tác, còn rải rác một ít thơ chữ Hán và thơ Quốc âm.
Thơ chữ Hán của cụ, văn chương tao nhã, thanh điệu phảng phất thơ đời Đường:
Cố quốc bồi hồi thiên lý nguyệt [4]
Cựu gia trù trướng ngũ canh kê. 
Nghĩa là:
Nợ nước trăng soi sầu vạn dặm
Tình nhà gà giục lệ năm canh.
Nhưng thơ Quốc âm của cụ phần nhiều chất thắng văn: 
CHÁN ĐỜI
Ra cửa phăng phăng bước ngoạn du
Lạnh lùng đôi mắt nhắm công hầu
Văn hay chẳng khỏi mồ xanh cỏ
Võ giỏi rồi ra tóc bạc đầu
Hoa lác đác rơi oanh giận gió
Cúc le the nở nhạn hờn thu
Chùa chiền vui thú đời thanh tịnh
Lọ phải trông mong vạn hộ hầu. 
So với văn tuồng và thơ chữ Hán thật kém xa. Do đó mà không phổ biến được rộng. Duy có một bài mà đời nay cũng như đời trước, ai đọc cũng phải thích, vì thời nào cũng có bọn hút máu mỡ dân và thời nào người ta cũng ghét bọn tham nhũng. Văn chương lại khinh khoái lưu lợi. Đó là bài: 
CON MUỖI
Muỗi hỡi muỗi ơi sướng đủ điều
Còn chi chi nữa hỡi còn kêu
Lầu son gác tía ngày qua lại
Má ngọc da ngà thú ấp yêu
Béo miệng nào thương con trẻ dại
Cành hông chi sá lũ dân nghèo
Trong tay mà có ba tiêu phiến
Xử tội nhà ngươi quyết chẳng nhiêu.
Nói tóm lại, cụ tú Nguyễn Diêu sở trường về tuồng hát bội. Và chính tuồng hát bội làm cho tinh thần cụ bất tử, làm cho danh Bình Định thêm thơ.
Chú thích:  
[1] Bốn nhà phú hộ: Bá Bình ở Thuận Nghĩa, Thiên hộ Danh ở Mỹ Đức, Bá hộ Hanh ở An Vinh, tục gọ là ông Dinh Điền, Bá Huệ ở Tri Thiện.
Bốn nhà hay chữ: Cụ tú Đằng ở Tri Thiện, cụ tú Diêu ở Nhơn Ân, cụ cử Trinh ở Vinh Thạnh, ông phủ Hiển ở Phụng Sơn.
Bình Khê, An Nhơn, Tuy Phước là địa phận cũ của huyện Tuy Viễn đời Lê. Đến đời Nguyễn mới chia huyện cũ ra làm ba huyện (cho nên con sông Côn xưa gọi là sông Ba Huyện), sau mới đổi An Nhơn, Tuy Phước làm phủ. Thời Việt Minh đổi lại thành huyện tất cả. Nay tất cả đều gọi quận. Tên đất thay đổi, lòng người có thay đổi về sắc thái còn tánh chất thì còn như xưa. Điều này thấy rõ nơi văn chương.
[2] Tác giả mượn lời Trại Ba công chúa để tự trách mình.
[3] Sông giải non mài: Sông cạn nhỏ lại như chiếc giải áo, núi mòn nhỏ lại như hòn đá mài dao. Do chữ “Hoàng hà như đái, Thái sơn như lệ” trong lời thề của quần thần nhà Hán thề hết lòng trung với vua mà ra.
[4] Có chỗ chép là: “Thiên lý nhạn”
36.H
Cụ ĐÀO TẤN là người Vinh Thạnh, thụ nghiệp cùng cụ tú Nhơn Ân.
Đậu cử nhân năm 23 tuổi, cụ làm quan trải ba triều Tự Đức, Đồng Khánh và Thành Thái, lên đến chức Thượng Thư và được phong tử tước.
Tuy chỉ đậu cử nhân, nhưng các bậc đại khoa đều phục cụ là người tài cao học rộng.
Sự nghiệp văn chương của cụ thật vĩ đại.
Về bên Hán văn cụ còn truyền lại tập Mộng Mai Ngâm Thảo gồm trên ba trăm bài.
Về bên Quốc âm thì còn truyền những bổn tuồng hát bội:

- Trầm Hương Các

- Hộ Sanh Đàn

- Cổ Thành

Sáng tác triều Thành Thái

- Vạn Bửu Trình Tường

- Quần Trân Hiến Thụy

- Tứ Quốc Lai Vương

- Tam Bảo Thái Giám

- Bình Địch

- Đảng Khấu

Soạn dưới triều Tự Đức theo lệnh nhà vua

- Diễn Võ Đình

- Hoàng Cổn

- Cổ Thành

- Tân Dã

Sáng tác trước và sau lúc làm quan.

Trong các tuồng, tuồng Vạn Bửu vĩ đại nhất và công phu nhất. Bộ này cụ soạn chung cùng cụ Vũ Đình Phương và cụ Ngô Quý Đồng, soạn ròng rã mấy năm tròn mới xong. Cụ Vũ và cụ Ngô chỉ soạn vài ba đoạn và nhuận sắc một đôi chỗ. Kỳ dư đều do ngòi bút của cụ Đào thảo. Vua Tự Đức khuyên chuỗi và phê “Thần hồ kỳ hỹ” ý khen văn chương như thần. Bổn Vạn Bửu cũng như năm bổn soạn theo lệnh vua Tự Đức, chỉ trong Triều và các nhà quan Đại thần mới có. 
Còn các bổn tuồng khác thì rất phổ biến trong làng ca kịch cổ điển.
Ngoài những bổn tuồng sáng tác, cụ còn nhuận sắc nhiều bổn tuồng xưa:
- Tuồng Tam Nữ Đồ Vương, cụ sửa đoạn đầu và sửa tên sách là Khuê Các Anh Hùng.
- Tuồng Phi Hổ, sửa đoạn Phi Hổ nằm miếu.
- Tuồng San Hậu, sửa đoạn Hồn Linh Tá đưa Kim Lân qua ải và đoạn đổi chị đổi mẹ.
- Tuồng Nguyệt Cô hóa cáo.
- Tuồng Phi Phụng. 
Có người hỏi cụ sao không sửa toàn tập mà chỉ sửa một đôi đoạn mà thôi. Cụ cười đáp:
- Trong bữa ăn rau mắm, thỉnh thoảng ăn thêm một vài ba miếng thịt mới thật ngon.
Cụ Đào chẳng những có tài soạn tuồng, mà các điệu bộ bài bản cụ đều tinh thông. Triều Tự Đức trong Nội có đội Thanh Bình Vũ Ca đào tạo đào kép để hát chầu nhà vua. Cụ Đào được đội Vũ Ca này tôn xưng là bậc thầy. 
Truyền rằng:
Một hôm một ca công nổi danh ở Bình Định là Bát Phàn làm Trụ Vương hát câu:
Gió hương thổi lọt hoàng bào
Kiều mai tuyết điểm động đào mây giăng.
Cụ khen giọng hay điệu bộ khéo, những cảnh gió hương thổi lọt hoàng bào và động đào mây giăng, diễn tả tài tình, duy chưa lột được cái thần của tuyết điểm cầu hoa mai.
Bát Phàn bẩm:
- Con chưa hề thấy tuyết thì làm sao diễn tả nổi.
Cụ đáp:
- Tuyết thì lạnh. Giọng và điệu phải làm sao cho người nghe cảm thấy hơi lạnh xông vào mình, tức là đạt được ý của câu tuồng.
Bát Phàn thỉnh giảo. Cụ bỏ roi chầu, bước lên sân khấu, cất giọng ra bộ một cách tự nhiên… Bát Phàn sụp xuống lạy:
- Thật lạnh xương sống! Nay con học thêm được một điều mới lạ. Vạn cảm. 
Nghệ thuật hát bội phát xuất từ Lộc Khê Hầu đến cụ Đào là tuyệt đỉnh. Cho nên bạn hát bội suy tôn Lộc Khê Hầu ĐÀO DUY TỪ là tiền hiền và cụ ĐÀO TẤN là hậu hiền.
Cụ Đào Tấn hay tuồng cũng như hay chữ là nhờ cụ tú Nhơn Ân. Cho nên đối với thầy từ khi còn cặp sách đến lúc đã làm quan to, khi thầy còn tại thế cũng như lúc thầy đã từ trần, cụ luôn luôn giữ trọn lòng kính trọng.
Trong tuồng Ngũ Hổ Bình Tây về lớp Trại Ba Công Chúa chạy theo níu không cho Địch Thanh trốn thoát đi đánh Tây Liêu có một chỗ cụ tú sơ ý. Đó là đoạn tới biên ải, Công Chúa truyền tướng giữ ải là Cáp Man đóng chặt cửa ải đừng để Địch Thanh qua. Thế mà khi đã bằng lòng cho Địch Thanh đi, lại không truyền Cáp Man mở cửa, chỉ than vãn với nhau rồi chia tay:
Dứt tình một khúc Dương quan
Tây Liêu anh tới, Đơn bang em về. 
Cụ Đào định trình lên cụ tú để cụ sửa lại cho ổn. Nhưng chưa kịp thì cụ tứ tạ thế. Để y cũ thì bổn tuồng là một viên ngọc liên thành có vết, còn tự ý sửa lại thất lễ với thầy. Mãi về sau khi đã về vườn rồi, cụ mới mua một con heo và sắm lễ vật đến nhà thầy, làm cỗ bàn cúng lạy, xin cho phép “mở cửa ải để đưa Địch Thanh lên đường”. Lễ xong thêm vào bản cảo, ngay sau câu “Dây phiền đó buộc chuỗi sầu đây mang” [1] và trước câu “Dứt tình một khúc Dương quan”, một đoạn ngắn: 
(Công Chúa): - Bớ Cáp Man, truyền Cáp Man mở ải, đặng đưa nguyên soái lên đàng.
Phu nhân ơi! Song lụy san san, thốn tâm cảnh cảnh! Hồn ly biệt dường mê dường tỉnh, đoạn ân tình khó dứt khó chia! Nơi Tây Liêu hiểm ác sơn khê, (Còn) Tinh La Hải cao cường pháp thuật. Sợ khó nỗi bêu đầu ác tặc (Mẹ mẹ ợi!) Biết bao giờ thấy mặt từ nhan! Rượu vơi vơi nâng chuốt chén vàng, chân rén rén dìu đưa người ngọc.
(Hát nam) Rén rén dìu đưa người ngọc
Kể khôn cùng chân tóc kẽ răng!
(Địch Thanh): - Thôi, em ở lại sương sa ba nở mẹ tròn con vuông rồi anh sẽ về…
(Hát nam) Anh hùng nước bước còn săng
(Thôi em đừng khóc)
Đừng dun mày liễu mà quằn ruột lan. 
Trong khi vợ chồng than vãn thì cửa ải lần lần mở. Hai vợ chồng mới chia tay bằng câu hát của cụ tú:
Dứt tình một khúc Dương quan
Tây Liêu anh tới, Đơn bang em về. 
Đoạn sửa thật hay!
Xem chừng đó cũng biết qua được tài nghệ của cụ Đào. Nhưng để giúp quý bạn muốn hiểu thêm cụ, trong khi chưa tìm được các bổn tuồng, lão xin trích thêm một vài đoạn trong một vài tuồng phổ biến nhất. Và trước khi trích văn, lão cũng xin nói sơ đôi đặc điểm mà lão đã nhận thấy trong các bổn tuồng của cụ:
- Tất cả tuồng hát của cụ Đào, tuồng nào thứ lớp cũng gọn gàng liền lạc, văn chương cũng trang nhã du dương. Những câu Nam câu Khách, câu xướng câu ngâm… hay đã đành, cho đến những câu nói lối, những câu đệm (hường, tán) cũng rất chải chuốt, chải chuốt nhưng vẫn giữ được vẻ tự nhiên. 
Ví dụ một đoạn rong tuồng Hộ Sanh Đàn, lớp Loan Anh nghe Tiết Cương bị Võ Tam Tư vây khổn, vội đem lâu la xuống núi cứu nạn:
Loan Anh nói:
- (Ối chao ôi!) Bất thăng kinh hãi kinh hãi! (Chăng biết phu quân tôi mần răng mà) Chí thử gian nan gian nan! (Phu quân ơi!) Cửu khúc trường lửa đốt xốn xang; song hàng lụy mưa tuôn lã chã. (Nay phu quân tôi chích thân ngộ nạn, tặc chúng lai truy. Phu quân tôi biết chạy đàng mô?) Qua Xuyên quận giang trình hiểm trở, (Còn) Về Long Sơn lâm lộ đa kỳ! (Phu quân tôi) Vì hiếu tình nong nả quyết ra đi; (Chừ) Cơn hoạn nạn bơ vơ ai giúp đỡ?! (Nhưng thôi thôi) Bước anh hùng đã lỡ, gan nhi nữ càng dày. Nếu chẳng liều sanh tử giữa chông gai, (thì) ai còn kể ân tình trong khói lửa.
Những câu nói lối đối nhau từng câu từng chữ, nhưng trôi chảy tự nhiên như thế, đoạn nào cũng có, tuồng nào cũng có.
Lắm câu đẹp như thơ: 
Đầy áo rơi muôn hộc thiên hương,
Đôi mắt vẽ một người quốc sắc.
(Vạn Bửu Trình Tường)
Giấc hải đường còn hỡi say sưa,
Màu trúc diệp cùng nhau chếnh choáng.
(Trầm Hương Các)
Phận liễu bồ khép bóng thu phong
Phụng cân trắc nhờ ơn xuân hải.
(Trầm Hương Các)
Từ phu tướng Trường an tế tảo,
Luống thâm khuê vĩnh dạ ưu sầu!
Khéo loi thoi dương liễu mạch đầu,
Còn thảnh thót hoàng oanh chi thượng!
(Hộ Sanh Đàn) vân vân… 
Còn những câu hát Nam, thì từ lời của những kẻ phong lưu đài các, đến những con ở gái, chú quân canh… thảy thảy đều nhịp nhàng êm ái, và giọng văn tứ thơ thay đổi theo từng nhân vật.
Khi thì trang nhã đài các:
(Hảo a!) Phong thanh nguyệt hiểu, thủy tịnh ba minh.
Phi quế trạo tiền hành, tố hoa trì thưởng thắng.
Thưởng thắng trải miền hương quốc
Gió trăng lồng một bức kỳ quan
Hương trời sắc nước xuê xoang
Nồng đếm tố nguyệt vẽ ngàn tịch dương.
Trận thanh tao dợn làn sóng nhỏ
Bóng mơ màng ai đó? Vấn tân…
(Vạn Bửu Trình Tường)
Khi thì bi tráng trầm hùng:
Thế sự huyễn như xuân mộng, nhân tình bạc tợ thu vân! Cắn răng cười, cười cũng khó khăn, ôm lòng chịu, chịu càng cay đắng.
Cay đắng cho tình cho cảnh 
(Bớ Thiết Giao! Con gắng lấy nghe)
Ngóng phương trời gởi gánh non sông.
(ấy vậy mà tôi vẫn tưởng rằng)
Bể oan chưa đổi bụi hồng còn xa!
Cuộc phong ba đâu là chỉ ngạn
(Ối phu nhân ôi!)
Mối ân tình nhiều đoạn chia phôi!
(Hộ Sanh Đàn)
Lao xao sóng bủa ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
(Hộ Sanh Đàn)
Khi thì thê lương áo não:
- Mặt giã từ đài các, gót lần lửa yên vân (ối phu quân ôi) Sợi nhân duyên vắn vỏi chỉ bao ngần; Đường danh lợi dở dang xin chịu vậy!
Chịu vậy đường ân nỗi ái
Tâm sự này khó hỏi cao xanh!
Trì trì bạch nhật vãn; niếu niếu bi phong sanh. (Thương hại cho tôi) Phu tế khinh bạc nhi, tại thế bất xứng ý. (Chừ tôi biết đi mô đây? Thôi thôi) Giang san dao lạc xứ, tử biệt dĩ thôn thanh!
Mảnh gương phút đã tan tành
Xuân vi gió lạnh thu đình trăng trong.
Bước non sông ngại ngùng chi xiết
Nợ phong trần trả hết từ đây…
(Hộ Sanh Đàn) 
Những câu giai tác như những câu thượng dẫn có hàng vạn trong các bổn tuồng. So với Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu, Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, thì thơ lục bát và song thất lục bát của cụ Đào Tấn, về phẩn phẩm thật không nhượng, về phần lượng rõ nhiều hơn bội phần. Rất tiếc các nhà nghiên cứu về văn học lâu nay không mấy người để ý khai thác. 
Cụ Đào Tấn viết tuồng hát chẳng phải để mua vui, chỉ để nêu gương trung hiếu tiết nghĩa cho đời soi như hầu hết các tuồng cổ điển xưa, mà còn để ký thác tâm sự, một mối tâm sự nan giải cùng người cố chấp đương thời:
Chịu vậy đường ân nỗi ái
Tâm sự này khó hỏi cao xanh. 
Nguyên cụ ra làm quan gặp được vua Tự Đức là nhà vua tri kỷ, nhưng lại nhằm lúc khó khăn, nước nhà lắm việc nan giải.
Giặc Pháp như tằm ăn dâu, hết chiếm Nam, liền đi lần ra Bắc… Thế nước suy vi mà triều đình Huế chưa giác ngộ, tự cho mình là “bốn nghìn năm văn hiến” chê người là dã man, nhất định bế môn tỏa cảng, không chịu giao thiệp cùng các nước Tây Phương. Các quan triều phần đông nặng lòng thủ cựu, lo việc chính trị đương thời mà khư khư lấy phép vua Nghiêu vua Thuấn làm gương mẫu, hễ nghe ai bàn đến những gì mới lạ thì cho là ngụy thuyết, bác hẳn đi. 
Các nhà chí sĩ như Nguyễn Trường Tộ đi du học về làm tờ điều trần xin nhà vua cải lương mọi việc; như Đinh Văn Điền dâng sớ đề nghị mở mang kinh tế, chỉnh đốn quân sự, tiếp xúc ngoại bang… Đại để đều là những điều ích quốc lợi dân cả. Các quan đại thần cho là lời nói bậy nói càn, làm hủy hoại kỷ cương, đòi bắt làm tội! Thậm chí đến lời trần tấu của các sứ thần như Nguyễn Hiệp đi sứ Xiêm La, Lê Đĩnh đi sứ Hương Cảng, đem cảnh tượng nước ngoài về thuật lại để mong triều đình theo gương mà canh cải cho hợp thời, thảy thảy cũng đều bị đình thần bác  bỏ. 
Vua Tự Đức cũng có ý muốn canh tân, song không thể tự quyết. Đứng trước họa xâm lăng mỗi ngày mỗi bành trướng, nhà vua lo sợ thường hỏi quần thần những phương pháp phú quốc cường binh. Nhưng kẻ bàn thế này, người bàn lẽ nọ, nào thủ nào chiến, cãi cọ lung tung…, rốt cuộc vẫn không tìm ra chước gì để cứu vãn tình thế. 
Cụ Đào Tấn là người thức thời. Cụ rất tán thành những lời đề nghị của các nhà hữu tâm dâng lên nhà vua. Nhưng thế lực yếu, cụ đành bưng miệng khoanh tay! Hưởng lộc nước mà không dùng khả năng để cứu nước, trong khi thế nước đương suy, cụ tự lấy làm tủi hổ:
Thịt đi thây chạy bời bời
Lộc vua ăn uổng cột trời để xiêu!
(Khuê Các anh hùng)
và rất lấy làm đau khổ:
Sụt sùi lệ nhỏ thấm bâu
Hột cơm tấm áo dễ nào quên ơn.
(Hộ Sanh Đàn)
vào khoảng cuối đời Tự Đức, thế nước lại càng nguy khổn. Không lẽ ngồi đợi nước đến trôn, cụ bèn lấy cớ còn cha mẹ già, dâng sớ xin về phụng dưỡng. Lời xin đã không được chuẩn y mà cụ còn bị giáng xuống bốn cấp. Nhưng không bao lâu ông cụ thân sinh tạ thế, cụ được phép về đinh gian. 
Kế đó vua Tự Đức thăng hà (1883), đám quyền thần lộng hành, trong triều rối loạn. Quân Pháp thừa thế kéo binh vào Huế uy hiếp, triều đình phải công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ. Hòa ước Quí Mùi (1883) và hòa ước Giáp Thân (1884) ký kết. Nước Việt Nam hoàn toàn mất chủ quyền!
Mặc dù đã biết trước, mặc dù cố tránh xa để khỏi trông thấy tận mặt những cuộc tan thương, cụ Đào khi nghe tin sơn hà xã tắc bị sụp đổ vẫn không cầm được mối thương tâm. Nhưng cũng như một số sĩ phu tâm huyết khác, như hoàng giáp Phạm Như Xương, Tam Nguyên Nguyễn Khuyến, Án Sát Chu Mạnh Trinh, cụ Đào Tấn tự biết mình bất lực trước thời cuộc, đành ôm bụng mà thở than cùng giấy bút:
- Mảnh gương phút đã tan tành
Xuân vi gió lạnh thu đình trăng trong.
(Hộ Sanh Đàn)
- Thương ai công nghiệp nửa chừng
Cây rung khi gió lửa hừng khi mưa!
Sầu ai ai đã hay chưa?
Trăm năm đái lệ một giờ tan thương! [2]
Kế đó Kinh thành Huế thất thủ (1885) vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương. Phần đông sĩ phu trong nước hưởng ứng.
Ở Bình Định đảng Cần Vương do anh hùng Mai Xuân Thưởng lãnh đạo mời cụ Đào tham gia. Vốn biết rõ tình hình trong nước, vốn thấy rõ lực lượng của Việt Nam, về nhân sự cũng như về quân sự, đều kém hẳn quân Pháp, chống cự bằng vũ lực không cữu vãn được tình thế mà còn hao tốn máu xương, nên cụ tìm cách từ chối. Một số người trong Đảng cho rằng cụ là người không biết nghĩ đến đại nghĩa, đã từng hưởng ơn vua mà không lo đền nợ nước, bèn đem quân đến vây nhà bắt về làm tội. Cụ cùng một lão bộc đương đêm nhảy qua rào sau chạy thoát.
Cụ chạy ra Phù Cát lên ẩn tại chùa Linh Phong. Sau ra làm quan cùng vua Đồng Khánh.
Đã không ứng nghĩa Cần Vương mà còn ra làm quan cùng triều đình mà hầu hết các sĩ phu yêu nước đều cho là ngụy, nên cụ bị rìu búa xuân thu. Cụ rất lấy làm khổ tâm:
Phúc bồn đã lờ gương nhật nguyệt
U cốc đành khuất bóng dương quang
(Tôi nghĩ lại, trộm trách ai)
Khéo trăm trô lời quạ Dã Tràng!
(Khiến cho)
Thêm réo rắc tiếng ve Tây Lục!
Tây Lục tiếng ve réo rắc
(Ối Tiên quân ôi!)
Tưởng oan tình ruột thắc đòi cơn!
Ngàn năm uống oán ăn hờn
Âu lo nghiệp chúa, riêng than nỗi mình.
(Khuê Các anh hùng)
Tấm lòng trung quân ái quốc của cụ, chỉ riêng mình cụ biết, chỉ riêng trời phật biết:
- Viễn khứ trông chừng viễn lộ
Đố ai tường lòng mỗ thật hư!
Thất tình mối nước nên thưa
Bóng tiều lướt sóng tiếng ngư vang rừng.
Trống dạ tuần nửa gần quan tái
Cơ hội này phải dại mới khôn.
(Khuê Các anh hùng)
- Ngậm ngùi nhớ mẹ  thương cha
Biết đâu căn kiếp con ra nỗi này
Ngập ngừng lướt gió xông mây
Từ bi xin chứng thân này đắng cay…
(Trầm Hương Các)
Lòng cụ đối với vua Tự Đức chẳng những nặng nghĩa quân thần mà còn dày ơn tri ngộ. Nỗi thương nhớ vua, cụ đã gởi trong những câu hát Nam trong tuồng Khuê Các anh hùng mà cụ nhuận sắc lúc ẩn nơi chùa Linh Phong Phù Cát:
[3]
Yên tỏa hàn phong sương yểu yểu
Lộc ngưng Tương Thủy tuyết ai ai.
Ối Tiên quân ôi!
Ẩm hận trường thiên tư Bắc Khuyết
Hàm sầu bạch nhật khốc Tây Đài.
Tuyết ai ai tuyền đài thẳm thoắt
Vọi vọi nhìn kìa nước nọ trăng.
Mơ màng biển bạc giăng giăng
Thương tang phút đổi Đạo Hằng khôn nguôi. [4]
Đối với cảnh vua Hàm Nghi xuất bôn, lòng cụ cũng ngậm ngùi chua xót:
Dấu ngựa đường hoa đem quạnh quẽ
Chày kình dinh liễu tiếng lao xao.
Sá chi tôi sương tắm mặt đào,
Thương nỗi chúa bụi mờ vóc ngọc.
Vóc ngọc ngùi thương nỗi chúa,
Bước gập ghềnh lối cũ đường xưa.
Nhạn chiều chen đám mây thưa,
Lôi thôi chiếc bóng bơ thờ giọng kêu!
Gian nan chút phận đã liều
Cô đăng gió tạt bảng kiều sương rơi…
(Khuê Các anh hùng)
Rõ là “Vi nho phùng thế nạn, sầu tứ không mang mang”.
Và đọc những câu tâm sự của cụ Đào, lòng ai khỏi bồi hồi áo não. Cổ nhân nói “Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ”. Thật là trầm thống thiết tha! Và những bổn tuồng của cụ Đào cũng như tập Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Tố Như đã chứng minh cho lời nói thống thiết ấy.
Những bổn tuồng của cụ Đào còn phản ảnh những trạng thái xã hội từ thời Tự Đức đến thời Thành Thái. Ví dụ những cảnh tượng, những nhân vật trong tuồng Hộ Sanh Đàn là hình ảnh xã hội, là bóng dáng những người có tên tuổi dưới triều Đồng Khánh Thành Thái. Tình trạng xã hội Việt Nam buổi ấy có khác chi tình trạng xã hội Trung Hoa thời Võ Hậu cướp ngôi nhà Đường. Bọn Võ Hậu, Võ Tam Tư trong tuồng tượng trưng bọn thực dân cướp nước. Tiết Nghĩa đại biểu cho đám nịnh thần vong ân bội nghĩa. Tiết Cương, Loan Anh…, tiêu biểu cho những bậc trung can nghĩa khí chống lại đám cầm quyền bất lương… vân vân…
Đó là một điểm mà bấy lâu các bạn thích xem tuồng hát ít lưu ý.
Mục đích của Vườn Hoa Thơ chỉ nhằm vào việc giới thiệu những áng văn chương có giá trị của người xưa mà lâu nay các nhà viết văn học sử bỏ quên, cùng những giai tác của các bạn bốn phương gởi đến tặng, chớ không chú trọng việc nghiên cứu tác phẩm hay phê bình văn học. Cho nên về tuồng hát cụ Đào, nói qua bấy nhiêu tưởng cũng đã vừa phải.
Bây giờ lão xin nói về thơ của cụ:
Cũng như cụ Nguyễn Du, cụ Đào Tấn dồn văn tài vào thơ lục bát, song thất lục bát và thơ chữ Hán. Cho nên Quốc âm về Đường luật, lão chỉ nghe truyền có một bài: 
THUẬT HOÀI
Năm mươi bốn tuổi biết chi chưa
Ngắm nghía mày râu cũng đã vừa
Chén rượu nhớ hoài người lớp trước
Cung đàn quên phứt chuyện ngày xưa.
Mẹ già tám kỷ trông hôm sớm
Vua trẻ nhiều phen gội móc mưa.
Ngoảnh lại vườn đông muôn dặm cách
Cội tùng khóm cúc hãy còn lưa.
Văn chương tao nhã.
Thơ chữ Hán của cụ cũng rất mực tài tình. Xin trích một bài trong Mộng Mai Ngâm Thảo, mà nhiều người thuộc. Bài cụ đề nơi vách chùa Linh Phong:
Bách bát chung thinh khước thọ điên
Ngẫu tùy ngâm tiết khấu đàn duyên
Thập niên hồ hải qui lai mộng
Nhất kỉnh yên hà tự tại thiên
Giai sỹ từ bi ninh thị phật
Sơn ông danh tự bán nghi tiên
Thanh tuyền tế ẩm tri chân vị
Bất phụ nhân gian phất diễm truyền.
Tạm dịch:
Cành xanh trăm tám tiếng chuông rơi
Hứng đến thiền môn bước thảnh thơi
Một bức yên hà trời tự tại
Mười năm hồ hải mộng qui lai.
Am mây Ông Núi chừng tiên đấy
Lượng bể người thơ đích Phật rồi
Ngụm nước thanh tuyền chơn vị tỏ
Tiếng thơm khôn phụ lẫy lừng nơi.
Bài này truyền là cụ làm lúc lên lánh nạn tại chùa ông Núi (Linh Phong tự). Nhưng xét từ ý, lão ngờ rằng cụ làm trong lúc đã về hưu.
Bởi vì sau bao nhiêu năm ra làm quan cùng vua Đồng Khánh, Thành Thái, chánh tích tốt đẹp của cụ đã làm cho các sĩ phu trong nước trước kia chê trách cụ, thấy rõ tâm thuật của cụ mà trở thành bạn xướng thù, như cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì là một. Uy danh của cụ chẳng những được khôi phục mà còn gia tăng. Cho nên lòng cụ không còn những nỗi thương đau của ngày trước, đã trở nên thanh thản bình an.
Bài ĐỀ LINH PHONG TỰ phản ảnh tâm trạng thanh bình của cụ, lúc về sống cùng khóm cúc cụm tùng.
Cụ về hưu được ba năm thì thất lộc. Thọ 63 tuổi.
Cụ đã sửa soạn cuộc vĩnh du từ lúc mới về vườn. Cụ là người thanh nhã cao đạm nên lấy tiểu hiệu là MAI TĂNG và lấy hòn Mai Sơn ở thôn Huỳnh Mai, xã Phước Thuận, làm nơi an nghỉ cuối cùng.
Khi tìm được nơi an nghỉ cuối cùng vừa ý, cụ khẩu chiếm một tuyệt:
Nhàn hướng Mai Sơn bốc thộ vôn (viên)
Thạch đầu cao cứ tiếu vô ngôn.
Mai Tăng tha nhật tàng mai cốt
Ứng hữu mai ba tác mộng hồn.
Tạm dịch:
Non Mai vườn thọ tìm xong
Mai Tăng tựa đá ung dung mỉm cười.
Nay mai vùi nắm xương mai
Hồn mai chung giấc mộng dài nở hương.
Phần mộ của cụ hiện nằm trong rừng mai nơi Mai Sơn. Mỗi bận xuân về hoa mai nở đầy rừng, hồn cụ cùng hồn mai thấp thoáng trong “ám hương phù đổng nguyệt hoàng hôn” hoặc quanh quấn trong màu mây khói tỏ mờ theo tiếng hát du dương:
Gió hương thổi lọt hoàng bào
Kiều mai tuyết điểm động đào mây giăng.
Chú thích:
[1] Xem toàn khúc hát ở trước, trong đoạn nói về cụ tú Nhơn Ân Nguyễn Diêu.
[2] Đái lệ: như sông giải non mài nói ở trên.
[3] Lên ẩn nơi chùa Linh Phong, nhân thấy bổn tuồng Tam Nữ Đồ Vương, cụ đọc để mua vui. Nhân thấy có đoạn hợp tình hợp cảnh của mình, cụ mới sửa lại để mượn văn chương gởi gắm chút lòng. Những bổn tuồng khác, cụ sửa cũng nhắm mục đích ký thác, còn bảo là “thêm thịt vào bữa cơm rau” là nói chơi vậy thôi.
[4] Câu này là câu tôi được nghe. Trong các bổn tuồng phổ biến trong ca trường nhiều bản chép là:
Mơ màng nước biếc non xanh
Thương tang phút đổi ân tình khôn phai.

14/4/1971
Quách Tấn
Theo http://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Công dân áo gấm Henry Cabot Lodge000000

Công dân áo gấm Henry Cabot Lodge TỰA - LỜI TÁC GIẢ Hồi đó, tám năm qua… Tháng 8.1963, tình hình căng thẳng, ngột ngạt, các phóng viên các...