Con tim và lý trí của thi sĩ Xuân Diệu:
Giai đoạn 1954-1958. Phần 1
Trong giai đoạn 1954-1958, Đảng Lao động Việt Nam, sau nhiều
đợt giằng co tiến thoái, đã áp đặt được sự kiểm soát trên tất cả các lĩnh vực của
hoạt động thông tin văn hóa và học thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đối
với nhiều nhà trí thức cách mạng, tình trạng mất tự chủ về chuyên môn là một điều
thất vọng đến bất ngờ. Họ từng nghĩ rằng những cống hiến trong kháng chiến chống
Pháp (Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất - 1946-1954) và kết quả thắng lợi của
cuộc kháng chiến là đủ chứng minh cho sự trung thành của mình với cách mạng. Họ
cảm thấy như vậy là đương nhiên sẽ có thêm không gian riêng trong lĩnh vực
chuyên môn, vốn nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ của đảng suốt tám năm kháng
chiến.[1] Nhưng giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam lại nghĩ khác. Giai đoạn bốn
năm sau khi chiến tranh kết thúc là thời gian giải quyết những khác biệt về
quan điểm nói trên, đồng thời đặt ra những quy định thiết yếu cho đời sống trí
thức của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đa phần vẫn còn được bảo lưu cho đến
tận hôm nay. Chính ở giai đoạn ngắn ngủi này, tầng lớp trí thức của chế độ đã
chứng kiến những đổi thay bất ngờ, những lật lọng khó đoán, và không ít người
trong số họ đã tự mình trải nghiệm những xử lý khiến số phận họ hoàn toàn thay
đổi.
Câu chuyện về những người trong hàng ngũ trí thức đã phản kháng quyết liệt nhất
trước sự áp đặt và kiểm soát của giới lãnh đạo đảng - gồm những nhà văn, nhà
thơ, họa sĩ và học giả gắn liền với phong trào Nhân văn - Giai phẩm - là một
trong những lĩnh vực được để ý nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa [2]. Phong trào được đặt tên theo hai ấn phẩm do các nhà trí thức cách mạng
bất mãn xuất bản vào năm 1956 - báo Nhân văn và các tuyển tập mang tên Giai phẩm,
đã thu hút được sự chú ý của giới học giả trong nhiều thập kỷ chủ yếu vì nó được
đánh giá là một trong những khoảng mở hiếm hoi để tìm hiểu về mức độ đắc nhân
tâm của chủ nghĩa cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu thấy bất
ngờ về mức độ đa dạng và thẳng thắn của những ý kiến và yêu cầu của năm mươi bảy
nhà trí thức từng tham gia trực tiếp vào Nhân văn - Giai phẩm đã bày tỏ với chế
độ Mác-xít-Lê-nin-nít và đã thu hút được sự đồng tình của số đông quần
chúng [3]. Gộp chung những đề tài nghiên cứu hiện có về phong trào này, ta sẽ có
được một bộ chân dung rất phong phú về những nhân vật trụ cột. Điều này được thực
hiện một phần là nhờ những học giả phương Tây đã phỏng vấn được những thành
viên của Nhân văn - Giai phẩm đang còn sống, sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản
Việt Nam thi hành chính sách Đổi mới vào năm 1986.[4] Một yếu tố khác nữa là,
cùng với thời gian, các học giả nghiên cứu về phong trào đã cân bằng trở lại,
thoát khỏi ảnh hưởng của chính trị cực đoan thời Chiến tranh Lạnh, cũng như tư
tưởng lạc quan tếu thời Đổi mới gần đây.
Tuy vậy, chân dung những trí thức nòng cốt, những người đã trợ giúp lãnh đạo đảng
đàn áp, thanh lọc và trừng phạt những thành phần tham gia Nhân văn - Giai phẩm
vẫn gần như giữ nguyên hình dạng đơn sắc, đơn tuyến và thậm xưng theo kiểu biếm
họa so với những nghiên cứu của thời kỳ trước. Trong thực tế, nhiều nhà trí thức
nòng cốt này tiếp tục có một sự nghiệp gây ảnh hưởng lớn trong nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, thậm chí sau khi nhà nước này được hóa thân thành Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam [5]. Thực ra, dấu ấn của những người này trên đời sống
trí thức của Việt Nam còn sâu đậm hơn rất nhiều so với những nhân vật cải cách
kém may mắn của phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Bài luận này là một cố gắng giải
quyết sự thiếu hụt thông tin nói trên, và chuyển hướng tiêu điểm của sự chú ý từ
những ngôi sao của phong trào Nhân văn - Giai phẩm sang một trong những người bảo
vệ quan điểm chính thống của đảng, đó là nhà thơ nổi tiếng, người đã cải hóa
thành nhà thơ cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lê nin từ một quá khứ từng là thi sĩ
lãng mạn vĩ đại, Xuân Diệu (1916-1985). Bản chất mối quan hệ của nhà thơ với Đảng
Lao động Việt Nam là gì, và vì sao ông lại quyết định đả kích trực diện những
nhà trí thức đã lên tiếng yêu cầu lãnh đạo đảng thực thi cải cách vào cuối năm
1956?
Vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu 1960, học giả Sài Gòn Hoàng Văn Chí, một
người gốc Bắc di cư và cựu thành viên của Việt Minh, lập luận rằng Xuân Diệu chỉ
đơn thuần là một công chức làm việc cho Đảng Lao động Việt Nam như ông đã từng
làm (nhân viên hải quan) cho Pháp thời thuộc địa [6]. Chịu ảnh hưởng của tác phẩm
Giai cấp mới: Phân tích về Thế giới Cộng sản của Milovan Djilas xuất bản năm
1957, Hoàng Văn Chí cho rằng những trí thức nòng cốt như Xuân Diệu không phải
là những tín đồ thật sự của chủ nghĩa Mác-Lê mà chỉ là những kẻ cơ hội chủ
nghĩa có tham vọng chính trị, đàn áp Nhân văn - Giai phẩm để bảo vệ quyền lợi
giai cấp của mình. Theo cách diễn giải này, Nhân văn - Giai phẩm là một phong
trào yêu nước gồm những nhà trí thức đủ mọi tầng lớp đấu tranh chống lại sự “áp
bức trí thức” mà giới tinh hoa văn hóa được chế độ sủng ái đang áp đặt lên họ.
Hoàng Văn Chí nhìn nhận giới tinh hoa văn hóa này như một “giai cấp mới”, chung
một bản chất ích kỷ và là những tay sai tận tụy của lãnh đạo đảng [7].
Năm 1990, một học giả người Pháp, cựu đảng viên cộng sản tên là Georges
Boudarel, người đã từng tham gia Việt Minh trong cuộc Chiến tranh Đông dương lần
thứ nhất và sống tại Hà Nội từ năm 1954 đến tận năm 1964, xuất bản cuốn sách mở
đầu cho dòng nghiên cứu về các trí thức đối kháng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
nhan đề Trăm Hoa Vẫn Nở Giữa Đêm Việt Nam: Chủ nghĩa Cộng sản và Bất đồng Chính
kiến, 1954-1964 (Cent fleurs ecloses dán la nuit du Vietnam: communism et
dissidence 1954-1964). Nếu như lập luận của Hoàng Văn Chí gần giống với của
Djilas trong Giai cấp mới, thì tác phẩm của Boudarel có thể được coi như phiên
bản Việt Nam của tác phẩm Cuộc Cách mạng bị phản bội của Leon Trotsky [8]. Học
giả người Pháp này cho rằng các trí thức của phong trào Nhân văn - Giai phẩm
chia sẻ sự tương đồng quan điểm ở chỗ cùng ghét cay ghét đắng một quan chức Văn
nghệ kiểu Stalin: Tố Hữu, cùng phản đối chủ nghĩa Mao-ít, và cùng mong muốn chế
độ mà họ đang phục vụ thực hiện những cam kết chính trị mang tính nhân văn (nhất
là tự do ngôn luận).[9] Tuy nhiên, những vấn đề cốt lõi này, cũng như những điểm
tương đồng khác như sự bất bình vì chứng kiến sự suy đồi văn hóa chính trị đang
diễn ra xung quanh, và lòng căm ghét thường trực đối với chế độ Sài Gòn được Mỹ
bảo trợ đã không đưa họ đến một sự thống nhất về một chương trình chính trị
chung [10]. Về động cơ của Xuân Diệu khi tham gia đàn áp Nhân văn - Giai phẩm,
Boudarel chỉ nêu ra một lý do là nhà thơ “thân cận với giới lãnh đạo đảng” [11].
Ba năm sau, vào năm 1993, nhà lịch sử văn hóa Neil Jameison cũng đưa ra quan điểm
riêng về vấn đề này, và lập luận trong cuốn sách Tìm hiểu Việt Nam rằng Xuân Diệu
cũng như những trí thức cực tả khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có động cơ là
niềm tin trung kiên vào chủ nghĩa Mác-Lê:
“Có lẽ Xuân Diệu là người nhiệt tình nhất trong số các nhà văn, nhà thơ tham
gia Kháng chiến. Ông không còn bấu víu lấy cuộc đời bằng những móng tay và đối
mặt với biên giới băng giá của chủ nghĩa hư vô nữa. Dưới ảnh hưởng của người bạn
thân Huy Cận, Xuân Diệu đã trở thành một cảm tình viên nhiệt thành và được kết
nạp Đảng vào năm 1947 [12]. Sự nổi tiếng và tài thơ của ông là một đóng góp giá
trị đối với Việt Minh. Để bù lại cho thành phần gia đình tư sản và quá khứ là
thi sĩ lãng mạn nhất, Âu hóa nhất và riêng tư nhất trong văn giới Việt Nam,
Xuân Diệu trở thành người cực đoan nhất trong giới văn nghệ cộng sản mới. Ông
là người ca ngợi “Bác Hồ” và “Đảng” nhiệt tình hơn ai hết:
Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm
Nghe lời Bác dạy khuyên răn
Chúng con ước muốn theo chân của người…
Chúng con thề nguyện một lời
Quyết tâm thành khẩn lột người từ đây.
Qua cụm từ “lột người từ đây”, Xuân Diệu muốn thể hiện chính xác, không thừa,
không thiếu, sự tái sinh dưới một diện mạo mới. Đây là sự thể hiện nguyện ước
được “tái sinh” dưới chủ nghĩa cộng sản… Đây là lời thỉnh cầu được thay đổi bản
ngã tương tự như việc cải đạo, một trải nghiệm tôn giáo, một sự lột xác hoàn
toàn. Cả Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu đã tìm được ý nghĩa mới và mục đích mới của
cuộc đời, cùng thay đổi cá tính cũ của mình [13].
Trong phần sau của cuốn sách, Jamieson lập luận rằng đối với Xuân Diệu cũng như
các nhà thơ cách mạng khác, “kỷ luật của đảng cộng với tư cách thành viên trong
một nhóm xã hội khép kín, có tính tổ chức cao đã khiến họ trút bỏ được gánh nặng
của chủ nghĩa cá nhân và cho họ một diện mạo mới đắc ý hơn” [14]. Chính vì lý do
đó, Jamieson cho rằng quyết định của Xuân Diệu tham gia ném đá Nhân văn - Giai
phẩm xuất phát từ lòng tin cuồng nhiệt vào lý tưởng chung theo thuyết giáo của
Đảng Lao động Việt Nam. Trong số các nghiên cứu về Xuân Diệu, ý kiến của
Jamieson gần nhất với quan điểm chính thống, hiện vẫn được phổ biến ở trong nước
khi đánh giá về nhà thơ.
Nghiên cứu mới nhất về Nhân văn - Giai phẩm của Kim Ninh (2002) và Heinz
Schutte (2003) cũng có vẻ đồng điệu với quan điểm của Jamieson, coi Xuân Diệu
như một tín đồ thực thụ của chủ nghĩa Mác-Lê trong khi các thành viên của Nhân
văn - Giai phẩm có tính cách phức tạp, xuất phát từ sự đa dạng về cá tính, nghề
nghiệp và lập trường chính trị. Schutte, trong bài nghiên cứu quan trọng về
Nhân văn – Giai phẩm dưới lăng kính của Đại Sứ quán Đông Đức tại Hà Nội, đã viết
như sau:
“Những đại diện của (phong trào) Thơ mới của những năm đầu thập kỷ 40 như Huy Cận
(sinh năm 1920) và Xuân Diệu (1916-1985) - bị mất cảm hứng lãng mạn, phải chịu
đựng sự đau khổ khi phải rời bỏ chủ nghĩa cá nhân, đã được Đảng, Việt Minh và
cách mạng tái sinh, nên đã hòa nhập hoàn toàn vào tập thể cách mạng. Nhưng
không phải trí thức Việt Nam nào cũng vậy. [Những thành viên phong trào Nhân
văn - Giai phẩm như] (n)hà thơ Hoàng Cầm (sinh 1922), Trần Dần (1924-1927), và
Lê Đạt (sinh 1929) và các học giả như Phan Khôi (1887-1960), Đào Duy Anh
(1904-1988) và Trần Đức Thảo (1917-1993) chưa từng biến mình thành “những cái
máy chỉ biết phục tùng” của đảng, được nhồi sọ, và tiếp thu một chiều, không phản
biện với những khẩu hiệu thích hợp” [15].
Như vậy, theo Schutte, Xuân Diệu đã “hòa nhập hoàn toàn” vào phong trào cách mạng,
để trở thành (chúng ta có thể suy luận) một “cái máy chỉ biết phục tùng của đảng”,
không phản biện suy tư về tư tưởng Mác-Lê của Đảng Lao động Việt Nam.
Chúng tôi cố gắng nêu ra qua bài luận này rằng Xuân Diệu, khi được nghiên cứu với
phương pháp từng chỉ được dành riêng cho các thành viên của Nhân văn - Giai phẩm,
sẽ không còn là hình ảnh một chiều, đơn tuyến như giới học giả thường mô tả
ông. Thực chất, ông cũng có nhiều điểm giống với các thành viên của phong trào
Nhân văn - Giai phẩm mà ông từng giúp đảng đàn áp. Trước hết, cũng như các tác
giả nổi tiếng nhất của Nhân văn - Giai phẩm như Trần Dần, Lê Đạt và Hoàng Cầm,
ông cũng gặp rắc rối với giới lãnh đạo đảng về các vấn đề liên quan đến đời sống
tình cảm của mình [16]. Tuy nhiên, trong trường hợp của Xuân Diệu, vấn đề không
phải là thành phần giai cấp của người bạn tình mình chọn, mà ở chỗ ông có nhiều
bạn tình, tất cả đều là đàn ông. Điểm thứ hai, và cũng là một trong những điều
trớ trêu đáng ghi nhớ nhất của giai đoạn này, Xuân Diệu chính là người, với vai
trò thư ký toàn soạn của ấn phẩm văn hóa quan trọng nhất của đảng, báo Văn nghệ,
đã xuất bản những bài viết đầu tiên của Hoàng Cầm và Lê Đạt trong nỗ lực xoay
chuyển nền văn chương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [17]. Vào tháng Năm năm
1955, những nhà văn trẻ có can đảm phê bình ngay cả nhân vật quyền lực nhất
trong văn giới, Tố Hữu, có thể đã coi Xuân Diệu như một đồng minh. Điểm thứ ba
là, đối với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa luôn gây tranh cãi,
Xuân Diệu công khai ca ngợi dòng văn học này và lớn tiếng chê bai những tác phẩm
lãng mạn cũ của mình, những sáng tác đã làm cho ông trở nên nổi tiếng. Nhưng chỉ
cần nghiên cứu sơ qua về những sáng tác cách mạng của Xuân Diệu, ta cũng có thể
nhận thấy những động thái cố gắng khai thác lại những đề tài và tiểu tiết từ
các tác phẩm lãng mạn của ông. Trên thực tế, ta có thể thấy Xuân Diệu lưỡng lự
không kém gì những thành viên của Nhân văn - Giai phẩm khi cân nhắc giá trị nghệ
thuật của các tác phẩm trước và sau cách mạng.
Để đánh giá lại quan điểm chung đã được đa số tán thành, coi Xuân Diệu như một
kẻ cuồng tín về tư tưởng cách mạng, có thể xem những lời bàn khá căng thẳng về
sự nghiệp cách mạng của Xuân Diệu xuất hiện trong các tờ báo nhà nước và tư nhân
hồi năm 1956, qua đó ta thấy nhiều đồng nghiệp đương thời đánh giá những lập
ngôn lạc quan của nhà thơ, tuyên ngôn rằng mình đã chuyển hóa hoàn toàn từ chủ
nghĩa lãng mạn cá nhân sang chủ nghĩa tập thể Mác-Lê, là thiếu thuyết phục. Một
nhà trí thức phê bình Xuân Diệu có “bệnh khoái cảm” - khoái cảm bệnh hoạn khi tả
về bạo lực chiến tranh trong thơ cách mạng, ngầm ám chỉ rằng cảm hứng sáng tác
của Xuân Diệu không phải bắt nguồn từ lý tưởng cách mạng của chế độ [18]. Ba nhà
trí thức khác viết bài bật mí những thông tin tai tiếng về âm mưu lũng đoạn tổ
chức đảng từ hậu trường để mưu lợi riêng của nhà thơ, có ý chê Xuân Diệu là một
cán bộ thoái hóa, vẫn giữ nguyên thói ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa như mọi người vẫn
đánh giá trước khi nhà thơ tham gia cách mạng.[19]. Vì sao sự nghiệp cách mạng của
Xuân Diệu lại gây nhiều tranh cãi đến vậy trong giới trí thức Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, và rốt cuộc, thái độ thực của nhà thơ đối với hệ tư tưởng của chế độ
là như thế nào?
Giai đoạn tiền cách mạng của Xuân Diệu
Một yếu tố quan trọng quyết định vị thế tương quan giữa cá nhân Xuân Diệu và Đảng
Lao động Việt Nam là sự nghiệp sáng tác trước cách mạng của nhà thơ. Sinh năm
1916, ông sống với mẹ đẻ (là vợ hai của cha ông) suốt những năm tháng thơ ấu
ngay tại làng quê của bà gần kề thành phố cảng Quy Nhơn. Năm ông mười một tuổi,
cha ông (lúc đó đang dạy học) và mẹ kế quyết định đã đến lúc cậu bé Xuân Diệu
phải xa người mẹ đẻ, đến sống chung với họ tại thành phố Quy Nhơn để bắt đầu
theo học ở một trường tiểu học gần nhà. Sau đó, ông học tiếp lên các cấp cao
hơn và giành được văn bằng của hai trường thuộc địa danh tiếng nhất, là trường
Lyceé du Protectorat (thường gọi là trường Bưởi) và trường Quốc học Huế.[20]
Năm ông 19 tuổi, tức là vào năm 1936, Xuân Diệu bắt đầu có thơ đăng trên các tờ
báo có liên quan mật thiết với nhóm Tự lực Văn đoàn và Phong trào Thơ mới - cả
hai đều chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp và chủ nghĩa cá nhân
Tây Âu. Sự nghiệp của ông lên nhanh, và chẳng mấy chốc Xuân Diệu trở thành một
trong những tác giả quan trọng (nếu không muốn nói là quan trọng nhất) của
Phong trào Thơ mới. Tiếng tăm của Xuân Diệu cũng nổi nhanh như sức lan tỏa của
Thơ mới trong công chúng. Năm 1942, nhà phê bình văn học giai đoạn tiền chiến nổi
tiếng Hoài Thanh đã tả về nhà thơ trẻ Xuân Diệu trong tác phẩm có nhiều ảnh hưởng
của mình về các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Thi nhân Việt Nam: 1932-1941 như
sau:
“Bây giờ khó mà nói dược cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến.
Người đã tới giữa chúng ta một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn
làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần,
vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá
Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng
dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã
quyến rũ ta” [21].
Hai tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945)
được người đương thời cho là kiệt tác. Các nhà phê bình nhận thấy trong thơ ông
có cảm nhận sâu sắc về tính phù du của thời gian và sự mong manh của cuộc sống,
và cả hai điều này đều làm gia tăng lòng khát khao tuổi trẻ, mùa xuân và tình
yêu toát ra từ những câu thơ của Xuân Diệu [22].
Danh tiếng của Xuân Diệu khiến ông trở thành một đối tượng vô giá đối với các
lãnh đạo cộng sản, những người sau này sẽ thường xuyên yêu cầu ông trấn an dư
luận về chính sách văn hóa.
Ở Việt Nam, các nhà phê bình văn chương đã phong Xuân Diệu là ông hoàng thơ
tình, và trong những năm gần đây, họ còn bắt đầu công khai thừa nhận rằng các
bài thơ tình của ông được lấy cảm hứng chủ yếu từ các mối tình đồng tính của
nhà thơ [23]. Ngoại trừ bài báo của Nguyễn Quốc Vinh về biến thái trong văn chương
Việt Nam thời thuộc địa, cho tới nay các học giả phương Tây thường tránh đề cập
trực tiếp về xu hướng luyến ái đồng tính của Xuân Diệu [24]. Hiển nhiên là họ
không muốn khai thác khía cạnh đời tư này của nhà thơ, nhưng mặt khác lại muốn
thể hiện là mình có biết về điều đó, nhất là với các độc giả có kiến thức, nên
các nhà nghiên cứu thường chọn cách giải quyết vấn đề như Kim Ninh đã áp dụng
trong cuốn sách xuất bản năm 2002 về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của mình, Một thế
giới đã hoán cải. Bà viết, “Xuân Diệu, một ngôi sao sáng trong Phong trào Thơ mới,
có thể dẫn Verlain và Rimbeau một cách thoải mái, cảm thấy gần gũi với những
nhà thơ Pháp hiện đại này không kém gì các nhà thơ trẻ cùng thời ở Paris”.[25]
Những người quen thuộc với văn thơ lãng mạn Việt Nam có thể nhận ra ngay lập tức
rằng tác giả đang muốn liên hệ đến một bài thơ của Xuân Diệu trong đó đồng tính
luyến ái được thể hiện trực tiếp nhất, bài “Tình trai”, ca ngợi mối tình cháy bỏng
giữa hai nhà thơ thuộc trường phái Biểu tượng của Pháp, Paul Verlain và Arthur
Rimbaud:
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine,
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men,
Say thơ xa lạ, mê tình bạn,
Khinh rẽ khuôn mòn, bỏ lối quen.
Những bước song song xéo dặm trường
Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương,
Họ đi, tay yếu trong tay mạnh,
Nghe hát ân tình giữa gió sương.
Kể chi chuyện trước với ngày sau;
Quên ngó môi son với áo màu;
Thây kệ thiên đường và địa ngục!
Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Khi các lãnh đạo đảng kết nạp Xuân Diệu vào tổ chức công khai Việt Minh, họ đã
tiếp nhận một thanh niên đầy tài năng và sức thu hút, đồng thời có lẽ cũng là
nhân vật nổi tiếng có biểu hiện đồng tính lộ nhất ở Việt Nam tính đến thời điểm
đó. Dù so ra vẫn là quá kín đáo theo tiêu chuẩn hiện tại, những bài thơ tiền
chiến của Xuân Diệu có hàm chứa đề tài đồng tính, và rõ ràng là xu hướng đồng
tính luyến ái của Xuân Diệu không những là một nguồn cảm hứng quan trọng đối với
thơ ông, mà còn là một phần bản ngã của nhà thơ. Nhưng đương nhiên Đảng Lao động
Việt Nam không hề khuyến khích tự do luyến ái, đừng nói tới chuyện luyến ái đồng
tính. Để hai bên có thể hợp tác với nhau được, cần phải có một số điều nhân nhượng.
Giai đoạn mới tham gia cách mạng
Thời điểm đầu tiên Xuân Diệu va chạm với chủ nghĩa cộng sản có thể tính vào
tháng Sáu năm 1942, khi tổng thư ký Đảng Cộng sản Đông Dương, Trường Chinh sáng
tác bài thơ “Là thi sĩ” đề tặng tất cả các nhà thơ Việt Nam, có những dòng như
sau:
Nếu “thi sĩ là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”…
Nếu thi sĩ nghĩa là đem gấm vóc
Phủ lên trên xã hội đã điêu tàn,
Véo von ca cho át tiếng kêu than
Của nhân loại cần lao đang giãy giụa
Thì bạn hỡi, một nhà thơ như rứa
Là tai ương chướng họa của nhân quần [26].
Được sáng tác trong lòng thành phố Hà Nội đang bị Nhật tạm chiếm, bài thơ của
Trường Chinh kêu gọi các Văn nghệ sĩ, bất kể theo hệ tư tưởng hay trường phái
nào, hãy trút bỏ những mối quan tâm cá nhân và tiếp nhận sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Đúng ra, Trường Chinh đã dẫn hai câu đầu tiên từ bài thơ “Cảm xúc” của
Xuân Diệu viết năm 1938 để làm lời mở đầu cho bài “Là thi sĩ” của mình, dường
như chính nhà thơ lãng mạn nổi tiếng đã tạo cảm hứng chủ đạo cho sáng tác của
ông tổng bí thư [27]. Hai năm sau, vào năm 1944, Xuân Diệu bắt đầu mang văn tài
của mình ra phục vụ cho Việt Minh - tổ chức công khai của Đảng Cộng sản Đông
dương.[28] Đối với nhà thơ, cũng như một số trí thức khác đã nổi tiếng từ thời
trước cách mạng, điều đó có nghĩa là làm việc trong Hội Văn hóa Cứu quốc và tờ
báo văn hóa cách mạng Tiên Phong, được xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ Việt
Minh nắm chính quyền, từ năm 1945 đến 1946. Với uy tín khá cao của Xuân Diệu, vừa
là thi sĩ lãng mạn vừa có kinh nghiệm làm việc với tờ báo được coi là hàng đầu
trong giai đoạn tiền cách mạng của nhóm Tự lực Văn đoàn, tờ Ngày Nay, việc ông
được chọn làm thư ký tòa soạn (tên gọi cũ cho vị trí tổng biên tập) không làm
ai ngạc nhiên. Tới cuối năm 1945, ông còn được chọn lựa để ra tranh cử vị trí đại
biểu tỉnh Hải Dương trong kỳ bầu cử sắp tới của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tổ
chức vào ngày 6 tháng Giêng năm 1946). Đương nhiên, ông - cũng như những ứng cử
viên được đảng chọn khác, đã đắc cử trong kỳ bầu cử tại tỉnh và trở thành thành
viên Quốc hội mới của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [29]. Vào tháng Năm năm đó, Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng mời Xuân Diệu và một vài đại biểu Quốc hội khác cùng
đi trong đoàn ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới Fontainebleau để hội
đàm với Pháp.
Khi những đoàn quân và xe tăng Pháp trở lại Hà Nội vào cuối năm 1946 để tái thiết
chế độ thực dân ở Đông Dương, các thành viên Việt Minh đang làm việc ở thành phố
phải tản cư ra vùng nông thôn. Đa số cán bộ Việt Minh tản ra ba hướng Bắc, Tây
và Nam của đồng bằng sông Hồng để tránh hướng tấn công của Pháp từ Hải Phòng
vào phía Đông Hà Nội. Đợt tiến công sau đó của quân Pháp cắt ngang Hà Nội, tiến
về hướng Tây đã khiến Xuân Diệu và các trí thức khác (một số cùng đi với cả gia
đình) phải liên tục di chuyển trong sáu tháng đầu của cuộc chiến. Tới giữa năm
1947, cuối cùng Xuân Diệu và văn hữu đã tìm được nơi sơ tán ở một ngôi làng nhỏ
có tên là Gia Điền ở cực bắc tỉnh Phú Thọ. Ẩn giữa những dãy đồi có nhiều cây cối
rậm rạp, làng Gia Điền là nơi trú ẩn lý tưởng và không bao lâu sau được chọn
làm trụ sở cơ quan văn học kháng chiến [30].
Tháng Ba năm 1948, Xuân Diệu cùng với các nhà văn khác ở Gia Điền bắt đầu xuất
bản tạp chí văn hóa mới lấy tên là Văn nghệ. Thực chất tạp chí này chỉ là sự tiếp
nối, cộng với sự thể hiện tư tưởng Mác-Lê công khai hơn so với tờ Tiên Phong
đang xuất bản ở Hà Nội trước khi Pháp quay lại. Bốn tháng sau, tức là tháng Bảy
năm 1948, Xuân Diệu cùng với vài chục nhà trí thức cách mạng khác tham dự hai hội
nghị quan trọng tổ chức tại Phú Thọ. Hội nghị thứ nhất là Hội nghị Văn hóa Toàn
quốc lần thứ hai (từ ngày 16 đến ngày 20 tháng Bảy năm 1948), với việc thành lập
Hội Văn hóa Việt Nam, nhưng sự kiện nổi tiếng nhất phải là bài diễn văn tại hội
nghị này của Trường Chinh với nhan đề “Chủ nghĩa Mác và vấn đề Văn hóa Việt
Nam”. Trong suốt bốn thập niên sau đó, lãnh đạo đảng luôn đề cao tác dụng của
bài diễn văn như một định hướng lý thuyết cho tất cả những người làm văn hóa.
Ngày 23 tháng Bảy năm 1948, ba ngày sau khi kết thúc Đại hội Văn hóa Toàn quốc
lần II, một hội nghị nhỏ hơn - Hội nghị Văn nghệ Toàn quốc, được tổ chức, dẫn đến
sự ra đời của Hội Văn nghệ Việt Nam. Nhà thơ trẻ Xuân Diệu, lúc đó mới 32 tuổi,
chắc rất hài lòng khi được chọn vào cơ quan điều hành quyền lực nhất của Hội,
giữ ghế thành viên Ban thường vụ chỉ gồm năm người [31].
Năm sau, tức là năm 1949, lãnh đạo đảng quyết định dời trụ sở cơ quan văn hóa về
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngay gần an toàn khu của Trung ương Đảng đang
đóng tại Định Hóa. Huyện Đại Từ - chỉ cách chỗ ở của các nhà lãnh đạo như Hồ
Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp vài cây số về phía Nam,
là nơi Xuân Diệu sinh sống trong suốt 5 năm cuối của cuộc kháng chiến. Ngày 5
tháng Mười một năm 1949, Hồ Chí Minh ký văn bản thông báo rằng tình hình mới -
nhất là thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung Quốc - cho phép thành lập một đơn vị
hành chính mới, trải rộng từ các tỉnh phía Bắc Hà Nội lên tới biên giới Trung
Quốc. Vùng này sẽ được gọi là “Liên khu Việt Bắc”. Với trụ sở trung ương đảng
đóng tại Thái Nguyên, đảm bảo đường kết nối với Trung Quốc - nguồn tiếp liệu
chiến tranh chủ yếu của Việt Minh, Việt Bắc thực sự là đầu não của cuộc kháng
chiến [32].
Xuân Diệu được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1949, khi ảnh hưởng của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của Việt Minh đang tăng cao [33]. Mối
quan hệ này, cộng với sự kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Liên Xô và Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận về ngoại giao có vẻ đã khiến Hồ Chí
Minh và các lãnh đạo cao nhất của Đảng Lao động Việt Nam mạnh dạn hơn và công
khai thừa nhận tư tưởng Mác-Lê là nền tảng của đường lối lãnh đạo cách mạng. Kết
quả của sự chuyển hướng này là việc áp dụng biện pháp chỉnh huấn của Liên Xô và
Mao, một kỹ thuật cải tạo tư tưởng sử dụng “phê bình và tự phê bình” để chuẩn bị
tinh thần cho cán bộ chính trị và chiến sĩ trước những nhiệm vụ cách mạng khó
khăn.
Chính trong hai tối chỉnh huấn vào năm 1952, Xuân Diệu đã phải trả giá cho thói
lang chạ đồng tính của mình và mất chiếc ghế ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn nghệ.
Nhà văn cách mạng Tô Hoài, một người tình của Xuân Diệu trong nhiều năm, hồi tưởng
lại những buổi tối đó như sau:
“Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn
Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng Đắc, Tô Sang và
mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không ai nói ra. Tôi
cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyết rũ, mình cũng điên kia mà, chứ
có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng,
to tiếng gay gắt, nghiêm trang phê phán “tư tưởng tư sản, tư tưởng tư sản xấu
xa phải chừa đi.” Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi… tình trai…” rồi
nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả” [34].
Theo Tô Hoài, sau khi Xuân Diệu bị truất ghế ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn nghệ,
“bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người có thì giờ chỉ chuyên đi và viết [35].
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng Năm năm 1954, tiếp theo là Hiệp định
Geneva được ký kết hai tháng sau đó, chính xác là ngày 21 tháng Bảy năm 1954,
cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Đối với Xuân Diệu và các văn nghệ sĩ Việt
minh khác, cùng với hầu hết các nhà lãnh đạo cách mạng ở Liên khu Việt Bắc, đã
đến lúc rời chiến khu để trở về Hà Nội trong vai người chiến thắng - nhưng phải
xuất bản nốt số cuối của tờ Văn nghệ đã. Trong số tháng Mười này, Xuân Diệu
đăng một lá thư gửi tất cả những nhà văn đã quyết định ở lại Hà Nội trong thời
gian Pháp tạm chiếm. Lá thư thể hiện phong cách bút chiến đại ngôn lên gân mà
Xuân Diệu thường sử dụng (phong cách này rõ ràng đã góp phần tạo cho Xuân Diệu
được tiếng là người có lập trường tư tưởng vững vàng):
“Có những người vì hoàn cảnh nào đó mà làm cho địch, tiếng hát đã bán cho đài
phát thanh địch, mà tâm hồn chảy máu không thôi. Muốn vùi đầu quên thân trong
son phấn trăng hoa rượu tiệc, mà khuya về, tiếng nói của lương tâm, tiếng nói của
văn nghệ chân chính không để cho mình nhắm mắt. Ta có phải là ta nữa không? Sao
cổ họng, ngòi bút, tài năng của ta lại làm đồ dùng cho chiến tranh và xâm lược?
Những người đau khổ ấy vẫn là bạn, vì tâm hồn văn nghệ vẫn sống dưới đáy
lòng” [36].
Dù văn nghệ sĩ Việt Nam bị chia cách bởi chiến tranh, và trong nhiều trường hợp,
bởi quan điểm chính trị trái ngược, nhưng tình cảm đồng nghiệp giữa họ với
nhau, có vẻ vẫn được duy trì, tuy có bị phai mòn. Nói cách khác, những người đã
từng làm việc cho Pháp hay chỉ đơn thuần đã không làm gì để ủng hộ Việt Minh
trong cuộc chiến cũng có thể tìm được cuộc sống mới dưới chế độ cộng sản. Tuy
nhiên, đi cùng với vòng nguyệt quế mừng chiến thắng là những yêu cầu và điều kiện,
mà Xuân Diệu đã giải thích với giọng thuyết giảng hùng biện đặc trưng:
“Văn nghệ đã căm thù quyết liệt cái thòng lọng đế quốc hung tàn. Quyết không một
nét vẽ, một câu thơ, một bài văn, một tiếng đàn, một giọng hát, một màn kịch, một
điệu múa nào cho địch! Quyết không bao giờ đem bông hoa sáng tạo vứt xuống bùn
nhơ! Quyết không để cho cái tinh anh của con người mập mờ với xâm lăng và ngu tối!
Mà trái lại, từ đây hơn bao giờ hết rạch ròi ranh giới, vạch rõ trắng đen giữa
tà và chính, giữa giả và chân, giữa địch và TA! Đó là vấn đề sống chết của những
con người văn nghệ” [37].
Để ghi nhận những cống hiến của Xuân Diệu với cách mạng trong tám năm kháng chiến,
lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam đã cấp cho ông và người bạn suốt đời của ông,
Huy Cận, một nhà thơ nổi tiếng đồng thời là quan chức văn hóa cao cấp của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa một căn biệt thự Pháp rộng rãi trên phố Cột Cờ (nay là đường
Điện Biên Phủ). Bất động sản cao cấp này có thể được coi như một tín hiệu của
giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam rằng mọi nhu cầu vật chất của Xuân Diệu sẽ
được quan tâm thỏa đáng nếu ông tiếp tục phục vụ sự nghiệp của họ một cách
trung thành. Về nhu cầu tình cảm và sinh lý của nhà thơ, lãnh đạo đảng cũng cố
gắng tạo điều kiện. Dù có quan điểm khắt khe và bảo thủ về hôn nhân và tình dục,
họ cũng sẵn lòng làm ngơ cho trường hợp của Xuân Diệu, cho phép ông được sống
chung một nhà với Huy Cận. Nhưng có lẽ đáng ghi nhận hơn là việc cả hai nhà thơ
đều sống chung nhà với bà Ngô Xuân Như, người em gái cùng cha khác mẹ với Xuân
Diệu và là vợ của Huy Cận. Cuộc hôn nhân của họ cho ra đời một người con trai
vào năm 1957 và chỉ kéo dài thêm vài năm sau đó, rồi hai người chia tay. Huy Cận
tái hôn năm 1964 và có thêm ba người con [38].
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp sắp kết thúc, Xuân Diệu cũng đã thu xếp cho mẹ
đẻ mình, lúc này đã già yếu, từ Quy Nhơn ra Hà Nội để tiện chăm sóc. Em trai
nhà thơ, ông Ngô Xuân Huy, quyết định ở lại miền Nam, nơi ông hưởng một cuộc sống
lặng lẽ với nghề viết văn độc lập dưới bút danh Tịnh Hà không mấy nổi tiếng [39].
Trong kế hoạch tiếp quản Hà Nội, lãnh đạo đảng quyết định chuyển đổi tờ Văn nghệ
từ một nguyệt san có phần thô sơ về hình thức phát hành ở chiến khu, thành một
tờ bán nguyệt san quy mô hơn - có thể sánh với các ấn bản văn hóa, trí thức của
Hà Nội thời Pháp tạm chiếm. Một thay đổi nữa là ban điều hành tờ báo. Sau bốn
năm để trống chức vụ thư ký toàn soạn chính thức của tờ báo, các lãnh đạo văn
hóa của chế độ mới quyết định phục hồi vị trí này. Tương tự như trường hợp của
tạp chí cách mạng xuất bản tại Hà Nội trước đây, tờ Tiên Phong (1945-1946), chức
vụ này rơi vào tay Xuân Diệu. Có thể họ đã tính toán rằng, những nhà trí thức
không theo cách mạng, nhiều người trong số đó đang cân nhắc xem có nên di cư
vào Nam không, sẽ thấy yên tâm hơn khi tên tuổi nhà thơ lãng mạn nổi tiếng xuất
hiện trên bìa ấn phẩm văn hóa quan trọng nhất của chế độ mới. (Trên thực tế,
tên Xuân Diệu được in với cỡ chữ to gấp đôi tên các thành viên khác trong ban
biên tập). Dù với lý do gì đi nữa, việc được bổ nhiệm vào vị trí thư ký tòa soạn
tờ Văn nghệ vào thời điểm bản lề hẳn có tác dụng như một thông điệp bảo đảm với
nhà thơ rằng, dù gặp rắc rối vì quan hệ đồng tính luyến ái hai năm trước đó,
tài năng và uy tín của ông trong lĩnh vực văn hóa vẫn được đánh giá cao trong
chế độ mới mà nhà thơ đang phụng sự.
Chú thích:
[1] Đảng Cộng sản Đông Dương (1931-1945) là tiền thân của Đảng
Lao động Việt Nam (1951-1975) và Đảng Cộng sản Việt Nam (1976-nay).
[2] Mạc Đình, Tâm trạng của giới Văn nghệ ở miền Bắc (Sài gòn, 1956 - không rõ
tên nhà xuất bản); P.J Honey “The Revolt of the Intellectuals in North Vietnam”
(Cuộc nổi dậy của các trí thức miền Bắc), The World Today 13, No.6 (June 1957):
250-260; Hoa Mai, biên tập, The “Nhân Văn” Affair [Vụ Nhân Văn] (Sài Gòn: The
Vietnam Chapter of the Asian People’s Anti-Communist League, 1958); Hoàng Văn
Chí, The New Class in North Vietnam [Giai cấp mới ở miền Bắc Việt Nam] (Sài
Gòn: Công Dân, 1958); Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Sài Gòn: Mặt Trận Bảo Vệ Tự
Do Văn hóa, 1959); Như Phong “Intellectuals, Writers, and Artists,” (Trí thức,
Văn sĩ và Nghệ sĩ) China Quarterly, no.9 (Jan-March 1962): 47-69; Hoàng Văn
Chí, From Colonialism to Communism [Từ thực dân đến cộng sản] (London, Pall
Mall Press, 1964; Hirohide Kurihara, “Changes in the Literary Policy of the
Vietnamese Workers Party, 1956-1958” (Những thay đổi trong chính sách văn học của
Đảng Lao động Việt Nam, 1956-1958) trong Indochina in the 1940s and 1950s, eds.
Takashi Shiraishi and Motoo Furata (Ithaca, NY: Sotheast Asia Program Cornell
University, 1992), (Nguyên bản tiếng Nhật của bài luận của Kurihara được đăng
trên Journal of Asian and African Studies, 1988); Georges Boudarel, Cent fleurs
ecloses dans la nuit du Vietnam: Communism et dissidence 1954-1956 [Trăm hoa vẫn
nở trong đêm Việt Nam: Chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến 1954-1956]
(Paris: Editions Jacques Bertoin, 1991); Georges Boudarel “Intellectual
Dissidence in the 1950s: The Nhan van-Giai pham Affair” [Trí thức bất đồng
chính kiến trong thập niên 1950: Vụ Nhân văn-Giai phẩm], Phi Linh Baneth lược dịch
từ tiếng Pháp, Vietnam Forum 13 (1990): 154-174; Kim Ninh, A World Transformed:
The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam [Một thế giới đã hoán cải:
Chính trị hóa văn hóa và cách mạng Việt Nam] (Ann Arbor: University of Michigan
Press, 2002), chương 4 (Trí thức bất đồng chính kiến: Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm);
Nguyễn Ngọc Tuấn, “Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of
the Relationship between Literature and Politics” [Phương pháp Hiện thực xã hội
chủ nghĩa trong Văn học Việt Nam: Phân tích mối quan hệ giữa Văn học và Chính
trị] (luận án tiến sĩ, Trường Đại Học Victoria, 2004) chương 6 (Vụ Nhân Văn
Giai Phẩm: Khủng hoảng giữa thời bình); Shawn McHale, “Vietnamese Maxism,
Dissent, and the Politics of Postcolonial Memory: Tran Duc Thao, 1946-2003” (Chủ
nghĩa Mác, Bất đồng chính kiến và Chính trị của Ký ức hậu thuộc địa ở Việt Nam:
Trần Đức Thảo, 1946-2003), Journal of Asian Studies 61, no.1 (Feb, 2002): 7-31;
Heinz Schutte, “Hundred Flowers in Vietnam, 1955-1957” (Trăm Hoa trên đất Việt,
1955-1957), bài trình bày tại hội thảo thường niên Hội Nghiên cứu Châu Á, New
York, 28/3/2003; Nguyễn Võ Thu Hương, The Ironies of Freedom: Sex, Culture and
Neoliberal Governance in Vietnam [Nghịch lý của tự do: Tình dục, văn hóa và
cách quản lý tân tự do ở Việt Nam] (Seattle: University of Washington Press,
2008), chương 7 (Từ tinh thần bất phục đến người đàn bà quỳ).
[3] Boudarel, “Intellectual Dissidence”, 172.
[4] Bà Thụy Khuê, trí thức người Pháp gốc Việt đáng được ghi nhận đặc biệt vì
đã thực hiện rất nhiều cuộc phỏng vấn với các nhân vật Nhân văn - Giai phẩm
trong chương trình Văn học Nghệ thuật của đài RFI.
[5] Xuân Diệu, Huy Cận, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Như Phong, Nguyễn Công
Hoan, Hoài Thanh, Tú Mỡ, Hồng Chương, và những người khác.
[6] Hoàng Văn Chí, Trăm Hoa, 148.
[7] Mạc Đình, Trăm Hoa, 12-13. Hoàng Văn Chí, From Colonialism to Communism,
230-231.
[8] Tất nhiên là sự so sánh này cũng có chỗ khập khiễng. Vào năm 1990, khi
Boudarel viết cuốn sách này, ông đã có thành kiến với chủ nghĩa cộng sản trong
khi Trotsky vào năm 1936 viết ở góc độ một tín đồ chân thực.
[9] Về thái độ cùng căm ghét Tố Hữu, xem Boudarel, Cent fleurs, 245. Về thái độ
thù nghịch chủ nghĩa Mao-ít và sự mong muốn chế độ thực hiện những cam kết đã hứa,
xem Boudarel “Intellectual Dissidence in the 1950s”, lần lượt ở các trang 154
và 164.
[10] Boudarel, Cent fleurs, 245.
[11] Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s”, 164-165. Trong Cent
fleurs tác giả viết: “Xuân Diệu, cùng với người bạn chí thiết Huy Cận, có quan
hệ rất tốt với Tố Hữu và những người phụ trách văn hóa của đảng - chỉ trích một
người là động đến tất cả những người khác (trong bọn họ)”: 235.
[12] Hồ sơ về Xuân Diệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III ghi ông gia nhập đảng
năm 1949.
[13] Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley and Los Angeles: University
of California Press, 1993), 208-209.
[14] Sđd., 269.
[15] Schutte, “Hundred Flowers in Vietnam”, 6.
[16] Cả Trần Dần và Hoàng Cầm đều yêu những người phụ nữ Hà Nội mà theo quan điểm
của đảng là xuất thân từ giai cấp bóc lột. Xem Kim Ninh, A World Transformed,
123-133. Chuyện tình của Lê Đạt được ít người biết đến hơn. Khi tham gia cải
cách ruộng đất năm 1953, ông cưới một phụ nữ thuộc tầng lớp bần nông, rồi chẳng
bao lâu sau bỏ bà để lấy một nữ diễn viên trẻ, việc này ảnh hưởng rất lớn đến
uy tín chính trị của ông.
[17] Trong tiếng Việt, văn nghệ là từ được ghép từ hai từ “văn học” và “nghệ
thuật”. Nhưng cụm từ “văn nghệ” cũng có thể được hiểu theo nghĩa “văn hóa” - ví
dụ như sáng tạo (hoặc quản lý) văn hóa/văn nghệ.
[18] Huy Phương, “Phát biểu về tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu”, Văn nghệ, số
126, 21-28/6/1956.
[19] Phan Khôi, “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, Giai phẩm Mùa thu tập 1, tháng
8/1956; Trần Công, “Chống bè phái trong văn nghệ”, Nhân Văn, số 1, 20/9/1956;
Nguyễn Bính, “Về giải thưởng văn học 1954-1955”, Trăm Hoa, số 1, tháng 10/1956.
[20] Dưới chính quyền Trần Trọng Kim năm 1945, tên Trường Bưởi Hà nội chính thức
được đổi thành Trường Chu Văn An, và được giữ nguyên đến nay. Trường Quốc học
Huế đã qua vài lần đổi tên. Khi người Pháp thành lập trường vào năm 1896, tên
chính thức của trường là École primaire superieur, nhưng người Việt thường gọi
là Trường Quốc học. Năm 1936, trường đổi tên thành Trường Trung học Khải Định.
Năm 1955, lại đổi thành Trường Trung học Ngô Đình Diệm. Năm 1957, trường được
trả lại tên cũ Quốc học, và được giữ nguyên đến nay. Như rất nhiều người đã biết,
nhiều nhân vật chính trị quan trọng đã học qua hai trường này. Điểm qua danh
sách cựu học sinh trường Bưởi có Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Xuân Hãn,
Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn
Cơ Thạch, Trần Đức Thảo, Dương Trung Quốc, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Đặng
Thùy Trâm, Hoàng Ngọc Phách, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khắc Viện, và nhiều người
khác. Ở trường Quốc học Huế, có Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Võ Nguyên Giáp, Phạm
Văn Đồng, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Lưu Trọng Lư, Huy Cận và Xuân Diệu. Chính trường
Quốc học Huế là nơi Xuân Diệu gặp người tình suốt đời Huy Cận.
[21] Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam: 1932-1941 (Hà Nội: NXB Văn Học,
2005. Theo lời nhà xuất bản, đây là bản in lại nguyên tác do NXB Nguyễn Đức
Phiên in năm 1942).
[22] Xuân Diệu, Thơ thơ và Gửi hương cho gió (Hà Nội, NXB Hội Nhà văn, 1995).
Những ý kiến phê bình thơ Xuân Diệu có thể đọc được từ: Thanh Lãng, 13 năm
tranh luận văn học, 1932-1945 (TP HCM: Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP HCM,
1995).
[23] Đọc các bài viết, ví dụ như của Hà Minh Đức, Xuân Diệu: Ông hoàng của thơ
tình yêu (Hà Nội: NXB Giáo dục, 2004).
[24] Nguyễn Quốc Vinh, “Deviant Bodies and Dynamics of Displacement of
Homoerotic Desire in Vietnamese Literature from and about the French Colonial
Period (1858-1954)” [Biến thái hình thể và những mâu thuẫn xung quanh chủ đề
khát khao tình dục đồng tính trong và sau giai đoạn Pháp thuộc, 1858-1954], Hợp
Lưu số 42, tháng 8-9, 41-53. Trong luận án tiến sĩ đang viết, Richard Trần dành
một chương để bàn về tình yêu đồng giới của Xuân Diệu trong những năm tiền cách
mạng.
[25] Kim Ninh, A World Transformed, 59.
[26] Sóng Hồng (Trường Chinh), Thơ (Hà Nội: Văn Học, 1966) 25-28.
[27] Một bài trên báo Công an Nhân dân ngày 7/2/2007 nhan đề “‘Là thi sĩ’ của
Sóng Hồng phê phán ‘Cảm xúc’ của Xuân Diệu?” cho rằng Trường Chinh viết bài thơ
ban đầu là để vận động một thư ký doanh trại lính Pháp rất yêu thơ tham gia
cách mạng.
[28] Từ điển Văn học (Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, 1984), 604.
[29] Sau khi giành chính quyền tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương
dành ra mấy tháng sau đó để truy tầm và xử tử vài ngàn người bị coi là phần tử
chính trị nguy hiểm (nhất là đảng viên các đảng đối lập). Vì vậy, khó có thể tưởng
tượng được rằng lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương nghiêm túc thực hiện “dân chủ
đại diện” trong cuộc tổng tuyển cử tháng Giêng năm 1946. Không rõ Xuân Diệu, gốc
Quy Nhơn quê Hà Tĩnh, có liên hệ cụ thể gì với tỉnh Hải Dương.
[30] “Đỗ Ngọc Dũng, “Kỷ Niệm 60 Năm Thành Lập Hội Văn nghệ Việt Nam.
[31] Sđd. Xuân Diệu phụ trách “tổ chức kiểm tra”. Trong bốn người còn lại, Nguyễn
Tuân là Tổng thư ký, Tố Hữu Phó Tổng thư ký, Võ Đức Diên phụ trách kinh tế và
Ngô Quang Chân làm quản trị.
[32] “Nghị quyết Hội Nghị Thống Nhất Hai Khu 1 và Khu 10: 5/11/49, Văn Kiện Đảng
Toàn Tập (Hà Nội: Chính trị Quốc Gia, 2001), 10:427. Cần phân biệt “Việt Bắc”
khác với “miền Bắc”, là khái niệm rộng hơn, dùng để chỉ 1 trong 3 kỳ thời Pháp
thuộc, và sau Hiệp định Geneva 1954, chỉ một nửa đất nước tính từ phía bắc vĩ
tuyến 17.
[33] Tịnh Hà, Xuân Diệu: Con người và Tác phẩm (Hà Nội: Văn Học, 1987), 11.
[34] Tô Hoài, Cát bụi chân ai (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1992), 198.
[35] Sđd, 199.
[36] Xuân Diệu, “Thư gửi các bạn văn nghệ ở Hà Nội”, Văn nghệ, số 56, tháng
10/1954.
[37] Sđd.
[38] Sau đó, Huy Cận lấy người vợ thứ hai, và cũng là cuối cùng, bà Trần Lệ
Thu, giảng viên tiếng Nga, Đại học Ngoại ngữ vào năm 1964, khi bà 28 tuổi. Họ
có với nhau ba người con.
[39] Sau năm 1975, hai anh em được đoàn tụ và cùng cộng tác trong một số dự án
văn học.
23/5/2015 Alec HolcombeĐông Hiến dịch
23/5/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét