Con tim và lý trí của thi sĩ Xuân Diệu:
Giai đoạn 1954-1958. Phần 2
Cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc
Trong chín tháng giữ vai trò cầm lái tờ Văn nghệ, từ ngày mồng
1 tháng Mười một năm 1954 đến ngày mồng 4 tháng Tám năm 1955, Xuân Diệu trải
qua một giai đoạn có thể coi là ly kỳ nhất trong cuộc đời tham gia cách mạng của
ông. Với chức vụ thư ký tòa soạn, Xuân Diệu cầm trịch cuộc tranh luận văn học
quan trọng về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, người đã được lãnh đạo đảng chọn để
đứng đầu mặt trận văn hóa. Cách Xuân Diệu xử lý cuộc tranh luận có vẻ đã làm
lãnh đạo đảng không hài lòng, và có thể chính điều đó đã dẫn đến quyết định phải
thay người khác vào vị trí thư ký tòa soạn báo Văn nghệ.
Trong hai tháng đầu tiên, Xuân Diệu đã để cho cuộc tranh luận diễn ra như một sự
kiện tranh luận văn học thực sự, cho in một số bài phê bình Việt Bắc khá nặng
cùng với những bài khen ngợi [1]. Nhưng dưới quan điểm “văn học không thể tách rời
chính trị” của chế độ, tranh luận công khai về thơ của Tố Hữu cũng có nghĩa là
tranh luận về quan điểm chính trị của ông ta. Và đương nhiên, phe phê phán chẳng
bao lâu sau bắt đầu đặt câu hỏi về lập trường của Tố Hữu theo hệ tư tưởng
Mác-Lê, ngầm ý chất vấn quyết định của lãnh đạo khi giao trọng trách cho Tố Hữu
ở vị trí quyền lực nhất trong lĩnh vực văn hóa. Nguyên nhân vì sao lãnh đạo Đảng
Lao động Việt Nam để cho cuộc tranh luận kéo dài đến thế vẫn là điều chưa được
giải đáp. Một cách giải thích khả dĩ là cuộc tranh luận diễn ra trong thời điểm
còn nhiều căng thẳng đối với giới lãnh đạo chế độ mới, khiến họ e ngại nếu can
thiệp không khéo sẽ làm bất bình số đông trí thức cách mạng, những người coi việc
tranh luận chuyên môn là một phần bình thường của đời sống trí thức.
Trong thời gian đó, nạn đói xảy ra ở hầu khắp các vùng nông thôn miền Bắc. Lúc
đó đang là tháng Tư, một tháng trước vụ chiêm. Ngay cả trong những năm được
mùa, người nông dân Bắc Việt vẫn thường thiếu ăn vào thời điểm này. Ba văn bản
liên tiếp của Bộ Chính trị kêu gọi cứu đói trên toàn miền Bắc (vào các ngày mồng
9, 16 và 29 tháng Tư năm 1955) cho thấy tình hình căng thẳng đến mức nào [2]. Một
vấn đề lớn nữa thu hút sự quan tâm của giới lãnh đạo vào thời điểm này là cuộc
di cư lớn của người dân miền Bắc vào Nam. Hiệp định Geneva đã ấn định khung thời
gian ba trăm ngày tự do đi lại giữa hai miền Nam - Bắc từ tháng Bảy năm 1954 đến
tận tháng Năm năm 1955. Đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những
người tự gọi chế độ của mình là “dân chủ nhân dân”, việc gần một triệu người miền
Bắc di cư vào Nam được coi là một thất bại lớn về thể diện. Đoạn văn dưới đây,
trích từ Chỉ thị 07 của Bộ Chính trị ban hành ngày 16 tháng Hai năm 1955 cho thấy
phần nào mối quan ngại của lãnh đạo đảng về vấn đề di cư và tác động của nó đối
với hình ảnh quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
“Chọn một vài địa điểm điển hình để tổ chức cho đồng bào đi (khu chọn rồi đề
nghị với Trung ương). Nếu mờ cả Ủy Ban quốc tế đến để chứng kiến việc đó. Những
nơi này phải là nơi có cơ sở quần chúng của ta, khi tổ chức cho quần chúng đi
thì chỉ có số ít xin đi, như thế mới có lợi cho ta. Khi làm việc này phải chuẩn
bị chu đáo, giải quyết thật nhanh.
Phải có kế hoạch trấn áp phản động, tăng cường canh gác, kiểm soát, đề phòng địch
lợi dụng dịp này thúc đẩy quần chúng tập trung, gây khó khăn cho ta.”[3]
Tố Hữu, tác giả của tập thơ Việt Bắc, lúc đó mới ba mươi lăm tuổi, là một người
gốc Huế gia nhập Đảng Cộng sản Đông dương từ năm 1938 và thăng tiến rất nhanh
qua các cấp ủy. Khi tập thơ được xuất bản, ông ta đang được cân nhắc vào vị trí
ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, một việc sẽ xảy ra trong năm
1955 [4]. Một biểu hiện nhỏ cho thấy lãnh đạo đảng đánh giá tập thơ Việt Bắc cao
đến thế nào là quyết định trích ngân sách hẹp hòi để cho in tập thơ với số lượng
hai mươi nghìn bản, một con số ấn bản lớn chưa từng có [5]. Về nội dung, Việt Bắc
là sự thể hiện bằng thơ quan điểm của Mao về “chiến tranh nhân dân” [6]. Tố Hữu
tả toàn thể dân tộc Việt Nam đều cống hiến trọn vẹn tâm hồn và lý trí cho công
tác đấu tranh cách mạng: từ người nông dân đi phá đường cho đến người lính pháo
binh công tập đồn Pháp, từ người phụ nữ tải đạn ra chiến trường đến em nhỏ làm
giao liên cho du kích Việt Minh. Ông ta nồng nhiệt ca ngợi Hồ Chí Minh, Stalin,
Mao và Đảng Lao động Việt Nam. Việt Bắc còn bao gồm các bài dịch từ dân ca Nam
Tư và một số bài thơ nước ngoài khác - hai bài của nhà thơ Liên Xô Konstantin
Simonov, một của nhà thơ cộng sản Pháp Louis Aragon, và một của nhà thơ cộng sản
Mỹ Ethel Rosenberg, đã bị tử hình với tội danh gián điệp vào năm 1953.
Bài báo đầu tiên giới thiệu tập thơ của Tố Hữu với công chúng do một cán bộ
chính trị xuất thân từ tỉnh Nghệ An tên là Xuân Trường viết được đăng trên số Tết
(ngày 24 tháng Giêng năm 1955) của tờ báo chính thống của đảng - Nhân dân [7]. Bài báo được viết theo dàn bài tiêu chuẩn của một văn kiện báo cáo đảng: giới
thiệu, ưu điểm, khuyết điểm và kết luận. Trong suốt cả bài gồm hai mươi chín đoạn
văn, chỉ có hai đoạn bàn về khuyết điểm của tập thơ Việt Bắc. Hai đoạn đó chủ yếu
vạch ra rằng Tố Hữu cần phải “cụ thể” hơn khi tả “người nông dân tham gia cách
mạng” và “đảng Tiên Phong của dân tộc”. Xuân Trường viết “chúng ta rất tiếc rằng
Tố Hữu chưa nói lên hộ lòng biết ơn, sức tin tưởng của hàng chục triệu con người
đảng viên và quần chúng đối với Đảng tiên phong của giai cấp công nhân” [8].
Ba tuần sau, vào ngày 15 tháng Hai năm 1955, Xuân Diệu cho đăng trên Văn nghệ
phần đầu của bài nhận xét dài của chính ông về tập thơ của Tố Hữu. Cũng như bài
viết của Xuân Trường, ông giữ đúng cấu trúc tiêu chuẩn của một bản báo cáo
chính trị. Trong bài viết gồm bảy mươi đoạn văn, Xuân Diệu dành sáu mươi đoạn để
ca ngợi ưu điểm của tập thơ:
“Từ 1932 đến 1945, trong khi các nhà thơ khác đắm chìm trong phong trào “thơ mới”
mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong, hát những bài ca tranh đấu.”…
Con đường ngót 20 năm nay Tố Hữu đã đi là một con đường vinh quang, kỳ diệu. Chỗ
kỳ diệu lớn lao là nhà thi sĩ làm cách mạng, và nhà cách mạng làm thơ, và thơ rất
thành công…
Cách mạng càng ngày càng thắng lợi, càng to lớn, đồng thời cũng đưa tài thơ của
Tố Hữu nở dần đến chỗ tròn đầy, lộng lẫy. Đó là sự tương quan mật thiết giữa
hành động và văn chương, và Tố Hữu là điển hình đẹp nhất.”[9]
Trong phần đầu của đoạn trích nêu trên, Xuân Diệu dường như đang xưng tội về
quá khứ của chính mình khi tham gia Thơ mới. Phải chăng mười năm dưới sự dẫn dắt
của đảng đã chuyển hóa hoàn toàn nhà thơ lãng mạn nổi tiếng Xuân Diệu? Có vẻ là
như vậy, cho đến khi chúng ta đọc đoạn thứ mười của bài với những dòng Xuân Diệu
viết về nhược điểm của tập thơ. Tại đó, nhà thơ nhẹ nhàng chỉ ra rằng tập thơ
Việt Bắc “nặng về tình cảm xã hội mà gần như bỏ qua tình cảm cá nhân”. Trong một
khổ khác, ông viết, “Con người cán bộ trong Tố Hữu bao trùm con người thường”. Ở
đây, những lời phê bình của Xuân Diệu dường như có hàm ý đề cao tính chủ quan -
cho phép con người ta có thể thay đổi bản chất để phù hợp với hoàn cảnh. Không
một bài viết nào khác về Việt Bắc đưa ra một ý kiến tương tự như thế. Từ đó,
người đọc có thể suy diễn một cách hợp lý rằng, theo Xuân Diệu, tính chủ quan của
con người rất phức tạp, không thể đánh giá theo một yếu tố chung nào hết - như
giai cấp chẳng hạn. Trong phần sau của bài viết, Xuân Diệu bổ sung thêm rằng
thơ Tố Hữu “nặng về tình cảm xã hội, tình cảm tập thể ” mà “hầu như không nói đến
những tình cảm của cá nhân” [10]. Không rõ Xuân Diệu có ý thức được điều này
không, nhưng rõ ràng việc ông chiếu tướng Tố Hữu về tình cảm cá nhân và khả
năng một con người có thể mang nhiều diện mạo tiềm ẩn nguy cơ thách thức học
thuyết chính thống cao hơn rất nhiều so với yêu cầu của Xuân Trường về việc cần
tả cụ thể về đảng tiên phong và quần chúng hàm ơn.
Ngày 11 tháng Ba năm 1955, hai tuần sau khi đăng bài bình luận của chính mình,
Xuân Diệu duyệt và cho đăng bài phê bình Việt Bắc của Hoàng Yến, một nhà phê
bình văn học trong quân đội gần như chưa được ai biết đến. Với nhan đề “Tập thơ
Việt Bắc có tính hiện thực hay không?”, bài phê bình phân tích năm bài trong tập
thơ để đi đến kết luận chung rằng những suy nghĩ, từ ngữ và hành động của các
nhân vật trong Việt Bắc trong những tình huống quan trọng có vẻ không hiện thực
và không thể hiện được tính phong phú và vĩ đại của cách mạng.[11]. Ngoài bài viết
của Hoàng Yến, Văn nghệ còn mời độc giả viết thư để đóng góp phản hồi về tập
thơ Việt Bắc đồng nghĩa với việc mở rộng diễn đàn tranh luận cho công chúng.
Trong một tháng rưỡi sau đó, Xuân Diệu, trong vai trò thư ký tòa soạn Văn nghệ,
đã cho đăng tiếp năm bài phê bình Tố Hữu, có nhiều điểm cho rằng ông ta kém về
năng lực lãnh đạo, thơ thì tầm thường và quan điểm cách mạng “tiểu tư sản có hệ
thống” [12]. Chắc chính lời phê về “tiểu tư sản” đó đã làm lãnh đạo đảng nhức nhối
nhất vì họ đã chọn Tố Hữu, cùng với các Ủy viên Trung ương là Lê Văn Lương và
Hoàng Quốc Việt giám sát công tác chỉnh huấn tư tưởng, với mục tiêu chính là gạt
bỏ những “tư tưởng tiểu tư sản” khỏi đầu óc các đảng viên [13].
Trong suốt năm tuần, Xuân Diệu đã duy trì gần như cân bằng những bài viết theo
hai hướng khen và chê tập thơ của Tố Hữu, như thể ông đang trở lại làm việc cho
tờ Ngày Nay của Tự lực Văn đoàn vậy. Rồi bỗng nhiên, sau số Văn nghệ ra ngày 1
tháng Năm năm 1955, ông xoay ngược một trăm tám mươi độ, cho đăng toàn những
bài khen ngợi tập thơ hết lời. Sự trùng hợp về thời gian giữa việc thay đổi đường
lối nói trên và cái mốc ba trăm ngày tự do đi lại giữa hai miền Nam Bắc (đến 18
tháng Năm 1955) gợi cho ta thấy hình như việc tự do đi lại cũng là một yếu tố
quyết định cách chính quyền xử lý cuộc tranh luận. Những bài viết phê phán Việt
Bắc bị ngừng đăng kể từ số Văn nghệ ngày 10 tháng Năm 1955, nhưng đến thời điểm
đó, đã quá muộn để biến cuộc tranh luận thành đợt tuyên truyền cho thơ Tố Hữu -
những nhà phê bình trẻ đã gây tổn thất nặng nề cho danh tiếng tập thơ Việt Bắc.
Không một bài bình luận tiếp theo nào, dù ca ngợi không tiếc lời về lòng yêu nước
và văn tài của Tố Hữu, có thể đảo ngược lại được những lời phê bình về nhược điểm
của Việt Bắc mà Xuân Diệu đã cho đăng trên những trang báo trước đó của tờ Văn
nghệ.
Ngoài quyết định chuyển hướng đột ngột trong cuộc tranh luận về Việt Bắc, có ba
điểm khác cho thấy hình như cách xử lý vấn đề của Xuân Diệu lúc ban đầu không
theo quan điểm của lãnh đạo đảng. Một là, không một tờ báo nào khác của đảng
ngoài tờ Văn nghệ đăng bài chê tập thơ Việt Bắc [14]. Các tổng biên tập của những
tờ báo khác dường như hiểu được ý của lãnh đạo đảng muốn họ giữ vai trò gì
trong cuộc tranh luận: đăng các bài khen Việt Bắc để bài chê của Hoàng Yến trở
thành hiện tượng cá biệt, qua đó cho thấy Tố Hữu được sự ủng hộ của đa số quần
chúng Việt Nam. Hai là, không bao lâu sau, lãnh đạo quyết định thay Xuân Diệu
và đưa Nguyễn Đình Thi, một quan chức văn hóa cứng rắn vào vị trí thư ký tòa soạn
báo Văn nghệ, người đặt dấu chấm hết cho cuộc tranh luận về Việt Bắc một thời
gian ngắn sau đó [15]. Bằng chứng thứ ba là ý kiến nhận định về cuộc tranh luận
của một quan chức văn hóa cao cấp, Hoài Thanh (tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam:
1932-1941 đã được nhắc đến ở phần trên). Trong một bài nhận xét về hoạt động
văn học năm 1955, ông ta viết: “Về mặt phê bình cũng phạm nhiều sai lầm thiếu
sót. Công tác phê bình ít được chú ý. Thỉnh thoảng có một cuộc phê bình như cuộc
phê bình tập thơ Việt Bắc thì lại có tính chất tự phát, thiếu chuẩn bị, thiếu mục
đích rõ ràng, thiếu kết hợp với yêu cầu đấu tranh chính trị và tư tưởng” [16].
Ý của Hoài Thanh là, Xuân Diệu, với vai trò thư ký tòa soạn Văn nghệ đã không
quan tâm đầy đủ đến những bài phê bình Việt Bắc, cho đăng những bài không phù hợp
với “yêu cầu của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng”. Nói cách khác, ông
không hiểu được rằng Văn nghệ đúng ra phải đóng vai trò là một cơ quan văn hóa
của đảng. Đặt trong hoàn cảnh đất nước ba năm rưỡi sau đó, cách ông xử lý cuộc tranh
luận - nhất là để cho mọi tầng lớp trí thức trong nước công khai và trực tiếp
chất vấn năng lực chuyên môn của một quan chức cao cấp của đảng như Tố Hữu - là
điều không thể tưởng tượng được [17].
Chú thích:
[1] Là thư ký tòa soạn, Xuân Diệu chịu trách nhiệm cuối cùng
về tất cả các bài đăng trên tờ báo. Tuy nhiên, theo chính thành viên Nhân văn -
Giai phẩm Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn Thụy Khuê ngày 5/5/2997, nhân vật trong
ban biên tập Văn nghệ tích cực nhất trong cuộc tranh luận
(http://thuykhue.free.fr/) là con người đầy sức
thu hút Nguyễn Hữu Đang. Sau đó, ông Đang trở thành một thành viên có thể gọi
là quan trọng nhất của phong trào Nhân văn - Giai phẩm. Ta không thể không thắc
mắc liệu có phải, trong chừng mực nào đó, Xuân Diệu đã nghe theo ý của Nguyễn Hữu
Đang thuyết phục về cách thức báo Văn nghệ tổ chức và điều hành cuộc tranh luận.
[2] Lê Văn Lương, “Chỉ thị của trung ương số 12-CT/TW, 9/4/55: Tăng cường lãnh
đạo chống đói và giải quyết nạn đói”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 16:241; Ban bí
thư, “Điện của ban bí thư ngày 16 tháng 4 năm 1955 gửi các khu”, Văn Kiện Đảng
Toàn Tập, 16:252; Nguyễn Duy Trinh, “Thông tri của ban bí thư số 30-TT/TW ngày
29 tháng 4 năm 1955: về việc tích cực thi hành Chỉ thị số 12 của TW gấp rút
tăng cường lãnh đạo công tác chống đói”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 16:279.
[3] Lê Văn Lương, “Chỉ thị của bộ chính trị số 07-CT/TW ngày 16 tháng 2 năm
1955: Đẩy mạnh đấu tranh phá âm mưu mới của địch trong việc dụ dỗ và cưỡng ép
giáo dân di cư vào Nam”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 16:74.
[4] Từ điển Văn học (Hà Nội, KHXH, 1984), 405-406.
[5] Boudarel, Cent fleurs, 119.
[6] Về chất lượng và phong cách, thơ Tố Hữu có thể so sánh, đại loại như với
bài “Paul Revere’s Ride” của Henry Wadsworth Longfellow.
[7] Báo Nhân Dân thành lập năm 1951, là cơ quan chính thức của Ủy ban Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam. Có thể tờ báo được lấy ý tưởng từ ấn phẩm cùng tên
của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
[8] Xuân Trường, “Vài ý kiến sau khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”, Nhân
Dân, số 329, 24/1/1955.
[9] Xuân Diệu, “Đọc tập thơ Việt Bắc”, Văn nghệ, số 63, 15-22/2/1955.
[10] Sđd, số 64, 28/2-10/3/1955.
[11] Hoàng Yến, “Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?”, Văn nghệ, số 65,
11/3/1955. Bài này sau đó được đăng lại trên báo Nhân Dân hai số ra ngày
3-4/4/1955. Bài báo được đăng lần đầu trên tạp chí văn học quân đội Sinh Hoạt
Văn nghệ.
[12] Về khả năng lãnh đạo yếu kém, xem Lê Đạt, “Học tập Maikovski, phát huy sức
sống mới của thi ca Việt Nam (kỳ 1 và kỳ 2), Văn nghệ, số 69 và 70, 21/4/1955
và 1/5/1955. Về chất lượng thơ tầm thường, xem Hoàng Cầm “Tập thơ Việt Bắc ít
chất sống thực tế”, Văn nghệ, số 67, 1/4/1955; và Nguyễn Văn Phú, “Vài điểm non
yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc, Văn nghệ, số 68 11/4/1955; và Hoàng Cầm,
“Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc”, Văn nghệ số 70, 1/5/1955.
[13] Xem Lê Văn Lương, “Vấn đề chỉnh huấn”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 13:101-106.
[14] Có thể kể các tờ báo Nhân Dân, Tổ Quốc, Độc Lập và Nói Thật. Ngoại lệ duy
nhất là báo Nhân Dân có đăng lại bài của Hoàng Yến, được coi như bài mở màn cho
cuộc tranh luận. Ngoài ra, không có một bài phê bình (chê) nào xuất hiện ngoài
mặt báo Văn nghệ.
[15] Sau khi Nguyễn Đình Thi thay Xuân Diệu làm thư ký tòa soạn, màu ma-két báo
Văn nghệ đổi từ xanh lá cây sang đỏ cờ. Thông tin về ban biên tập, vốn được
đăng ngay trang bìa trong thời gian Xuân Diệu làm thư ký tòa soạn, bị đưa về
trang cuối.
[16] Hoài Thanh, “Nhìn lại hoạt động văn nghệ một năm qua”, Nhân Dân, số 697,
29/1/1956.
[17] Phê bình công khai lãnh đạo cao cấp cỡ như Tố Hữu trong cuộc tranh luận về
Việt Bắc vẫn còn là điều cấm kỵ ở Việt Nam.
Xuân Diệu và Walt Whitman
Như đã đề cập ở phần trước, trong hai đêm Xuân Diệu tham gia chỉnh huấn vào năm
1952, vấn đề lang chạ đồng tính của Xuân Diệu bị đem ra để “phê và tự phê”.
Theo nhà văn Tô Hoài, những người tham gia buổi chỉnh huấn đêm đó đã liên hệ xu
hướng luyến ái đồng tính của nhà văn lãng mạn nổi tiếng với “tư tưởng tiểu tư sản
xấu xa” của ông – điều mà Xuân Diệu nhất quyết từ chối trong nước mắt. Sau đợt
chỉnh huấn, ông bị đưa ra khỏi Ban Thường vụ Hội Văn nghệ, một tai nạn nghề
nghiệp vẫn làm ông nhức nhối nhiều năm sau đó [18]. Vì quá nhiều bài thơ lãng mạn
nổi tiếng của ông có cảm hứng từ đề tài luyến ái đồng tính, và vì ông có biểu
hiện coi đó là một phần của chính mình, không thể thay đổi ngay cả với quyền
năng chuyển hóa của cách mạng, bài tiểu luận được ít người biết của Xuân
Diệu viết về Walt Whitman đăng trên số ra ngày 5 tháng Giêng năm 1956 của tờ
Văn nghệ cần được nghiên cứu kỹ.[19]
Quyết định viết về nhà thơ Mỹ không phải là một lựa chọn liều lĩnh về mặt chính
trị, vì chính những người gác cửa văn học chính thống của Liên Xô cũng đã tặng
cho Whitman danh hiệu “nhà thơ cách mạng” từ trước đó rất lâu. Dù đã tạ thế, sự
nghiệp cách mạng của nhà thơ Mỹ này có thể coi như được khởi đầu ở Nga vào năm
1905, khi những nhà cách mạng Nga tại hải ngoại phụ trách tờ Tia lửa (Iksra),
cơ quan của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (lúc đó đặt trụ sở tại Geneva-Thụy
Sĩ), chọn một bài thơ của ông vào “tuyển tập thi ca cách mạng”. Hơn thế nữa,
Whitman còn được nhân vật nổi tiếng nhất trong văn giới Liên Xô - nhà biên dịch,
viết tiểu luận và thơ thiếu nhi Kornei Chukovsky (1882-1969) chọn làm đề tài
nghiên cứu chuyên sâu.[20] Chukovsky đã đăng bài viết đầu tiên về nhà thơ Mỹ
“Phong trào hâm mộ Whitman ở Nga” trong tạp chí của trường phái Tượng trưng
Vesy vào năm 1906. Phần lớn nội dung bài viết đó được Chukovsky dành để phê
phán những bài dịch thơ Whitman của Konstantin Balmont, một nhà thơ Tượng
trưng. Sự công kích của Chukovsky đã khơi mào cho một cuộc tranh luận sôi nổi về
nghệ thuật biên dịch giữa hai người yêu thơ Whitman trên các trang báo của tờ
Vesy. Sau đó, giới lãnh đạo văn hóa Liên Xô ủng hộ Chukovsky, giúp ông đủ quyền
lực để nâng quan điểm về dịch thuật của mình trong cuộc tranh luận trước đó về
Whitman thành tiêu chuẩn chính thống, thành các nguyên tắc chung cho mọi hoạt động
dịch thuật của Liên Xô [21].
Vì Whitman vừa sử dụng thể thơ tự do vừa có quan điểm triết học duy tâm giống
như các nhà thơ trường phái Tượng trưng của Pháp - những người có ảnh hưởng
quan trọng đến dòng thơ lãng mạn của Xuân Diệu, có thể ông đã biết rõ về tác giả
của tập Lá cỏ từ trước khi tham gia cách mạng [22]. Không biết ông có biết về
Whitman sớm đến thế không, nhưng ít nhất Xuân Diệu hẳn phải nghe nói đến nhà
thơ này vào cuối năm 1945, khi một bài báo đăng trên Tiên Phong vào tháng 12
năm 1945 có nhắc đến nhà thơ Mỹ này. Với tiêu đề “Một lá thư ngỏ của Hội Văn
hóa Cứu quốc gửi các trí thức Mỹ”, bài báo được công bố là bản sao nguyên văn
lá thư thật được đưa cho một nhà báo Mỹ đến Hà Nội để đưa tin sự kiện Nhật Bản
đầu hàng. Theo lời kể, nhà báo bí ẩn này đến trụ sở hội vào ngày 21 tháng Mười
năm 1945, trước khi về Mỹ. Người ta kể rằng vì cảm tình với sự nghiệp ái quốc của
Hội Văn hóa Cứu quốc, ông nhà báo này tình nguyện nhận chuyển thư của hội đến
các nhà trí thức Mỹ [23]. Lá thư của hội, được in lại trên báo Tiên Phong bày tỏ
lòng tin rằng “… Mối thiện cảm của những người đồng chí của Phan-cờ-in
(Franklin), Bít-sơ Xít-tao (Beecher Stowe), I-mớc-sơn (Emerson), Oan-tờ
Huýt-man (Walt Whitman), Ê-đi-sơn (Edison), những người như Giấc-cờ Lân-đơn
(Jack London), Xin-co-le Liu-ít-xờ (Sinclair Lewis), Pớc Bấc-cờ (Pearl Buck)… ở
giữa một nước lớn như dân tộc Hoa-kỳ, sẽ làm rung chuyển dư luận hoàn cầu để
giúp cho cuộc giải phóng của chúng tôi” [24].
Cũng có thể Xuân Diệu đã tìm hiểu thêm về Whitman khi đi Liên Xô và Đông Âu năm
1955, vì chuyến đi của ông trùng với thời gian kỷ niệm 100 năm tập thơ Lá Cỏ nổi
tiếng của nhà thơ Mỹ này. Trong chuyến đi, có thể Xuân Diệu đã thấy những cuốn
sách về Whitman bày trên giá các hiệu sách nơi ông đến thăm, với hy vọng thu
hút được mối quan tâm về tác giả đang được hâm nóng lại trong đợt kỷ niệm. Điều
này có thể lý giải được thời điểm Xuân Diệu viết bài về Whitman, vì bài báo được
đăng trên Tiên Phong một thời gian ngắn sau khi ông đi Liên Xô và Đông Âu về.
Tuy nhiên, chi tiết thú vị nhất là Xuân Diệu biết Whitman là người đồng tính
luyến ái từ khi nào và bằng cách nào, vẫn còn là câu hỏi bí ẩn. Chỉ biết trong
các bài thơ lãng mạn của ông, không thấy có điểm liên hệ nào tới nhà thơ Mỹ
này.
Bài của Xuân Diệu giới thiệu Whitman trên báo Văn nghệ thể hiện quan điểm chính
trị của chế độ đương thời, với yêu cầu phải xác định rõ mối đồng cảm của nhà
thơ Mỹ với giai cấp vô sản. Vì thế, bài báo bắt đầu bằng những dòng kể lể tỉ mẩn
về xuất thân bình dân của Whitman, là con trai một di dân, làm nghề đóng khung
nhà, và thời trẻ ông ta cũng làm những công việc “tay làm hàm nhai” - thợ in,
giáo viên, nhà báo, thợ gặt. Bài báo cũng trích nguyên nhiều câu trong bài “Thơ
Tự do cho châu Á, Phi, Mỹ, Úc, Cuba và các Quần đảo ở Đại Dương” của Whitman.
Trong những lời kêu gọi chung chung tranh đấu chống cường quyền trên khắp thế
giới, bài thơ đó của Whitman phảng phất những nét hao hao giống lý thuyết
Mác-xít về cách mạng vô sản thế giới. Có lẽ để tô đậm thêm mối liên hệ này,
tiêu đề của bài thơ được đổi thành “Tặng một nhà cách mạng châu Âu thất bại”.
Không rõ Xuân Diệu tự đổi hay chỉ đơn thuần sao chép lại cách đặt tiêu đề của một
dịch giả trước đó. Ngay dưới tiêu đề bài thơ, Xuân Diệu giải thích rằng bài thơ
lấy cảm hứng từ cuộc cách mạng bị thất bại năm 1848. Trong bài viết, Xuân Diệu
còn khai thác sâu thêm cảm tình vô sản của Whitman bằng cách dẫn nhiều khổ thơ
trong bài “Bài ca đời tôi”, tất cả đều nhằm minh chứng rằng nhà thơ Mỹ thực sự
đã “đi sâu vào thực tế của quần chúng lao khổ” [25].
Tuy nhiên, bài báo có đôi chỗ mang dấu hiệu cho thấy Xuân Diệu đang sử dụng
quan điểm chính trị của chế độ đương thời làm bình phong để khoe một cách kín
đáo về đời sống luyến ái đồng tính của Whitman. Ví dụ, bài báo có kể rằng “…
Lúc đã nổi tiếng, nhiều khi ông (Whitman) thay các bạn ông làm người đánh xe ngựa,
làm người bán vé xe hàng”. Chi tiết này có vẻ như đơn thuần là một động tác nhấn
mạnh sự gần gũi của nhà thơ Mỹ với quần chúng cách mạng. Nhưng trên thực tế, có
thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nữa, vì người bán vé xe hàng mà Xuân Diệu nhắc đến
chính là Peter Doyle, người đàn ông được coi là người tình suốt đời của
Whitman.
Đọc kỹ bài báo, ta thấy có nhiều chỗ Xuân Diệu dường như đang muốn liên hệ những
nét giống nhau giữa cuộc đời của chính mình với nhà thơ Mỹ này. Ví dụ, ông viết
rằng Whitman “lúc hai mươi tuổi, đọc rất nhiều sách Âu và Mỹ” (ai cũng biết
Xuân Diệu là nhà Thơ mới chịu ảnh hưởng nhiều nhất của thơ Tây phương, nhất là
thơ trường phái Biểu tượng của Pháp). Ông còn kể rằng, từ năm mười chín đến hai
mươi hai tuổi, nhà thơ trẻ Whitman “làm một số bài buồn thảm và tiêu cực” (theo
cách phân tích chính thống về bước chuyển hóa cách mạng của Xuân Diệu, văn nghiệp
của ông bắt đầu từ những năm mười mấy, hai mươi tuổi với những bài thơ lãng mạn
“buồn thảm” và “tiêu cực”). Bài báo viết tiếp rằng, trong những năm từ 1846 đến
1848, Whitman làm tổng biên tập báo Brooklyn Daily Eagle (tương tự như chức vụ
thư ký tòa soạn báo Tiên Phong của Xuân Diệu từ năm 1945 đến 1946) trong thời
gian Mỹ đang có chiến tranh với Mexico. Xuân Diệu viết trong bài báo rằng “từ
lúc đó, một luồng gió cách mạng thổi vào trong các bài báo của ông. Và chính
lúc ông đầy một tinh thần chống dùng nô lệ và đấu tranh cho lý tưởng dân chủ,
là lúc ông thấy dồi dào hồn thơ trở lại”. Phải chăng “luồng gió cách mạng” này
cũng tương tự như luồng gió đã thực sự thổi vào Xuân Diệu trong năm 1945, và
góp phần hình thành những vần thơ cách mạng của ông?
Sau khi khai thác mọi chi tiết có thể để tạo cho Whitman căn cước của một người
vô sản với tư tưởng tiến bộ, hàm ý nhà văn Mỹ vĩ đại này hội đủ điều kiện để đi
theo đảng Tiên Phong nếu có được cơ hội, Xuân Diệu đi vào phần kết của bài luận
dài. Đến đây, ông tự nhiên mất cảnh giác và dẫn một đoạn trong bài thơ cuối
cùng của tập Lá Cỏ, bài “Chia tay”, không liên quan gì đến chủ đề cách mạng:
Bạn ơi, đây không phải là một quyển sách.
Ai cầm đến sách này là động đến một con người.
Có phải giữa đêm chăng?
Có phải chỉ có hai chúng ta mà thôi chăng?
Bạn cầm lấy tôi và tôi đang cầm lấy bạn.
Từ giữa những trang sách tôi vọt ra giữa vòng tay bạn ôm…
… Bạn thân hỡi, dù bạn là ai, bạn cũng nhận cái hôn này
Cái hôn tôi riêng tặng bạn,
Bạn đừng quên tôi…
Dù không ai biết chắc trăm phần trăm, nhưng có vẻ Xuân Diệu chọn những câu thơ
này vì chúng gợi tả một tình cảm đồng tính và lãng mạn, nhất là với những người
hiểu biết về đời tư của Whitman. Lời bình đầy cảm xúc của Xuân Diệu về bài thơ
là bằng chứng rõ ràng cho cách suy luận nêu trên: “Đọc đến bài thơ này, tôi có
thể nào không nhận thấy hơi thở của nhà thi sĩ còn tinh anh ở trong câu thơ?
Tôi có thể đọc qua loa, hờ hững?” Ông còn viết thêm “Thơ viết hàng trăm năm trước,
bây giờ vẫn còn tươi nguyên. Đó là mãnh lực của văn chương, của thơ”.[26]
Giai Phẩm Mùa Xuân 1956
Làm một trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần phải có nhiều kỹ năng, vừa phải
biết điều chỉnh ngòi bút, cây cọ vẽ, nét nhạc hay bài nghiên cứu so cho phù hợp
với yêu cầu chính trị mới nhất do lãnh đạo đảng đưa ra, vừa phải đảm bảo chất
lượng chuyên môn để không bị đồng nghiệp phê phán. Đồng thời, phải theo dõi những
sự kiện lớn trong khối xã hội chủ nghĩa và lường trước được những ảnh hưởng đến
chính trị trong nước. Và cuối cùng, ở mức độ cá nhân, một trí thức Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa phải biết duy trì quan hệ trên - dưới và biết nên kết bạn với ai
(và cần phải gạt bỏ ai). Trong cuộc tranh luận về Việt Bắc, Xuân Diệu đã để cho
các nhà thơ trẻ Hoàng Cầm và Lê Đạt đăng các bài viết phê bình nặng nề Tố Hữu,
quan chức văn hóa quyền lực nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không biết ông
có đồng tình hay không với quan điểm chỉ trích của họ, nhưng kể từ thời điểm
đó, Xuân Diệu bị coi là có liên quan với hai người nổi loạn này. Trong suốt hai
năm rưỡi sau đó, ông nhiều lần tìm cách để tách mình khỏi hai người đó. Như
chúng ta sẽ thấy, để đạt mục đích nói trên, Xuân Diệu dùng những biện pháp càng
ngày càng xấu xa, thậm chí đến mức gần như tự hủy diệt cá tính của mình.
Động thái đầu tiên là vào tháng Hai năm 1956, khi Hoàng Cầm và Lê Đạt cộng tác
với bảy nhà văn khác cho ra đời một tuyển tập văn học, xuất bản riêng, có tiêu
đề Giai Phẩm mùa Xuân 1956 [27]. Dù có quan điểm chính trị riêng, về cơ bản tuyển
tập vẫn đồng điệu với lãnh đạo đảng, thậm chí còn thể hiện nhiệt tình hưởng ứng
chiến dịch cải cách ruộng đất - thiết nghĩ không cần nhắc lại rằng chỉ sáu tháng
sau đó, chiến dịch cải cách ruộng đất này bắt đầu bị phê phán và các nhà trí thức
bất bình phản đối gay gắt [28]. Hình như Giai Phẩm mùa Xuân 1956 ra đời nhằm hai
mục tiêu chính. Thứ nhất là để chứng tỏ với lãnh đạo đảng rằng, nếu để cho các
trí thức trẻ tự thân vận động, họ vẫn sẽ ủng hộ chương trình chính trị của Đảng
Lao động Việt Nam một cách trung thành, và chính vì thế, họ đáng được tin tưởng
nhiều hơn. Nói cách khác, đảng mất gì mà không cho tự do ngôn luận? Mục tiêu thứ
hai là thể hiện cho lãnh đạo đảng và những thành viên khác của giới trí thức thấy
có những sáng tác văn chương thực sự cách mạng hơn, hay hơn so với loại thơ “tiểu
tư sản” của Tố Hữu. Cứ để tự do ngôn luận, chế độ sẽ dễ dàng phát hiện và bồi
dưỡng những tài năng trẻ.
Không thấy rung động trước nỗ lực ve vãn cảm tình của mình theo cách này, lãnh
đạo đảng lập tức ra lệnh tịch thu tuyển tập. Tuy nhiên, một điều quan trọng cần
lưu ý là họ (lãnh đạo đảng) giải quyết vấn đề Giai Phẩm mùa Xuân 1956 hoàn toàn
qua kênh quản lý văn hóa. Xem cả hai ấn phẩm nặng ký nhất của đảng, báo Nhân
Dân và Học Tập - một tạp chí lý luận mới ra đời trước đó không lâu, không có một
bài báo nào “đánh” ấn phẩm này. Chính vị quan chức văn hóa sắt đá Hoài Thanh đứng
ra triệu tập cuộc họp các nhà văn để phê bình bài thơ “Nhất định thắng” của nhà
thơ quân đội trẻ nóng tính Trần Dần đăng trong tập Giai Phẩm mùa Xuân 1956 [29]. Có chân trong ban lãnh đạo Hội Văn nghệ, đương nhiên Xuân Diệu cũng phải phát
biểu ý kiến về việc này, mà hình như ai cũng biết là có liên quan đến vấn đề tự
do ngôn luận trong chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bài báo ông viết trên báo
Văn nghệ không bao lâu sau khi Giai Phẩm mùa Xuân 1956 bị tịch thu là lời minh
định rõ ràng, khó có thể hiểu khác đi được. Dưới tiêu đề “Vai trò lãnh đạo của
Đảng”, bài báo thực chất là bản dịch rút gọn lời phát biểu của Nikolai Fadeyev
- một quan chức văn học Liên Xô tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ hai
mươi tổ chức vào tháng Hai năm 1956 “Đối với chúng ta, những nhà văn trong Đảng
hay ngoài Đảng, khía cạnh quan trọng nhất của quan niệm chúng ta về một nền văn
học tự do, tức là thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống và trong lĩnh vực văn học. Những nhà văn tư sản thì phụ
thuộc vào các đảng tư sản, mà cầm đầu là bọn trùm của giới kỹ nghệ và tài
chính, nhà văn phải phụ thuộc vào các nhà xuất bản của chúng, vào báo chí của
chúng. Thuật ngữ ‘phi chính trị’ của các nhà văn tư sản chỉ là ảo tưởng” [30].
Đợt công kích của Văn nghệ vào Giai Phẩm mùa Xuân 1956 sử dụng chiến thuật hai
gọng kìm. Trước hết, Xuân Diệu biện luận rằng đảng không thể tha thứ cho hành động
thách thức vị thế độc quyền của mình trong lĩnh vực văn hóa. Việc xuất bản
riêng, không qua tổ chức đảng tức là Giai Phẩm mùa Xuân 1956 đã không chịu phục
tùng yêu cầu bắt buộc về kiểm duyệt của chế độ. Một điềm xấu hơn nữa đối với những
trí thức nhiều ưu tư về tình trạng chế độ ngày càng gia tăng kiểm soát, phần nội
dung bài phát biểu được Xuân Diệu chọn dịch thừa nhận “vai trò lãnh đạo” của đảng
không chỉ trong lĩnh vực văn học mà còn trong “tất cả mọi lĩnh vực của đời sống”.
Hoài Thanh đảm nhận mũi tấn công thứ hai bằng bài viết in ngay sau bài của Xuân
Diệu với nhan đề “Vạch tính chất phản động của bài thơ ‘Nhất định thắng’ của Trần
Dần” [31]. Trong bài viết, Hoài Thanh dùng một loạt đòn bẩy tư tưởng và hùng biện
để bẻ cong bài thơ yêu nước và đầy tính chiến đấu của Trần Dần thành “phản động”
và nổi loạn [32]. Hơn một tháng rưỡi sau, một quan chức văn hóa cốt cán khác -
Nguyễn Đình Thi, đột nhiên đào xới lại việc này, đăng liên tiếp trên hai số Văn
nghệ ngày 19 và 27 tháng Tư năm 1956 bài viết dài hai phần với tiêu đề “Những
sai lầm tư tưởng trong tập sách Giai Phẩm” [33].
Ngay sau khi Giai Phẩm mùa Xuân 1956 được phát hành, Xuân Diệu đã có những bước
dứt khoát để tách mình ra khỏi Trần Dần và Lê Đạt. Tuy nhiên, điều quan trọng
ta cần lưu ý là bài viết của Xuân Diệu đánh Giai Phẩm không hề động chạm tới nội
dung tuyển tập. Nếu lấy lời phê bình của Xuân Diệu đối với Việt Bắc làm thước
đo, những bài thơ của Trần Dần, Lê Đạt và các tác giả khác trong tuyển tập Giai
Phẩm mùa Xuân 1956 có lẽ đã được Xuân Diệu duyệt về chất lượng. Trong khi, theo
con mắt của Xuân Diệu, Tố Hữu còn nhiều thiếu sót - như không thể hiện được một
“Tố Hữu, con người bình thường” hay “gần như bỏ qua tình cảm cá nhân”, thật ra
các tác giả trẻ của Giai Phẩm mùa Xuân 1956 đã thành công [34]. Có lẽ Xuân Diệu
chọn cách dịch bài diễn văn mới của quan chức văn hóa Liên Xô phần nào để tránh
công việc khó khăn là bới móc những nội dung nguy hiểm và phản động trong Giai
Phẩm mùa Xuân 1956 - một tuyển tập thể hiện rõ ràng sự ủng hộ đối với Đảng Lao
động Việt Nam và những mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng nhất là khi Xuân Diệu quyết định sử dụng bài diễn
văn của Fadeyev, các trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như được bật đèn xanh để
khai thác các thông tin, văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20
làm dẫn chứng cho tính chính thống của quan điểm của mình đối với các sự kiện
trong nước. Những người thấy thất vọng với Xuân Diệu khi ông công khai viện dẫn
quyền lực của Fadeyev đã không thể ngờ được rằng chính chiến thuật khôn ngoan
đó lại nổ ngược một cách ngoạn mục làm điêu đứng nhà thơ và các lãnh đạo bảo thủ
khác của giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là vì có một bài diễn văn
“bí mật” khác, mà đến giờ ai cũng rõ, cũng được đọc ngay tại Đại hội 20 Đảng Cộng
sản Liên Xô - bản báo cáo nổi tiếng của Khrushchev lên án Stalin. Từ bài diễn
văn đó, các nhà trí thức bất bình trong đội ngũ nhà văn có thể khai thác được
không biết bao nhiêu lời biện hộ ở cấp cao nhất cho kế hoạch cải cách của họ -
trên thực tế những thành viên Nhân văn - Giai phẩm sẽ coi Khrushchev như một
ông thánh bảo hộ.
Quyết định chậm công bố bài của Khrushchev vạch mặt những tội ác của Stalin của
Đảng Lao động Việt Nam đã làm cho chàng thi sĩ cả tin Xuân Diệu bị việt vị. Nếu
được biết về bản báo cáo bí mật đó, chắc ông đã chọn cách khác để tấn công Giai
Phẩm mùa Xuân 1956. Tuy nhiên, cũng phải thấy sự cân nhắc, lưỡng lự xem có nên
công bố nội dung bản báo cáo của Khrushchev hay không từ phía các nhà lãnh đạo
là có nguyên cớ, vì từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh đến các quan chức khác của Đảng
Lao động Việt Nam đã mất rất nhiều công sức khuếch trương hình ảnh của Stalin ở
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [35]. Họ sẽ phải giải thích thế nào về một ông
Stalin khát máu, cố chấp, đôi khi bất tài đến mức làm hỏng việc như Khrushchev
đã tả trong bản báo cáo bí mật? Giống như những nhà lãnh đạo khác trong khối xã
hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cũng lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi phải
lên tiếng về những điểm xấu của thói “sùng bái cá nhân”, vì ông rõ ràng đã khuyến
khích xây dựng một vòng hào quang sùng bái quanh hình ảnh chính mình ở Việt
Nam [36]. Hơn thế nữa, nội dung bản báo cáo của Khrushchev còn có vấn đề ở chỗ, phần
dài nhất được tác giả dành để kể về những năm tháng chuẩn bị và giai đoạn chính
của cuộc Đại Thanh trừng do Stalin tiến hành, từ năm 1934 đến 1938. Đối với Hồ
Chí Minh, đây quả là một vấn đề khó khăn, vì những năm tháng đó cũng trùng với
thời gian ông đang ở Moscow (tháng Bảy năm 1934 đến mùa xuân 1938) [37]. Nếu đây
là quá trình Stalin thể hiện bộ mặt xấu xa nhất và Hồ Chí Minh đang ở ngay tại
Moscow trong suốt thời gian đó, thì tại sao ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Stalin
lại (và vẫn đang) được mô tả như một ông thánh trong suốt mấy thập kỷ qua? Tại
sao Hồ Chí Minh, lãnh tụ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nikita Khrushchev, lãnh tụ
mới của khối xã hội chủ nghĩa, lại đi đến những kết luận trái ngược đến như vậy
về di sản của Stalin?
Những yếu tố nói trên giúp giải thích vì sao lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam chậm
tiết lộ thông tin về bản báo cáo của Khrushchev về Stalin. Những bằng chứng từ
hồi ký của nhà văn cách mạng Nguyễn Huy Tưởng cho thấy, mãi tới tận ngày mồng Một
tháng Tư năm 1956, tức là ba mươi tư ngày sau khi bản báo cáo được công bố, những
trí thức cao cấp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới bắt đầu hiểu thuật ngữ “tệ
sùng bái cá nhân” là để chỉ Stalin [38]. Ngày 24 tháng Tư năm 1956, Đảng Lao động
Việt Nam ban hành Nghị quyết 9, với nội dung, theo tinh thần Đại hội 20 của Đảng
Cộng sản Liên Xô, kêu gọi các cấp ủy “đấu tranh chống tệ sùng bái cá nhân, tăng
cường lãnh đạo tập thể, tích cực tham gia phê bình và tự phê bình” [39]. Đợt hóa
giải ảnh hưởng của Stalin đã chính thức bắt đầu tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chú thích:
[18] Tô Hoài, Cát bụi chân ai, 198-199.
[19] Tình yêu đồng tính của Whitman đã được người nghiên cứu và viết tiểu sử
ông trình bày trong một bài phân tích thú vị. Xem Jeffrey Meyers, “Whitman’s
Life” (Cuộc đời của Whitman), The Antioch Review, số 4 (Autumn 2005): 755-787.
[20] Muốn biết về ảnh hưởng của Whitman đối với các nhà văn Biểu tượng Pháp,
xem P.M. Jones, “Whitman in France” (Whitman ở Pháp), Modern Language Review
10, số 1 (tháng 1/1915): 1-22. Về ảnh hưởng của Whitman đối với nhà văn Liên Xô
nổi tiếng Vladimir Mayakovsky, xem Dale E. Peterson, “Mayakovsky and Whitman:
The Icon and the Mosaic” (Mayakovsky và Whitman: Biểu tượng đơn icon và hình
ghép mosaic), Slavic Review 28, số 3 (tháng 9/1969): 416-425. Nghiên cứu về
Chokovsky vừa với vai trò dịch giả của thơ Whitman vừa làm chính trị, xem
Rachel Polonsky, “Translating Whitman, Mistranslating Bal’mont” (Dịch Whitman,
dịch nhầm Bal’mont), Slavonik and Eastern Europe Review 75, số 3 (tháng
7/1997):401-425. Trong bài viết thú vị này, Polonsky đã ghi nhận rằng “Whitman
đã từng được Max Nordau nhắc đến trong nghiên cứu gây nhiều tiếng vang về căn bệnh
mà ông cho là ‘bệnh đồi trụy’ Entartung [Sa đọa, 1892], trong đó Whitman bị
miêu tả là ‘bụi đời và phóng đãng’ và xếp đồng hạng với Verlaine và Rimbaud và
những kẻ giống như họ”.
[21] Polansky, “Translating Whitman”, 402-404.
[22] Jones, “Whitman in France”, 4. Tác giả ghi nhận ý kiến của nhiều nhà
nghiên cứu văn học suy đoán rằng các nhà thơ Pháp đã học thể thơ tự do của
Whitman sau khi tác phẩm của nhà thơ Mỹ này được dịch lần đầu tiên và xuất hiện
ở Pháp vào năm 1886, tức là một năm trước khi Pháp bắt đầu có lối làm thơ tự
do.
[23] Chúng tôi chưa tìm được bất kỳ bằng chứng nào về việc một nhà báo Mỹ đến
trụ sở Hội Văn hóa Cứu quốc. Có thể câu chuyện được dựng lên hoàn toàn (hoặc một
phần nào) nhằm mục đích tuyên truyền, tạo ấn tượng cho công chúng Việt Nam rằng
khi đó nhà báo nước ngoài đã nhìn nhận Hội là tiếng nói chính thức của văn hóa
Việt Nam. Tại thời điểm cuối năm 1945, thực ra Hội Văn hóa Cứu quốc, dù khá
quan trọng, cũng chỉ là một trong nhiều tiếng nói văn hóa ở Việt Nam.
[24] “Một bức thư của Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam trao tận tay cho các nhà
văn hóa Hoa Kỳ”, Tiên Phong, số 2, tháng 12/1945, 5.
[25] Xuân Diệu, “Uýt-man: Nhà thi hào tiến bộ của nhân dân Mỹ”, Văn nghệ, số
102, 5/1/1956.
[26] Sđd
[27] Giai phẩm Mùa xuân 1956 (Hà Nội, NXB Minh Đức, tháng 2/1956). Các tác giả
khác là Văn Cao, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Sáng và Tô Vũ.
[28] George Boudarel và Kim Ninh đều đi đến kết luận giống nhau. Xem Boudarel,
Cent fleurs, 134-138 và “Intellectual Dissidence”, 159; và Kim Ninh, A World
Transformed, 137. Chúng tôi dùng từ “về cơ bản” chứ không phải “hoàn toàn” vì
tuyển tập có nhiều bài viết về nhân vật chính là người dẫn chuyện ở ngôi thứ nhất
(chứ không phải là quần chúng). Lãnh đạo đảng đương nhiên không muốn các trí thức
tiểu tư sản viết về bản thân mình. Để biết thêm một ý kiến phân tích mới lạ về
hiện tượng này, xem Chương bảy của Nguyễn-võ Thu-hương The Ironies of Freedom.
Kuriharu đưa ra ý kiến rằng bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần có những
dòng “có thể hiểu như lời kêu gọi thống nhất đất nước bằng cách đưa quân đội tiến
chiếm miền Nam”, điều trái ngược với chính sách công khai được Đảng Lao động Việt
Nam công bố lúc bấy giờ là thống nhất bằng biện pháp hòa bình. Xem Kuriharu
“Changes in the Literary Policy”, 168. Cảm giác của chúng tôi là ý kiến trên có
vẻ mang tính suy đoán hơi quá, nhưng rất mong độc giả quan tâm tìm hiểu thêm
(xem khổ thơ thứ bảy).
[29] Trần Dần là một trong những trí thức đầu tiên lên tiếng về chính sách văn
nghệ gò bó của đảng. Việc bày tỏ ý kiến công khai về vấn đề trên là một nguyên
nhân khiến ông bị quản chế hai lần (tháng 6/1955 và tháng 4/1956). Boudarel gọi
ông là người châm ngòi cho phong trào trí thức bất đồng chính kiến ở miền Bắc.
Xem Boudarel, Cent fleurs, 143.
[30] Xuân Diệu, “Vai trò lãnh đạo của Đảng”, Văn nghệ số 110, 1/3/1956.
[31] Hoài Thanh, “Vạch tính chất phản động của bài ‘Nhất định thắng’ của Trần Dần”,
Văn nghệ, số 110, 1/3/1956.
[32] Một ví dụ là suy luận của ông này chụp mũ Trần Dần dùng hình ảnh mưa ở Hà
Nội để vu khống miền Bắc. Một ví dụ nữa là suy luận (theo đường lối chính thống
của đảng) rằng Trần Dần nói xấu miền Bắc khi thể hiện rằng đồng bào tự ý quyết
định di cư vào Nam. Quan điểm chính thức của Đảng Lao động Việt Nam là, những
người di cư là nạn nhân bị Mỹ, Diệm ép buộc phải đi.
[33] Nguyễn Đình Thi, “Những sai lầm về tư tưởng trong tập sách Giai Phẩm”, Văn
nghệ, số 117 & 118, 19 và 27/4/1956.
[34] Xem các tác phẩm, ví dụ như, Lê Đạt, hai bài thơ “Làm thơ” và “Mới”; Trần
Dần, thơ “Nhất định thắng”, Hoàng Cầm “Thơ qua đài phát thanh”; hay bài hát
“Mưa Xuân” của Tử Phác và Văn Cao.
[35] Các nghiên cứu của Ilya V. Gaiduk và Christopher E. Goscha nhấn mạnh sự ngờ
vực ban đầu của Stalin cho rằng Hồ Chí Minh thiên về chủ nghĩa dân tộc hơn là
chủ nghĩa cộng sản và hậu quả của nó là sự khó khăn cho Đảng Cộng sản Đông
Dương tái hòa nhập với phong trào cộng sản thế giới sau Chiến tranh Thế giới lần
II. Tuy nhiên, có phải chính vì nguyên nhân này mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
nhiệt tình lăng-xê Stalin hơn so với các quốc gia khác trong khối xã hội chủ
nghĩa vẫn là giải thuyết cần nghiên cứu thêm. Xem Ilya V. Gaiduk Confronting
Vietnam: Soviet Policy toward the Indochina Conflict, 1954-1964 [Đối phó với Việt
Nam: Chính sách của Liên Xô về xung đột ở Đông Dương, 1954-1964] (Standford:
Stanford University Press, 2003); và Christopher E. Goscha “Courting Diplomatic
Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the International Communist
Movement (1945-1950) “Journal of Vietnamese Studies 1, số 1-2 (tháng 2-tháng
8/2006): 59-103 (Bài này đã được dịch và đăng trên talawas).
[36] Bằng chứng rõ nhất về sự đóng góp của Hồ Chí Minh vào việc xây dựng hình ảnh
lý tưởng hóa chính mình ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau cách mạng tháng
Tám là tự viết tiểu sử bản thân tự thuật (dưới dạng tiểu sử thông thường - dùng
bút danh Trần Dân Tiên).
[37] Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh-The missing years, 1919-1941 [Hồ Chí Minh
- những năm tháng biệt tăm: 1919-1941] (Berkeley and Los Angeles: University
of California Press, 2002).
[38] “Vì sao sùng bái cá nhân lại trái với tinh thần chủ nghĩa Mác-Lê nin?”,
Nhân Dân, số 759, 1/4/1956.
[39] “Nghị quyết của hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam lần
thứ 9 (mở rộng) (19-24/4/1956), Nhân Dân, số 785, 27/4/1956.
31/5/2015 Lại Nguyên Ân
31/5/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét