Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2021

Nét bút giai nhân 3

Nét bút giai nhân 3

15. LƯU THỊ HIỀN
Bà sanh dưới triều Tự Đức, khoảng 1860, quán làng Phù Lưu tỉnh Hà Đông, thân mẫu thi hào Tản Đà và bạn thân bà Nhàn Khanh.
Vốn là một đào nương có thanh, có sắc, có học và giỏi thi ca. Bà làm lẽ thứ ba quan phủ Nguyễn Danh Kế, nên người đương thời gọi là bà Phủ Ba.
Bà sanh cùng quan phủ một trai là Tản Đà và một gái tên Trang.
Bà kết bạn cùng bà Nhàn Khanh trong lúc ông Nguyễn Danh Kế ngồi tri phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Hai bà là người đồng tỉnh khác phủ. Bà Phủ Ba ở phủ Mỹ Đức, bà Nhàn Khanh ở phủ Ứng Hòa. Khi ở gần nhau liền thân nhau.
Hai bên coi nhau như cặp tình nhân. Ngày ngày qua lại với nhau và cùng nhau vui việc xướng họa. Vắng bạn lâu ngày bà Phủ Ba gởi sang một luật:
Đêm qua thơ thẩn chốn thư đường
Mong mỏi chung tình chẳng thấy sang
Sáu khắc mơ màng người hảo hữu
Năm canh tơ tưởng chốn đình giang
Trông trăng bát ngát thương người ngọc
Thấy nước long lanh nhớ bạn vàng
Hai chữ tương tư khôn xiết kể
Khối tình chỉ để một ai mang.
Cách ít lâu bà Nhàn Khanh theo chồng là Trịnh Đình Kỳ lên ngồi huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Kế đó bà Phủ Ba ly thân cùng ông Nguyễn Danh Kế, con trai để lại cho chồng, con gái bà đem theo. Nhớ bạn bà gởi lên Bất Bạt 5 vần:
Ai lên Bất Bạt nhắn nhe cùng
Nhắn hỏi rằng ai có nhớ không
Nửa bước xa xa bằng mấy dặm
Một ngày đằng đẳng ví ba đông
Giọng thơ tri kỷ say còn mệt
Chén rượu ân tình nhắp chửa xong
Thao thức hôm mai dằng dặc nhớ
Thơ tình mở mở lại phong phong.
Nhận được thơ bà Nhàn Khanh mời bạn lên chơi
Những đọc thơ mà luống ngẩn ngơ
Đang em đang chị bỗng đôi bờ
Nhị Hà hỏi nước bao giờ cạn
Bến đợi sông chờ đã biết chưa.
Bà Phủ Ba lên chơi cùng bà Nhàn Khanh, tình cờ gặp ông Dương Khuê lúc bây giờ đã luống tuổi. Những giống đa tình càng già càng đậm mùi gừng quê. Bà trách khéo:
Trách ông nguyệt lão trêu ngươi
Cho người đầu bạc gặp người tóc xanh
 
Họ Dương đáp:
Trăm năm ai chẳng bạc đầu
Mười điều ai có hay đâu cả mười
Trông trăng trăng khéo nực cười
Hờn hoa mà nỡ nặng lời thế ư?
Ngồi mà gẫm mấy năm về trước
Chẳng dại nào giống cái dại nào
Giật mình thay sực tưởng giấc chiêm bao
Rồi mới biết ước ao là chuyện lảng
Bởi con tạo trêu người không chán
Mới xui nên cái dại không chừng
Cho phờ râu chớn mắt cho long giải rút cho tuột dây lưng
Còn tham tiếc lăn lưng vào cuộc dại!
Thôi thôi chớ từ đây dại mãi
Chữ chung tình là chữ vô tình
Gặp nhau ta sẽ mần thinh.
 
Dương còn một câu nữa rất thống thiết:
Gặp nhau trót đã muộn rồi
Cầm quân cờ gõ cho rơi hoa đèn…
 
Hoa đèn rơi, canh tàn… nhưng người đẹp đâu có nghĩ đến việc:
Chu thần trợ điểm
Cánh kế hoàn sanh thái (1) 
Môi son âu yếm để dành
Điểm trang tóc bạc trở thành tơ xuân.
Vì thương yêu nhau thắm thiết... bà Nhàn Khanh tỏ ý muốn bà Phủ Ba cùng mình làm Nga Hoàng, Nữ Anh (2). Nhưng bà Phủ từ chối:
Dẫu rằng sông Nhị có dài
Mà tình dằng dặc bằng ai ba phần (3)
Kể từ tiếp được thơ thần
Một phần sầu não chín phần nhẹ không
Quản bao cách núi xa sông
Lòng riêng riêng những ước mong đợi chờ
Có khi buồn vịnh nên thơ
Lời thơ nghe cũng ngẩn ngơ từng lời
Có khi mượn bút vẽ vời
Tương tư lại vẽ ra người Tiêu Tương
Có khi cờ lướt chiến trường (4)
Mã xa lạc lối biết đường đâu đâu..!
Có khi nhắp chén tiêu sầu
Bầu tiên dốc cạn ra màu chưa say
Tình riêng nào có ai hay
Muốn đem tâm sự giải bày cùng trăng
Trách ai dứt mối xích thằng
Trách ai dở dói cát đằng đưa duyên (5)
Trách ai ngăn cấm hồ sen
Chẳng cho Tây Tử đến miền Bồng Lai (6)
Đêm đông bóng giãi cành mai
Biết rằng ai có như ai nhớ mình… 
Từ đó, nghĩ rằng chỉ vì thanh sắc mà tấm thân không thể sống yên nếu còn chen chúc với đời, bà bèn tìm chốn thanh vắng mà nương náu. Bà mất vào khoảng thập niên 1920. Tản Đà tiên sinh không về đưa đám bà được!
Một kiếp tài hoa!
Chú thích:
(1) Bài ca trù ông Dương Khuê đưa cho bà Phủ Ba, các sách chép với đầu đề là Cái Dại.
Hai câu “Chu thần trợ điểm. Cánh kế hoàn sanh thái” là câu ca của Tô Đông Pha tặng Triêu Vân. Ý nói “môi son điểm dùm cho mái tóc già trở thành rực rỡ trở lại”.
(2) Nga Hoàng, Nữ Anh là hai bà vợ vua Thuấn.
(3) Nhị Hà đúng tên là Nhĩ Hà, con sông lớn ở Bắc Việt, phát nguyên từ Tây Tạng và chảy qua Hà Nội Tục gọi là sông Nhị.
(4) Tiêu Tương là tên hai con sông bên Tàu, nơi chỗ giao thủy của hai con sông này là nơi thường xảy ra cuộc tiển biệt nhau. Người Tiêu Tương là người đau buồn vì nỗi biệt ly.
(5) Cát đằng là dây sắn, dây bìm tượng trưng cho người vợ lẽ. Câu này ngõ ý trách bà Nhàn Khanh muốn mình về làm lẽ.
(6) Tây Tử là Tây Thi. Tây Thi là vợ vua Phù Sai. Phù Sai bị mất nước, bỏ thân thì Tây Thi cùng Phạm Lãi dong chơi khắp năm hồ. Đây ý muốn cho Tây Thi về cảnh tiên chớ không gần người tục dù cho người tục đó là Phạm Lãi. Trách khéo quá.
Thơ bà Phủ Ba hơn thơ bà Nhàn Khanh. Đó là nhờ bà Phủ Ba có nếm nhiều cay đắng, còn bà Nhàn Khanh luôn sống trong cảnh giàu sang.
Thơ bà Phủ Ba không còn truyền lại được bao lăm.
16. NGUYỆT ANH
Tên là Nguyễn Thị Khuê, con gái cụ Nguyễn Đình Chiểu, sinh năm Quí Hợi (1863) ở Cần Giuộc, Chợ Lớn, Nam Việt.
Năm 1859, Pháp lấy thành Sài Gòn, Cần Giuộc bị uy hiếp, bà theo cụ Nguyễn đến cư trú tại làng Am Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Bà là người thanh nhã lại hay chữ hay thơ, nhiều người muốn kết duyên, song không có ai vừa mắt, nên đã 25 tuổi mà vẫn còn là thất nữ. Cụ Nguyễn qua đời năm 1888, bà sống trong cảnh mẹ góa con côi trong thời loạn lạc. Viên tri phủ sở tại cho người đến mai mối, bị bà khước từ, đem lòng hờn giận, kiếm chuyện làm khó dễ. Bà phải dời gia đình đến Cái Nứa tỉnh Mỹ Tho, rồi lại chạy sang Rạch Miễu cùng tỉnh mới được yên thân.
Đến Rạch Miễu được ít lâu, bà kết duyên cùng viên phó tổng Nguyễn Công Tính, sinh hạ được một gái thì chồng chết. Lúc bấy giờ bà mới trên dưới 35 tuổi, quyết ở vậy nuôi con.
Bà lấy hiệu là Ngọc Anh. Sau khi góa chồng thường ký là Sương Nguyệt Anh (Sương là góa chồng)
Mến tài đức của bà, nhiều danh sĩ Nam Trung muốn cùng bà chắp nối, thường gởi thư đến tỏ tình. Bà đều cự tuyệt. Xin trích dẫn bài của Hồ Bá Xuyên ở Vĩnh Kim Mỹ Tho:
Trời đất ghen chi chữ sắc tài
Vườn xuân vội úa bảy phần mai
Gương loan đối bóng tuy còn rạng
Nét thủy in mày sợ chóng phai
Lăng líu duyên hồng tơ tóc ngắn
Vấn vương phận liễu tháng ngày dài
Bóng đào bao thuở thay đôi lứa
Nỡ để trăng thu xế bóng đoài.
Bà họa lại:
Tài không sắc sắc không tài
Lá úa nhành khô cũng tiếng mai
Ngọc ánh chi nài son phấn điểm (1)
Vàng ròng há sợ sắc màu phai
Ba giềng trước đã xe tơ vắn
Bốn đức nay tua nối tiếng dài
Dẫu khiến duyên này ra đến thế
Trăng thu bóng xế rạng non đoài.
Đối với những người phong độ lịch sự thì bà trã lời ôn tồn nhã nhặn như thế. Nhưng đối với những kẽ dùng lời trêu ghẹo một cách suồng sã thì bà thẳng tay đã kích. Như trường hợp ông Bảy Nguyện ở Mỏ Cày, Bến Tre:
Ai về nhắn với Nguyệt Anh cô
Chẳng biết lòng cô tính thế mô
Không phải vãi chùa toan đóng cửa
Đây lòng gấm thé bắt cầu ô.
Bà đáp lại đến hai tuyệt:
I
Chẳng phải tiên cô cũng đạo cô
Cuộc đời dâu bể há chi mô
Lọng sườn dầu rách còn kêu lọng
Ô bịt vàng ròng vẫn tiếng ô.
II
Phải thời cô quả chịu thời cô
Chẳng biết tuồng đời tính thế mô
Dòm thấy bụi trần toan đóng cửa
Ngọc lành chi để thẹn danh ô
Nhà vốn nghèo để nuôi con bà phải lên Sài Gòn mở trường dạy chữ Nho. Lúc bấy giờ tuy thực dân Pháp đã chiếm trọn Nam Kỳ làm thuộc địa, nhưng người miền Nam vẫn còn ham thích chữ Nho, nên học trò đến thọ giáo đông đảo. Nhờ vậy mà tháng ngày cũng đủ xây xỏa.
Tờ báo phụ nữ đầu tiên mở tại Sài Gòn là tờ Nữ Giới Chung. Biết bà là người có học vấn, có tâm huyết, tòa soạn thỉnh bà đứng làm chủ bút. Tuy bọn cầm quyền Pháp không để cho ngọn bút của bà được tự do họat động, bà vẫn đem được ít nhiều lòng yêu nước, yêu dân tộc của mình đánh thức chị em. Giới Phụ nữ coi bà vào bậc thầy mà bên nam giới cũng rất trọng vọng.
Mỗi ngày uy danh của bà mỗi lên cao. Vì thỉnh thoảng lại xãy ra những việc làm cho các sĩ phu cùng phần đông đồng bào đất Nam Trung thấy rõ tài năng và khí tiết của bà. Như:
Mùa xuân năm Tân Sửu (1901) làng thơ Tây Ninh tổ chức  một cuộc hành hương lên Điện Bà vào rằm tháng giêng. Lúc ấy hoa bạch mai ở núi Điện Bà nở thạnh. Ban tổ chức mời bà tham dự để trước thưởng hoa xuân sau ngâm vịnh để truyền làm vận sự.
Những tay bút có danh ở Tây Ninh và các tỉnh lân cận đều có mặt. Thơ đề vịnh vô số, thơ chữ Hán có, thơ quốc âm có. Bà làm hai bài chữ Hán, một bài quốc âm. Văn chương bà áp đảo tất cả. Ai nấy đều phục là cao tài. Xin trích dẫn bài thơ quốc âm:
VỊNH MAI TRÊN NÚI ĐIỆN BÀ TÂY NINH
Non linh đất phước trổ hoa thần
Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng
Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân
Mây lành gió lạnh nương hơi chánh
Vóc ngọc mình băng bặt khỏi trần
Sắc nước hương trời nên cảm mến
Non linh đất phước trổ hoa thần.
Mượn mai để ký thác tâm sự. Hai bài chữ Hán tình ý phảng phất. Cốt cách và tinh thần của hoa và của người đều hiển hiện trên hàng chữ. Không mấy lúc mà những người yêu thơ đều thuộc và thơ được truyền đi xa. Ai cũng khen là tư cách thanh cao. Vào khoảng 1900-1907, vua Thành Thái ngự vào Sài Gòn. Cuộc đón rước rất long trọng. Người đi xem chật cả các ngả đường. Đứng trước cảnh đất nước bị xâm lăng, nhân dân bị người nước ngoài cỡi đầu cỡi cổ để bộc lột, mà vua lại ngất ngưởng trên xa giá huy hoàng không nghĩ gì đến dân đến nước, bà căm giận thốt ra mấy vần thơ:
Nghìn thu may gặp hội minh lang
Thiên hạ ngày nay trí mở mang
Tấc đất ngọn rau tràn nước mắt
Đai cơm bầu nước chật ven đàng
Vui lòng thánh đế trên xe ngựa
Xót dạ thần dân chốn lửa than
Nước mắt cô cùng trời đất biết
Biển dâu một cuộc nghĩ mà thương.
Bài thơ bay đến ai vua Thành Thái. Nhà vua hổ thẹn, vội đình chỉ cuộc du hành, trở về Huế.
Ai cũng phục bà là can đảm khẳng khái.
Chí khí bà cao, đức độ bà lớn, song số bà long đong và tuổi bà không thọ. Sống ở Sài Gòn được ít lâu bà bị đau mắt, chữa mãi không bớt đành phải chịu cảnh cha già ngày xưa! (2) Bà phải lui về làng Mỹ Nhơn, tỉnh Kiến Hòa, ở cùng em là Nguyễn Đình Chiêm và mất ở đó. Mất ngày 12 tháng chạp năm Canh Thân (4/1/1921) Tuổi mới 58!
Thơ văn của bà để lại được nhiều. Trong Nam đã có nhiều học giả sưu tầm, chờ có dịp sẽ phổ biến.
Thơ bà thiên về lý trí. Bà theo thuyết “thơ dĩ tải đạo” của các bậc túc nho. Cho nên lời cứng, vị khô. Cho đến thơ tình của bà cũng bị lý trí lấn áp. Như bài đưa bạn thân là ông kinh lịch họ Trần đổi đi Sa Đéc:
Ngàn xưa dễ mấy hội tao phùng
Sa Đéc nay thầy tách cõi đông
Phong cảnh mặc dầu chia đất khác
Nắng mưa đâu cũng đội trời chung
Quê người tạm gởi nhành dương liễu
Đường hoạn xin tròn phận kiếm cung
Cái tác mày râu thì phải vậy
Nặng bằng non Thái nhẹ bằng lông.
Rể bà là Nhâm Sanh, một nhà nho có tâm huyết ở Mỹ Tho. Góa vợ 8 năm mà vẫn không tục huyền, bà gởi thơ khuyên:
Có lúc tòng quyền có lúc kinh
Làm trai nào ắt khỏi tiền trình
Bơ thờ nắng rọi hoa nghiêng nhụy
Lây lất mưa qua bướm dấu hình
Ngửa mặt đành cam câu bất hiếu (4)
Nghiêng tai chịu tiếng quỉ vô tình
Dưới đời ai dứt tình sinh hóa
Trướng chấu riêng ngươi quạnh một mình.
Những câu thơ tình khác của bà đại khái cũng thấm mùi đạo đức luân lý như thế cả. Văn chương thì già dặn nhưng thiếu sức lôi cuốn và nắm giữ lòng người đọc. Do đó mà thơ bà không truyền ra miền Trung, miền Bắc Việt Nam. Nhưng danh của bà, nhờ con đường Sương Nguyệt Anh đã bay từ Cà Mau đến Nam Quan, đâu đâu đều biết.
Chú thích:
(1) Có sách chép: Ngọc ánh chi nài son phấn lợt
Chữ son phấn lợt không ăn với ngọc, vì ngọc làm gì có son phấn mà lợt với đậm? Thêm nữa “ Ngọc ánh chi nài son phấn lợt” điệp ý với “Vàng ròng há sợ sắc màu phai”. Đề chữ Điểm đã thuân lời “ngọc không cần có son phấn điểm vào” lại thêm ý. Trên không cần thêm, dưới không sợ bớt. Một chữ nên, một chữ hư là thế.
(2) Cụ Nguyễn Đình Chiểu bị mù lúc thanh niên, Bà Nguyệt Anh đến lúc có tuổi mới có bệnh
(3)  Năm Canh Thân, 11 tháng nằm trong năm dương lịch 1920 chỉ tháng chạp mới lọt qua năm 1921.
(4) Sách Mạnh Tử có câu: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Nghĩa là “có ba điều bất hiếu, mà điều lớn nhất là không con trai nối dõi tổ tông”
17. TRẦN THỊ HÀO
Bà tuổi Mậu Tý (1888). Quán làng Trường Định, huyện Bình Khê tỉnh Bình Định, tức xã Bình Hòa huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định hiện nay.
Mồ côi sớm. Về cùng bà ngoại ăn học cho đến khi gần có chồng mới về ở phía nội.
Bà là hiển tỷ của chúng tôi.
Chồng là Quách Phương Xuân ở làng Thuận Nghĩa cách Trường Định một cánh đồng chừng bốn cây số về phía Tây.
Bà thì giỏi chữ Hán nhưng chỉ biết viết chữ quốc ngữ. Còn ông thì giỏi chữ Pháp (một trong những người đậu bằng Thành Chung đầu tiên ở Bình Định) nhưng chữ Hán lại chỉ viết ngay hàng và đọc được truyện.
Bà về với ông ở Thuận Nghĩa, năm năm sinh tiếp bồn người con đều bị tảo vong. Sanh đến bận thứ năm, lấy cớ là ở Thuận Nghĩa nuôi con không được, bà xin phép dời nhà về Trường Định.
Trường Định là một trong những làng trù phú bậc nhất ở huyện Bình Khê. Phong cảnh khả ái.
Trong làng có một con suối từ Hòn Ngăn trên dãy Tây Sơn chảy xuống, vượt qua nhiều làng rồi chảy ra sông Côn. Suối đến giữa làng Trường Định thì nước nhiều và sâu. Giống bèo lục bình mọc đầy, lớp này chồng lên lớp khác, dày đến nỗi người ta có thể đi qua đi lại được dể dàng. Do đó mà khúc suối nằm trong làng Trường Định gọi là Suối Bèo, tên chữ là Bình Tuyền hay Cẩm Tuyền.
Gọi là suối Cẩm Tuyền không phải ngoa. Hoa bèo giống như đuôi công Đến mùa xuân, mùa hạ, hoa nở đầy mặt suối trông giống như gấm ngũ sắc trải trùm. Hai bên bờ suối lại có nhiều gốc cây vừng mọc từng khoảng từng khoảng, lá non thì sắc tía, lá già thì xanh láng như tráng men. Đến lối tháng ba tháng tư, hoa hồng nở từng tua dài như những tràng hoa giấy, bay phất phơ trên dòng nước long lanh đọng trên bèo kết mống. Quang cảnh vừa đẹp vừa thanh.
Phía tây suối cách chừng một cây số có một cánh rừng gọi là rừng Cấm tên chữ là Cẩm Uyển có nhiều cây danh mộc. Ngày xưa cây mọc trùm cả những dãy gò Trường Định, cây xanh thấu mây. Đến mùa xuân, hoa rừng nở, lớp hồng lớp trắng, sáng rực cả một góc trời, và mùi hương theo gió thơm ngát cả các làng chung quanh.
Cụ tú Nguyễn Huy Khiêm, người địa phương, vịnh Trường Định có câu:
Bình Tuyền ngư cọng lạc
Cẩm Uyển điểu hòa minh
Nghĩa là:
Gấm dệt suối Bèo tăm cá lội
Hương đưa rừng Cấm tiếng chim kêu.
Bên bờ suối gần ranh giới phía Bắc, Trường Định có chơ tục gọi là chợ Suối Bèo. Đó là một chợ trong 4 chợ có danh ở hai huyện Bình Khê, An Nhơn: Cây Cốc ở Phú Phong, An Thái ở thôn An Thái, Suối Bèo ở Trường Định, Gò Chàm ở gần thành Cũ, Bình Định (thành Đồ Bàn)
Chợ Suối Bèo có 6 phiên chính họp vào ngày mồng 6, 16, 26, mồng 10, 20, 30 âm lịch và 3 phiên phụ vào ngày mồng 4, 14, 24. Những phiên chính đông đặc cả đường sá, vì chẳng những người trong làng, trong các làng thân cận đến mua bán, mà thương gia ở nơi thị tứ trong tỉnh, ngoài tỉnh, nhiều người cũng chở hàng đến bán, tìm hàng quí để mua.
Chợ tuy đông nhưng trật tự giữ rất chu đáo. Suốt mấy mươi đời buôn bán, chưa hề nghe có vụ cướp giật, gian lận xảy ra:
- Chín phen họp chợ Suối Bèo
Người giàu lo bán người nghèo lo mua
- Suối Bèo phiên phụ còn đông
Đừng mong phiên chính gánh gồng chen vô
- Suối Bèo vui buổi chợ phiên
Đường xa cũng ngắn không tiền cũng đi
Chẳng những khách thương tìm đến Suối Bèo. Thường cũng có khách bút nghiên rủ nhau đến mua vui, tìm hứng:
Làng quê mây nước vắng trần hiêu
Phong vị trần ba lẫn ít nhiều
Rừng Cấm duyên ưa hương phấn điểm
Suối Bèo tình đượm gấm hoa thêu
Chín phiên danh lợi đời chen chúc
Năm vận phong tao bước dập dìu
Tìm Tống lênh đênh ngoài bốn biển
Ai hay Trường Định sẵn Đường Nghiêu (1)
Về Trường Định bà mua được một ngôi nhà mái ba gian có vườn tược rộng rãi. Ông làm thông ngôn cho hãng dệt Délignon ở Phú Phong, cách Trường Định chừng 7 cây số. Mỗi tuần cứ chiều thứ 7 ông cưởi ngựa về thăm nhà. Sáng thứ hai trở lên sở. Bà ở nhà với hai người vú già và mấy người giúp việc nam nữ. Bà lo việc nhà và việc ruộng nương. Cha mẹ có để lại mươi mẫu ruộng vừa rộc vừa gò, bấy lâu cô bác coi ngó giùm, có bà về thì giao lại. Lúc bấy giờ bà mới 22 tuổi, nhưng rất đảm đương. Việc trong việc ngoài đều coi sóc chu đáo.
Những lúc rảnh thì bà lo may vá và đọc sách Kinh sử và chuyện Tàu, bà thuộc rất nhiều. Từ đường họ Quách lại có nhiều sách quí mua tận Thượng Hải liên tiếp mấy đời và có hai bộ sách cấm là Tây Sơn Dã Sử và Tây Sơn Liệt Truyện. Bà được phép mượn xem.
Nhờ vậy mà học thức của bà mỗi ngày mỗi thêm. Bà có hai ông anh thúc bá là ông Trần Trác làm Chánh tổng, ông Trần Khương đậu Tú tài và một ông anh cô cậu là Đoàn Nhuận. Cả ba đều là bậc hay chữ trong làng và đều nhường bà về điểm xem nhiều hiểu rộng.
Bà chẳng những giỏi chữ Hán và quốc âm cũng  rất giỏi.
Một hôm ông cùng ba người anh ngồi nói chuyện văn chương, vui miệng nhắc đến lời của vua Thái Đức nói với em: "Bì oa chữ nhục, đệ tâm hà nhẫn".
Nhân ông Chánh và ông Tú có điều xích mích với nhau, ngoài mặt thì có vẻ trên thuận dưới hòa, song trong lòng lại bên Ngô bên Sở, bà biết rõ nên chụp ngay cơ hội tốt để giải hòa. Bà bèn diễn Nôm lời nói của vua Tây Sơn:
Lỗi lầm anh vẫn là anh
Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em!
Bà ngâm với giọng buồn buồn. Ông và ba ông anh cảm động rơi nước mắt. Từ đấy anh em thương nhau như cũ.
Bà nổi tiếng là hiền từ:
Chắc ai mãi khó mãi giàu
Gặp cơn nghèo ngặt thương nhau trọn niềm
Ở sở Délignon thường mỗi tuần có phát thuốc sốt rét, thuốc ho, thuốc đau bụng... cho nhân viên cùng lao công trong sở. Ông không dùng đến, mang về Trường Định. Bà để dành mỗi khi có người đau ốm thì bà đem cho. Một năm những người đi làm ăn xa mang bệnh sốt rét về làng lây cho bà con trong làng trong xóm. Các ông lang băm được mùa làm giàu, bóc lột không nới tay. Bà thương tình đề nghị với ông xin thuốc ký ninh ở sở về phát cho đồng bào. Mấy ông lang băm giận bà làm giảm sút nguồn lợi của mình mới bày một người đàn bà nhẹ dạ đến phá đám. Họ cho tiền người đàn bà bảo đến xin thuốc uống. Uống thuốc xong liền ăn bún lẫn ruồi vào, rồi đến nhà bà la đau bụng, thọc cổ mửa …hô hoán rằng bà cho uống thuốc độc. Thiên hạ kéo nhau đến đông như hội. Xã trưởng, hương kiểm, trùm xóm cũng kéo đến thị chứng để trình quan. Bà bình tĩnh cho người lên Phú Phong báo cho ông biết. Bà chủ Délignon hay chuyện, liền đi cùng ông xuống Trường Định. Đống bún mửa ra còn được giữ y nguyên để làm tang chứng. Bà Đầm lấy que bươi ra thấy hai viên ký ninh chưa kịp tiêu và mấy con ruồi dập nát lẫn lộn trong bún. Bà chỉ cho các nhà chức trách sở tại:
- Thuốc độc đó.
Người đàn bà thất kinh lạy lục thú thật mọi việc. Bà chủ Délignon yêu cầu bắt ông lang băm sanh sự giải lên huyện cùng người đàn bà. Bà Trần đứng ra xin miễn.. Ai nấy đều phục bà có độ lượng. Mấy ông anh khuyên bà không nên cho thuốc nữa. Bà không nghe:
Nỡ nào giận cá phá nôm
Hết cơn gió bất gió nồm lại đưa.
 
Đối với hoa lòng bà cũng có khác người.
Trong vườn có hai cây xoài gốc cao tàn cả, đứng song song trước mặt nhà, đến mùa trái ra quằn nhánh. Một hôm bị gió bấc thổi mạnh, hoa rụng đầy đất. Sáng ra bà vú đi xách nước dậm lên hoa, bà ngăn lại rồi lấy cây chổi tàu cau còn mới, tự mình ra quét nhóm hoa lại thành đống rồi đào đất chôn!
- Tại trời nổi bấc hoa rơi
Ai ơi chớ dậm tội đời hoa thơm..
Bà còn nhiều câu nói về hoa:
- Hoa tươi đem cắm bàn thờ
Hoa tàn vứt xuống vũng nhơ nỡ lòng?
- Trải lòng hứng đóa hoa rơi
Tuy không hương phấn vẫn đời làm hoa.
- Đừng chê hoa muống hoa bìm
Trong cơn nắng hạ im lìm nở xuân.
- Hoa giẻ, hoa ngâu, hoa lài, hoa lý
Anh yêu hoa nào hoa ấy là xinh
Đừng mơ hoa nở vườn quỳnh
Hương thơm sắc đẹp nghiêng thành ích chi (2)
Bà có thi cốt thi tài như thế, nhưng không muốn dùng văn chương xây sự nghiệp. Chỉ thỉnh thoảng ngâm đôi câu làm vui rồi bỏ, ai nhớ được thì nhớ, không thì thôi, chớ không bao giờ chép lại. Bài thơ thất ngôn bát cú và mấy câu lục bát nói về Trường Định cũng là của bà được các vị phụ lão địa phương gìn giữ.
Bà rất ghét những câu hát có ý lẳng lơ. Bà có đặt một số câu hát để cho bà vú cùng trẻ giữ em dùng thay cho những câu không được đứng đắn:
- Tham vàng bỏ nghĩa mặc ai
Lòng đây sông giải non mài vẫn nguyên (15)
- Dù cho đất đổi trời thay
Trăm năm giữ một lòng ngay với đời.
- Lời em nói ra
Bằng ba thề thốt
Như đinh đóng vào cột
Như rìu cốt vào cây
Anh đừng ngại gió e mây
Vàng cao ngất núi sao tày nghĩa nhân.
- Những phường bất nghĩa bất nhân
Lưới trời đâu để thoát thân ra ngoài.
Đó là niềm thủy chung xây trên nền nhân nghĩa. Lòng hiếu thảo cũng thường được tiếng ru đưa vào tai trẻ em:
- Ơn cha núi chất trời Tây
Láng lai nghĩa mẹ nước đầy biển Đông.
- Ơn cha nghĩa mẹ trìu trìu
Mưa mai lòng sơ nắng chiều dạ lo.
- Cha già tuổi mẹ cũng cao
Nghe con học chữ “cù lao” sụt sù (14).
- Ở nhà thầy mẹ tuổi cao
Đường xa đối bóng sương sao chạnh lòng.
Đối với anh em, tình cũng rất đậm đà thấm thía:
- Anh em hòn máu xắn đôi
Gặp cơn mưa gió chỉ trôi nước ngoài
- Anh em khúc ruột chia hai
Mạch còn máu chảy, đứt ngoài liền trong
- Rách lành đùm bọc lấy nhau
Gian nan chung chịu sang giàu chung vui
 Anh dù có lỗi mười mươi
Ngọt chua sao nỡ chia đôi ruột rà.
 
Vợ chồng đối với nhau rất dễ thương. Nếu ngoài đời thực hiện được lời dạy của bà, thì chén bát trong nhà ít khi bị vỡ:
- Khi giận thì rầy thì la
Đến khi hết giận thì ta yêu mình
Chồng giận thì vợ làm thinh
Vợ giận chồng hỏi rằng mình giận ai?
Vợ rằng giận trúc giận mai
Vợ chồng ai lại giận ai bao giờ.
Tình mẹ thương con mới thật sâu vô kể:
Trời đông gió lọt song hồ (16)
Chỗ ướt phần mẹ chỗ khô con nằm
Đường xa sức mỏi chân rần
Chén cơm kiếm được nhịn phần cho con.
Canh khuya vắng vẻ, nằm nghe mẹ ru con, chị đưa em với những câu tình sâu nghĩa nặng như thế, thì lòng ai khỏi thổn thức bồi hồi? Nhưng thỉnh thoảng cũng có những câu mỉa mai chua chát:
- Ngày thường thiếu áo thiếu cơm
Đêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường
Dù dơi dép bướm chật đường
Màn loan gối phụng ai thương thằng nghèo!
- Vợ con chửi mắng vẫn cười
Khuyên răn cha mẹ nhẹ lời cũng gây!
Xưa kia sớm biết như vầy
Xách chuông xách mõ theo thầy còn hơn.
- Gia tài chỉ một con trâu
Đầu vai phần chị lưng đầu phần anh
Ruột gan xâu xé tan tành
Còn lưa chút mật để dành cho em.
Bà thường nói:
Thói đời tốt ít xấu nhiều, nên phải tránh đừng để việc xấu lọt vào tai trẻ:
Dạy con dạy lúc còn măng
Đợi cho đến lúc xế trăng khó tròn.
Do đó mà những câu “chính phong” của bà nhiều hơn những câu “biến phong” thập bội (3) và những câu hát bà làm là để “gia dụng”, nhưng các bà mẹ, bà chị lối xóm nghe được cũng hát theo, mỗi ngày một truyền đi xa, trở thành của chung trong hạt, trong tỉnh.
Ở nhà lại thường làm gạo để ăn. Những đêm trăng sáng, bà mượn một vài cặp nam nữ thanh niên, bày cối chày ra sân để giã. Bà đặt ra nhiều câu hát để hò. Tiếng hát tiếng nổi lên giây lát, thì trai, gái, đàn ông, đàn bà ở trong làng lần lượt kéo đến chật cả trong sân ngoài đường. Họ dành nhau cầm chày để hát đối đáp với nhau, không biết mỏi.
Những câu hát của bà soạn thường dành cho phía nữ:
Vô đây ớ bạn vô đây
Trầu tiêm miếng chả đã xây lên bàn
Tội chi mà đứng ngoài đàng
Sương sa rủi nhiễm thương hàn ai nuôi. 
Có khi làm cho cả nam cả nữ đối đáp nhau:
Bước vô đây tay chày lòng cối
Rủi anh yêu nàng biết lối nào ra?
Lối nào ra đôi ta sẽ liệu
Kìa hoa hải đường hàm tiếu trước sân
Mỗi năm được mấy mùa xuân
Mỗi ngày được mấy giờ dần hỡi ai?
Giờ dần đợi đến ngày mai
Mới sang giờ tuất nghiêng tai hỏi thầm
Trên đời dễ mấy tri âm
Biết ai đồng điệu đồng tâm mà chào?
Chào lê chào lựu chào đào
Chào cam chào quít ngọt ngào chào chanh
Chào tơ liễu lục buông mành
Chào chim huỳnh điểu đậu cành lê hoa
Chào rồi ta lại chào ta
Trăng trong gió mát mặn mà đêm xuân.
Mỗi đêm giã gạo là có những câu hát mới. Những câu hát đó thường được dùng đi dùng lại nhiều lần ở nơi làng khác, sân khác. Cho nên hể nghe nói nhà “cô thông” (4) có hát hò là anh chị em trong làng kéo nhau đến vui vẻ.
Lại có điệu hát gọi là hát huê tình.
Cũng như hát hò, hát huê tình cũng là điệu hát giao duyên giữa nam và nữ. Chỉ khác là giọng hát huê tình kéo dài và chậm, giọng hát hò rút ngắn và mau. Còn một điểm khác nữa là hát huê tình không có người “hò hê” để chấm câu. Hát huê tình thường hát trong lúc tát nước, nhổ mạ, cấy hay nhổ đỗ, hái dâu, Những đêm trăng thong thả, nam thanh niên thường dùng hai ống tre khô cưa mắt, một đầu phất da ếch thật thẳng để khô, dùi một lỗ nhỏ ở giữa, tra một sợi tơ xe săn dài chừng năm ba chục thước ở hai đầu ống phất da. Đoạn đem đặt nơi rào những nhà cô gái, kéo thẳng sợi giây ra ngoài xa đứng hát. Đêm khuya dưới trăng trong gió mát mà nghe tiếng hát khi bổng khi trầm, khi trong như tiếng hạc bay qua, khi đục như tiếng suối mới sa nửa vời, thì lòng Trác Văn Quân không sao khỏi xao xuyến vì tiếng đàn Tư Mã. Bà cũng có đặt giùm cho mấy cô mấy cậu giúp việc trong nhà, nói lên chút tâm sự của họ:
- Từ ngày giấy rã hồ trôi
Anh ngồi anh khóc, em ngồi em than
Nhạn xa chen bóng mây tàn
Dưới khe nước chảy trên ngàn ve kêu
Ra đi là sự đã liều
Mưa mai ai biết nắng chiều ai hay
Dám đâu trách mẹ trách thầy
Trách trời sao nỡ đọa đày tấm thân!
- Đường về một bước một xa
Lá bay xào xạt sương sa ngập ngừng
Bức dây riêng sợ động rừng
Đắng cay riêng chịu thôi đừng thở than
Nhụy hoa chưa nở đã tàn
Ít nhiều hương cũ giữ giàn lấy hương.
Cũng như những câu hát đưa em, những câu hát hò, hát huê tình không mấy lúc trở thành của đại chúng. Những người trong làng, trong huyện còn sống sót, không còn ai biết được câu nào là câu cũ, câu nào là của bà. Nhưng nếu đi sâu vào một chút thì có thể phân biệt dễ dàng.
Những câu cũ thì nội dung phổ thông, văn chương bình dân.
Những câu của bà có mang cá tánh, câu văn có phần chải chuốt, ý tứ có phần chọn lọc, sửa sang.
Những câu cũ phần nhiều thiên về tình cảm
Những câu của bà phần lớn thiên về lý trí song nhờ lời văn êm ái nhịp nhàng làm cho lý biến thành tình, đúng hơn là làm cho lý trở nên dịu ngọt như tình, khiến lòng người đọc người nghe dễ cảm xúc.
Ông Bùi Xuân Nhi, người làng Xuân Hòa huyện Bình Khê làm rể nhà họ Trần – em rể ông Chánh Trần Trác và ông tú Trần Khương rất phục những bài hát của bà, ông thường ngâm nhất là câu:
Mẹ ơi trái bí còn non
Cầm dao mẹ cắt ruột con sao đành (5)
Có ý trách bà mẹ cải giá quá sớm! Và câu:
Chàng về thiếp một theo mây
Con thơ để lại chốn này ai nuôi? (6)
Làm khi phụ thân chúng tôi mất.
Ông Quách Phương Xuân mất ngày 11 tháng 11 năm Giáp Tý (1923) tại Trường Định. Tuổi mới 41.
Bà lúc bây giờ mới 36 tuổi, thua ông 5 tuổi. Nhưng bà rất bình tĩnh. Lo tang lễ rất chu đáo. Đơn giản nhưng rất tề chỉnh nghiêm trang.
Cảnh nhà lúc bây giờ đã sa sút vì ông mắc bệnh trong ngót 3 năm trời, thôi làm việc ở sở Délignon, về điều trị thuốc Tây có thuốc Bắc có, tốn kém không ít. Ông mất đi để lại cho bà hai trai một gái. Trai - Quách Tấn mới 15 tuổi học lớp nhì (cours Moyen) trường Qui Nhơn và Quách Tạo 11 tuổi học lớp ba (cours Élémentaire) trường Qui Nhơn. Con gái là Quách Thị Mộng Lan mới 3 tuổi. Bà cho làm rẽ ruộng và cho nghĩ việc các trai bạn, chỉ giữ lại hai vợ chồng bà vú già, bà vú đã nuôi bà từ thuở bé, chúng tôi vẫn tiếp tục đi học.
Hai ông anh, ông tú Trần Khương và ông cửu Đoàn Nhuận đã qua đời trước thân phụ tôi 5, 6 tháng. Ông chánh Trần Trác thấy cảnh đơn chiếc và thiếu thốn của bà, khuyên bà để hai con ở nhà giúp đỡ công việc làm ăn sinh sống. Bà không theo:
Giàu sang chỉ được một đời
Văn chương thắm dạ muôn đời thơm danh.
Lúc bây giờ kinh tế khó khăn. Trừ những người làm việc ở các tư sơ công sở, đồng bào kiếm được đồng tiền thật “chảy máu con mắt”. Ruộng rộc bán chỉ vài chục đồng bạc Đông Dương một công, lúa chỉ hai hào 1 vuông 20 ký, mà không mấy ai mua. Chúng tôi ăn cơm tháng không nổi, mỗi tháng ở Trường Định phải thuê người gánh gạo xuống Qui Nhơn, trên 50 cây số, để gởi cho người nấu ăn giùm: mỗi tháng mỗi người 60 lon gạo và 3 đồng bạc chợ. Bà bán ruộng cho bà chị họ, ruộng thì giao trọn còn tiền thì lấy lần mỗi tháng 10 đồng đủ gởi cho con. Bà ở nhà làm lụng suốt ngày. Nếp sống phong lưu  lúc ông còn sống không còn nữa. Nhưng bà không hề buồn không hề chán:
Miễn con ăn học nên người
Mẹ dù áo rách nón cời quản bao
Há mơ lọng tía võng đào
Mong câu trung ái thấm vào tâm can (&)
Trong cảnh hiu quạnh, lòng nhớ chồng nhớ con da diết, nhưng không khi nào bà đễ lộ nét buồn thương ra ngoài mặt:
Mồ côi từ thuở măng non
Tang chồng đương độ trăn tròn gương thu
Nỗi niềm tưởng tới càng đau
Thương con gượng gạo nuốt sầu làm khuây.
Không biết hồn ông linh thiêng hay vì lòng bà quá thương tưởng mà thỉnh thoảng, một hoặc hai tháng, bà chiêm bao thấy ông về thăm, dung mạo, thái độ không khác lúc sống:
Từ phen u hiển đôi đường
Mộng tuy rằng mộng vẫn thường gần nhau
Vườn hoa nay dẫu trồng rau
Ngày mưa tháng nắng một màu xuân xanh.
Bà cũng có phần an ủi thêm là chúng tôi rất chăm học, tháng nào cũng được bảng danh dự (tableau d’honneur) và cuối niên học được lãnh phần thưởng, được có giấy khen gởi về nhà.. Bà vui nhất là lúc gần nghỉ hè:
Nghe con sắp được nghỉ hè
Thẩn thơ ngõ trúc bờ tre trông chừng (9)
Không mờ nét chữ sau lưng (10)
Dĩa cơm nếp chấm muối vừng: cao lương
Nhờ người nấu cơm giùm, cơm không thiếu nhưng đồ ăn thì ít khi ăn đủ bữa. Vì nhà trọ ở trong phạm vi chùa Long Khánh Qui Nhơn nên chúng tôi thường vào chùa xin tương. Tương làm để ăn từ năm này sang năm khác, phải bỏ muối nhiều, mặn thật “chát đầu chát óc”. Trong chùa lại có cây khế, trái chua đến két cũng không thèm ăn. Khế thì chua, tương thì mặn. Mấy chú điệu lắm lúc “hết muốn về Tây phương”. Bà bày mua đường táng, về nhạo ra trộn chung với tương ăn với khế thì “khỏi chê”. Quả vậy. Và từ đó mặt trò mặt điệu bớt “nhăn”:
Tương chùa tuy mặn mà thanh
Khế chùa không ngọt nhưng lành…con ơi
Mo cơm bầu nước thảnh thơi
Thân trong ngõ hẹp muôn đời còn hương (11)
Chúng tôi học mỗi năm mỗi lên lớp. Thi tiểu học (primaire) lại đậu cao. Tiếng nổi. Lúc ấy các nhà giàu trong làng mới hết khinh chữ Quốc ngữ, chữ Pháp là chữ Cu (Q) chữ Ếch (S) nữa mới đua nhau cho con em đi học. Các ông lớn trong xã đến xin Bà cho phép chúng tôi mở lớp hè để giúp em út trong làng xóm. Bà vui lòng nhận lời.
Lớp đầu tiên mở vào mùa hè năm 1927. Lúc ấy chúng tôi đã học hết chương trình đệ Nhị Niên Trung học ( cours 2ème année ) và em tôi đã học hết chương trình đệ Nhất Niên (1ère année). Một cặp câu đối dán đỏ rực hai bên cửa trường:
Chưa phải thầy, thử làm thầy, dìu dắt anh em nền tiến bộ
Đã ra dạy, ráng công dạy, lần hồi chúng bạn bước văn minh.
Bà trông thấy chê văn chương không đôn hậu bắt gỡ ngay. Các vị trưởng lão, các bậc túc nho trong làng rất lấy làm lạ. Hỏi, bà đáp:
Có ý tự phụ tự đắc. Lại chỉ chăm phần ngọn, quên phần gốc.
Bà bèn chữa lại:
- Chưa phải thầy, học làm thầy, chung sức vun xây nền đạo nghĩa
- Đã ra dạy, gắng công dạy, khuyên lòng dong ruỗi bước văn minh.
Cả làng đều phục bà trông rộng thấy xa. Tuổi bà tuy còn trẻ song mọi người đều kính nể, sắp ngang hàng với những bà cụ có uy tín trong làng. Những chị em quen biết, mỗi lần có việc rắc rối đều đến nhờ bà giải quyết giùm.
Bà giỏi thơ nhưng không khi nào dạy con học. Bà nói:
Thơ hay là do thiên bẩm, không học được. Nếu trong người có thi cốt thì cứ học chữ cho giỏi, hỏi nghĩa cho chín, lý luận cho chẻ…thì thơ tự nhiên hay.
Tuy vậy chúng tôi chịu ảnh hưởng của bà rất sâu đậm, nhiều câu, nhiều bài phảng phất hơi hướng của bà.
Bà sống trong cảnh thanh bần nhưng an lạc được 5 năm sau ngày ông mất. Thình lình bà ngã trọng bệnh. Biết không sao qua khỏi, bà liền lo vợ cho chúng tôi. Lo xong thì mất. Bà mất ngày 7 tháng giêng năm Mậu Thìn (1928) tuổi mới 41!
Ông mất 41 tuổi, bà cũng mất 41 tuổi. Bà nhỏ thua ông 5 tuổi, mất sau ông 5 năm. Và bà cũng như ông, ra đi một cách bình thản, sau khi đã dặn dò dâu con mọi việc cần thiết:
- Đã nguyền sau trước nhất ngôn
Sống nằm chung gối thác chôn cùng mồ
Sau khi suối cạn gò khô
Còn nguyên bóng thỏ vầng ô chứng lòng.
- Nuôi con chưa kịp thành danh
Số trời đã định mẹ đành ra đi
Lưng con bốn chữ còn ghi (12)
Mẹ dù khuất bóng khác chi mẹ còn
- Thương dâu chân ướt bước về
Việc nhà việc cửa trăm bề một tay
Áng xưa mong cũng nâng mày
Giúp chồng nên nghiệp cũng dày non cao (13)
- Chít chiu một chút đào thơ
Nắng mưa ấp ủ mong chờ chị dâu
Một lòng một dạ thương nhau
Chị em tình nặng thêm sâu nghĩa chồng.
Theo lời di chúc, mộ bà nằm song song cùng mộ ông trên một nền gò tại gò Ông Nổi thôn Trường Định.
Và sau tuần thất nhật của bà rồi thì nhà cửa ruộng nương giao cho vợ chúng tôi- lúc bây giờ mới 17 tuổi - cai quản, còn chúng tôi phải trở xuống Quy Nhơn tiếp tục học.
Lưng con bốn chữ còn ghi
Mẹ dù khuất bóng khác chi mẹ còn.
Chú thích:
(1)  Trường Định: Thanh vượng nhất thời Tây Sơn.
Sang thời Gia Long thì cửa biển Cách Thử thình lình bị lấp, các con sông lớn trong tỉnh Bình Định bị cạn dòng, nhiều con suối bị khô nước. Suối Béo từ Trường Định ra đến sông Côn thì khô hẳn, chỉ có mùa lụt nước nguồn chảy xuống như thác. Còn hơn 9 tháng thì cát trắng khô khan.
Rừng Cấm thì bị chặt cây làm nhà chỉ còn không đầy vài mẫu. Hồi trải qua 30 năm chống Pháp, chống Mỹ, làng Trường Định bị phá tan tành. Nhà cửa chợ búa 10 phần không còn được một. Rừng Cấm chỉ còn lơ thơ vài cây tạp mộc. Suối chỉ còn là một giải cát nằm giữa hai bờ tre xác xơ.
Những nhà nho đã qua đời hết. Những đám tân học, kỹ sư, tấn sĩ văn chương... đều đi xa sanh sống Lớp người mới đang lo xây dựng lại làng.
Phong Tao: Phong Dao và Ly Tao, nói chung cho các món văn thơ.
Năm vận phong tao: 5 vần thơ Đường luật
Tào Thực bước đi bảy bước làm xong một bài thơ.
Tìm Tống: Nước Tống bị rợ Kim cướp, trung thần Văn Thiên Tường mưu việc phục quốc, phải chịu cảnh lênh đênh nay đây mai đó.
Đường Nghiêu: Vua Nghiêu dựng nên nhà Đường. Đời Thái Bình.
(2) Bà mượn hoa để nói người, nhưng phải có lòng thương hoa trước mới có thể đem lòng thương hoa trang điểm cho lòng thương người. Bà thường nói:”Đóa hoa cũng như người con gái, chỉ được có một thời, cho nên phải hết lòng nâng niu yêu ấp. Và nhất định “không nên yêu khi tươi, phụ khi tàn héo.”Những hoa dùng cúng xong, bà luôn luôn đem gác lên đầu rào hoặc để nơi cao ráo.
(3) Ca dao: chia làm chính phong là những câu hát đứng đắn và biến phong là những câu hát lẳng lơ, thô tục..
(4) Ông làm thông ngôn cho hảng dệt Délignon. Cho nên người trong làng gọi bà là “cô Thông” chớ ít khi gọi tên. Chẳng những thời đó mà thôi. Đến bây giờ hể nhắc đến bà thì những người quen biết cũ cũng đều gọi “cô Thông”
(5) (6) Hai câu này cách hành văn thật khác hẳn cách thông thường “Trái bí còn non” và “lòng con” đi liền nhau trong thái độ: cầm dao cắt” thì thật là mới. Người đọc sẽ hiểu “cắt bí non là cắt ruột con”. Chớ nếu nghỉ hơi ở chữ “cắt”, thì nghĩa thường không sâu.
Chàng về thiếp một theo mây: Cách đặt câu dùng chữ có khác cách thường dùng trong ca dao, trong thơ lục bát. Chữ Một đây dùng theo cách chữ Hán, nhưng nghe không chướng tai. Theo Mây là nói bóng, là “theo xe mây” (Vân xa là xe người chết) Trong một câu mà nửa trên dùng chữ thực nửa dưới dùng chữ bóng, thế mà nghe rất xuôi tai. Cách luyện chữ luyện câu như thế thật là khéo thật mới.
Chúng tôi thú thật rằng muốn bắt chước hai câu của bà mà bắt chước không được. Ngó thời dễ mà làm thì khó vô cùng “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”
Hai câu đó trở thành ca dao, nhưng ít ai để ý đến điểm độc đáo, điểm “không thông thường” trong câu.
(7) Lọng tía võng đào: là thi đỗ làm quan được đi võng che lọng
Trung ái: Vốn chữ Trung quân ái quốc mà ra. Song tuy lúc bấy giờ còn vua (Khải Định, Bảo Đại) song bà rất ghét đám vua quan. Bà giảng chữ Trung theo đúng nghĩa của sách cổ.
Trung: Tận kỷ (hết lòng mình, hết sức mình để làm cho tròn phận vụ) Tận kỷ vị chi Trung.
Trung: Dục lập nhi lập nhân, dục đạt nhi đạt nhân (Mình muốn đứng vững, phải xây dựng người đứng vững như mình, mình muốn đạt được mục đích tốt cũng phải giúp cho người đạt được mục đích tốt cho người.)
Ái: là yêu, là yêu nước, yêu nòi, yêu cả chúng sinh (ái quốc, ái quần, ái vật)
(8) U hiển: Tối và rõ tức âm phủ và dương gian
(9) Ngõ trúc: trước ngõ có bụi trúc.
Rào tre, bờ tre: Bờ cát Thú Hưng trồng nhiều tre để lụt khỏi lở. Bà thường xuống tận Thú Hưng cách nhà nửa cây số để đón con ở Quy Nhơn về, mỗi lần được tin sắp về nghỉ ba tháng nắng
(10) Nét chữ sau lưng: Mẹ của Nhạc Phi khắc sau lưng con 4 chữ “Tinh trung báo quốc” nghĩa là hết lòng trung để đền ơn nước.
(11) Mo cơm bầu nước: Thầy Nhan Tử sống ở ngõ hẻm với một mo cơm và một bầu nước.
(12) Bồn chữ còn ghi là 4 chữ “Tinh trung báo quốc” ghi nơi lưng Nhạc Phi. Trên kia nói “Chưa Mờ”, “Không mờ”, ở đây nói “Còn ghi”. Chữ dùng thận trọng Và nhắc nhở đến hai lần.
(13) Ngang mày: Mạnh Quang vợ Lương Hồng đối với chồng rất cung kính, mỗi lần đưa vật gì cho chồng thì nâng ngang mày mà đưa. Đây bà mượn đến để khuyên dâu theo nếp nhà gia giáo chớ không phải bảo phải bắt chước theo Mạnh Quang “cử áng tề mi”. Huống nữa Mạnh Quang đâu phải chỉ “cử áng tề mi” mà thôi, bà còn giúp chồng giữ vững khí tiết, làm nên công nghiệp nghìn thu.
(14) Cù Lao là công ơn cha mẹ chịu khó chịu nhọc nuôi mình. Cù lao cúc dục nói tắt là cù lao
(15) Sông giải non mài: Sông cạn hẹp lại còn như chiếc giải mũ núi non sập còn như hòn đá mài. Ý nói sự biến đổi do chữ “đái lệ sơn hà” nghĩa là “ví dù sông trở thành nhỏ như giải áo, núi nhỏ như hòn đá mài, mà ơn nước không bao giờ mất”
(16) Song hồ: Cửa sổ dàn giấy, lấy hồ phất lên cho dày hầu khí lạnh không lọt vào được.
18. ĐÀO TRÚC TIÊN
Bà cùng lớp tuổi với mẹ chúng tôi. Con gái cụ Đào Tấn, quán làng Vinh Thạnh, huyện Tuy Phước, có chồng họ Đặng, đậu tú tài, ở Hội Vân, cùng Huyện, nên thường gọi là bà Tú Cây Da bởi Hội Vân tục gọi là Cây Da.
Bà được cụ thân sinh dạy học từ lúc nhỏ, nên hay chữ nổi tiếng ở Bình Định.
Bà ít hay giao thiệp. Thơ ca làm rồi chỉ trao cho người quen thân  đọc cho vui chớ ít khi phổ biến ra ngoài. Tuy vậy cũng có nhiều bài được truyền đi xa, như:
TRUNG THU CẢM TÁC
Thu nguyệt canh thâm hạo
Mãn đình dạ lan hương
Ly sầu tầm cựu mộng
Hà xứ tả thê lương
Bán chẩm quyên đề lệ
Diêu cầm tấu Tiêu Tương
Cầm thanh hồ minh yết
Hoài năng bất năng vương
Sầu tư nan thổ tận
Khả úy dữ quần phương
Bà tự dịch ra quốc âm:
Canh muộn trăng càng tỏ
Đầy sân lan dạ hương
Sầu xa tìm mộng cũ
Về đâu gởi nỗi buồn
Gối chích quyên rơi lệ
Đàn rao khúc Tiêu Tương (1)
Tiếng đàn sao ngượng ngập
Nhớ người tơ rối vương
Nỗi sầu khôn tỏ cạn
Cùng hoa khuây nhớ thương.
XEM HOA ĐÀO NỞ CẢM HOÀI
Bích đào mấy đóa nhụy đua tươi
Sau trước nào đâu thấy bóng người (2)
Biến đổi tang điền thề biển lạnh (3)
Châu lìa Hiệp phố lệ châu rơi (4)
Gối xuân lỡ giấc tìm hương cũ
Đoạn thảm cùng ai kể khúc nôi
Bông nở làm chi ngơ ngẫn bấy
Chàng Lưu đã lạc lối Thiên Thai.
 
Đây không phải là thơ ngâm hoa vịnh nguyệt trong lúc rượu cạn trà dư, mà là tấc lòng gởi vào thiên cổ. Ông tú đã qua đời, “Đoạn thảm không biết cùng ai kể khúc nôi” nên tạm gởi gắm vào bút mực. Tình chân, lời tao. Thật là giai tác.
Bà gốc Bình Định, nhưng bà cụ thân sinh là người Huế và cũng sanh trưởng ở Huế, cho nên giọng thơ không mang tánh chất mạnh và cứng của “roi và quyền” (6)
Lúc nhỏ thì bà thường ở Huế, Từ lúc có chồng bà về ở luôn Bình Định. Cho nên hình ảnh nơi chôn rau cắt rún in đậm nơi lòng. 
NHỚ HUẾ
Cố đô còn vướng mối tình
Dòng Hương sóng nhẹ non Bình thông reo
Đò ngang xuôi ngược bến chiều
Giọng hò mái đẩy nhịp chèo lửng lơ
Những tà áo tím phất phơ
Nghiêng nghiêng chiếc nón bài thơ ngỡ ngàng
Cung son điện ngọc huy hoàng
Nền xưa mấy lớp thời gian bụi mờ
Văn Lâu bến cũ hững hờ
Bức tranh đài các bây giờ là đâu
Hè sang ve trổi nhạc sầu
Tịnh Tâm sen nở phơi màu thắm tươi (7)
Bình Hương u tịch nơi nơi
Chuông ngân chiều lắng một trời mộng thơ
Bao năm sông đợi núi chờ
Sao dời vật đổi xa mờ nước mây
Nhớ thương giọt lệ càng đầy
Lời keo sơn hẹn với ngày tha sinh
Mai Viên phong cảnh hữu tình (8)
Lê hoa trăng lộng liễu mành gió đưa
Cảm hoài bao chuyện ngày xưa
Nhà Hương Thảo Thất nắng mưa phủ phàng (9)
Ngậm ngùi giữa bước tha hương
Tình quê gởi lại nhớ thương đôi lời
Sông Hương núi Ngự muôn đời
Thông reo vi vút sóng trôi lờ đờ
Dưới đèn mượn bút đề thơ
Hương quan hồn mộng vẩn vơ đêm dài.
Bài này làm trong khoảng gần đây, khoảng 1960-1975, bà di cư vào Sài Gòn ở cùng người con trai. Tình hình Huế cũng như Bình Định không được yên ổn.
Lời thơ êm dịu đẹp đẽ, song tình chẳng khác con bươm bướm lượn phất qua vườn hoa, không dừng chân hút mật. Những hình ảnh của núi Ngự sông Hương, của hồ Tịnh Tâm, bến Phú Văn Lâu..chỉ thoáng đôi nét chung chung, đôi nét tổng quát mờ mờ, những nét mà ai cũng trông thấy, trông thấy một cách hời hợt. Không có một nét riêng của lòng, một nét riêng chỉ yêu mới nhìn thấy! Cho đến những cảnh riêng của gia đình, cảnh Mai Viên, cảnh Hương Thảo Thất cũng không có nét đặc biệt hiện lên mặt giấy để tô đậm nỗi nhớ niềm thương.
Cho nên bài thơ chỉ êm tai mà không thấm lòng.
Song so với một bài Đường thi thì bài này có sức truyền cảm mạnh hơn, truyền cảm mà không trì hứng, bởi thiếu chiều sâu.
Và đọc bài này, người ở xa không ai có thể biết được rằng bà Đào Trúc Tiên là người Bình Định. Cả giọng văn lẫn ý thơ đều khiến người ta tin chắc rằng bà gốc là người sông Hương núi Ngự. Thơ bà làm nhiều và phần nhiều là thơ chữ Hán. Bà đã chép thành tập. Nhưng năm 1975 bà theo con sang Mỹ, tập thơ ấy đi theo bà hay để lại Việt Nam? Bà  sang Mỹ được ba, bốn năm thì mất. Thọ trên 90 tuổi. Không biết “tấc lòng gởi vào văn chương” của bà hiện nằm vào tay ai?
Chú thích:
(1) Tiêu Tương: Khúc sông giao thủy của sông Tiêu và sông Tương. Nơi đây thường là chỗ chia tay để mỗi người đi mỗi ngả. Cho nên văn thơ thường dùng trong cảnh biệt ly. Nơi bờ sông Tương xưa kia hai bà vợ  ông Thuấn đứng khóc chồng, nước mắt hòa máu rơi vào trúc thành những đóm thâm. Cho nên có chữ giọt Tương là giọt nước mắt. Khúc Tiêu Tương là khúc đàn buồn về nỗi ly biệt
(2) Cụ Nguyễn Du thoát ý câu thơ của Thôi Hộ đời Đường:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Thành:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoài còn cười gió đông
Bà Đào mượn câu cụ Nguyễn chuốt thành:
Sau trước nào đâu thấy bóng người.
Thật “đắc sách”.
(3) Tang điền: Ruộng dâu hóa thành biển xanh (Tang điền biến vi thương hải, Nói tắt là tang thương)
(4) Hiệp Phố: Bến Hiệp Phố, có nhiều châu, quan Thái thú tham lam bắt dân lặn xuống bắt châu, châu bỏ đi hết, Sau viên tham quan đổi đi nơi khác, châu lại trở về.
(5) Chàng Lưu: Là Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào Thiên Thai hái thuốc, gặp tiên kết duyên vợ chồng.
(6) Roi quyền: Ca dao có câu:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền.
 Ý nói con gái Bình Định hùng dũng. Để tự vệ chiến đấu không cần dùng vũ khí mà chỉ dùng tài lực của mình. Đó là hùng khí của đất Tây Sơn.
(7) Hương giang, Ngự Bình, Tịnh Tâm, Phú Văn Lâu là những thắng cảnh cổ tích của Thần kinh.
(8) (9): Mai Viên: là cảnh hoa viên, Hương Thảo Thất là ngôi nhà mát của cụ Đào Tấn lập ở Huế. Cụ Đào Tấn làm quan đến chức Thượng Thư, có biệt thự ở Huế song lúc về trí sĩ, thì cụ về Bình Định sống với vườn nhà của tiền nhân để lại, đạm bạc như một thường dân.
19. ĐÀO CHI TIÊN
Bà là em ruột bà Đào Trúc Tiên, nhỏ thua chị 1, 2 tuổi. Sanh tại Huế năm Kỷ Sửu (1889). Từ nhỏ đến lớn ở Huế. Lớn lên theo chồng đi làm quan ở các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Nam, Phan Thiết Nha Trang. Thỉnh thoảng mới về thăm Bình Định.
Cũng như bà chị, bà Đào Chi Tiên là một bậc khuê các phong lưu, nôm hay chữ giỏi, vì chồng bà làm đến án sát nên khách làng thơ thường gọi bà là bà Án Đào chớ ít gọi tên.
Bà Đào Trúc tiên có vẻ đạo mạo, đường giao du thu hẹp trong phạm vi gia đình. Bà Đào Chi Tiên có phong thái của tao nhân, giao thiệp rộng, thích đi xem những nơi có cảnh đẹp dấu xưa. Và ngâm vịnh rất nhiều, chữ Hán có, quốc âm có.
Nhưng thơ bà chỉ chuyền tay cho các thân bằng thân hữu chớ không đăng báo chí, cho nên bạn “làng văn công khai” ít người biết, danh bà không được nổi như bà Cao Ngọc Anh, bà Đạm Phương, mặc dù thơ bà nhiều và có nhiều tình tứ. Xin trích một ít bài mà bà sáng tác trong khoảng gần đây:
THU VÕ CẢM HOÀI (1)
Trích trích ly hoa tạc dạ thanh
Tàn đăng tịch viện mộng nan thành
Nhất tiêu sầu mấn tha hương khách
Vạn lý bi thu cổ quốc tình
Đối xứ sổ bôi phong võ cận
Hoài nhân  cửu nhật mộng hồn kinh
Niên niên ký thủ nham đầu nguyệt
Thiên ngoại không văn cô nhạn minh
Bà tự dịch:
Tiếng mưa rả rích suốt đêm trường
Phòng vắng đèn tàn mộng dở dang
Muôn dặm thu buồn hồn cố quốc
Một mai tuyết điểm tóc tha hương
Gió mưa đối cảnh cơn say tỉnh
Ngày tháng thương ai dạ vấn vương
Bóng nguyệt Nha Thành khi gác núi
Ven trời nhạn lạc vẳng kêu sương.
Bài này bà làm ở Nha Trang năm Đinh Mùi (1967)
Nha Trang đối với bà là nơi có nhiều kỷ niệm. Lúc thanh xuân, bà theo ông ngồi Án sát Khánh Hòa ngót 9 năm. Ông mất lại lỵ sở ở Diên Khánh, bà xuống Nha Trang ở trong một thời gian khá lâu rồi mới về Huế. Thời kháng chiến chống ngoại xâm bà lại ở Nha Trang hơn 10 năm nữa. Bà ở Bình Định không được bao lăm. Cho nên người Bình Định ít biết bà hơn người Nha Trang. Và thơ bà cũng được làng giấy bảng mực tàu ở Khánh Hòa thuộc nhiều hơn Bình Định.
Cũng như thơ bà Trúc Tiên, thơ bà Chi Tiên lời thanh nhã, nhưng vì cảnh ngộ không bằng chị, nên giọng thơ hơi buồn, vị thơ có phần chua chát:
MƯA CHIỀU THU KỶ DẬU
Chiều thu lác đác lệ thu rơi
Chan chứa tình thu biết hỏi ai
Hỏi nước nước đành lơ lửng chảy
Hỏi mây mây vẫn lạnh lùng trôi
Hỏi người năm trước người xa vắng
Hỏi bến đò xưa bến cách vời
Mấy độ đi về trong lối mộng
Đêm tàn sương nhuộm bóng trăng côi.
Đem so sánh hai chị em thì về học lực bà Chi Tiên thua bà Trúc Tiên xa. Nhưng về thi tài thì bà Trúc Tiên không theo kịp bà Chi Tiên. Nhờ thường đi đây đi đó, thường cùng nhiều tay giỏi thơ xướng họa, thơ bà Chi Tiên đề tài đã rộng mà tứ thơ ít bị vướng vấp những cổ sáo trần ngôn.
 
MÙA ĐÔNG LÊN CHƠI CHÙA THẤY SEN NỞ
Cỏ vàng lá rụng cảnh đông thiên
Chợt thấy hồ bên mới nở sen
Vẫn cứ tươi cười trong tuyết lạnh
Có chăng tu luyện với ai riêng
Hương theo gió liễu đưa rèm trúc
Bóng dựa trăng mai ánh cửa thiền
Xuân đã gần đây lời tạm nhắn
Thủy tiên chưa dễ một mình tiên.
HỒ THAN THỞ Ở ĐÀLẠT
Dám đem gan óc tỏ cùng ai
Than thở cùng hồ Than Thở chơi
Nước lặng buồn như đời gái góa
Cây gầy lạnh tợ kiếp xuân ôi
Gió rên một tiếng niềm ly hận
Sóng dệt muôn câu mối cảm hoài
Rảo bước phong trần chân đã mỏi
Cùng nhau ta lại thở than thôi…
Hầu hết thơ chữ Hán của bà, bà đều tự dịch thơ quốc âm. Lắm lúc có bài quốc âm nào đắc ý bà cũng đem dịch ra chữ Hán:
 
QUÍ MÃO THU CẢM
Giếng vàng lá rụng cảnh thê lương
Tuyết đọng sương rơi xiết cảm thương
Hoa cỏ chưa nguôi tình lữ thứ
Tháng ngày thêm ngại cuộc tang thương
Con tằm nhả kén tơ sầu vướng
Cái cuốc kêu đêm huyết lệ tràn
Dệt mộng chưa thành trời đã sáng
Đàn chim réo rắc gọi bên tường.
Dịch:
Kim tỉnh ngô đồng thương lạc diệp
Lộ ngưng sương hạ thống tâm can
Khả lân lữ thứ thảo hoa quyện
Cánh khủng tang thương nhật nguyệt trường
Tàm thổ ai ty ty bất đoạn
Quyên đề huyết lệ lệ nan lương
Lương thiên vị chức thành hoa mộng
Quần điểu bi minh dạ dục tàn.
Thơ lục bát, song thất lục bát bà cũng luyện lắm, song ít làm, vì bà bảo rằng khó theo kịp bà Đoàn Thị Điểm, công chúa Ngọc Hân:
CẢNH CHÙA THÔN QUÊ
Luồn gió núi cỏ cây khua động
Ánh trăng sân hoa lộng màu tươi
Non xanh xanh tận chân trời
Nước trong trong vắt rạng ngời bóng gương
Khoảnh trời đất ruộng vườn đứng giữa
Thú thôn quê nhà cửa chung quanh
Véo von giọng cuốc kêu canh
Lơ thơ cụm liễu mấy cành ngả nghiêng
Kẻ tát nước liên miên hò hát
Người chăn trâu rải rác ra về
Thanh thanh lặng lẽ tứ bề
Một mình theo ngọn tiểu khê đi vòng
Nước đầy nhẫy dòng sông sau trước
Cây thướt tha tha thướt quanh nhà
Cầu ngang đường sát hỏa xa
Tiếng còi thúc giục thiết tha ly tình
Chợt tỉnh giấc nỗi mình trong đục
Phải lánh xa niềm tục mới tiên
Ngoài cảnh vật ngắm vô biên
Mà trong ngọn đuốc hoa sen đượm màu
Thênh thênh phong nguyệt một bầu
Vui say vì đạo đổi sầu làm tươi..
Ngoài tài bút mực, bà lại có tài ép hoa. Ép hoa khô mà vẫn giữ được màu sắc, mười phần còn lại sáu bảy. Hoa khô rồi, bà sắp xếp thành một bức tranh màu gởi tặng những lòng phong nhã:
Lấy chi báo đáp lòng vàng
Hoa khô mấy nhánh tuyết sương đã dày
Công trình vun quén một tay
Giữ gìn hương sắc tháng ngày cho hoa
Bấy chầy đã tám năm qua
Xuân lan thu cúc đậm đà cả hai
Kìa lục trúc nọ hoàng mai
Này hoa tỷ muội thoảng mùi thanh cao
Tường vi đứng dựa anh đào
Ngẩn ngơ cánh bướm ngạt ngào vườn xuân
Mượn thanh khí tặng cao nhân
Càng cao vì nghĩa càng thân vì tình
Nước non muôn dặm trường đình
Tấc lòng trân trọng gởi cành thiên hương
Mùi phong nhã khách văn chương
Nghìn xưa Đào Lý cũng dường ấy thôi
Gấm hoa khéo dệt nên lời
Mấy thiên lịch sử muôn đời dễ quên
Công lao chưa dứt phỉ nguyền
Nhưng lòng chí thiết báo đền là đây
Duyên cao ngộ xiết cao dày
Còn ngày nào hẳn là ngày tri âm
Mảnh tiên kể hết xa gần
Tạ tình tao khách ân cần trước sau
Thu về với nguyệt làu làu
Sông Nha tỏ rạng một màu xanh xanh.
Bài này bà làm mùa thu năm Canh Tý (1960)
Nguyên chúng tôi có viết một bài nói về thân thế và văn nghiệp của cụ Đào Tấn đăng ở tạp chí Lành Mạnh Huế. Bà và bà Đào Trúc Tiên đọc, cảm động gởi thư cảm ơn và quà tặng:
Bà Chị tặng một xấp gấm xanh
Bà Em tặng một bức cảnh hoa khô lồng kính và bài thơ trên.
Bức cảnh hoa khô bà giữ đã 8 năm mà màu sắc còn tươi đẹp. Chúng tôi rất quí trọng, song hoa khô không chịu nổi khí hậu miền biển, nên rã dần. Hiện nay chỉ còn bài thơ, nét chữ không nhạt. Bà là một người tài hoa. Cụ Đào rất yêu quí, chẳng những dạy chữ dạy thơ mà còn dạy hát. Những điệu bộ những tinh hoa trong nghệ thuật diễn xuất tuồng hát bội, bà được cụ thân sinh truyền thụ khá nhiều. Bà mất rồi, không còn ai nối nghiệp.
Bà mất khoảng 1980-1982 ở Chợ Lớn. Thọ trên 90 tuổi.
Buổi sinh tiền bà thu thập tất cả thi ca làm từ thuở thanh xuân, đánh máy thành tập. Cả chữ Hán lẫn quốc âm, trên dưới 500 bài. Bà có con cháu ở Việt Nam, tập thi ca ấy chắc khỏi bị thất lạc.
20. TƯƠNG PHỐ 
Năm 1928, sản xuất liên tiếp hai áng văn chương đầy nước mắt: Linh Phượng và Giọt Lệ Thu.
Linh Phương là tập văn khóc vợ của Đông Hồ, Lâm Tấn Phác.
Giọt Lệ Thu là tập thơ khóc chồng của Tương Phố, Đỗ Thị Đàm.
Cả hai đều đăng ở tạp chí Nam Phong và đều được Phạm Quỳnh ân cần giới thiệu.
Vì một bên khóc vợ, một bên khóc chồng, hai tác phẩm lại nối nhau ra đời trên một tạp chí có tiếng nhất thời bấy giờ, nên tên của hai tác giả, Đông Hồ - Tương Phố thường gắn liền nhau trên môi và trong trí một số đông người yêu thích văn thơ.
Buổi ấy tôi học cấp trung học trường Qui Nhơn. Anh em học sinh truyền miệng với nhau một khúc ngâm:
Dòng châu Tương Phố
Giọt lệ Đông Hồ
Dù khi suối cạn đồng khô
Mưa xuân vẫn ngập đôi mồ cỏ xanh.
Nhờ vậy mà tôi nghe danh Đông Hồ và Tương Phố. Nghe danh từ năm 1928, nhưng mãi đến năm 1939 tôi mới được làm quen cùng Đông Hồ, và 20 năm sau nữa, năm 1959, tôi mới được gặp Tương Phố.
Tương Phố là người tỉnh Hưng Yên (Bắc Việt) di cư vào Nam sau ngày chia đôi đất nước.
Được tin nữ sỹ cư trú tại Nha Trang, tôi muốm tìm thăm, nhưng chưa hỏi ra địa chỉ.
Một buổi chiều đông nắng ráo, tôi đương thơ thẩn dưới bóng mận ở trước nhà, thì một người đàn bà đến hỏi:
- Đây có phải nhà Quách Tấn?
- Dạ phải.
- Có lẽ đây là thi sĩ Quách Tấn?
- Dạ phải.
- Chắc Quách Tấn không biết ai đây?
Dáng người có vẻ cứng cỏi, câu nói không cần trau chuốt và giọng nói nghe sang sảng của bà khách làm cho tôi đâm ngờ là một cán bộ cách mạng...có lẽ nhận thấy thái độ tôi có phần bối rối bà khách cười:
- Tương Phố đây.
Tương Phố trước mắt tôi và Tương Phố trong các bức ảnh in trong sách văn học mà tôi đã được xem, là hai nhân vật khác hẳn. Đây là một phu nhân đầu điểm tuyết. Còn kia là một giai nhân tuổi đương xuân. Không từng giáp mặt nhau thì dễ gì nhận ra được. Sau phút giây kinh ngạc, tôi mừng rỡ reo to:
- Bà chị! Chưa kịp đến tham kiến bà chị, bà chị đã quang lâm.
Tôi gọi bằng chị vì Tương Phố sinh năm Đinh Dậu (1897) lớn hơn tôi 12 tuổi. Tương Phố vui vẻ đáp:
- Nhân đi chợ, ghé tặng Quách Tấn tập Giọt Lệ Thu.
- Xin mời chị vào...
- Nghe đâu Quách Tấn thường tiếp bạn văn chương dưới bóng mận kia mà.
- Nhưng lúc này mận chưa ra hoa và khí trời còn lạnh.
Vào nhà Tương Phố nói:
- Ra đi không chắc được gặp, nên chưa có lời đề tặng.
Đoạn mượn bút viết vào sách, rồi đứng dậy từ giã:
- Hôm khác sẽ nói chuyện nhiều. Nay phải ra chợ gấp kẻo tối, nhà không có người giúp việc.
Tôi hỏi thăm địa chỉ. Đáp:
- Số 42 đường Trịnh Phong. Nhà lúc nào cũng đóng cửa. Có đến phải xưng danh.
Rồi vội vã ra đi.
Mở sách ra xem lời đề tặng, tôi mới hay ngày gặp gỡ là ngày 10 tháng 10 dương lịch, ngày lễ Song Thập của Trung Hoa Dân Quốc..
Xem xong lời đề tặng, tôi xem lần vào nội dung tập thơ.
Giọt Lệ Thu viết năm 1923 đăng ở Nam Phong năm 1928 và in thành sách năm 1952. Nhưng trước kia tôi chỉ được đọc một vài đoạn ngắn. Trên ba mươi năm trời, sau khi tác phẩm ra mắt độc giả, tôi mới được đọc toàn tập.
Đó là một bài thơ trường thiên làm theo lối thi văn liên hành, là những tiếng khóc âm thầm, những dòng lệ sụt sùi liên tiếp như mưa thu, hết cơn này đến cơn khác, lạnh lẽo đìu hiu.
Dễ có mấy ai cầm lòng khi đọc những câu như:
Thu thường lại, ngày vui chẳng lại; thu thường đi, lòng hận chẳng đi; thương không có hạn, giận không có kỳ, người đi đi mãi, kẻ khóc khóc hoài. Chao ôi! Anh có biết đâu, một sớm anh chơi mây, để lại tháng ngày em lẻ bạn!
 
Thu có hạn, sầu dài không hạn
Cảm thu sang nhớ bạn lứa đôi
Đoạn trường biết mấy tao nôi
Khóc rồi lại khóc, hờn thôi lại hờn
Khúc uyên dạo dây đờn ai dứt
Dao sầu kia cắt đứt lòng son
Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn
Hờn duyên tủi phận lệ còn chứa chan!”
Hoặc như:
Nay tơ duyên đứt mối, giữa dòng chiếc bách lênh đênh, mình chàng yên được phận mình, lại còn đem tấm thân trôi dạt vào lòng cha. Nhưng để luỵ đến cha già cũng là một điều bất đắc dĩ, chứ lòng em có muốn thế đâu. Nghĩ cho em nửa đời gà trống nuôi con, cảnh này đã xế về hôm, mà vẫn còn đeo lo đeo nghĩ chưa được yên bụng già, thì em lại ngậm ngùi tấc dạ làm con, hai chữ thần hôn luống tủi lòng khuya sớm:
Thần hôn đã lỗi đạo trường
Con côi mẹ goá lại nương cha già
Muối dưa đắp đổi ngày qua
Phơ phơ tóc bạc cũng sa giọt sầu!”
Vân vân...
Phê bình Giọt Lệ Thu, Vũ Ngọc Phan, tác giả Nhà Văn Hiện Đại có những câu:... “Mỗi bài thơ trong Giọt Lệ Thu là một tiếng khóc thiết tha ảo não, vì mỗi đoạn văn xuôi là một đoạn kể lể, rồi hết đoạn kể lể là đến lúc khóc than...Những đoạn văn xuôi đã là những đoạn kể lể của người thiếu phụ khóc chồng, tất nhiên nhiều chỗ nó cũng lôi thôi và dài dòng như những lời kể lể...Mà có lôi thôi như thế mới đúng với thói thường của nhân loại, đúng những lời kể lể của người đàn bà trong khi khóc chồng...”
Lời phê bình của họ Vũ rất xác đáng.
Nhiều bạn đọc ngày nay cũng như trước kia không thích những đoạn kể lể. Cho nên giá trị của Giọt Lệ Thu nằm trong những vần thơ, nhất là thơ lục bát và song thất lục bát. Như những vần thượng dẫn và những câu sau đây:
Gió mưa chim chẳng lìa đôi
Giữa đường ân ái não người lẻ duyên
Vui xuân đôi lứa đề huề
Sầu xuân say tỉnh tê mê một người.
Xuân anh duyên đã phai rồi
Đời xuân thôi cũng là đời bỏ đi.
Đôi ta ân ái lỡ làng
Giữa đường sanh tử đoạn tràng chia hai
Anh vui non nước tuyền đài
Cõi trần hương lửa riêng ai lạnh lùng...
Vân vân…...
Lời thơ điêu luyện nhưng vẫn giữ được vẻ tự nhiên.
Xem xong Giọt Lệ Thu tôi đến nhà đáp lễ tác giả. Một ngôi nhà nhỏ lợp tole đứng chung cùng mấy gian nhà ngói trong một khoảnh vườn cây cối lưa thưa. Cửa đóng kín. Trong nhà im lặng như chùa. Hỏi người láng giềng thì đáp rằng có lẽ chủ nhân ở nhà vì từ sáng sớm không thấy ra khỏi ngõ. Tôi gõ cửa mấy lần, nhưng vẫn không thấy đáp. Đã toan trở bước thì nghe tiếng gọi từ phía nhà bếp đưa ra:
- Phải Quách Tấn đó chăng?
- Dạ phải.
- Chờ cho chút.
Rồi cửa nhà trên mở ra và chủ nhân trách:
- Tương Phố đã dặn rằng hể đến là phải xưng danh, thế mà không chịu nghe lời!
- Tại sao chị lại phải đề phòng kỷ thế?
- Tại vì khách làng thơ trong Nha Thành Thi Xã thường đến yêu cầu Tương Phố họa thơ quá...
Đoạn nữ sĩ vừa cười vừa kể lại câu chuyện vừa xãy ra tháng trước:
Một “lão thi ông” đến, thấy nữ sĩ đương ngồi rửa bát tưởng là người giúp việc, buột miệng hỏi:
- Có bà Tương Phố ở nhà chăng?
- Dạ bà vừa đi khỏi.
Khách liền lấy trong túi ra một phong thư:
- Chị trao lại giùm thư này cho bà, và thưa giùm với bà rằng tôi đến thăm mà rất tiếc không được gặp. Xin hẹn hôm khác.
Khách đi rồi, nữ sĩ mở thư ra xem thì là một bài thơ thất ngôn bát cú “Thất thập tự thọ”
Tôi liền hỏi:
- Thơ có hay không?
Nữ sĩ cười:
- Nếu như hay thì đâu đến nỗi hể thấy bóng người là phải lo trốn.
- Thi ông đến thì trốn, còn Thi bà đến có trốn chăng?
- Tùy người chứ. Thi bà, thi ông có khác chi nhau. Quách Tấn nghĩ ở đời có gì bực bằng ngồi nghe thơ dở?
Tôi nhận thấy Tương Phố là người khoáng đạt chân thật, nên không phải giữ gìn ý tứ và cân nhắc lời nói như những khi tiếp chuyện cùng các bạn văn chương bên phái nữ.
Nhân nói đến những lời phê bình của Vũ Ngọc Phan, nữ sĩ cho nghe mấy câu lục bát:
Chàng Phan chia rẽ hai ta
Chị vào văn sử em ra cõi ngoài
Bâng khuâng chị nhớ em hoài
Văn chương để mối hận dài bao khuây!
Tôi chưa kịp nhận được trọn ý tứ, thì nữ sĩ nói:
Khi viết bộ Nhà Văn Hiện Đại, Vũ Ngọc Phan gởi thư xin ảnh. Tương Phố gởi tấm ảnh “Tương Phố và Song Khê chụp chung”. Gởi tấm ảnh ấy là vì trong nhà có sẵn, lại có ý muốn nơi thi đàn cũng như trong gia đình, lúc nào cũng có em có chị. Nhưng khi nhận được Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan gởi tặng thì thấy ảnh Song Khê bị cắt còn lại mái tóc. Tương Phố buồn nên có mấy vần thơ ấy.
Tôi hỏi:
- Vũ Ngọc Phan có được đọc chăng?
- Chỉ có Song Khê được đọc thôi
Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan ra đời năm 1942.
Năm 1951, nhà xuất bản Ngày Mai ở Hà Nội thương lượng cùng nữ sĩ để xuất bản tập Giọt Lệ Thu. Sách in 2.000 cuốn, tác quyền là 3.000$, đưa trước 1.000$, còn 2.000$ sẽ giao khi sách in xong. Giao ước ký kết, nữ sĩ giao bản thảo cho nhà xuất bản. Nhà xuất bản hẹn trong vòng một hoặc hai tháng là có sách bán. Nhưng qua một mùa thu và đã gần hết đông mà sách vẫn không thấy và tiền cũng không thấy. Nữ sĩ bèn gởi cho chủ nhân nhà xuất bản là Văn Hồng Lĩnh, một bức thư thơ:
Thu qua đông đã lạnh rồi
Văn Hồng chẳng có nhớ lời Lệ Thu?
Nhà văn túi một xu không dính
Năm cùng rồi toan tính sao đây?
Đợi chờ ngày lại qua ngày
Người quên quên bẳng cả ngày tháng qua!
Ai hào hiệp sao mà lơ đãng?
Ham kinh doanh nỡ nhãng quên đây!
Cánh hồng gởi ngọn gió tây,
Lòng phong nhã với thơ này tặng ai...
Tương Phố tả lại câu chuyện một cách thích thú. Tôi hỏi:
- Tiếp được bài thơ Văn Hồng  Lĩnh có nghĩ đến “túi không dính xu” của nhà văn không?
- Có chứ. Nhưng mãi đến mùa thu năm sau (1952) sau khi sách ra đời tôi mới có.
Nhân thấy quyển Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại của Phạm Thanh để nơi bàn viết, tôi cầm lên toan mở ra xem. Chủ nhân ngăn lại và đọc to:
Cuốn “Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại”
Của Phạm Thanh tai hại quá chừng!
In sai be bét lung tung
Sách ra đời thế thẹn thùng biết bao!
Một vết nhọ in vào văn sử
Hỏi lỡ rồi gột rửa sao đây?
Nghìn thu còn vết hận này!
Tôi hỏi:
- Sách tệ đến thế ư?
- Cũng có Quách Tấn trong đó, muốn xem đem về nhà mà xem.
Tôi có nghe nói đến cuốn sách ấy, song mới được thấy mặt lần đầu tiên, nên tôi hoan hỉ nhận sách ra về. Nữ sĩ đưa ra sân, cười dặn:
- Nhớ giữ kỹ sách đó nhé. Đừng nổi khùng xé rách mà phải bồi thường sạt nghiệp chớ chẳng chơi đâu.
Về nhà xem qua, tôi nhận thấy lời phê phán của Tương Phố không quá đáng. Phan Văn Dật ở Huế, nhân viết thư hỏi địa chỉ Tương Phố, cũng tỏ ý bất bình đối với Phạm Thanh. Một quyển sách bị các nhà văn chuyên chính chê như vậy mà bán rất chạy. Khi được tin Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại có nói đến tôi, tôi tìm xem thử, nhưng ở Nha Trang, hỏi tiệm sách nào cũng đều đáp “bán hết rồi”. Đó là vì lúc bấy giờ phong trào đọc tác phẩm thời tiền chiến, phần đông người lầm Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại của Phạm Thanh với Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Cũng Thi nhân ở đầu và cũng Thanh ở đuôi thì mắt cá, tròng châu dể lẫn lộn quá!
Khi đem sách đến trả, tôi cho biết ý nghĩ của tôi. Tương Phố nói:
- Bọn mình là giống tằm rút ruột, luôn luôn bị con buôn lợi dụng để làm giàu!
Tương Phố cũng như con chim nhiều lần bị tên, hể thoáng thấy làn cây cong là tâm hồn bị kích động.
Năm 1959, nữ sĩ giao tập thơ thứ nhì của nữ sĩ là Mưa Gió Sông Tương cho nhà xuất bản Bốn Phương ở Sài Gòn ấn hành. Thời gian trôi mà bản thảo Mưa Gió Sông Tương còn nằm mãi một chỗ. Nữ sĩ rất nóng lòng mong đợi tin tức.. Gần một năm sau, sách mới ra đời.Nhiều người bạn ở xa đã có sách đọc, gởi thư đến ca tụng tác giả, nhưng tác giả trông đứng trông ngồi vẫn chưa thấy mặt đứa con tinh thần ra sao! Nữ sĩ rất lấy làm khó chịu, nên soạn mấy vần “thơ than”:
“Mưa Gió Sông Tương” xuất bản rồi
Nha Thành tác giả quá xa xôi
Nghe đồn cảnh cáo mà chưa đọc
Có sách ra đời biết vậy thôi!
Cái nghèo rắc rối chao ôi!
Muôn vàn thanh lịch biết thôi...cũng lờ.
Hồn phong nhã gởi trong thơ
Mà lòng phong nhã đã thừa tổn thương!
Phù sinh một cảnh hý trường
Nghèo là người khách qua đường trái duyên.
Muôn vàn nguyện chẳng như nguyền
Rồi lăng nhăng hết những duyên vật vờ!
Việc chậm trễ gởi sách không phải do nhà xuất bản quên tác giả, mà chính tại Mộng Tuyết muốn “làm tốt” cho quyển đặc biệt dành riêng cho bà chị. Mộng Tuyết - người trong nhà xuất bản Bốn Phương - đem cuốn đặc biệt đi đóng bìa da mạ vàng, đợi sách đóng xong sẽ gởi ra cùng số sách thường cho đỡ tốn công chầu chực nơi nhà Bưu điện. Biết được mỹ ý của Mộng Tuyết, nữ sĩ rất cảm động... Nhưng vẫn không dấu diếm lòng hờn dỗi của mình khi chưa nhận được sách.
Mưa Gió Sông Tương in xong cuối mùa xuân năm Canh Tý tức tháng 4 năm 1960 và đến Nha Trang đầu mùa đông năm ấy, tức tháng 11 dương, trong lúc gió mưa sùi sụt. Tôi là người được hân hạnh nhận sách tặng đầu tiên, vì khi nhân viên bưu điện đưa hàng đến thì tôi có mặt tại nhà tác giả ở đường Trịnh Phong.
Sách in thật công phu. Thơ trình bày trên giấy nền gấm vẽ sáu kiểu: Vương giã hương, Ngọc cốt hương, Tê tế hương, Văn tiết hương, Hồ điệp xuyên vân, Ngọc lân hý cầu. Tức là nền vẽ lan, mai, trúc, cúc, bướm, lân. Nét họa của Đông hồ. Trông thật trang nhã, đài các..
Nét vui mừng hiện rõ trên gương mặt nữ sĩ. Và ngoài trời tuy gió mưa mà lòng tôi lại cảm thấy một luồng khí ấm thổi...Tôi thành thật khen:
- Từ 1955 đến nay, chưa có quyển thơ nào đẹp bằng!
Nữ sĩ nhanh nhẹn đáp:
- Đó là nhờ Đông Hồ và Mộng Tuyết
Tôi bông đùa:
- Thế mà chị lại than “ Nghèo là người khách qua đường trái duyên”.
Nữ sĩ cười:
- Ai bảo bắt người ta đợi mấy tháng trời. Nóng cả ruột gan. Tức muốn chết.
Trời vừa ngớt mưa, tôi xin phép nữ sĩ về nhà đọc Mưa Gió Sông Tương.
Mưa Gió Sông Tương gồm những giai tác soạn từ 1915 đến 1949 và gồm có nhiều thể thất ngôn, lục bát, song thất lục bát. Hai thể sau chiếm đa số. Cũng có một số bài làm theo lối thi văn liên hành như Giọt Lệ Thu.
Tác phẩm chia làm hai phần: Phần trước chép những bài thơ làm trước khi Giọt Lệ Thu ra đời. Phần sau chép những bài làm sau khi Giọt Lệ Thu ra đời.
Giọt Lệ Thu là một tiếng khóc chồng dài dặc liên miên.
Mưa Gió Sông Tương là những mảnh tâm sự của con người đau khổ trong những ngày xa chồng, trong những ngày goá bụa, và trong lúc phải bước lên “cầu tái tiếu”.
Vì làm thơ trong hai giai đoạn trước và sau Giọt Lệ Thu, nên dù ra đời sau đến 8  năm kể từ lúc Giọt Lệ Thu đã in thành sách, Mưa Gió Sông Tương không thể bị coi là vai em. Mà cũng không thể đưa lên vai chị! Trường hợp của Cao Bá Đạt, Cao Bá Quát còn dễ phân định ngôi thứ hơn trường hợp hai tập thơ của nữ sĩ “Bến Sông Tương”. Mà thôi:
Chị em trong đạo gia đình
Ai em ai chị vẫn tình chị em.
Xin bàn qua tánh chất và giá trị của Mưa Gió Sông Tương.
Như trên đã nói Giọt Lệ Thu là tiếng khóc sụt sùi của người quả phụ. Mưa Gió Sông Tương là tiếng than não nuột của người thiếu phụ ngót 35 năm trời luôn luôn gặp bước gian truân .
Trong Giọt Lệ Thu có những câu ảo não thê lương thì trong Mưa Gió Sông Tương cũng có những câu lâm ly bi thiết:
Ngậm lời ngồi ngẩm canh tàn.
Nhìn nhau đôi mặt, bốn hàng lệ sa!
( Chia phôi)
Khúc tương tư giữa đêm thanh
Giọt ba tiêu khéo, bên thành điểm mau!
( Khúc tương tư)
Nương song ngơ ngẩn canh dài...
Áo khăn đẫm lệ, đất trời đẫm sương.
( Song trăng)
Muốn đem xuân trả lại trời
Mất chồng chi tiếc cái đời trẻ trung
Tang nhau tang cả tấm lòng
Ngày xanh còn thắm  má hồng cũng thôi!
(Xuân thừa)
Hôm nay, đoạn trở anh ơi!
Nhưng lòng em vẫn suốt đời trở anh!
Thương nhau thương ở tâm tình
Sầu kia chẳng để ở vành khăn tang!
(Đoạn trở)
vân vân...
Giọt Lệ Thu đã buồn thương, Mưa Gió Sông Tương lại thêm cay đắng! Cay đắng nhất là đoạn “phải bước đi bước nữa”
Vóc mai gầy võ tuyết sương
Mấy thu chiếc bách cánh buồm bơ vơ;
E dè buổi gió chiều mưa
Con côi mẹ góa dễ nhờ nương đâu?
Bước đi, âu cũng thương nhau,
Dừng chân đứng lại, cơ màu dở dang!
Dây loan chắp mối đoạn tràng
Ngâm câu tái tiếu hai hàng lệ sa!
...
Thân này, đôi dẫu đủ đôi,
Lòng này, riêng vẫn lẻ loi tấm lòng!
Theo duyên ân ái đèo bòng,
Trăm năm vẫn một khúc lòng bi thương...
Cửa hầu gởi áng xuân tàn,
Chén vinh hoa nhắp muôn vàn đắng cay.
Nỗi lòng chua xót ai hay,
Tấm thân bồ liễu võ gầy riêng thương.
Vì chồng tâm sự dở dang,
Vì con, thôi mấy đoạn tràng cũng cam...
Nước non duyên nợ nghĩ liều
Cầm như con trẻ chơi diều đã xong
Nỗi niềm lụy đã đôi dòng
Trăm năm để một tấm lòng từ đây!
(Tái tiếu sầu ngâm)
Tương Phố tái giá là vì hoàn cảnh:
Nỡ nào để lụy cha già,
Nỡ nào để một ảnh nhà dở dang;
Con thuyền bắt lái sang ngang.
Trông vời con nước mà ngang ngửa lòng!
(Bước chân ra)
Vì hoàn cảnh mà buộc lòng phải “bước chân ra”, chớ:
Dể âu duyên mới du mà
Còn tình chăng nữa cùng là luỵ thôi.
Trăm năm danh tiết lỡ rồi
Dẫu thân chung đỉnh cũng đời bỏ đi.
(Tái tiếu sầu ngâm)
Nữ sĩ nghĩ “Chồng qua đời là đã mất nhau rồi, bước thêm bước nữa lại là mất nhau lần thứ hai”
Cho nên:
Bước ra những muốn quanh vào
Trăm năm, nào có phần nào phần khuây.
Thân này, đến dở dang này,
Lòng này, thôi hết chua cay nỗi lòng!
(Bước chân ra)
Và nỗi lòng chua cay không biết bao giờ dứt:
Trông về lối cũ tình Hương
Sông quanh chín khúc đoạn trường quặn đau!
Non cao, thẳm ngất non sầu
Cảnh xưa ai vẻ nên màu thê lương.
Tình xưa càng nghĩ càng thương,
Biết bao khoảng vắng đêm trường khóc nhau.
(Tái tiếu sầu ngâm)
Nỗi ly hận mây chiều gió sớm,
Tình tương tư khoảng vắng đêm trường;
Gió mưa tâm sự thê lương,
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây!
Sầu ngây ngất những ngày thu lại,
Giọt ngâu tuông lệ lại chan hoà
Ngày xanh sắc úa vàng pha,
Bông lau lã lướt la đà ngọn may.
Non nước buồn cỏ cây hiu hắt,
Khói mây tuôn mặt đất chân trời;
Vời trông muôn dặm đường đời,
Bước trăm năm, luống ngậm ngùi cho thân.
Kể từ độ phong trần lạc bước,
Mười lăm năm mặt nước cánh bèo;
Gieo lòng theo ngọn thủy triều,
Lênh đênh thôi cũng mặc chiều nước sa!...
(Khúc thu hận)
Người xưa nói:
Thơ khó chân vậy. Có tánh tình sau mới chân được. Bằng không thì chỉ phu diễn thành văn thôi
Thơ trong Mưa Gió Sông Tương cũng như trong Giọt Lệ Thu rất chân thật. Đó là nhờ lòng tác giả đã chứa sẵn mối thương tâm, cho nên mỗi khi lòng bị khích động, thì những nỗi nhớ thương buồn tủi thì liền kết đọng lại thành lời chảy tuôn ra.
Nghĩ là thơ Tương Phố không phải phấn sức của tài ba mà là tấc lòng gởi vào thiên cổ. Vì vậy mà dể rung cảm lòng người đọc người nghe.
Bàn về mặt văn chương thì Mưa Gió Sông Tương tinh luyện hơn Giọt Lệ Thu. Những câu như:
Thân này đôi vốn đủ đôi
Lòng này riêng vẫn lẻ loi tấm lòng
Cửa hầu gởi áng xuân tàn,
Chén vinh hoa nhắp muôn vàn đắng cay.
Gió mưa tâm sự thê lương,
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây!
Gieo lòng theo ngọn thủy triều,
Lênh đênh thôi cũng mặc triều nước sa!
Vân vân... thì thật là tuyệt diệu!. Văn điêu trác mà giọng thì tự nhiên. Rõ là nhân công mà thiên tạo. Nếu tác giả có sẵn cái khéo của trời mà không có cái công của mình, hoặc chỉ dùng cái công của mình mà không có sẵn cái khéo của trời, thì không thể sáng tác được những vần thơ hay như thế.
Xưa nay những thi nhân có tác phẩm truyền tụng đều có  đủ ba yếu tố cần thiết: Thi cốt, thi học, thi tài. Thi cốt là tiên thiên, thi học là hậu thiên. Nếu tiên thiên và hậu thiên đều sung mãn thì thi tài phát triển đến cùng tột. Nếu tiên thiên bất túc, phải nhờ hậu thiên bổ khuyết thì thi tài mới mong tinh tiến mãi. Còn nếu tiên thiên sung túc mà hậu tiên bất túc thì thi tài lên đến một mức nào đó phải ngừng. Xem hai tập Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương, tôi nhận thấy Tương Phố là một tài nữ có thi cốt vững, thi học chín.
Nhưng Tương Phố chỉ có sở trường về lục bát và song thất lục bát. Trong hai tập Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương, văn xuôi chỉ là những lời “kể lể”, giá trị văn chương không được nhiều.Còn thơ thất ngôn, so với lục bát và song thất lục bát thì thua xa. Những bài thất ngôn trong hai tác phẩm chỉ đạt được ý của tác giả mà không truyền được cảm sang độc giả. Mà thơ không truyền được cảm, không phải là thơ hay.
Sau đây là một bài thất ngôn luật đắc ý của tác giả:
NGOẢNH LAI TRỜI NAM
Ngoảnh lại trời Nam lệ chứa chan...
Ái ân thôi đã lỗi muôn vàn!
Thương chồng một phút rồi công nghiệp
Tủi thiếp trăm năm héo ruột gan.
Sinh tử ngẫm buồn cơ tạo hoá,
Truân chuyên thêm ngán nỗi hồng nhan.
Từ đây non nước ngày xa vắng
Chiếc bách con chèo cảnh thế gian!
Bài này để một bên những câu thống thiết thượng dẫn, nếu mà người đọc không biết rõ xuất xứ thì không thể tin rằng hai bên vốn là “đồng bào song sanh”.
Năm 1960, theo vần 10 bài “Mơ về vườn cũ” của một ông bạn Bắc Việt di cư, nữ sĩ làm 10 bài liên hoàn “Hồn khuê dặm khách”. Xin trích bài đầu và bài cuối:
I
Chia ly nhắc nhở não canh trường
Ngàn dặm tha hương nhớ cố hương
Vườn cũ đi về khôn hẹn mộng
Việc riêng toan tính đã sai đường
Lung tung đời loạn hao năm tháng
Dầu dãi quê người dạn nắng sương
Ngả Bắc vời trông rưng mắt lệ
Mưa mưa gió gió ngậm ngùi thương.
X
Bức tranh kim cổ xảm pha vàng
Bày xoá bao nhiêu cuộc hải tang
Đời trước đã từng cay với đắng
Lớp này đương những dở cùng dang
Thèm tuồng, đất nước ganh xâu xé
Để nỗi dân tình hận ngổn ngang
Chim Bắc cành Nam nhiều khắc khoải
Hồn quê dặm khách sững mơ màng!...
Tất cả lời thơ già dặn, hương vị thơ khô khan. Đọc qua rồi không muốn đọc lại. Không như thơ lục bát và song thát lục bát của nữ sĩ, phần nhiều đã có vị mà còn có tiếng đàn ngoài dây tơ.. Tức là vừa có sức truyền cảm vừa có sức trì hứng. Cho nên đọc nhiều lần vẫn thấy hay.
Nhưng thơ lục bát và song thất lục bát của Tương Phố làm theo buổi vãn niên không theo kịp những vần trong Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương. Không phải vì tình thơ đã cạn, mà chính vì thiếu công thôi xao. Cứ nghĩ sao viết vậy, và viết xong là xong chớ không hay sửa đi sửa lại.
Đông Hồ và Tương Phố nổi danh một lần. Nhưng càng về già thơ Đông Hồ càng dụng công chải chuốt, còn thơ Tương Phố có thể nói là chỉ làm cho có làm. Tuy vậy những vần thơ đứng ngoài Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương vẫn đáng quí vì vẫn là “thốn tâm thiên cổ” chớ không phải là “vật tiêu khiển trong nhất thời”
Trong bài Phạm Quỳnh giới thiệu Giọt Lệ Thu có câu:
“Mà bạn độc giả đọc xong bài này, dù ý kiến về văn chương thế nào, tưởng cũng phải vì Tương Phố phu nhân bùi ngùi tấc dạ.”
Câu này có thể mượn để nói trùm cả sự nghiệp văn chương của nữ sĩ.
Còn về cuộc đời của Tương Phố, tuy nặng tình chị em, tôi không bao giờ tìm hiểu cho thấu đáo, và nữ sĩ cũng ít đem đời tư của mình nói cho tôi nghe. Nhưng bằng vào văn chương, tôi cũng biết được đại khái:
Cụ thân sinh của nữ sĩ là một nhà Nho thanh bần. Bà cụ hiếm hoi chỉ được hai gái là Tương Phố và Song Khê.
Hai chị em lúc nhỏ học chữ Hán cùng ông cụ và học chữ Pháp tại trường quốc lập tỉnh nhà (Hưng Yên)
Lớn lên Tương Phố kết duyên cùng nhà họ Thái ở Huế ra học trường Y Khoa Hà Nội:
Em mười tám anh hai mươi lẻ
Sóng gương đôi lứa trẻ như măng
Có đêm ngồi mát dưới trăng
Bảo nhau: yêu quá sợ Hằng Nga ghen
( Tự tình)
Sum họp vừa trong mười tháng thì họ Thái tòng chinh sang Pháp (1916). Lúc bây giờ nữ sĩ nằm nơi được một trai mới 6 ngày chưa rụng rốn. Sang Pháp được ba năm, họ Thái bị thổ huyết, không chịu nổi khí hậu trời Âu, phải đưa về Huế điều trị. Hồi này nữ sĩ đương dạy học tại trường Sư phạm Hà Nội. Chẳng những xin phép nghĩ khó khăn, mà đường lại xa xôi cách trở, nên không vào thăm được. Không được bao lâu thì được điện tín cho biết họ Thái đã tạ thế và đã đưa ma rồi (mùa thu năm 1920).
Canh khuya, tỉnh giấc hai hàng lệ,
Vừa năm kia mất mẹ chưa khuây:
Áo khăn tang tóc còn đây,
Chưa xong tang mẹ lại ngay tang chồng!
(Tự tình)
Nữ sĩ đem con về nương cùng cha già. Đoạn tang rồi vì cảnh cha già con dại, nữ sĩ buộc lòng phải tái giá, về cùng quan Tuần vũ họ Phạm (1925). Từ ấy về sau:
Phong lưu để ngậm ngùi tấc dạ
Chén vinh hoa lã chã giọt hồng
Khóc than khôn xiết sự lòng
Bèo xuôi sóng ngược cho lòng xót xa...
( Khóc thu hận)
Đến thời kháng chiến chống Pháp, gia đình bị ly tán. Ông cụ thân sinh bị bệnh mất trên đường tản cư:
Bảy mươi tám tuổi trời chua xót
Lúc lâm chung thảng thốt không ai!
Rể dâu thăm thẳm phương trời,
Gái trai nội ngoại nào ai bên màn?!
Sau ngày hiệp định Geneve ký kết, nữ sĩ di cư vào Nam.
Nữ sĩ đi một mình cùng người con trai họ Thái.
Người con trai lúc bấy giờ là một công chức cao cấp ngành Thủy lâm, làm việc tại Đà Lạt. Nhưng nữ sĩ không ở cùng con tuy là người con duy nhất- mà lại đến Nha Trang mua một túp nhà nhỏ ở một thân. Tình cảm thật hiu quạnh!
Đến thăm, tôi hỏi:
- Những khi đau yếu chị nhờ cậy ai?
Nữ sĩ cười:
- Nhờ Trời!
Tánh nữ sĩ vui vẻ, hồn nhiên và rất tươm tất.
Tuy ở một mình và ít khi tiếp khách, nhưng nhà cửa trang trần rất lịch sự, bánh trái luôn luôn có sẵn trong tủ ăn. Nghề nữ công, từ môn thêu thùa đến môn nấu nướng, nữ sĩ rất rành.
Một hôm tôi đến gặp lúc nữ sĩ đương mắc tay nơi bếp. Nữ sĩ tiếp tôi bên cạnh hỏa lò, vừa làm việc vừa nói chuyện. Phần nhiều là chuyện văn chương. Mùi thi ca trộn lẫn mùi chiên hấp, tạo thành một hương vị đặc biệt nửa thật nửa hư.
Lúc bấy giờ cũng đã hơi trưa. Nữ sĩ bảo:
- Quách Tấn ở lại ăn cơm với Tương Phố nhé.
Tôi cười:
- Hết phần buổi chiều thì làm sao?
- Thì đi chợ nữa. Chợ gần nhà, lo gì.
Tôi bèn lo soạn chén bát. Rồi mâm cơm dọn ngay nơi nấu ăn. Và hai chị em không cần phân chủ khách. Bửa cơm thật ngon. Ăn xong, nữ sĩ bảo:
- Quách Tấn lên nhà trên mở tủ lấy đồ tráng miệng. Tương Phố dọn dẹp xong, lên sau.
- Chị để tôi giúp với.
- Cậu chuốt chữ thì tinh, nhưng rửa bát không sạch nổi. Thôi để đó cho chị.
Tôi đến lúc nào cũng được ăn. Không bánh thì mứt, không mứt thì trái cây. Thỉnh thoảng nữ sĩ lại mang quà xuống cho lũ cháu. Tình đối với tôi rất hậu. Nhưng tôi không biết lấy gì đền đáp cho xứng đáng. Chỉ những mùa mận, hễ trái chín là tôi hái vài chùm sởn sơ nhất đem lên tặng.
Mỗi lần được mận, nữ sĩ đều đặt lên bàn thờ ông cụ bà cụ cúng rồi mới ăn.
- Dâng lên tổ tiên, vạn bất đắc dĩ mới dùng hoa  quả mua ở chợ. Quả nhà vườn vừa ở trên cây hái xuống mới là quí.
Tấm chân thành của nữ sĩ chẳng những thể hiện với văn chương mà cả nơi ngôn ngữ cử chỉ hằng ngày. Càng ở gần càng thấy rõ. Những người quen biết nữ sĩ đều công nhận như vậy.
Nữ sĩ lại còn một ưu điểm nữa là trực tánh. Muốn nói điều gì thì nói thẳng chớ không nói quanh co, cũng không cần “đắp bờ con” như phần đông người ở những nơi “văn vật”, mặc dù nữ sĩ đã từng sống nơi đất Thăng Long. Như đối với Đông Hồ là chỗ chí thân mà khi đề cập, nữ sĩ cũng thẳng thắng phê bình.
Sau khi tặng tôi tập Mưa Gió Sông Tương, một hôm nữ sĩ xuống nhà bảo lấy ra để nữ sĩ sửa lại những chữ cần phải sửa. Trong bài Mất Mẹ sách in:
Anh ôi, em mất mẹ rồi!
Một trời đông lạnh, mấy hồi thê lương!
Sương sa, giọt lệ canh trường,
Cố hương tang Mẹ, tha hương tình chồng.
Nữ sĩ xóa chữ “cố hương” ở câu 4 và sửa lại là “quê nhà”.
Trong bài Đoạn Trở sách in:
Hôm nay đoạn trở anh ơi!
Nhưng lòng em vẫn suốt đời trở anh.
Thương nhau thương ở tâm tình,
Sầu kia còn để ngoài vành khăn tang!
Nữ sĩ xóa chữ “còn” và chữ “ngoài” và sửa lại chữ “chẳng” và chữ “ở”, câu thơ thành ra:
Sầu kia chẳng để ở vành khăn tang.
Trong bài Tim Em, đoạn thứ ba, sách chép:
Từ đấy thương cha em nín khóc,
Cha em thường thấy mặt em vui.
Người đời cũng ngỡ em sung sướng,
Em biết tim em đã nát rồi!
Nữ sĩ xóa chữ “Em” trong câu 4 và thay vào chữ “Ai”. Sửa xong nói:
- Đông Hồ ưa sính chữ và thích sửa thơ người ta quá! Những chữ đó là Đông Hồ đã sửa cho Tương Phố. Ai mượn không biết?
Tôi đọc lại những câu thơ in và những câu thơ mới sửa. Sau khi cân nhắc kỷ càng tôi nói:
- Đông Hồ sửa lại như thế, tôi nhận thấy hay hơn.
Nữ sĩ phản ứng liền:
- Hay hơn nhưng không đúng ý của Tương Phố. Về vấn đề văn chương, Quách Tấn khe khắt lắm kia mà?
Không dám bàn thêm tôi đành lãng qua chuyện khác.
Nhưng quanh quẩn rồi cũng trở lại cùng Đông Hồ và Mưa Gió Sông Tương. Tôi bông đùa:
- Chị có biết tại sao nơi bìa Sông Tương, Đông Hồ cho in hình Ngọc Lân Hí Cầu ở mặt trước, và Hồ Điệp Xuyên Vân mặt sau không?
Nữ sĩ vô tâm nói:
- Đông Hồ có nói với Tương Phố đâu mà biết.
- Đã tương thân tương đắc với nhau thì cần chi phải nói mới biết.
- Quách Tấn biết không?
- Sao lại không?
- Nói nghe nào.
- Đông Hồ thâm lắm. Hình ở mặt bìa sau tượng trưng cho cái hay cái đẹp của thơ. Hình ở mặt bìa trước ám chỉ tánh Hà Đông của chị, vì kỳ lân và sư tử vốn đồng tông.
Nữ sĩ đứng dậy đấm tôi một đấm:
- Không thèm nói chuyện với cậu nữa.
Rồi lấy nón:
- Ra chợ mua một ít chanh về muối.
Tôi đưa ra ngõ:
- Đã sư tử mà còn chanh còn muối nữa thì e trời cũng phải sợ.
- Lém miệng vừa vừa, kẻo có ngày trở thành Huyện Móm đó (1)
Tương Phố thường nhắc đến bà em là Song Khê ở Sài Gòn.
Một hôm, nhân nói chuyện “rau sắng chùa Hương” là chuyện giữa Song Khê và Tản Đà (2), nữ sĩ đọc cho tôi nghe hai bài thơ. Một bài khuyết danh và một bài của bà phủ Ba, thân sinh Tản Đà tiền bối.
Bài khuyết danh nhạo một cô gái tên Đắc, mặt mày xấu xí, học hành ít ỏi, nhưng sính văn chương và mê thơ Tản Đà, đi đâu cũng tự nhận mình là tình nhân của thi bá. Bài của bà phủ Ba là Chút Tình Riêng gởi cho bà bạn đồng thanh đồng khí là bà Nhàn Khanh. Bài khuyết danh dài 24 câu song thất lục bát. Bài của bà phủ Ba dài 22 câu lục bát. Thế mà Tương Phố thuộc lòng! Tôi phục trí nhớ của nữ sĩ:
- Lúc thanh xuân, chị còn cường ký đến bậc nào!
- Cậu tưởng lúc này Tương Phố đã lú lẫn rồi sao? Nói chơi vậy thôi, chớ quên cũng nhiều lắm. Nhiều khi quên cả thơ của mình nữa là khác. Mấy bài kia thấy hay hay nên mới nhớ kỹ.
Đề cập đến bà phủ Ba, nữ sĩ có ý trách Tản Đà tiền bối.
Bà phủ Ba tên là Lưu Thị Hiền, người tỉnh Hà Đông, vốn là một đào nương có thanh sắc, có học vấn, thi tài lại mẫn tiệp. Bà lấy lẽ thứ ba ông cụ thân sinh Tản Đà là cụ Nguyễn Danh Kế, lúc ngồi tri phủ Lý Nhân. Do đó người đương thời gọi là bà phủ Ba. Bà kết bạn thâm giao cùng người em gái cụ Dương Khuê ở Dương Đình (Hà Đông) là bà Nhàn Khanh. Hai bên thường xướng họa với nhau rất tương đắc.
Bà phủ ba sinh được 4 người con, 2 trai và 2 gái. Tản Đà tiền bối là con đầu lòng.
Sau vì sự bất hòa trong gia đình, bà phủ phải ra đi với người con gái út. Và bất đắc dĩ bà phải trở lại sống đời sống chốn cầm ca!
Do đó mà Tản Đà tiền bối không nhìn mẹ. Cho đến  khi bà cụ mất tiền bối cũng không về quê mẹ chịu tang.
Tương Phố nói:
- Dẫu chi chi đi nữa cũng là mẹ. Tản Đà không nên đối xử như thế.
Xưa nay ai cũng trách Tản Đà tiền bối về việc đó. Không mấy ai xét thấy nỗi khổ tâm của người trong cuộc. Tôi nhờ Tản Đà tiền bối hạ cố, nên biết được tâm sự của tiền bối trong muôn một. Nhân Tương Phố khơi ra, tôi bèn đáp:
- Trong Tản Đà có hai con người, một nhà thơ, một nhà nho. Nhà nho vì giáo dục gia đình vì luân lý và phong tục tập quán của xã hội mà sanh ra cố chấp. Nhà thơ do tánh trời sở phú, mà cũng do tánh di truyền của bà cụ thân sinh, nên lãng mạn phóng đãng. Hai bên luôn luôn mâu thuẫn nhau trong tâm hồn tiền bối. Nhà nho vốn thiên về ý trí. Đối với hành vi bà cụ như thế, nhà Nho nhất định lên án gắt gao. Còn nhà thơ vốn sống cùng tình cảm, nên lòng không thể nào không đau xót thương lo... cho nên ngoài đời thì sắt đá vô tình, còn trong thơ thì lại có nhiều đau thương cho kiếp cành chim lá gió. Đó là vì danh giá, không thể tỏ lòng trực tiếp cùng mẹ, mà phải mượn văn chương để gián tiếp tỏ lòng. Cực chẳng đã mới làm thế. Chớ đến một gói rau sắng chùa Hương mà còn khiến tiền bối mãi ghi ơn nghĩa, huống hồ đối với ơn mang nặng đẻ đau.. Đắng cũng là ruột... Con người đa cảm đa tình như tiền bối lẻ đâu có thể dửng dưng lòng? Lòng thương mẹ của tiền bối chẳng những gói ghém trong những bài ca trù, gởi gắm trong tập Thề Non Nước, trong việc soạn Bình Khang Ca Phổ mà còn đôi khi phát lộ hẳn ra lời trong những bài thơ nói chung về nhân tình thế sự:
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn,
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn
Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!
Đó chẳng phải là lời than đứt ruột của người không báo được đức cù lao, không đền được ơn sinh dưỡng?
Sự mâu thuẫn giữa tâm và trí, giữa thiên tánh và tập quán xã hội, đã làm khổ Tản Đà tiền bối và đã tạo nên không khí đìu hiu bát ngát trong sự nghiệp văn chương của tiền bối. Sự mâu thuẫn ấy còn nơi hành động: viết văn, làm báo và làm thơ.
Ai đã từng bị giằng co giữa tâm và trí thì mới hiểu được tâm trạng của Tản Đà tiền bối và mới có thể phê bình một cách vô tư.
Tương Phố lắng nghe, không đáp.
Về đạo đức luân lý, đôi khi nữ sĩ không đồng quan điểm cùng tôi. Nữ sĩ có mặc cảm về việc mình tái tiếu. Một hôm nói:
- Đối với ông Tuần, Tương Phố chỉ có nghĩa vợ chồng, chớ không có tình chăn gối.
Ở Nha Trang, nữ sĩ có một cô bạn là một bà công chức trẻ đẹp. Cô bạn được nghe nữ sĩ phân trần về việc ấy, đến hỏi tôi. Tôi đáp nửa thật nửa đùa:
- Cùng phái với nhau mà không phán đoán được chắc chắn, thì khác phái như tôi làm thế nào biết rõ được đỏ xanh.
Nhưng khi nghe nữ sĩ thuyết minh thì tôi chỉ cười chớ không đáp. Nữ sĩ có ý giận:
- Quách Tấn không tin?
Tôi liễm dung đáp:
- Không phải không tin, nhưng tôi cho là điều không quan trọng. Đối với tôi chỉ có tâm hồn mới đáng quí. Còn thân xác là đất sét Rồi trăm năm đất sẽ hoàn lại đất, còn có chăng chỉ còn có tấc lòng gởi vào văn chương đó mà thôi. Tấc lòng của chị đối với người quá cố, từ lúc về nương tựa cha già đến lúc bước đi bước nữa, từ buổi thanh xuân đến khi vãn tiết, nhìn vào Giọt Lệ Thu và Mưa Gió Sông Tương, vẫn thấy vàng đá tri tri. Như thế thật quá đủ. Còn nghĩ đến việc khác làm gì cho bận tâm? Huống nữa, người đời kính yêu Tương Phố là kính yêu về mặt văn chương chớ đâu phải về mặt đạo đức. Mà đối với đạo đức, tái giá đâu phải là việc không tốt hoặc không nên. Chính đức Khổng Phu Tử đứng gả chồng cho người con gái góa của ngài kia mà.
Lời nói của tôi rất chân thành. Không biết nữ sĩ có biểu đồng không mà không thấy phản ứng.
Tương Phố không thích tiếp khách, là không thích tiếp những ông những bà “trong cốt không có thơ mà sính làm thơ” đó thôi. Chứ đối với những người có tâm hồn, nữ sĩ đâu có nhìn bằng đôi mắt trắng. Nhiều khi nữ sĩ cũng vui vẻ đi dạo cảnh cùng bằng hữu.
Năm 1968, vào cuối tháng 7 dương, đầu tháng 7 âm, nhân dịp nữ sĩ Tuệ Mai ra Nha Trang, Võ Hồng tổ chức một cuộc du lãm nho nhỏ, mời nữ sĩ và tôi tham dự. Nữ sĩ vui vẻ nhận lời. Thầy Tuệ Hải trụ trì chùa Kim Liên ở Diên Khánh lái chiếc Toyota, đưa chúng tôi đi xem các cổ tự và thắng cảnh trong địa phương. Trưa đến về chùa Kim Liên nghỉ.
Cảnh chùa tĩnh mịch. Trong vườn lại có bưởi vừa chín tới, có hồ sen tuy đã sang thu mà hoa còn nở, gương chưa khô. Của chùa là của thập phương, nên khách khỏi phải nhịn lòng cho mắt. Tiếp đến chùa đãi bữa cơm chay toàn những món ăn thôn quê thanh đạm mà ý vị. Tương Phố ăn uống tự nhiên như ở nhà và nói chuyện rất giòn dã.
Trước khi ra về, thầy Tuệ Hải yêu cầu khách viết vào sổ lưu niệm của nhà chùa, mỗi người đôi ba câu để kỷ niệm ngày hội ngộ. Tương Phố viết ngay 14 câu lục bát, mà tôi còn nhớ mấy câu mở đầu:
Mồng hai tháng bảy Mậu Thân
Một xe trong cõi hồng trần những ai
Thành Nha mát mẻ ban mai...
Ai cũng phục tài mẫn thiệp của nữ sĩ. Bị Tương Phố và Tuệ Mai ép buộc không được viết văn xuôi, tôi tiếp theo một tuyệt:
Dặm hồng dìu dịu nắng
Theo hứng viếng làng tu
Ngụm nước đằm chơn vị
Hồ im sen nở thu.
Tương Phố xem thơ rồi bảo:
- Nghề chơi chữ, Quách Tấn thật tuyệt.
Tôi có hơi phật ý, nhưng vẫn giữ được bình tỉnh nên không ai thấy phản ứng trên nụ cười không được vui.
Thuở nay tôi ghét lối thơ chơi chữ. Trong phép làm thơ có tứ luyện, là luyện tự, luyện cú, luyện ý, luyện cách. Tôi không bao giờ quên lời dạy của cổ nhân và khi làm thơ tôi luyện rất kỹ càng. Nhưng luyện chữ khác với chơi chữ. Một bên nhằm mục đích tả cho được thật đúng những gì mình muốn tả. Một bên chỉ để khoe tài khéo léo của mình. Luyện chữ để phụng sự nội dung, chơi chữ thiên hẳn về hình thức. Tôi đã bị Vũ Ngọc Phan phê bình là cân nhắc từng chữ làm giảm sự thành thật của thơ khiến nhiều người liệt tôi vào hàng thi công (versificateur) cũ kỹ. Nhưng một người không “tự uống nước lấy” thì không biết độ nóng lạnh của nước như sao đã đành. Chớ đây là một người đã từng ở trong cảnh “ lưỡng cú tam niên đắc, nhất ngâm song lệ lưu” thì làm sao Quách Tấn không phật ý được.
Cũng may cách vài tháng sau, tình cờ tôi được nghe nữ sĩ giải thích chữ “thơ” và “nghề làm thơ” cho mấy bà bạn đến thỉnh giáo:
- Thơ là chữ ghép lại một cách khéo léo, và nghề làm thơ là nghề chơi chữ của khách tài ba.
Tôi thở phào một tiếng và tự trách thầm:
Thế là không phải Tương Phố đã gián tiếp chê mình làm nghề thợ thơ, như mình đã lầm tưởng.
Tôi bèn cười:
- Thưa chị, Trần Từ Ngang nói rằng  “văn chương chi sự thốn tâm thiên cổ” chớ đâu phải là việc chơi chữ tài tình?
Nữ sĩ phản ứng ngay:
- Chơi chữ không tài tình làm sao ký thác được tâm sự?
Rồi nói tiếp:
- Nhưng Tương Phố không thích dùng chữ Hán Việt trong thơ. Cực chẳng đừng được phải dùng đó thôi. Mà có dùng cũng chỉ dùng những chữ đã được phổ biến rộng rãi, những chữ thông dụng.
Biết được rõ quan niệm về thơ, tánh tình và lối xử thế của nữ sĩ, tôi tránh được tất cả những gì có thể làm mích lòng nữ sĩ. Cho nên trên mười năm trời giao du, tôi chưa hề bị nữ sĩ phiền trách.
Tôi thường đến thăm nữ sĩ. Tôi đến thăm ít nhất mỗi tháng một lần. Thỉnh thoảng nữ sĩ đi Sài Gòn thăm em, hoặc đi Đà Lạt thăm con thì mới không gặp.
Năm 1969, tôi bị bệnh phải đi Qui Nhơn chữa bệnh ngót mấy tháng. Khi bệnh lành trở về Nha Trang thì nữ sĩ đã bán ngôi nhà ở đường Trịnh Phong để dọn lên Đà Lạt ở cùng người con trai. Ý định dọn lên Đà Lạt, nữ sĩ không cho ai biết. Mà nữ sĩ dọn đi khi nào, các bạn gái của nữ sĩ cũng không mấy người hay! Lên Đà Lạt rồi, nữ sĩ không hề gởi thư xuống Nha Trang nên tôi không biết được địa chỉ để trao đổi tin tức. Mãi đến mùa xuân năm 1970 tôi mới hỏi thăm được số hộp thư (hộp thư 197 Đà Lạt) và gởi tặng cuốn Xứ Trầm Hương vừa xuất bản. Hồi âm, nữ sĩ chỉ gởi hai câu viết trên vuông giấy dày trắng:
Xứ Trầm Hương để văn chương Quách Tấn
Mãi ngàn thu ngây ngất... ngát hương Trầm
Lâm Viên Việt Nam  Cuối thế kỷ XX
Kèm theo sau một bản phó bài thơ gởi tặng Tập san Dựng Đất, bài  “Thiết tha kêu gọi Hòa Bình năm châu” theo thể song thất lục bát gồm 36 vế.
Năm 1971, nhận được số Xuân Tân Hợi tập san Tây Sơn có đăng bài thơ của cụ Sào Nam tặng nữ sĩ và bài nữ sĩ họa lại, nữ sĩ bèn cho biết thêm bài họa vận của cụ Thúc Giạ:
Họa Vận Riêng Sào Nam
và tặng Bà Tương Phố.
Thi chưa bảy bước đã đề xong
Ngọn bút thanh tao khéo vẽ rồng
Khét tiếng gió reo trên đỉnh ngự
Nến hương trăng giọi giữa dòng sông
Cành hoa xuân mới vừa quen mặt
Giọt lệ thu xưa luống trạnh lòng
Ừ cũng nối điêu theo bác Đỗ
Cùng trong cháu Lạc với con Hồng.
Từ ấy tôi không được thư cũng không được tin tức của nữ sĩ. Hỏi thăm các bạn quen cũ, có người bảo nữ sĩ không còn ở Đà Lạt mà đã vào Sài Gòn cùng gia đình bà Song Khê. Lại có người bảo nữ sĩ vẫn ở Đà Lạt, nhưng không ở chung cùng gia đình người con trai, và không muốn cho ai biết địa chỉ.
Đến mùa đông năm Quí Sửu (1973), tôi đương nằm bệnh thì có người bạn đến nói:
- Không biết nữ sĩ Tương Phố mất lúc nào mà vừa rồi xem báo thấy anh em trong Văn Bút sắp làm lễ kỷ niệm.
Năm trước được tin Đông Hồ mất cũng nhằm lúc tôi đau!
Năm nay được tin Tương Phố mất cũng nhằm lúc tôi đau!
Đông Hồ mất còn có Mộng Tuyết là chỗ quen thân để chung buồn. Đối với người thân của Tương Phố, tôi không quen với ai cả, nên đành buồn riêng một mình:
Mười lăm năm tâm đầu
Nhớ chị tìm chị đâu?!
Lệ sầu thương mắt bệnh
Ngày cũ lạnh mưa thu!
Hiu hắt vần cô điếu
Bơ phờ mộng viễn du
Tấc lòng thiên cổ đó
Dòng mực nước sông sâu...
Nha Trang cuối đông năm Giáp Dần
(Décembre 1974)
Nha Trang cuối đông năm Giáp Dần 12/1974
Quách Tấn
Nguồn: Nhà xuất bản Phụ Nữ - 1998
Theo http://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tuổi chớm thu

Tuổi chớm thu Dòng nắng ấm rửa trôi màu lá cũ lá không vàng để mùa bước vào thu ào cơn mưa run lẩy bẩy trên cành gió đan vuốt … sợi thu và...