Thứ Ba, 9 tháng 3, 2021

Hương vườn cũ 1

Hương vườn cũ 1

Lời tựa:

Trong 25 năm nay tôi viết được bốn tập thi thoại:

- Trường Xuyên Thi Thoại
- Những Bức Thư Thơ
- Trong Vườn Hoa Thơ
- Câu Chuyện Thi Ca
Những Bức Thư Thơ chưa hoàn kết.
Trong Vườn Hoa Thơ cũng đã được an bài.
Nên xin thưa riêng về Câu Chuyện Thi Ca và Trường Xuyên Thi Thoại.
TRƯỜNG XUYÊN THI THOẠI viết tại Bình Định, thời Kháng Chiến chống Pháp, trong khoảng 1945-1947. Viết để giữ lòng khỏi bị xáo trộn theo những cuộc xáo trộn khắp chung quanh.
CÂU CHUYỆN THI CA viết tại Khánh Hòa, thời Hậu Chiến trong khoảng 1965-1967. Viết cho Đài Phát Thanh Nha Trang phổ biến mỗi chiều thứ bảy, theo lời yêu cầu ông bạn Quản Đốc, hầu giúp vui cho những thính giả chuộng văn chương.
Hai tập văn nhắm hai mục đích khác nhau và viết trong hai hoàn cảnh cũng khác nhau. Hai bên lại cách nhau đến hai mươi năm. Song tánh chất vẫn không khác, ý thú cũng không khác. Nên để cho gọn, tôi dồn hai tập lại làm một, và lấy tên, sau khi tu lý chỉnh tề, là HƯƠNG VƯỜN CŨ
Gọi là HƯƠNG vì những thơ trích dẫn, đa số là hoa trong Vườn Thơ Việt Nam còn tồn tại sau bao nhiêu thử thách của thời gian.
Và gọi là vì hầu hết số thơ ấy là thơ Đường luật, và các tác giả phần đông là cổ nhân hoặc thời nhân đã tạ thế.
Tức là HƯƠNG VƯỜN CŨ nặng về thơ xưa, về thơ của các thi nhân đã thuộc về dĩ vãng.
Những bài thơ xưa tôi trích lục, lắm bài khác với nhiều sách hiện hành, hoặc vài ba câu, hoặc năm bảy chữ. Đó là tôi nghe truyền vậy nên chép vậy. Và chép vậy vì nhận thấy văn thông hơn ý thuận hơn các câu các chữ trong sách. Đôi khi thấy cần lắm mới biện bạch, còn thì chỉ ghi chú những chỗ dị thù.
Và ký tải thi nhân, tôi không chú trọng đến thời đại sau trước. Bởi viết thi thoại chớ không phải thi sử, nên chỉ tùy ngộ tùy nghi. Tôi cũng không đi sâu vào tâm hồn, bàn rộng về tài nghệ của từng vị. Vì đó là công việc của các nhà phê bình, các nhà khảo cứu. Tôi tự biết không đủ sức nên không dám cưu mang. Tôi chỉ làm con bướm lượn vườn hoa. Không bỏ qua một giống hoa nào, một đóa hoa nào đã vào mắt. Vì:
Hoa nào hoa lại không hương sắc
Một cánh hoa tươi một mảnh tình.
Nhưng chỉ dừng cánh lâu lâu những khi bị mật ngon quyến rũ. Và trải lòng hút mật cũng chỉ hút lấy vị chớ không hút tận cùng hút triệt để như ong.
Cho nên những nhận xét, những ý kiến tôi đưa ra không có gì mới lạ, sâu sắc. Tuy nhiên, nêu lên những gì, viết ra những gì, tôi đều suy kỹ nghĩ chín. Thời chiến cũng như thời bình, không bao giờ tôi dám khinh suất. Vì sợ người không bằng sợ lương tâm.
Song ca dao có câu:
Ngựa bốn chân leo đèo còn vấp,
Người đời sao khỏi gặp tai ba.
Gấm thêu năm bảy thức hoa,
Gấm còn mắc nhạp, huống nữa là duyên em.
Tôi, học thức không vững bằng chân ngựa leo đèo, khả năng không bì kịp tay hoa thêu gấm, thì cũng như người đời, cũng như duyên em, tránh sao cho khỏi vấp khỏi nhạp.
Hầu mong chữa sai lấp khuyết, kính xin bạn xa gần mở lượng Nữ Oa gởi cho xin nhiều nhiều đá.
Tương túc y quan nhi chỉnh bái
Phục kỳ tứ hải dĩ vi xuân. [1]
Viết tại Nha Trang, ngày Phật Đản năm Tân Hợi
(9 tháng 5 năm 1971)
QUÁCH TẤN
SÁCH THAM KHẢO
Tùy Viên Thi Thoại của Viên Mai.
Thi Pháp nhập môn của Mân Đàm Du.
Cựu Thi Lược Luận của Lương Xuân Phương.
Văn Đàm Bảo Giám của Trần Trung Viên.
Thi Văn Việt Nam và Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo của Hoàng Xuân Hãn.
Việt Nam Cổ Văn Học Sử của Nguyễn Đổng Chi.
Úc Viên Thi Thoại của Đông Hồ.
Trung Quốc Văn Học Sử của Nguyễn Hiến Lê.
Giai Thoại Làng Nho và Chơi Chữ của Lãng Nhân.
Tản Đà Thi Văn Tập của nhà xuất bản Á Châu.
Hương Bình Thi Phẩm của Hoàng Trọng Thược.
Thi Sĩ Nam Trung và Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan.
Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh.
Quốc Văn Đời Tây Sơn của Hoàng Thúc Trâm.
Nữ Lưu Văn Học Sử của Sở Cuồng.
Nữ Thi Hào Việt Nam của Phan Xuân Độ.
Hồn Thơ Đất Việt và Trần Quí Cáp của Lam Giang.
Thơ Quốc Cấm của Thái Bạch.
Danh Nhân Bình Định của Bùi Văn Lăng.
Phép Làm Thơ của Diên Hương.
Văn học Việt Nam của Phạm Văn Diêu.
Chu Mạnh Trinh của Bùi Giáng.
Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Đại Nam Nhất Thống Chí.
Tây Hồ Chí…
PHỤ LỤC
BÀI TỰA TẬP TRƯỜNG XUYÊN THI THOẠI
(Tập Trường Xuyên Thi Thoại sửa chữa và hoàn tất khoảng đầu năm Đinh Hợi (1947). Tập Hương Vườn Cũ cũng sửa chữa và hoàn tất khoảng đầu năm Tân Hợi (1971). Và hai bài tựa cũng đều viết vào ngày lễ Phật Đản. Một sự trùng hợp lý thú. Trường Xuyên Thi Thoại đã nhập vào Hương Vườn Cũ, nên chép lại bài tựa để làm duyên).
Đương khi nước nhà lắm việc, kẻ làm trai ai cũng ra góp sức góp công. Riêng tôi lực yếu tài ương, đành lui vào thôn xa nương ngày tháng.
Vườn dâu xanh lá, ruột con tằm những mong kéo dài mối tơ. Song ngoài trời hết mống liền giông, chín khúc khó vương thành kén.
Chim kêu hoa rụng, lắm lúc thật là buồn! Nước biếc non xanh, ngắm lâu cũng thành chán! Bắt chước Trần Hy Di ngủ trăm ngày một giấc, “tỉnh ra hỏi đã thái bình chưa”. Nhưng mắt luyện chưa quen, nhắm lâu cay khó chịu. Lại học Túy Ngâm Tiên Sinh, ngâm say say ngâm, mờ mờ mịt mịt, để cho “mộng thân thế, vân phú quí, mộ tịch thiên địa, thuấn tức bách niên”. Nhưng rượu vốn không hay, uống nhiều đắng khó chịu.
Tìm không còn thú chi hơn nữa, bèn đem câu chuyện Thơ ra viết chơi. Riêng hèm sách thiếu bạn thiếu, nương vào đâu cho khỏi lỗi Bắc Nam?! Nhớ câu “mặt giấy bút sa…”, đã viết lại thôi viết. Nhưng rồi nghĩ lại:
- Chuyện thế gian chắc đâu là phải là trái. Công đây: Tội đó. Cần chi. Huống hồ chỉ để mà chơi thì phải đấy cũng không phải là công, mà trái đấy cũng không ai bắt tội.
Thế là: Tơ vò tìm thấy mối, đường xa gặp được xe. Lòng trút e dè, bút nhẹ cân nhắc. Hứng khi nào viết khi nấy, không hạn không kỳ. Thích thế nào, viết thế ấy, bỏ phép bỏ tắc. Đọc một mình, ngâm một chắc, sổ sổ khuyên khuyên. Vỗ đôi vế nhịp đôi đùi, hỉ hỉ hả hả:
Vị tất ngộ nhân thiên tải hạ
Chỉ năng ngu ngã bách niên trung [2]
Tri âm ai nhắn nhe cùng
Đèn xanh một ngọn trống thùng năm canh 
Viết tại cố hương Trường Định ngày Phật Đản năm Đinh Hợi (1947)
Quách Tấn
Chú thích: 
[1] Câu kết bài phú BÁI THẠCH VI HUYNH của Phan Sào Nam.
Nghĩa là: Sửa khăn áo chỉnh tề kính lạy
Lại cầu mong bốn bể đều xuân.
[2] Thơ Nguyễn Thượng Hiền, nghĩa là:
Nghìn thu chưa dễ lầm ai
Mua vui ngày tháng không ngoài trăm năm.
Hương Vườn Cũ 1.2.
1.
Làm thơ là một mình uống rượu trong hoa.
Viết thi thoại là ngồi buồn mở tiệc đãi khách.
Tiệc tuy không thể sánh cùng Trần Tư Vương quán Bình Lạc, song khác hẳn không đến nỗi cửa Dương Lễ, một chàng Lưu.
Khách đã trên hai thì sở thích không phải một.
Tiết canh vịt dẫu rằng ngon, song không phải món ăn hiếm có. Thế mà trong bữa tiệc linh đình, thiếu tiết canh vịt, Tản Đà tiên sinh đành ngồi nhắm rượu suông. Hải sâm nấu kiểu Tàu chẳng những ngon mà còn tuyệt bổ. Thế mà Hàn Mặc Tử nể lòng bạn, nếm một thìa con, ba hôm sau mình còn rởn ốc! Thịt cầy người đất Bắc, sầu riêng người miền Nam… thế vị tân cam, món quí không hẳn là món thích. Đã có lòng với khách, liệu sao cho khỏi có kẻ ôm bụng ra về không.
Có cá ám vịt quay…, cũng phải có bầu tượng dưa chuột. Và dĩa bắp chuối luộc, bát canh rau tàn ô, thường vớt những bạn ớn những chả phụng nem công trong nửa bữa. Còn dưa giá chua, muối đậu phụng lại giúp người cữ mặn cùng vào tiệc chia vui.
Cho nên chủ nhân lo sắm sửa món ăn, món ăn được cứ sắm. Chỉ sợ thiếu, không sợ thừa. Miễn sao mâm bát dọn lên đừng bừa bãi những món thiu úng.
Tùy Viên Thi Thoại có câu:
Thanh bằng cung chủy đô tu túy
Vị tẫn toan hà chỉ yến tiên
Nghĩa là:
Tiếng dù chủy dù cung miễn sao giòn là thích,
Vị cả chua cả mặn cốt cho tươi là ngon.
Xin mượn làm khẩu hiệu, khi lo sắm dọn bữa tiệc thơ đãi bà con.
Nắng mưa một tấm lòng son
Đợi người chung nước chung non chung tình.

2.

Thơ thất luật, tức thơ Thất Ngôn Bát Cú, gọi là thơ Đường Luật, vì luật thơ do các thi nhân đời nhà Đường (thế kỷ thứ IX), đặt ra.

Viên Tử Tài, tác giả Tùy Viên Thi Thoại, nói rằng:
- Thơ Thất Luật đời Thịnh Đường ví như quốc gia mới sáng kiến qui mô, thọ lập giá tử. Ơ bên trong, những động phòng khúc thất, những cửa võng bao lơn… chưa tề bị. Đến đời Trung Đường, Vãn Đường mới thật lòng chỉnh túc. Sang đời Tống, đời Nguyên, đời Minh…, càng xuất càng kỳ.
Luật thơ Đường dung nhập sang Việt Nam từ đời nào thật không rõ, nhưng được áp dụng trong làng thơ Quốc âm từ đời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII) do Hàn Thuyên khởi xướng. Cho nên thơ Quốc âm làm theo thể thơ Đường luật gọi là thơ Hàn luật, và Hàn Thuyên được suy tôn làm thủy tổ thơ Nôm.
Thơ Hàn luật sản xuất đời Trần còn ở trong vòng phôi thai. Thời Lê Mạc là thời phát đạt. Khoảng cuối đời Lê sang đời Tây Sơn qua đời Nguyễn, là thời toàn thịnh. Những vần thơ kiệt tác có thể so sánh cùng thơ Trung Hoa, đều sản xuất trong thời kỳ này.
Có thể ví thơ Hàn Luật với ngôi nhà Việt Nam cất theo kiểu Trung Quốc: Ba gian, hai chái, đuôi mái cong cong. Và trải bao nhiêu cuộc hưng vong, ngôi nhà vẫn không thay đổi kiểu.
Khi ngôi nhà mới lạc thành thì trong ba gian rộng chỉ kê bên trong một án thờ bày lơ thơ bộ ngũ sự bằng trắc, một bộ phản gõ để trần và bên ngoài một bộ tràng kỷ chân tiện. Để tiếp khách chủ nhân là một nhà nho thuần phác, khăn áo màu thâm, dép mang quai dọc. Khách vào nhà chơi, mời xơi chung trà nóng, miếng trầu tươi. Ít nói ít cười khách muốn ở chơi lâu, không ngại, muốn ra về ngay, không cầm. Tự nhiên giản dị… 
Qua đời nhà Hồ, đời Hậu Trần, bộ ngũ sự trắc được thay thế bằng bộ ngũ sự đồng. Phản gõ được trải chiếu hoa, và trên vách phía đông phía tây, treo đôi bức tranh thủy mặc. Khách vào chơi thấy có phần vui ấm hơn xưa.
Sang thời phát đạt, nhất là từ đời Lê Hồng Đức đến đời Lê Cảnh Hưng, thì trong nhà sắm thêm nhiều đồ trần thiết. Bên những bức tranh tùng trúc, treo thêm đôi ba bức họa phụng hoàng đậu cành ngô, rồng xanh cuốn mây trắng… và cạnh chiếc lư đồng đánh bóng, đặt thêm bình hoa phía đông, cỗ bồng quả phía tây, sắc tươi hương thắm. Còn chủ nhân, vẫn nhà nho thuần phác ấy, vẫn dáng người bình đạm ấy, song khăn áo có phần chải chuốt hơn, cách đón mời có phần vồn vã nồng nàn hơn. Ngồi hầu chuyện cùng chủ nhân khách thấy thích thú hơn xưa, và lúc ra về còn đem theo ít nhiều hương vị.
Rồi lần lần cách trang trí đổi mới. Án chạm thay án đơn, ghế bành thay trường kỷ; hoành sơn chen liễn cẩn, bình sứ cạnh trắp ngà; buồng trong buông rèm hương, lối đi trồng hoa thắm… nhà trong nhà ngoài đông đầy con cháu, trang nghiêm đài các có, phong nhã hào hoa có, thanh đạm khoái dật có, mà cuồng phóng kiêu bạc cũng có… Lại có cả mỹ nhân, đoan trang thùy mị, kẻ lo dệt gấm, người lo tỉa hoa, cũng có cả tài nữ, nhí nhảnh nghịch ngợm, hoặc hé mành cười duyên, hoặc lấy hoa quả ném khách… còn nhà nho ngày xưa, nằm nghỉ nơi hậu đường, thỉnh thoảng mới bước ra vườn hoa nhà sách trong giây lát.
Cảnh nhà lúc bấy giờ kể cũng thạnh vượng.
Nhưng rồi kinh thành Huế thất thủ, quân Pháp đặt nền đô hộ lên đất nước Việt Nam, nhà thơ Hàn Luật cũng theo quốc vận mà suy lần.
Đến nay ngoảnh lại mà xem thì chẳng khác lầu ca khi tiệc mãn.
Tiệc mãn lầu ca lạnh ánh sương
Bâng khuâng tay ngọc xếp nghê thường.
Tình cảnh ấy không riêng gì thơ Hàn Luật bên Việt Nam, mà chung cả thơ Đường Luật bên Trung Quốc.
Có sanh thì có diệt. Đó là lẽ tất nhiên.
Nhưng diệt là diệt bên hình thức, tức là diệt thể thơ, chớ bên tinh thần, tức là hồn thơ của dân tộc, không bao giờ diệt hết.
Bởi thể thơ là tướng, hồn thơ là tánh.
Tướng tùy duyên, tánh bất biến.
Đã hiểu rõ diệu lý rồi thì không còn bận tâm đến sự thịnh suy tiêu trưởng. 
Ra về chớ tiếc đêm xuân lụn
Vườn cũ nghìn hoa đợi bóng dương [1].
Chú thích: 
[1] Bốn câu thơ trên trích trong tập ĐỌNG BÓNG CHIỀU
Hương Vườn Cũ 3
Thơ và hoa tuy không đồng tướng nhưng đồng tánh, nghĩa là không đồng dòng nhưng đồng giống, giống ĐẸP. Xem hoa là đọc một bài thơ bằng hương bằng sắc. Đọc thơ là xem một đóa hoa bằng chữ bằng lời.
Tức là trong hoa có thơ, trong thơ có hoa. Được một cũng đã đủ. Nếu được cả hai thì chẳng khác Lưu Huyền Đức được cả Phục Long Phụng Sồ, hoặc vua Thuấn được cả Nga Hoàng Nữ Anh vậy.
Có nhiều nhà thơ muốn làm vua nhà Ngu, vua nhà Thục, nhưng thiếu điều kiện thuận tiện, đành phải đưa hương đưa sắc vào chữ vào lời, nghĩa là đưa hoa vào thơ, tức là làm thơ vịnh hoa.
Những bài thơ vịnh hoa, khách làm thơ gọi là THƠ HOA.
THƠ HOA khác mà HOA THƠ khác.
Những bài Hoa Thơ không nói đến hoa, mà đọc lên thấy đẹp nghe thơm như đứng trước hoa.
Còn Thơ Hoa tuy nói đến hoa, nhưng nhiều khi vì tài nghệ của tác giả không được tinh diệu, nên không thơm không đẹp bằng thơ thuần thơ, hoa thuần hoa.
Thơ Hoa thơm đẹp như Hoa Thơ, trong vườn thơ Trung Hoa nhiều lắm. Trong vườn thơ Hoa Việt của cổ nhân cũng có ít nhiều. Riêng vườn thơ Quốc âm, xưa cũng như nay, thật là hiếm. Hoặc giả có nhiều, song vì không có người săn sóc nên bị mưa gió vùi lấp theo thời gian đó chăng?
Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi tập đời Lê Thánh Tông thấy được một số:
HOA CÚC
Nết na nhận khẩn khác chưng loài
Chiếm được thu chơi ít có hai
Hương ắt chỉn nhiều vàng chỉn có
Tuyết đà không nhuốm bạc không phai
Ba đường Tưởng Hủ hồn thêm nhặt
Mấy phút Uyên Minh hứng chẳng dài
Mừng thấy trùng dương nên chẳng phụ
Muộn chung thời tiết chẳng đeo đai.
HOA MẪU ĐƠN
Dưỡng cẩn vườn tiên của lạ dường
Trăm hoa tươi tốt đã khiêm nhường
Thức tươi chiếm được xuân thiên hạ
Giá trọng kham khoe đất Lạc Dương
Khắp trong đời khen quốc sắc
Hơn chưng bạn khải hoa vương
Dù cho hay tốt hay cười nữa
Thấy mặt trong lòng những đoạn trường.
HOA MAI
Trội cành mai chiếm một chồi
Tin xuân mây mẩy điểm cành mai
Tinh thần sáng thủa trăng lạnh
Cốt cách đông khi gió thôi
Tiết cứng trượng phu tòng ấy bạn
Nết trong quân tử trúc là đôi
Nhà truyền thanh bạch chăng từng khối
Vậy xứng danh thơm đệ nhất khôi.
Đó là sản phẩm của thời kỳ thơ Đường luật mới phôi thai. Chữ dùng chưa được luyện, lại có nhiều chữ cổ, như “nhận khẩn, chỉn, chưng, dưỡng cẩn…”. Lời thơ còn chất phác. Đọc lên nghe khô khan chớ không ý vị thích thú như đứng trước những giống hoa cúc, mẫu đơn, mai… đầy hương đầy sắc.
Thơ như thế, cổ nhân gọi là “hữu cán vô ba” [1].
Nhưng nói về thi pháp thì tác giả là tay thầy thợ, theo sát quy củ, người xem thơ muốn bắt bẻ không còn có chỗ để tay. 
Thơ từ đời Lê Thánh Tông trở về trước, hầu hết điều một tánh chất như thế cả. Đó là vì cổ nhân là những bậc thâm nho, dùng văn chương để chở Đạo. Và ngắm hoa không phải để thưởng thức hương sắc thiên nhiên lộ ra bên ngoài. Mà chính để đối chiếu tinh thần cốt cách của hoa với tinh thần cốt cách của mình, rồi mượn văn chương để gởi gắm tâm sự.
Cổ nhân chú trọng cái đẹp bên trong.
Cổ nhân lại thiên về lý trí.
Mà lý trí chỉ phục được người chớ không cảm được người, cho nên thơ xưa, nhất là thơ đời Thịnh Lê chịu ảnh hưởng Tống Nho nặng nề, ít bài rung động lòng người đời nay là người giàu tình cảm.
Song những bài thơ như những bài Vịnh Hoa thượng dẫn, tuy không sắc nước hương trời, vẫn có cốt cách riêng biệt, vẫn đầy ý nghĩa. Chúng ta phải biết quí trọng thương yêu. Di sản tinh thần của ông cha chúng ta để lại đã bị mai một quá nhiều. Những gì còn sót lại đều đáng nâng niu gìn giữ. Bằng những tòa nhà mái lợp lưu ly, tường xây cẩm thạch, đâu có đồ sộ khang trang bằng những dãy nhà cao ốc tân thời nằm dọc ngang trên đường thủ đô, thị trấn… nhưng ai dám bảo rằng không giá trị, không đáng bảo tồn? 
Nói vậy không phải có ý bảo rằng trong vườn thơ Việt Nam chỉ có những Thơ Hoa đáng quí vì xưa chớ không phải vì đẹp. Đẹp vốn có ít, chớ không phải tuyệt nhiên không có.
Theo thiển ý, bài HOA THỦY TIÊN của Phan Sào Nam tiên sinh là một tuyệt phẩm [2]. Lời đẹp, tình nồng, ý thâm, thần sáng. Một đóa hoa, sắc hương trọn vẹn. So với những bài thơ hay nhất của Trung Quốc, chúng ta có thể tự đắc rằng nếu không hơn thì thôi chớ không thua. Từ nội dung đến hình thức, bài Hoa Thủy Tiên là một viên ngọc liên thành, hoàn toàn, biệt lập. Đọc những câu:
Nét điểm trang con tạo khéo đa tình!
Nhụy kìa vàng, hoa kìa bạc, lá kìa xanh,
Trên mặt nước long lanh trời với bóng.
Đố ai biết thần tiên biệt chủng
Mái hương giang mà tiên động tự nhiên thành.
Vô tình mới thật hữu tình
Ơn người giới thiệu cho mình gặp tiên…
Thì chúng ta phải vỗ đùi khen là quán tuyệt thiên cổ!
Tinh thần hoa thủy tiên, phong cách hoa thủy tiên đều lột được trọn vẹn. Và đọc câu thơ, chúng ta thấy hiện ra trước mặt, một bậc tiên phong đạo cốt mình ngồi giữa khoảng trời nước trong sáng và bao la…
Mới đọc liền thấy hay, càng đọc càng thêm hay, đọc mãi đọc hoài không biết chán.
Đó là bài Thơ Hoa trong làng Hoa Thơ thượng đẳng.
Chú thích:
[1] Có cọng mà không có bông (Đã nói ở tập Trong Vườn Hoa Thơ).
[2] Xem trọn bài ở tập Trong Vườn Hoa Thơ.
Hương Vườn Cũ 4 - 5.

NGÔ KHOANG luận thi rằng:

- Xem thơ thấy được tánh tình. Tánh tình biển ải thì lời tháo, khoan giũ thì lời bình, thanh tịnh thì lời nhã, sơ khoáng thì lời dật, hùng vĩ thì lời tráng, uẩn tạ thì lời uyển. Tánh tình được hàm dưỡng thì phát ra khí, hiện ra lời. Đó là nguồn gốc của thơ vậy [1].
Xưa nay đều lấy làm khuôn thước lúc xem thơ.
Về thời vua Lê chúa Trịnh, có bài thơ thất luật:
MUA QUAN TÀI
Ba vua bốn chúa bảy thằng con
Răng chửa lung lay dái chửa mòn
Nhân vật thời giờ sanh cũng uổng
Quan tài sẵn đó chết thời chôn
Giang hồ lang miếu trời đôi ngả?
Bị gậy cân đai đất một hòn
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Sợ ông Bành Tổ tống đồng môn.
Không biết tác giả là ai [2]. Văn chương ấy, khẩu khí ấy phải là kẻ tài lớn cốt ngạo, thân không bị trói buộc, ấy là người “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Đọc thơ, lòng sướng khoái như đứng trên núi cao nhìn xuống ruộng thấp, trong người dường có hùng khí un xông.
Trong sách VĂN ĐÀN BẢO GIÁM thấy có nhiều bài thơ ghi là của NGUYỄN HỮU CHỈNH. Như:
Tóc chen hai thứ chửa danh chi
Thân hỡi là thân thì hỡi thì!
Chửa trả chửa đền ơn đệ tử
Thêm ngừng thêm tủi chí nam nhi.
Kẻ yêu nên ít bề cao hạ
Người ghét càng nhiều tiếng thị phi
Tay bé khôn bưng vừa miệng thế
Giãi lòng ngay thảo cậy thiên tri.
II.        
Cửa sổ buồn xem ngựa trắng qua
Vừa khôn thời lại thấy vừa già
Trước đã cậy lòng con cái
Sau còn nhờ đức mẹ cha
Giàu ở làng sang ở nước
No ra bụt đói ra ma
Sắc không chữ ấy âu vàng thếp
Nghĩ lại thời là bẵng cái hoa. Vân vân…
Tác giả những bài ấy, ngờ rằng không phải Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh vốn kiêu ngạo phản phúc, có thể sánh với Trương Nguyên đời Tống. Trương vịnh TUYẾT có câu:
Chiến bãi ngọc long tam bách trượng
Bại lân tàn giáp mãn thiên phi.
Nghĩa là:
Đánh xong rồng ngọc ba trăm trượng
Vảy nát vây tan bay mịt trời.
Và vịnh CHIM ƯNG có câu:
Hữu tâm đãi tróc nguyệt trung thố
Cánh hướng bạch vân cao xứ phi.
Nghĩa là:
Cung nguyệt hăm he lòng bắt thỏ
Ngắm từng mây trắng vút mình bay.
đều đeo khí kiêu ngạo. Nhạc Phi xem thơ, biết là người bất lương, không dùng. Sau Trương theo giặc Nguyên quấy rối nhà Tống, làm cho người đồng chủng bị hao nhiều máu xương.
Tâm tánh Nguyễn Hữu Chỉnh - con người đã thốt ra câu “Bắc Hà duy có một mình Chỉnh, Chỉnh đi thì trong nước trống”- không khác Trương Nguyên, thì lẽ đâu thơ lại bình dị và trung hậu như thế. Thường thường những tay thợ thơ non vụng, mới sản xuất những bài vận ngữ mà lời không đi với lòng. Còn những nhà thơ thiện nghệ, thì bút pháp dính liền với tư tưởng, hễ lời ra là ý theo. Dù cố ý che đậy giấu giếm đến bậc nào, cũng không thể qua mắt hàng thức giả. Nguyễn Hữu Chỉnh vốn có tài thơ về Quốc âm, có tài xuất khẩu thành thi từ lúc nhỏ, thì thơ và người không thể còn là hai.
Thêm nữa Chỉnh là một tay gian hùng chỉ kiêng nể một mình Nguyễn Huệ, thì còn sợ ai mà phải núp mình dưới bóng văn chương, phải mượn văn chương để dối lòng, dối đời?
Kìa như Quận Hẻo NGUYỄN HỮU CẦU không phục vua Lê chúa Trịnh, nổi lên chiếm cứ miền Đông Bắc Hà, lấy Đồ Sơn làm căn cứ quân sự , tự xưng là Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại Tướng quân chống cùng triều đình mười năm trời, thanh thế lừng lẫy. Đến năm Cảnh Hưng thứ mười hai (1751) bị Phạm Đình Trọng bắt được. Trong lúc ngồi trong ngục Quận Hẻo có bài:
CHIM LỒNG
Nhất lung thiên địa tàn thân tiểu
Vạn lý phong vân cử mục tần [3]
Hỏi sao sao lụy cơ trần?
Bận tài bay nhảy xót thân tang bồng
Nào khi vỗ cánh rỉa lông
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung [4]
Chim oanh nọ vẫy vùng giậu Bắc
Đàn loan kia túc tắc cành Nam
Mặc bay đông ngữ tây đàm [5]
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung [6]
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán [7]
Phá vòng vây bạn với kim ô.
Giang san khách diệc tri hồ?
Tản Đà tiên sinh khen:
- Lời văn khẳng khái hiên ngang, tự có nam nhi khí phách vậy.
Và lời văn hiên ngang khẳng khái này đối chiếu cùng cuộc đời chọc trời quấy nước kia, thì rõ là hình với bóng.
Những câu “văn là người”, “xem văn thấy được tánh tình” là những câu danh ngôn của muôn thuở.
5.

Thơ vua Lê Thánh Tông được nhiều người khen là có khí tượng đế vương.

Phê bình bài THẰNG BỒ NHÌN, Tản Đà tiên sinh khen câu:
Xét soi trước mặt đôi vầng ngọc
Vùng vẫy trên tay một lá cờ. 
Tôi vốn không ưa loại thơ “khẩu khí” ấy. Nghĩ rằng đã ngồi trên ngôi báu, ai chẳng biết là vua, hà tất phải lấy văn chương lòe thiên hạ! Thêm nữa muốn nêu cao phẩm giá, sao lại trở hạ mình làm “thằng bồ nhìn”, làm “thằng mõ”, làm “con cóc”, làm “cây chổi”, vân vân… Gởi thân phận mình, gởi tâm sự mình vào những vật thấp hèn là sự cực chẳng đã. Như gặp lúc bị ông Hương Hiệu, lãnh tụ đảng Cần Vương Quảng Nam, bắt tội, ông tú Quì phải tạm nương mình vào con dế duỗi, để giải nguy. Bị người Tàu khinh khi người nước ta mềm yếu như bèo, trạng Giáp Hải phải vẽ vời thân bèo cho thành cao quý… Đó là tùng quyền khi ngộ biến, chớ văn chương nào phải chỗ để khoe mình!
Nói thế không phải là bảo thơ vua Lê Thánh Tông tuyệt nhiên không có bài khả ái. Như:
LỜI MẸ VƯƠNG LĂNG TIỄN SỨ THẦN
Đường mai đằng đẵng ngựa dời chân
Nghĩa mẹ con nầy gởi sứ quân.
Nhớ Hán lòng còn son một tấm
Thương Lăng tóc đã bạc mười phân
Chăm bề trung hiếu không hai vẹn
Gặp hội công danh dễ mấy lần
Canh cánh mong con tròn nghĩa cả
Lá vàng thân mụ sá chi thân [8]
ĐỀ MIẾU NAM XƯƠNG LIỆT NỮ
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chi mượn cảnh đàn tràng
Qua đây mới, biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương nỡ phụ phàng. [9]
Phú đắc:
Tới đây mến cảnh mến thầy
Tuy vui đạo Phật khôn khuây lòng trần. 
Gẫm sự trần duyên cũng nực cười
Tuy vui đạo Phật chửa khuây người [10]
Gió thông đưa kệ tan niềm tục
Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời
Bể khổ nghìn trùng mong tát cạn
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi [11]
Nào nào Cực Lạc là đầu tá
Cực Lạc là đây chín rõ mười.
Văn chương nhẹ nhàng trôi chảy. Đó là áng thơ hay trong số thơ hay còn lưu thế.
Nhưng nói đến thơ vua Lê Thánh Tông lại không thể đem những bài thơ nầy ra làm tiêu biểu, vì không có mấy [12], và tuy đẹp đẽ đáng yêu, song để chung cùng các bài thơ hay của các nhà thơ khác, có thể lầm lẫn lại qua. Những bài có “khẩu khí đế vương” đã nhiều lại được phổ biến sâu rộng, tuy hương vị không được thanh tiên, song ngoài vua Lê Thánh Tông ra, không người thứ hai nữa. Bởi vậy, Tề Tuyên Vương dù không ưa Chung Ly Xuân vẫn không thể truất nàng ra khỏi hoàng cung, mà mỗi khi luận đến Tề hoàng cung nhân, trước phải nói đến Chung Vô Diệm.
Chú thích: 
[1] Nguyên văn: thi khả dĩ khiến nhân chi tánh tình. Tánh tình biển ải giả kỳ từ tháo; khoang dũ giả kỳ từ bình; thanh tình giả kỳ từ nhã; sơ khoáng giả kỳ từ dật; hùng vĩ giả kỳ từ tráng; uẩn tạ giả kỳ từ uyển. Hàm dưỡng tánh tình, phát vũ khí, hình vu ngôn, thử thi chi bổn nguyên giả.
Biển ải: chật hẹp, keo kiết.  Tháo: xốp, bộng.
Khoan giũ: rộng rãi, không câu chấp. Uyển: dịu dàng.
Sơ khoáng: giản dị khoáng đạt. Dật: vượt ra ngoài tầm thường
[2] Theo “Giai thoại làng nho” của Lãng Nhân thì bài này của Nguyễn Văn Giai đời Lê Trịnh, làm quan trải ba đời vua, bốn đời chúa.
[3] Một chiếc lồng làm trời đất để chứa mình thật nhỏ bé, muôn dặm gió mây thường để mắt nhìn.
[4] Thiên túng: Lòng trời buông thả. Lao lung: cũi lồng
[5] Đông ngữ tây đàm: nói chuyện đông nói chuyện tây.
[6] Phong tiện: Thuận cơn gió. Vân lung: lồng mây.
[7] Tiêu: tầng không khí quanh mặt trời. Hán: Sông Ngân
[8] Truyền rằng trong bài này vua Lê Thánh Tông làm sáu câu (đề, trạng và kết) còn cặp luận do quan thám hoa Nguyễn Quý Đức điền. Vua khen hay và ban thưởng hai nén bạc.
Câu khởi các sách phần nhiều điều chép:
Đình phô đằng đẵng ngựa dời chân.
Câu chuyển kết nhiều sách chép:
Mệnh mẹ lá vàng dầu mỏng mảnh
Về thời nhận  kỹ nghĩa quân thần.
Lại có sách chép = Mình già này bao nỡ tiếc
Về thôi khuyên nó nghĩa quân thần
[9] Liệt nữ tên Vũ Thị Thiết ở đất Nam Xương. Chồng họ Trương phải đi tòng chinh trong lúc nàng có thai nghén. Lúc chồng về thì đứa con đã biết nói. Chàng Trương bế con, con bảo: - Ông không phải là cha Đản. Cha Đản cứ đêm mới đến, mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi, nhưng chả bao giờ bế Đản cả. 
Chàng Trương nghe con nói, đinh ninh là vợ ngoại tình, đánh đuổi khỏi nhà. Người vợ buồn tủi nhảy xuống sông Hoàng Giang  (Hà Nam) mà chết.
Một đêm chàng Trương ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt nghe đứa con reo:
- Cha Đản đến rồi kìa, vừa reo vừa trỏ bóng chàng in nơi vách.
Thì ra khi chàng đi vắng, vợ thường chỉ bóng mình nói đùa cùng con mình rằng đó là cha của nó! Chàng tỉnh ngộ, thương vợ chết oan, bèn lập đàn tràng nơi sông mà tế. Sau người trong vùng lập miếu thờ.  
[10] Câu hai có nhiều sách chép là:
Sắc không tuy bụt hãy lòng người.
Nghe có phần ngượng ngập không xứng với các câu tiếp.
Bài này cũng như bài Lời Mẹ Vương Lăng tiễn sứ thần trong Úc Viên Thi Thoại của thi sĩ Đông Hồ có nói rõ sự tích, nơi mục Mảnh Vá Trên Vai Ao Nàng Thơ. Bạn nào chưa rõ, xin tìm xem Úc Viên.
[11] Mượn ý câu:  Ái hà phiên xít lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Nghĩa là: Sông ân mòi cuộn cuộn
Bể khổ sóng trùng trùng.
[12] Thơ không mang khẩu khí đế vương của Lê thánh Tông còn nhiều, phần nhiều chép ở Hồng  Đức Quốc âm thi tập. Nhưng lời văn còn nặng nề, không sánh kịp ba bài trích dẫn. Những bài “khẩu khí” chỉ nghe truyền chớ không thấy trong tập Hồng Đức.
Hương Vườn Cũ 6-7

Nhà Lê bị nhà Tây Sơn dứt, vua Chiêu Thống cùng bầy tôi trung nghĩa chạy sang Tàu mưu việc phục hưng. Trải qua bao nhiêu năm khốn quẩn tủi nhục, vua thăng hà nơi quê người. Lúc lâm chung vua căn dặn bầy tôi:

- Sau này thế nào cũng cố gắng đưa hài cốt ta về nước phục táng vào sơn lăng liệt thánh, để tỏ bụng ta.
Sau khi vua Gia Long lên ngôi, cựu thần nhà Lê dòm thấy không có điều nguy hại, bèn đưa linh cữu vua vua Chiêu Thống về nước. Một vị lão thần có thơ khóc trước linh cữu:
Nằm gai nếm mật mấy năm thừa
Nắm cỏ đem về tấc đất xưa
Bể bắc chín tầng rồng lẫn sớm
Non nam một đỉnh hạc về trưa
Tưởng câu năm nọ như ngày nọ
Nghĩ đến bao giờ khóc bấy giờ
Thua được cuộc đời thôi để đó
Gội ơn cây cỏ vẫn còn lưa. [1]
Lời thơ lâm ly thống thiết. Văn chương do chỗ chí tình mà ra nên cảm lòng người vừa sâu vừa mạnh.
Bài thơ dùng nhiều điển tích.
Câu thứ nhất dùng tích Câu Tiễn lúc hàng Ngô, để tả chí phục thù của vua Chiêu Thống.
Cặp trạng thoát ý câu thơ khóc Văn Thiên Tường của người đời Nguyên:
Vân ám Đỉnh Hồ long khứ viễn
Nguyệt minh ba biểu hạc qui trì.
Hai câu này vế trên dùng điển vua Hoàng Đế cỡi rồng lên trời, bầy tôi chạy theo không kịp. Vế dưới mượn tích chàng thư sinh nước yên là Đinh Linh Uy đi tu tiên đắc đạo, đêm trăng hóa hạc bay về nơi ba biểu trước lăng vua Chiêu Vương kêu:
Đinh Linh Uy!
Đinh Linh Uy!
Khứ gia thiên lý kim lai qui
Hà bất học tiên? Trủng luy luy!
Nghĩa là:
Đinh Linh Uy! Đinh Linh Uy!
Người bỏ nhà ra đi xa nghìn dặm, nay trở về.
Người đời sao chẳng học tiên,
Để đến nỗi mả mồ giăng từng lớp từng lớp.
Câu chữ Hán khóc Văn Thiên Tường, vế trên nói về vua Tống, vế dưới nói về Văn thừa tướng nằm trong ngục đến ba năm, khi nhận thấy không có cơ cứu vãn được tình thế nữa, mới tuẫn quốc.
Câu quốc âm hai vế đều nói về vua Chiêu Thống. Vế trên nói về việc vua mất sớm. Vế sau nói về việc đưa linh cữu vua về nước quá chậm.
Cặp luận nhắc lại lời của vua Chiêu Thống lúc lâm chung.
Câu này cho chúng ta biết rằng tác giả là một vị trong số quần thần chạy theo vua sang Tàu và được chứng kiến phút lâm chung của vua Lê Chiêu Thống. Câu kết “Gội ơn cây cỏ vẫn còn lưa” làm cho chúng ta tin rằng lời đoán của chúng ta không thể sai được. Câu kết còn cho chúng ta thấy rằng đến giờ phút đó mà hàng trung thần còn sống sót vẫn nuôi hy vọng có ngày đền được ơn vua.
Vua Chiêu Thống là một nhà vua thiếu tài thiếu đức, mà bầy tôi tòng vong đều là những bậc tận trung, và lòng trung nghĩa chứa chan trong từng câu từng chữ.
7.
Kẻ có tài không được trọng dụng, người bề tôi trung nghĩa không được tin yêu, cũng như kẻ có sắc trong cung vua không được sủng ái, thường đeo mối hận bên lòng, người có tài thường mượn lời người có sắc.
Cho nên đề tài Cung Oán là đề tài rất thông dụng trong làng thơ quốc âm cũng như làng thơ Hán Tự, bên Việt Nam cũng như bên Trung Hoa.
I
Nguyệt lão ghen chi khách má hồng
Triện tàn vắng vẻ chốn phòng không
Canh khuya nửa gối trùng eo óc
Xuân khóa đầy song nguyệt lạnh lùng
Buồn gợi đèn tàn soi bóng dáng
Biếng soi gương sáng sửa bông vòng
Mảnh tình u uất khôn bày tỏ
Vẩy khắp câu lơn giọt lệ trong.
II
Chớ đọc Tương Như chữ đoạn trường
Đọc thôi châu lụy nhỏ hai hàng
Oanh rầu rĩ tiếng chùng dây sắt
Loan lẻ loi hàng thẹn bóng  gương
Thảm chất chẳng thành mà chất ngất
Sầu tuôn không biển cũng mênh mang
Thân này ví biến dường này nhẽ
Quê kệch điền viên lại vẻ vang.
III
Gang tấc đền phong cách mấy vời
Song the quạnh quẽ cánh huê rơi
Canh tàn nương gối chiêm bao vẩn
Xuân muộn buông rèm nước mắt vơi
Cầm trổi lầu tây sao vắng tiếng
Thơ đề dòng ngự khó nên lời
Ả Hồ nông nổi là dường ấy
Còn tiếng tỳ bà lọt đến nơi!
IV
Một mình ngày vắng lại đêm thâu
Chẳng thấy chi vui thấy những sầu
Bụi lấp gương loan soi đã biếng
Tuyết xâm chăn thúy nhắp nào lâu.
Thẹn lòng thấy nước khôn gieo lá
Phải kiếp cùng dê lọ rắc dâu
Trẻ nhỏ con hầu dầu quyến luyến
Hương hoa cấp nấp chắc về đâu.
Tác giả mấy bài Cung Oán trên đây không biết là ai, là những ai. Bảo rằng “vì không được yêu dùng mà than thở”, đó là dựa theo thói thường xưa nay. Chứ đã không biết tác giả là ai thì không thể biết rõ vì sao mà có. Song xem giọng thơ buồn bã oán trách, tưởng không phải là lời khóc mướn thương vay. Bởi những nhà thơ chân chính làm thơ không phải để phấn sức cho tài ba trong nhất thời, mà cốt để gởi tấc lòng vào thiên cổ. Nếu dựa vào văn chương mà đoán thì tác giả những bài Cung Oán đây không phải là tầm thường, không phải là nàng Đông Thi không đau bụng mà nhăn mặt. Tác giả những bài đó là người, là những người có thi tài, có tâm sự, mượn văn chương khơi vơi bớt u hoài.
Trong sách “Phép Làm Thơ” của ông Diên Hương có chép hai mươi bốn bài CUNG OÁN THI và ghi là của ông ÔN NHƯ HẦU. Bài III và bài IV thượng dẫn nằm trong số hai mươi bốn bài đó.
Có chỗ đáng ngờ là Ôn Như Hầu có Cung Oán Ngâm Khúc, chớ không nghe có Cung Oán Thi.
Lại nghe truyền NGUYỄN HUY LƯỢNG, tác giả bài Tụng Tây Hồ Phú, có tập CUNG OÁN THI bằng quốc âm rất được khách phong nhã đương thời tán thưởng. Nhưng tôi chưa được đọc, chưa được thấy, nên không biết như sao. Cũng không biết những bài ông Diên Hương sao lục có phải của Nguyễn Huy Lượng chăng, và những bài thượng dẫn có bài nào của họ Nguyễn chăng.
Bốn bài CUNG OÁN trên đây cũng như bài ông Diên Hương chép vào sách phép làm thơ, đều là những áng văn chương giá trị. Lời thơ trôi chảy êm đẹp, tình tứ nồng nàn, nhất định là sản phẩm thời thịnh đạt của thơ Hàn Luật, tức là thời Lê mạt Nguyễn sơ.
Rất mong các nhà khảo cổ học tìm ra được tác giả đích thực của Cung Oán Thi để khách yêu thơ có thể đi sâu vào tấc lòng gói ghém trong hàng chữ.
Chú thích: 
[1] Trong Văn Đàn Bảo Giám chép “… vẫn còn thưa”. Tôi nghe truyền “… vẫn còn lưa” và nhận thấy “còn lưa” có nghĩa hơn.
Hương Vườn Cũ 8
8.

Trong các sách dạy thơ xưa cũng nhưng nay, thường trích Đường Thi làm kiểu mẫu. Những khách ưa ngâm thơ hầu hết cũng lấy Đường Thi làm hứng vị. Thế mà trong làng thơ quốc âm, ảnh hưởng thơ Đường lại không mấy sâu rộng!

Từ đời Trần đến nay, ngót bảy trăm năm, thơ Hàn Luật còn truyền tụng gom góp tất cả chừng mười nghìn bài, mà tìm thấy phong điệu người đời Đường duy có bà Huyện Thanh Quan, Phổ Chiêu thiền sư Phạm Thái, Tương An Quận Vương, Tôn Thọ Tường, Chu Mạnh Trinh.
Trong các nhà này, bà Huyện Thanh Quan có nhiều bài mang cốt cách Thịnh Đường hơn hết.
Thơ bà còn lại không quá mười luật. Trừ bài QUA ĐÈO NGANG TỨC CẢNH chỉ được hai câu chuyển kết:
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Thì bài nào cũng thanh uyển trác luyện.
Chế Lan Viên khen là tuyệt diệu từ, cặp trạng luận bài CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC:
Chín tầng sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Và bài THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Bài này Chế đã giải thích đến mười bốn trang giấy manh. Có nhiều khám phá mới lạ. Xin trích ra đây ít đoạn:
Hãy đọc nhanh qua. Chắc ít ra cũng có mười người cùng nhận với tôi rằng: bốn câu đầu đẹp hơn bốn câu sau. Trong bốn câu đầu thì hai câu sau thì lại đẹp hơn hai câu trước. Trong bốn câu sau, hai câu trên lại lấn hơn hai câu dưới. Trong hai câu dưới, câu sau chót lại trội hơn câu trên nó.
Bây giờ chúng ta hãy xoay qua đọc chậm. Đọc chung cả bài thì mỗi câu đến chữ thứ tư, chúng ta bắt đầu rung động nhanh vô cùng. Đến chữ thứ năm, thì rung động siêu tuyệt, và đến đây hình như ta chờ đợi một cái gì…, sắp xảy ra một cái gì…, một sự thỏa mãn để kết thúc hồi rung động của ta… hồi trống đánh nhanh lên…, và sau cùng ba tiếng… con sông chảy gấp…, và đây là bể cả dâng xanh… Năm chữ đổ dồn…, và đó là hai chữ sau…, hai chữ Nho chọn lọc như điệp khúc trở đi trở lại như tiếng trống, như mặt bể, để thỏa mãn tâm hồn. Ta sung sướng và cảm thấy rằng có cái gì quen quen. Đó là hai chữ Nho sau mấy chữ Nôm, nhưng ta bỡ ngỡ vì hai chữ Nho lần sau lại là hai chữ Nho khác lần trước… vân vân… 
Đó là chúng ta đọc nhanh rồi chậm để thưởng thức. Cũng như là gặp một giai nhân ngoài đời hay trong sách, việc tìm biết tên tuổi, quê quán, đức hạnh… là việc sau, việc của sở căn cước, của nhà điều tra, gọi theo văn chương là các nhà khảo cứu, phê bình. Việc trước hết, việc của nghệ sỹ, là ngắm xem có đẹp không đã. Thưởng thức rồi mới tri thức. Thưởng thức bao giờ cũng đứng trước mà ngắm, khen, chê, gật gù gật gưỡng, có vẻ oai hơn. Tri thức bao giờ cũng chạy theo sau, và bao giờ cũng phải thong thả đĩnh đạc…
Thưởng thức đã vừa lòng, bây giờ chúng ta hãy đọc chậm từng câu để tri thức:
Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoát mấy tình sương...
Hai câu phá thừa mở ra bằng một lời oán trách Tạo hóa, than vãn tháng ngày, ngậm ngùi cảnh vật. Nhưng ông Tạo hóa đã làm những gì, hí trường kia ra làm sao, ảnh hưởng thời gian mau chóng thế nào, thì phải chờ cặp trạng:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu dài bóng tịch dương.
Hai câu đầu như lối cây xanh mở ra một tầm mắt, và cặp trạng là chân trời bật nổi giữa hai con đường kia.
Tản Đà rất tự phụ về hai câu:
Đất Nam Sở đỉnh chung người đội gạo
Bến Tầm Dương mây nước chiếc thuyền nan.
Cho rằng thơ không dùng qua một động từ, một hình dung từ nào, chỉ toàn danh từ thôi. Thế mà vô cùng cảm động!
Ai đọc thơ Pháp kỹ, hẳn thấy rằng Victor Hugo hay nhờ thiện dụng tiếng Verbe, thơ Beaudelaire hay nhờ thiện dụng tiếng Adjectif…, và phần nhiều văn thơ hay nhờ dùng hai loại tiếng đó. Bởi phải có một hành động gì, câu thơ mới có linh hoạt; phải có một hình dáng gì, câu thơ mới có sắc màu… theo nghệ thuật hội họa, thế là có mouvement, có couleur…, và cần có một forme nữa…
Nhưng trong câu thơ của bà Thanh Quan cũng như trong câu của Tản Đà, tất cả đều là danh từ… chỉ kêu tên vật lên mà thôi, chẳng nói chúng làm gì cả. Thế mà chúng đủ sắc màu, khác nào chỉ vẽ hình người bằng thủy mặc mà linh động, mà huy hoàng…
Hai câu của bà Thanh Quan đó nghĩa là sao?
Những sách dạy quốc văn ở học đường đã giảng. Họ giảng đúng chữ. Còn nghĩa thì…! Đức Phật nói rằng mạt pháp, cư sĩ sẽ hơn tăng già, phụ nhân sẽ hơn cư sĩ. Thi nhân cũng có thể nói rằng: đến đời mạt pháp, những người dốt chữ sẽ hiểu được thơ, được đạo cả, hơn các ông cụ khệnh khạng làm sách giáo khoa… cái hay một câu thơ không chính là câu thơ đó, mà là chút linh hồn bao chung quanh câu thơ. Thức ngủ mất còn ai có biết đâu…! Họ giảng: xưa là lối xe ngựa mà nay là lối cỏ thu; xưa là lâu đài mà nay chỉ có bóng mặt trời sắp lặn… Thật là gần gũi cận tiện… thật là trước mặt trên tay… Thơ không phải là việc trước mặt trên tay… thật là chữ nào nghĩa nấy… 
Bởi vậy đức Phật lại nói: Y kinh giảng giải, tam thế Phật oan [1]. Giảng theo các sách giáo khoa như vậy chẳng qua bà Huyện Thanh Quan đến thành Thăng Long, một buổi chiều mùa thu, đấy ư? Ôi! Hồn thu thảo, bóng tịch dương, nếu thế, chỉ còn là một phần cảnh vật bên ngoài, rơi rớt lúc nào không biết, thay thế thế nào cũng được, chớ đâu phải là những trạng thái tâm hồn xuất tự bên trong? Hiểu như thế đó, cho nên nhiều bạn trẻ đã hiểu được hai chữ Paysage humain (cảnh con người) của Verlaine vẫn còn cho thơ Đường là thơ tả cảnh!
Hãy tưởng tượng rằng bà Huyện Thanh Quan đến thành Thăng Long một buổi sáng mùa xuân “cỏ cây chen đá lá chen hoa”, và cảnh vật chẳng có gì buồn cả. Chúng ta có thể nghĩ rằng một chút xanh hoa đỏ lá bên ngoài mà tấm lòng hoài cổ của bà tiêu tán đi chăng? Trái lại cái cảnh nhắc cho Lý Bạch chớ đến cung Lý Nhân của vua Ngô không phải là vườn xưa đài cũ, mà chính là sắc liễu xanh rờn, khúc ca lướt gió… Ở đây cỏ hoa đã che lấp cả. Nào lâu đài xưa lối cũ đã tàn tạ đi rồi như hồn cỏ hoa thu đã chết, nhường cho sự ngạo nghễ của hoa cỏ mùa xuân… Nào đâu đền cũ lâu đài? Nó cũng tắt đi như bóng tịch dương chiều hôm qua, chiều bữa trước, nhường cho ánh sáng đẹp đẽ buổi mai này. Bắt bài thơ này ở trong cảnh chiều phải vào cảnh sáng, cũng như bắt đội quân trong trận đồ đáng lẽ ra cửa sanh, phải ra cửa tử… chỉ để thử thách mà chơi đó thôi.
Thử thách song rồi, chúng ta có thể nói tác giả đến đây một buổi chiều thu nữa đấy… Cỏ thu quả có lúc bấy giờ… tịch dương lúc bấy giờ cũng có… nhưng cảnh ở đâu thì là cảnh. Cảnh đã vào trong thơ thì đấy là tình. Qua một chiếc máy lọc, bao nhiêu nước hồ ao đều thành nước uống, thì qua một con vật hữu tình là người, thì bao nhiêu cảnh cũng đều nhân hóa mà thành cảm tình. Cho nên cảm tình không những chỉ hồn thu thảo mà còn nền cũ lâu đài, không những chỉ bóng tịch dương mà còn lối xưa xe ngựa…
Đứng trước cảnh xưa kia lâu đài nguy nga, ngựa xe rộn rịp mà nay chỉ còn phất phơ hồn cỏ, gang tấc nắng chiều, thì tâm tình chúng ta như sao?… nhà thơ phương Đông mà bao giờ cũng dẹp bản ngã mình trước đại ngã của gia đình, tổ quốc, nhân loại, trước vô ngã của đất trời, lần này lại ẩn bóng hình mình, bóng hình nhân loại, sau đá nước:
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Lá gan trung thành cùng chúa cũ tuy trải qua bao năm tháng vẫn bền vẫn vững, nhưng tấm lòng tích cổ thương kim thì dù tang thương xa cách mà vẫn còn khiến người ủ mặt chau mày…
Tại sao nói về câu trên, tác giả lại dùng chữ VẪN, tỏ ý cương quyết, vế dưới lại dùng chữ CÒN, tỏ ý chịu đựng? Phải chăng vì trước một tình trạng mà có những thái độ? Phải chăng vì hai nhân vật, bên thì ý chí trung, cứng cỏi, bên thì cảm tình sầu, mềm yếu? Cũng có thể nói thế. Nhưng sự thật thì có đến hai tình trạng. Đó là điểm quan trọng của hai chữ tuế nguyệt và tang thương. Ngày tháng dù có tàn phá đến đâu cũng không bằng bình hỏa do thói dâu biển của con người gây nên mà xưa nay nơi nơi điều chung chịu. Con roi đánh trên hòn đá chỉ là con roi nhỏ, nhẹ…, chỉ làm cho nay rụng lá, mai rơi hoa. Chứ còn roi đánh trên nước hồ là con roi tàn bạo, làm cho máu tuôn thịt nát! Một bên thì đến bây giờ vẫn chưa chuyển động. Một bên mãi đến bay giờ mà vẫn còn thương đau!
Cặp luận là để tỏ ý tỏ tình. Nhưng nếu đa sự chúng ta cho nó là tả cảnh như hai câu trên, thì lại thêm một điều này cho chúng ta nhận xét nữa. Ấy là trong bốn câu trạng luận dùng để thích thực đầu đề, thì hai câu trên tả cảnh nhân tạo, hai câu dưới thích cảnh thiên nhiên: cảnh nhân tạo, nào xe ngựa nào lâu đài, bây giờ đã hóa ra cảnh thiên nhiên nắng thu cỏ úa. Còn cảnh thiên nhiên thì dù cho thủy lưu ba tạ vô tình, dù đá sắt không cảm động đi nữa, mà đứng trước tuế nguyệt đứng trước tang thương, nếu chẳng cảm xúc mà chau mày, cũng phải bền gan mà đối phó.
Phải có trăm nghìn nghĩa đâm ngang dọc bài thơ như trăm nghìn con dao, ta mới mong ráo nghĩa bài thơ. Bởi bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ thì có một câu, nhưng sau mỗi câu thơ là một tâm hồn, mỗi tâm hồn là một bầu trời, mà mỗi bầu trời dọc ngang biết bao nhiêu hướng. Hãy dọc ngang để cho chim bay. Hãy tung hoành để cho chim bay. Hãy tung hoành để xem rõ ý tướng. Cũng như ta, sau một chữ ta thấy nhiều nghĩa, sau đường thẳng của chân trời ta đoán vạn núi sông, thì sau một cảnh tàn phá bày ra trước mắt, bà Huyện Thanh Quan chợt thấy cả bao nhiêu chuyện phế hưng từ trước đến giờ.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ.
Câu này vừa gói cảnh Thăng Long trước mắt, vừa gợi cảnh Thăng Long ngay xưa, vừa thoát ra khỏi Thăng Long để trùng trùng bao ảnh tượng khác…
Đấy là lúc cảm tình đã vào sâu trong lòng thi sĩ, đấy là lúc sắp bật nổ ra một cái gì. Quả nhiên câu chót đến:
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Nếu ví cảnh đấy là con dao, người đây là tác giả, thì luống đoạn trường là máu chảy. Nếu ví cảnh đấy là bầu tâm sự chan chứa, người đây là dây đàn, thì luống đoạn trường là khúc tiêu tao…
Từ trên đến đây ngấm ngầm tình người. Từ trên đến đây ngấm ngầm sự xung đột tình người và cảnh… Nhưng không… Nhưng đến đây, khi cái cảnh trước mắt không những là cảnh trước mắt, mà là cảnh xưa…, không những là cảnh ngày xưa mà là cảnh kim cổ, không những là ở đây mà là ở mọi nơi… khi đã như thế thì sự xung đột phải rõ rệt… cảnh đấy…, hai chữ ấy nhưng dồn tất cả bao nhiêu cảnh ở trên làm một đội quân. Người đây…, hai chữ đó cũng như dồn tất cả những đau buồn rải rác ở trên làm một đội binh. Hai đạo binh đã xung đột nhau: ấy là luống đoạn trường. Cảnh đấy…, hai chữ ấy nhưng dồn cả cảnh vật bỏ lên một đầu cân, và đầu bên kia là tất cả tình người. Tình người đã thua và chìm xuống. Đó là ý nghĩa của luống đoạn trường…
Đó là Chế Lan Viên lấy con mắt và tấm lòng của con người mới, con người mới nhưng không phụ cũ, để đọc và hiểu thơ xưa. Chế đã làm nổi bật ý thơ xưa, tình thơ, vị thơ, tức là tinh thần bài thơ, trong Thăng Long Thành Hoài Cổ. Đó là một cách đọc, một cánh hiểu, một cách giải thích riêng biệt của Chế Lan Viên. Tôi đưa ra chỉ để cho rộng thêm đường nghị luận, chứ không phải mong làm phương pháp chung, mẫu mực chung.
Bài THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ xưa nay đã được nhiều học giả bình giảng. Ai nấy điều công nhận là hay. Và nói đến bà Huyện Thanh Quan, hầu hết những bạn yêu thơ điều đem bài này ra nói trước nhất.
Nghĩa là phần đông điều thích bài THĂNG LONG.
Tôi lại riêng thích bài CHIỀU HÔM:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng  hôn
Tiếng ốc xa xưa lẫn trống đồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn chương đài người lữ thứ
Lấy ai mà ngõ nỗi hàn ôn.
Thơ hay mỗi bài hay một vẻ. Xem thơ mỗi người thích mỗi cách. Cho nên bảo “thích bài này hơn bài kia” không phải bảo rằng bài mình thích hay hơn những bài mình không thích hay ít thích. Không phải bảo rằng bài này hơn bài kia.
Thơ bà Huyện Thanh Quan hầu hết đều trang nhã đài các, bài nào cũng có cốt cách Thịnh Đường, như trên đã nói: giàu âm nhạc, giàu hình ảnh và sức truyền cảm, sức hấp dẫn vừa mạnh vừa bền. Đọc rồi vẫn còn dư vị, đọc nữa vẫn thấy thích thú.
Cũng như các bài khác, bài Chiều Hôm có “Nội vị chi vị, ngoại huyền chi thanh”. Nhưng lấy chỗ hồn thành mà luận thì phải để bài Chiều Hôm ở hàng đầu.
Bài này là một bài thơ cảnh, nhưng cảnh đả biến thành tình, tình đã hợp nhất cùng cảnh. Ngoại cảnh chỉ là hình ảnh của nội tâm, mỗi nét ở bên ngoài là một dáng dấp ở bên trong. Nói một cách khác là bức cảnh chiều hôm nhuốm đậm sắc thái tâm hồn của tác giả. Đó là nỗi lòng của người lữ thứ trước cảnh chiều hôm. Bà soạn ra bài này lúc vào Phú Xuân làm Cung Trung giáo tập theo lệnh vua Tự Đức. Xa gia đình, xa quê hương, sống lẻ loi trong nơi không người quen thuộc, bà bị niềm viễn biệt nỗi cô đơn làm ảm đạm tâm hồn, làm cho tâm hồn ít khi được yên tịnh, ít khi được thảnh thơi. Lòng buồn un đúc ấp ủ lâu ngày, một khi gặp cảnh thích nghi, liền tuôn trào theo cảnh và hòa đồng với cảnh.
Trong bài chữ dùng tài tình nhất là VIỄN PHỐCÔ THÔN, vì vừa biểu lộ được nỗi niềm tâm sự (viễn biệt cô đơn), vừa cho người đọc thấy rõ rằng tác giả là người ở trong nơi đất khách lạ lùng: thấy thuyền câu không biết thuyền về đậu nơi bến nào, thấy kẻ lùa trâu không biết lùa về nghỉ ở thôn nào, không biết vì là người xứ khác, không biết nên đành nói trổng: bến nọ thôn kia. Nhưng vì sẵn mối thương tâm vì lẻ loi, vì xa cách, nên kia nọ liền được thay bằng viễn cô:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Và chút dư tình dư ý của VIỄN của chuyền xuống cặp luận để nổi lên lượn sóng lòng thứ hai nơi chữ BAY MỎIBƯỚC DỒN:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
BAY MỎI cho chúng ta thấy lòng mong trở về đã năm dồn tháng chứa.
BƯỚC DỒN nói lên nỗi bồn chồn bôn bức của lòng muốn trở về, và cho biết rằng tuy lòng mong về đã quá sức mỏi, song không khi nào ngớt mong.
Trong thơ, những ngư ông, mục tử, chim, khách, phố, thôn, sương, gió là cảnh, còn viễn, cô, bay mỏi, bước dồn là tâm. Cho nên khi tâm đã hòa đồng với cảnh, cảnh đã hợp nhất cùng tâm, thì VỀ, LẠI, BAY, BƯỚC trong thơ là những nhịp rung cảm của tâm chớ không còn là sự chuyển động của cảnh.
Chế Lan Viên bảo thơ Đường không có thơ tả cảnh là vậy đó.
Nói tóm lại bài CHIỀU HÔM là bức tranh lòng của bà Huyện Thanh Quan, một bức tranh lòng vẽ bằng lời, đầy màu sắc, giàu âm nhạc và vô cùng linh động.
Bà Huyện đã đến được diệu xứ của Thơ.
Có người chê rằng thơ bà Huyện Thanh Quan dùng nhiều chữ Nho làm giảm bớt tinh thần dân tộc.
Không đúng.
Những chữ bà Huyện Thanh Quan dùng đều là những chữ đã Việt Nam hóa và rất phổ biến trong làng thơ. Những chữ ấy chẳng những không làm mất dân tộc tánh trong thơ, mà còn làm cho câu thơ bài thơ thêm phần phong lưu trang trọng. Dùng đồ ngoại quốc không có hại, mà chỉ có hại ở cách dùng, ở thái độ dùng. Bà Huyện Thanh Quan đã thiện dụng tiếng Hán Việt. Nhờ tài thiện dụng của bà mà những chữ Hán Việt kia đã tạo cho thơ bà một sắc thái riêng biệt không thể lầm lẫn cùng giai phẩm của bất kỳ một nhà thơ nào của Việt Nam.
Lại có người nông nổi tưởng rằng thơ của bà Thanh Quan mang được tánh cách Đường thi là nhờ ở những chữ Hán Việt. Cả tấm áo cà sa choàng lên lưng còn chưa thành được hòa thượng huống hồ chỉ vài mảnh hàng trắng hàng vàng.
Nhưng muốn biết rõ thơ bà Huyện Thanh Quan giống Đường thi ở những điểm nào, thì trước hết phải biết những đặc điểm của Đường thi.
Mà từ xưa đến nay ai đã nói được một cách cụ thể những đặc điểm ấy? Bởi làm thế nào tả cho nổi sắc đẹp của giai nhân. Tây Thi đẹp như sao, Điêu Thuyền đẹp như sao, Chiêu Quân đẹp như sao, Lục Châu đẹp như sao? Và tứ đại giai nhân ấy khác nhau ở điểm nào? Đã ai nói được?
- Tây Thi: Nghiêng nước nghiêng thành,
- Chiêu Quân: Nhạn sa cá lặn,
- Điêu Thuyền: Hoa nhường nguyệt thẹn,
- Lục Châu: Sắc nước hương trời.
Là nghĩa làm sao? Nói cho có nói, chớ thật không nói được gì hết!
Làm sao phân tách được mùi hương?
Xuân Diệu nói đúng.
Như vậy thì biết làm sao bây giờ?
Muốn biết nước nóng lạnh sao thì phải tự uống lấy, nghĩa là phải thể nghiệm, thể nhập. Tức là đọc thơ bà Huyện Thanh Quan cho chín và đọc thơ Đường cho nhiều rồi tự mình nhận thức, nhận chân.
Nhưng muốn vào động sâu, muốn lên núi cao, tưởng cũng cần có những chỗ vịn. Xin bày ra đôi chỗ vịn hầu mong giúp cho những bạn chưa từng leo núi vào động và không có phương tiện nào khác hơn đôi tay trắng, đôi chân không:
Cũng những thơ Đường, thơ bà Huyện Thanh Quan dùng chữ chính xác, thanh nhã; luyện câu tinh xảo chỉnh tề; gióng điệu điều hòa uyển chuyển; tránh hẳn những bệnh phù, hủ, thường, nhàn nhược, sanh cường, vô vị…; và tạo được bầu không khí lành mạnh chớ không rét mướt, trong trẻo nhưng mơ màng chớ không rực rỡ, bầu không khí của sớm mùa thu, của chiều mùa xuân, có sương có nắng, nắng sương hợp nhất và phảng phất mùi hoa cúc, hoa lan…
Cao Bá Quát dặn rằng:
- Trước khi đọc văn Hoa Tiên phải rửa tay đốt trầm.
Đọc thơ Đường và thơ bà Huyện Thanh Quan cũng phải theo gương họ Cao thì mới hưởng được chân thú chân vị.
Chú thích:

[1] Nương theo thời lời giảng kinh một cách sơ lược giản tiện đó là gieo oan cho phật tam thế.
Hương Vườn Cũ 9
Ông Chiêu Hổ phê bình HỒ XUÂN HƯƠNG:
Đã cổ mà còn đeo thói nguyệt
Có xuân sao lại vắng mùi hương. [1]
Đó là ông Chiêu phê bà Hồ có tài mà không có hạnh.
Hạnh kiểm là chuyện trăm năm, tài ba là chuyện nghìn thu. Trăm năm là của người, nghìn thu là của trời. Hồ Xuân Hương là một tài nữ, nghĩa là một người của trời. Đem ý nghĩa trăm năm để phê phán con người nghìn thu. Ông Chiêu Hổ đã làm chuyện con chim ra ràng của Trang Chu vậy.
Viên Tử Tài, một thi bá đời Thanh, khắc bản thơ riêng, để ở trang đầu câu thơ Đường:
Tiền Đường Tô Tiểu thị hương thân.
Một quan tể tướng xem thấy ngỏ ý trách. Viên kiếm lời tốn tạ, nhưng quan trách mãi không thôi. Viên chánh sắc, nói:
- Ngài tưởng tôi không chọn người đem vào tập thơ ư? Ngày nay xem ra ngài là quan nhất phẩm mà Tô Tiểu là hèn. Nhưng trăm năm về sau người đời chỉ biết có Tô Tiểu mà không biết có ngài vậy.
Ấy lấy con mắt nhỏ xem xét người lớn thật không riêng gì ông Chiêu Hổ. Và người trời bị người đời xem khinh không riêng gì Hồ Xuân Hương.
Song có hại gì. Thiên tài là vàng, mà lửa than là hoàn cảnh.
Gặp gặp cảnh bất như ý, Khuất Bình viết ra văn Ly Tao, Bồ Tùng Linh viết ra sách Liêu Trai, Nguyễn Du viết ra Đoạn Trường Tân Thanh, Ôn Như Hầu viết ra Cung Oán Ngâm Khúc, Đặng Trần Thường viết ra Tần Cung Nữ Oán Bái Công… Bi phẩn cảm khái, mỗi nhà dựng riêng một cây cờ trên đàn văn.
Hồ Xuân Hương cũng thế.
Bị bọn đàn ông làm cực thân thì tủi danh, tuy nói:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn bé mặc tình tay kẻ nặn
Riêng em giữ vững tấm lòng son [2]
Những lòng sao khỏi tủi hổ căm hờn. Song rồi nghĩ lại:
- Vì quí hòn ngọc phác mà Biện Hòa bị hai lần chặt chân. Vì quí viên ngọc Biện Hòa mà vua Triệu suýt bị mất nước. Nếu không đem thành liền đánh giá, ai bỏ cũng được, ai lấy cũng được, thì đâu đến nỗi người có ngọc phải lụy thân!
Lại nhận thấy:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này
(Vịnh quạt)
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng phải trèo.
(Đèo Ba Dội)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.
(Hang Cắc Cớ)
Thì té ra: cực thân tủi danh chỉ vì “cái này”, trên yêu dưới yêu cũng “một cái này”. Lấy một suy mười thì trăm chuyện nghìn chuyện chẳng qua một cái này, trăm cảnh nghìn cảnh đều ở trong cái này. Chuyện đời là thế, người đời là thế. Ca củm có hay chi? Kính nể nữa mà chi?
Tánh tình buông lung, dưới mắt lại thấy “cái này” làm chủ thiên hạ, Hồ tài nữ đã dựng nên một biệt phái trong làng thơ.
Thơ Hồ Xuân Hương còn truyền tụng được nhiều và đã được in thành sách. Ngoài thương trường trong học đường, không mấy ai không biết, ít ra cũng đôi ba bài hoặc năm bảy vận. Và những thơ còn truyền, không có bài kém. Hóm hỉnh nhất là những bài:
VỊNH QUẠT
Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự ngày xưa
Phành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch đêm ngày đã chán chưa?
VỊNH GIẾNG
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông
Giếng mát thanh thơi thú lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá giếc le te lách giữa dòng
Giếng ấy nông sâu ai đã biết
Đố ai dám thả nạ rồng rồng.
QUA KẼM TRỐNG
Hai bên lẻm thẻm giữa tuôn dòng [3]
Có phải đây là kẽm trống không?
Gió đập cành thông khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang đá trông dường hẹp
Ra khỏi đầu non ngó rộng thùng
Qua cửa mình ơi nên ngó lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng
ĐÁNH ĐU
Tám cột khen ai khéo khéo trồng
Người thời lên đánh kẻ ngồi trông
Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong nẩy nẩy lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không.
Cợt nhả lả lơi riêng thành lời nói của một nhà. Chẳng những đối với các nhà thơ Việt Nam, trong các phái thơ của Trung Hoa cũng không có nhà thơ nào có giọng điệu của Hồ Xuân Hương.
Mà thơ Hồ Xuân Hương trăm đề nghìn đề tuy chung qui “một cái này”, song cảnh nào in cảnh nấy, việc nào ra việc nấy, không mấy khi trùng điệp nhau. Lại lời thơ trơn mịn, trải ra như tấm áo trời không tìm thấy mối chỉ đường kim. Hàn Mặc Tử thường nói:
-  Hồ Xuân Hương là một vị thi tài không tiền khoáng hậu.
Thật không chút ngoa. Vì trước họ Hồ là ai, sau họ Hồ là ai, mà tài làm thơ, tài làm thơ ngang tàng, có thể cùng Hồ đối đẳng?
Đọc những vần thơ trên, tôi thoáng thấy một chàng hiệp sĩ phương cường cầm thanh thần kiếm chẻ đá. Chỉ một nhát bên Đông, một nhát bên Tây, một nhát bên Nam, một nhát bên Bắc, rồi một nhát phía trên, một nhát phía dưới, thế là tạc thành một khối đá vuông vức, mặt bằng thẳng và trơn láng như bào.
Tài nghệ thuật tuyệt luân!
Không dùng “cái này” làm cốt, thơ Hồ Xuân Hương cũng vô song. Như:
MỜI TRẦU
Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
CHIẾC BÁNH
Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái mặc ai lăm đổ bến
Giong lèo thấy kẻ rắp xuôi ghềnh
Ấy ai thăm váng cam lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
TỰ TÌNH
Canh khua văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vần trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xuyên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây núi mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con. vân vân…
Thật là nhất chú hồn thành [4], không cần đến công phu trau dồi sửa chữa.
Thơ hay phần nhiều điều nhờ công uẩn nhưỡng phanh luyện. Ông Mạnh Hạo Nhiên mỗi lần nghĩ thơ, lông mày bị rụng. Ông Vương Duy có lần cấu tứ đã bước lầm vào vò giấm. Ông Trần Hậu Sơn lúc làm thơ, người nhà phải lo đuổi chó mèo và đem trẻ con đi gởi nhà khác.
Nhưng cũng có người, đề thi một khi vào tay, thì tình tứ tự nhiên đến, rồi hạ bút nên chương, không cần phải mất công cấu tạo. Như Lý Thái Bạch, rượu một đấu thơ trăm thiên; Tô Đông Pha cười cợt giận mắng đều thành thơ.
Cho nên thơ chia làm thiên lại và nhân lại, tức là thơ của Bộng trời và thơ của Bộng người.
Thơ bà Huyện Thanh Quan càng dụng công càng hay.
Thơ Hồ Xuân Hương, những câu tự nhiên là những câu tuyệt diệu.
Đó là vì thơ bà Thanh Quan cũng như thơ họ Vương, họ Mạnh, họ Trần, nhờ nhân xảo mà được: nhân lại. Còn thơ Hồ Xuân Hương cũng như thơ họ Lý, họ Tô, theo thiên phú mà đến: thiên lại.
Bà Huyện Thanh Quan là thần hóa.
Hồ Xuân Hương là thiên tài.
Thơ bà Huyện Thanh Quan trang nhã đài các.
Thơ Hồ Xuân Hương phóng túng lả lơi, lời tuôn ra miễn sao khoái khẩu khoái tâm, trong trăm năm ngoài nghìn thu, không quản chi đến dư luận.
Cũng như thơ họ Hồ có nhiều giọng lả lơi phóng túng, nên gặp những bài đứng đắn, người đời cũng tìm cách sửa chữa cho ra vẻ Hồ Xuân Hương. Như trường hợp bài:
KHÓC QUAN PHỦ VĨNH TƯỜNG
Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ơi
Chưa chẵn ba mươi cũng một đời! [5]
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Nắm xương dưới ván chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc
Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ơi.
Cặp luận bị sửa:
Đòn cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng đãy càn khôn thắt lại rồi.
Sửa như thế kể cũng đã giỏi, vì quả có giọng Hồ Xuân Hương. Song lấy sự diễu cợt thay vào nỗi bi thương, người có tâm không nỡ. Đối với chàng Tổng Cóc, họ Hồ xem như cừu thù, nên khi Tổng Cóc chết, họ Hồ mừng được giải thoát nên mới thốt:
Chàng Tổng Cóc ơi, Chàng Tổng cóc ơi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ bấy nhẽ
Ngàn vàng không chuộc giống bôi vôi.
Chớ đối với quan phủ Vĩnh Tường, họ Hồ hết lòng yêu kính, vì là người có học có tình. Ăn ở với nhau mới có hai mươi bảy tháng, lại vừa sanh con chưa ráo máu, mà đã kẻ hiển người u, thì lòng xót thương đâu còn có chỗ hở để đùa cợt?
Đó là nói về tình.
Còn về văn chương thì câu “Đòn cân… Miệng đãy”…
Lấy thay câu luận như thế là làm cho bài thơ thành một chiếc áo gấm vá vải màu và đem câu “ Nắm xương… Hòn máu” so với câu “Đòn cân… miệng đãy” riêng nói về mặt văn chương mà thôi, thì một bên là biển lặng lúc bình minh, một bên là ao bùn khi gặp lụt.
Câu thơ không bị thất truyền thật muôn lần may mắn. [6]
Lại một hôm tôi xem một quyển sách tuyển thơ (quên tên) thấy bài:
CHIỀU THU
Lác đác tàu tiêu mấy hạt mưa
Bút thần khôn vẽ nét tiêu sơ [7]
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc quan san say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Biết bao tao khách tình đi lại [8]
Thấy cảnh lòng ai chẳng thẫn thờ.
Bài này là tác phẩm của bà Huyện Thanh Quan. Song sách ấy lại ghi là của Hồ Xuân Hương. Văn chương nồng diệm điêu trác không thể ngờ tác giả không phải bà Huyện Thanh Quan. Thế mà một nhà Nho quả quyết là thơ Hồ Xuân Hương, và bảo:
- Bà Thanh Quan không bao giờ lại có giọng lẳng lơ như thế.
Hỏi lẳng ở chỗ nào. Đáp rằng hai câu bảy tám.
Hai câu bảy tám, có sách chép là:
Ô hay cảnh cũng trêu người nhỉ
Ai thấy mà ai chẳng ngẩn ngơ.
Dù câu này dù câu kia, xem đi xét lại vẫn không tìm thấy chi là lẳng lơ cả! Nhà Nho trông thấy lẳng lơ chẳng qua vì bị cái tên Hồ Xuân Hương ghi dưới bài thơ ám ảnh đó thôi.
Phần đông các nhà cựu học không thích xem thơ Hồ Xuân Hương. Kể cũng phải. Các cụ xem văn thơ thường đeo cặp kính đạo đức. Quyển Đoạn Trường Tân Thanh còn bị liệt vào hạng dâm thư, thì thơ Hồ Xuân Hương lọt vào mắt xanh các cụ như thế nào được!
Nhưng bình tâm xét lại thì thơ Hồ Xuân Hương không thể liệt vào hạng dâm thi. Dâm thi là thơ khiêu dâm. Đọc thơ Hồ Xuân Hương có ai bị kích thích? Chỉ có người dâm mới làm được thơ dâm đủ lôi cuốn người đọc. Thơ Hồ Xuân Hương không có bài nào khêu gợi lòng dâm của người đọc. Như thế chứng tỏ rằng tác giả không phải là người dâm. Huống hồ hễ người đàn ông dâm thì thường nghĩ, thường nói đến đàn bà, và đàn bà dâm thì hay nghĩ hay nói đến đàn ông. Hồ Xuân Hương chỉ nói đến “vật sở hữu” mà thôi. Nói để chửi đời, để trêu đời nhất là giới mày râu, giới tự xưng là hiền nhân quân tử, hào kiệt anh hùng, nhưng khi tắt gió lúc sa mưa đều phải…
Tức là thơ Hồ Xuân Hương nghịch và đôi khi cay, chớ không dâm.
Nhưng đối với làng nghệ sĩ thì thơ có dâm hay không dâm, không chút quan hệ, chỉ cốt sao cho diệu thì thôi.
Mà thơ Hồ Xuân Hương lại tuyệt diệu.
Thế là đủ.
Bàn về thơ quốc âm, một vị tiền bối đã nói:
- Hồ Xuân Hương đáng ngồi chiếu nhất, chiếu nhì không có ai, chiếu ba không có ai. Chiếu tư mới đến Yên Đỗ.
Buổi sanh tiền, Hàn Mặc Tử rủ Bích Khê và tôi làm lễ tôn Hồ Xuân Hương lên ngôi vua xứ Thơ Hàn Luật. Còn đương chọn bá quan văn võ, thì xảy ra vụ “Minh oan Võ Hậu” của Chương Dân tiên sinh. Cảnh làng văn không được yên vui, nên lễ tôn vương đành hủy bỏ. [9]
Rất đúng!
Thơ Hồ Xuân Hương không phải là dâm thơ:
- Nói đến cái ấy không hề để khiêu dâm.
- Nói không phải thích thú
- Không hề nói tục
Mà nói để đánh vào đám người giả đạo đức một mặt khinh khi phụ nữ, một mặt lại chui nhủi vào nhục dục đê hèn, và cái thói ấy đã dày vò cuộc đời của Hồ vì vậy mà lấy cái đó phảy vào mặt anh hùng, che đầu quân tử… cho nên người nào đem hai câu cán cân…, miệng túi…, thay cho hai câu hay đến xé ruột nắm xương…  hòn máu thì rõ ràng là người không hiểu gì về Hồ Xuân Hương.
Chú thích:
[1] Trong bài Hát Nói “Viết Hồ Xuân Hương” trong Văn Đàn Bảo Giám thấy chép:
Người cổ lại còn đeo thói nguyệt
Buồng xuân chi để lạnh mùi hương.
Đây là một cách chơi chữ: Chữ Cổ chép với chữ Nguyệt  thành chữ Hồ. Chữ câu trên câu dưới ghép lại thành Hồ Xuân Hương.
[2] Bài VỊNH BÁNH TRÔI NƯỚC này, mỗi sách chép mỗi khác hoặc nhiều hoặc ít. Thường thấy:
Thân em thì trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm mấy nước non
Nguyên nát mặc dù tay kẻ nặn
Trong lòng em giữ một hòn son.
Hoặc: Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn
Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son.
[3] có chỗ chép rằng: Hai bên thì núi giữa thì sông
[4] Một đúc liền thành thơ và thành một cách hồn nhiên, hoàn mỹ.
[5] Các sách thường chép: Duyên nợ phù sinh giũ sạch rồi.
[6] Xem lời bình câu thơ này ở bài nói về Phạm Thái chương sau.
[7] Có sách sao chép: Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
[8] Có câu này các vị phụ lão thường ngâm hơn câu “Ô hay…”. Câu “ô hay…” có sách chép: “Ô hay cảnh cũng ưa người nhỉ”.
Không  biết rõ nguyên tác như sao.
[9] Chương Dân Phan Khôi viết bài Minh oan cho Võ Hậu đăng ở phụ nữ Tân Văn bị cụ Huỳnh Thúc Kháng công kích kịch liệt trên báo Tiếng Dân.
Hương Vườn Cũ 10
Có thể cùng Hồ Xuân Hương chia non sông nước thơ Hàn luật để xưng bá xưng vương, là Phổ Chiêu Thiền sư PHẠM ĐAN PHỤNG, tức Phạm Thái.
Nhà sư đa tình này thi tài lỗi lạc. Trong kho tàng đất nước không dễ gì tìm thấy nhiều trang thơ hay như hai bài:
ĐỀ NGHĨA LƯ
Gió thu hiu hắt khóm phương tùng
Thổi rụng hàng châu ngoẹn má hồng
Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng
Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung
Hoa kề cổ trủng đeo tình nặng
Trăng rọi cô lư sáng tiếng trong
Dệt gấm Thanh Nê câu nhất tiếu
Thêu nền Thúy Ái chữ tam tùng.
II.
Cuồn cuộn xe mây kíp ruổi giong
Dễ mà theo hỏi chốn hành tung
Khêu sầu chín khúc chùng dây sắt
Diễn thảm năm canh quạnh giọt đồng
Niêm đảo mơ màng hồi thú cổ
Sinh tiêu văng vẳng tiếng thiền chung
Huyền thương ví chẳng thù hồng phấn
Chi kiếp trần hoàn trả chửa xong!
NGHĨA LƯ là ngôi nhà Long Cơ ở thủ tiết. Long Cơ là vợ thứ Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thụ.
Hầu là cựu thần nhà Lê, người làng Thanh Nê, trấn Sơn Nam, làm Hiệp trấn Lạng Sơn. Vua Quang Trung dứt nhà Lê, hầu không tòng vong, ở lại làm quan cùng triều Tây Sơn để làm nội ứng cho nghĩa binh Cần Vương đương ngấm ngầm lo việc khôi phục. Việc lớn chưa thành, hầu bỗng nhiên thất lộc. Long Cơ đưa linh cữu về Thanh Nê. Tang ma xong yên, lẻn ra bên mộ hầu, treo cổ tuẫn tiết. Nhưng người nhà cứu khỏi. Cơ bèn cất một ngôi nhà bên mộ, một mình ở thờ chồng. Nghĩa Lư là ngôi nhà đó.
Thơ đề Nghĩa Lư là để tặng Long Cơ.
Bài thứ nhất nêu lòng tiết nghĩa của nàng.
Bài thứ hai tả tình cảnh nàng lúc ở Nghĩa Lư thủ tiết.
Văn chương tinh diệu. Âm tiết không hổ cùng người đời Thịnh Đường bên Trung Hoa và bà Huyện Thanh Quan là người ra đời sau nhưng nổi danh trước.[1]
Song nếu đem hai bài Thăng Long Thành Hoài Cổ và Chiều Hôm của bà Huyện Thanh Quan so với hai bài đề Nghĩa Lư của Phổ Chiêu Thiền sư, thì chúng ta thấy hai bên khác hẳn nhau:
Giọng thơ bà Thanh Quan trầm và tròn, giọng thơ của Phổ Chiêu bổng và bén.
Điệu thơ của bà Huyện hoãn như nước sông xuân chảy giữa bình nguyên, điệu  thơ của Thiền sư cấp như nước suối vừa xuống khỏi thác.
Đó là về thanh vận.
Còn về thần khí thì thơ Phổ Chiêu trong sáng và mạnh mẽ như thơ Hồ Xuân Hương.
Hai bài đề Nghĩa Lư có phong thái một chàng tráng sỹ lịch sự và đa tình; lòng quyến giai nhân mà chí theo mây nước, cắp gươm nhảy lên ngựa, hăng hái nhưng bùi ngùi. Khách giai nhân có tài có học như Trương Quỳnh Như là em gái Thanh Xuyên hầu, yêu thơ yêu luôn tác giả. Đó là thường tình trong thiên hạ, cổ kim đều có chớ không riêng họ Trương. Và người được yêu, tuổi trẻ tài cao như Phạm Thái, thấy người đem lòng yêu mình có tài có sắc, thì cũng tránh sao khỏi tình yêu.
Thế là hai bên yêu nhau.
Ấy là nhờ văn chương đưa duyên. Nhưng hẳn cũng nhờ hương hồn Thanh Xuyên hầu run rủi. Vì một bên em còn một bên là đồng chí.
Và đó là hội giai nhân tài tử, chớ không phải bước phá giới của nhà sư. Bởi Phạm Thái không phải  một Thiền sư chân tu, mà là một nghĩa sỹ dòng thế phiệt. Phụ thân là Trạch Trung hầu quán xã Yên Thường, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, tuẫn tiết về việc Cần Vương. Nối chí tiền nhân Phạm Thái tập hợp các bầy tôi trung nhà Lê, lo toan việc báo phục. Hầu che tai mắt bèn thế phát qui y và lấy đạo hiệu Phổ Chiêu Thiền sư. Rồi đi Nam về Bắc, đời trải không biết bao nguy hiểm gian lao. Nhưng chí đã hẹn với quân vương, nên lòng lúc nào cũng vững bền hăng hái.
Nhưng từ khi theo linh cữu Thanh Xuyên hầu đến Thanh Nê gặp Trương Quỳnh Như, thì việc khôi phục nhà Lê lần lần bị xao lãng. Không có gì lạ: Tình trường nhi nữ làm đoản chí anh hùng. Huống hồ lúc bấy giờ vận số nhà Lê không còn phương cứu vãn. Ở ngoài thì vua Lê Chiêu Thống bị vua tôi nhà Thanh bạc đãi, không kham nổi cực nhục đã thăng hà.
Trong nước các đồng chí, lớp bị giết, lớp bị bắt, lớp bị truy nã phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh xa xôi… biển rộng chiếc thuyền nan, một tay chèo đương sao nổi cùng gió to sóng cả ! Anh hùng buổi mạc lộ, không đắm mình vào nguồn ân ái để sống cho trọn kiếp phù sinh thì còn biết làm gì nữa? Huống hồ Phạm Thái chẳng những có tài kinh tế mà còn nặng nghiệp văn chương. Mà đối với văn chương, tình là món cần thiết. Bởi thơ có tình mới hay, và tình càng si thơ càng diệu.
Nếu vua Văn Vương nhà Châu không yêu da diết nàng Thái Tự, yêu đến nỗi chưa cầu được, phải “ngộ mi tự bặc, triển chuyển phản trắc” [2], thì làm gì có Thiên Quan Thư ba chương đứng đầu bộ Kinh Thi của Trung Quốc. Nếu không có những cuộc ái ân giữa nam và nữ, thì làm gì có thơ Quốc Phong là phần lớn của bộ Kinh Thi, và làm gì có những câu ca dao trên đất nước Việt Nam mà giá trị không kém thơ Quốc Phong?
Trường hợp Phạm Thái cũng thế.
Để tỏ tình cùng Trương Quỳnh Như, Phạm Thái có bài:
CẦM THÁO
Ai lên tử các thanh vân
Hỏi thăm ả Tố chiều xuân thế nào
Cầm âm một khúc gởi trao
Cậy lòng dì gió đưa vào hương cung.
Oanh én véo von gọi khách
Cỏ hoa hớn hở mừng ai
Gió xuân hây hẩy giục đưa người
Dễ khiến lòng tơ bối rối!
Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu
Thung thăng phấn bướm dồi mai
Vũ Lăng xa diễn biết bao vời
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu tá.
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu tá
Dòng Ngự câu gieo lá tình thi
May thay một hội tương kỳ
Đã bên tình phận lại bề phong lưu
Câu hảo cừu đợi người thục nữ
Năm mây phong hai chữ đồng tâm
Đón xuân nhắn với tri âm
Tính tình xin tỏ tiếng lòng này cho.
Rắp hẹn hò ngồi hoa đứng tuyết
Lòng còn e khôn biết nói năng…
Bây giờ mượn gió cung Đằng
Vì duyên xưa mối xích thằng lại đây.
Thơ rằng:
Từ chốn thềm cung trộm dấu hương
Dễ xui tao khách mối sầu vương
Gió thông reo rắc chong đèn oán
Trăng hạnh chênh vênh rạng bóng dương
Nếu đã tình duyên dun rủi phận
Thì xin ân ái vẹn vuông đường
Phong lưu đôi lứa đà ai dễ
Bụi tục chi cho bợn lóa gương.
Bợn trần chi để lóa gương
Tuyết mai là tiết liễu dương ấy tình
Khổn hoa vừa mãn phong thanh
Nức gương kinh các nổi danh tao đàn
Trong tình thú hồng nhan dễ mấy
Chốn phòng trung trộm thấy phong quang
Xui lòng du tử thêm càng…
Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?!
Tâm sự gởi hoa tiên một bức
Từ chương không sánh bậc hào hoa
Những thì ân ái thế mà…
Tài nương xin hãy xét ta chữ tình.
Bóng quế mờ mờ trước nóc
Hơi hương hây hẩy bên thềm
Ngón cầm dìu dặt nhẫn thâu đêm
Văng  vẳng khêu sầu dường điểm
Cành tuyết ngoài thềm mới chớm
Chồi hương bên cửa vừa cầm
Vườn đào quạnh quẽ mượn ai tầm?
Mấy bức gấm phong im ỉm.
Im ỉm gấm phong mấy bức
Điểm một ngày dằng dặc dường niên
Để ai đưa đón cung tiên
Xếp nghề vũ lại gác bên trướng tình
Mây phủ vóc hình thương cẩu
Nguyệt mờ ám ngọc vẻ ngọc thiềm
Bóng đèn xanh thắm lọt năm đêm
Dò dõi khắc sầu khôn điểm
Mấy tiếng lầu hoa chợt lắng
Vài phen ngấn mực còn cầm
Tuyết lồng thôn lạnh biết đâu tầm?
Chín khúc sầu trường im ỉm.
Im ỉm sầu trường chín khúc
Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư
Cầm sao thấy điệu ngẩn ngơ
Tình ai luống để khách thơ thêm càng…!
Tình nồng lời đẹp. Thể cách biệt lập. Không phải từ khúc, không phải trường đoản cú. Ngó dường như thi ca liên hành, nhưng không phải thi ca liên hành. Đó là hợp những thể ấy lại rồi biến chế thành cách điệu thích ứng theo trào lòng, theo nhịp bước của con tim.
Bài cầm tháo là một bài thơ tình diễm lệ, một áng văn chương hữu hạng trong làng thơ Việt Nam cả cổ lẫn kim.
Phạm Thái có bài thơ ĐỀ TRANH MỸ NHÂN, đọc xuôi là Hán Văn, đọc ngược là Quốc âm, mà bài nôm lại là bài dịch nghĩa sít sao bài chữ:
Đọc xuôi:
Thanh xuân tỏa liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang
Thanh dạng đỗ liên phi phất lục
Đạm hi tạn cúc thác sơ hoàng
Tình si dị tố liêm biên nguyệt
Mộng xúc tằng liêu trướng đính sương
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bận
Oanh ca nhật vĩnh các tiêu hương.
Đọc ngược:
Hương tiêu gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng giục mộng
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình
Vàng thưa thớt cúc tan hơi đạm
Lục phất phơ sen đọ dạng thanh
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.
Bài này cũng vì Trương Quỳnh Như mà có. Nếu Phạm Thái không say đắm tình duyên thì đâu có những vần thơ hoa gấm ấy?
Riêng tiếc tài tử giai nhân không mấy khi được thấy nhau đầu bạc! Phạm Trương vừa quen biết nhau thì đã phải chia biệt nhau! Duyên cớ bởi vì đâu? Vì thân danh, vì hoàn cảnh [3]. Khi ra đi, Phạm Thái có để lại cho Quỳnh Như một luật:
Đẩy hoa đưa lá bởi tay trời
Nghĩ lại tình duyên luống ngậm ngùi
Bắc yến nam hồng thư mấy bức
Đông đào tây liễu khách đôi nơi
Lửa ân khôn nhúm nhen mà cháy
Bể ái hằng khơi tát chẳng vơi
Đèn nguyệt trong xanh mây chẳng bợn
Mong soi xét thấu tấm lòng ai.
Sau khi xa cách người yêu, Trương Quỳnh Như bị mẫu thân ép gả về nơi quyền quí nọ. Không làm sao được nàng đành lấy cái chết tạ tình lang. Hay tin Phạm Thái khóc:
Xanh kia cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi
Nhớ đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu châm chén ngọc rượu không hơi
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một khối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai có thấu lòng ai?!
II.
Oanh ru bên trướng giấc hoa nồng
Chợt tỉnh hồn mai nhớ lại mong
Non nước mơ màng chừng chỉ lữ
Mây mưa phảng phất đỉnh Vu phong
Quyên về viễn phố hoa rầu rĩ
Nhạn tếch Hành Dương nguyệt não nùng
Đàn tiếng ly loan tay ngại gảy
Lấy ai lần gỡ mối sầu xong!
Việc lớn không thành, người yêu lại khuất, Phạm Thái trở thành người chán đời, ngày ngày đắm mình trong rượu.
Một hôm đến mộ Quỳnh Như làm văn tế điếu. Xong rồi đi thẳng không “dễ mà theo dõi dấu hành tung”! Và trước khi xa lánh cõi trần, Phạm có soạn thiên tình sử của mình bằng thơ lục bát, nhan đề là SƠ KÍNH TÂN TRANG, để lại. [4]
Nghĩ như Phạm Thái, một trang anh tuấn nặng chí cần vương,
Bốn phương hồ thỉ đãy vàng
Nhảy tầng lãng đảo bắt thang vân cù
Tu mi tỏ mặt trượng phu
Đem trung hiếu để trả thù non sông…
Thế mà xong rồi một kiếp, vòng nhân gian chỉ còn để lại một pho tình sử và một ít thơ văn!
Nhưng một ít văn chương để lại so cùng sự nghiệp vương bá gẫm mà hơn:
Đền đài vua Sở gò xanh
Trời trăng từ phú Khuất Bình treo cao.
Mà những áng văn chương kia cũng nhờ cuộc tình duyên mà có. Cho nên bảo rằng đối với khách phong tao si tình là điều cần thiết, không phải là ngoa ngôn.
Và xem những áng văn chương còn sót lại, thì tài làm thơ của Phạm Thái thật không nhượng Hồ Xuân Hương.
Thơ của họ Phạm, bài nào cũng nồng cũng đẹp, song đều một đúc mà nên, ngấn vết công phu không tìm thấy. Cũng như thơ họ Hồ, thơ họ Phạm do bộng trời mà đến, gió cuốn mây tuôn. Nhưng phải nhượng họ Hồ, vì họ Phạm còn mượn Hán văn, còn dùng điển cố. Thơ họ Hồ hoàn toàn Việt Nam; thỉnh thoảng có dùng đôi ba chữ Nho thì những chữ ấy cũng đã thành người Minh Hương nhập tịch Việt Nam trên chín đời chỉ còn dấu tích Trung Hoa ở đôi mắt xếch. Song đến cách hợp tự (mariage des mots) thì họ Hồ phải phục họ Phạm tài tình hơn mình. Ví như:
Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng
Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung.
Vế trên dùng điển Ngu Cơ tuẫn tiết nơi Cai Hạ. Vế dưới dùng điển Nga Hoàng Nữ Anh khóc vua Thuấn nơi bến sông Tương.
Điển dùng không có chi mới lạ. Chỉ mới lạ trong cách hợp tự luyện cú, nhất là cách hợp tự. Những chữ “hồn Sở trướng, giọt Ngu cung” bạo hết sức mà cũng hay hết sức!
Trong bài “Đằng Vương Các tự” của Vương Bột có câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi”. Lạc hà là ráng chiều, cô vụ là con cò mồ côi. Ráng chiều và con cò mồ côi cùng bay với nhau. Đó là “bất loại nhi loại” [5]. Cổ nhân khen là nghiên diệu. [6]
Trong câu của Phạm Thái, hồn và trướng không đồng loại, giọt lệ và cung vua cũng không đồng loại, bên làm xác bên làm hồn. “hồn Sở trướng, giọt Ngu cung”. Thành ra trướng vua Sở có hồn, cung nhà Ngu có lệ! Thì cung kia trướng kia không còn là vật vô tri vô giác, mà đã trở thành giống sinh động linh thiêng!
Không đồng loại mà sánh đôi nhau như Cô vụ Lạc hà, người xưa đã cho là đẹp đẽ màu nhiệm, huống hồ hợp nhau lại thành một giống nửa quỷ nửa người, như hồn Sở trướng giọt Ngu cung, thì còn kỳ diệu tinh nghiên biết bao nhiêu!
Dùng chữ hiểm quái và tinh diệu như thế không thấy trong thơ Hồ Xuân Hương, nhưng thấy trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu:
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy.
và trong Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn của Đặng Trần Thường:
Má Lam điền dượi dượi chốn Quan Trung,
Nước chảy hoa trôi bẽ bàng mấy phận.
Hai áng văn kiệt tác ở thời Lê Mạt Nguyễn sơ, nghĩa là đồng thời hoặc sau Phạm Thái ít lâu.
Sau Phạm Thái chừng trăm năm có bài Hoài Cổ Ngâm của Tương An Quận Vương, trong có câu:
Bốn dây ứa máu tỳ bà
Bâng khuâng trăng Hán phôi pha gió Hồ.
Cũng là theo cách ghép chữ của họ Phạm. Kiều có câu:
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây giỏ máu năm đầu ngón tay.
Thật đã hay. Song vừa ghé mắt đến câu của Tương An Quận Vương thì thấy câu Kiều đã lui ra sau mấy bước. Vì sao vậy? Vì câu Kiều tả một cảnh thường, cảnh năm đầu ngón tay giỏ máu. Câu của Tương An lại tạo ra một cảnh phi thường, cảnh bốn dây tỳ ứa máu. [7]
Cũng như câu “Bốn dây ứa máu tỳ bà”, hai câu:
Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng
Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung.
gợi trong trí tưởng tượng nhiều hình ảnh lạ lùng: trướng vua Sở hiện hồn người, hồn người treo phất phơ trên cỏ biếc; cung nhà Ngu hóa nước mắt, nước mắt điểm lác đác trên trúc vàng! Nhưng những hình ảnh kia ở giữa những cảnh đẹp đẽ của trướng hoa cỏ biếc, cung châu trúc vàng, nên không làm cho chúng ta rùng rợn bằng câu:
Nắm xương dưới ván chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười.
của Hồ Xuân Hương.
Hãy gác ý chính của câu thơ, ý quan phủ Vĩnh Tường vì thương con vợ góa mà chết không đành đoạn, ý đứa con mới sanh không biết rằng mình mồ côi bố, trên môi luôn luôn nở nụ cười tự nhiên. Gác những ý ấy lại một bên. Và cứ nghĩ nắm xương dưới ván là nắm xương trắng thật, hòn máu trên tay là hòn máu đỏ thật. Rồi nhắm mắt lại để xem những cảnh tượng diễn ra: nơi chiếc quan tài hiện lên một bộ xương trắng phếu. Cảm cảnh tử biệt, bộ xương nhăn mặt chau mày, hu hu cất tiếng khóc…; hòn máu nằm trên một bàn tay bên cạnh bị ảnh hưởng, vụt sanh miệng mắt, nhìn quanh bốn phía, mỉm môi cười! Nếu cảnh tượng ấy diễn vào lúc đêm khuya, thì trên thế gian này e không còn người cứng bóng vía!
Phê bình Hồ Xuân Hương, Tản Đà tiên sinh bảo:
- Thi trung hữu quỷ. [8]
Lời này có thể dùng để phê bình  hai câu “Nắm xương… Hòn máu…” thì mới thật đích đáng.
Song hai câu của Hồ Xuân Hương chỉ gợi nên những cảnh hãi hùng ở trước mắt. Hai câu thơ của Phạm Thái, nếu để lòng đến những điển tích, thì ngoài những cảnh trước mắt, còn hiện lên bao nhiêu cảnh của nghìn xưa:
Kìa trong nơi trướng hổ, dưới bóng đèn khuya, Hạng anh hùng hàm én râu hùm ngồi đối ẩm cùng Ngu mỹ nhân môi đào lưng liễu. Tư bề tiếng ca Sở làm dao động lòng khách viễn chinh. Rượu ngà ngà say, anh hùng nhìn mỹ nhân mà ái ngại. Bỗng nhịp án cất lời ca… Vừa ca vừa khóc, giọng bi tráng lâm li. Mỹ nhân bước ra trước mặt anh hùng, rút gươm múa, vừa múa vừa ca, vừa ca vừa khóc. Điệu múa nhịp lời ca, dòng lệ hòa dòng lệ… Tiếng ca dứt, gươm vút nhóa hàn quang: mỹ nhân gục dưới chân anh hùng, máu thanh tuôn thành gò cỏ biếc… [9]
Nhưng “Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng”, hai chữ “chẳng treo” làm tan mất gò cỏ biếc bờ Ô giang [10], và thay vào bờ trúc vàng trên dòng sông Tương cạnh sơn lăng vua Ngu Thuấn. Liền đó hai bà hoàng hậu, má không phấn mà hồng, môi không son mà thắm, áo xiêm màu trắng, tóc mây xõa dài, nương nhau đến vin trúc vàng mà khóc. Tiếng khóc nỉ non. Nước mắt quyện máu hồng bay vướng vào bờ trúc, và từng giọt từng giọt, thân trúc điểm thành hoa. Rồi chiều rồi mai…, giọt tương tư không ngớt… Trên bờ sông Tương khóm này sang khóm khác, “trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung”.
Một câu thơ gợi bao nhiêu cảnh thơ!
Tâm hồn người xem thơ sung dũ bao nhiêu thì cảnh nên thơ phong phú bấy nhiêu. Tả không hết, nói không cùng. Muốn biết độ nóng lạnh của nước như sao, tưởng nên tự mình thể nghiệm. Lời giảng giải chỉ là ngón tay trỏ mặt trăng.
Nhưng xin nói thêm tí nữa:
Trong câu thơ, còn một điểm đáng lưu ý: tác giả đã uốn điển tích theo ngọn bút tài ba. Ngu Cơ vốn dùng lưỡi kiếm mà quyên sinh, Long Cơ lại dùng giải lụa mà tuẫn tiết. Cái chết cùng một ý nghĩa như nhau, mà cách chết lại dùng hai phương tiện khác biệt, dụng sự thế nào cho hợp tình hợp cảnh? Phạm Thái chỉ dùng một chữ “treo” là “ổn định ngay được tình thế”. Điển tích đã không bị cắt xén chắp vá, mà hiện trạng lại được diễn tả một cách sống động và trung thành. Những người ưng “vạch lá tìm sâu” cũng không tìm ra sâu để mà bắt. Bởi chữ “treo” tuy riêng nói về thắt cổ, song “treo hồn lên cỏ biếc” thì chết bằng kiếm hay chết bằng lụa vẫn có thể “thực hiện” như nhau.
Chữ TREO là một thần tự.
Chữ  ĐIỂM cũng rất tài.
Đọc “điểm giọt Ngu cung” chúng ta có ngay một ấn tượng thường xuyên liên tục, chúng ta có cảm giác là giọt tương tư của giai nhân rơi nhẹ nhẹ từ từ, hết giọt này đến giọt khác, không bao giờ ngớt, không bao giờ ngừng…, diệu nhưng bền, sưa nhưng thấm.
Cách hợp tự của Phạm Thái đã xảo diệu, cách luyện tự của Phạm Thái lại càng tinh vi.
Cú pháp của Phạm Thái cũng đã đến mức tinh diệu. Những câu khổ cầu như “Cỏ biếc… trúc vàng…”, mạn đề thuật ý như có thần trợ, khiến câu thơ tự nhiên, không tìm thấy ngấn vết dụng xảo.
Hầu hết tác phẩm của Phạm Thái đều như thế cả.
Cho nên bảo thơ Phạm Thái cũng như thơ Hồ Xuân Hương thuộc về bộng trời là vậy đó.
Đó là tài nghệ.
Còn tâm hồn thì Phạm Thái là con người đa tình và phóng dật. Trước khi phong trào lãng mạn của Tây phương tràn vào Việt Nam, thì không một thi gia nào tả tình yêu đương của mình một cách trực tiếp và tả được tha thiết chân thành như Phạm Thái. Tất cả đều mượn cảnh ngoài, mượn lời người khác để tả tình mình, vì cái tôi ai nấy đều muốn tránh. Chỉ có Phạm Thái là “lạc thác bất ky”. [11]
Phạm Thái đã dùng tình yêu đương làm nhân cho thơ cũng như Hồ Xuân Hương dùng “cái ấy” làm nhụy.
Đó là hai nhà thơ đã mạnh dạn tách riêng ra ngoài khuynh hướng cổ điển mà đời Lê mạt vẫn còn theo.
Thơ họ Hồ và thơ họ Phạm chẳng khác trái ngọt hoa thơ. Mỗi nhà có một phong vị. Xem thơ họ Hồ được hưởng sự khoái trá của kẻ ăn trái chín. Xem thơ họ Phạm được hưởng thú say sưa của người thưởng hoa tươi. Thú vị thật vô cùng nhưng không biết làm sao tả cho tường tận!
Xem hoa ăn trái cũng như nghe đàn, người thì nhiều, song người biết thưởng thức rất ít. Cho nên khúc Dương Xuân Bạch Tuyết không được mấy lăm tri âm. Mà thơ họ Phạm họ Hồ là những khúc Dương Xuân Bạch Tuyết. Thấy được gì nói ra nấy, tuy không đến nỗi chú lùn xem hát, song cũng không hơn gì ngồi nơi nhà khách mà đoán những vật quý nơi khuê phòng, hậu tẩm của bạn láng giềng thân yêu. 
Còn nhiều bảo vật trong hai kho tàng kia, mong gặp được nhà kỹ sư văn chương ra công khám phá và khai thác.

Chú thích:

[1] Phạm Thái sống vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, bà Thanh Quan sống vào khoảng cuối thế kỷ XIX, và từ ngày chữ quốc ngữ được trọng dụng thì phần đông người chỉ biết ba Huyện chớ ít biết Phổ Chiêu  Thiền Sư. Quyển Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng không làm nổi bật tài văn chương của họ Phạm.

[2] Chữ trong Quan Thiên thư, chương II, nghĩa là: thức ngủ đều nhớ nhung tơ tưởng, lăng qua lộn lại, trăn trở không yên.
[3] Muốn biết rõ sự tình, xin xem Tiêu Sơn Tráng Sĩ của Khái Hưng.
[4] Trong Tiêu Sơn Tráng Sĩ chép rằng tập này làm để tỏ tình cùng trương Quỳnh Như lúc nàng còn sống. Như theo tình tiết trong tập thì rõ là khúc đoạn trường làm để gởi tâm sự khi người yêu đã mất.
[5]  Chẳng phải một loại với nhau mà hợp thành đồng loại.
[6]  Đẹp đẽ nhiệm màu.
[7] Thơ Pháp có câu: L’archet mord jusqu’au sang du violon. Nếu Tương An sanh ở thế kỷ thứ XX này thì không khỏi bị những kẻ đa nghi ngờ rằng du đạo. Thời gian xa cách không gian xa cách, mà tứ thơ in nhau. Thú vị!
[8] Trong thơ có quỷ - Lời nói trong một bài phê bình Hồ Xuân Hương đăng ở An Nam tạp chí.
[9] Hai bài ca của Hạng Võ và Ngu Cơ trích đem vào. Chương 35 ở sau, nói về thơ Mai Xuân Thưởng.
[10] Tăng Tử Cố đời Tống vịnh Ngu Cơ có câu:
Hương hồn dạ trục kiếm quang hàn
Thanh huyết hóa vi nguyên thượng thảo.
[11] Lạc thác hay Thác lạc là phóng túng không kiềm chế. Lạc thác bất ky là muốn làm gì thì làm không câu nệ gì hết.
14/4/1971
Quách Tấn
Theo http://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những tấm gương xưa00000

Những tấm gương xưa Miếng Ăn Con Người có ăn mới sống. Cho nên miếng ăn quý nhất đời. Thầy Mạnh Kha nói " Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ ...