Hương vườn cũ 5
33.
Đặng Xuân Bảng hiệu Hy Long, đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Tự Đức thứ 9 (1856). Bên Hán văn, văn chương có tiếng là hùng tráng. Bên Quốc âm, còn để lại chừng vài mươi bài thơ Hàn luật. Phần nhiều là thơ cảnh. Lời văn cổ nhã, như bài Đề Núi Dục Thúy đã trích dẫn ở trước kia [1] và bài Đề Động Bích Đào sau đây: |
Động Đào mở khóa dễ ai hay
Ngó tựa Thiên Thai giữa cõi này
Róc rách một dòng khe cuốn gió
Rỡ ràng năm sắc đá chen mây
Cờ tiên cuộc trải vòng kim cổ
Thơ thánh câu đề giọng tỉnh say
Ướm hỏi chủ nhân đâu vắng tá?
Nga Sơn còn đó động còn đây. [2]
Thơ nhiều tài mà ít tình, có cảnh có thú mà ít vị. Cho nên không quyến rủ được lòng người thưởng cảnh trong thơ.Thích thú nhất trong số thơ Hy Long mà tôi được đọc là bài:ĐỀ ẢNH
Chen vai quả đất đứng trên vòng
Trời sanh ra ta có ý không?
Trải kiếp chưa phai hồn cố quốc
So gan mới biết mặt anh hùng
Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể
Một tấm lòng son giãi núi sông
Gió Á mưa Âu thay đổi mặc
Trơ trơ như đá vững như đồng.
Văn hùng, khí tráng, đọc thấy phấn khởi trong lòng. Nhưng có người bảo:- Hay thì hay thật, song không sát đề. Bởi theo phép làm thơ, cặp trạng phải thích thực đầu đề, nghĩa là phải nói thế nào cho người đọc thấy rõ là ảnh, chớ đây hoàn toàn nói người. Đó là một bài thơ “Cảm thuật” chớ không phải “Đề ảnh”.Đánh giá như vậy cũng phải và đó là theo quy tắc trường ốc mà phê phán. Chớ thường thường thi nhân làm thơ không theo một quy tắc nào hết mà chỉ theo trào lòng của mình. Lúc cao hứng thì ngâm tràn viết tràn. Thành thơ rồi mới đặt đầu đề, cũng như con sanh rầu mới coi mặt đặt tên. Hoặc lấy vài ba ý tứ chính của bài thơ mà mệnh danh.Bài “Đề ảnh”, nếu tôi không lầm thì là nhân nhìn bức ảnh mình, tác giả cao hứng nói lên thân thế và tâm sự mình, rồi sẵn bút sẵn nghiên mới viết thơ vào bức ảnh để trước mắt. Chỉ chép tám câu thơ mà thôi. Sau này những người thấy hay chép lại để xem, mới thêm đầu đề vào để gọi dễ nhớ. Chớ nào phải lấy bức ảnh mà ra đề để làm thơ đâu mà buộc phải sát đề.Thơ cử nghiệp là hữu đề chi thi.Thơ của các thi nhân chân chính thường là vô đề chi thi.Tùy Viên gọi Hữu đề mà hay là nhân xảo, Vô đề mà hay là thiên công.Nhưng xét cho kỹ, bài ĐỀ ẢNH đâu có phải là không ăn đề. Chữ PHAI là “hình thức nổi” để nói về ảnh. Còn năm câu từ câu bốn trở xuống đều có nói gạnh đến ảnh, nghĩa là đều dùng “phương pháp chìm” để “đề cao” ảnh. Đại để: nếu không so gan thì tưởng là một vật vô tri vô giác, có tướng không tâm, chớ nếu người đời đem gan mình ra đọ thì sẽ thấy đó là một bậc anh hùng, bởi vì người đời chạy theo thời, mà ảnh vẫn giữ vững chân tướng trước những cuộc bể dâu biến đổi.Huống nữa Người chẳng phải là ảnh, nhưng ảnh lại là người:Ngã bất thị cừ cừ tức ngãThân ly ư ảnh ảnh đồng thân. [3]
Cho nên nói người tức là nói ảnh. Mới ngó thì như không ăn đề, nhưng nghĩ kỹ thì thật sát đề. Nếu vào trường thi, gặp được quan trường sáng suốt, không đợi thần áo đỏ gật đầu cũng phải lấy đậu.Tôi liên tưởng đến BÀI NÓI CHUYỆN VỚI ẢNH của Tản Đà: Người đâu cũng giống đa tình
Ngỡ là ai lại là mình với ta
Mình với ta tuy hai nhưng một
Ta với mình sao một mà hai?
Năm nay mình mới ra đời
Mà ta ra trước đã ngoài đôi mươi
Cuộc nhân thế câu cười tiếng khóc
Nghề sanh nhai lối dọc đường ngang
Đầu xanh ai điểm hơi sương [4]
Những e cùng thẹn những thương cùng sầu.
Đôi ta vốn cùng nhau một tướng
Lạ cho mình sung sướng như tiên
Phong tư tài mạo thiên nhiên
Không thương không sợ không phiền không lo
Xuân bất tận trời cho có mãi
Mảnh gương trong đứng lại với tình
Trăm năm ta lánh cõi trần
Nghìn năm mình giữ tinh thần chớ phai.
Tản Đà cũng như Hy Long mượn ảnh để nói mình. Nhưng mỗi tác phẩm là một góc trời riêng biệt, tánh chất khác nhau, sắc thái khác nhau.Hy Long phơi bày ý chí.
Tản Đà diễn tả tâm tình.
Một bên thiên về lý trí.
Một bên thiên về tình cảm.
Một bên hùng hồn.
Một bên uyển chuyển.
Cả hai đều có sức tác động: Đọc bài của Hy Long, người đọc phấn chí; đọc bài của Tản Đà, người đọc bùi ngùi trong tâm. Tức là hai bài thơ về ảnh thượng dẫn đều rung cảm người đọc. Như thế là thơ hay. Thơ của Hy Long Đặng Xuân Bảng hầu hết đều thiên về lý trí, thơ cảnh cũng như thơ tình. [5].Bài thơ đề Động Bích Đào và bài Đề Ảnh tiêu biểu cho thơ cảnh và thơ tình của họ Đặng.Chú thích:
[1] Xem bài số 20 ở trước nói về Núi Dục Thúy.[2] Động Bích Đào ở núi Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.[3] Cặp trạng bài thơ “Tự đề tiểu ảnh” của Thái Hư thiền sư. Đại ý nói: Ta chẳng phải mày nhưng mày lại là ta; thân vốn lìa xa ảnh, song ảnh vẫn cùng chung với thân. Đó là nói về bản thể và ứng hóa thân.[4] Tản Đà tiên sinh bạc tóc sớm.[5] Thơ cảnh và thơ tình nói đây là theo nghĩa rộng.Thơ cảnh không phải là thơ tả cảnh, vì thơ Việt Nam cũng như thơ Trung Hoa không có thơ tả cảnh, như trước đây đã nói (xem bài số 8 và số 20).Thơ tình cũng không phải thơ nói về tình ái. Cũng như cổ nhân nói “thi ngôn chí”, chí không phải chỉ nói về ý chí hay chí hướng của con người. Tình cũng như chí là chỉ tất cả những gì thuộc về phần tinh thần của con người.34.
Thơ chịu ảnh hưởng sông núi rất nhiều. Người Nam sống trong cảnh đồng ruộng mênh mông, không có núi cao che mắt, tâm hồn bằng lặng cởi mở, tánh tình thẳng thắn dễ dãi, nên lời thơ thường trực giản chớ ít khúc chiết, tứ thơ thường bình khoáng chớ ít thâm viễn cao siêu. |
Trưa sớm đường danh gió bụi nhiều
Vờn quê riêng thú cảnh trời chiều
Cành sương rai rác đơm bông bạc
Màn ráng xuê xoang phủ gấm điều
Ngả ngớn lưng trâu ngơ vọt mục
Bôn chôn lối thỏ nặng vai tiều
Xót người mệnh bạc trong chằm nhạn [7]
Ngó mống trông mây xiết bấy nhiêu! [8]
Đây một bài thơ cảnh của Phan Văn Trị:
AN GIANG PHONG CẢNH
Linh đinh bèo nước biết là đâu
Đậu bến An Giang cảnh giục sầu
Bảy núi mây liền chim nhíp cánh [9]
Ba dòng nước chảy cá vênh râu [10]
Có rau nội quạnh dân xanh mặt
Không trái bần khô khỉ bạc đầu
Xem hết cảnh tình rồi nghĩ nghị
Thú vui chỉ có một thuyền câu.
Trải qua nắng hạ trải mưa thu
Cày cấy ghe phen sức dãi dầu
Cúi ngửa chung tình mươi đám ruộng
Làm ăn giữ vốn mấy con trâu
Chuyên nghề Hậu Tắc nhà hằng đủ [11]
Giỏi việc Mân Phong nước chẳng sầu [12]
Chờ gặp mùa màng trời đất thuận
Cả trăm giống thóc một tay thâu.
Đây thơ cụ Nguyễn Hữu Huân:
THA BANG CẢM TÁC
Có ai tri kỷ nhắn đôi lời
Biết thú chi vui rủ dạo chơi
Chốn cũ phong lưu quen những thuở
Cảnh này quyến thức nhắm không người
Ở ăn tuy phải nương cùng tục
Khó nhọc đà nên cực nỗi đời
Hương hỏa ba sinh dầu chẳng toại
Nỡ đem hình dịch để trêu ngươi.
35.
Ngoài những bậc có đại danh như Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân…, miền Nam còn những người có văn chương truyền thế. Như Đỗ Minh Tâm, Phan Tử Nhàn, v.v… ĐỖ MINH TÂM hiệu là Minh Giám, nguyên có chân nhiêu học tức là khóa sinh, nên thường gọi là Nhiêu Tâm. Học giỏi nhưng thi mãi không đỗ.Thời bấy giờ, thực dân Pháp đã chiếm cứ Nam kỳ. Một người như ông tuy không đỗ đạt nhưng muốn xuất sĩ thật không chút khó khăn. Song ông nhất thiết không hợp tác cùng quân cướp nước. Ông ngấm ngầm rèn luyện tâm chí cho đàn hậu tiến để lo việc phục thù cho non sông. Hoài bão của ông hình hiện nơi bài: THUYỀN QUA SÔNGĐoàn trước qua rồi đã mỏi tayĐường xa riêng sợ lớp sau nàyTrương buồm lướt sóng e chưa nổiThẳng mái ra khơi ngại chở đầyLo soát phải kèm tay lái bácBiết khôn cố giữ sợi neo thầyChờ tan giông tố đường xưa lạiKẻo trẻ bơ thờ khắp đó đây. Nhưng cơ trời không xoay lại nổi, ông đành lấy thi ca vui sống cùng tháng ngày.Ông có tài xuất khẩu thành thơ, và thơ ông một đúc mà nên, nhưng lời văn già dặn, ít khi có câu non chữ ép. Ông sở trường về lối thơ phúng thứ.Thơ ông sách báo xưa nay đã nói đến nhiều. Trước kia có Chương Dân Thi Thoại của Phan Khôi và hiện nay có Giai Thoại Làng Nho của Lãng Nhân là hai quyển sách viết công phu. Trong sách có nhiều thơ của Nhiêu Tâm, mỗi bài thơ đều được nói rõ về nguyên nhân sáng tác.Để giúp bạn đọc nào chưa đọc hai quyển sách ấy, biết qua thi tài của ông Nhiêu Tâm, tôi xin lục ra đây một đôi bài làm đại biểu: GHẸO CÔ GÁI BÁN CAUHỏi cau ai bán tiếng ai raoTốt vóc mà trong biết thế nàoDấu để trên buồng e đóng đụcPhành ra trước mặt thấy ngon daoGiốc mua nên phải coi từ vúCó bán thì cho thử chút màoChuốt ngót của mình ai dám chắcBiết lòng biết mặt xỉa tiền trao. Bài đó chỉ làm để bông đùa mua vui, chớ không phải để châm biếm, nên không có ý đau độc. Chẳng khác nhát búa bủa vào đầu đương sự, bài VỊNH CỤC PHÂN sau đây:Bao tử là cha, mẹ: ruột dồiSanh ra không chỗ để mày trôiChặt chân chẳng nỡ thương thằng quáng [1]Bụm mũi mà qua gớm đứa bôi [2]Thiếu chó bắt mèo trông ngứa mắtChỉ trê cùng chốt ngậm tràm môiLẫn thay ông lão ngồi cầu quẹtChấp chứa làm chi cái giống hôi. Nguyên một nhà giàu ở Vĩnh Long tên là bá hộ Nọn có nuôi một thầy đồ dạy con em trong nhà. Một hôm ông Nhiêu đến chơi. Thầy đồ tỏ vẻ kiêu ngạo. Nhân nghe chủ nhà giới thiệu ông Nhiêu là tay hay chữ giỏi Nôm, mới bảo ông làm thơ nghe thử. Ông khiêm tốn xin ra đề. Thầy đồ buột miệng thốt: “Cục cứt”. Ông Nhiêu ứng khẩu đọc ngay năm vần trên.Trong Giai Thoại Làng Nho, Lãng Nhân chép có đôi chỗ khác: về đầu đề thì chép là “Vịnh cứt trôi sông”, về thân bài thì chép:Bao tử là cha, mẹ: ruột dồiĐặt không nên chỗ để mày trôi!Trượt chân chẳng nỡ thây nhằm đạpBịt mũi mà qua đã gớm rồi Thiếu chó bắt mèo ngồi tạm nuốtCó tong cùng chốt rước theo mồiLạ thay ông lão ngồi cầu quẹtChấp chứa làm chi những giống hôi. Chắc Lãng Nhân cũng như tôi, nghe truyền sao chép vậy, chớ không thấy bản thảo của ông Nhiêu để lại. Cho nên không dám quả quyết rằng mình chép y nguyên bản. Để mua vui, thử biện bạch thị phi: Về đầu đề: Nếu đầu đề là “Cứt trôi sông” thì bài thơ thiếu ý. Bởi trừ câu thừa và vế thứ hai câu luận ra, sáu câu kia đều thiếu ý trôi. Phép làm thơ hữu đề thì cả tám câu phải luôn luôn đi sát với đề, nhất là cặp trạng.Trước khi hạ bút hành văn, người làm thơ phải xem kỹ coi cái thần của đề nằm ở chữ nào. Trong đề “Cứt trôi sông”, cái thần nằm ở chữ “trôi”. Bởi “Cứt trôi sông” khác với “Cứt nằm đất”. Thế là trong bài hầu hết các câu đều không ngậm ý “trôi”. Như thế là không sát đề. Đã biết rằng thơ làm chơi không cần phải câu nệ, miễn nói được những gì mình muốn nói thời thôi. Song phải nhớ rằng “không nên câu nệ” đâu phải “bất chấp quy củ”, các cụ ngày xưa đối với thơ đâu có chấp nhận việc “nai chạy đồng hoang”.Theo chỗ tôi được nghe truyền thì câu “để mày trôi” ông Nhiêu ngụ ý nói mỉa ông Đồ: Ông đồ vốn là người ở xa, vì thất nghiệp phải rời quê hương vào Vĩnh Long dạy học.Gạt bỏ hai chữ “trôi sông” ra khỏi đầu đề thì bài thơ không còn có chỗ chỉ trích, tức là hoàn hảo.Ông Nhiêu Tâm ở miền Nam, cũng như ông Tú Xương ở miền Bắc, vì không thể đem tài năng mình ra giúp ích cho nước nhà và lại nhìn thấy trong xã hội có nhiều hạng người bất hảo nên sanh ra bất mãn, thường mượn văn chương để trút bớt nỗi khó chịu trong lòng. Do đó mà thường làm thơ châm biếm.Bên cạnh thơ phúng thế ông Nhiêu cũng có nhiều thơ tình. Tôi được biết một bài: KHÓC VỢCái chuỗi sầu riêng xỏ chửa đầyHay là bạn chết thế cho đâyĐống xương tiết liệt vun trời đấtGiọt máu cương thường thấm cỏ câySông Hán một năm còn thấy quạNon Vu ngàn thuở khó trông mâySuối vàng hồn mẹ may mà gặpXin ngỏ nhà ta nỗi nước này. Cặp trạng vừa nói về bà Nhiêu, vừa nói về nhiều người đàn bà đã bỏ mình trong thời kháng chiến chống Pháp, vừa nói về lòng đau đớn riêng của ông đối với bà, vừa nói đến nỗi thảm chung của nhân dân đối với đất nước.Tình ý trong bài thâm hậu, nhưng văn chương cũng như bài Thuyền Qua Sông, không nhu nhuyễn lưu lợi bằng thơ phúng thứ là môn sở trường của ông Nhiêu.PHAN TỬ NHÀN, húy là Tiên, người Gò Công.Tôi chưa được rõ thân thế của ông như sao. Nhưng xem những bài thơ truyền tụng thì đoán là người có tâm huyết với non sông mà bước đường đời gặp nhiều gian nan lận đận:TỰ THÁNMưa gió hôm mai khó liệu chừngĐầy vơi còn nỗi bận cho thânVách thưa bóng ác không kiên mặtSâu rậm người quen nhác để chânMụ vợ than đau rơi nước mắtThằng con làm nũng quẩn bên lưngNgẩn ngơ cái phận làm nam tửTrăm việc không qua một chữ bần.BI THU
Rừng phong nay đã nhuộm màu thu
Hỏi lại hôm xuân đã biệt mù
Đống tuổi chập chồng năm Giáp Ất
Lằn thoi thấm thoát bóng tang du
Mãn lo tháng tới hơn người trí
Sực nhớ năm rồi sút kẻ ngu
Nam tử lỡ mang lời với thế
Gắng mà cho có chút công phu.
ĐÊM TRĂNG CẢM HOÀI
Một mình ngơ ngẩn giữa đêm trăng
Thầm nghĩ hai vai gánh nặng quằng
Gây nghiệp trẻ sau non mới đắp
Lấp ơn người trước biển chưa bằng
Ba mươi tuổi tác chau mày gấu
Nghìn dặm non sông chắt lưỡi lằn
Cái phận làm trai ngao ngán nỗi
Cao xanh kìa hỡi thấu cho chăng?
QUA CHỐN CŨ NHỚ NGƯỜI XƯA
Lối cũ Thiên Thai viếng Ngọc Chân
Cỏ hoa chào khách lạ trăm phần
Đàn xưa lóng điệu nghe hơi gió
Đá cũ quen chân lấp bợn trần
Khuyên rượu thương người trưa bóng ác
Giăng tay buồn lúc dạo vườn xuân
Tình riêng quyên giục càng ngơ ngẩn
Đứt nối lòng tơ biết mấy lần.
Văn chương tao nhã, không mang tánh chất khô khan của các nhà thơ tiền bối [3]. Chất thơ đượm đà, nhạc thơ êm ái. Đọc thơ xong còn hưởng được dư vị, dư âm.Thơ Tử Nhàn chắc còn nhiều. Ước ao được có thêm chừng mươi bài nữa để thưởng thức cho được thỏa thuê.Tôi còn được nghe truyền một bài thơ mà giá trị văn chương không nhượng thơ Tử Nhàn. Đó là bài CẢNH TIÊN CHÂU của Nguyễn Hữu Đức: Tiên Châu giăng trước Vĩnh Long thànhĐây rộn rực người đó vắng tanhKhuất nửa cỏ cây nhà trắng trắngChia đôi trời nước liễu xanh xanhĐồng quê ngày tháng ba thằng mụcChùa Phật hôm mai một tiếng kìnhDanh lợi ví như lòng chẳng tưởngNăm hồ trăng gió có ai tranh. Nguyễn Hữu Đức là ai, tôi chưa được may mắn biết rõ. Nhưng cũng như Phan Tử Nhàn, cách điệu của thơ tình tứ trong thơ đã cho thấy rõ là một tâm hồn thơ phong phú. Nói về mặt kỹ thuật thì Nguyễn Hữu Đức còn lão luyện hơn Phan Tử Nhàn.Thơ Nguyễn Hữu Đức cũng như thơ Phan Tử Nhàn là thơ tài tử, không còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lối thơ cử nghiệp. Luật thơ Đường đã được điển chế nghiêm mật. Khi đem dùng vào việc khoa cử lại còn bị phiền phức hóa thêm bằng những chi tiết rắc rối để lung lạc đám sĩ tử, kiến người làm thơ mãi lo giữ gìn cho đúng qui luật mà lắm khi xao nhãng nội dung. Do đó thơ chỉ có xác.Nhưng người học thơ Đường luật mà không biết rành qui tắc của trường thi cũng không được. Phải biết rõ những chỗ rắc rối, những chỗ khó khăn, để tránh né được dễ dàng khi gặp phải. Chẳng những phải biết mà còn phải tập luyện cho thuần thục, để có thể vứt bỏ khi cần vứt bỏ và áp dụng khi cần áp dụng, vứt bỏ và áp dụng một cách thích đáng khi thấy có lợi cho thơ. Trong thơ cũng như ngoài đời, không có gì tuyệt đối tốt, cũng không có gì tuyệt đối xấu. Xấu hay tốt tùy quan niệm tùy trường hợp, tức tùy người tùy lúc tùy nơi.Và học thơ cũng như học Đạo, không nên chấp sắc cũng không nên chấp không. Nghĩa là không nên làm nô lệ cho thi pháp mà cũng không nên bỏ thi pháp. Phải thủ xả tùy nghi.Phan Tử Nhàn và Nguyễn Hữu Đức nhờ biết tùy nghi nên đã sáng tác được những vần thơ hay, những vần thơ đọc đi đọc lại mãi không chán.Chú thích:[1] Tục ngữ “mỗi lần đạp cứt mỗi lần chặt chân”.[2] Tục ngữ “lấy cứt bôi chân người” (vu cáo).[3] và 2 Phan Tử Nhàn cũng như Nguyễn Hữu Đức là người gần đây.26.
Tôn Thọ Tường vì ra phục vụ cho Chánh Phủ Pháp trong khi sỹ
phu toàn quốc đứng lên chống thực dân xâm lăng, nên bị mang tội cùng danh
giáo. Trong trăm năm đã bị búa rìu thanh nghị, ngoài trăm năm còn để lụy cho
văn chương! |
Người xưa luận thi thường lấy thanh đạm tự nhiên làm quí.
Người sau bắt chước. Nhưng không nhớ lời dặn của người xưa: “muốn thanh đạm
trước phải nùng diệm, muốn tự nhiên trước phải trác luyện công phu”. Lại lầm
giản lậu là tự nhiên, khô sấu là thanh đạm. Do đó đua nhau ca tụng những câu
như: |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét