Chương 7
Ipwish, Massachusetts,
ở cách cầu sông Mytis chừng 40 phút lái xe, tùy vào thời tiết và tốc độ của bạn
ra sao. Tôi đã có lần vượt quãng đường này trong 29 phút. Một tay chủ ngân
hàng ở Boston rêu rao là hắn còn lái nhanh hơn, nhưng khi người ta
nói về một thời gian dưới 30 phút để đi từ cầu Mytis tới gia thự họ Barrett,
thì khi đó khó mà phân biệt giữa thực tế và óc tưởng tượng. Với tôi, thời
gian 29 phút là giới hạn tuyệt đối. Người ta đâu thể làm ngơ các tín hiệu
giao thông, phải không nào?
"Anh lái như một tên khùng ấy ", Jenny nói. "Đây là Boston" Tôi đáp, "Mọi người đều lái như
điên". Lúc đó, xe của tôi đang dừng lại vì đèn đỏ ở đường số 1. "Anh sẽ giết tụi mình trước cả lúc ba me anh giết tụi mình" Jenny
nói. "Nghe này Jenny, ba má anh là những người rất dễ thương." Đèn chuyển sang xanh. Trong 10 giây, chiếc MG lên tới tốc độ 60 dặm/giờ.
"Kể cả ông cụ Khốt ư ?"
"Ai ?"
"Oliver Barrett III."
"À, ông ấy là người dễ thương, em sẽ thích ổng mà."
"Làm sao anh biết được ?"
"Mọi người đều thích ổng."
"Vậy sao anh thì không ?"
"Vì mọi người thích ổng." Dù sao, vì lẽ gì mà tôi mang nàng đến gặp ba má tôi? Tôi có thực sự cần lời
chúc phúc của ông già mặt lạnh không? Một phần đó là vì ý muốn của nàng (Đó
là điều phải làm, Oliver!), phần khác, vì O.B. III là người thanh toán món tiền
học phí chết tiệt cho tôi. Có cần phải là một buổi ăn tối ngày Chủ nhật không? Ý tôi nói, hình như tôi
đã sai lầm, phải không? Chủ nhật, khi tất cả những tay tài xế cô hồn choán hết
cả con đường số 1, và chen cả vào đường xe của tôi. Tôi quẹo ra đường Groton,
một con đường tôi từng chạy hết tốc lực từ năm 13 tuổi. "Ở đây chẳng có nhà, chỉ toàn cây", Jenny nói. "Nhà cửa nằm sau rặng cây" Tôi đáp. Khi xuống cuối đường Groton, bạn phải cẩn thận, nếu không bạn sẽ chạy lố
qua ngã rẽ vào chỗ của bạn. Và thực tế là tôi đã chạy lố vào chiều hôm ấy.
Khi thắng lại, tôi đã xuống quá 300 yard. "Mình đang ở đâu?" Nàng hỏi. "Chạy lố rồi." Tôi lẩm bẩm chửi thề. Có cái gì mang tính biểu tượng chăng trong sự kiện tôi quay ngược lại 300
yard để vào lối nhà tôi? Dù sao, khi xe lăn bánh trên mảnh đất nhà Barrett,
tôi chạy chậm lại. Ít nhất là nửa dặm từ ngã rẽ vào tới tòa nhà Dover House.
Dọc đường, bạn đi qua những cao ốc, mà tôi chắc sẽ gây nhiều ấn tượng khi bạn
mới tới lần đầu. "Kinh thật." Jenny bảo. "Gì vậy, Jen?" "Dừng xe lại, không ddùa đâu, Oliver." Tôi dừng xe. Nàng nói : "Chà, em không ngờ lại như thế này." "Như thế nào, Jen ?" "Giàu sang thế này. Em cuộc là anh còn có cả nô lệ ở đây." Tôi muốn nhích qua và nắm tay nàng, nhưng tay tôi ướt đẫm (một trạng thái bất
thường), nên tôi chỉ khích lệ nàng bằng lời: "Xin em đó, Jen. Mọi chuyện qua nhanh thôi." "Vâng, nhưng không hiểu sao, em bỗng dưng ước gì tên của em là Abigail
Adam hoặc Wendy Wasp." Chúng tôi im lặng trong chặng đường còn lại, rồi tôi dừng xe, và hai đứa đi bộ
tới cổng. Trong lúc chờ người ra mở cổng, Jenny không chống lại nổi cơn sợ
hãi vào giây phút cuối.
"Ta chạy đi anh" Nàng nói.
"Ta sẽ ở lại và tranh đấu" Tôi đáp.
Có ai trong hai đứa tôi nói đùa chăng?
Florence, một đầy tớ trung thành và lâu năm của gia đình Barrett ra mở cổng. "Ồ, cậu chủ Oliver" Bà mừng rỡ chào tôi. Chúa ơi, tôi ghét bị gọi như thế làm sao! Tôi ghét cay ghét đắng sự cách biệt
tuyệt đối giữa tôi và ông già mặt lạnh. Ba má tôi, theo lời Florence, đang chờ ở thư viện. Jenny thối lui về sau
mấy bước vì mấy bức tranh chân dung chúng tôi vừa đi lướt qua. Hầu hết đó là
các tác phẩm của John Singer Sargent (có một bức vẽ O.B. II cao quý từng
trưng bày ở bảo tàng Boston). Nhưng tôi chợt có một nhận thức mới mẻ, rằng
không phải tất cả tiền nhân của tôi đều mang tên Barrett. Còn có các phụ nữ họ
Barrett, đã kết hôn và đã sinh ra những người như Barrett Winthrop, Richard
Barrett Sewall, và nhất là Abbott Lawrence Lyman, người đã táo bạo đi qua cuộc
đời (và trường Harvard), trở thành một nhà hóa học nổi danh, mà chẳng có một
chữ Barrett nào chen vào giữa tên ông ấy cả! "Chúa ơi, có đến phân nửa gương mặt các nhân vật được đặt tên cho các
cao ốc ở Harvard treo ở đây!"
"Toàn là điều vớ vẩn" Tôi bảo nàng.
"Em tự hỏi không biết liệu anh còn có họ hàng gì với Sewall Boat House
chăng?" Nàng nói.
"Có. Anh sinh ra từ dòng họ đá và gỗ."
Ở cuối dãy tranh chân dung, ngay trước khúc quanh vào thư viện, có một chiếc
hòm bằng thủy tinh. Bên trong là các kỷ niệm chương. "Trông chúng đẹp quá. Em chưa bao giờ nhìn thấy những thứ thế này, hình
như chúng làm toàn bằng vàng bạc hở?"
"Phải."
"Lạy Chúa. Của anh ?"
"Không. Của ông ấy." Bằng chứng về các kỷ lục này cho thấy O.B. III không dự giải Olympic
Amsterdam. Tuy nhiên, ông ấy đã dự nhiều giải quan trọng khác, và ddạt thứ hạng
cao. Nhiều. Rất nhiều. Những đồ vật lau chùi sáng chói này đang làm Jenny
kinh ngạc. "Người ta không tặng những món quí như thế này trong giải bowling ở Cranston."
Và nàng quay sang tôi.
"Anh có kỷ niệm chương chứ, Oliver?"
"Có."
"Trong chiếc hòm này ?"
"Ở trên phòng anh, dưới gầm giường."
Nàng tặng cho tôi một cái nhìn rất đỗi tình tứ kiểu Jenny và thầm thì :
"Lát nữa mình sẽ lên đó và xem chúng, nhé ?"
Trước khi tôi kịp đáp, và làm theo đề nghị của nàng, chúng tôi bị cắt ngang.
"A, xin chào."
Ông già Khốt ! Đó là ông già Khốt.
"Ồ, chào ba. Đây là Jenny."
"Ờ, chào cô." Ông bắt tay tôi trước lúc tôi nói hết lời giới thiệu. Tôi nhận ra ông không mặc
bộ đồng phục nhà băng. O.B. III mặc một chiếc áo khoác ngắn thể thao bằng vải
cashmere. Và sau vẻ mặt lạnh lùng, ẩn giấu một nụ cười. "Ta vào đây, gặp bà Barrett." Lại một lần nữa, hiếm hoi trong đời mình, Jenny co người lại. Gặp mặt Alison
Forbes ‘Tipsy" Barrett. (Trong một khoảnh khắc, tôi tự hỏi, cái biệt
danh thời nữ sinh ký túc của mẹ tôi có tác động gì tới bà không, nếu như bà
không lớn lên trong một gia đình danh gia vọng tộc trong ngành bảo tàng). Bà
chưa bao giờ tốt nghiệp đại học. Bà rời trường vào năm thứ hai, với lời chúc
phúc tốt lành của ông bà ngoại tôi trong ngày hôn lễ với O.B. III.
"Alison vợ tôi, còn đây là Jenny."
Ông ấy đã tước khỏi tôi nhiệm vụ giới thiệu Jenny.
"Callivery" Tôi bổ sung, vì ông già không biết họ của nàng.
"Cavillery", Jenny nhẹ nhàng chữa lại, vì tôi đã nói sai – lần đầu
và cũng là lần độc nhất trong cả đời tôi. "Như trong Cavilleria Rusticana?" Má tôi hỏi, rõ là để chứng tỏ dù
bà bỏ học, bà vẫn rất là có văn hóa.
"Dạ phải. Nhưng không có họ hàng gì hết ." Jenny đáp.
"Ồ" Má tôi nói.
"Ồ" Ba tôi nói. Và tôi, trong lúc tự nhủ không biết ba má tôi có hiểu kịp sự dí dỏm ngấm ngầm
của nàng chăng, cũng chỉ còn biết góp phần : "Ồ?". Má tôi bắt tay Jenny, và sau cái nghi thức thông thường đó, tất cả ngồi vào
ghế. Mọi người lặng lẽ. Tôi cố nghĩ xem cái gì sẽ xảy ra. Không nghi ngờ gì nữa,
má tôi đang đo lường Jenny, xem xét trang phục (đêm nay thì không có vẻ bụi đời),
cung cách, điệu bộ, giọng nói của nàng. Dưới sự quan sát đó, giọng nói vùng
Nam Cranston thậm chí ở vào cung bậc nhã nhặn nhất. Có lẽ Jenny cũng đang đo
lường má tôi. Phụ nữ luôn như thế, tôi biết. Chắc là để vén những bí mật về
cái gã đàn ông họ sắp sửa cưới. Và có lẽ nàng cũng đang đo lường O.B. III.
Nàng có nhận ra ông ấy cao hơn tôi chưa nhỉ? Nàng có thích chiếc áo khoác
cashmere của ông không? Còn O.B. III, dĩ nhiên là đang tập trung hỏa lực vào tôi, như thường lệ. "Con khỏe chứ, con trai ?" Đối với một nhà học giả khốn khổ nào đó, hẳn ông là một người đối thoại tồi
khủng khiếp. "Tốt, ba. Tốt." Đúng lúc đó, má tôi hỏi thăm Jenny. "Chuyến đi của cháu xuống đây tốt chứ?" "Dạ, tuyệt, và nhanh nữa ạ." "Oliver lái xe nhanh đấy" Ông già mặt lạnh xen vào. "Không nhanh bằng ba đâu" Tôi đáp lại. Ông ấy sẽ nói sao ? "Ừ, ta cũng cho là thế." Ba có dám cuộc không, ba? Má tôi, người luôn đứng về phía ông, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chuyển sang một
đề tài phổ quát hơn – âm nhạc hay nghệ thuật gì đó, tôi cho là vậy. Tôi không
để ý nghe kỹ. Sau đó, một tách trà được đưa đến tay tôi. "Cám ơn" Tôi nói, "Con phải đi sớm." "Hả?" Lời Jenny. Hình như họ đang nói về Picini gì đó, và lời phát
biểu của tôi, có vẻ bất ngờ. Má tôi nhìn sang tôi ( một chuyện khá hiếm hoi). "Nhưng con tới đây ăn cơm tối mà, đúng không?" "Ơ, không được má à." Cùng lúc đó, Jenny nói : "Dĩ nhiên là được." "Anh phải về" Tôi nghiêm trang bảo nàng. Jenny nhìn tôi kiểu : " Anh đang nói tầm phào gì thế?". Và ông già
lên tiếng. "Con phải ở đây ăn cơm. Đó là mệnh lệnh." Nụ cười giả tạo trên mặt
ông không làm giảm chút nào vẻ ra lệnh. Và tôi không bao giờ chịu thua cái
trò vớ vẩn đó, dù là của một tay vô địch Olympic đi nữa. "Chúng con không
thể, ba." "Chúng ta phải ở
lại, Oliver" Jenny nói. "Tại sao?"
Tôi hỏi. "Vì em đói bụng" Nàng đáp. Chúng tôi ngồi quanh bàn, ngoan ngoãn nghe lời cầu nguyện của Oliver III. Ông
kính cẩn cúi đầu. Má tôi và Jenny làm theo y chang. Tôi khẽ nghiêng đầu. "Cầu xin ban cho chúng con thức ăn và nhờ đó phục vụ người, cầu xin giúp
cho chúng con không hề lo âu vì các nhu cầu, mong muốn khác. Chúng con nguyện
cầu nhân danh cha và con và thánh thần. Amen." Chúa ơi, tôi đang bị tra tấn. Bộ ông ấy không thể bỏ qua lòng mộ đạo chỉ một
lần này hay sao? Jenny sẽ nghĩ gì? Trời, đúng là một cú quay ngược về thời
Trung cổ. "Amen" Lời của má tôi ( và của Jenny nữa, rất khẽ) . "Phát bóng đi !" Tôi la lên, làm ra bộ vui hí hửng. Hình như không có ai buồn cười cả. Ít nhất là vậy đối với Jenny. Nàng ngó lơ
không nhìn tôi. O.B. III liếc nhanh tôi. "Ta rất mong con thỉnh thoảng chơi bóng, Oliver." Chúng tôi không hoàn toàn im lặng trong khi ăn, nhờ tài năng đặc biệt của má
tôi với các câu chuyện vặt. "Thế ba má cháu ở Cranston hả Jenny?" "Gần như thế. Má cháu ở Fall River." "Họ Barrett có các cối xay bột ở Fall River" O.B. III nói. "Nơi họ bóc lột dân nghèo suốt nhiều thế hệ" O.B. IV nói thêm. "Vào thế kỷ 19" O.B. III nói thêm. Má tôi mỉm cười, rõ ràng là hài lòng với cú phản công của ông. Nhưng chưa đâu
! "Thế các kế hoạch tự động hóa cối xay thì sao?" Tôi phát bóng lại. Một thoáng yên lặng. Tôi chờ đợi một lời trả đũa gay gắt. "Uống cà phê nhé?" Alison Forbes Tipsy Barret nói. Chúng tôi lui vào thư viện, chờ đợi vòng đấu cuối. Jenny và tôi phải lên lớp
ngày mai, ông già có nhà băng và các thứ, và chắc chắn là Tipsy có một vài điều
gì đó để làm. "Cho đường chứ, Oliver ?" Má tôi hỏi. "Oliver lúc nào cũng uống có đường, em ạ." Ông già nói. "Cám ơn. Bữa nay thì không" Tôi nói, "Cà phê không thôi,
má." Ồ, mọi người chúng tôi đều đã cầm ly, và đang ngồi đó, ấm cúng, hoàn toàn
không có gì để nói với nhau. Vì vậy, tôi đưa ra một đề tài. "Jenny, nói cho anh biết - em nghĩ sao về đội quân Hòa bình?" Nàng nghiêng người sang tôi, nhưng từ chối hợp tác. "Ồ, anh chưa nói với chúng sao, O.B. ?" Má tôi hỏi. "Chưa tới lúc, em yêu" O.B.III đáp, với một vẻ vui vui giả tạo và hẳn
đang ngầm kêu lên " Hãy hỏi ta đi, hãy hỏi đi!" Thế nên tôi hỏi. "Đó là gì vậy, ba ?" "Không có gì quan trọng cả, con trai." "Không hiểu sao anh lại nói vậy" Má tôi thốt, và bà quay sang tôi,
thông báo với vẻ đầy quyền lực. (Tôi đã bảo bà đứng về phía ba tôi): "Ba con sẽ là chủ tịch đội quân Hoà bình." "Ồ." "Ồ" Jenny cũng kêu lên, nhưng với giọng khác hẳn, đầy vẻ vui sướng. Ba tôi vờ như hơi bối rối, còn má tôi thì hình như đang chờ tôi nghiêng đầu
thán phục. Nói cho cùng, đó đâu phải là chức Thống đốc.
"Xin chúc mừng, ông Barrett" Jenny nói.
"Vâng, chúc mừng , ba."
Má tôi vẫn còn nôn nao nói về chuyện đó.
"Má nghĩ đó là một kinh nghiệm rất tốt về giáo dục" Bà nói.
"Ồ vâng, đúng vậy" Jenny đáp.
"Vâng" Tôi nói, không tin tưởng mấy, " Chà, má làm ơn đưa lọ
đường cho con với."
|
Chương 8
"Jenny, nói cho cùng, đó đâu phải là Thống đốc!"
Cuối cùng, nhờ trời, chúng tôi đang quay ngược về Cambridge.
"Im lặng đi Oliver, lẽ ra anh nên nhiệt tình hơn mới phải."
"Thì anh đã chúc mừng đó."
"Anh không độ lượng gì hết."
"Vì Chúa, em còn mong đợi gì ở anh nữa đây?"
"Ôi trời, tất cả mọi chuyện làm em muốn bệnh."
"Cả hai chúng ta đều muốn bệnh" Tôi bổ sung. Sau đó, chúng tôi im lặng trong một đoạn đường dài, nhưng rồi tôi thấy có điều
gì trục trặc. "Tất cả mọi chuyện gì làm em muốn bệnh, Jen?" Tôi hỏi sau một lúc
trầm ngâm.
"Cái cách đối xử kinh tởm của anh đối với ba anh."
"Vậy còn cách đối xử kinh tởm của ông đối với anh thì sao?" Tôi đã chạm vào nơi nhạy cảm của nàng. Bởi vì Jenny bắt đầu có cảm giác bị tổn
thương trong tình cảm với gia đình họ đàng trai. Cái kiểu của một cô gái lai
Ý- Địa Trung Hải. Và tôi đã thiếu tôn trọng biết bao. "Anh gây khó dễ
cho ông ấy, gây khó dễ cho ông ấy."
"Cả hai bên đều vậy, Jen. Em không nhận ra à?"
"Em thấy anh không từ làm bất cứ chuyện gì, miễn là chọc tức được ba
anh."
"Không thể chọc tức được O.B.III đâu Jen."
Có một khoảnh khắc im lặng kỳ lạ trước khi nàng đáp lại:
"Có lẽ trừ phi anh cưới Jennifer Cavillery…"
Tôi cố giữ bình thản để tìm chỗ đậu xe trước một dãy quán ăn hải sản. Rồi tôi
quay sang nàng, nổi điên lên.
"Em nghĩ vậy thật sao?"
"Em nghĩ một phần nào đó là như vậy". Nàng lặng lẽ đáp.
"Jenny, em không tin là anh yêu em thật sao?" Tôi hét lên. "Có, nhưng ở một khía cạnh khùng điên nào đó, anh cũng yêu cả cái giai tầng
xã hội thấp kém của em." Tôi không nghĩ ra điều gì để nói ngoài chữ "không đâu". Tôi nói nó
nhiều lần, với nhiều giọng khác nhau. Nghĩa là, tôi vô cùng phiền muộn, thậm
chí tôi tự hỏi liệu có một chút xíu sự thật nào không trong câu nói tồi tệ của
nàng. Nhưng cả nàng cũng đâu có vui gì. "Em không phán xét, Oliver. Em chỉ nghĩ vậy thôi. Em muốn nói là em biết
rằng em không chỉ yêu anh, em yêu cả tên anh, yêu cả con số của anh." Nàng ngoảnh mặt ra chỗ khác, và tôi nghĩ là nàng sắp khóc. Nhưng nàng không
khóc, nàng nói tiếp :
"Nói cho cùng, đó là một phần của con người anh mà."
Tôi ngồi im một lúc, ngó ra một ngọn đèn néon lượn theo dòng chữ " Trai
& Hàu". Điều làm cho tôi yêu Jenny kinh khủng là khả năng nhìn vào nội
tâm tôi, hiểu được những điều tôi không cần phải thốt ra. Nàng vẫn đang nhìn
vào nội tâm tôi lúc này. Nhưng liệu tôi có thể đối diện nổi với sự thật là
tôi không hoàn hảo? Trời, nàng đã đối diện với sự không hoàn hảo của tôi, và
của riêng nàng. Trời, tôi cảm thấy mình thật đáng khinh.
Tôi không biết nói gì.
"Em có muốn ăn trai hoặc hàu gì đó không, Jen ?"
"Anh có muốn bị đấm vào mồm không, Ollie ?"
"Muốn" Tôi đáp.
Nàng co bàn tay lại thành một nắm đấm rồi gá nhẹ vào má tôi. Tôi hôn nó, và
khi tôi nhích người qua để ôm nàng, nàng giơ thẳng tay đẩy tôi ra, và hét lên
:
"Lái xe đi, công tử. Nắm lấy tay lái và phóng đi !"
Tôi làm. Tôi làm.
Lời chỉ trích của ba tôi liên quan đến cái mà ông gọi là tốc độ. Vội vàng. Hấp
tấp.Tôi không nhớ chính xác từ ông dùng. Nhưng tôi biết bài thuyết giáo của
ông trong buổi ăn trưa tại câu lạc bộ Harvard chủ yếu là về việc tôi tiến tới
quá nhanh. Ông xoa dịu bằng lời nhắc nhở tôi dùng thức ăn. Tôi nhã nhặn lên
tiếng, rằng tôi đã trưởng thành, rằng ông không nên chỉnh đốn, hoặc thậm chí
là phê phán những cách hành xử của tôi. Ông lý luận rằng cho dù là những nhà
lãnh tụ cỡ thế giới đôi khi cũng cần những lời phê bình xây dựng. Tôi cho là
ông có ngụ ý tới vai trò của ông ở Washington trong nhiệm kỳ thứ nhất
của Roosevelt. Nhưng tôi không định giúp cho ông hoài niệm về
F.D.Roosevelt, hoặc vai trò của ông trong việc cải tổ ngân hàng Mỹ. Vì vậy
tôi im lặng. Chúng tôi, như đã nói, đang ăn trưa trong câu lạc bộ Harvard, ở Boston.
(Tôi tiến hành quá nhanh, nếu bạn chấp nhận sự phỏng đoán của ba tôi). Có
nghĩa là vây quanh chúng tôi là những bạn bè, thân chủ, người ái mộ…vv…của
ông. Nghĩa là công việc này chán ngắt, nếu như đó là công việc. Nếu bạn thực
sự lắng nghe, bạn sẽ nghe thấy những câu thì thầm to nhỏ, ví dụ như : "
O.B. đi tới đó", hoặc " Đó là Barrett, nhà thể thao lớn". Đang có một hiệp đấu
khác trong cuộc đối thoại đầu Ngô mình Sở của chúng tôi. Chỉ có một điều là,
lần này, chủ đề câu chuyện rất hiển nhiên. "Ba, ba không nói một lời nào về Jenifer." "Có gì để nói? Con đặt chúng ta trước một việc đã rồi, không phải vậy
sao?" "Nhưng ba nghĩ sao?" "Ta cho là cô ấy đáng nể phục. Với một cô gái xuất thân như vậy mà len
lên tới đại học Radcliffe…" Bằng cái kiểu đánh trống lãng này, ông đã né tránh vấn đề. "Hãy đi thẳng vào vấn đề đi ba." "Vấn đề là cô gái ấy không có quan hệ gì trong việc này cả", ông
nói, "vấn đề là ở bản thân con." "Nghĩa là ?" "Sự chống đối của con" Ông nói, "Con đang chống đối, con trai ạ." "Ba, con không hiểu được vì sao cưới một sinh viên Radcliff xinh xắn
thông minh lại là sự chống đối. Cô ấy đâu phải loại gái hip-py." "Cô ấy không là nhiều thứ." A, chúng tôi đã đi tới điểm nút. Một sự hiển nhiên khốn kiếp. "Cái gì làm phiền ba nhất, vì cô ta theo đạo Thiên Chúa, hay vì cô ta
nghèo?" Ông đáp lời tôi bằng những tiếng thầm thì, người hơi ngã về phiá tôi. "Cái gì đã hấp dẫn con nhất ?" Tôi muốn đứng dậy, bỏ đi. Tôi bảo với ông điều đó. "Ở lại đây, và nói như một gã đàn ông", ông bảo. Để đối kháng lại cái gì ? Một cậu bé ? Một cô bé ? Một con chuột ? Dù sao,
tôi ngồi lại. Ông già tỏ vẻ hài lòng khi thấy tôi ngồi lại. Có thể nói, ông xem điều đó là
một trong những thắng lợi của ông đối với tôi. "Ta chỉ yêu cầu con chờ đợi một thời gian." "Hãy làm rõ nghĩa chữ "thời gian" đi ba." "Sau khi tốt nghiệp trường luật. Nếu đó là tình yêu thực sự, nó có thể
chịu được sự thử thách của thời gian." "Nó là thực sự. Nhưng vì cái quái gì con phải để cho thời gian thử
thách." Thế là rõ cả. Tôi nghĩ. Với ông, tôi đang vùng lên, chống lại ông. Chống lại
sự phán quyết của ông. Chống lại sự thống trị và kiểm soát một cách áp đặt của
ông lên cuộc đời tôi. Ông bắt đầu một hiệp đấu mới : "Oliver, con chưa trưởng thành." "Chưa trưởng thành là sao ?" Tôi mất bình tĩnh, thật là khốn kiếp. "Con chưa đủ 21 tuổi. Chưa là người thành niên theo pháp luật." "Quẳng cái pháp luật chết tiệt ấy cho rồi!" Có lẽ vài người bên cạnh nghe câu nói của tôi. Như để trừng phạt sự lớn tiếng
đó, O.B. III rót tới tai tôi những tiếng thì thào cay đắng: "Cưới nó đi, và ta không chúc phúc cho con trong ngày đó đâu." "Ba, ba sẽ không biết gì về ngày đó." Tôi đi, ra khỏi cuộc đời ông, và bắt đầu cuộc đời của riêng tôi.
Chương 9Giờ còn lại vấn đề ở Cranston, Rhode Island, một thành phố phía Nam
Boston. Sau thất bại thê thảm trong cuộc ra mắt Jennifer với ba má đàng trai,
tôi không còn chút xíu tự tin nào để trông mong một điều tốt đẹp trong cuộc gặp
gỡ với ba nàng. Tôi bị đè nặng dưới áp lực của một tình phụ tử kiểu Ý- Địa
Trung Hải, thêm nữa, Jenny là cô con gái rượu độc nhất của ông, thêm nữa,
nàng mồ côi mẹ, nghĩa là nàng vô cùng thân thiết gắn bó với cha. Nghĩa là tôi
sắp đương đầu với tất cả những áp lực tình cảm mà các sách vở tâm lý giáo
khoa đã mô tả.
Và thêm một điều, tôi hoàn toàn tay trắng.
Hãy cứ tưởng tượng một
anh chàng người Ý đẹp trai Olivero Barretto nào đó sẽ đổ bộ xuống Cranston.
Hắn tới gặp cụ Cavillery, đầu bếp chính một xưởng bánh ở đó, và nói với ông
ta: " Cháu muốn lấy con gái rượu của bác là Jennifer". Lời đầu tiên
ông già thốt lên sẽ là gì? (Ông chắc là không đặt vấn đề về tình yêu của gã
Barretto, vì nếu có ai đó biết Jenny, hẳn phải yêu Jenny thôi, đó là chân
lý). - Không, cụ Cavillery sẽ nói đại loại thế này : " Barretto, cậu sẽ
chăm sóc nó ra sao?" Và hãy hình dung phản ứng
của cụ Cavillery nếu Barretto bảo rằng, trái lại, ít nhất là trong ba năm tới,
con gái của ông sẽ phải chăm sóc cho chàng rể! Chả lẽ nào ông già lại không
đuổi cổ gã ra khỏi nhà, hoặc thậm chí tống cho vài nắm đấm, nếu cái gã
Barretto đó không to con bằng tôi!
Tôi dám cuộc mười ăn một là như thế.
Có thể cần giải thích vì sao tôi lại tuân thủ mọi biển hiệu về tốc độ tối đa
vào một buổi chiều Chủ nhật trong tháng Năm ấy, khi hai chúng tôi đang xuôi về
hướng Nam trên đường số 95. Tới một khúc đường, Jenny - đã trở nên thích thú
với kiểu chạy tốc độ của tôi - phàn nàn rằng tôi chạy ở vận tốc 40 trong một
cung đường cho phép tốc độ tối đa là 45 dặm/giờ. Tôi bảo nàng là chiếc xe cần
được sửa lại, nàng chẳng tin chút nào. "Nói lại anh nghe xem nào, Jen." Kiên nhẫn chẳng bao giờ là một đức tính của Jenny, và nàng từ chối lặp lại lời
đáp các câu hỏi ngốc nghếch để giúp tôi củng cố lòng tự tin. "Nào, chỉ một lần nữa thôi, Jen." "Em đã gọi cho ba. Em nói chuyện với ông. Ông bảo được. Bằng tiếng Anh,
vì, như em từng nói với anh mà anh không tin, rằng ông chả biết một tí quái
gì tiếng Ý ngoài vài câu chửi tục."
"Nhưng "được" là sao ?"
"Anh không định bảo là Khoa luật trường Harvard đã thu nhận một gã không
thể định nghĩa ngay cả từ "được" chứ ?" "Đây không phải là thuật ngữ pháp lý, Jenny." Nàng nắm tay tôi. Ơn Chúa, tôi hiểu. Nhưng dù sao, tôi vẫn cần sự phân loại.
Tôi cần phải biết tôi được đánh giá ra sao. "‘ Được’, nghĩa là em sẽ tự gánh chịu mọi trách nhiệm." Tim nàng chợt từ bi để lặp đi lặp lại lần thứ n các chi tiết trong cuộc trò
chuyện với ba nàng. Ông ấy rất sung sướng. Vâng, sung sướng. Khi tiễn chân
nàng lên học ở Radcliff, ông không bao giờ chờ đợi nàng sẽ quay về để lấy anh
chàng nhà bên cạnh ( kẻ đã từng hỏi cưới nàng ngay trước lúc nàng đi học).
Lúc đầu, ông ngờ vực khi biết người nàng dự định lấy chính là Oliver Barrett
IV. Rồi ông cảnh cáo nàng không được vi phạm điều răn thứ mười một của Thánh
kinh.
"Đó là điều răn gì ?" Tôi hỏi.
"Không được lừa dối ba anh. "
"Ồ."
"Chỉ có vậy thôi, Ollie. Thật đó."
"Ông ấy có biết anh nghèo ?"
"Biết."
"Ông ấy không quan tâm ?"
"Ít nhất anh và ba đã có một cái gì đó giống nhau."
"Nhưng chắc ông sẽ sung sướng hơn nếu anh rủng rỉnh một tí, phải không
?" "Thế anh thì sao ?" Tôi ngậm miệng suốt quãng đường còn lại. Nhà Jenny nằm trên đường Hamilton Avenue, một dãy dài những căn nhà gỗ nhỏ,
có đầy trẻ con trước cửa, và dăm cây cối khẳng khiu. Khi chạy dọc theo con đường
để tìm chỗ đậu xe, tôi có cảm giác như đang ở một đất nước nào xa lạ. Đầu
tiên là có thật nhiều người. Ngoài bọn nhóc đang chơi ddùa, còn có nhiều gia
đình kéo nhau ra ngồi cả ngoài cổng, rõ ràng là không có việc gì tốt hơn để
làm trong buổi chiều Chủ nhật ấy, ngoài việc nhìn ngó tôi tìm cách đậu chiếc
MG. Jenny nhảy ra trước. Nàng linh lợi một cách bất ngờ ở Cranston, chẳng khác
nào một con cào cào nhỏ. Khi các nhà quan sát viên đầu cổng nhìn thấy nàng, họ
đồng loạt reo hò. Hệt như chào một nhà lãnh tụ! Khi nghe tiếng reo chào mừng
đón Jenny của họ, tôi hầu như mắc cỡ, không dám ló ra khỏi xe. Đâu phải chỉ
trong thoáng chốc tôi đã có thể hóa thân thành chàng Olivero Barretto tưởng
tượng. "Ê, Jenny!" Tôi nghe giọng một người ddàn bà the thé hét gọi nàng một
cách vui vẻ. "Ê, bà Capodilupo" Tôi nghe Jenny đáp lại. Tôi đu ra khỏi xe. Hàng
chục đôi mắt dán vào tôi. "Nè, cậu nhỏ này là ai thế ?", bà Capodilupo la lên. Ở đây họ không
biết tế nhị là gì sao nhỉ ? "Anh ta chả là cái thá gì hết !" Jenny đáp. Điều này làm tôi thấy tự
tin hơn.
"Có thể" Bà Capodilupo lại hét, "Nhưng cô gái đi với anh ta thì
là chắc chắn là phải ngon lành há."
"Anh ấy biết" Jenny đáp.
Rồi nàng quay sang đáp lễ nhóm bà con lối xóm ở phía còn lại. "Anh ấy biết" Nàng nói với mọi người thuộc nhóm này. Rồi nắm lấy
tay tôi (tôi là một kẻ lạ ở thiên đường), nàng lôi tôi lên thang gác ngôi
nhà số 189 A đường Hamilton. Đó là một khoảnh khắc đầy bối rối. Tôi đứng sững người khi Jenny nói " Đây là ba em". Và Phil
Cavillery, một tay bự xự (nặng cỡ 75 ký, cao cỡ 1,8m), một mẫu đàn ông Rhode
Island trạc cuối tứ tuần, chìa tay ra cho tôi.
Chúng tôi bắt tay, và ông xiết rất mạnh tay tôi.
"Chào ông."
"Phil" Ông ấy chỉnh, "Ta là Phil."
"Dạ, ông Phil" Tôi lặp lại, tiếp tục bắt tay ông.
Vẫn còn là một phút giây đáng sợ. Bởi vì, lúc ấy, ngay sau khi Cavillery
buông tay tôi, ông quay sang cô con gái và đột ngột hét lớn : "Jennifer !" Trong một chớp mắt, không có gì xảy ra. Rồi họ ôm chặt nhau. Rất chặt. Xô tới
đẩy lui. Tất cả những gì ông già Cavillery có thể thốt nên lời là (giờ thì rất
nhẹ nhàng êm ái) lặp đi lặp lại tên con gái ; "Jennifer". Và tất cả
những gì cô sinh viên danh dự trường Radcliffe đáp lại là : "Phil".
Tôi đã xác định được mẫu người của ông già.
Có một cái thuộc thời niên thiếu đã giúp ích cho tôi trong chiều hôm ấy. Tôi
luôn luôn được giảng giải rằng không được nói chuyện khi mồm đang ngậm thức
ăn. Vì cả hai cha con cứ hợp lực nhau nhồi thức ăn vào miệng tôi, tôi chả cần
phải nói. Tôi đã ngốn một số lượng kỷ lục các thứ bánh ngọt Ý. Sau đó, khen
ngợi tí chút những món tôi thích nhất (Tôi ăn ít nhất là hai cái mỗi loại, vì
e rằng có thể làm mất lòng chủ nhà) trong niềm vui sướng của hai bố con.
"Cậu ấy được đấy" Phil Cavillery bảo con gái.
Có nghĩa là sao ?
Tôi không cần định nghĩa chữ "được". Đơn giản, tôi muốn chỉ biết
cái gì trong các ứng xử của tôi đã làm tôi hưởng được sự đánh giá tốt đẹp đó. Có phải tôi đã thích đúng một loại bánh nào đó? Tôi bắt tay có đủ chặt không
? Cái gì nhỉ? "Con đã bảo ba là anh ấy được, Phil" Cô con gái nói. "Ờ, được lắm" Ba nàng nói, "Ba vẫn phải tự mình xem xem thế
nào. Giờ thì ba thấy rồi. Oliver ?"
Ông ta đang hướng về tôi.
"Dạ, thưa ông ?"
"Phil !"
"Dạ, thưa ông Phil ?"
"Cậu được đấy." "Cám ơn ông. Cháu rất cảm kích. Thật thế. Và ông biết cháu nghĩ thế nào
về con gái ông rồi đó. Và ông nữa, thưa ông." "Oliver" Jenny ngắt lời tôi, "anh có ngưng lải nhải như một cậu
ấm chết tiệt ngu ngốc được không, và…" "Jenifer," Ông già ngắt lời, "Con nên tránh những câu xúc phạm.
Cậu ấy là khách." Vào buổi ăn tối (các món bánh hóa ra chỉ đơn giản là món ăn chơi) Phil cố
nói chuyện với tôi về một vấn đề nghiêm chỉnh- bạn biết đó là gì. Vì một vài
lý do quái lạ nào đó, ông nghĩ ông có thể tác động đến việc hàn gắn quan hệ
giữa O.B. III và O.B. IV.
"Để ta nói chuyện với ông ấy qua điện thoại, giữa hai người bố với
nhau" Ông nài nỉ.
|
"Xin đừng, Phil, chỉ mất thì giờ của bác."
"Ta không thể ngồi yên để nhìn một người bố từ bỏ một đứa con. Không thể
được."
"Vâng. Nhưng cả cháu cũng từ bỏ ông ấy nữa."
"Đừng bao giờ để ta nghe thấy những lời như thế" Ông nói, thật sự nổi
nóng, "Tình thương của một người cha phải được đền đáp lại bằng thương
yêu và tôn trọng. Nó rất hiếm hoi."
"Đặc biệt trong gia đình cháu." Tôi đáp.
Jenny đi lên đi xuống để phục vụ, nên nàng không tham gia vào câu chuyện.
"Hãy gọi cho ông ấy" Phil lặp lại, "ta sẽ lo liệu chuyện
này."
"Không, Phil, cháu và ba cháu đã ngừng liên lạc."
"Hừ, nghe này, Oliver, ông ấy sẽ cởi mở. Hãy tin ta khi ta bảo cháu ông ấy
sẽ cởi mở. Khi đã đến giờ vào nhà thờ…"
Vào đúng lúc đó, Jenny, đang bê một chồng đĩa trống, thì thào nói với ông :
"Phil…"
"Gì hả, Jen ?"
"Chuyện nhà thờ ấy…"
"Sao ?"
"Ơ, chả hay ho gì, Phil"
"Hả ?" Cavillery thốt lên. Rồi, nhảy ngay đến một kết luận sai lầm,
ông quay sang tôi, có vẻ hối lỗi :
"Ta, ờ, không có ý nói cần phải là nhà thờ Thiên Chúa giáo đâu, Oliver.
Ý ta là, chắc Jenifer đã nói với cháu rồi, chúng ta là tín đồ Thiên Chúa.
Nhưng ta muốn nói là nhà thờ của cháu, Oliver. Chúa sẽ ban phúc lành cho sự kết
hợp này ở bất cứ nhà thờ nào. Ta thề là như vậy."
Tôi nhìn sang Jenny. Nàng đã quên đề cập đến vấn đề quan trọng này với ông
già qua điện thoại.
"Oliver," Nàng giải thích, " Có quá nhiều chuyện chết tiệt phải
đánh đổ ông ấy ngay lúc đó."
"Hừm, đánh đổ ta, đánh đổ ta, bọn nhóc này, ta muốn đánh đổ mọi thứ
trong cái đầu bé nhỏ của con thì có."
Tại sao chính vào lúc ấy, ánh mắt tôi nhìn lên bức tượng Đức Mẹ đồng trinh
Mary đặt trên kệ của phòng ăn ?
"Về chuyện Chúa ban phúc ấy mà, Phil..." Jenny quay mặt đi nơi
khác.
"Ừ, sao hả, Jen ?" Phil hỏi, lo âu.
"Ờ, chả hay ho gì chuyện đó, Phil" Nàng nói, nhìn tôi đăm đăm chờ sự
ủng hộ, mà ddôi mắt tôi đang cố gửi đến cho nàng.
"Về Chúa? Về Chúa của bất cứ ai ?"
Jenny gật đầu.
"Cháu có thể giải thích không Phil" Tôi nói.
"Xin mời."
"Cả hai chúng cháu không ai tin cả, Phil. Và chúng cháu không thể đạo đức
giả được."
Tôi nghĩ ông hiểu, vì chính tôi nói ra điều đó. Có lẽ, ông sẽ đánh Jenny.
Nhưng giờ đây, ông trở thành một người ngoại quốc già nua. Ông không nhìn ai
trong hai đứa chúng tôi.
"Thế cũng tốt." Ông nói sau một lúc rất lâu. Thế ta có thể biết ai
sẽ đứng ra cử hành hôn lễ không?"
"Chúng cháu" Tôi đáp.
Ông nhìn con gái để xác minh. Nàng gật đầu. Lời phát biểu của tôi chính xác.
Sau một hồi lâu im lặng, ông lại nói :
"Thế cũng tốt."
Và ông hỏi tôi, vì như dự định của tôi là hành nghề luật, vậy một đám cưới
như kiểu đó có – dùng từ thế nào nhỉ- hợp pháp không?
Jenny giải thích rằng một hôn lễ như thế sẽ có giáo sĩ của trường đứng ra làm
chủ hôn. (Chà, giáo sĩ – Phil lẩm bẩm. Còn chúng tôi thì nhìn nhau.)
"Cô dâu có phát biểu chứ ?" Ông hỏi, như thể đây là cú ân huệ chót
mà ông có thể bám víu được trong tất cả mọi chuyện liên quan.
"Phil," Jenny nói, "chả lẽ ba có thể tưởng tượng được ở một
tình huống như vậy mà con gái ba có thể ngậm câm như hến hay sao?"
"Không, bé con" Ông đáp, hơi mỉm cười, "Ta cho là con phải
phát biểu."
Khi chúng tôi quay về Cambridge, tôi hỏi Jenny nàng nghĩ sao về mọi chuyện vừa
qua.
"Được." Nàng đáp. Chương 10 Ngài William F.
Thompson, Trưởng phòng hành chánh Trường Luật, không tin được tai mình:
"Tôi không nghe lầm chứ, cậu Barrett ?"
"Dạ không, thưa ông Thompson."
Nói ra lần đầu tiên không phải dễ dàng, nhưng lặp lại cũng chả dễ hơn tí nào
:
"Tôi cần có học bổng cho năm sau, thưa ông."
"Thật vậy ư ?"
"Đó là lý do tôi tới đây, thưa ông. Ông phụ trách vấn đề trợ giúp tài
chính, phải không ông Thompson ?"
"Phải, nhưng chuyện này hơi kỳ. Ba cậu…"
"Ông ấy không còn liên quan gì nữa, thưa ông."
"Xin lỗi ?" Ngài Thompson tháo cặp kính ra và khởi sự chùi nó với
chiếc cà vạt của ông ta.
"Ông ấy và tôi có sự bất đồng ý kiến."
Ngài Thompson mang lại kính, nhìn tôi với vẻ thản nhiên vô cảm mà muốn thể hiện
nó, ít nhất bạn phải là một trưởng phòng.
"Thật không may, cậu Barrett. " Ông ta nói. Cho ai chứ? Tôi muốn hỏi.
Lão này bắt đầu tìm cách tránh né rồi đây.
"Dạ vâng, thưa ông. Rất không may. Nhưng vì thế mà tôi tới đây nhờ ông,
thưa ông. Tháng sau tôi sẽ cưới vợ. Cả hai chúng tôi sẽ làm việc suốt hè. Và
Jenny, vợ tôi, sẽ xin một chỗ dạy tại một trường tư thục. Đó là vì cuộc sống,
nhưng vẫn chưa đủ để đóng học phí. Học phí của ông khá cao, thưa ông
Thompson."
"Ừ, ừ, phải," Ông ta đáp. Nhưng chỉ có thế. Lão này có hiểu tôi
đang nói gì không? Dù sao thì ông ta nghĩ tôi tới đây để làm cái quái gì chứ?
"Ông Thompson, tôi muốn có học bổng" Tôi lặp lại lần thứ ba,
"Tôi hoàn toàn không có gì ở ngân hàng cả, và tôi đã được chấp nhận vào
trường."
"À, phải." Ông ta nói, dùng một mánh khóe khác. " Hạn chót để
xin trợ cấp đã qua từ lâu rồi."
Phải làm sao để vừa ý lão ta đây? Có lẽ phải là các chi tiết đẫm máu chăng ?
Ông ta muốn loại scandal nào?
"Ông Thompson, khi tôi đề nghị, tôi không biết nó đã hết hạn, thưa
ông."
"Hoàn toàn đúng là hết hạn, cậu Barrett, và tôi phải báo cho cậu biết rằng
tôi không nghĩ là văn phòng này nên can dự vào một tranh chấp gia đình. Đó là
một vấn đề khá rắc rối."
"Thôi được, ông Trưởng phòng." Tôi đứng lên, "Tôi hiểu ông muốn
lái vấn đề tới đâu rồi, nhưng tôi sẽ không nịnh hót ba tôi để ông có cơ hội
kiếm một toà hội trường Barrett cho trường luật đâu."
Khi quay gót, tôi nghe lão thì thào : "Thật không công bằng."
Tôi không đồng ý. Chương 11 Jenny nhận bằng tốt
nghiệp hôm Thứ tư. Mọi bà con quyến thuộc của nàng từ Cranston, Fall
River – và thậm chí cả một bà cô từ Cleveland – cùng kéo tới Cambridge để
dự lễ. Như đã xếp đặt trước, tôi không được giới thiệu là vị hôn phu của
nàng, và Jenny không đeo nhẫn, để tránh làm mọi người bị sốc (quá sớm) vì sẽ
không được dự lễ cưới của chúng tôi.
"Cô Clara, đây là bạn cháu, Oliver" Jenny nói, và luôn luôn không
quên nhấn mạnh, "Anh ấy đã tốt nghiệp đại học."
Có nhiều lời xầm xì đàm tiếu, và cả phê phán công khai, nhưng không ai moi
móc được thông tin gì cụ thể từ hai đứa chúng tôi, hay từ Phil, người mà tôi
đoán chắc là vui mừng vì không phải thảo luận về tình yêu giữa những kẻ vô thần.
Thứ năm kế đó, tôi cũng nhận bằng của trường Harvard, trở thành người ngang
vai phải lứa với Jenny. Ngoài ra, tôi là trưởng lớp, nên có nhiệm vụ dẫn đầu
các sinh viên tốt nghiệp tới chỗ ngồi. Nghĩa là dẫn đầu cả những tay cừ khôi,
trí tuệ. Tôi hầu như muốn nói với mấy tên đó, rằng vai trò của tôi là bằng cứ
xác đáng chứng minh hùng hồn cho lý thuyết của tôi, đó là một giờ ở Dillon
Field House đáng giá gấp hai ở thư viện Widener. Nhưng tôi cố kềm chế. Hãy để
niềm vui trọn vẹn cho tất cả.
Tôi không rõ O.B. III có mặt hay không. Có tới hơn 3.000 người tụ tập ở sân
trường Harvard từ sớm, và tất nhiên tôi không thể dùng ống dòm để điểm mặt từng
người một. Mặt khác, tôi đã trao hai suất vé người nhà cho Phil và Jenny. Dĩ
nhiên, với tư cách cựu sinh viên, ông già mặt lạnh có thể vào, và ngồi chung
với lớp niên khoá ’26. Nhưng ông ấy chắc gì muốn làm chuyện đó? Tôi muốn nói,
chả lẽ các ngân hàng phải đóng cửa sao?
Lễ cưới tiến hành vào ngày Chủ nhật, tại Giáo đường Phillips Brooks, một nhà
thờ cũ kỹ nằm ở phía bắc khuôn viên Harvard. Chúng tôi không mời bà con thân
hữu của Jenny, vì không muốn họ phiền lòng khi thấy chúng tôi chả thiết tha
gì đến Cha, Con và Thánh thần của Thiên Chúa giáo. Timothy Blauvelt, cha xứ của
trường, làm chủ hôn. Lẽ tự nhiên là Ray Stratton phải có mặt, tôi cũng mời
thêm Jeremy Nahum, một gã bạn học cũ tốt bụng ở Exeter, gã kéo theo một
cô bạn gái tên Amherst. Jenny mời một bạn gái ở Briggs Hall, và có lẽ vì
tình cảm, cô bạn học cao kều cùng ngồi ở bàn đăng ký mượn sách. Và dĩ nhiên
là có Phil.
Tôi giao Ray nhiệm vụ chăm sóc cho Phil. Nghĩa là, cố làm cho ông cảm thấy
thoải mái. Gã Straton này đâu có được đức tính kiên nhẫn đó ! Cả hai bác cháu
họ ngồi loay hoay, bứt rứt, người này lặng lẽ gửi tới người kia những phát biểu
không lời : " Cứ coi như là dđám cưới của chính ta đi! (nếu như Phil
nói) , và nó sẽ là (nếu như Stratton nói) "một pha trình diễn vô cùng
kinh khủng!" Vì lát nữa, tôi và Jenny sẽ trao gửi cho nhau vài lời khuôn
mẫu. Chúng tôi đã có dịp xem người ta làm thế nào vào đầu xuân ấy, trong đám
cưới của Marya Randall, một cô bạn cùng nhóm nhạc của Jenny, với một sinh
viên khoa thiết kế tên là Eric Levenson. Đó là một điều tuyệt diệu, và đã gợi
cho chúng tôi nhiều ý tưởng.
"Hai bạn đã sẵn sàng chưa ?" Cha Blauvert hỏi.
"Dạ đã." Tôi đáp thay cho cả hai.
"Các bạn," Cha Blauvert nói với mọi người, "chúng ta hiện diện
tại đây, để chứng kiến sự kết hợp hai cuộc đời trong hôn lễ. Hãy cùng lắng
nghe những lời mà họ đã chọn để nói với nhau trong buổi lễ thiêng liêng
này."
Cô dâu nói trước. Jenny đứng đối diện với tôi và đọc lại câu thơ nàng đã cất
công tuyển chọn. Nó rất sống động, đặc biệt đối với tôi, vì đó là một bài
sonnet của Elizabeth Barrett :
"Hồn ta kề cận bên nhau
Lặng im đối diện ta trao ân tình
Mãi khi lửa cháy tan tành…"
Qua khóe mắt, tôi trông thấy Phil Cavillery, xanh xao nhợt nhạt, mắt mở to ngạc
nhiên và cảm động. Chúng tôi nghe Jenny đọc đoạn cuối khúc sonnet, ở một ý
nghĩa nào đó, là một lời nguyện ước :
" Một nơi ta vẫn yêu thương
Ngày kia khi bóng tối buông quanh mình
Và chuông tử biệt ngân vang."
Rồi tới lượt tôi. Thật khó tìm được một đoạn thơ nào để tôi đọc mà không đỏ mặt.
Tôi không thể nào đứng đó, trích ngâm những câu ron ren hoa gấm. Không thể được.
Nhưng rồi một đoạn trong Bài ca của con đường của Walt Whitman, dù khá ngắn
ngủi, đã thay tôi nói nên lời:
"…Ta trao em tay ta.
Ta trao em tình ta quí hơn tiền bạc.
Ta trao em chính bản thân ta, trước tôn giáo và luật pháp
Em có trao tặng ta bản thân em ? Em có cùng ta lãng du.
Mãi mãi bên nhau trọn đời trọn kiếp ?"
Tôi kết thúc, và trong phòng rộn lên tiếng vỗ tay vui vẻ. Rồi Ray Stratton
đưa cho tôi chiếc nhẫn. Jenny và tôi – hai đứa – đọc lời thề ước - từ giờ trở
đi, cả hai sẽ yêu thương gắn bó bên nhau, cho đến lúc cái chết chia lìa đôi lứa.
Và với thẩm quyền đã được Nhà Chung Massachusetts ban, Cha Timothy Blauvert tuyên
bố chúng tôi là vợ chồng.
Hồi nhớ lại, "cái trò lễ lộc" của chúng tôi (như Stratton nói) rõ
là chơi mà thật, thật mà chơi. Jenny và tôi không đãi sâm-panh, và vì khá ít
người, chúng tôi có thể cùng ngồi ở một phòng nhỏ, chúng tôi tới uống bia ở
quán của Cronin. Tôi nhớ, Jim Cronin đã xếp cả đám thành một vòng tròn để
chúc mừng "vận động viên hockey vĩ đại nhất từ thời anh em nhà
Cleary" .
"Tầm bậy", Phil cự lại, đấm tay xuống mặt bàn, "Nó bảnh hơn tất
cả anh em nhà Cleary cộng lại". Ý của ông là, (tôi tin ông chưa hề trông
thấy một trận đấu hockey ở Harvard), dù cho Bobby hoặc Billy Cleary trượt khá
thế nào, chả ai trong hai người cưới được cô con gái rượu yêu quí của ông. Tất
cả chúng tôi đều say khướt.
Tôi để cho Phil thanh toán tiền, một quyết định mà sau đó đã khơi gợi ở Jenny
một lời chúc tụng hiếm hoi về tình trạng không tiền đóng học phí của tôi
("Anh sẽ thành người đấy, công tử" . Lúc tàn cuộc, khi chúng tôi
đưa ông ra xe bus, cũng hơi lâm ly chút xíu. Nghĩa là, đẫm nước mắt. Của ông,
của Jenny, và có lẽ cả của tôi nữa. Tôi không nhớ gì ngoài một điều là lúc ấy
thật ướt át.
Dù sao, sau mọi câu cầu chúc, Phil cũng bước vào xe bus. Chúng tôi chờ và vẫy
tay chào ông cho đến khi chiếc xe đã khuất khỏi tầm mắt. Và khi đó, tôi nhận
ra một thực tế tuyệt vời.
"Jenny, chúng ta đã chính thức kết hôn rồi."
"Vâng, giờ thì em đã là một mụ nạ dòng." Chương 12 Nếu có một cụm từ nào
diễn tả được cuộc sống hàng ngày của chúng tôi trong suốt quãng thời gian ba
năm đầu, cụm từ đó phải là: "khổ như ăn mày". Hàng giây hàng phút,
chúng tôi căng đầu nhức óc để bằng cách chết tiệt nào đó thu vén đủ tiền để
làm những gì cần thiết phải làm. Thường là chúng tôi bị vỡ kế hoạch. Và chả
có gì là lãng mạn trong chuyện này. Bạn có nhớ khổ thơ nổi tiếng trong trường
thi Omar Khayyam? Bạn biết không, thơ ca phải đặt dưới củi lửa, bánh mì, rượu
vang các thứ. Thay vào thơ, là quyển Scotts on trusts, và để xem cái viễn tượng
đẹp đẽ đó so với sự tồn tại thơ mộng của tôi sẽ ra sao. A ha, thiên đường đấy
chứ? Không, chả ra cái quái chi. Tất cả những gì tôi nghĩ, là cuốn sách đó
giá bao nhiêu, có thể mua nó theo kiểu second-hand không? Và chúng tôi lấy
đâu ra tiền để thanh toán các thứ bánh mì, rượu vang. Và rồi chúng tôi cuối
cùng phải chạy vạy thế nào để trả lại các khoản nợ nần.
Cuộc sống đã đổi thay. Ngay cả những quyết định đơn giản nhất cũng phải đặt
dưới sự phán xét thận trọng của một ủy ban ngân sách trong đầu.
- Nè, Oliver, tối nay đi xem Becket nhé.
- Tới ba đô lận đó.
- Ý anh là sao ?
- Ý anh là tốn một đô rưỡi cho anh và một đô rưỡi cho em.
- Nghĩa là đi hay không ?
- Không cái này mà cũng chẳng cái kia. Chỉ đơn giản là tốn ba đô.
Tuần trăng mật của chúng tôi diễn ra trên một chiếc thuyền buồm, cùng với hai
mươi mốt đứa trẻ con. Tôi lái một chiếc thuyền hiệu Rhodes dài 36 feet từ 7
giờ sáng cho tới khi nào kiếm đủ số lượng hành khách, và Jenny trở thành một
nhà tư vấn cho trẻ em. Đó là một nơi thuộc Câu lạc bộ thuyền Pequod ở cảng
Dennis (cách không xa Hyanis), một tòa kiến trúc bao gồm một khách sạn to, một
bến thuyền và vài chục căn nhà cho thuê. Trước một trong những túp nhà gỗ tí
hon, tôi đóng đinh treo lên một tấm biển đầy ấn tượng: "Đây là nơi
Oliver và Jenny ngủ, khi họ không làm tình". Tôi cho là đã có một sự tưởng
thưởng cho hai đứa chúng tôi sau một ngày tỏ ra tốt bụng với các khách hàng
nhỏ tuổi, vì chúng tôi nhờ cậy vào món tiền boa của chúng rất nhiều, đó là dù
sao chúng tôi cũng tốt với nhau. Tôi chỉ đơn giản nói "tốt" vì tôi
không đủ ngôn từ để diễn tả sự đáng yêu của Jenny và tình thương tôi dành cho
nàng. Xin lỗi, ý tôi muốn là dành cho bà Jennifer Barrett. Trước lúc chuyển đến Mũi Cape, chúng tôi tìm được một căn hộ cho thuê giá rẻ ở
Bắc Cambridge, dù về mặt hành chánh, địa chỉ lại thuộc thị trấn Someville.
Căn hộ ở tình trạng, như lời Jenny, "hoàn toàn không thể sửa sang".
Trước đây, nó được thiết kế cho hai hộ gia đình, nhưng nay được tách thành bốn
căn, giá cả quá mức chấp nhận dù gọi là cho thuê giá rẻ. Nhưng các sinh viên
vừa tốt nghiệp còn làm được cái quái gì hơn ? Đây là một thị trường của bọn
con buôn. "Chà, Oliver, sao anh nghĩ Phòng cứu hỏa không chịu tới đây?"
"Có lẽ họ sợ phải đi vào bên trong" Tôi đáp.
"Em cũng vậy."
"Giờ đâu còn là Tháng Sáu" Tôi nói.
(Cuộc đối thoại này xảy ra vào tháng 9)
"Khi ấy em chưa lập gia đình. Với tư cách một bà vợ mà nói, em thấy ở
đây chả có chút xíu an toàn nào."
"Thế em định làm gì với nó ?"
"Bảo với chồng em. Anh ấy có trách nhiệm coi sóc nó."
"Chà, chồng em chính là anh chứ ai nhỉ!"
"Thật vậy sao ? Hãy chứng minh điều đó." "Bằng cách nào ?" Tôi hỏi, và thầm nhủ : Ồ, không được, ngay trên
đường phố? "Bế em lên ngưỡng cửa." Nàng đáp. Okay. Tôi ôm nàng trong vòng tay và bế bổng nàng trèo lên năm bậc thang tới cửa
vào.
"Sao anh dừng lại?" Nàng hỏi.
"Đây không phải là ngưỡng cửa sao?"
"Không phải, không phải."
"Anh thấy tên chúng ta kế chuông gọi cửa." "Đây không phải là ngưỡng cửa chính. Leo lên tiếp đi, chàng gà tồ ạ." Có tới 24 bậc thang để lên đến ngưỡng cửa chính của vợ chồng tôi, và tôi phải
dừng lại ở chặng giữa đường để thở hào hển một hồi.
"Sao em nặng thế nhỉ?" Tôi hỏi nàng.
"Anh có nghĩ là em có thai không ?" Nàng đáp.
Điều này chẳng làm cho tôi thấy dễ thở hơn chút nào hết.
"Vậy sao?" Cuối cùng tôi cũng nói.
"Ha, em làm anh sợ hở?"
"Khô.. ông."
"Đừng có chối, công tử."
"Vâng. Chờ đó một giây, anh bế tiếp đây."
Tôi bế nàng đi hết chặng còn lại.
Đó là một trong những khoảnh khắc quý báu tôi có thể nhớ lại, mà từ "khổ
như ăn mày" không thích hợp chút nào. Cái danh hão thuộc dòng họ Barrett của tôi giúp tôi mua chịu được ở một cửa
hàng thực phẩm, nơi không hề bán chịu cho bất cứ sinh viên nào khác. Và ở một
nơi tôi ít mong chờ nhất, lại tạo thêm một bất lợi cho chúng tôi: trường tư
thục Shady Lane, nơi Jenny sẽ đến dạy. "Dĩ nhiên là lương ở trường Shady Lane không bằng các trường công."
Cô Anne Miller Whitman, hiệu trưởng bảo vợ tôi, và để tạo hiệu quả, bà nói
thêm, " Nhưng người nhà Barrett, dù sao, cũng đâu có lưu tâm đến khía cạnh
này." Jenny cố đánh tan ảo tưởng của cô ta, nhưng tất cả những gì nàng
nhận được, ngoài khoản lương đề nghị trước 3.500 đô một năm, là hai phút cười
hố hố. Cô Whitman cứ tưởng Jenny giễu cợt khi bảo rằng hai vợ chồng nhà
Barrett vẫn phải trả tiền thuê nhà như mọi người. Khi Jenny thuật lại mọi chuyện cho tôi nghe, tôi cố tưởng tượng lại điều mà
cô Whitman đã làm với Jenny: "Hô hô hô – chỉ có 3.500 đô " Sau đó,
Jenny hỏi tôi có thể bỏ học ở trường luật, giúp đỡ nàng có thì giờ lấy thêm
các chứng chỉ cần thiết để xin vào làm ở một trường công. Tôi suy nghĩ về
toàn bộ hoàn cảnh lúc bấy giờ trong khoảng hai giây, để có một kết luận chính
xác và cô đọng.
"Con khỉ !"
"Khá hùng biện đấy!" Vợ tôi nói.
"Anh phải nói gì đây, Jenny , "hô hô hô "?"
"Không, chỉ cần tập thích spaghetti."
Và tôi đã tập. Tôi đã tập để thích spaghetti, và Jenny học mọi kiểu chế biến
có thể nghĩ ra để làm cho món mì Ý trở thành một món gì đó khác. Với tiền
chúng tôi kiếm được trong kỳ nghỉ hè, lương của nàng, khoản kiếm thêm từ những
buổi làm đêm ở bưu điện trong dịp lễ Giáng sinh của tôi, chúng tôi sống cũng
tạm ổn. Nghĩa là, có rất nhiều bộ phim chúng tôi không xem (và nhiều buổi hòa
nhạc nàng không xem), nhưng chúng tôi đã hòa hợp với nhau. Dĩ nhiên là mọi chuyện rồi cũng kết thúc. Cuộc sống của hai chúng tôi có nhiều
thay đổi. Chúng tôi vẫn ở Cambridge, và về lý thuyết, Jenny có thể quay trở lại
chơi cùng ban nhạc của nàng. Nhưng không có thì giờ. Nàng từ trường Shady
Lane trở về, kiệt sức, còn phải nấu nướng cho buổi cơm chiều (ăn tiệm là chuyện
ngoài tầm tay). Đồng thời, lũ bạn bè của tôi khá hiểu biết để chúng tôi được
yên thân. Có nghĩa là bọn chúng không mời mọc chúng tôi, để tôi khỏi phải mời
mọc lại, hẳn là bạn hiểu tôi muốn nói gì.
Ngay cả các trận đấu bóng chúng tôi cũng bỏ qua.
Vì là thành viên của Câu lạc bộ Varsity, tôi được ngồi trong lô đặc biệt,
Nhưng giá vé là 6 đô, cho cả hai là 12 đô.
"Không đâu" Jenny lý sự, "chỉ 6 đô thôi. Anh có thể đi một
mình. Em đâu có biết gì bóng đá, trừ lời hò hét của khán giả: "Dập chúng
nữa đi", thứ mà anh thích, thứ mà em muốn anh tiến hành!" "Phiên tòa chấm dứt." Tôi đáp, nhân danh một đức ông chồng và một vị
gia trưởng, "Ngoài ra, anh sẽ có thêm thì giờ để học." Tuy vậy, tôi vẫn dành ra buổi chiều Thứ bảy, với chiếc radio sát bên tai, để
nghe tiếng gầm hét của đám ủng hộ viên, đám người về mặt địa lý chỉ cách chỗ
tôi chừng một dặm, nhưng giờ đã thuộc một thế giới khác hẳn thế giới của tôi. Tôi đã dùng đặc quyền của mình tại Câu lạc bộ Varsity để kiếm vài chỗ ngồi
trong trận ở Yale cho Robbie Wald, một anh bạn học luật. Khi Robbie rời nhà
tôi, đầy lòng biết ơn, Jenny hỏi tôi có thể cho nàng biết ai được quyền ngồi ở
lô của CLB Varsity, và một lần nữa tôi lặp lại với nàng rằng, đó là những người
bất kể tuổi tác hay dáng vóc hay địa vị, đã vinh dự phục vụ cho trường
Harvard trong thi đấu thể thao.
"Kể cả dưới nước?" Nàng hỏi.
"Vận động viên vẫn là vận động viên, dù là khô hay ướt."
"Trừ anh ra, Oliver" Nàng nói, "Anh đã bị đóng băng."
Tôi phớt lờ câu chuyện, cho rằng đó chỉ đơn giản là một câu đối đáp mang chút
xúc động thoáng qua mà Jenny thường có, không muốn nghĩ nhiều hơn ám chỉ của
nàng về truyền thống thể thao của Harvard. Ví dụ như một chi tiết nhỏ là dù
cho sân vận động Chiến sĩ có sức chứa 45.000 người, mọi cựu vận động viên có
thể ngồi ở lô đặc biệt. Tất cả. Già và trẻ. Ướt và khô - thậm chí bị đông cứng.
Và có đơn giản là chỉ vì 6 đô mà tôi phải xa lánh sân vận động trong những
chiều thứ Bảy? Không; Nếu trong đầu nàng còn nghĩ điều gì khác nữa, tốt hơn tôi vẫn không
nên đá động làm gì. Chương 13 Ông và Bà Oliver
Barrett III
Hân hạnh được đón tiếp quý bạn
tại buổi tiệc mừng sinh nhật thứ sáu mươi
của Ông Barrett III.
Ngày Thứ bảy, 6 tháng 3
Lúc 7 giờ
Dover House, Ipswich, Massachusetts
Xin hồi âm.
"Thế nào?" Jenny hỏi.
"Em còn phải hỏi?" Tôi đáp. Tôi đang chìm trong đám sương trừu tượng
của cuốn Nhà nước chống Percival, một tiền lệ pháp quan trọng của luật hình.
Jenny phe phẩy tấm thiệp mời như để trêu tôi.
"Em nghĩ đã tới lúc rồi, Oliver" Nàng nói.
"Để làm gì ?"
"Anh biết rõ là làm gì," Nàng đáp, "Chả lẽ ông ấy phải bò lê tới
đây sao?"
Tôi tiếp tục công việc.
"Oliie, ông ấy đang muốn dàn hòa."
"Vớ vẩn, Jenny, địa chỉ trên phong bì do má anh ghi."
"Em nghĩ lúc nãy anh bảo anh không nhìn đến nó cơ mà." Nàng cao giọng
kêu lên.
Okay. Tôi đã liếc nó lúc nãy. Có lẽ nó tự động lướt vào đầu tôi. Nói cho
cùng, tôi đang nghiên cứu, và sắp sửa thi. Lẽ ra nàng đừng nên quấy rầy tôi.
"Oliie, nghĩ xem", nàng tiếp, giọng van nài khẩn khoản, "60 tuổi.
Cuối cùng, đến lúc mà anh chịu sẵn lòng, thì chắc gì ông ấy còn sống để gặp
anh."
Tôi bảo Jenny, với những lời lẽ đơn giản nhất, rằng sẽ không có cuộc trùng
phùng nào cả, và nàng có chịu để cho tôi tiếp tục học hay không. Nàng lặng lẽ
ngồi xuống, co người nép vào chân tôi. Dù nàng không lên tiếng nữa, tôi nhanh
chóng nhận ra nàng đang nhìn tôi đăm đăm. Tôi ngẩng đầu lên.
"Một ngày nào đó, khi anh bị Oliver V chọc tức …" Nàng nói.
"Nó sẽ không được gọi là Oliver, chắc chắn như thế." Tôi quát lên.
Nàng không hề cao giọng, dù trước nay, nàng vẫn làm thế khi tôi cao giọng :
"Nghe này, Oliie, dù mình đặt tên nó là Bozo gì đi nữa, thằng nhóc nhất
định sẽ làm anh phật ý, vì anh là một vận động viên lớn của Harvard. Và trước
khi nó học năm thứ nhất, anh hẳn phải vào Tòa thượng thẩm rồi!"
Tôi bảo nàng rằng con chúng tôi tuyệt đối không làm tôi phật ý. Nàng hỏi sao
tôi có thể chắc chắn như thế. Tôi không thể đưa ra chứng cứ. Tôi muốn nói là,
tôi chỉ đơn giản biết rằng con trai tôi sẽ không làm phật ý tôi, tôi không thể
lý giải chính xác vì sao. Jenny nhận xét :
"Ba anh cũng yêu anh, Oliver. Ông ấy yêu anh giống hệt như cách anh sẽ
yêu Bozo. Nhưng họ Barrett chết tiệt nhà anh quá đỗi tự phụ và hiếu thắng. Cả
đời ông ấy và anh cứ nghĩ là người này ghét người kia."
"Thế đối với em không phải vậy sao ?" Tôi cố pha trò.
"Vâng."
"Phiên tòa kết thúc!" Tôi nói, nhân danh một ông chồng và một vị
gia trưởng. Ánh mắt tôi quay về quyển sách. Jenny đứng lên. Nhưng khi ấy nàng
sực nhớ một điều :
"Còn vấn đề phúc đáp thì sao ?"
Tôi gợi ý rằng một sinh viên khoa nhạc Racliffe hẵn là có đủ khả năng viết một
thư từ chối mà không cần tới một hướng dẫn chuyên môn nào.
"Nghe này, Oliver, có thể trong đời em có những khi nói dối hay trêu tức
người khác. Nhưng em chưa bao giờ cố tình làm tổn thương bất cứ một ai. Em
nghĩ là em không làm được."
Thật sự, vào lúc ấy, nàng đã làm tổn thương chính tôi, tôi nhã nhặn yêu cầu
nàng giải quyết chuyện hồi âm bằng bất cứ cách nào nàng muốn, miễn sao nói được
nội dung cơ bản của thông điệp, là chúng tôi sẽ không đến, trừ khi chạch đẻ
ngọn đa. Rồi tôi lại quay về với quyển sách.
"Số điện thoại ?" Nàng dịu dàng hỏi tôi khi đến bên điện thoại.
"Em viết mấy chữ thôi không được sao?"
"Để em bớt căng thẳng chút đã. Điện thoại số mấy?"
Tôi bảo cho nàng biết, và ngay tức khắc trở lại việc nghiên cứu. Tôi không để
ý nghe nàng. Nghĩa là tôi cố không nghe. Dù sao thì nàng đang ở cùng phòng.
"Ồ, chào ông." Tôi nghe nàng nói. Ông già Khốt đang nói với nàng ư
? Ông ấy không ở Washington sao? Một bài báo gần đây trên tờ New York Times
viết như vậy mà. Đám báo chí chết tiệt thời buổi này đã xuống dốc quá rồi.
Bao lâu nữa nàng sẽ bảo là không?
Dù sao, Jenny đã mất khá nhiều thời gian hơn cần thiết để nói ra một từ đơn
giản.
"Olliie ?"
Nàng che đầu ống nói lại.
"Oliie, có buộc phải từ chối không ?"
Tôi gật đầu, ra dấu đó là điều bắt buộc, tôi khoát tay, ra dấu nàng nên nhanh
nhanh kết thúc cái chuyện khốn kiếp ấy đi.
"Tôi rất lấy làm tiếc," Nàng nói vào điện thoại, "Ý tôi là,
chúng tôi rất tiếc, thưa ông…"
Chúng tôi! Nàng có cần phải lôi tôi vào vòng không? Sao nàng không đi thẳng
vào vấn đề và gác máy?
"Oliver !"
Nàng lại che ống nói, và kêu to với tôi.
"Ông ấy bị thương, Oliver ! Anh có thể ngồi đấy mặc cho ba anh đổ máu
sao ?"
Nếu nàng không quá xúc động như thế, tôi đã giải thích cho nàng nghe lần nữa,
rằng đá không thể đổ máu, rằng nàng không nên đem mức độ tình cảm giữa cha
con nàng với nhau ra để đo lường với chiều cao của đỉnh Rushmore. Nhưng nàng
quá đỗi buồn rầu. Và điều này làm tôi cũng buồn lây.
"Oliver," Nàng nài nỉ, "Anh không thể nói dù chỉ một lời
sao?"
Với ông ta ? – Chắc là nàng mất trí rồi.
"Ý em là, chỉ cần một tiếng hello, được chứ ?"
Nàng đưa điện thoại cho tôi, cố không bật khóc.
"Anh không bao giờ nói với ông ấy. Không bao giờ ." Tôi nói, tuyệt
đối lạnh lùng.
Và bấy giờ nàng khóc. Không thành tiếng, nhưng nuớc mắt chảy dài trên má. Và
nàng van nài.
"Hãy vì em, Oliver. Em chưa bao giờ yêu cầu anh điều gì cả. Hãy vui
lòng."
Ba người chúng tôi. Ba người chúng tôi đứng đó (tôi tưởng như ba tôi cũng
đang đứng đó) để chờ đợi một cái gì. Cái gì ? Cho tôi ?
Tôi không thể.
Jenny có hiểu nàng đã yêu cầu một điều bất khả thi? Lẽ ra tôi đã làm một điều
gì hoàn toàn khác hẳn?
Khi tôi nhìn xuống sàn nhà, lắc đầu kiên quyết khước từ, và vô cùng khó chịu,
Jenny nói với tôi bằng những tiếng thì thầm đầy phẫn nộ mà tôi chưa bao giờ
nghe thấy :
"Anh là một gã không có trái tim" Nàng nói, rồi kết thúc cuộc điện đàm với cha tôi:
"Ông Barrett. Oliver muốn ông biết theo cái kiểu riêng đặc biệt của anh ấy,
rằng…"
Nàng ngưng lại để thở. Nàng đang nức nở, vì vậy đó không phải là chuyện dễ
dàng. Tôi quá ngạc nhiên để có thể làm bất cứ chuyện gì ngoài việc chờ đợi
câu kết thúc.
"Oliver rất yêu ông." Nàng kết thúc, và vội vàng gác máy.
Tôi hoàn toàn không định hướng được hành động của mình trong một giây kế tiếp.
Tôi cầu cho mình tạm thời mất trí. Đúng hơn, tôi không cầu gì cả. Tôi sẽ
không bao giờ tha thứ cho những gì tôi đã làm.
Tôi giật chiếc thoại khỏi tay nàng, và khỏi ổ quay, ném nó vào một góc phòng.
"Khốn kiếp thật, Jenny. Sao cô không biến khỏi đời tôi cho rảnh mắt
!"
Tôi đứng lặng người, hồng hộc thở như đột nhiên biến thành một con dã thú. Lạy
Chúa. Chuyện chết tiệt gì đã xảy ra cho tôi vậy? Tôi quay lại phía Jenny.
Nhưng nàng đã đi rồi.
Nàng đã đi xa hẳn không biết từ lúc nào, vì tôi thậm chí không nghe tiếng bước
chân của nàng trên các bậc thang. Chúa ơi, chắc là nàng đã bỏ chạy lúc tôi vồ
lấy chiếc điện thoại. Chiếc áo khoác và khăn quàng cổ của nàng vẫn còn đây. Nỗi
đau vì không biết phải làm gì càng gia tăng vì nỗi đau khi nhận thức ra những
gì tôi đã làm.
Tôi tìm kiếm khắp nơi.
Trong thư viện trường Luật, tôi lách vào những hàng ghế đầy những sinh viên
đang học miệt mài, mỏi mắt dò tìm. Đi qua đi lại, đi tới đi lui, ít nhất cả
chục lần. Dù tôi không thốt một tiếng nào, tôi biết mắt mình đang quắc lên
sòng sọc, nét mặt mình hung dữ như thú đói mồi. Tôi đang quậy tung lên cái
nơi khốn kiếp này. Nhưng có hề gì chứ ?
Nhưng Jenny không ở đấy.
Rồi tôi đi qua Khu công cộng Harkness, nhà khách, quán café. Rồi chạy điên cuồng
sang Hội trường Agassiz bên trường Radcliffe. Không nơi nào có. Giờ thì tôi
chạy khắp mọi nơi, những bước chân cố nhanh lên, nhanh mãi, như nhịp đập trái
tim tôi.
Hay ở Paine Hall ? (cái tên nghe sao mà ddau khổ!). Ở tầng dưới là phòng tập
piano. Tôi biết mỗi khi Jenny buồn giận, nàng hay gõ phím như người ta giã gạo.
Phải ở đó không? Nhưng nàng đã sợ chết khiếp vì tôi, sao có thể ngồi đàn?
Tôi đi như một gã điên khùng dọc hành lang, dọc các căn phòng tập, ở cả hai
phía. Những khúc nhạc của Mozart, Batok, Bach, Brahms vẳng ra, trộn lẫn thành
một âm thanh kỳ quái và kinh khủng.
Jenny hẳn phải tới đây!
Bản năng thúc đẩy tôi dừng lại trước một cánh cửa khi tôi nghe tiếng gõ đàn dồn
dập một dạo khúc của Chopin. Tôi đứng yên một lúc. Tiếng đàn rất ầm ĩ, ngừng,
rồi lặp lại, và nhiều lỗi. Trong một lần ngưng, tôi nghe tiếng một cô gái lầm
bầm : "Con khỉ !". Chắc chắn là Jenny rồi. Tôi xô bật cánh cửa bước
vào.
Một nữ sinh Racliffe ngồi bên chiếc ddàn ngẩng nhìn tôi. Một con nhỏ hippie xấu
xí, vai to, đang bực mình vì sự xâm nhập của tôi.
"Có chuyện gì vậy, ông anh?" Cô ta hỏi.
"Tệ ơi là tệ." Tôi đáp, và đóng cửa lại.
Và tôi thử tới công viên. Quán Pamplona, Cổng vòm của Tommy, cả Hayes Bick.
Đó là những nơi mấy tay nghệ sĩ hay lui tới. Chẳng có gì.
Jenny đã đi đâu ?
Lúc ấy, ga xe điện ngầm đã đóng cửa, nhưng nếu nàng đi thẳng qua ngõ công
viên, nàng có thể đón tàu đi Boston. Tôi vọt tới trạm xe buýt.
Lúc tôi nhét mấy đồng xu vào máy điện thoại, đã gần một giờ khuya. Tôi đang ở
trong một phòng điện thoại ở công viên Harvard.
"Hello, Phil ?"
"Hả, ai đó ?" Ông hỏi lại, giọng ngái ngủ.
"Con đây, Oliver đây."
"Oliver !" Giọng ông có vẻ lo sợ, "Jenny có bị gì không?"
Ông hỏi nhanh. Nếu ông hỏi tôi, nghĩa là nàng không ở với ông.
"À , không, không đâu Phil."
"Tạ ơn Chúa ! Con khỏe không, Oliver?"
"Tốt, Phil. Rất tốt. Phil, Jenny có thường gọi cho ba không ?"
"Không đủ, khốn kiếp thật." Ông đáp, giọng nhẫn nhục lạ lùng.
"Ý ba là sao Phil ?"
"Lạy Chúa, nó phải gọi thường xuyên hơn mới phải. Ba đâu phải là người lạ."
Nếu bạn biết thế nào là vừa an ủi, vừa đau đớn cùng một lúc, thì tôi đang như
vậy đó.
"Nó có ở đó không ?" Ông hỏi tôi.
"Dạ ?"
"Đưa máy cho nó. Ta sẽ trách mắng chính nó."
"Không được, Phil."
"Ồ, nó ngủ rồi hả. Nếu nó ngủ, thôi đừng quấy rầy nó vậy."
"Dạ." Tôi đáp.
"Nghe này, chàng trai."
"Dạ ?"
"Bộ Cranston xa xôi lắm hay sao mà con không ghé được vào một chiều chủ
nhật nào đó, hả ? Hay ba phải lên chỗ các con, Oliver ?"
"Ồ, không, Phil, tụi con sẽ xuống chỗ ba."
"Chừng nào ?"
"Một Chủ nhật nào đó."
"Đừng có nói chữ "nào đó" với ba. Một đứa con ngoan không nói
"ngày nào đó". Nó nói "này". Chủ nhật này nhé,
Oliver?"
"Dạ vâng, thưa ba. Chủ nhật này."
"Bốn giờ nhé. Nhưng nhớ lái cẩn thận đấy. Được chứ?"
"Dạ được."
"Và lần sau gọi cho đúng giờ giấc đó, đồ chết tiệt!"
Ông gác máy.
Tôi đứng lặng, cô đơn lạc lõng, chìm trong bóng tối công viên, không biết phải
đi đâu, phải làm gì kế tiếp. Một gã da màu đi tới gần, và hỏi tôi có cần gì
không. Tôi đáp, lòng trống vắng: "Không, cám ơn ông."
Giờ đây, tôi không chạy nữa. Vội gì đâu khi quay trở về ngôi nhà trống rỗng?
Đêm đã sâu lắm, và tôi lạnh cóng người (dù trời ấm áp, xin hãy tin tôi). Khi
cách ngôi nhà khoảng vài chục thước, tôi cho là tôi trông thấy có ai đó đang
ngồi trên đầu cầu thang. Chắc là mắt tôi đã đánh lừa tôi, vì cái hình dáng đó
không hề động đậy.
Nhưng đó là Jenny.
Nàng ngồi đó, trên đầu cầu thang.
Tôi mệt đến không còn hoảng sợ, và thấy lòng nhẹ nhỏm hẳn đi đến không nói
nên lời.
Thâm tâm tôi mong nàng có một thứ đồ vật gì đó để đập vào tôi.
"Jen ?"
"Ollie ?"
Cả hai đứa chúng tôi nói rất khẽ khàng. Không thể viết được thêm một cái gì cảm
động.
"Em bỏ quên chìa khóa."
Tôi đứng dưới chân cầu thang, không dám hỏi nàng đã chờ ở đó bao lâu, chỉ biết
mình đã mắc sai lầm kinh khủng với nàng.
"Jenny, anh xin lỗi…"
"Thôi anh !" Nàng cắt ngang lời xin lỗi của tôi, rồi lặng lẽ nói tiếp,
" Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói mình hối tiếc."
Tôi trèo lên các bậc thang, tới chỗ nàng ngồi.
"Em muốn đi ngủ, Oliver."
"Okay."
Chúng tôi đi lên nhà. Khi cởi đồ, nàng nhìn tôi, khuyến khích :
"Em muốn cái em đã nói, Oliver. "
Và đó là tất cả. Chương 14 Lá thư tới vào tháng Bảy.
Nó được gửi tới cảng Dennis từ Cambridge, vì thế tôi đoán là thư đến chỉ
trong vòng một hai ngày. Tôi vọt ra chỗ Jenny đang giám sát bọn học trò của
nàng chơi đá bóng, và gọi nàng với giọng ngọt ngào nhất :
"Ta đi đi em."
"Hả ?"
"Ta đi đi." Tôi lặp lại, đầy vẻ quyền uy, nên nàng đi theo khi tôi
bước về phiá bờ nước.
"Có tin gì hả Oliver ? Nói cho em nghe đi nào."
Tôi dẫn nàng đi tiếp vào chỗ đậu thuyền.
"Lên thuyền đi, Jenny." Tôi ra lệnh, chỉ về hướng chiếc thuyền với
tay đang cầm lá thư, mà tới khi đó nàng vẫn chưa để ý tới.
"Oliver, em còn phải coi lũ trẻ." Nàng phản đối, ngay cả lúc ngoan
ngoãn bước lên thuyền.
"Oliver, anh nói xem có chuyện gì vậy?"
Chúng tôi đã cách bờ vài trăm thước.
"Anh có chuyện này muốn nói với em."
"Anh không thể nói trên đất liền sao?" Nàng hét lớn.
"Không, chết tiệt vậy đó." Tôi cũng hét lớn ( Không có ai giận hờn
chi cả, nhưng gió mạnh, nên chúng tôi phải hét lên mới nghe rõ lời nhau ).
"Anh muốn ở một mình với em. Hãy nhìn xem anh có cái gì này."
Tôi giơ phong thư ra cho nàng. Ngay tức khắc, nàng đọc ra địa chỉ nơi gửi.
"Ồ, trường luật Harvard. Anh bị đuổi học à ?"
"Đoán lại đi, em bé lạc quan" Tôi hét.
"Anh đứng nhất lớp." Nàng đoán.
"Không hoàn toàn như vậy. Thứ ba."
"Ồ, chỉ thứ ba thôi ?"
"Nghe này, thế nghĩa là anh vẫn được nêu tên trong Law Review."
Nàng vẫn ngồi im, vẻ thản nhiên.
"Lạy Chúa, Jenny" Tôi van vỉ. "Hãy nói gì đi."
"Không, nếu em chưa nhìn thấy con số 1 hoặc 2."
Tôi nhìn nàng, hy vọng nàng sẽ mỉm cười, một nụ cười nàng đang cố nén lại,
tôi biết.
"Cười lên nào, Jenny" Tôi cầu khẩn.
"Em đi đây, chào nhé." Nàng nói, và ngay lập tức nhảy xuống nước.
Tôi nhảy theo nàng, điều tôi biết kế đó là cả hai bám vào lườn chiếc thuyền
và cười như điên dại.
"Nào, leo lên thuyền đi." Tôi nói, ranh mảnh nhìn nàng.
"Đừng vội huênh hoang, hạng ba vẫn chỉ là hạng ba thôi."
"Nghe đây, cô ả." Tôi nói.
"Gì vậy, chàng ngốc ?"
"Anh nợ ơn em rất nhiều." Tôi nói chân thành.
"Không đúng, chàng ngốc ạ, không đúng."
"Không đúng ?" Tôi hỏi lại, hơi ngạc nhiên.
"Anh nợ em mọi thứ." Nàng nói.
Đêm hôm đó, chúng tôi bỏ ra 23 đô cho một buổi tiệc tôm hùm tại một quán độc
đáo ở Yarmouth. Jenny vẫn bảo lưu phán quyết của nàng cho tới lúc nào
nàng biết được ai là người, như lời nàng, đã "đánh bại" tôi.
Nói nghe hơi ngớ ngẩn, tôi yêu nàng đến nỗi khi vừa về tới Cambridge,
tôi vội tìm xem hai tay đứng đầu là ai. Tôi thấy khuây khỏa khi phát hiện ra
người đạt hạng nhất là Erwin Blasband, Khoá ’64 trường City College, một kiểu
sinh viên mọt sách, đeo kính cận, không thể thao chút nào và nhất là không phải
mẫu thần tượng của Jenny. Kẻ đạt hạng nhì là Bella Landau, Khoá ’64 trường
Bryn Mawr, một cô gái. Điều này thật là tuyệt, nhất là Bella Landau trông khô
như ngói (như phần đông các quý cô học luật), và tôi có thể kể cho Jenny nghe
một cách chi tiết về những gì xảy ra trong buổi tối ở Gannett House, tòa lầu
của tờ Law Review. Lạy Chúa, đó là những đêm về muộn. Tôi đâu có hay về vào
lúc hai hoặc ba giờ sáng. Sáu đêm, để biên tập tờ Law Review, tôi là tác giả
của một bài báo (Hỗ trợ pháp lý cho dân nghèo thành thị – Một đề tài nghiên cứu
tại quận Roxbury- thực hiện bởi Oliver Barrett IV, 3/1966, trang 861-908 ).
"Một bài viết khá. Thực sự rất khá."
Đó là tất cả những gì Joel Fleishman, tổng biên tập, lặp đi lặp lại. Thực
tình, tôi mong chờ một lời đánh giá cụ thể hơn ở người sẽ là thư ký cho Thẩm
phán Doughlas vào năm sau, nhưng đó là những gì anh ta nói khi đang xem lại bản
thảo hoàn chỉnh của tôi. Chúa ơi, Jenny đã bảo tôi, nó "sắc sảo, thông
minh, và thực hay ". Chả lẽ Fleishman không theo kịp ?
"Fleisman nói đó là một bài khá, Jenny."
"Lạy Chúa, em chờ đến giờ này để nghe chỉ bao nhiêu đó thôi ư ? Ông ấy
có phê bình về mặt khảo cứu, hay về văn phong gì khác không ?"
"Không, Jen, anh ta chỉ nói nó khá."
"Vậy anh làm gì mà về muộn thế ?"
Tôi nháy mắt với nàng.
"Anh có vài chuyện phải làm với Bella Landau."
"Ồ." Nàng nói. Tôi không xác định được giọng nàng biểu thị điều gì.
"Em có ghen không ?"
"Không, em có đôi chân đẹp hơn."
"Nhưng em có viết được một bài báo không ?"
"Cô ta có làm được món lasana không"?
"Vâng," Tôi nói, " Thực sự, hồi nãy ở Gannett House trông cô
ta lôi cuốn lắm. Mọi người đều bảo chân cô ta cũng đẹp không kém của em
đâu."
Jenny gật đầu : " Em sẽ đánh cuộc."
"Thế em bảo sao nào ?"
"Bella Landau có trả tiền thuê nhà cho anh không?"
"Chết tiệt, chả lẽ anh không thể thôi thuê khi anh đã khấm khá ?"
"Bởi vì, anh ạ," Vợ yêu của tôi đáp, "Anh chưa bao giờ khấm
khá cả." Chương 15 Chúng tôi hoàn thành
khoá học theo thứ tự đó.
Nghĩa là, tôi, Erwin và Bella là ba sinh viên đỗ đầu của Khoa luật. Thời vẻ
vang thắng lợi đã đến. Nào phỏng vấn. Nào Thư đề nghị. Nào những lời nài nỉ.
Hàng đống hàng khối việc làm đang chào mời hứa hẹn. Như thể ở bất cứ phía nào
tôi nhìn tới cũng đều có ai đó đang vẫy lá cờ với hàng chữ: " Barrett,
hãy làm việc cho chúng tôi !"
Nhưng tôi chỉ hướng về những lá cờ xanh. Không phải là tôi ngu ngốc, nhưng
tôi loại trừ các chỗ làm nhiều danh vọng, ví dụ như thư ký tòa án, hay một
công sở, như Sở Tư pháp. Tôi ưu tiên cho một công việc kiếm nhiều tiền, để sớm
tẩy sạch cái cụm từ "khổ như ăn mày" khỏi vốn từ vựng chết tiệt của
chúng tôi.
Dù chỉ đứng thứ ba, tôi có những thuận lợi bất ngờ trong việc cạnh tranh một
chỗ làm, vì trong số top ten tốt nghiệp luật, chỉ có mình tôi không phải là
người Do Thái. Lạy Chúa, có đến một tá công ty rối rít mong một tay người
Anglo Saxson chính gốc. Và hãy xem lại trường hợp của tôi : Law Review, All
Ivy, Harvard, và còn nữa, bạn biết rồi đó. Hàng ddàn người đang tranh nhau để
có tên và con số của tôi trong danh sách nhân viên của họ. Tôi thấy mình như
một em bé được nưng niu chiều chuộng, và tôi yêu những giây phút ấy.
Có một thư mời đặc biệt đến từ một công ty ở Los Angeles. Người tuyển dụng,
Mr - viết cho tôi : " Bé nhà Barrett, ở địa hạt chúng tôi, lúc nào
cũng có cái đó ! Đêm hay ngày. Thậm chí, chúng tôi có thể yêu cầu mang nó đến
văn phòng."
Không phải chúng tôi thích ở California, nhưng tôi muốn biết đích xác Mr -.
muốn trao đổi với tôi về vấn đề gì. Tôi và Jenny đã đến Los Angeles với nhiều
hăm hở, nhưng ở đấy dường như họ không hăm hở lắm. (Cuối cùng, tôi gạt Mr___
ra sau lưng khi bảo ông ta tôi cóc cần quan tâm đến "cái đó" tí
nào. Trông ông ta tiu nghỉu như gà bị cắt tiết.)
Thực sự, chúng tôi quyết định sẽ ở East coast. Chúng tôi vẫn còn nhiều lời mời
hấp dẫn khác từ Boston, New York và Washington. Jenny cho là về thủ đô có thể
tốt hơn cho tôi (Anh có thể vào Nhà trắng, Oliver), nhưng tôi nghiêng về phía
New York. Và thế là, với lời chúc lành của nàng, cuối cùng tôi nhận lời với
công ty của Jonas và Marsh, một công ty nhiều uy tín (Marsh là một cựu luật
sư trưởng), và có một định hướng rất dân chủ (Anh có thể làm việc tốt và kiếm
nhiều tiền ngay – Jenny nói). Họ cũng rất trọng vọng tôi. Ông già Jonas đã
lên Boston, mời chúng tôi đi ăn tối ở Pier Four, và ngày hôm sau còn gửi hoa
tặng Jenny nữa.
Trong khoảng một tuần, Jenny cứ ca hát véo von mấy chữ "Jonas, Marsh và
Barrett". Tôi bảo nàng đừng vội hí hửng thế, nàng đáp lại là tôi cũng
đang hí hửng đấy thôi, vì có lẽ trong đầu tôi cũng đang ca hát những giọng điệu
tựa như nàng. Bạn thấy đâu cần tôi phải nói ra là nàng nói đúng, phải không ?
Cho tôi lưu ý bạn, rằng Jonas and Marsh trả cho Oliver Barrett IV khoản lương
11.800 USD, cao nhất so với các bạn tốt nghiệp cùng khóa của tôi.
Thế nhưng bạn biết, về mặt học thuật, tôi chỉ đứng thứ ba. Chương 16 ĐỔI ĐỊA CHỈ
Kề từ ngày 1/7/1967
Ông bà Oliver Barrett IV
Dời về số 263 Khu Đông Đường 63rd
New York, NY 10021
"Nghe có vẻ trưởng giả học làm sang quá." Jenny phàn nàn.
"Đúng thế, chúng ta là trưởng giả học làm sang mà." Tôi bảo.
Sự kiện chi phí hàng tháng cho chiếc xe mới của tôi xuýt xoát với tiền thuê
toàn căn hộ ở Cambridge càng làm tăng cảm giác thắng lợi của tôi.
Công ty Jonas & Marsh chỉ cách chỗ tôi 10 phút đi bộ (hay nói chính xác
hơn là đi khệnh khạng), và các cửa hiệu sang trọng như Bonwitt's vv…cũng cách
xa nhà tôi từng ấy. Tôi khăng khăng bảo vợ tôi mở tài khoản và bắt đầu tiêu
xài ngay lập tức.
"Vì sao vậy, Oliver ?"
"Vì anh muốn được tôn trọng, Jenny."
Tôi gia nhập câu lạc bộ Harvard ở New York theo đề nghị của Raymon Straton, vừa
mới quay trở về cuộc sống dân sự sau khi đã bắn vài phát súng vào những tay
VC (Tao không chắc đó có phải là VC không nữa. Tao nghe tiếng động, và tao xả
súng vào bụi rậm- Hắn kể) Ray và tôi cùng chơi squash it nhất ba lần mỗi tuần,
và tôi tự nhủ sẽ dành ra ba năm để đạt chức vô địch câu lạc bộ. Không hiểu chỉ
đơn giản vì tôi lại lê la trên lãnh địa Harvard, hay là vì lời đồn đại về những
thành công tôi đạt được sau khi ra trường, lũ bạn bè tôi một lần nữa lại tề tựu
về. (Tôi không hề khoe khoang về lương tháng đâu, thật đấy). Chúng tôi dọn tới
vào giữa mùa hè (Tôi phải dự một khóa tập huấn để thi lấy chứng chỉ luật sư ở
New York) và lá thư mời đầu tiên là rủ chúng tôi đi chơi cuối tuần.
"Thôi đi, Oliver. Em không muốn phí hai ngày với lũ bạn bè thô lỗ ấy
đâu."
"Được rồi, nhưng anh phải nói sao với tụi nó đây Jen?"
"Bảo họ là em đang có mang."
"Thật hả ?"
"Không, nhưng nếu mình ở nhà thì có thể lắm chứ."
Chúng tôi đã chọn được một cái tên. Có nghĩa là, cuối cùng, tôi đã được sự đồng
ý của Jenny.
"Nè, em không cười chứ ?" Tôi hỏi nàng khi thảo luận chuyện này lần
đầu tiên. Lúc đó, nàng đang đứng trong bếp (một căn phòng với màu vàng chủ đạo,
và thậm chí có cả một cái máy rửa chén).
"Cái gì ?" Nàng vừa hỏi, vừa tiếp tục xắt cà chua.
"Anh thích cái tên Bozo thật đó."
"Anh nói nghiêm chỉnh chứ ?"
"Vâng, thật mà."
"Anh tính đặt tên con là Bozo ?" Nàng lặp lại câu hỏi.
"Vâng, thật đấy, Jenny. Đó là một cái tên siêu hạng đấy."
"Bozo Barrett." Nàng lặp lại, thử đo lường tầm cỡ cái tên.
"Chà, nó sẽ là một thằng nhóc ngon lành đó." Tôi nói tiếp, tự củng
cố niềm tin của mình với từng từ một. "Bozo Barrett, một cầu thủ tranh
bóng cừ khôi của đội All Ivy trường Harvard."
"Vâng, nhưng mà, anh à," Nàng hỏi, "giả sử, chỉ giả sử thôi,
thằng nhóc không thích hợp thì sao?"
"Không thể có chuyện đó đâu em, gien của tụi mình tốt lắm mà. Thật
đó." Tôi nói, chân thành. Cái vụ Bozo này đã trở thành giấc mơ ban ngày
thường trực của tôi những lúc tôi đi bộ một cách tự hào đến nơi làm việc.
Tôi nhắc lại vấn đề vào bữa ăn tối. Chúng tôi đã mua mấy món đồ sứ Đan Mạch
thật tuyệt.
"Bozo sẽ là một tay bự xự và chơi thể thao ra trò đấy." Tôi bảo
nàng. "Nếu mà nó có đôi bàn tay giống em, mình sẽ cho nó chơi vị trí hậu
vệ."
Nàng chỉ mỉm một nụ cười nhiều ẩn ý, chắc chắn là đang tìm kiếm một lý lẽ gì
đó để dập tắt viễn tượng tươi sáng của tôi. Nhưng vì không tìm ra một nhận
xét thật sự thuyết phục, nên nàng chỉ cắt chiếc bánh và đưa cho tôi một miếng.
Rồi tiếp tục nghe tôi vẽ vời.
"Hãy nghĩ mà xem, Jenny," Tôi nói tiếp, miệng còn đầy bánh, "Một
thằng nhóc cân nặng một trăm lẻ tám ký lô!"
"Một trăm lẻ tám ký à? Gien chúng mình chả đủ để bảo đảm chuyện đó đâu
anh."
"Mình sẽ bồi dưỡng nó, Jenny. Thức ăn giàu đạm, các thứ đồ bổ, cả một khẩu
phần bổ sung nữa."
"Ờ, thế giả dụ nó không ăn thì sao anh?"
"Nó phải ăn. Mẹ kiếp!" Tôi đáp, hơi nản lòng vì thằng bé chẳng bao
lâu nữa sẽ cùng ngồi chung bàn ăn với chúng tôi, có thể chả tích cực hợp tác
trong kế hoạch của tôi, nhằm làm cho nó thành nhà vô địch thể thao, tí xíu
nào- "Nó phải ăn, không thì anh đập vỡ mặt nó ra!"
Ngay lúc ấy, Jenny nhìn thẳng vào mắt tôi, mỉm cười:
"Thế nếu nó nặng một tạ mốt, anh vẫn đập chứ ?"
"Ồ!"- Tôi hơi xìu xuống, rồi lấy lại bình tĩnh ngay, "nhưng nó
không thể nặng như vậy ngay lập tức!"
"Phải, phải." Nàng nói, vung vẩy chiếc muỗng về phía tôi,
"Nhưng đến lúc ấy, công tử ạ, bắt đầu co chân chạy là vừa đấy !" Rồi
nàng phá ra cười .
Thật khôi hài. Trong lúc nàng đang cười ngặt nghẽo, tôi đã nhìn thấy viễn cảnh
một thằng nhóc nặng gần một tạ mốt mặc tả lót, vừa rượt theo tôi ở Công viên
Central Park, vừa gầm lên : " Ông phải cư xử tốt với mẹ tôi nghe chưa,
công tử!" Chúa ơi, hy vọng là Jenny sẽ ngăn Bozo lại, không thì chắc tôi
tiêu tùng. Chương 17 Có một em bé không phải
là chuyện dễ dàng.
Tôi muốn nói, có một nỗi đau đối với những kẻ mà năm đầu tiên trong đời sống
gia đình cố làm sao để tránh cho người vợ mang thai (khi tôi khởi sự, tôi
cũng mang bao phòng ngừa) rồi thay đổi hoàn toàn ý định của mình và bị ám ảnh
bởi một lo âu ngược lại.
Vâng, điều này có khả năng trở thành một sự ám ảnh. Và nó có thể tước đoạt đi
những khía cạnh đẹp đẽ nhất của niềm hạnh phúc lứa đôi, đó là sự tự nhiên và
không gò bó. Nghĩa là, phải "lập chương trình" cho ý nghĩ của bạn
("lập chương trình" đúng là một từ không hay ho gì cả, vì nó gợi
cho người ta liên tưởng đến một cỗ máy nào đó) – Cái sự vụ ấn định chương
trình cho ý nghĩ về hành vi yêu đương theo những nguyên tắc, những thứ lịch,
những kế hoạch (ví dụ như : "Sáng mai có lẽ tốt hơn đấy, Oliver")
là cội nguồn của vô số điều bất tiện, đáng ghét và cuối cùng là sự kinh
hoàng.
Bởi vì, khi bạn thấy rằng những kiến thức học lóm đâu đó và các cố gắng về thể
chất thông thường không đạt được chút kết quả nào trong việc sinh con đẻ cái,
đầu óc bạn sẽ chứa toàn những ý nghĩ ảm đạm buồn rầu.
"Tôi chắc là cậu hiểu, Oliver, rằng việc vô sinh và khả năng tình dục
không có liên quan gì với nhau cả" – Lời của bác sĩ Mortimer Sheppard
trong cuộc tư vấn đầu tiên, khi tôi và Jenny cuối cùng quyết định là cần phải
có sự tư vấn của một chuyên gia. "Anh ấy hiểu mà, bác sĩ " – Jenny đáp thay cho tôi, biết rằng ý niệm
về việc vô sinh – về khả năng có thể bị vô sinh của tôi, đối với tôi chẳng
khác gì bị hủy diệt, dù tôi chưa bao giờ nói với nàng tí gì về chuyện này. Phải
chăng, qua giọng nói của nàng, Jenny thậm chí còn mong mỏi rằng nếu như khám
phá ra một sự thiểu năng nào đó, thì đó là do ở bản thân nàng? Nhưng vị bác sĩ đã đơn giản lật ngửa bài với chúng tôi, bảo cho chúng tôi biết
điều xấu nhất, trước khi tiếp tục nói rằng vẫn còn một khả năng to lớn là cả
hai đứa chúng tôi vẫn hoàn hảo, rằng có thể chẳng bao lâu chúng tôi sẽ trở
thành những bố mẹ đầy ắp tự hào. Nhưng dĩ nhiên chúng tôi phải trải qua một
loạt xét nghiệm, hoàn toàn về thể chất. Chỉ là một số công việc mà thôi. (Tôi
không muốn lặp lại chi tiết không có gì thú vị về những cuộc xét nghiệm này) Chúng tôi tiến hành việc xét nghiệm vào một ngày Thứ hai. Jenny trong ngày,
còn tôi thì sau giờ làm việc (Tôi hoàn toàn mải mê với thế giới pháp lý của
mình). Bác sĩ Sheppard gọi Jenny tái khám vào Thứ sáu, bảo rằng cô y tá của
ông nghỉ việc, và ông muốn kiểm tra lại một vài thứ. Khi Jenny nói với tôi về
cuộc tái khám, tôi bắt đầu ngờ rằng có lẽ ông đã phát hiện sự thiểu năng ở
nàng. Tôi nghĩ nàng cũng ngờ như vậy. Việc cô y tá vắng chỉ là một cái cớ cũ
rích. Khi bác sĩ Sheppard gọi điện thoại tới công ty cho tôi, tôi gần như tin chắc.
Ông bảo tôi nên ghé qua phòng khám bệnh của ông trên đường về. Khi tôi nghe
thấy đó không phải là một cuộc đối thoại tay ba ("Tôi đã nói chuyện với
bà Barrett vào hồi sớm nay"), sự ngờ vực của tôi đã được xác nhận. Jenny
không thể sinh con. Dù sao, đừng tuyệt đối hóa điều này, Oliver ơi; hãy nhớ rằng
bác sĩ đã nói về những thứ như giải phẫu gì đó. Nhưng tôi không còn tập trung
tư tưởng được, và thật là điên nếu phải chờ cho đến năm giờ chiều. Tôi gọi lại
cho ông và hỏi ông có thể tiếp tôi vào đầu giờ chiều được không. Ông ta bảo
được.
"Do lỗi ở ai, ông có biết không ? " Tôi hỏi, không chút màu mè vòng
vo.
"Thật tình, tôi không thể nói là "lỗi", Oliver" Ông ta
đáp.
"Được rồi, vậy thì ông biết ai trong chúng tôi là người thiểu chức năng?
"Vâng, là Jenny "
Ít nhiều, tôi cũng đã chuẩn bị tư tưởng, nhưng sự phán quyết của vị bác sĩ vẫn
làm tôi choáng váng. Ông ta không nói gì thêm, nên tôi cho là ông ta muốn tôi
nói ra một vài lời gì đó. "Được thôi, chúng tôi sẽ xin con nuôi. Ý tôi là, vấn đề quan trọng là
chúng tôi yêu nhau, phải không ? " Và ông ta đã báo cho tôi biết. "Oliver, Vấn đề nghiêm trọng hơn thế nhiều. Jenny đau nặng lắm."
"Xin ông nói rõ đau nặng là sao ạ ? "
"Cô ấy sắp chết "
"Không thể được" - Tôi đáp.
Và tôi chờ ông bảo với tôi, đó chỉ là một lời đùa cợt. "Cô ấy sắp chết, Oliver. Tôi rất tiếc phải nói điều này với anh." Tôi nhất quyết là ông ta đã phạm sai lầm – có thể là cái cô y tá điên rồ ấy lại
khóa trái cửa phòng và đưa lộn cho ông ta hình chụp X quang hay thứ gì đại loại.
Ông ta lặp lại với vẻ trắc ẩn, rằng việc xét nghiệm máu của Jenny đã tiến
hành tới ba lần. Tuyệt đối không thể có sai lầm trong chẩn đoán. Dĩ nhiên ông
ta có thể giới thiệu chúng tôi- tôi và Jenny- tới một bác sĩ chuyên khoa huyết
học. Thật tình, ông ta muốn đề nghị…
Tôi khoát tay cắt ngang lời ông ta. Tôi muốn yên tĩnh trong giây lát. Cần yên
tĩnh cho mọi thứ lắng dịu lại trong tôi. Và tôi chợt nảy ra một ý nghĩ.
"Ông đã nói gì với Jenny, bác sĩ ?"
"Rằng cả hai đều bình thường "
"Cô ấy tin chứ ?"
"Tôi cho là có. "
"Vậy chừng nào chúng ta có thể nói với cô ấy ? "
"Chuyện ấy bây giờ tùy ở anh."
Tùy ở tôi ! Lạy Chúa, tôi bây giờ hầu như không thể thở được.
Vị bác sĩ giải thích rằng liệu pháp cho những ca bệnh bạch cầu như Jenny chỉ
đơn giản là xoa dịu – có thể làm giảm đau đớn, có thể kéo dài thêm một thời
gian, nhưng vô phương cứu chữa. Vì vậy, bây giờ vấn đề là tùy ở nơi tôi. Họ
có thể điều trị kín đáo một thời gian.
Nhưng lúc bấy giờ, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được, đó là tại sao mọi
chuyện lại có thể tồi tệ vậy.
"Cô ấy chỉ mới hai mươi bốn tuổi !" Tôi bảo, đúng hơn là hét lên với
vị bác sĩ. Ông ta gật đầu, tỏ vẻ vô cùng nhẫn nại và hiểu biết rất rõ tuổi của
nàng, cũng như hiểu rõ điều này làm cho tôi đau đớn ra sao. Cuối cùng, tôi nhận
ra mình không thể ngồi lì trong phòng khám của ông ta mãi. Tôi hỏi ông ta tôi
phải làm gì. Nghĩa là, tôi nên làm gì đây. Ông ta bảo tôi cố cư xử càng bình thường
và càng lâu thì càng tốt. Tôi cảm ơn ông và rời nơi ấy.
Bình thường! Bình thường! Chương 18 Tôi bắt đầu nghĩ về
Thượng đế.
Tôi muốn nói, ý niệm về một Đấng Tối cao tồn tại ở một nơi nào đó bắt đầu len
lỏi luồn vào những ý nghĩ của tôi. Không phải là vì tôi muốn đập vào mặt của
ông ta, đấm gục ông ta vì những điều ông ta đã làm đối với tôi – tức là đối với
Jenny. Không, những ý nghĩ tôn giáo của tôi là một cái gì hoàn toàn trái ngược.
Như những lúc tôi thức giấc vào một sớm mai, và Jenny còn đó. Vẫn còn ở đó.
Tôi ăn năn, thậm chí vô cùng bối rối, nhưng tôi hy vọng có một Thượng đế để
tôi có thể cảm ơn. Cảm ơn vì đã để cho tôi thức giấc và còn trông thấy Jenny.
Tôi cố gắng như điên để cư xử bình thường, do vậy tôi vẫn để nàng làm thức ăn
sáng và những chuyện tương tự.
"Sáng nay anh có gặp Stratton ?" – Nàng hỏi, khi tôi đang ăn chén
mì ống thứ hai.
"Ai ?"
"Raymond Stratton khóa 64" nàng đáp – " bạn thân nhất của anh,
cái gã bạn cùng phòng của anh trước khi quen em ấy."
"Ờ. Tụi anh dự tính chơi squash. Nhưng anh nghĩ là anh đã hủy cuộc
chơi."
"Tệ thật ."
"Sao hả, Jen ?"
"Đừng hủy bỏ những trò chơi như vậy, anh ạ. Em không muốn có một ông chồng
ẻo lả đâu."
"Được rồi, nhưng chúng ta sẽ đi ăn tối dưới phố nghe" – Tôi bảo.
"Chi vậy ? "
"Em hỏi vậy là sao?" Tôi hét lớn, cố biểu lộ cơn giận như thường lệ.
" Chẳng lẽ anh không thể mang cô vợ chết tiệt của anh đi ăn tối nếu anh
thích thế sao ?"
"Cô ấy là ai, Barrett ? Cô ấy tên gì ? " Nàng hỏi.
"Cái gì ? "
"Nghe này," nàng giải thích. " Khi anh mang vợ đi ăn tối vào một
ngày thường, hẳn là anh đang lẹo tẹo với một ả nào rồi!"
"Jennifer!" Tôi gầm lên, lần này thật sự tổn thương." Anh
không muốn có kiểu nói chuyện như vậy ở bàn ăn sáng đâu nhé!"
"Vậy thì cắp mông về nhà ăn tối ở nhà nhé, được không?"
"Được."
Và tôi muốn bảo với Thượng đế, dù ông ấy là ai, và ở đâu đi nữa, rằng tôi vui
mừng với hiện trạng thế này. Tôi không màng đau khổ, thưa ngài, tôi không quản
gì đau đớn, miễn là Jenny đừng hay biết gì cả. Ngài có nghe thấy tôi không,
Thượng đế ? Ngài có thể ấn định giá cả cho điều này.
"Oliver?"
"Vâng, ông Jonas ?"
Ông ta đã gọi tôi vào phòng của mình.
"Anh có quen với Beck không ? "
Dĩ nhiên là có. Robert L. Beck, phóng viên ảnh của tờ tạp chí Life, đã bị cảnh
sát Chicago đá tơi bời khi đang cố chụp một cảnh bạo động. Jonas xem vụ này
là một trong những phi vụ chủ chốt của công ty. "Tôi biết cái gã cảnh sát đã đá anh ta, thưa ông" Tôi bảo Jonas với
vẻ vô tư.
"Tôi muốn anh xử lý vụ này, Oliver."
"Một mình tôi ?" "Anh có thể dẫn thêm một cộng sự trẻ hơn." Ông ta đáp. Cộng sự trẻ hơn? Tôi là người trẻ nhất trong văn phòng. Nhưng tôi đã hiểu ngụ
ý của ông ta: Oliver, dù cho tuổi tác của anh như thế nào, anh vẫn là một
trong những ma cũ nhất ở đây. Một trong chúng ta, Oliver. "Cám ơn ông."
"Bao lâu nữa anh có thể đi Chicago ? "
Tôi phải tự giải quyết mà không thể nói với một ai, phải tự mình mang hết
gánh nặng. Vì vậy, tôi nói gì đó với ông già Jonas, tôi không nhớ đích xác, đại
ý là tôi không thể rời New York vào lúc này. Và tôi mong ông ta hiểu cho.
Nhưng tôi biết ông rất thất vọng vì phản ứng của tôi đối với một phi vụ hiển
nhiên là vô cùng quan trọng. Ồ, lạy Chúa, khi ông biết lý do thật sự, ông
Jonas, ông sẽ hiểu thôi! Một nghịch lý : Oliver Barrett IV rời văn phòng sớm hơn, thế mà đi về nhà thật
chậm rãi. Bạn có thể lý giải chuyện này? Tôi đã mắc phải một thói quen là nhìn qua cửa sổ các cửa hàng trên đại lộ số
5, tới những thứ hàng hóa tuyệt diệu và cực kỳ ngớ ngẩn mà lẽ ra tôi đã mua
cho Jenny nếu như tôi không phải cố làm ra vẻ bình thường. Chắc chắn là tôi sợ phải về nhà. Bởi vì giờ đây, sau nhiều tuần kể từ khi tôi
biết được sự thật, nàng bắt đầu sút cân. Chỉ chút xíu thôi, và có lẽ nàng
chưa nhận ra. Nhưng tôi, người đã biết sự thật, nhận ra. Tôi cũng đi tham quan lịch các chuyến bay : Brazil, các nước Caribbe,
Hawaii.. Vào buổi chiều nay, hãng TWA đang hướng về Châu Âu cho mùa nghỉ lễ :
London cho những thương gia, Paris cho những cặp tình nhân… " Thế còn học bổng của em ? Còn chuyến đi Paris, nơi mà cả cuộc đời khốn
khổ của em chưa từng biết thì sao ?"
"Thế còn đám cưới của chúng mình thì sao ?"
"Nào đã có ai nói gì về đám cưới đâu."
"Anh nói. Anh đang nói về nó, ngay bây giờ".
"Anh muốn cưới em ?"
"Phải."
"Vì sao ?" Tôi có một tấm thẻ Câu lạc bộ Diners. Rẹt! Ký tên lên những đường chấm, và
tôi trở thành chủ nhân của hai tấm vé (dĩ nhiên là hạng nhất ) tới Thành phố
của những cặp tình nhân. Trông nét mặt Jenny có vẻ xanh xao nhợt nhạt khi tôi về tới nhà, nhưng tôi hy
vọng ý tưởng ngẫu hứng của tôi có thể mang lại chút màu sắc trên đôi má ấy.
"Đoán xem có cái gì, bà Barrett !"
"Anh bị đuổi việc" Cô vợ lạc quan của tôi đáp.
"Không. Mà là tin mừng" Tôi nói, và rút hai tấm vé ra.
"Bay lên và bay xa, đêm mai ta tới Paris." "Khỉ quá, Oliver," nàng bảo. Nhưng thật lặng lẽ, không hề có chút sự
chế giễu và hung hăng thường lệ của nàng. Nàng nói vậy lúc này, là một cách
bày tỏ lòng thương mến. "Nè, em sẽ định nghĩa từ "khỉ quá" thật cụ thể cho anh nghe chứ
?" "Chà, Oliver," Nàng nói nhỏ, "đó không phải là cách của chúng
ta."
"Cách nào ?"
"Em không muốn Paris. Em không cần Paris. Em chỉ cần anh.."
"Em đã có anh rồi, bé ạ!" Tôi ngắt lời nàng, cảm thấy lòng chùng xuống.
"Và em muốn có thời gian," nàng tiếp,"thứ mà anh không thể cho
em được." Giờ thì tôi nhìn vào đáy mắt nàng. Chúng buồn không thể tả. Nhưng buồn một
cách nào đó tôi có thể hiểu. Chúng đang nói rằng nàng đang tiếc nuối. Tiếc nuối
cho tôi. Hai đứa đứng ôm chặt nhau, im lặng. Nếu có một trong hai bật khóc, xin để cả
hai cùng khóc. Nhưng tốt hơn là đừng có ai phải khóc cả. Và rồi Jenny giải thích nàng đã cảm thấy "vô cùng khó chịu" ra sao,
đã quay lại tìm bác sĩ Sheppard, không phải để nhờ tư vấn, mà là để đối diện
: Hãy nói cho tôi biết tôi bị làm sao đi. Và ông ta đã nói. Tôi cảm thấy có lỗi một cách lạ lùng vì không tự mình nói điều ấy cho nàng biết.
Nàng cảm nhận được, và nhận xét một cách ngờ nghệch nhưng đầy dụng ý :
"Ông ấy là một gã Yalie, Ollie "
"Ai chứ, Jen ?" "Tay chuyên gia huyết học. Một tay Yallie từ đầu tới chân, từ cao đẳng
lên đại học y. "Ồ!" Tôi đáp, biết rằng nàng đang cố xoa dịu hoàn cảnh nặng nề bi
thảm này.
"Ít nhất là ông ta biết đọc biết viết, phải không ?"
"Điều này còn phải chờ xem," Bà Oliver Barrett, sinh viên Radcliffe
khóa 64 mỉm cười, " nhưng em biết ông ta nói được. Và em muốn nói chuyện."
"Được rồi, vậy thì mình tới nhà tay bác sĩ Yalie."
"Vâng." Nàng đáp. Chương 19
Bây giờ, ít nhất tôi
không còn phải sợ về nhà, không còn sợ "ứng xử bình thường" nữa.
Chúng tôi lại chia sẻ mọi điều, ngay cả một nhận thức đáng buồn là những ngày
có nhau chỉ còn đếm trên đầu ngón tay thôi. Chúng tôi phải bàn bạc nhiều điều, những điều mà thông thường ít có những đôi
vợ chồng hai mươi bốn tuổi đề cập tới. "Em mong là anh khỏe mạnh, chàng cầu thủ hockey ạ." "Anh sẽ mạnh khỏe, nhất định là vậy." Tôi đáp, tự hỏi không biết
Jenny luôn luôn hiểu biết của tôi có hiểu rằng chàng cầu thủ hockey vĩ đại
đang sợ hãi hay không. "Em muốn nói là vì Phil," nàng tiếp, " Đối với ba sẽ thật khó
khăn đấy. Còn anh, nói cho cùng, anh sẽ là một anh chàng góa vợ vui vẻ." "Anh sẽ không thể vui vẻ đâu." Tôi ngắt lời nàng. "Anh sẽ vui vẻ. Khỉ thật. Em muốn anh sẽ vui vẻ. Được chứ ?" "Được." "Tốt lắm." Chuyện xảy ra vào khoảng một tháng sau đó, ngay sau bữa ăn tối. Nàng vẫn còn
làm bếp. Nàng khăng khăng đòi làm. Cuối cùng, tôi thuyết phục được nàng cho
phép tôi lau dọn (dù nàng làm cho tôi nổi nóng bằng cách bảo đó không phải là
chuyện của đàn ông), và tôi lúc ấy đang cất chén dĩa, trong khi nàng chơi nhạc
Chopin trên chiếc đàn piano. Tôi nghe thấy nàng dừng lại ở giữa khúc dạo đầu,
nên vội vã đi ngay vào phòng khách. Nàng vẫn còn ngồi ở đó.
"Em khỏe chứ, Jen ?" Tôi hỏi. Nàng đáp bằng một câu hỏi:
"Anh đủ giàu để trả tiền taxi không hở ?"
"Chắc chắn rồi." Tôi đáp. " Em muốn đi đâu ?"
"Chắc là. .. bệnh viện." Nàng đáp. Tôi chợt cảm nhận trong chuỗi cử động vội vàng sau đó, rằng thế là đã đến lúc
Jenny sắp bước ra khỏi căn nhà này và không bao giờ quay lại nữa.. Vì nàng vẫn
ngồi im lặng lẽ trong khi tôi gom một số đồ đạc cho nàng, tôi thầm hỏi cái gì
đang diễn ra trong đầu nàng lúc ấy. Về căn nhà chăng? Nàng có muốn nhìn để nhớ
? Không có gì cả. Nàng chỉ ngồi lặng lẽ, không hề chú ý đến cái gì. "Em muốn mang theo thứ đồ đặc biệt nào nữa không?" "Ờ ờ." Nàng gật gật đầu, rồi nói, sau một thoáng suy nghĩ . "
Anh!" Xuống dưới thang lầu, đón được một chiếc taxi thật khó khăn, vì đó là giờ nhà
hát đang diễn. Người gác cổng thổi còi và vẫy tay như một trọng tài. Jenny tựa
vào tôi, và tôi ngầm ao ước không có xe, để nàng cứ tựa mãi như thế bên tôi.
Nhưng cuối cùng, chúng tôi đón được một chiếc. Tài xế là một lão già vui
tính. Khi nghe thấy tên bệnh viện Mount Sinai, lão nhấn hết ga. "Đừng lo, các con, ta là một tay lão luyện trong nghề. Ta và chiếc xe
này đã làm ăn với nhau nhiều năm qua." Ở băng sau, Jenny cuộn người nép vào tôi. Tôi hôn lên tóc nàng. "Là lần đầu tiên của cậu à? " Lão tài xế hỏi. Tôi đoán là Jenny cảm thấy tôi sắp sửa tống cho lão già một cú, nên nàng thì
thào bảo tôi: "Hãy đàng hoàng, Oliver. Ông ấy đang cố đối xử tốt với chúng ta
mà." "Vâng thưa ông," Tôi nói với lão, "đây là lần đầu, vợ tôi
không khoẻ lắm, thế nên chúng ta vượt một vài đèn đỏ được chứ?" Lão ta đưa chúng tôi tới Mount Sinai một cách êm xuôi. Lão thật rất tốt, bước
xuống xe mở cửa cho chúng tôi và nhiều thứ khác. Trước khi lăn bánh, lão chúc
chúng tôi mọi điều may mắn tốt lành. Jenny đã cám ơn lão. Nàng có vẻ lảo đảo đứng không vững. Tôi muốn bế nàng vào, nhưng nàng không chịu,
"Ở cửa này thì không được đâu, công tử." Vì vậy, chúng tôi cùng đi
vào, và chịu đựng mọi thứ đau khổ trong khi làm thủ tục nhập viện. "Ông có sử dụng Vòng chắn xanh hoặc một phương pháp kế hoạch nào khác
?" "Không" (Ai mà rỗi hơi nghĩ tới mấy thứ linh tinh ấy. Chúng tôi khá bận rộn vì nhiều
thứ quan trọng hơn.) Dĩ nhiên, việc Jenny tới đây chẳng bất ngờ tí nào. Bác sĩ Bernard Ackerman,
như nhận xét của Jenny – một người tốt, dù là một tay Yalie chính cống, đã dự
đoán trước từ đầu việc này. Ông là người trực tiếp theo dõi điều trị cho
nàng. "Tế bào và tiểu cầu của cô ấy đang bị bạch cầu hủy hoại " Ông ta bảo.
" Lúc này cái cô ấy cần nhất là hai thứ đó. Cô ấy lại không muốn điều trị
bằng kháng trao đổi chất. "Nghĩa là sao bác sĩ ?" "Đó là một liệu pháp làm chậm lại quá trình tiêu hủy tế bào," ông
ta giải thích, " nhưng nó có những tác dụng phụ không dễ chịu, cô ấy
cũng đã biết điều này." "Nghe đây, bác sĩ" Tôi biết tôi đang giảng giải với ông ta một cách
không cần thiết – "Jenny là người quyết định. Hãy làm bất cứ cái gì cô ấy
muốn. Chỉ cần người của ông làm hết khả năng để cô ấy không đau đớn.
"Ông có thể tin chắc điều này. " Ông ta đáp.
"Tôi không quan tâm đến giá cả đâu, bác sĩ." Tôi cho là tôi đang
cao giọng. "Việc này có thể kéo dài nhiều tuần hay nhiều tháng." "Cứ ngã giá đi " Tôi nói. Ông ta rất nhẫn nại với tôi. Thật sự, tôi
đang ức hiếp ông ta. "Tôi chỉ nói một cách đơn giản là thực sự không có cách nào để biết lâu
hay mau – cô ấy đang chết dần mòn." Ông ta giải thích. "Bác sĩ, hãy nhớ là," tôi ra lệnh, "tôi muốn cô ấy được chữa
trị bằng cách nào tốt nhất. Phòng riêng. Các hộ lý đặc biệt. Mọi thứ. Xin vui
lòng. Tôi có đủ tiền. Chương 20 Lái xe từ Đường 63 Khu
Đông Manhattan tới Boston, Massachusetts trong vòng
ba giờ hai mươi phút là một điều bất khả thi. Xin hãy tin tôi, tôi đã thử giới
hạn tối thiểu trên đoạn đường này, và tôi khẳng định không có một chiếc xe
nào, nội hay ngoại, kể cả những chiếc Graham Hill, có thể chạy nhanh hơn. Tôi
đã lái chiếc MG qua cổng Mass Turn với tốc độ 150. Tôi có một lưỡi dao cạo râu điện không dây, và bạn có thể tin là tôi đã cạo
râu thật cẩn thận, thay áo sơ mi ngay trong xe, trước khi bước vào cái văn phòng
khả kính nằm trên đường State Street. Thậm chí mới có 8 giờ sáng, đã có nhiều
tay dân Boston bệ vệ chờ đợi để được gặp Oliver Barrett III. Cô thư ký của
ông, vốn biết mặt tôi, vẫn không chớp mắt đến hai lần khi đọc tên mời tôi vào
phòng khách bên trong. Ba tôi không bảo : Dẫn anh ấy vào. Thay vì vậy, cửa phòng ông mở, và ông tự bước ra. " Oliver." Ông
nói. Vốn đang bị ám ảnh về thể chất qua dáng vẻ bên ngoài, tôi nhận ra ông có vẻ
hơi xanh xao, tóc ông xám đi, và thưa thớt hẳn, sau ba năm vừa qua. "Vào đây con trai" Ông bảo. Tôi không định được giọng của ông. Tôi
bước vào bên trong văn phòng, và ngồi lên chiếc ghế dành cho khách. Chúng tôi nhìn nhau, rồi nhìn lướt qua những đồ vật trong phòng. Mắt tôi dừng
lại ở những món đặt trên bàn làm việc của ông: chiếc kéo cất trong một bao
da, đồ khui thư có chiếc tay nắm bằng da, một tấm ảnh mẹ tôi chụp cách đây
nhiều năm. Ảnh của tôi trong ngày tốt nghiệp trường Exceter. "Con ra sao, con trai ?" "Khỏe, thưa ba." Tôi đáp. "Còn Jennifer ? " Thay vì nói dối, tôi lẫn tránh vấn đề – dù đó chính là vấn đề – để bật thốt
ra lý do sự có mặt đột ngột của tôi. "Ba, con cần mượn năm ngàn đô. Vì một lý do chính đáng." Ông ấy nhìn tôi. Và hơi gật đầu, tôi cho là vậy. "Thế à? " Ông nói. "Thưa ba ?" Tôi hỏi. "Ta có thể biết lý do không ?" "Con không thể nói, ba à. Xin cứ cho mượn số tiền đó." Tôi có cảm giác – nếu như một người có thể cảm nhận được cảm xúc của Oliver
Barrett III – là ông ấy có ý định cho tôi mượn số tiền. Tôi cũng có cảm giác
ông ấy không muốn an ủi tôi gì cả. Nhưng ông ấy muốn nói chuyện. "Ở công ty Jonas và March người ta không trả lương cho con sao ?" "Có, thưa ba." Tôi chợt nôn nao muốn nói cho ông biết lương tôi là bao nhiêu, chỉ để cho ông
hiểu đó là một thành quả của tôi, nhưng rồi tôi nghĩ, nếu như ông biết nơi
tôi làm việc, hẳn ông cũng biết mức lương của tôi rồi.
"Và cô ấy có đi dạy chứ ?" Ông hỏi.
Ồ, ông ấy không hay biết gì hết.
"Đừng gọi cô ấy là 'cô ấy'." "Jennifer có đi dạy chứ ?" Ông hỏi một cách nhã nhặn. "Xin hãy bỏ cô ấy qua một bên đi ba. Đây là vấn đề cá nhân. Là một vấn đề
cá nhân vô cùng quan trọng." "Con đã gây rắc rối với một cô gái nào à? " Ông hỏi, nhưng trong giọng
nói không có vẻ gì phản đối. "Vâng. Đúng vậy. Xin hãy cho con mượn số tiền ấy." Tôi không hề cho là ông tin lời tôi nói. Tôi cũng không nghĩ là ông thực sự
muốn biết. Ông chỉ đơn giản hỏi tôi, như tôi đã nói, là để hai bên có thể trò
chuyện mà thôi. Ông kéo chiếc ngăn tủ, lấy ra một quyển sổ chi phiếu bìa da, cùng loại da với
chiếc tay nắm khui bì thư và bao kéo. Ông chậm chạp mở nó ra. Không phải để dằn
vặt tôi, mà là kéo dài thời gian. Tìm một điều gì đó để nói. Những điều không
làm thương tổn. Ông ghi xong tấm chi phiếu, xé nó khỏi sổ và trao nó cho tôi. Trong thoáng
giây, có lẽ tôi chợt nhận ra tôi đã chạm phải tay ông. Vì vậy, ông có vẻ bối
rối (tôi cho là vậy), ông rụt tay về, đặt tấm phiếu lên cạnh bàn, nhìn tôi và
gật nhẹ đầu. Dường như ông muốn nói " Đấy, con trai." Nhưng thực sự,
tất cả những gì ông làm là gật nhẹ đầu. Tôi cũng không muốn bỏ đi. Chỉ vì tôi không thể tìm ra một điều gì ôn hòa để
nói.. và chúng tôi không thể cứ ngồi đó mãi. Cả hai đều muốn nói, thế nhưng
thậm chí không thể nhìn vào mắt của nhau. Tôi hơi nghiêng người cầm lấy tấm chi phiếu. Phải, trên đó ghi năm ngàn đô,
có chữ ký của Oliver Barrett III. Mực đã hoàn toàn khô. Tôi cẩn thận gấp nó lại,
bỏ vào túi áo sơ mi trong khi đứng dậy và bước ra cửa. Lẽ ra tôi nên nói, ít
nhất là một điều gì đó, vì cái tác dụng mà tôi biết rất là quan trọng. Các
nhân vật quan trọng của Boston (và có lẽ ngay cả của Washington) đang lạnh
cóng gót chân vì chờ đợi ở bên ngoài, thế nên nếu chúng ta còn muốn nói với
nhau nhiều hơn nữa, con có thể đợi ở ngoài văn phòng, và ba, ba có thể hủy bỏ
kế hoạch ăn bữa trưa…vv… Tôi đứng đó, bên chiếc cửa mở hé, thu hết can đảm nhìn vào ông, và nói :
"Cám ơn, ba." Chương 21
Việc thông báo cho
Phil đè nặng xuống vai tôi. Còn ai khác làm chuyện này? Ông không tan vỡ ra từng
mảnh như tôi lo ngại, mà bình tĩnh khóa cửa căn nhà ở Cranston và tới
ở tại nhà tôi. Mỗi người chúng tôi có phương cách của mình để đối phó với nỗi
niềm đau khổ. Cách của Phil là lau chùi nhà cửa. Rửa ráy, lau chùi, đánh bóng
các thứ. Thực tình tôi không hiểu những ý nghĩ của Phil diễn biến ra sao,
nhưng thôi, lạy Chúa, cứ để ông làm việc. Ông có ấp ủ giấc mơ rằng Jenny sẽ trở về nhà ? Có mà, phải không? Tội nghiệp cho người bố đáng thương. Đó là lý do vì sao
ông cứ lau dọn mãi. Ông không thể chấp nhận sự thật. Tất nhiên là ông không
thú nhận điều này với tôi, nhưng tôi biết, nó nằm trong tâm trí của ông. Bởi
vì, nó cũng nằm trong tâm trí của tôi. Khi nàng đã nhập viện, tôi gọi cho ông già Jonas, báo cho ông biết vì sao tôi
không thể đi làm được. Tôi vờ như đang vội, để cúp máy, vì tôi biết ông ta
đau buồn và muốn nói lên những điều ông không thể tỏ bày. Từ hôm đó trở đi,
những ngày chỉ đơn giản được chia thành thành giờ đi thăm bệnh và giờ dành
cho tất cả các thứ khác. Và dĩ nhiên, tất cả những thứ khác chỉ là một sự trống
vắng hư vô. Ăn khi không hề nghe đói, nhìn Phil lau dọn nhà (cứ như thế mãi)
và không tài nào ngủ được, dù với những toa thuốc ngủ Ackerman đã kê cho tôi. Có một lần tôi nghe thấy Phil lẩm bẩm một mình: "Ta không thể chịu đựng
lâu hơn nữa." Ông ở phòng bên cạnh, đang chùi cái bồn rửa bát. Tôi không đáp lời ông. Nhưng
tôi tự nhủ với mình, tôi có thể. Thưa Đấng nào đó trên kia, Đấng tối cao, kẻ
bày cảnh trớ trêu, cứ tiếp tục đi, tôi có thể chịu đựng mãi mãi, vô hạn độ. Bởi
vì Jenny là Jenny. Tối hôm đó, nàng đuổi tôi ra khỏi phòng. Nàng muốn nói chuyện với ba nàng,
như "giữa đàn ông với nhau." "Cuộc đối thoại này chỉ giữa những người có dòng máu Ý thôi," nàng
nói, mặt trắng bệch như chiếc gối dưới đầu nàng, " vì thế, cố một chút
đi, Barrett." "Được rồi." Tôi đáp. "Nhưng đừng đi xa quá." Nàng nói, khi tôi ra tới cửa. Tôi tới ngồi ở phòng chờ. Và rồi Phil xuất hiện. "Nó bảo con đi vào," Ông thì thầm với một giọng khàn khàn, như bên
trong người ông hoàn toàn rỗng không. "ta đi mua vài điếu thuốc." "Đóng cửa lại đi," nàng ra lệnh khi tôi bước vào phòng. Tôi vâng lời,
lặng lẽ khép cửa, và khi tôi quay lại bên giường ngồi xuống, tôi nhìn thấy đầy
đủ hơn mọi thứ ở nàng. Nghĩa là, những thứ ống dẫn chạy vào cánh tay phải của
nàng, mà nàng che dưới lớp vải. Tôi luôn muốn ngồi thật sát nàng nhìn vào
gương mặt của nàng, vì dù có nhợt nhạt đến đâu, đôi mắt nàng vẫn còn sáng
long lanh bên trên gương mặt ấy. Vì vậy, tôi vội ngồi sát vào nàng. "Không đau đớn lắm đâu, Oliver, nó giống như cảm giác rơi thật chậm từ
vách núi xuống, anh có biết không ? Có cái gì đó đang giày xé ruột gan tôi. Có cái gì đó vô hình đang bay vào làm
nghẹn cổ tôi, làm tôi muốn khóc. Nhưng tôi chưa khóc. Tôi chưa từng khóc bao
giờ. Tôi là một gã cứng rắn, phải không ? Tôi sẽ không khóc đâu mà. Nhưng nếu tôi không khóc, thì tôi cũng không thể nào mở miệng. Tôi sẽ phải gật
đầu thay cho lời đáp. Thế nên tôi gật đầu đáp phải. "Khỉ thật," Nàng nói. "Hở ?" Đó là một tiếng ậm ừ trong miệng hơn là lời nói. "Anh không biết rơi xuống vực là thế nào, công tử ạ, cả đời anh chưa bao
giờ rơi xuống vực." "Có mà," Tôi đáp, có lại khả năng nói ra lời, " lúc anh gặp
em." "Ồ, " Nàng đáp, một nụ cười thoáng qua trên nét mặt, " Ôi, đó
là một cú rơi êm ái' Ai nói anh nhỉ ? " "Anh không biết. Chắc là của Shakespeare." "Vâng, nhưng ai nói ? " nàng hỏi một cách ai oán. " Em không
thể nhớ là vở kịch nào. Em đã vào học ở Radcliffe, lẽ ra em phải nhớ mọi thứ.
Hồi đó, em biết tất cả các tác phẩm của Mozart." "Quả là nhiều lắm." Tôi đáp. "Anh có cuộc không? " Nàng nói, trán nhăn lại, và hỏi tiếp, "Bản
hòa tấu Piano cung La thứ là số mấy nhỉ ? " "Để anh sẽ tìm xem". Tôi đáp. Tôi biết nó ở đâu. Trong nhà tôi, trên một ngăn kệ gần chiếc đàn dương cầm.
Tôi sẽ tìm ra và nói cho Jenny ngay ngày mai. "Em đã từng biết." Jenny nói. " Em đã từng biết. Đã từng." "Này Jen, em có muốn nói về âm nhạc nữa không? " "Chắc anh thích nói về đám tang hơn ? " "Không." Tôi đáp, hối hận vì đã cắt lời nàng. "Em đã nói với Phil. Anh có nghe chứ, Oliver ? " Tôi đã quay mặt đi chỗ khác. "Vâng, anh đang nghe em đây, Jenny." "Em bảo ba là ông có thể nhờ Nhà thờ Thiên Chúa giúp đỡ, anh sẽ đồng ý
thôi. Đồng ý chứ ? " "Đồng ý." "Được lắm." Nàng nói. Và tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút, bởi vì, nói cho cùng, bất cứ điều gì
chúng tôi nói bây giờ cũng chả cải thiện được gì hơn. Tôi đã sai lầm. "Nghe này, Oliver.", nàng nói, có vẻ tức giận, dù giọng nói vẫn nhẹ
nhàng. " Anh hãy thôi ngay vẻ bệnh hoạn đó đi." "Anh ư? " "Cái vẻ phạm tội trên nét mặt anh đó, trông bệnh hoạn lắm. " Thực tình mà nói, tôi đã cố thay đổi nét mặt, nhưng các cơ mặt tôi hầu như
đông cứng lại rồi. "Đó không phải là lỗi ở ai cả, chàng công tử ạ. Anh có thôi tự trách
mình đi không!" Tôi muốn nhìn mãi vào nàng, tôi không muốn rời mắt khỏi nàng, nhưng tôi vẫn
phải hạ thấp ánh mắt xuống. Tôi xấu hổ vì ngay cả lúc này, Jenny vẫn đọc được
những ý tưởng của tôi thật chính xác.
"Nghe này, đây là điều duy nhất em yêu cầu anh, Oliver. Ngoài ra, em biết
anh sẽ đồng ý."
Vật gì đó lại khuấy động ruột gan tôi, vì vậy, tôi sợ phải nói, ngay cả chỉ một
từ " đồng ý". Tôi chỉ nhìn Jenny lặng lẽ. "Dẹp Paris đi." Nàng đột nhiên nói. "Hả?" "Dẹp chuyện Paris và âm nhạc và tất cả mọi thứ mà anh cứ nghĩ
rằng anh đã tước đoạt của em. Em không quan tâm đâu, Anh có tin không?" "Không" Tôi đáp, vô cùng thành thật. "Vậy thì xéo ra khỏi chỗ này đi, em không muốn anh ngồi ở cái giường khốn
kiếp này nhìn em chết nữa." Nàng muốn vậy. Tôi có thể nói dối về bất kỳ điều gì một khi Jenny thực sự
mong muốn. Và tôi xin được ở lại bằng một lời nói dối. "Anh tin em." "Như thế tốt hơn ." Nàng nói. " Giờ thì hãy ban cho em một ân
huệ được không anh ? " Từ đâu đó trong lòng, một cơn lốc tàn phá chợt ùa về làm tôi muốn khóc nấc
lên. Nhưng tôi chịu đựng. Tôi sẽ không rơi nước mắt. Tôi chỉ làm cho Jenny thấy
rằng, với sự gật đầu xác nhận của tôi, tôi sẽ sung sướng làm bất cứ điều gì
nàng muốn. "Anh vui lòng ôm em thật chặt được không? " nàng nói. Tôi đặt tay lên cánh tay nàng - Chúa ơi, nó quá gày gò - và siết nhẹ. '" Không, Oliver, ôm em thực sự cơ. Nằm xuống bên em." Tôi rất, rất cẩn thận, với những chiếc ống và các thứ, khi nằm xuống giường
bên nàng và vòng tay ôm lấy nàng. "Cám ơn, Oliver." Đó là những lời cuối của nàng. Chương 22 Phil Cavillery đang đứng
hút thuốc trong khu nhà tắm nắng lúc tôi bước đến. "Phil? " Tôi gọi khẽ. "Hả ?" Ông nhìn lên, và tôi nghĩ ông đã biết. Rõ ràng là ông cần có một sự an ủi gì đó bằng thể chất. Tôi bước lại, choàng
tay qua vai ông. Tôi sợ ông sẽ khóc òa lên. Còn tôi, tôi khá chắc là mình
không khóc. Tôi không thể. Tôi muốn nói là tôi đã vượt qua tất cả những thứ
này. Ông đặt tay ông lên tay tôi. "Ta ước gì .." Ông lẩm bẩm, " Ta ước gì ta đã không…" Ông
ngưng lời, và tôi chờ đợi. Nói cho cùng, có gì phải vội ? "Ta ước gì ta đã không hứa với con là Jenny sẽ khỏe mạnh." Và, như để khẳng định thêm, ông vỗ nhẹ bàn tay tôi. Nhưng tôi cần được cô độc mình tôi. Để thở. Để đi bách bộ, có lẽ là vậy. Ở dưới cầu thang, hành lang bệnh viện hoàn toàn vắng lặng. Tất cả những gì
tôi có thể nghe thấy là tiếng gót giầy của tôi gõ xuống nền nhà. "Oliver." Tôi dừng lại. Đó là ba tôi. Trừ người đàn bà ngồi ở bàn tiếp tân, chỉ còn có hai chúng tôi ở
nơi đây. Thật sự thì chúng tôi là hai trong số ít những người ở New
York thức giấc vào giờ đó. Tôi không thể đối diện với ông. Tôi đi thẳng tới cánh cửa xoay. Nhưng trong một
thoáng, ông đã ở đó, đứng cạnh bên tôi. "Oliver, lẽ ra con phải nói cho ta biết." Trời rất lạnh, ở một khía cạnh nào đó lại là tốt cho tôi, vì tôi đang run
lên, và mong muốn cảm nhận một điều gì đó. Ba tôi tiếp tục tiến tới gần, và
tôi tiếp tục đứng lặng im, mặc cho cơn gió lạnh quất phũ phàng lên mặt. "Ngay khi ta biết, ta phóng vào xe liền." Tôi đã để quên chiếc áo khoác. Cơn giá lạnh bắt đầu làm tôi đau đớn. Tốt
thôi. Tốt thôi. "Oliver," Ba tôi nói gấp, " ta muốn giúp con." "Jenny đã chết rồi. " "Ta rất tiếc." Ông nói, bằng một giọng thì thào đến lạ lùng. Không biết vì sao, tôi nhắc lại những lời mà cách đây lâu rồi, tôi đã học được
từ người con gái xinh đẹp nay đã qua đời: "Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói mình hối tiếc. " Và rồi tôi đã làm một chuyện chưa bao giờ tôi làm khi có mặt ông, nhất là
trong vòng tay của ông. Tôi bật khóc. 22/7/1998 Erich Segal Nguyễn Thành Nhân dịch Theo https://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét