Khái lược về “Thuyết Proton” của Gjekë Marinaj
Trong bài viết nhỏ này, tôi chủ
trương khái lược “Thuyết Proton” (Protonism Theory) của nhà thơ – tiến sĩ triết
học Gjekë Marinaj, nhằm nêu bật những nội dung chính của lý thuyết,
những nguyên tắc thực hành phê bình văn học, đồng thời đối chiếu với một
số giai đoạn văn học Việt Nam.
Chân dung Gjekë Marinaj, do KTS. Nguyễn Tùng Lâm ký họa năm
2015
Sáng tạo và tiếp nhận văn học vốn là hai mặt của sự tồn tại
tác phẩm văn chương, là vấn đề bản chất, then chốt của nghiên cứu văn học. Từ
những năm đầu thế kỷ XX, mỹ học tiếp nhận (receptional aesthetic) đã khởi sinh
từ Đức, do hai giáo sư Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser chủ xướng, sau đó lan
truyền khắp châu Âu và các châu lục khác. Đây là trường phái lý luận văn học,
chủ trương cách tân đối tượng và phương pháp nghiên cứu văn học, không xem tác
phẩm là đối tượng nghiên cứu thuần túy, mà mở rộng phạm vi nghiên cứu sang lĩnh
vực tiếp nhận, khám phá mối tương quan giữa sáng tác và tiếp nhận. Hiện có một
số học thuyết khác đề xuất cho việc nghiên cứu, thực hành phê bình văn học,
chuyển hướng từ văn bản trung tâm luận sang độc giả trung tâm luận. Trong bài
viết nhỏ này, tôi chủ trương khái lược “Thuyết Proton” (Protonism Theory) của
nhà thơ – tiến sỹ triết học Gjekë Marinaj, nhằm nêu bật những nội
dung chính của lý thuyết, những nguyên tắc thực hành phê bình văn học, đồng
thời đối chiếu với một số giai đoạn văn học Việt Nam.
Nhìn lại những biến động lịch sử qua từng thời kỳ cho thấy, đời
sống văn học nhiều nước, trong đó có Việt Nam từng diễn ra phức tạp, nhiều dị
biệt. Dưới chế độ phong kiến ở các nước phương Đông trước đây từng tồn tại dòng
văn học chủ lưu “phò chính thống”, nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị.
Tư tưởng Nho giáo khi ấy chủ trương giáo hóa mọi tầng lớp xã hội từ bậc quân
vương đến kẻ thứ dân, và, giữ vai trò độc tôn trong quan niệm thẩm mỹ. Đây
chính là ngọn cờ chính trị mượn màu sắc tôn giáo đã được các bậc đế vương vận dụng
triệt để để lý giải các sự kiện chính trị, xã hội và văn hóa, cũng như được/ bị
lợi dụng trong những cuộc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến.
Từ đầu thế kỷ XX đã nổ ra cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917. Từ đó kéo dài suốt gần một thế kỷ, thế giới bị phân chia thành hai cực,
hai phe, Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó tại các nước
Xã hội chủ nghĩa, văn học nghệ thuật được gắn kết một mục đích và nhiệm vụ tối
thượng là phục vụ “Công – Nông – Binh”, phục vụ chính trị. Ở những quốc gia
này, không chỉ văn học mà nghệ thuật nói chung đều chuyển động phiến diện, cực
đoan. Theo PGS.TS. Lã Nguyên, trên tượng đài và tranh vẽ ở Việt Nam và tất cả
các nước Xã hội chủ nghĩa khi ấy, hình ảnh “Công – Nông – Binh” luôn được đặt
theo một trình tự, không thể đảo ngược: “Khối liên minh, Công (phải
là đàn ông) – Nông (phải là phụ nữ) – Binh (cũng là
đàn ông)”. Ở Việt Nam trước những năm đổi mới luôn tồn tại khẩu hiệu: “Nhà văn
là chiến sỹ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Sau khi Liên bang Xô – Viết tan
rã, kéo theo sự sụp đổ của hệ thống chính trị ở các nước Đông Âu, thì mục đích
của văn học lại chuyển từ thái cực ca ngợi, tô hồng sang bôi đen, phủ định. Với
thái độ tiếp cận văn bản văn học như vậy, dĩ nhiên, đã làm sai lệch bản chất của
văn học nghệ thuật, biến phê bình văn học thành một công cụ chính trị, với thái
độ chủ quan và cảm tính.
Vào năm 2005, TS. Gjekë Marinaj đã đề xướng “Thuyết
Proton” trong bối cảnh hỗn loạn các giá trị thẩm mỹ tại đất nước An-ba-ni
quê hương ông, cũng như các nước trên bán đảo Ban-căng khi ấy. Lý
thuyết này nhằm đáp trả cơn lũ của chủ nghĩa phê bình tiêu cực thái
quá tại các nước Đông Âu sau sự sụp đổ của ý thức hệ. Ý tưởng khởi
phát của lý thuyết này được Gjekë Marinaj lấy từ quan niệm về một đơn
vị nguyên tử. Chúng ta đều biết, Proton là loại hạt tổ hợp, một thành phần cấu
tạo hạt nhân nguyên tử, đơn vị cơ bản của vật chất. Gjekë Marinaj muốn
coi việc thực hành phê bình văn học là một trong những thành tố cơ bản
trong việc đánh giá và khảng định một tác phẩm văn học.
Bìa tập thơ “Những hy vọng trong suốt” (tuyển thơ Gjekë
Marinaj), Nguyễn Chí Hoan dịch, NXB Hội nhà văn, 2014.
“Thuyết Proton” được Gjekë Marinaj viết bằng
tiếng An-ba-ni và trình bày tóm tắt bằng tiếng Anh. Qua trao đổi với tác giả được
biết, “Thuyết Proton”, hiểu đơn giản nhất có nghĩa, kẻ sáng tạo cũng
như đối tượng tiếp nhận văn bản văn học luôn cần có thái độ tích cực, xuất
phát từ nhu cầu nghệ thuật thuần túy, không cân bằng tác phẩm với
bất kỳ ý thức hệ chính trị nào. Đặc biệt, người tiếp nhận văn bản văn
học không nên dừng lại ở những khiếm khuyết, mà tập
trung vào việc phân tích, làm nổi bật các mặt tích cực và vẻ đẹp của tác
phẩm đó. Điều đó được coi như một phần thiết yếu của đạo đức tiếp nhận
văn bản. Tâm điểm của lý thuyết là, khi nhà phê bình đối diện với
một văn bản văn học, đầu tiên anh ta nên kiếm tìm “chìa khóa” để bước
vào không gian thẩm mỹ của kẻ sáng tạo, tìm đến giá trị của
trí tuệ và đạo đức trong tác phẩm ấy. Nếu nhà phê bình nhận thấy tác phẩm ấy ít
giá trị nghệ thuật, thì nên gạt nó sang một bên, tạm để nó
trong bóng tối, thay vì đưa ra những luận điệu chỉ trích, phủ định. Lối
vào một tác phẩm văn học cũng giống như con đường dẫn tới một khu vườn, có thể
đầy gai góc, hoặc có thể như bị rào kín, nhưng người muốn vào khu vườn ấy không
nên vội vàng đưa ra kết luận thiếu tính chuyên nghiệp và cơ sở khoa học khi
chưa biết hết những gì có trong đó.
“Thuyết Proton” của Gjekë Marinaj có thể tóm tắt
trong năm nguyên tắc trung tâm như sau: sự bồi hoàn, tính chất Proton,
đạo đức, đòi hỏi, và sự thật. (Người viết bài này dựa trên năm
nguyên tắc mà TS. Gjekë Marinaj đã trao đổi qua email, theo bản
dịch của Nguyễn Thị Thùy Linh)
Sự bồi hoàn: Nhà phê bình văn học được coi như một cố vấn đắc
lực cho độc giả. Vì vậy anh ấy phải làm phép đền bù cho những ảnh hưởng tiêu cực
trong quá khứ của phê bình văn học và tìm cách gửi gắm đến độc giả sự bồi thường
cho những tổn thất trước đó, hoặc những thiệt hại họ có thể đã trải nghiệm
trong quá khứ bằng việc hướng họ đến những vẻ đẹp của cuốn sách mà không chỉ ra
những phần bị chê bai.
Tính chất Proton: Nhà phê bình văn học nên hiểu và hành động
theo ngôn ngữ mang tính tích cực và sâu sắc, và hiểu rõ biểu tượng văn học là một
thành tố của hành vi giao tiếp khi người đó thực hiện một chuyên mục phê bình
văn học về một cuốn sách cụ thể. Anh ta cần có một hiểu biết tốt về các ngành
ngữ dụng học, ngữ nghĩa học và cú pháp học.
Đạo đức: Nhà phê bình văn học cần có một hệ thống nguyên tắc
đạo đức và phải tuân theo những quy tắc ứng xử được công nhận trong sự tôn trọng
các hành động của một tầng lớp người cụ thể, hoặc một nhóm, một nền văn hóa cụ
thể v.v. Hành động theo cách tích cực khi viết về một cuốn sách.
Đòi hỏi: Nhà phê bình văn học luôn cần tìm kiếm những chân lý
tích cực, nhưng cũng phải nghiên cứu những thông tin và kiến thức về cách lựa
chọn và diễn giải nó cho người đọc.
Sự thật: Nhiệm vụ cơ bản nhất của nhà phê bình văn học là nói
ra sự thật về các giá trị văn học anh ta tìm thấy trong cuốn sách, không bóp
méo cái hay và bới tìm những yếu tố tiêu cực có thể dẫn người đọc tới nhận thức
sai lệch so với những giá trị thực sự của cuốn sách. Anh ta phải hiểu nhiều loại
chân lý tồn tại như một dạng vấn đề thực tế, sự phù hợp với thực tế và những lẽ
thật của phép toán. Và anh ta nên hành động theo ý tưởng rằng, sự thật thường
mang tính chủ quan và một người chỉ coi đó là sự thật khi đó là những điều họ
tin là sự thật.
Năm nguyên tắc nêu trên có thể coi như những “thao tác”
cần thiết của một nhà phê bình chuyên nghiệp và đạo đức, giúp anh ta vượt qua
những định kiến chính trị, và cả những cảm quan đang thống trị anh ta.
Đối chiếu bối cảnh văn học Việt Nam đương đại cho thấy, một số
điểm trong nội dung cơ bản của lý thuyết thực hành phê bình văn học Proton của
Gjekë Marinaj cũng đã manh nha xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX và đã nằm
trong nội hàm của một cuộc tranh luận văn học tại Việt Nam, nhưng rất tiếc ngay
sau đó nó đã mau chóng chìm khuất. Đó là cuộc tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật
và nghệ thuật vị nhân sinh sôi nổi nhất, có tầm ảnh hưởng rộng lớn nhất diễn ra
chủ yếu từ năm 1935 đến 1939, và có thể nói, dư âm của nó vẫn còn vang vọng tới
tận bây giờ. Khởi đầu sự kiện này là nhà lý luận văn học Mác-xít Hải Triều, người
chủ động mở cuộc tranh luận để tuyên truyền lý luận Mác-xít mới được du nhập
vào Việt Nam lúc đó, cũng như cổ súy cho văn học vô sản. Theo GS.TS. Trần
Đình Sử: “Nhờ cuộc tranh luận ấy mà quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh, văn học
bình dân và sau đó văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa được truyền bá rất sớm
vào xã hội Việt Nam”. Cuộc tranh luận nêu trên còn ảnh hưởng sâu rộng tới đường
lối văn học cách mạng Việt Nam sau đó, rõ nét nhất là quan niệm về mối quan hệ
giữa văn nghệ và tuyên truyền ở miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ. Hệ
hình thẩm mỹ này còn kéo dài tới 1986 – năm được coi là dấu mốc của công cuộc Đổi
mới trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật.
Sáng tạo luôn là công việc đặc thù của nghệ sỹ để làm ra cái
mới, cái khác, làm phong nhiêu đời sống tinh thần dân tộc, cộng đồng. Trọng tâm
của “Thuyết Proton” không chỉ cụ thể hóa các thao tác thực hành khi
phê bình văn học mà tác giả đã nỗ lực tạo ra một đời sống thực tế sinh động cho
nền tảng lý thuyết mới mẻ này. Tôi xin trích dẫn bản tin của Báo Dallas Morning
News (Hoa Kỳ) để kết thúc bài viết nhỏ này: “Thuyết Proton” của Gjekë
Marinaj đã tìm hướng “thúc đẩy tính tích cực và tư duy hòa bình”
thông qua phê bình văn học”. “Thuyết Proton” của Gjekë
Marinaj xuất hiện ở Việt Nam lúc này thêm khảng định tính đặc thù và
chức năng đặc thù của văn học nghệ thuật với đúng nội hàm của nó.
7/4/2020
Mai Văn Phấn
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét