Tu viện đá treo Meteóra
1. Rất hãn hữu, chỉ đôi khi những người khách đến Hy lạp nghĩ đến việc xuống tàu hỏa, gần biên giới phía bắc để thăm viếng những tu viện đá treo Meteóra.
Đúng hơn chỉ đám khách say mê chụp
ảnh thích thú cuộc du ngoạn này. Hình ảnh nơi đây quả thực hấp dẫn. Cần phải
hình dung ra một vùng núi đá cuội trơ trọi không một bóng cây, nơi nước đã bào
mòn các khúc đoạn, để lại những cây cột vĩ đại trong các rãnh dựng đứng.
Ở vùng trũng đá lởm chởm
này những cây cột đá trông giống những gốc cổ thụ vĩ đại hóa thạch nhô cao, dễ
có đến hai nghìn năm trước đây người ta đã xây các ngôi nhà trên đỉnh những cột
đá đó. Rất có thể tất cả gạch ngói, mái, cửa sổ được kéo lên bằng dây, bởi
không thể chuyển những thứ này lên bằng bất cứ cách nào. Trên đỉnh các cột đá
chỉ đủ chỗ xây một căn nhà một hoặc hai phòng. Ở cửa ra vào có cầu thang bằng
thừng, có thể thả sâu xuống chừng tám nghìn mét sải tay.
Cả hệ thống tu viện
Meteóra là một ngôi nhà được suy tưởng theo phương cách của một đội quân tổ cò
hoặc chuồng chim bồ câu. Các tăng hội Hy lạp của đế quốc Bidăngtin xây những
tòa nhà này, để có thể sống tách biệt hẳn với thế giới.
Tu viện Meteóra không đẹp, không
tuyệt tác. Chiêm ngưỡng nó xong người ta không bao giờ quên, nhưng không tiếp tục
nghĩ đến khi thanh thản nghỉ ngơi, lúc dạo chơi, khi trò chuyện. Họ chỉ nhớ ra
nó khi nhìn thấy một côn trùng xấu xí, hoặc lúc khe khẽ kể về những hồn ma.
Giống như hết thảy mọi thứ có
trong thời đại Bidăngtin, tu viện này cũng kỳ quái; còn hơn thế nữa. Ở những
nơi khác cũng có tu viện. Cách Meteóra không xa có tu viện Athos, mang phong
cách hoàn toàn Á đông. Ở vùng Tiểu-Á cũng đầy rẫy tu viện. Tại Tây tạng có những
thành phố tu viện.
Nhưng ở khắp nơi trên quả đất này
không đâu có sự khiêu khích vượt tầm như vậy, một sự tách biệt trơ
trụi đến thế. Tu viện này đặc biệt nổi bật khi người ta suy tưởng: trong các tu
viện phương tây và phương đông từng có người Bonaventura( Ý), người Abélard,
các lạt ma, các vị bồ tát, nhưng chưa ai nghe thấy bao giờ ở Meteóra người ta
xua đuổi các nhà khổ hạnh làm biến đổi thế giới một cách đặc biệt, cũng như về
việc từ các tu viện đã từng xuất hiện một tư tưởng lớn.
Đây một lần nữa lại đúng là
Bidăngtin.
Meteóra không phải do một nhà khổ
hạnh lớn, kẻ bứt mình tách khỏi thế giới, và tìm kiếm chốn nương thân trên đỉnh
những cây cột đã cháy trụi dựng lên; cũng chẳng phải một tinh thần rời xa đám
đông, mà nỗi cô độc đã xua đuổi ra khỏi thế giới con người.
Trong tu viện là những kẻ bẩn thỉu,
nửa hâm hấp, sống cùng vài ba học trò, những kẻ mà các thực hành nghi lễ tôn
giáo của họ giống những thực hành mê tín Papua hơn là của thiên chúa giáo.
Ngoài ra, còn có một điều khác
quan trọng hơn: có lẽ ở nơi đây chưa bao giờ xảy ra bất kỳ điều gì khác lạ, dù
cách đây một trăm năm, hay năm trăm năm cũng thế, từ thời lập tu viện ra đến giờ.
2.
Bước đầu tiên để hiểu được tu viện
Meteeóra là không hiểu tại sao, không ai chú ý đến cái tinh thần rất đặc biệt
nơi đây: tinh thần Bancăng. Điều này gắn bó như thế nào với Bizăngtin, không
nghi ngờ gì nữa, đây không là gì khác ngoài chủ nghĩa Bizangtin sô vanh.
Tất cả, những gì được tạo dựng ở
Bizangtin- là một trật tự sống cực kỳ tinh xảo, tiện nghi, phức tạp: sự khoe
khoang có một không hai, sự hư hỏng ở mức cao nhất, các nghi thức ma quỷ, sự
tha hóa của giá trị đạo đức giả, quyền lực vô nhân tính và cơn sốt vàng- tất cả
rơi vào tầng lớp dân chúng, lúc đó chưa đến nỗi dã man cho lắm.
Bởi vì dân chúng khi chuyển đến
vùng Ban căng vẫn chưa tỏ ra hoang dại như những con ngựa hoang. Đấy là những
nhóm người tàn sót lại, những nhóm cư dân xé lẻ, là những mảnh vỡ đã chịu đựng
những mảng sống đặc thù cắt ngang mà một nghìn năm sau cũng không mài rũa nổi,
những mảng vỡ dân cư này cho đến tận ngày hôm nay cũng không thể tập hợp họ
thành một dân tộc thống nhất.
Một hệ thống đời sống sâu bọ nhất,
thoái hóa nhất rơi xuống đây, vào đống người đê tiện lổn nhổn này, cái đống rác
của các mảnh vỡ dân cư. Có thể hình dung, một nội dung đời sống vô cùng cao cấp,
về mặt đạo đức có thể bất kỳ, tốt hoặc xấu, nhưng rơi vào tay mảnh vỡ dân cư
này, cái gì sẽ xảy ra.
Dân Phi châu trấn lột người châu
Âu: mở túi cặp, dân bản xứ lấy những chiếc thìa bạc móc
xuyên qua lỗ mũi họ, lưỡi dao cạo xóc thành vòng đeo lên
cổ, còn đèn pin treo lên đầu ngọn giáo, máy chữ treo lên cây cột giữa
làng và chỉ cho người châu Âu xem như một vật tế.
Đấy là quan hệ của Bizantin và
các mảng vỡ dân cư. Đấy là Ban-căng.
Đầy rẫy những tập quán đáng nghi,
nặng nề, hư hỏng, những tư tưởng, lý tưởng tinh tế xảo quyệt, gian giảo, những
dối trá lập lờ đánh lận con đen, sự phản bội đường mật, ngoắt ngoéo,
những tâm địa sau lưng trong những cái mặt nạ bản năng thảm hại, dẫn đến sự đểu
cáng của chất người- tất cả, mọi cái truyền đến từ những mảng vỡ dân cư, xâm nhập
và mê hoặc.
Ban-căng không là sự đồng hóa giữa
văn hóa cao cấp và sự dã man, như trước kia đã từng có giữa Hy lạp hoang dại và
Địa Trung Hải phát triển, hoặc như sự gặp gỡ giữa đại đa số dân di cư và La Mã.
Sự hoang dại thuần khiết và văn
hóa thuần khiết có quan hệ họ hàng: bởi vậy chúng phù hợp và thu hút lẫn nhau.
Còn ở đây không phải vấn đề về văn hóa cao cấp cũng như về sự dã man. Mà: là
dòng chảy liên tục của nạn dịch tha hóa có một không hai trên quả đất, cái gọi
là chủ nghĩa Bizantin, là sự gặp gỡ của những bộ lạc rơi rớt lại trong một xó đảo
bởi những cơn lốc xoáy lịch sử, rất có thể bởi vậy chúng hút và hòa
vào nhau.
3.
Giữa thế kỷ XV khi những người
Mohamed ( Hồi giáo) chiếm Bizantin, có vẻ như vương quốc Hy lạp đã vĩnh viễn biến
khỏi trái đất. Có đủ lý do để tin như vậy. Đấy là một dân tộc mới, bằng kỷ luật
lành mạnh và bản năng phong tỏa, bằng đạo đức thanh giáo cứng rắn, quân đội
hùng mạnh, và ý thức kiêu hãnh đặc thù đã chiếm lĩnh Bizantin và làm lung lay
Ban-căng.
Trong lịch sử đầy rẫy các ví dụ kể
về chuyện từ đội quân xâm lược và kẻ bị xâm lược hòa thành một dân tộc và một
tinh thần. Ở đây có một điều gì đó hiển nhiên trong việc một dân tộc mới tiếp
nhận từ dân bản xứ, và ngược lại, để sự vay mượn hòa đồng này biến thành hình
thái thứ ba. Đôi khi hành động này trở nên khả quan.
Nhưng trong trường hợp này không
như vậy. Chưa đầy một trăm năm đã có thể nhận ra ngay tác động của
tinh thần Bizanti, khiến toàn bộ vương quốc Mohamed( Hồi giáo) chìm xuống đầm lầy
Bizantin, chưa kịp trao lại bất kỳ cái gì cho Bizantin hoặc Ban-căng. Cái khả
năng vùng Ban-căng ô hợp dưới tác động của Hồi giáo sẽ trở thành một dân tộc
duy nhất đã bị tan vỡ, đứt đoạn.
Tất nhiên đây không phải chuyện
ngẫu nhiên. Một mặt cái tinh thần Bizantin luôn sản sinh ra sự tan vỡ hơn là củng
cố; mặt khác có thể hòa hợp lẫn nhau giữa các tầng lớp dân tộc, hoặc bộ lạc, hoặc
các tộc đúng là lành mạnh hoặc tròn vẹn, chứ không thể từ các mảng vụn người.
Đạo Hồi thất bại ở Ban-căng cũng
như trước đó Julius Caesar, Pie Đại Đế, Vimos, Atilla, Augustus, Napoléon, như
người Ai cập, La mã, Tây ban nha, người Anh, nói riêng và nói chung thất bại. Tại
sao? tại nhiệm vụ này không thể.
Tư tưởng đế vương của Hồi giáo
không chịu nổi Ban-căng, bởi vậy nó chết ngạt trong tinh thần Ban-căng. Chưa
bao giờ quyền lực thế gian lại thối rữa nồng nặc như đạo Hồi. Nhưng cái gì vậy,
cái gì đã tấn công, đánh úp, xé nhỏ và đầu độc, truyền bệnh và bóp ngạt, đào thải
và hút vào?
Chỉ thuần túy đấy là đạo đức
Bizantin: sự sang trọng bóng bẩy lười biếng và đê tiện, thái độ tôi tớ hèn hạ, tính
cách khoe khoang, tính âm mưu, háo danh, sự phản bội, giết hại lẫn nhau, những
bẩm báo nặc danh, sự ngạo mạn, chuyên quyền, sự vô thức tố cáo, sự thua thiệt,
ghen ghét, lễ giáo.
Giờ đây Ban-căng còn giàu có thêm
bởi một thuộc tính nữa: trong quá trình tha hóa, ngoài cái sọt đựng những mảng
vụn bào dân tộc bẩn thỉu, lộn xộn, vô nghĩa, giờ đây còn thêm tàn
dư những xác chết của đế chế Hồi giáo.
4.
Khi bằng cái thang dây lên cao
sáu mươi sải tay bò vào, người ta thấy từ cửa tu viện Meteora một cái đầu bù xù
bẩn thỉu đần độn nhìn ra, xem kẻ lạ mặt nào dám quấy rầy cuộc sống
thiêng liêng của ngôi nhà: hẳn kẻ này nghĩ như vậy.
Và nếu người ta bước vào nhà, sẽ
từ từ sẽ hiểu ra hậu trường và bản chất của tất cả. Tất cả cái gọi là văn hóa,
hoặc hình thức cuộc sống của đám đông, hoặc trật tự sống chính là dấu ấn cơ bản
của hành vi cá nhân.
Đấy là hành vi cơ bản nhất: thể
loại. Từ gốc cổ Hy lạp Tüposz có nghĩa là dấu ấn đầu tiên
đã được xác định. Đây là hình thức cổ: là cái đầu tiên và cái gốc của thể loại.
Đôi khi từ cử chỉ, đôi khi từ nét
mặt, từ dáng vóc người ta nhận ra Tüposz Đôi khi từ mùi vị. Tu viện
Meteora có một mùi đặc biệt. Không phải mùi hầm đá hoặc mùi ngôi mộ, cho dù hơi
giông giống. Bởi vì ở đây không có xác chết mà có những con người, nói đúng hơn
là những linh hồn sống và không biết, không thể chết. Nó đứng ở cửa chết nhưng
không vào được. Swift từng nhận ra tüposz và gọi là strulbdrug
Đấy là những kẻ một trăm năm
mươi, hai trăm tuổi. mù lòa, không răng, điếc, không đi, không nói được, những
kẻ vật vờ giữa nửa ý thức tự chủ của giấc ngủ và sự tỉnh táo một cách bất lực,
và không chết nổi.
Khát vọng duy nhất của họ: Đấng
Sáng tạo hãy cho con được chết. Nhưng họ vẫn sống- khủng khiếp, hãi hùng, một
cuộc sống ma quái. Tại sao họ không chết được? Tại sao họ không thể chết? Swift
không nói về điều đó.
Strulbdrug không tự mình đẩy
mình ra khỏi con đường, hãy đến, cái gì lớn hơn nó.Cái chết là một sự khiêm tốn.
Con người để chết được, cần nhận biết một bước thông qua nó, có thể
thông qua và vượt. Cần cút đi một cách đẹp đẽ, bình thản, khiêm nhường, cần
phát biểu một cách rộng lượng: đây, tôi đứng tách ra khỏi hàng đây.
Đây là sự khiêm nhượng lượng thứ
từ strulbdrug là tính chất thánh thượng vắng bóng khiêm tốn. Không biết
tránh sang một bên, chỉ cầu xin thượng đế một cách ngu xuẩn. Con người không nhận
được cái chết cho không: chết một cách tốt lành và đấy là phần thưởng, đạo đức,
sự ngợi khen.
Kẻ bất hạnh chỉ xin cái chết,
nhưng không biết quỳ xuống, xin sức lực để nhìn rõ hãy cho phép nó bất
lực về chính bản thân nó. Bởi vì sao? Nó là đỉnh cao của nhân loại? không thể
sáng tạo ra cái gì lớn hơn? Nó là con của người? là mục đích của thế giới? Sao
nó dám cho rằng qua nó có gì đó rõ ràng hơn, cao hơn, đẹp hơn? Tại sao nó không
dọn chỗ và mở đường? Tất nhiên rồi! Thế mới là strulbdrug! Bởi thế nó
không thể chết được, bởi không biết thừa nhận, bởi vậy nó sống tám trăm năm và
chỉ biết lẩm bẩm: giá được chết, được chết!
Tu viện Meteora có mùi strubdrug.
Nơi những con người sống trong cái tinh thần không biết ra đi. Giờ đây có thể
hiểu tại sao người ta lại xây các tu viện. Bởi thế. Những kẻ xây xin cái chết,
để xin được quyền cho phép bước ra khỏi cuộc sống, để biết chết.
5.
Có một điểm nơi cái Tôi ma quỷ
không chết nổi, tự giúp đỡ mình để kẻ sát nhân kích động. Tự nó chỉ biết sống,
không biết chết, và không biết rằng chỉ có thể sống một cách như đã chết. Nó
không biết, con đường nào dẫn đến sự khiêm nhường, để có thể đứng sang một bên,
và như vậy bắt buộc phải tự giết bản thân mình. Điều này xảy ra với Bizantin, bằng tüposz của
cái Tôi ma quỷ.
Nó gọi chất đạo Hồi đến để giết.
Những người Hồi giáo tin rằng nếu cần phải giết một người nào đấy là phải đâm
chết. Họ không hiểu rằng giết khó hơn rất nhiều so với tàn sát. Giết là cần phải
nuốt chửng, phải thu nhập và tiêu hóa. Về điều này những kẻ Hồi giáo không biết
gì hết. Và bởi vậy Bizantin trả thù bản thân kẻ sát nhân : nó tiếp nhận và tiêu
hóa Hồi giáo.
Trong cuộc đời con người điều này
không hiếm. Cái hình thức kích động của niềm tin mù quáng trong cái
Tôi nằm trong sự keo kiệt liên tục đánh mất mức độ và tất nhiên
trong mâu thuẫn của nó: nằm trong sự lãng phí.
Con người trong cả hai trường hợp
này đều muốn giữ, nhưng lại cấm giữ một cái gì đấy chỉ bằng một cách thức khác.
Kẻ keo kiệt muốn dấu diếm ngay trước cả bản thân mình; đây là một kẻ giẻ rách,
kẻ bị tóm mười nghìn lượng vàng dấu trong cái túi cói, sau khi bị nện
cho một trận ở xó đường. Còn kẻ phung phí lại chia tất, chia cả bạn bè, anh chị
em, cha mẹ , rải rắc luôn gia tài trước khi bị một kẻ nào đó được mời
đến bắn gục hoặc bóp cổ.
Chỉ một thứ không được phép giữ lại
trong cả hai cách bảo quản các khả năng khác nhau này: cái Tôi. Kẻ keo kiệt gìn
giữ nó trong cái túi của mình, còn kẻ phung phí tưởng mình ở trong nó. Bởi vậy
kẻ keo kiệt thì đề phòng, kẻ lãng phí thì đào thải: kẻ keo kiệt là kẻ phung phí
hướng ngoại, còn kẻ phung phí là kẻ keo kiệt hướng nội.
Không có gì tầm thường hơn khi kẻ
keo kiệt hướng nội và bắt đầu phung phí, hoặc kẻ phung phí quay ra hướng ngoại
và bắt đầu tiết kiệm. Cả hai đều là niềm tin của cái Tôi mù quáng, tội lỗi, bất
hạnh độc ác và ngu xuẩn.
Là thách thức trong mức độ lớn nhất,
đấy là sự ác cảm khi con người nhìn kẻ keo kiệt hoặc hoang phí, một cách rất có
lý. Đấy là sự phẫn nộ, khi kẻ nào đề cao ý nghĩa cái Tôi rằng chỉ được nếu cho.
Và chỉ có nếu không có, và không có nếu có. Người bình thường bực mình vì những
điều này. Nhưng kẻ sát nhân là kẻ cảm thấy mình là thông điệp của thượng đế, kẻ
nghĩ rằng: nó đến để phán xử. Và bắt đầu phán xét.
Giữa đám các mụ già keo kiệt và
các demi-monde hoang phí bao giờ cũng có kẻ sát nhân lẩn quất. Chúng kéo lũ sát
nhân vào cuộc sống của chúng. Nếu có cắt hoặc bóp cổ chúng cũng chả xảy ra điều
gì đặc biệt ngoài việc đã xảy ra điều chúng phán.
Có một giới hạn, quá giới hạn ấy
cái Tôi không chết nổi, không còn kích động kẻ sát nhân nữa. Nó không có khả
năng. Đây là điểm cần đưa vào một khái niệm mới. Đấy là khái niệm mới: autoknirps.
Đây là trò chơi chữ bởi con người
từ sự thận trọng mó vô tình vào những sự việc nguy hiểm nhất một
cách vô thức. Ta cần biết máy ảnh có một bộ phận nhỏ, chỉ là một cái
móc kéo giúp máy ảnh tự nó chụp. Người ta gọi nó là autoknirps.
Thay cho knips là knirps tiếng
Đức nghĩa là con trẻ, một thằng người bé tí co quắp, một thằng lùn xấu xí. Vậy
thì autoknirps nghĩa là một con người tự thu nhỏ mình lại, biến thành
thằng lùn, một kẻ mọi giá thu nhỏ mình trong một góc bé xíu càng bé càng tốt:
trong một căn phòng, hay trong một cái giỏ bằng rơm, hay trên đỉnh một cây cột
đá, hay trên triền một dãy đá Meteora.
Sống chỉ ngần ấy, chiếm chỗ, mở rộng,
chinh phục khoảng không. Điều này người ta gọi là lớn lên. Luôn luôn to hơn, lớn
hơn. Cuộc sống mở rộng không ngừng. Đặc biệt nếu con người không lớn lên trong
vật chất nữa, nó lớn lên trong tinh thần và linh hồn: trong sự vô hình. Giống
như lửa. Đến chừng nào đủ.
Niềm tin - cái Tôi autoknirps biết
điều này. Vì thế nó thu hình bản thân nó lại. Nó thu nhỏ, để tránh ngọn lửa
tiêu hóa tinh thần, nó co quắp nó lại trong một vị trí bé xíu- bé tý để cứu vớt
mình khỏi sự cháy sém của cái Tôi. Và nó cứu được.
Autoknirps không chỉ muốn chạy
trốn mà đã chạy trốn. Truyện cổ tích nhận biết diễn trình này của cuộc
sống, rằng đấy là chú lùn. Là thực thể tự nhiên hoàn toàn, kẻ lẩn tránh khỏi
tinh thần, sống trong rừng, ẩn náu, khép kín, dưới những tảng đá ẩm ướt hoặc dưới
tán cây, trong tranh tối tranh sáng, kẻ nấp để đừng cần phải giao tiếp, để kẻ lạ
khỏi phát hiện ra.
Kẻ lạ là tinh thần, thứ đe dọa
cái Tôi của nó. Nó sống phi tuổi tác. Truyện cổ tích cho biết những chú lùn
nghìn tuổi không phải là hiếm. Có những chú lùn gần như bất tử. Râu của họ dài
chạm đất, đầy nếp nhăn, méo mó, họ ăn nấm và rễ cây, sống trong hang.
Ban đêm họ nheo nhéo và nhảy múa:
Tôi là Tôi- đấy là ý nghĩa của điệu nhảy. Họ giống như các xác ướp: khô cứng, gầy
gò và già thất kinh. Họ không chết. Họ tối tăm, lạnh lùng và khó tính. Đúng là
họ không lớn lên nữa, nhưng cũng chả sao. Quan trọng là họ sống. Quan trọng là
họ lúc nào cũng Tôi là Tôi.
Cũng chả sao khi thực ra họ cũng
chả khác cái nấm hay chiếc lá khô nơi họ ẩn náu. Nhưng họ tồn tại. Xấu xí?
Không nhận được gì hết? Chẳng tình yêu, chẳng cuộc phiêu lưu, chẳng tri thức,
chẳng cuộc chiến, chẳng ánh sáng?- Không sao hết/ Quan trọng là họ tồn tại và
Tôi là Tôi. Họ sống quăn queo, run rẩy ôm lấy bản thân: sống sót, sống sót.
Xin mời- Quyền lực lên tiếng- mi
cứ việc sống sót, để xem mi đi tới đâu? Chú lùn.
Autoknirps đến kích động kẻ
sát nhân cũng không nốt. Nó không giết những chú lùn. Kẻ sát nhân không quan
tâm, nó mang nhiều phẩm chất cao quý trong nó, sao lại phải
bạn bè với lũ này. Đi mà nhảy xuống giếng hoặc cắt mạch máu. Chú lùn không chọc
ngoáy bản năng chê bai ngu ngốc của kẻ sát nhân.
Bởi con người chỉ hiểu hoàn toàn
kẻ sát nhân, nếu biết nó làm việc ”tốt”. Nó giết kẻ keo kiệt, kẻ hoang phí bởi
vì ở đây có việc ”đã làm tốt”. Bởi vì những kẻ này yêu cầu nó. Autoknirps không
gọi ai và cái gì, nó không có nhu cầu đến cái tốt lẫn cái xấu. Tôi là tôi. Chẳng
cần ai khác, ngoài bản thân nó, và tìm ra cách thức để có thể thu nhận và bảo vệ
: cái co quắp-Tôi.
Nó đánh mất hết? Đúng. Nhưng châu
báu còn lại. Nó không cần lợi ích, và cũng không muốn. Lợi ích là một thứ nguy
hiểm, quyến rũ, lôi kéo đến những không gian tự do, vào một số phận nào đấy.
Chính là cái mà nó muốn tránh xa. Không cần số phận. Cần cái Tôi.
Nó chỉ giữ gìn châu báu. Bởi vậy
truyện cổ tích kể rằng chú lùn phần lớn canh giữ hòm đá quý đào được
và vàng bạc. Dưới lòng đất, chẳng ai tiêu vào đồ uống, nhà cửa, quần áo sặc sỡ,
vào bánh mỳ.Chỉ có ở đấy thôi. Chú lùn đào mình lên, và chẳng ai bắt gặp.
6.
Tôi là Tôi- Meteora tuyên bố.
Không đặc sắc hay sao? Xây tu viện để cầu khẩn Thượng đế, hãy giải thoát khỏi
cơ co quắp-cái Tôi.
Homoioata: bằng kiến trúc
thu nhỏ chữa chạy cơ co quắp-cái Tôi, hay đúng hơn muốn bắc cầu bằng kiến trúc
này cho sự thu nhỏ cái Tôi riêng, để khóa bản thân mình vào bản thân, đưa lên đỉnh
cột và khóa lại. Biến thành Autoknirps khi muốn giải thoát khỏi bản
thân. Một sự điên rồ thuần túy, nếu không cùng lúc là một căn bệnh nguy hiểm; một
căn bệnh nguy hiểm, nếu cùng lúc không là một lời nguyền định mệnh;
lời nguyền, nếu không phải là nguyên nhân, là nguồn gốc và là cội nguồn: cái
Tôi.
Đây là vòng quay của Quỷ: từ cái
Tôi sang cái Tôi- các chú lùn quay tròn như thế trong rừng lúc nửa đêm, họ đi
trốn, để quay trở lại, và túm lấy tóc nhau. Trò chơi duy nhất của các chú lùn:
chạy xung quanh gốc cây, thật nhanh để làm sao đuổi kịp tấm lưng của chính họ.
Đấy là trò chơi-Meteora.
Meteora không phải tu viện của
Thánh Ferenc, không phải tu viện của Tây Tạng. Ở đó cũng có sự khổ hạnh, như ở
đây, nhưng đây không phải sự hiến dâng, mà là khổ hạnh của sự sống sót: kiếm
tìm tri thức, từ hình phạt, từ đau đớn, từ việc ăn chay, từ roi quật, để thu thập
tri thức làm thế nào sống sót.
Tại đây Bizantin sống sót như thế
đó, nỗi sợ chết thắt ngập trong cơ co quắp -cái Tôi, tại đây một nghìn năm được
chăm sóc và tha hóa, trong các tu viện trần trụi. Meteora là nhà tù của cái
Tôi, là của cái Tôi, kẻ tự tách mình ra khỏi thế giới, không tham dự, không muốn
số phận, không muốn gì hết, chỉ muốn duy nhất cái Tôi.
Và đã nhận được: những xác ướp, sự
tối tăm ẩm thấp đóng mỗi ngày dày thêm trong các tu viện, nhiều nghìn năm trong
nhà tù cái Tôi đáng nguyền rủa và bất hạnh. Người nào chỉ nghĩ đến bản thân,
người đó sống trong Meteora, trên đỉnh cột đá, bị ướp xác, và tội nghiệp, không
chết được.
Người trẻ tuổi, kẻ mở cửa, kẻ tu
hành rậm râu chúi đầu đọc, kẻ đã sáu trăm năm hay bao nhiêu năm rồi cầu nguyện,
biết điều này. Nó biết còn nhiều hơn cả bằng trí óc và tri thức của nó.
Nếu nó nhìn ra ngoài cửa sổ, nó
không thấy gì ngoài sa thạch xám-vàng và các khoảng cách. Giống như cảnh của thế
giới bên kia. Địa ngục của sôi sục. Một xô nước trong góc nhà, nhưng đã có mùi.
Họ làm gì cả ngày? Tự lo lắng cho
bản thân. Cả ban đêm cũng thế. Có thể đến ngủ họ cũng không dám, và chắc chắn họ
không có giấc ngủ. Có thể quyến rũ họ ngắm một người đàn bà, hoặc hãy huýt sáo
đi, hay đi tắm đi hoặc hãy uống một ly rượu. Có thể sau cùng họ sẽ cầu nguyện một
cách thực sự.
Một tu viện đơn độc, được xây lên
để con người lẩn trốn nốt khỏi mắt thượng đế. Mùi Strulbdrug ,
mùi của kẻ không chết được, kẻ ngạo mạn với chính bản thân bằng một cách thức
ngạo mạn, và phung phí reo rắc cả thế gian vào cái không là gì.
Kẻ trốn tránh chiến tranh, trốn nạn dịch, sự chinh phục, trốn quân vô lại, kẻ không cần cho bọn cướp, cho tai ương lẫn quân Thổ. Chú lùn không vời đến kẻ sát nhân. Chỉ ngồi và cầu nguyện với bản thân trên nóc cột đá, trên những phiến đá xám, khép kín và ngu muội đi. Và nếu có ai tại sao nó làm như thế, cùng lắm nó sẽ nhún vai, nhìn qua cửa sổ ngắm những tảng đá trần trụi và từ tốn trả lời: cả Trái đất là Meteora.
17/10/2010
Hamvas Béla
Nguyễn Hồng Nhung dịch
Nguồn: Trích tiểu luận triết học Câu chuyện vô hình - Hamvas Béla
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét