Đọc lại truyện Hùng Vương
Truyện Hùng Vương là huyền thoại gốc nói về tổ tiên và việc dựng
nước của người Việt. Do ý nghĩa đó mà nhiều thế hệ Việt gắng sức giải mã truyền
thuyết này nhằm minh định nguồn gốc tổ tiên đất nước mình. Tuy nhiên cho đến
nay chưa có phương án nào thực sự thuyết phục và vì vậy, cả tổ tiên lẫn đất nước
Việt thời khởi nguyên vẫn mù mờ trong huyển thoại. Nay, dưới ánh sáng những
phát kiến mới nhất của di truyền học, chúng tôi có điều kiện bàn lại chuyện
này.
Muốn giải mã truyền thuyết Hùng Vương trước hết phải giải quyết
hai vấn đề then chốt: một là xác định nguồn gốc sinh học của Hùng Vương và hai,
xác định thời điểm cùng cương vực câu chuyện diễn ra.
Truyện kể rằng: “Cháu ba đời của Thần Nông Viêm Đế là Đế Minh
sinh ra Đế Nghi. Sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái
Vụ Tiên sinh ra vua (Kinh Dương Vương)… Đế Minh lập đế Nghi là con trưởng nối
ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương
Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh
ra Lạc Long Quân. Sách Thông giám ngoại kỷ nói: Đế Lai là con Đế Nghi.
Lạc Long Quân tên huý là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương,
vua lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ, sinh trăm con trai (tục truyền trăm trứng) là
tổ của Bách Việt. Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống
tiên, thuỷ hoả khắc nhau, chung hợp thật khó.” Bèn từ biệt nhau, chia 50 con
theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép là về Nam Hải),
phong cho con trường là Hùng Vương, nối ngôi vua” “Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc
hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam hải, tây giáp Ba Thục, bắc đến Hồ
Đông Đình, nam giáp nước Hồ Tôn tức nước Chiêm Thành.”(Đại Việt sử ký toàn thư)
Theo đoạn trích trên thì: Lạc Long Quân là cháu trực hệ của
Thần Nông. Người Việt cho rằng tổ tiên của mình là Thần Nông Viêm Đế. Nhưng nhiều
tài liệu nói Trung Hoa cũng nhận Thần Nông là tổ của họ. Sự tranh chấp đã điễn
ra hàng ngàn năm. Nay nhờ phát kiến mới về gene ta có thể phán quyết vụ án này.
Ta biết rằng người hiện đại Homo Sapiens xuất hiện tại Đông
Phi khoảng 180.000 năm trước. Khoảng 70000 năm trước, họ theo con đường Nam Á tới
miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Tại đây hai đại chủng Mongoloid và Australoid
hoà huyết sinh ra các chủng Indonesien, Melanesien…và tràn khắp lục địa Đông
Nam Á, sau đó di cư sang châu Úc và các đảo ngoài khơi. Khoảng 40.000 năm trước,
do băng hà tan, khí hậu ấm hơn, người từ Đông Nam Á đi lên khai thác miền đất
ngày nay có tên là Trung Quốc. Cho đến 4000 năm TCN, người Đông Nam Á mà sau
này được gọi là Bách Việt sống tại duyên hải Đông Á có nhân số chiếm
54% dân số nhân loại. Do tộc Lạc Việt giữ vai trò lãnh đạo về xã hội
và tiếng nói, người Bách Việt xây dựng nền văn minh nông nghiệp lúa nước phát
triển nhất thế giới.(1)
Cũng thời gian này hay muộn hơn, một nhóm Mongoloid từ Đông
Nam Á theo con đường Ba Thục lên định cư ở Tây Bắc Trung Quốc và nước Mông Cổ,
tạo nên chủng Mongoloid phương bắc tổ tiên của những bộ lạc du mục sau này. Điều
kiện sống đã tạo nên họ là những bộ tộc thiện chiến.
Khoảng 2600 năm TCN, người Mông Cổ tràn qua Hoàng Hà chiếm đất
của người Bách Việt. Rất mau chóng, người Mông Cổ hoà huyết với người bản địa tạo
ra chủng mới gọi là Mongoloid phương nam. Việc lai giống này xảy ra như phản ứng
dây chuyền khiến cho sau đó chủng Mongoloid phương Nam chiếm đại bộ phận dân cư
Á Đông.
Từ con đường hình thành nhân chủng Đông Á trên đây, ta có thể
rút ra kệt luận: Thần Nông, Đế Minh, Đế Lai, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân
cho đến Hùng Vương là người Bách Việt. Cụ thể hơn, là người Lạc Việt, thuộc chủng
Indonesien tức là hậu duệ của những người từ Đông Nam Á đi lên.
Cũng có thể giả định câu chuyện sau: tham gia trận quyết chiến
Trác Lộc trên sông Hoàng Hà, trong liên quân Việt do Đế Lai (bị gọi là Si Vưu)
lãnh đạo, có cả Lạc Long Quân, con rể và cũng là em con chú của Đế Lai. Khi Đế
Lai bị giết, Lạc Long Quân dẫn quân Việt cùng với gia đình lên thuyền (thời
gian này, người Việt đi thuyền giỏi và làm chủ biển Đông) theo Hoàng Hà ra biển,
xuôi xuống phía nam. Theo Ngọc phả Đền Hùng thì đoàn người của Lạc
Long Quân đóng đô tại rào Rum ngàn Hống (núi Hồng sông Lam), sau đó di chuyển
lên vùng Ao Việt (Việt Trì) lập nước Văn Lang.
Theo tài liệu khảo cổ và lịch sử thì đoàn di tản của Lạc Long
Quân trở về Việt Nam quê hương cũ chỉ là đoàn mở đầu: là những người
Indonesien, Melanesien mà lịch sử viết là Việt với bộ Mễ. Sau này, do sự bành
trướng của kẻ xâm lăng, nhiều lớp người Bách Việt nối tiếp trở về Việt Nam cũng
như Đông Nam Á. Ngày càng nhiều người trong lớp di cư sau, được lai giống trở
thành chủng Mongoloid phương Nam. Những người này khi trở lại Việt Nam, hoà huyết
với người bản địa khiến cho vào khoảng 2000 năm TCN phần lớn dân cư Việt là
Môngoloid phương Nam.(2)
Với phân tích trên, ta nhận thấy, từ Thần Nông cho đến Hùng
Vương về sinh học là người Lạc Việt thuộc chủng Indonesien. Sau Hùng vương, con
cháu Cụ dần dần chuyển thành chủng Mongoloid phương Nam. Người Việt ta ngày nay
là con cháu đích thực của Hùng Vương.
Còn người Trung Hoa thì sao? Do chưa có tư liệu về gene người
Hán cho nên hầu hết học giả trước đây lầm lẫn khi coi những người tràn qua
Hoàng Hà chiếm đất của người Việt là Hán tộc. Thực ra đó là người Mông Cổ. Xuống
Cửu Châu hoà huyết với người Việt, họ góp phần tạo ra chủng mới là Mongoloid
phương Nam. Chủng Mongoloid phương Nam là dân cư thời Nghiêu, Thuấn, Vũ… được lịch
sử gọi là Hoa Hạ. Chỉ tới đời nhà Hán, người Hoa Hạ mới được gọi là người Hán.
Như vậy về mặt di truyền, trong huyết thống người Hoa Hạ vừa có máu Mongoloid
phương Bắc vừa có máu Bách Việt. Một cuốn sách cổ Trung Quốc gọi rất đúng họ là
‘Viêm Hoàng tử tôn.’ Thuộc chủng Mongoloid phương Nam nên người Trung Hoa, Việt
Nam cũng như đại bộ phận người Đông Á cùng là hậu duệ của Thần Nông Viêm Đế và
Hiên Viên Hoàng Đế.
Theo truyền thuyết, Hùng Vương dựng nước Văn Lang trên địa vực
rộng lớn: từ bờ sông Dương Tử tới tận sát nước Chiêm Thành nghĩa là phần lớn địa
bàn sinh sống của người Bách Việt.
Suy nghĩ thế nào về nước Văn Lang huyền thoại này? Đây chính
là chỗ mà nhiều người hiểu khác nhau.
Dựa trên thư tịch Trung Hoa nói rằng Sở Hùng Cừ làm vua nước
Sở truyền nhiều đời nên một số tác giả suy luận: nước Văn Lang này là nước Sở
miền Kinh Việt.
Giả thuyết này quá phụ thuộc vào sách Tàu và không phù hợp với
văn bản câu chuyện vì đã đẩy kinh đô Văn Lang từ Bạch Hạc lên tận miền Kinh Sở.
Không những thế, nó còn rút ngắn lịch sử Văn Lang xuống thời Chiến Quốc từ khoảng
2600 năm xuống 800 năm TCN.
Chúng tôi đề nghị kịch bản sau:
Trước hết nên hiểu khái niệm ‘nước’: ở thời đó nước là tập hợp
nhiều bộ lạc cùng hay gần gũi về chủng tộc, gần nhau về ngôn ngữ, sống trong
biên giới mở. Như vậy ‘nước’ Xích Quỷ là liên minh những bộ lạc Việt sống ở
phía Nam sông Dương Tử do Lạc Long Quân làm thủ lĩnh. Để ghi nhớ vua cha là
Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân đã lấy tên cha đặt cho đất Kinh và đất Dương.
Khi bại trận Trác Lộc, Lạc Long Quân đưa bầy đoàn ra biển nhưng không hiểu vì
nguyên nhân nào đó, (có thể là tiên cảm về một cuộc chiến khốc liệt và kéo dài
nên cần một hậu cứ vững chắc. Cũng có thể vì lòng hướng vọng về cội nguồn quê
cũ?) ông không trở lại Ngũ Lĩnh mà dông thuyền theo gió Bấc đổ bộ vào Nghệ An rồi
lập nước Văn Lang. Phải chăng đây là việc thiên đô và đổi quốc hiệu: đô mới là
Bạch Hạc, quốc hiệu Văn Lang thay cho Xích Quỷ? Tại vùng đô hội cũ thuộc Ngũ
Lĩnh những con cháu của Lạc Long Quân vẫn truyền đời làm chủ. Sau này, do tranh
chấp nội bộ, nước Xích Quỷ phân ra thành những nước nhỏ như Ngô, Việt, Sở. Nước
Sở mạnh lên, một dòng của Lạc Long Quân là họ Hùng lên ngôi thôn tính Ngô, Việt?
Đấy chỉ là giả thuyết nhưng có điều chắc chắn Bạch Hạc thực sự
là trung tâm kinh tế văn hoá sớm và lớn của khu vực. Đồ đồng Phùng Nguyên xuất
hiện từ trước nhưng tới thời kỳ này thì phát triển rực rỡ với nhiều trống đồng
tinh xảo. Điều này chỉ có thể diễn ra ở địa bàn đông dân, có nền kinh tế mạnh
và văn hoá cao, cũng có nghĩa là nhà nước, dù trong hình thức sơ giản cũng đã
có mặt và thể hiện được hiệu lực điều hành xã hội của mình. Chính sự kiện này
minh chứng cho nhà nước Văn Lang.
Như vậy, có thể giải mã truyền thuyết Hùng Vương như sau:
Lạc Long Quân là con cháu trực hệ của Thần Nông Viêm Đế, là hậu
duệ của người Lạc Việt chủng Indonesien đi lên khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm
trước.
Lạc Long Quân là một thủ lĩnh của liên bộ lạc Bách Việt tập hợp
trong quốc gia từ phía nam Trường Giang đến tận miền Trung Việt Nam.
Lạc Long Quân dời đô về Bạch Hạc và đổi quốc hiệu thành Văn
Lang. Trong khi đó con cháu ông vẫn thống lĩnh những bộ tộc Việt miền Kinh
Dương.
Sau đời nhà Chu, nước Xích Quỷ cũ bị xé ra thành những nước
như Ngô, Việt, Sở… Một dòng của Lạc Long Quân họ Hùng nắm quyền ở nước Sở.
Vùng kinh đô nước Văn Lang là trung tâm kinh tế văn hóa và quyền lực trong khu vực.
Phải vậy chăng? Không phải vậy chăng kính mong quý vị cao minh chỉ giáo!.
Sài Gòn, 7/8/2006
Hà Văn Thùy
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét