Về từ cõi chết 1
Chương 1
Tiểu Thuyết Tự Truyện của Elie Wiesel (Giải Nobel Hòa bình
1986) Nguyễn Ước chuyển ngữ
Lời giới thiệu
của người dịch
Về từ cõi chết là nhan đề tiếng Việt của một bộ ba tiểu
thuyết tự truyện của Elie Wiesl.
ELIE WIESEL là nhà văn gốc Do thái. Ông sinh năm
1928 tại Roumania, gần biên giới Hungary. Năm 1944, cậu bé mười
sáu tuổi Wiesel với toàn gia đình bị gom vào trại tập trung của Đức Quốc
Xã. Tại Trại Auschwitz, cậu chứng kiến mẹ và cô em út bị đưa vào lò
thiêu. Sau đó, tại Trại Buchenwald, cậu lại thấy tận mắt cha bị đánh
tới chết. Nỗi tuyệt vọng sâu xa mà Wiesel trải qua từ thời niên thiếu
đã khắc sâu những vết sẹo mãn tính trong tâm trí ông. Sau chiến
tranh, ông dời đến Paris, theo học Triết tại Đại học Sorbonne và vào quốc
tịch Pháp, làm ký giả cho một tờ báo Do thái ở Israel. Kế đó,
ông qua Mỹ, làm giáo sư ở City College, N.Y.(1972), rồi Boston College
(1976)...
NIGHT (Đêm) là tác phẩm đầu tay của ông, tự truyện, xuất bản ở Paris năm
1958; bản tiếng Anh do Stella Rodway dịch xuất bản năm 1960. Từ đó đến
nay đã được tái bản trên hai mươi lăm lần. Tác phẩm đã được Alfred
Kazin đánh giá là, “Không ai để lại đằng sau mình một bản tường trình quá đổi
thương tâm như thế.” Và Daniel Stern, người phụ trách mục điểm sách
của tạp chí The New York Times đã nhận xét về ông, “Kể từ Albert Camus tới nay,
chưa có người phát ngôn nào về con người hùng biện đến thế,”
Nếu Nhật ký Anne Frank cho thấy những đau đớn, mơ ước và cùng
quẩn của con người khi bị săn đuổi đưa vào các trại tập trung, thì Đêm cho thấy
những gì xảy ra bên trong trại tập trung và đời sống của những người sống tại
cõi địa ngục trần gian đó. Họ là những con thú kiệt sức, chờ giờ lên
giàn tế cho ác thần mà chủ tế là những tên đồ tể thời đại mới. Đêm
là cuốn thứ nhất của bộ ba tác phẩm này, hai cuốn tiếp là Dawn (Rạng Sáng,
1960) và Accident (Tai Nạn, 1960). Từ con người sống để chờ giờ vào
lò thiêu trong Đêm, Wiesel hoá thân làm kẻ săn lùng và hủy diệt mạng sống người
khác với vai trò kẻ khủng bố của phong trào phục quốc Do thái trong Rạng Sáng;
và sau đó, trong Tai Nạn, ông mang tâm cảnh của một người trí thức bơ vơ, không
tình yêu chẳng niềm tin, với nỗi ám ảnh dằng dặc về cái chết của Thượng đế và ước
muốn tự hủy của con người.
Mỗi dòng chữ trong Về từ cõi Chết đều chất ngất dấu hỏi làm
sao quên được quá khứ thống khổ và nhục nhã để sống đời đáng sống, để có tình
yêu và tình người.
Đây là cuộc hành trình của tuổi trẻ sống sót từ địa ngục trần
gian để sau đó thấy mình quằn quại giữa sống và chết. Tuổi xuân tuẩn
nạn ấy vừa sáng suốt vừa mê sảng trong một thế giới phi đạo lý, chẳng tình người,
không còn đấng thượng đế được quan niệm như một người cha chí công và nhân từ,
không còn hiện tại như một điểm xuất phát tươi mát cho tương lai, không còn đời
sống vì cõi người đã nặng mùi chết chóc. Tuổi trẻ đặc biệt của thế kỷ
hai mươi bị lừa dối vì những chiêu bài mệnh danh là lý tưởng và bị vắt kiệt
trong hận thù.
WIESEL LÀ TÁC GIẢ CỦA TRÊN BỐN MƯƠI TÁC PHẨM, NHƯ:
The Town Beyond the Wall - Thị Trấn Bên Kia Tường, 1964;
Le Chant des Morts - Bài Ca Của Những Kẻ Chết, 1964;
Le Mendiant de Jérusalem - Người Hành Khất Thành Giêrusalem,
1968;
Les Portes de la Forêt - Cửa Rừng, 1968;
Souls on Fire - Những Linh Hồn Bừng Lửa, 1972;
Le Testament dõun Poète Juif Assassiné - Bản Tự Kiểm Của Một
Nhà Thơ Do Thái Bị Ám Sát, 1980 v.v...
Năm 1986, ông được trao giải Nobel Hoà Bình, như một ngôn sứ
của thời đại. Bản Tuyên dương của Ủy ban Hòa bình ghi: “Sự
dấn thân của Wiesel phát xuất từ những khổ đau của dân tộc Do thái, đã mở rộng
ra để ôm vào lòng tất cả các dân tộc và chủng tộc bị áp bức.” Về phần
Wiesel, trong ngày nhận giải, ông đã tóm tắt sứ mạng của mình: “Tôi đã quyết định
cống hiến đời mình để kể chuyện vì tôi cảm thấy rằng được sống sót là mắc nợ
người đã chết một điều gì đó. Đó là nỗi ám ảnh phải nhớ đến họ, và
ai không nhớ đến người đã chết là thêm lần nữa phản bội họ.”
Lời nói đầu
của Elie Wiesel
Bộ sách này là ba bản tường thuật được viết một cách riêng rẽ
trong khoảng thời gian từ năm 1955 đến năm 1960. Bản tường thuật thứ
nhất là lời chứng, hai bản còn lại được dùng như lời luận giải. Tuy
thế, cả ba đều được viết với ngôi thứ nhất. Trong Đêm, thì “Tôi” là
kẻ phát biểu; trong Rạng Sáng và Tai Nạn thì “Tôi” là kẻ lắng nghe và tra vấn.
Các câu chuyện này vẫn còn hết sức thiết thân với
tôi. Không chỉ câu chuyện đầu mà vì những lý do hiển nhiên, mãi mãi
sống động thẳm sâu trong tất cả những gì tôi đã và đang viết và trong tất cả những
gì tôi sắp viết. Hai câu chuyện còn lại cũng vậy. Ngày
nay, các chủ đề của Rạng Sáng và Tai Nạn dường như mang tính cách thời sự hiện
thực còn hơn thời chúng được xuất bản. Tôi phát biểu về sự lôi cuốn
xã hội vào bạo động ở mặt này và vào sự cám dỗ tự sát ở mặt kia. Nếu
không ở trong khung cảnh của Biến cố ấy, thì làm sao chúng ta giải thích được sự
hận thù đang cháy bỏng dưới quá nhiều mái gia đình? Và làm sao chúng
ta hiểu được sự tuyệt vọng đang thúc đẩy những người tuổi trẻ tự
sát. Mọi con đường đều dẫn chúng ta trở lại nơi ấy. Bất
chấp tất cả những gì tương tự, Auschwitz tự nó lập thành một
điểm chỉ dẫn.
Vì Auschwitz tiêu biểu cho cực điểm của bạo lực, hận thù và
chết chóc, nên bổn phận của chúng ta là chiến đấu chống bạo lực, hận thù và chết
chóc: đó là chủ đề của Rạng Sáng.
Vì Auschwitz tước đoạt của chúng ta hi vọng và tình yêu tới độ
làm chúng ta mất khát vọng sống, nên chúng ta phải khẳng định hi vọng và tình
yêu, nhân danh chính cuộc sống, cái sẽ mang chúng ta đi trọn từ đầu tới cuối:
đó là lời kêu gọi vang vọng trong Tai Nạn.
Nếu hôm nay phải viết lại cả ba câu chuyện này, tôi sẽ không
thay đổi một chữ.
Về Từ Cõi Chết:
Đêm
Lời tựa
của Francois Mauriac
Các ký giả nước ngoài thường đến thăm tôi. Tôi sợ
những cuộc gặp gỡ ấy vì tôi bị dằng co giữa niềm ao ước thố lộ tất cả những gì
trong lòng mình và nỗi kinh hãi là đặt vũ khí vào tay người phỏng vấn khi mình
không hiểu chút nào thái độ của người đó đối với nước Pháp. Tôi luôn
luôn thận trọng trong những cuộc gặp gỡ thuộc loại ấy.
Sáng đó, người ký giả Do thái trẻ tuổi này đến phỏng vấn tôi
cho một tờ báo xuất bản ở Tel Aviv, đã tức khắc chinh phục được thiện
cảm của tôi. Cuộc đàm đạo của chúng tôi nhanh chóng trở thành trò
chuyện tâm tình. Nó đưa dẫn tôi trở lại những hồi tưởng Thời Bị Chiếm
Đóng. Không phải chỉ những biến cố dính líu trực tiếp tới chúng ta mới
làm cho chúng ta có nhiều xúc động sâu xa. Tôi tâm sự với người
khách trẻ tuổi của mình rằng trong những năm ảm đạm ấy, không có gì tôi thấy mà
để lại vết hằn sâu đậm trong lòng tôi cho bằng những toa tàu chất đầy ứ trẻ em
Do thái đậu ở sân ga Austerlitz, tuy tôi chưa từng tận mắt chứng
kiến! Khi vợ tôi mô tả cho tôi nghe về chúng, giọng bà vẫn ngập tràn
kinh hãi. Vào thời ấy, chúng tôi chẳng hiểu chút gì về những phương
cách hủy diệt của Đức Quốc Xã. Và ai mà có thể tưởng tượng ra nổi những
phương cách đó! Cho đến lúc ấy, cách mà những con cừu non ấy bị giựt
khỏi mẹ chúng cũng đã vượt quá những điều chúng tôi có thể nghĩ tưởng. Tôi
tin rằng vào ngày ấy, lần đầu tiên tôi chạm đến bí ẩn của tội ác mà sự phát hiện
ra nó đã đánh dấu việc kết thúc một kỷ nguyên và mở đầu một kỷ nguyên
khác. Giấc mơ người phương Tây cưu mang suốt thế kỷ mười tám, buổi
bình minh người ấy tưởng đã thấy vào năm 1789 và kéo dài đến tháng Tám 1914, giấc
mơ ấy bền vững thêm nhờ những tiến bộ của trí tuệ và khám phá của khoa học - với
tôi, giấc mơ ấy cuối cùng vỡ vụn trước những toa tàu đầy ứ trẻ con
đó. Tuy thế tôi vẫn còn xa vạn đặm mới với tới được ý nghĩ rằng những
đứa trẻ đó là nhiên liệu cho phòng hơi ngạt và lò thiêu xác.
Lúc ấy, tôi bày tỏ điều đó với người ký giả trẻ tuổi
này. Và khi tôi nói trong tiếng thở dài, “Tôi thường nghĩ tới những
đứa bé đó biết ngần nào!” thì anh đáp lại rằng “Tôi là một đứa trong chúng
nó.” Anh đã là một trong những đứa trẻ đó. Anh đã nhìn mẹ
mình, đứa em gái út yêu dấu của mình, và cả nhà, trừ cha anh, biến mất trong
chiếc lò nướng được chụm bằng những tạo vật sống. Về phần người cha
thì ngày này sang ngày khác, đứa trẻ đó bị buộc phải làm khán giả chứng
kiến nỗi thống khổ, quằn quại và cái chết tuẫn nạn của cha mình. Và
chết mà lại chết như thế đó! Những tình cảnh của cái chết đó được đề cập tới
trong cuốn sách này; và tôi muốn để dành sự khám phá về chúng và về phép lạ khiến
bản thân cậu bé đã thoát ra được cho người đọc mà sẽ lên tới con số đông đảo
như khối lượng độc giả của cuốn Nhật Ký Của Anne Frank.
Bản ghi nhận riêng tư này ra đời sau nhiều bản khác cùng loại
mà sự mô tả của chúng làm tổn thương tính tự mãn của chúng ta, những người cứ
tưởng mình đã hiểu tường tận những gì có thể hiểu, tuy nhiên, tôi xác nhận đây
là một tường trình khác biệt, cá biệt, dị thường. Số phận của người
Do thái tại một thành phố nhỏ vùng Transylvania có tên là Sighet, mù lòa khi đối
mặt với định mệnh trong lúc họ vẫn còn đủ thì giờ cao bay xa chạy; họ đã tự
mình thụ động đầu hàng một cách ngoài sức tưởng tượng, tai lơ mắt điếc trước lời
cảnh cáo van nài của một nhân chứng mà chính bản thân người ấy đã trốn thoát khỏi
cuộc tàn sát, người ấy mang về cho họ tin tức anh thấy tận mắt, nhưng họ không
chịu tin anh, đối xử với anh như với một người điên - những trạng huống đó, đối
với tôi, hình như tự chúng đã đủ cảm hứng cho một cuốn sách mà chẳng cuốn sách
nào khác có thể sánh bằng.
Tuy thế, tận cùng chốn sâu thẳm của lòng tôi đã bị cuốn hút bởi
một khía cạnh khác của cuốn sách dị thường này. Cậu bé, người kể
cho chúng ta nghe chuyện của cậu ở đây, là kẻ được Thượng đế chọn lựa. Từ
thuở lần đầu giác ngộ ý thức, cậu chỉ sống cho Thượng đế và lớn lên trong sách
Talmud, khao khát được khởi sự làm quen với các bí pháp nhằm cắt nghĩa Kinh
thánh Do thái giáo, tận hiến bản thân cho Thượng đế. Chúng ta có bao
giờ nghĩ tới hậu quả của sự khủng khiếp ấy, dù ít có tính cách hiển nhiên, ít
có tính cách kích động hơn những sự phạm thượng khác, tuy thế nó lại là sự tệ hại
nhất cho chúng ta, những kẻ có đức tin: cái chết của Thượng đế trong lòng một đứa
bé khi nó đột nhiên khám phá ra tính chất tuyệt đối của cái ác.
Chúng ta thử tưởng tượng điều gì xảy ra trong lòng cậu bé ấy
khi mắt cậu nhìn những cuộn khói đen tỏa ra trên bầu trời, từ những lò thiêu mà
đứa em gái nhỏ và mẹ mình sắp bị ném vào cùng với hàng ngàn người
khác: “Sẽ không bao giờ tôi quên được đêm đó, đêm đầu tiên ở trại,
đêm xoay chuyển đời tôi thành một đêm trường, bảy lần bị nguyền rủa và bảy lần
bị đóng dấu. Sẽ không bao giờ tôi quên được làn khói
đó. Sẽ không bao giờ tôi quên được khuôn mặt nhỏ nhắn của những đứa
trẻ, mà da thịt chúng biến thành các luồng khói cuồn cuộn dưới bầu trời xanh thẳm
lặng câm.
Sẽ không bao giờ tôi quên được những ngọn lửa đã thiêu rụi
mãi mãi Đức tin của tôi.
Sẽ không bao giờ tôi quên được sự yên lặng hoài cảm đó đã tước
đoạt đến tận cùng thiên thu nỗi khát khao được sống của tôi. Sẽ
không bao giờ tôi quên được những khoảnh khắc lúc đó Thượng đế của tôi, linh hồn
của tôi bị giết chết và biến những giấc mơ của tôi thành tro than. Sẽ
không bao giờ tôi quên được những điều đó cho dù tôi có bị kết án sống lâu như
chính Bản thân Thượng đế. Không bao giờ.”
Và lúc đó tôi hiểu ra cái đầu tiên kéo tôi tới với người Do
thái trẻ tuổi này: ánh mắt đó, như của một La-da-rô chỗi dậy từ cõi chết, anh vẫn
là người tù mà lòng còn giam giữ mãnh liệt hình ảnh những nơi anh đã lang
thang, vấp ngã giữa những xác người bị ruồng bỏ. Đối với anh, tiếng
kêu trầm thống của Nietzsche biểu lộ một thực tại gần như có tính cách vật
lý: Thượng đế đã chết, đấng Thượng đế của tình thương, dịu dàng, ủi
an, đấng Thượng đế của Áp-ra-ham, I-sa-ac, của Gia-cóp, đang biến mất vĩnh viễn,
hơn nữa, dưới mắt nhìn đăm đăm của cậu bé này, trong làn khói của sự tàn sát
con người hàng loạt chỉ vì lý do Chủng tộc, tiêu biểu cho sự phàm ăn nhất của tất
cả các ngẫu tượng. Và biết bao người Do thái ngoan đạo trải qua cái
chết như thế! Vào ngày đó, khủng khiếp ngay trong những ngày ghê rợn
đó, khi nhìn một đứa bé khác mang nét mặt của một thiên thần u sầu, bị treo cổ
(đúng!), thì lúc đó, một cậu bé khác, người kể cho chúng ta nghe chuyện này, đã
nghe ai đó sau lưng mình kêu lên: “Lúc này Thượng đế ở đâu?Và tôi
nghe bên trong tôi có tiếng trả lời: Ở đâu ư? Ngài ở đây - Ngài đang
bị treo cổ ở đây, trên giá treo cổ này....”
Vào ngày cuối một năm theo lịch Do thái, cậu bé này có mặt tại
buổi lễ trọng thể Rosh Hashanah. Cậu nghe hàng ngàn người đang bị
đày ải này cất lên cùng một giọng: “Vinh danh Thượng đế, Đấng Hằng sống.” Trước
đó không lâu, cậu cũng đã nằm sấp mặt xuống đất với lòng tôn sùng như thế, với
nỗi kính sợ như thế, với tâm hồn yêu thương như thế! Nhưng hôm nay,
cậu không quì nữa. Con người thụ tạo, bị thương tổn và bị lăng nhục
vượt quá sức chịu đựng của tâm tư và tinh thần, đã chỉ rõ ra rằng kẻ được bái lạy
kia là một kẻ vừa câm vừa điếc: “Hôm nay tôi không còn nài
xin. Tôi không còn khả năng than khóc. Trái lại, tôi cảm
thấy mình mạnh mẽ. Tôi là người lên án, Thượng đế là kẻ bị kết
án. Mắt tôi mở ra và tôi cô độc - cô độc kinh khủng trong một thế giới
không Thượng đế và không con người. Không tình yêu không ân sủng. Tôi
thôi không còn là gì ngoài tro than, tuy thế tôi cảm thấy mình mạnh mẽ hơn Đấng
Toàn năng, kẻ mà đời tôi đã bị ràng buộc vào trong một thời gian quá
dài. Tôi đứng giữa cộng đoàn đang cầu nguyện, quan sát nó như thể
mình là người lạ.”
Và tôi, kẻ tin rằng Thượng đế là tình yêu, tôi có thể có câu
trả lời nào để trao cho người chất vấn trẻ tuổi này, kẻ mà đôi mắt đầy bóng tối
vẫn giữ mãi ánh phản chiếu nỗi u sầu thiên thần đã xuất hiện trên nét mặt đứa
bé bị treo cổ ngày nọ? Tôi đã nói gì với anh? Có phải tôi
đã nói tới một người Do thái khác, anh em của anh, kẻ có lẽ giống như anh - Người
Bị Đóng Đinh, Thánh Giá của người đó đã và đang chinh phục thế giới? Có
phải tôi đã khẳng định rằng vật chướng ngại làm đức tin của anh vấp ngã cũng chính
là hòn đá tảng của tôi, và rằng, trong sự phù hợp giữa Thánh Giá với những khổ
đau con người, theo ý tôi, là chìa khoá mở vào sự mầu nhiệm không thể dò thấu
được mà trên đó đã tàn lụi đức tin từ thời thơ ấu của anh? Tuy thế,
Sion đã thêm lần nữa chỗi dậy từ những lò thiêu và những nhà để hài cốt. Quốc
gia Do thái sống lại từ giữa hàng ngàn kẻ chết. Quốc gia này hiện hữu
qua họ và sẽ trường tồn. Chúng ta không biết cái giá của từng giọt
máu riêng rẽ, tường giọt nước mắt riêng rẽ. Tất cả đều là ân sủng. Nếu
Thượng đế là đấng Vĩnh cửu thì lời cuối cùng dành cho mỗi người chúng ta đều
thuộc vào Ngài. Đấy là điều tôi nên nói với đứa con của dân tộc Do
thái này. Nhưng tôi chỉ có thể ôm anh trong vòng tay, nghẹn ngào.
1. Người ta gọi anh là Moché, Người giúp việc thánh, như thể
trong đời mình anh chưa từng có một cái họ. Anh là người làm hết mọi
việc ở hội đường Do thái giáo. Người Do thái ở Sighet - một thành phố
nhỏ vùng Transylvania nơi tôi sống qua thời thơ ấu - rất
quí mến anh. Anh nghèo khó, sống khiêm tốn. Nói chung, những
người sống chung thành phố với tôi tuy giúp đỡ người nghèo nhưng không yêu
thương cách riêng người nào. Moché Người giúp việc thánh là một biệt
lệ. Chưa ai bị rắc rối vì anh. Chưa ai cảm thấy lúng túng
vì sự có mặt của anh. Anh là bậc thầy trong nghệ thuật làm cho mình
thành tầm thường, để cho hình như chẳng ai trông thấy mình.
Hình dáng bên ngoài anh cục mịch như người nhà
quê. Dáng e lệ rụt rè giống đứa bé lạc loài của anh làm người ta mỉm
cười. Tôi yêu đôi mắt to đầy mơ mộng của anh, những tia nhìn đăm đăm
mất hút vào cõi xa xăm nào đó. Anh ít nói nhưng thường ca, đúng hơn,
anh hát thánh vịnh.
Bạn có thể đã từng nghe những chương đoạn như thế kể về nỗi sầu
khổ của đấng chí tôn, theo sách Lưu Đày Theo Thánh Ý và căn cứ theo huyền nghĩa
của Kinh thánh, là đấng đang được trông đợi giáng lâm thế gian để giải thoát
loài người.
Tôi quen anh khoảng cuối năm 1941. Lúc đó tôi mười
hai tuổi. Tôi có đức tin sâu đậm. Suốt ngày tôi học sách
Talmud và đêm đến tôi chạy tới hội đường khóc than cho sự sụp đổ của Đền Thánh.
Ngày nọ tôi yêu cầu cha tôi tìm cho tôi một vị thầy hướng dẫn
tôi trong việc học bí pháp và huyền nghĩa để giải thích Kinh thánh.
“Con chưa tới tuổi học cái đó. Ngài Maimonides thuở
xưa đã nói rằng chỉ khi nào tới tuổi ba mươi người ta mới có quyền mạo hiểm đi
vào thế giới đầy hiểm nghèo của huyền học. Trước tiên, con phải học
những chủ đề nền tảng hợp với trình độ am hiểu của con.”
Cha tôi là người có công phu hàm dưỡng, đúng hơn, ông là người
không đa cảm ủy mị. Ông không bao giờ biểu lộ cảm xúc, kể cả lúc ở
nhà mình. Ông quan tâm tới người khác hơn gia đình
mình. Cộng đồng Do thái ở Sighet dành cho ông sự kính trọng sâu
xa. Họ thường hỏi ý ông về những vấn đề của cộng đồng và cả những việc
riêng. Lũ chị em chúng tôi gồm bốn người: Hilda, lớn nhất; rồi Béa;
tôi thứ ba và là con trai duy nhất; đứa nhỏ nhất của gia đình là Tzipora.
Song thân tôi có một cửa tiệm. Hilda và Béa phụ
giúp hai ông bà. Phần tôi thì cha mẹ tôi nói chỗ của tôi là ở trường
học.
“Tại Sighet không có nhà huyền học nào cả,” cha tôi lặp lại.
Ông muốn lái ý tưởng đó ra khỏi tâm trí tôi. Nhưng
vô ích. Tôi đã tự mình tìm ra thầy, Moché Người giúp việc thánh.
Một buổi hoàng hôn ngày nọ, anh để ý đến tôi trong khi tôi
đang cầu nguyện. “Tại sao cậu khóc than khi cầu nguyện?” anh hỏi như
thể đã quen tôi từ lâu.
“Tôi chẳng hiểu tại sao,” tôi trả lời, thấy mình bị quấy nhiễu
quá đáng.
Câu hỏi ấy chưa bao giờ có trong tâm trí tôi. Tôi
khóc than vì - vì có cái gì đó trong lòng tôi làm tôi cảm thấy cần tới nước mắt. Đó
là tất cả những gì tôi có thể hiểu.
Lát sau, anh hỏi tôi, “Tại sao cậu cầu nguyện?”
Tại sao tôi cầu nguyện? Câu hỏi nghe thật lạ. Tại
sao tôi sống? Tại sao tôi thở?
“Tôi cũng chẳng biết tại sao,” tôi nói, cảm thấy phiền hà và
lấn cấn khó chịu hơn. “Tôi cũng không hiểu tại sao?”
Sau ngày đó tôi thường gặp anh. Anh giải thích cho
tôi, nhấn mạnh là mỗi câu hỏi làm chủ một khối lượng ý tưởng mà không câu trả lời
nào chứa hết khối lượng đó.
“Con người tự nó vươn tới Thượng đế bằng những câu hỏi người ấy
đặt ra cho Ngài,” anh thích lặp đi lặp lại ý tưởng ấy. “Đó là cuộc đối
thoại chân chính. Con người chất vấn Thượng đế và Thượng đế trả lời. Có
điều chúng ta không hiểu các giải đáp của Ngài. Chúng ta không thể
hiểu chúng. Vì chúng xuất phát từ những chốn sâu thẳm của linh hồn
và chúng ở lại đó cho đến chết. Eliezer ạ, cậu chỉ tìm ra câu trả lời
thật sự trong lòng cậu mà thôi.”
“Và tại sao anh cầu nguyện, Moché?” tôi hỏi anh.
“Tôi cầu nguyện với Đấng Thượng đế trong lòng tôi rằng xin
Ngài ban cho tôi sức mạnh để hỏi Ngài những câu hỏi xác đáng.”
Chúng tôi trò chuyện như thế gần như đều đặn mỗi buổi chiều. Sau
khi các tín đồ khác đã rời hội đường, chúng tôi thường ở lại, ngồi trong bóng tối
nơi còn lung linh ánh sáng của các ngọn nến đã cháy được một nửa.
Một buổi chiều, tôi kể anh nghe là tôi quá đổi bất hạnh vì
không tìm được người thầy nào ở Sighet để hướng dẫn mình học sách Zohar, sách về
những bí pháp và huyền nghĩa trong phần huyền học của Do thái
giáo. Anh mỉm cười độ lượng. Sau một hồi im lặng, anh
nói:
“Có tới ngàn lẽ một cửa dẫn vào vườn cây trái chân lý đầy bí
nhiệm. Mỗi người đều có cửa riêng của mình. Chúng ta
không được phạm sai lầm bởi muốn vào vườn cây trái ấy bằng cửa của người khác
thay vì cửa của riêng mình. Việc vào vườn chân lý bí nhiệm cực kỳ
nguy hiểm cho kẻ muốn vào và cũng nguy hiểm không kém cho người đã ở trong đó.”
Và Moché Người giúp việc thánh, kẻ nghèo khó đi chân trần của
Sighet, nói cho tôi nghe hết giờ này sang giờ khác về mạc khải và những bí nhiệm
của huyền học. Việc học vỡ lòng của tôi bắt đầu với
anh. Chúng tôi cùng đọc một trang sách Zohar hơn chục lần. Không
phải để thuộc lòng mà là để rút từ trong đó ra những lời tiên đoán cốt tủy.
Qua những buổi chiều như thế trong tôi càng ngày càng vững
tin rằng Moché Người giúp việc thánh sẽ kéo tôi đi cùng anh nhập vào vĩnh cửu, ở
thời điểm mà câu hỏi và câu trả lời trở thành một.
Đến một ngày kia, người ta trục xuất những người Do thái nước
ngoài ra khỏi Sighet. Và Moché Người giúp việc thánh vốn
là người trước đây sinh sống ở ngoài Hungary.
Bị cảnh sát Hungary nhét đầy các toa tàu, họ rơi nước
mắt chua xót. Đứng trên sân ga chúng tôi cũng khóc. Con
tàu biến mất cuối chân trời, chỉ để lại đằng sau một luồng khói dày đặc, nhớp
nháp.
Tôi nghe sau lưng mình có tiếng thở dài của một người Do
thái:
“Chúng ta mong ước được gì hơn,” ông ta nói. “Chiến
tranh mà...”
Chẳng bao lâu người ta quên những người bị trục xuất. Ít
ngày sau khi họ ra đi, người ta nói là họ tới Galicia, hiện làm việc và sống
thoải mái với đất đai ở đó.
Vài ngày trôi qua. Vài tuần. Vài
tháng. Cuộc sống trở lại bình thường. Một luồng gió yên
tĩnh và an lòng thổi qua các ngôi nhà của chúng tôi. Người buôn kẻ
bán làm ăn xuôi thuận, lũ học trò vùi đầu trong sách vở và bọn trẻ con nô đùa
trên đường phố.
Vào ngày nọ, vừa bước vào hội đường tôi lại thấy ngồi trên
băng ghế gần cửa ra vào là Moché Người giúp việc thánh.
Anh kể chuyện của mình và chuyện đó xảy ra chung cho mọi người
cùng đi. Chuyến tàu đầy ứ người bị trục xuất chạy ngang biên giới Hungary,
và trên vùng đất Ba lan họ bị giao cho Gestapo tiếp quản. Tàu dừng lại
đó. Người Do thái phải xuống tàu, leo lên xe tải. Xe chạy
vào rừng. Người Do thái bị buộc xuống xe. Họ phải đào những
huyệt lớn. Và khi họ làm xong việc của mình thì tới lượt lũ Gestapo
làm công tác của chúng, từ từ, chúng giết các tù nhân. Mỗi người phải
đi đến mép huyệt của mình, vươn cổ ra. Trẻ sơ sinh bị ném lên trời,
làm bia cho xạ thủ súng máy. Chuyện này xảy ra trong rừng Galicia,
gần Kolomayé. Làm sao Moché Người giúp lễ trốn thoát được? Đó
là một phép lạ. Anh bị thương nơi chân và người ta khiêng anh đi vì
tưởng anh đã chết.
Suốt ngày dài suốt đêm dài, anh đi từ nhà người Do thái này
sang nhà người Do thái khác, kể chuyện Malka, cô gái trẻ hấp hối ba ngày mới chết,
và Tobias, người thợ may van lạy xin được giết chết trước mặt các con trai của
mình...
Moché đã thay đổi. Anh không còn ca chẳng còn
hát. Anh không còn nói với tôi về Thượng đế và huyền học bí pháp, mà
chỉ nói tới những gì anh đã thấy tận mắt. Người ta không những không
chịu tin câu chuyện của anh mà còn không muốn nghe anh nói nữa.
“Hắn chỉ ra sức làm cho chúng ta thương xót hắn. Hắn
tưởng tượng quá mức,” họ nói. Hoặc lại còn: “Gã khốn khổ. Hắn
ta mất trí rồi.”
Về phần Moché, anh khóc nức nở.
“Hỡi người Do thái, xin hãy nghe tôi. Tôi chỉ xin
các người chừng ấy thôi. Tôi không xin tiền bạc hay lòng thương hại. Chỉ
xin các người lắng nghe tôi thôi,” anh la lên giữa những người cầu nguyện vào
lúc chiều xuống, và còn la lên giữa những người cầu nguyện vào buổi tối.
Bản thân tôi cũng không tin anh. Tôi thường ngồi
bên anh buổi tối sau giờ kinh nguyện, lắng nghe các câu chuyện của anh và rán sức
hiểu cho ra cơn sầu khổ của anh. Tôi chỉ cảm thấy thương xót anh.
“Họ đối xử tôi như với một người cuồng dại,” anh thì thầm, và
từ mắt anh, nước mắt rơi lả chả như những giọt sáp ong.
Có lần, tôi hỏi anh:
“Tại sao anh quá đổi khắc khoải về việc người ta nên tin những
gì anh nói. Nếu tôi ở vào vị trí của anh, tôi chẳng màng chuyện họ
tin hay không...”
“Cậu không hiểu,” anh nói trong tuyệt vọng. “Cậu
không thể nào hiểu nổi. Tôi đã được cứu thoát một cách đầy phép lạ. Tôi
đã tìm cách trở về đây. Bởi đâu mà tôi có sức mạnh
đó? Tôi muốn quay lại Sighet để kể cho các người nghe câu chuyện tử
thần của tôi. Để các người có thể chuẩn bị khi còn kịp thời. Để
sống ư? Đời tôi không còn ràng buộc vào cái gì quan trọng nữa. Tôi
một thân một mình. Không, tôi muốn trở lại đây, tôi muốn báo động
cho mọi người. Rồi cậu coi tới đây nó sẽ như thế nào, chẳng ai chịu
nghe tôi cả...”
Chuyện đó xảy ra vào gần cuối năm 1942. Sau đó, cuộc
sống trở lại bình thường. Đài phát thanh BBC Luân đôn mà tối nào
chúng tôi cũng nghe, loan các tin tức phấn khởi: cuộc oanh tạc diễn ra hằng
ngày ở Đức; Stalingrad; chuẩn bị mặt trật thứ hai. Và chúng
tôi, người Do thái ở Sighet, đang chờ đợi những ngày tươi đẹp hơn chưa thể xảy
tới ngay lúc này được.
Tôi tiếp tục vùi đầu vào việc học. Ban ngày học
sách Talmud, tối đến huyền học bí pháp. Cha tôi bị tràn ngập bởi việc
làm ăn và công chuyện của cộng đồng. Ông nội tôi đến ăn mừng ngày
Năm Mới với chúng tôi để ông có thể tham gia phục vụ vị thầy cả danh tiếng ở
Borsche. Mẹ tôi bắt đầu nghĩ rằng đây là thời gian thuận tiện nhất để
tìm một chàng trai thích hợp cho Hilda.
Như thế, mùa xuân 1943 trôi qua.
Mùa xuân năm 1944. Có tin lành từ chiến trường
Nga. Lúc này chẳng còn nghi ngờ gì nữa, sự bại trận của Đức chỉ là vấn
đề thời gian - có thể tính từng tháng từng tuần.
Cây cối đã đâm chồi nãy lộc. Năm nay cũng như mọi
năm, với mùa xuân, các cuộc hứa hôn, đám cưới và sinh nở.
Người ta nói: “Quân Nga đã tiến những bước vạn dặm...
Hitler dù có muốn đi nữa, hắn cũng không thể nào làm hại chúng ta được.” Vâng,
chúng tôi nghi ngờ cả việc hắn muốn diệt chủng chúng tôi. Tại sao hắn
muốn quét sạch cả một dân tộc? Liệu hắn có tiêu diệt hết được tất cả
tổng số dân Do thái sống rải rác khắp thế giới không? Có quá nhiều
triệu dân mà! Hắn có thể sử dụng phương pháp nào? Và làm
chuyện như thế giữa thế kỷ hai mươi này mà được sao!
Bên cạnh đó, người ta để ý đến mọi thứ - đến chiến lược, đến
ngoại giao, đến chính trị, đến phong trào lập quốc Do thái - ngoại trừ đến số
phận của chính mình. Cả Moché Người giúp việc thánh cũng im lặng. Anh
chẳng buồn nói năng. Anh lang thang trong hội đường, trên đường phố,
mắt cụp lại, lưng oằn xuống, tránh ánh mắt mọi người.
Thời buổi đó chúng tôi còn có thể kiếm được giấy phép di dân
về Palestine, tôi yêu cầu cha tôi bán hết mọi sự, giải quyết việc làm ăn
và ra đi. Ông trả lời, “Con ơi, cha già quá rồi. Cha quá
già để mà bắt đầu một cuộc đời mới. Cha quá già để thêm lần nữa xuất
phát từ cái vạch đầu tiên nơi một xứ sở quá xa xôi...”
Đài phát thanh Budapest loan báo đảng Phát xít nắm
chính quyền. Horthy bị buộc phải yêu cầu một trong các lãnh tụ của đảng
Nyilas thành lập chính phủ mới.
Sự việc đó không đủ làm chúng tôi bận lòng. Dĩ
nhiên chúng tôi có nghe về phe đảng Phát xít, nhưng đối với chúng tôi, bọn họ vẫn
chỉ là cái gì đó trừu tượng. Chỉ là một đổi thay về hành chính.
Ngày kế có thêm tin tức đầy ưu tư: với sự chấp thuận của
chính phủ, lính Đức đã vào Hungary.
Khắp nơi dấy lên lo lắng. Berkovitz, một người bạn
của chúng tôi từ thủ đô về, kể với chúng tôi:
“Người Do thái ở Budapest sống trong bầu khí sợ hãi
và khủng bố. Hằng ngày, có nhiều vụ chống người Do thái và người A rập
trên đường phố, trên xe lửa. Tình hình hiện nay rất nghiêm trọng.”
Tin tức ấy lan truyền lẹ làng ở Sighet, nhanh chóng tới trên
đầu môi mọi người. Nhưng không lâu. Rồi người ta lạc quan
trở lại.
“Bọn Đức không chuyển quân xa hơn chỗ đó
đâu. Chúng ở lại Budapest. Có nhiều lý do chiến lược
và chính trị...”
Chỉ nội ba ngày sau, quân xa Đức xuất hiện trên đường phố của
chúng tôi. Khổ rồi. Lính Đức đó - mũ sắt và huy hiệu đầu
lâu.
Tuy vậy đầu tiên chúng tôi có cảm tưởng rất an lòng về lính Đức. Các
sĩ quan tới ở trong nhà thường dân, kể cả nhà người Do thái. Thái độ
của chúng đối với chủ nhà tuy có xa cách nhưng rất lịch sự. Chúng chẳng
bao giờ đòi hỏi những điều không thể thực hiện, không đưa ra ý kiến nào làm mất
lòng, nhiều khi còn cười với bà chủ nhà nữa. Một viên sĩ quan Đức ở
trong ngôi nhà trước mặt nhà chúng tôi. Anh ta có một phòng trong
gia đình Kahn. Họ nói anh ta là người duyên dáng - trầm lặng, dễ
thương, lịch sự và dễ xúc động. Ba ngày sau khi tới ở, anh ta đưa tặng
bà Kahn một hộp sô-cô-la. Những kẻ lạc quan lấy làm hoan hỉ.
“Tốt, vậy đó, các người thấy chưa! Chúng tôi đã kể
các người nghe chuyện gì? Các người đâu có tin chúng
tôi. Lính Đức của các người đây này! Các người nghĩ sao về
họ? Tính hung ác nổi tiếng của họ đâu nào?”
Lính Đức đã ở trong thành phố, những tên Phát xít đã nắm
chính quyền, lời phán quyết đã được tuyên bố, thế mà người Do thái tại Sighet vẫn
tiếp tục mỉm cười.
Tuần lễ Vượt Qua. Thời tiết tuyệt diệu. Mẹ
tôi tất bật trong bếp. Không còn hội đường nào mở cửa. Chúng
tôi quây quần trong nhà riêng để khỏi khiêu khích bọn Đức. Thực tế
ngôi nhà của Thầy cả trở thành nguyện đường.
Chúng tôi uống, chúng tôi ăn, chúng tôi hát. Thánh
kinh ra lệnh cho chúng tôi hân hoan suốt bảy ngày hội hè, để được hạnh
phúc. Nhưng bụng chúng tôi không yên. Trong mấy ngày đó,
trái tim chúng tôi đập nhanh hơn. Chúng tôi mong hội hè chấm dứt để
mình không đóng tuồng hài kịch này lâu hơn.
Vào ngày thứ bảy của Tuần lễ Vượt Qua, màn kéo
lên. Bọn Đức bắt các thủ lãnh của cộng đồng Do thái.
Từ lúc đó mọi việc xảy ra rất nhanh. Cuộc đua với
thần chết bắt đầu.
Bước đầu tiên: trong vòng ba ngày, cấm người Do thái không được
ra khỏi nhà - ai vi phạm sẽ bị xử tử.
Moché Người giúp việc thánh chạy tới nhà chúng tôi:
“Tôi đã cảnh giác các người rồi mà,” anh gào lên với cha
tôi. Và không chờ trả lời, anh biến đi.
Cùng ngày, cảnh sát Hungary ập vô nhà người Do thái
trên phố. Cấm người Do thái giữ trong nhà vàng, nữ trang hoặc bất cứ
đồ gì có giá trị. Phải nộp cho nhà chức trách mọi thứ đó - ai vi phạm
sẽ bị xử tử. Cha tôi xuống hầm nhà, chôn những gì chúng tôi dành dụm
được.
Trong nhà, mẹ tôi tiếp tục bận rộn với những công việc thường
lệ. Lâu lâu bà dừng tay, im lặng nhìn chúng tôi.
Hết ba ngày, có sắc lệnh mới: người Do thái phải mang ngôi
sao màu vàng.
Vài người vị vọng trong cộng đồng đến gặp cha tôi - là kẻ thường
có quan hệ đáng kể với cảnh sát Hungary - để hỏi ý kiến ông về tình
hình. Cha tôi không đánh giá tình hình là quyết liệt - có lẽ ông
không muốn làm người khác nãn lòng hoặc xát muối vô vết thương của họ:
“Ngôi sao vàng? Ờ, thì đã sao? Các người chẳng chết
vì cái đó đâu...”
(Khốn khổ cho Cha! Rồi có phải cha chết vì cái đó không?)
Nhưng nhà cầm quyền đã ban hành những sắc lệnh mới. Cấm
chúng tôi vào tiệm ăn hay quán cà phê, đi du lịch bằng xe lửa, tới hội đường,
ra phố sau sáu giờ chiều.
Rồi thì tới ghetto, biệt khu Do thái.
Người ta thành lập tại Sighet hai biệt khu. Một
cái lớn ở trung tâm thành phố, chiếm bốn đường phố; cái kia nhỏ hơn chạy dài
hai bên những con phố nhỏ trong khu vực quanh rìa thành phố. Đường
phố Sergent của chúng tôi nằm trong biệt khu thứ nhất. Nhờ vậy chúng
tôi được ở lại trong nhà mình. Nhưng vì nhà nằm ngay góc đường nên
các cửa sổ mặt ngoài ngó ra đường phố đều bị niêm kín. Chúng tôi nhường
vài phòng cho những người bà con bị lôi ra khỏi nhà của họ.
Từng chút một, đời sống trở lại bình thường. Hàng
rào kẽm gai không làm chúng tôi thật sự sợ hãi. Thậm chí chúng tôi
nghĩ mình còn may mắn; chúng tôi hoàn toàn độc lập: một nước cộng hoà Do thái
nhỏ... Chúng tôi bổ nhiệm Hội đồng Do thái, cảnh sát Do thái, văn phòng trợ cấp
xã hội, ủy ban lao động, bộ phận vệ sinh -- toàn bộ guồng máy của một chính quyền.
Ai cũng ngạc nhiên về chuyện đó. Trước mắt chúng
tôi không còn những bộ mặt thù nghịch, những cái nhìn nặng trĩu căm
ghét. Nỗi sợ hãi và đau khổ của chúng tôi đã chấm dứt. Chúng
tôi sống giữa người anh em Do thái với nhau...
Dĩ nhiên cũng có những lúc không vừa ý. Hằng ngày
bọn Đức đến chở đàn ông đi đốt than dùng cho xe lửa quân sự. Loại việc
này không có nhiều người tình nguyện làm. Nhưng ngoài chuyện đó ra,
không khí thật bình yên và an lòng.
Ý kiến chung là chúng tôi sẽ được ở trong biệt khu cho tới
khi chiến tranh chấm dứt, cho tới khi Hồng Quân đến. Rồi mọi sự sẽ lại
như ngày trước. Không có người Đức hoặc người Do thái nào cai trị biệt
khu - chỉ có ảo giác chế ngự chúng tôi.
Vào ngày chủ nhật trước lễ Ngũ Tuần, trong nắng xuân người ta
thảnh thơi vô tư lự, tản bộ dạo mát đầy đường phố. Họ sung sướng
chuyện vãn. Trẻ con bày đồ chơi trên vĩa hè. Tôi ngồi
trong vườn Exra Malik cùng với vài bạn học tìm hiểu một luận đề trong sách
Talmud.
Đêm xuống. Có hai mươi người tụ tập ở sân sau nhà
tôi. Cha tôi cùng họ nói chuyện vặt và trình bày tỉ mỉ nhận xét
riêng của ông về tình hình. Ông vốn là người khéo chuyện.
Thình lình cổng mở và Stern -- một người trước kia là thương
gia nay làm cảnh sát - đi vào, túm một bên người cha tôi. Dù trời
nhá nhem tôi vẫn thấy cha tôi tái người.
“Việc gì vậy?” tất cả chúng tôi hỏi ông.
“Tôi không biết. Người ta mời tôi dự cuộc họp bất
thường của hội đồng. Chắc xảy ra chuyện gì đó.”
Câu chuyện vui vẻ ông đang kể cho chúng tôi nghe tới đây bị
ngưng lại nửa chừng, và sẽ không bao giờ kết thúc.
“Tôi tới họp liền,” ông nói tiếp, “nếu được, tôi về
ngay. Tôi sẽ kể hết với các người. Chờ tôi nghe.”
Chúng tôi chuẩn bị chờ đợi suốt mấy giờ. Sân sau
thành giống như hành lang bên ngoài một phòng hành quân. Chúng tôi
chỉ chờ cổng mở cánh -- như thể chờ thấy các tầng trời tự mở ra. Những
người láng giềng khác nghe lời đồn đãi tìm tới nhập bọn. Người ta
nhìn đồng hồ mình. Thời gian trôi qua rất chậm. Một cuộc
họp lâu lắc như thế này có ý nghĩa gì đây?
“Tôi linh cảm điềm dữ,” mẹ tôi nói. “Chiều nay tôi
để ý thấy có nhiều mặt lạ trong biệt khu -- tôi tin đó là hai viên chức Đức,
người của Gestapo. Từ khi chúng ta bị gom vào khu này, chưa có tên
viên chức nào ló mặt ra...”
Gần nửa đêm. Chẳng ai buồn đi ngủ. Vài
người vội vã tạt ngang nhà mình coi mọi sự có yên ổn không. Một số
người về nhà, nhưng yêu cầu là hễ cha tôi về thì báo ngay cho họ biết.
Cuối cùng cửa mở, ông xuất hiện. Người xanh
mét. Thêm lần nữa ông bị bu quanh.
“Xảy ra chuyện gì vậy? Kể chúng tôi nghe chuyện gì
xảy ra! Nói đi nào!”
Vào lúc đó chúng tôi thèm nghe một lời gây tin tưởng, một câu
nói rằng chẳng có gì mà sợ cả, rằng cuộc họp rất như cũ, rất như thường lệ, rằng
chỉ họp về vấn đề trợ cấp xã hội, về sửa soạn làm vệ sinh! Nhưng chỉ
thoáng nhìn vẻ mặt hốc hác của cha tôi cũng đủ hiểu.
“Tôi có tin khủng khiếp,” rốt cuộc ông cũng phải
nói. “Trục xuất.”
Khu biệt cư bị dẹp bỏ hoàn toàn. Bắt đầu ngày mai
chúng tôi phải rời đi tuần tự theo tên đường phố có nhà mình.
Chúng tôi muốn biết mọi sự, tất cả các chi tiết. Tin
đó làm choáng váng mọi người, tuy thế chúng tôi muốn biết tới tận cùng cho dù
có cay đắng mấy đi nữa.
“Chúng ta bị mang đi đâu?”
Cái đó bí mật. Bí mật đối với tất cả, ngoại trừ một
người: Chủ tịch Hội đồng Do thái. Nhưng ông không nói; ông không thể
nói. Gestapo dọa sẽ bắn ông nếu ông nói.
“Có lời đồn,” cha tôi nói lạc giọng, “rằng chúng ta sẽ tới
đâu đó ở Hungary, làm việc trong các lò gạch. Chắc là vì chỗ
này gần mặt trận quá...”
Và, sau khi im lặng một chút, ông thêm:
“Mỗi người chỉ được phép đem theo vật dụng cá
nhân. Một ba lô, ít đồ ăn, vài bộ quần áo. Ngoài ra không
thêm gì khác.”
Lại im lặng nặng nề.
“Đi đánh thức hàng xóm dậy,” cha tôi nói. “Để họ
có thể chuẩn bị kịp thời.”
Bóng tối lâu nay ở bên tôi đột nhiên vươn dậy như từ một giấc
ngủ dài. Chúng thinh lặng vụt chạy tràn lan mọi hướng.
Trong chốc lát chúng tôi trơ trọi. Rồi thình lình,
Batia Reich, người bà con sống chung nhà với chúng tôi, bước vô phòng:
“Có ai đó ở ngoài biệt khu đang gõ phía cửa sổ bị niêm!”
Mãi tới sau chiến tranh chúng tôi mới biết người gõ cửa sổ đó
là ai. Đó là viên thanh tra cảnh sát dân Hungary, bạn của cha
tôi. Trước khi chúng tôi vào biệt khu, ông đã nói với chúng tôi: “Đừng
lo. Nếu có gì nguy hiểm tôi sẽ báo trước cho các người.” Nếu
tối đó ông nói chuyện được với chúng tôi thì có thể chúng tôi đã cao bay xa chạy...
Lập tức chúng tôi cố cạy cửa sổ nhưng đã trễ. Bên ngoài không có ai.
Khắp biệt khu thức giấc. Từng cửa sổ rồi từng cửa
sổ, ánh sáng bùng lên hết mọi cửa sổ. Tôi đi vào nhà một người bạn của
cha tôi. Tôi đánh thức người gia trưởng, một ông cụ râu xám, mắt mơ
mộng. Cụ thường suốt đêm gò lưng nghiên cứu.
“Dậy cụ ơi, dậy! Cụ phải sửa sọan cho một chuyến đi
dài! Cụ sắp bị trục xuất khỏi đây sáng mai với cả nhà và tất cả mọi
người Do thái. Đi đâu? Cụ ơi, đừng hỏi cháu. Đừng
hỏi cháu câu nào hết. Chỉ có Thượng đế mới trả lời cụ được. Vì
Trời, dậy đi cụ ơi.”
Lời tôi nói ra không được cụ hiểu lấy một tiếng. Có
lẽ cụ nghĩ là tôi mất trí.
“Chuyện gì vậy? Chuẩn bị chuyến đi à? Chuyến đi
nào? Tại sao? Xảy ra chuyện gì? Cháu có khùng không đó?”
Vẫn còn ngái ngủ cụ nhìn tôi với đôi mắt vừa kinh dị vừa ngờ
vực, như thể cụ mong tôi bật ra cười rồi sau cùng nói, “Vô giường lại đi cụ. Đi
ngủ lại đi cụ. Mơ cho đẹp đi cụ. Chẳng có gì xảy ra hết. Cháu
giỡn chơi thôi mà.“
Cổ họng tôi khô, lời nói mắc nghẹn trong đó, làm môi tôi tê dại. Tôi
không nói thêm được nữa.
Rồi cụ hiểu ra. Cụ ra khỏi giường, với cử chỉ máy
móc, cụ bắt đầu mặc quần áo. Bước tới giường vợ mình đang ngủ, rất dịu
dàng cụ khẻ chạm tay lên mi mắt cụ bà, bà mở mắt, và tôi thấy hình như trên môi
bà có nụ cười. Kế đó cụ đến giường các con, lẹ làng đánh thức chúng
dậy, kéo chúng ra khỏi những giấc mơ. Tôi vọt đi.
Thời gian vụt qua rất nhanh. Bốn giờ sáng rồi. Cha
tôi chạy hết chỗ này qua chỗ kia, mệt lã, an ủi các bạn, chạy tới Hội đồng Do
thái coi thử lúc này có hủy bỏ chỉ thị đó không. Tới phút giây sau
cùng, trong lòng chúng tôi vẫn le lói hy vọng.
Phụ nữ luộc trứng, xào thịt, nướng bánh và sửa soạn ba
lô. Trẻ con lang thang chỗ này chỗ nọ, vít đầu nhau, chúng chẳng biết
mình nên làm gì, đi đâu, làm sao cho khỏi vướng chân người lớn. Sân
sau nhà tôi như thành nơi họp chợ. Đồ quí của mỗi nhà, thảm quí,
chân đèn bạc, sách nguyện, Thánh kinh, các đồ thờ phượng vất bừa bãi trên mặt đất
đầy bụi dưới bầu trời xanh tuyệt vời; những đồ vật đáng thương ngó như thể
chúng chẳng bao giờ còn thuộc về ai nữa.
Khoảng tám giờ sáng, sự mệt mỏi như chì bị nấu chảy tụ lại
trong mạch máu, chân tay, đầu óc. Tôi đang giữa giờ cầu nguyện thường
lệ của mình thì thình lình có nhiều tiếng la trên đường phố. Tôi đứng
bật dậy làm toác hộp đựng sách kinh, chạy tới cửa sổ. Cảnh
sát Hungary đang tràn vào biệt khu, la lớn ở đường phố bên cạnh:
“Tất cả người Do thái ra ngoài! Lẹ lên!”
Vài người cảnh sát Do thái vào trong nhà dân, nói lạc giọng:
“Đã đến giờ rồi... chúng ta bỏ hết những thứ này lại...”
Cảnh sát Hungary vung tứ tung dùi cui và khiên, hết
qua phải lại về trái, không cần lý do, đánh rạp người già, phụ nữ, trẻ con và
những ai có vẻ tàn phế.
Từng nhà rồi từng nhà trống trơn, đường phố đầy người ta và bọc
gói. Chừng mười giờ, tất cả những kẻ bị kết án đều đã ra
ngoài. Cảnh sát điểm danh, một lần, hai lần, hai mươi lần. Sức
nóng tăng cao. Mồ hôi tuôn như suối khắp mặt khắp người.
Trẻ con đòi nước.
Nước? Có rất nhiều, sát tầm tay, trong nhà, trong
sân, nhưng cấm ra khỏi hàng.
“Nước! Mẹ ơi! Nước!”
Chỉ có cảnh sát của biệt khu là có thể lén đổ nước vô một ít
chiếc bình. Các chị em tôi và tôi bị sắp xếp đi chuyến sau chót nên
chúng tôi còn được để cho đi lòng vòng, chúng tôi hết lòng tiếp sức họ.
Rồi sau cùng, khoảng một giờ trưa, có lệnh lên đường.
Thật vui mừng - vâng, vui mừng. Có thể người ta
cho rằng Thượng đế không bày được trò thống khổ nào trong hỏa ngục tệ hơn là nổi
khổ ngồi đây bên đóng bọc gói, ngay chính giữa đường, dưới ánh mặt trời thiêu đốt:
thế nên không gì thích hơn là được lên đường. Họ bắt đầu chuyến đi
không chút ngoái nhìn đường phố, bỏ lại những người khuất núi, nhà trống trơn,
vườn tược, mộ bia... Trên lưng mỗi người là ba lô. Trong
mắt mỗi người là cơn đau đã chìm sâu trong nước mắt. Chầm chậm. Nặng
nề. Đám diễu hành tìm đường ra cổng biệt khu.
Và tôi đứng đó, bên vệ đường, không cục cựa nổi thân
mình. Đây rồi vị Thầy cả, lưng còng xuống, mặt cạo nhẵn nhụi, ba lô
trên lưng. Sự có mặt của ông giữa đám người bị trục xuất này làm
tăng thêm vẻ không thực của quang cảnh. Nó như một trang bị xé ra từ
cuốn truyện nào đó, từ cuốn tiểu thuyết dã sử nào đó về việc bị cầm giữ ở
thành Babylon hoặc trước một Toà án Dị giáo Tây ban nha.
Từng người, từng người đi qua trước mặt tôi, thầy giáo, bạn hữu,
tất cả những ai đã làm tôi sợ hãi, tất cả những kẻ tôi đã cười nhạo, tất cả những
người đã sống với tôi trong nhiều năm. Họ đi qua, té xuống, đứng
lên, kéo lê hành lý, kéo lê cuộc đời, rời bỏ nhà mình và những năm tháng ấu
thơ, co rúm lại như những con chó bị đòn vọt.
Họ đi qua mà chẳng nhìn về phía tôi. Chắc họ ganh
tị với tôi.
Đoàn diễu hành biến mất nơi khúc quanh đường phố. Chỉ
ít bước nữa thôi họ sẽ vượt qua vòng rào biệt khu.
Đường phố như thể chốn chợ búa thình lình bị bỏ
hoang. Ở đây có thể tìm thấy mọi thứ: va li, xách, cặp táp, dao,
dĩa, sổ trương mục ngân hàng, giấy tờ, các bức chân dung bạc màu. Tất
cả những vật mà họ những tưởng sẽ đem được theo bên mình thì đến phút cuối phải
bỏ lại. Người ta đã đánh mất tất cả các giá trị.
Mọi nơi phòng ốc bỏ ngỏ. Cửa lớn cửa sổ mở ra như
há miệng ngó vào hư không. Mọi vật đều tự do, ai muốn lấy gì thì lấy,
chẳng thuộc về ai cả. Đã có cái rất giản dị cho con người tự giúp
mình. Một huyệt mộ mở sẵn.
Mặt trời mùa hè nóng.
Suốt hôm đó chúng tôi chẳng ăn gì. Nhưng chúng tôi
không đói. Chúng tôi kiệt sức.
Cha tôi đi theo những người bị trục xuất tới tận lối ra vào của
biệt khu. Trước tiên họ phải đi qua hội đường to lớn nơi
đó họ bị lục soát tận xương, xem có mang theo mình bất cứ vàng bạc hay các vật
gì có giá trị không. Tại đó, bùng lên cơn điên tiết và những cú dùi
cui đánh xối xả.
“Khi nào tới lượt chúng ta?” tôi hỏi cha tôi.
“Ngày kia. Ít ra là như vậy, trừ phi sự việc có
thay đổi gì khác. Một phép lạ, có thể...”
Người ta bị mang đi đâu? Đã có ai biết
chưa? Không, bí mật được giữ kín bưng.
Đêm xuống. Tối đó chúng tôi đi ngủ sớm. Cha
tôi nói:
“Ngủ ngon, các con. Không kéo dài tới ngày kia, Thứ
Ba đâu.”
Thứ Hai trôi qua như đám mây nhỏ ngày hè, như giấc mộng trong
giờ tảng sáng.
Bận rộn với việc sắp xếp ba lô, với việc nướng bánh mì và
bánh ngọt, chúng tôi chẳng còn nghĩ tới gì cả. Lời phán quyết thì đã
công bố.
Tối đó, mẹ tôi chuẩn bị giường cho chúng tôi rất sớm, bà nói:
để giữ gìn sức khoẻ. Đây là đêm cuối cùng chúng tôi ở nhà mình.
Tôi thức dậy khi trời rạng sáng. Tôi muốn có thời
giờ cầu nguyện trước khi chúng tôi bị trục xuất.
Cha tôi còn dậy sớm hơn cả tôi để đi thăm dò tin tức. Ông
về khoảng tám giờ. Tin mừng: hôm nay chúng ta không phải rời thành
phố. Chỉ bị dọn vào biệt khu nhỏ. Ở đó để chờ chuyến
chuyên chở chót. Chúng tôi sẽ là những kẻ ra đi sau cùng.
Lúc chín giờ, khắp nơi tái diễn hoạt cảnh hôm Chúa Nhật. Cảnh
sát vung dùi cui la lớn:
“Tất cả Do thái ra ngoài!”
Chúng tôi đã sẵn sàng. Tôi bước ra trước hết. Tôi
không muốn nhìn nét mặt của cha mẹ mình. Tôi không muốn trào nước mắt. Chúng
tôi ngồi giữa đường như những người đã ngồi hôm kia. Vẫn cơn nóng
thiêu đốt ấy. Vẫn cơn khát ấy. Nhưng chẳng còn ai ở lại để
mang nước tới cho chúng tôi.
Tôi nhìn ngôi nhà mình đã sống, đã trải qua rất nhiều năm
trong cuộc tìm kiếm Thượng đế trong chay tịnh nhằm thúc cho mau tới ngày giáng
lâm của Đấng Cứu thế, trong mường tượng những gì cuộc đời mình sẽ trở thành giống
như thế. Dù thấy có phần khổ não trong trí óc trống rỗng của mình.
“Đứng lên! Đếm người!”
Đứng. Đếm. Ngồi xuống. Lại đứng
lên. Lại ngồi bệt xuống. Vô tận. Chúng tôi
nóng ruột chờ cho xong chuyện. Bọn họ đợi cái gì đây? Cuối
cùng lệnh truyền:
“Đằng trước bước!”
Cha tôi khóc. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ông
khóc. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra là ông có thể
khóc. Phần mẹ tôi, bà bước đi khuôn mặt lộ nét bất động, không một lời,
chìm sâu trong ý nghĩ. Tôi nhìn đứa em gái út Tzipora nhỏ của tôi,
tóc chải gọn gàng, áo khoác đỏ vắt tay, em tôi thơ dại mới lên bảy. Ba
lô trên lưng đè quá nặng lên người nó. Nó cắn chặt
răng. Nó biết lúc này có than thở cũng vô
ích. Cảnh sát đang vung dùi cui. “Lẹ lên!” Tôi
hết hơi. Chuyến đi chỉ mới bắt đầu mà tôi đã cảm thấy đuối sức...
“Lẹ lên! Lẹ lên! Vác xác lên chớ, đồ con lợn!”
viên cảnh sát Hungary gào lên.
Từ lúc đó tôi bắt đầu hận họ, và cho tới hôm nay, dây liên kết
duy nhất giữa họ và tôi là mối hận thù ấy. Họ là những kẻ đầu tiên
đàn áp chúng tôi. Họ là bộ mặt đầu tiên trong những bộ mặt của địa
ngục và thần chết.
Chúng tôi được lệnh chạy. Chúng tôi phải rút ngắn
nửa khoảng thời gian. Ai nghĩ ra là chúng tôi rất sung sức? Bên
trong cửa sổ, đằng sau cửa chớp, đồng bào Hungary nhìn chúng tôi chạy
qua.
Cuối cùng tới điểm đến. Ném túi xách xuống đất,
chúng tôi ngã lăn ra.
“Lạy Chúa, Chúa Tể Càn khôn, xin thương xót chúng con trong hồng
ân Ngài...”
Biệt khu nhỏ. Ba hôm trước người ta còn sống ở đây
- chủ nhân những gì mà lúc này chúng tôi dùng. Họ đã bị trục xuất. Chúng
tôi đã quên hẳn họ.
Ngỗn ngang hỗn độn còn hơn cả biệt khu lớn. Chắc
là người ta đã bị trục xuất bất ngờ. Tôi vào các phòng gia đình chú
tôi đã ở. Trên bàn còn nửa liễn xúp. Có chiếc bánh ngọt
đang chờ đút lò. Sách vung vãi khắp sàn nhà. Hẳn chú tôi
đã mơ mang chúng theo mình?
Chúng tôi có chỗ ở. (Thật sung sướng!) Tôi đi kiếm
ít củi; chị và em gái tôi nhóm bếp. Mặc dù đang mệt lã người, mẹ tôi
vẫn bắt đầu chuẩn bị bữa ăn.
“Chúng ta phải sống sót, chúng ta phải sống sót,” bà nhắc đi
nhắc lại không ngừng.
Tinh thần mọi người không tới nổi tệ lắm; chúng tôi bắt đầu
làm quen với hoàn cảnh mới. Thậm chí trên đường phố chúng tôi còn
chuyện vãn hết sức lạc quan. Chính quyền Quốc xã sẽ không còn đủ thời
gian trục xuất chúng tôi, người ta nói rằng...trục xuất chừng ấy người là quan
ngại lắm rồi, tệ lắm rồi, không thể trục xuất thêm nữa. Ngoài ra,
chính quyền có thể để cho chúng tôi sống nốt cuộc đời nhỏ nhoi bạc phước của
mình tại đây cho tới khi hết chiến tranh.
Biệt khu không bị canh gác. Mọi người được ra vào
tùy ý. Martha, bà lão giúp việc trước đây đến thăm chúng
tôi. Bà khóc rấm rứt, van nài chúng tôi tới ở tại làng bà, nơi bà có
thể lo cho chúng tôi một chỗ ẩn núp an toàn. Cha tôi không muốn nghe
chuyện đó.
Ông nói với tôi và chị tôi, “Các con muốn thì cứ
đi. Cha ở lại đây với mẹ và con út...”
Đương nhiên chúng tôi không chịu rời nhau.
Đêm. Chẳng ai nguyện cầu cho đêm qua
nhanh. Sao trời là những tia lửa đau đáu nhìn chúng
tôi. Liệu có ngày nào những tia lửa ấy tắt lịm, bầu trời sẽ chẳng
còn lại gì ngoài những ngôi sao chết, những con mắt chết.
Không có gì làm ngoài việc lên giường, vào nằm trong giường của
những người vừa vắng mặt, để nghỉ ngơi, để gom lại sức lực của mình.
Rạng sáng, chẳng còn sót lại chút lo phiền
nào. Chúng tôi thấy mình như trong ngày nghỉ lễ. Người ta
nói:
“Ai mà biết được? Có thể người ta trục xuất chúng
ta là để giữ cho chúng ta an toàn. Mặt trận không xa đây lắm; chỉ
ít lâu nữa là chúng ta sẽ nghe tiếng súng. Tới lúc đó thì sớm muộn
gì thường dân cũng phải sơ tán...”
“Có lẽ họ sợ chúng ta có thể giúp quân du kích...”
“Theo tôi thì toàn bộ việc trục xuất này chỉ là trò hề. Vậy
đó, đừng cười. Tụi Quốc xã muốn lấy trộm châu báu của chúng
ta. Họ biết chúng ta chôn dấu khắp nơi và họ phải lùng sục nó: thật
tiện lợi cho họ khi các chủ nhân đi nghỉ lễ...”
Nghỉ lễ!
Những lời lạc quan chẳng ai tin đó giúp chúng tôi qua được thời
giờ. Một ít ngày sống ở đây trôi qua khá thú vị, êm đềm. Không
còn có vấn đề nào về tài sản, về phân biệt xã hội, và điều quan trọng là hết thảy
mọi người đều bị kết án chung một số phận - ra sao thì vẫn chưa biết được.
Thứ Bảy, ngày nghỉ ngơi, ngày được chọn để trục xuất chúng
tôi.
Đêm qua, chúng tôi ăn bữa Thứ Sáu truyền thống. Chúng
tôi theo tục lệ đọc lời kinh nguyện trên bánh và rượu, im lặng ngồi
ăn. Chúng tôi cảm thấy đây là lần chót cả nhà được ngồi bên nhau
quanh bàn ăn. Suốt đêm tôi trằn trọc với những ý nghĩ và
nhung nhớ đầy ắp tâm trí, không ngủ được.
Sáng tinh sương, chúng tôi đã ở trên đường phố, sẵn sàng ra
đi. Lần này không có cảnh sát Hungary. Hội đồng Do
thái được đồng ý cho tự đứng ra lo liệu việc tổ chức người của mình.
Đoàn xe chở chúng tôi đi thẳng tới hội đường
chính. Thành phố như hoang mạc. Tuy vậy, đằng sau các cửa
chớp có lẽ có những người bạn Hungary của chúng tôi đang chờ lúc có
thể vào hôi của trong nhà chúng tôi.
Hội đường như một nhà ga lớn: đồ đạc tan
nát. Bàn thờ sụp, rèm trướng bị xé giật, tường trống
trơn. Nhiều người nghẹn thở. Chúng tôi trải qua hai mươi
bốn giờ kinh hoàng ở đó. Nam tầng dưới, nữ tầng
trên. Hôm nay Thứ Bảy; như thể chúng tôi đến đây để dự một cuộc hành
lễ. Vì mọi người không được phép ra ngoài nên ai cũng tìm một góc
riêng để nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, chúng tôi đi bộ tới nhà ga nơi đoàn tàu với các
toa dùng để chở súc vật đang chờ. Cảnh sát Hungary dồn
chúng tôi lên - tám mươi người một toa. Để lại cho chúng tôi một ít
bánh và vài gàu nước. Người ta kiểm tra các thanh cửa sổ xem chúng
đã vít chặt chưa. Rồi niêm toa lại. Mỗi toa đặt một người
phụ trách. Nếu có ai trốn thoát, người phụ trách sẽ bị bắn.
Hai viên chức Gestapo đi đi lại lại trên sân ga, mỉm cười: mọi
sự đúng y như sắp đặt, mọi sự diễn ra tốt đẹp.
Còi tàu xé không khí. Bánh bắt đầu nghiến. Chúng
tôi đang ở trên con đường của mình.
Chương 2
2.
Chẳng tìm đâu ra chỗ nằm, chúng tôi chỉ có thể quyết định
thay phiên nhau ngồi. Không khí ít ỏi quá. Kẻ may mắn là
người tình cờ được đứng gần cửa sổ, có thể nhìn vùng quê xanh mơn mởn đang lướt
qua.
Sau hai ngày đường, cái khát bắt đầu hành hạ. Rồi
cái nóng tới độ hết chịu đựng nổi.
Thoát khỏi mọi câu thúc xã hội, thanh niên thiếu nữ buông
mình thả cửa cho bản năng, lợi dụng bóng tối tha hồ làm tình ngay giữa chúng
tôi, chẳng cần để ý tới ai, như thể trên đời chỉ có mỗi mình họ. Những
người còn lại giả bộ như chẳng có gì xảy ra.
Chúng tôi còn một ít lương thực. Nhưng không dám
ăn cho thỏa cơn đói. Dè sẻn là qui tắc của chúng tôi. Dè
sẻn cho ngày mai. Ngày mai có thể tệ hơn nữa.
Tàu dừng ở Kachau, một thị trấn nhỏ ở biên giới Tiệp khắc. Lúc
đó, chúng tôi biết ra là mình sẽ không được ở lại Hungary. Chúng
tôi sáng mắt rồi, nhưng đã quá trễ.
Cửa toa được đẩy qua một bên. Một viên chức Đức bước
tới gần, có một người Hungary đi theo thông dịch, tự giới thiệu:
“Từ bây giờ, các ngươi thuộc thẩm quyền của quân đội Đức. Ai
trong các ngươi còn giữ của riêng, bạc, vàng, đồng hồ thì phải đưa ra
ngay. Hể ai sau này bị khám phá còn giữ những của đó sẽ bị bắn tại
chỗ. Còn nữa, ai thấy mình bệnh thì có thể tới toa y tế. Hết.”
Viên tùy tùng người Hungary tay cầm thúng đi vào giữa
chúng tôi thu gom các tài sản chót từ những ai không còn muốn nếm vị khủng bố
cay đắng.
“Trong toa có tám mươi người các ngươi,” tên viên chức Đức
nói thêm. “Hễ mất một người thì hết thảy các ngươi đều bị bắn, như
chó...”
Cả hai biến mất. Cửa kéo kín lại. Chúng
tôi kẹt trong bẫy, lên tận cổ. Cửa bị đóng đinh; đường về bị cắt cụt. Thế
giới là một toa tàu súc vật niêm kín mít.
Trong chúng tôi có một phụ nữ tên là Schachter. Bà
chừng năm mươi; cùng đi có đứa con trai mười tuổi thu mình trong xó. Chồng và
hai con trai lớn của bà bị trục xuất trong chuyến chở đầu tiên vì lộn danh
sách. Cuộc chia ly ấy quất sụm bà hoàn toàn.
Tôi rất quen bà. Bà là một phụ nữ trầm lặng với
ánh mắt căng thẳng, nồng ấm, thường đến nhà tôi. Chồng bà là người đạo
hạnh, nghiên cứu suốt đêm suốt ngày và một mình bà làm việc nuôi cả nhà.
Lúc này bà Schachter đã mất trí. Ngày đầu chuyến
đi, bà khởi sự rên rĩ, hỏi miết tại sao gia đình bà bị tan tác. Thời
gian càng trôi qua, bà càng kêu khóc cuồng loạn.
Vào đêm thứ ba, chúng tôi đang ngủ, một số ngồi dựa lưng nhau
và một số đứng, thì thình lình có tiếng thét xé tan màn yên lặng:
“Lửa! Tôi thấy lửa! Tôi thấy lửa!”
Phút giây đó thật kinh hoàng. Ai thét
đó? Là bà Schachter. Đứng chính giữa sàn toa, trong ánh
sáng mờ mờ hắt từ cửa sổ vào, bà như cây bắp khô tả tơi trong ruộng
ngô. Bà đưa tay chỉ ra cửa sổ, thét thất thanh:
“Nhìn kìa! Nhìn nó kìa! Lửa! Lửa ngọn kinh
hoàng! Sướng thiệt là sướng! Ôi, ngọn lửa ấy !”
Vài người dồn tới song cửa. Không có gì, chỉ bóng
tối.
Cú sốc kinh hoàng ấy bám theo chúng tôi rất
lâu. Chúng tôi vẫn còn run lẩy bẩy với nó. Trong từng tiếng
bánh tàu nghiến đường rầy, chúng tôi cảm thấy vực sâu đang mở ra dưới châu thân
mình. Không nén nổi cơn thống khổ, chúng tôi trấn an nhau:
“Bà ấy khùng, một linh hồn khốn khổ...”
Có người đắp miếng vải ướt lên trán bà để làm bà dịu lại,
nhưng bà vẫn tiếp tục thét lên:
“Lửa! Lửa!”
Đứa con trai nhỏ của bà khóc, níu áo mẹ, cố nắm bàn tay mẹ. “Mẹ
ơi! Không việc gì đâu! Không có gì cả...Ngồi xuống mẹ ơi...” Cảnh đó
làm tôi rúng động còn hơn tiếng thét thất thanh của người mẹ.
Có mấy phụ nữ ra sức trấn an bà. “Chị sẽ tìm thấy
chồng mà, luôn cả các con... trong vài ngày nữa thôi mà...”
Bà tiếp tục thét lên, thở chẳng ra hơi, giọng bà tan tác, thổn
thức. “Này người Do thái, nghe tôi đi! Tôi thấy lửa! Lửa
ngọn thiệt lớn! Nó là một lò lửa!”
Bà như thể bị ám bởi một ác thần, kẻ đang nói thành lời từ chốn
thẳm sâu trong con người bà.
Chúng tôi rán sức để tự cắt nghĩa cho ra điều ấy, để trấn an
mình và để lấy lại hơi thở của mình hơn là để an ủi bà. “Chắc là bà ấy
khát lắm, tội nghiệp! Vì vậy bà nói hoài nói mãi tới ngọn lửa thiêu
đốt mình.”
Nhưng vô ích. Nỗi kinh hãi dần dần bùng lên bốn
phía toa tàu. Thần kinh chúng tôi đã tới hồi suy sụp. Da
thịt chúng tôi sởn gai ốc. Như thể cơn điên ấy chiếm hữu hết thảy
chúng tôi. Chúng tôi đứng không vững nữa. Vài thanh niên
đè bà ngồi xuống, trói bà lại, lấy giẻ bịt miệng bà.
Lại im lặng. Đứa bé ngồi bên mẹ,
khóc. Tôi bắt đầu thở bình thường trở lại. Chúng tôi đã
có thể nghe tiếng bánh xe rung thành nhịp đều đều của con tàu băng mình trong
đêm tối. Chúng tôi đã có thể bắt đầu ngủ gà ngủ gật, nghỉ ngơi, mộng
mị...
Qua được một hai giờ như thế. Rồi tiếng thét thất
thanh khác làm chúng tôi lại nghẹt thở. Người đàn bà ấy đã cắn đứt
được giẻ bịt miệng, thét lớn hơn bao giờ hết:
“Này, ngó lửa kìa! Lửa ngọn, lửa ngọn khắp nơi!”
Thêm lần nữa, các thanh niên lại trói và bịt miệng
bà. Họ đập bà. Người ta còn khuyến khích họ đập thêm nữa.
“Làm câm mồm bà đi! Đồ điên! Đâu phải
chỉ có mình bà ở đây. Câm mõm bà lại...”
Họ thụi nhiều lần vô đầu bà - những cú đấm có thể giết bà chết. Đứa
con trai nhỏ đeo lấy mẹ, không khóc, không nói một tiếng. Lúc này nó
còn không cả thút thít.
Đêm vô tận. Gần sáng, bà Schachter dịu lại. Thu
mình trong một góc toa, mắt nhìn hoang dại của bà ánh lên vẻ trống rỗng, bà
không còn thấy chúng tôi nữa.
Suốt ngày bà trong trạng thái ấy, câm nín, xa vắng, cô độc giữa
chúng tôi. Đêm xuống, bà bắt đầu la hét: “Này, lửa khắp
nơi kia kìa!” Bà chỉ vào một điểm trên không trung, lúc nào cũng vẫn
điểm đó. Họ đánh bà riết rồi cũng thấm mệt. Nóng, khát,
mùi hôi chết người, nghẹt thở thiếu không khí - tất cả những thứ ấy cũng không
bằng tiếng thét thất thanh đó, tiếng thét xé tan tành chúng tôi thành từng mảnh
nhỏ. Thêm ít ngày nữa thì hết thảy chúng tôi cũng bắt đầu la hét.
Rồi chúng tôi tới một ga. Những người đứng kế cửa
sổ đọc cho chúng tôi tên nhà ga:
“Auschwitz.”
Chưa ai từng nghe tên ấy.
Tàu không chạy tiếp. Trưa trôi qua chầm chậm. Rồi
cửa toa được kéo qua một bên. Hai người được phép xuống tàu đi lấy
nước.
Khi trở về, họ nói với chúng tôi là nhờ đổi một chiếc đồng hồ
vàng, họ phát hiện ra ga này là trạm chót. Tại đây chúng tôi sẽ được
xuống khỏi tàu. Có một trại lao động. Điều kiện sống tốt. Gia
đình được ở chung với nhau. Chỉ thanh niên làm việc ở nhà
máy. Người già và người tàn phế làm việc đồng áng.
Phong vũ biểu tin tưởng vút lên cao. Mọi nỗi kinh
hoàng của những đêm vừa qua lúc này bỗng nhiên được giải toả. Chúng tôi dâng lời
cảm tạ Thượng đế.
Bà Schachter ở trong xó, tiều tụy, câm nín, tách biệt mình với
nỗi tin tưởng chung. Đứa con trai nhỏ vỗ vỗ tay mẹ.
Hoàng hôn xuống, bóng tối tụ vào toa tàu. Chúng
tôi bắt đầu ăn phần lương thực chót của mình. Lúc mười giờ tối, mọi
người tìm chỗ thuận tiện để ngủ một chút, và chẳng bao lâu trong khi hết thảy
chúng tôi đang thiêm thiếp thì thình lình:
“Lửa! Lò lửa! Nhìn kìa, lửa đó...”
Giật mình thức giấc, chúng tôi lại nhào tới cửa sổ. Thêm
lần nữa chúng tôi tin bà, dù chỉ chốc lát. Nhưng bên ngoài chẳng có
gì ngoại trừ bóng đêm tối tăm. Lòng đầy hổ thẹn, chúng tôi về chỗ,
day dứt vì sợ hãi, giận luôn cả mình. Khi bà tiếp tục la hét người
ta lại bắt đầu đập bà, và thật hết sức khó khăn mới làm cho bà ngậm miệng.
Người phụ trách toa tàu của chúng tôi gọi viên chức Đức đang
đi đi lại lại trên sân ga, hỏi anh ta là có thể mang bà Schachter tới toa y tế
không.
“Nhẫn nại chút chứ,” tên Đức ấy trả lời. “Sẽ đưa
bà ta đi ngay thôi.”
Khoảng mười một giờ, tàu bắt đầu động đậy. Chúng
tôi ép sát vào cửa sổ. Tàu di chuyển chầm chậm. Qua cửa sổ
chúng tôi thấy có dây kẽm gai; chúng tôi nhận ra là một trại.
Chúng tôi quên bẳng sự hiện hữu của bà
Schachter. Đột nhiên, lại nghe tiếng thét kinh hoàng:
“Người Do thái, nhìn kìa! Nhìn qua cửa sổ kìa! Lửa! Nhìn
kìa!”
Và khi tàu dừng, lần này chúng tôi thấy lửa tuôn từ một ống
khói cao lên bầu trời xám xịt.
Bà Schachter im bặt. Bà lại thành người câm nín,
cách biệt, xa vắng và về lại góc của mình.
Trong bóng đêm chúng tôi nhìn các ngọn lửa. Có mùi
tởm lợm lơ lửng trong không khí. Thình lình, cửa mở. Vài
người trông kỳ quặc, mặc áo sọc và quần đen nhảy lên toa. Họ cầm đèn
pin và dùi cui, bắt đầu vung đập tứ tung, la lên:
“Tất cả ra ngoài! Tất cả ra ngoài! Lẹ lên!”
Chúng tôi nhảy xuống. Tôi đưa mắt nhìn vội về phía
bà Schachter. Đứa con trai nhỏ đang nắm tay mẹ nó.
Lửa trước mặt chúng tôi. Trong không khí ngửi ra
mùi thịt cháy. Lúc đó chừng nửa đêm. Chúng tôi tới nơi rồi
- trại Birkenau, trung tâm tiếp nhận của Auschwitz.
Chương 3
3.
Lúc này, những vật dụng thiết thân mang theo mình bị bỏ lại
trên tàu, và cùng với chúng, thứ sau cùng là những ảo giác của chúng tôi.
Cách mỗi hai thước có một lính SS cầm súng tiểu liên chỉa thẳng
vô chúng tôi. Tay trong tay, chúng tôi đi theo đám đông.
Một viên hạ sĩ quan SS tay cầm dùi cui đến gặp người cầm đầu
chúng tôi. Hắn ra lệnh:
“Nam bên trái! Nữ bên phải!”
Sáu tiếng ấy thốt ra bình thản, dửng dưng, không chút xúc cảm. Sáu
tiếng đơn giản, cụt ngũn. Tuy vậy, đó là lúc tôi chia lìa mẹ
mình. Tôi không có thời giờ suy nghĩ nhưng cảm thấy bàn tay cha tôi
bóp tay tôi: chúng tôi cô độc. Trong một phần tích tắc, tôi thoáng
thấy mẹ và em gái tôi đi sang phía bên phải. Tzipora nắm tay Mẹ. Tôi
thấy cả hai biến mất chốn xa xa; mẹ tôi vỗ vỗ mái tóc đẹp của em tôi, chừng như
để che chở nó. Và tôi biết rằng tại nơi đây, vào khoảnh khắc này,
tôi vĩnh viễn chia tay mẹ tôi và Tzipora. Tôi tiếp tục bước. Cha
tôi nắm tay tôi.
Đằng sau tôi, một ông lão gục xuống đất. Bên ông
có một tên tính SS đang cắm súng lục vô lại bao súng.
Tay tôi níu cánh tay cha tôi. Ý nghĩ duy nhất
của tôi - chớ để mất ông. Đừng để bị bỏ lại một mình.
Các viên chức SS ra lệnh:
“Xếp hàng năm!”
Rối loạn. Bằng mọi giá cha con tôi phải ở bên
nhau.
“Này nhỏ, mày mấy tuổi?”
Một trong các người tù hỏi tôi. Tôi không thấy mặt
nhưng nghe giọng người ấy căng thẳng và mệt mỏi.
“Cháu sắp mười lăm.”
“Không. Mười tám.”
“Không đúng,” tôi nói. “Mười lăm.”
“Đồ điên. Nghe tao đi.”
Rồi ông hỏi tuổi cha tôi, cha tôi nói:
“Năm mươi.”
Người ấy nổi khùng hơn trước nữa.
“Không. Đừng năm mươi. Bốn
mươi. Các người hiểu không? Mười tám và bốn mươi.”
Ông ta biến mất trong bóng đêm. Người đàn ông thứ
hai tới, làu bàu nguyền rủa chúng tôi.
“Tụi bây tới đây làm gì, tụi bây đồ chó đẻ, tụi bây tới làm
chi đây?”
Có ai đó bạo gan trả lời hắn ta:
“Mày nghĩ cái gì vậy? Mày tưởng tụi tao tới đây
cho sướng cái thân à? Mày cho là tụi tao xin xỏ để tới đây hả?”
Thiếu chút nữa là tên ấy giết kẻ vừa nói.
“Đóng cha cái mõm mày lại, đồ con lợn bẩn thỉu, bằng không
tao bóp mày chết tươi tại chỗ! Thà chúng mày tự treo cổ ở nhà còn
hơn tới chỗ này. Mày biết cái gì chờ mày ở Auschwitz không? Mày
có từng nghe nói tới nó chưa? Trong năm 1944 đó?”
Không, chúng tôi chưa từng nghe. Chưa ai nói cho
chúng tôi nghe. Giọng hắn càng lúc càng tàn bạo:
“Tụi bây có thấy ống khói đằng kia không? Tụi bây
có thấy mấy ngọn lửa đằng kia không? (Vâng, chúng tôi có thấy các ngọn
lửa.) Đằng kia kìa - tụi bây sắp bị đem vô chỗ đó. Mồ mã
tụi bây đó, đằng kia kìa. Tụi bây chưa nhận ra à? Tụi bây
sắp bị thiêu. Rán xèo xèo. Ra tro hết.”
Hắn càng nói càng điên tiết loạn cuồng. Chúng tôi
đứng không cục cựa, chết điếng. Chắc chắn đó chỉ là ác mộng
thôi! Một ác mộng ngoài sức tưởng tượng?
Tôi nghe có lời thì thầm quanh mình.
“Chúng ta phải làm một cái gì chớ. Không thể để
mình bị giết. Không thể để giống con vật cho tên đồ tể. Chúng
ta phải nổi loạn đi chớ.”
Trong chúng tôi có một số thanh niên khoẻ mạnh, mang
theo dao. Người ta đang ra sức xúi giục người khác nhào vô phía lính
gác có vũ trang.
Một thanh niên la lên:
“Hãy để thế giới biết sự hiện hữu của Auschwitz. Hãy
để mọi người nghe tới nó một khi chúng ta có thể trốn thoát...”
Những người lớn tuổi hơn năn nỉ con cái mình chớ làm điều gì
rồ dại.
“Các con đừng bao giờ mất đức tin cho dù gươm kề cổ. Đó
là lời các đấng khôn ngoan đã dạy chúng ta...”
Cơn gió nổi loạn tàn. Chúng tôi tiếp tục cuộc diễu
hành của mình tới quảng trường. Đứng giữa quảng trường là Tiến sĩ
Mengele quí tộc lừng danh thiên hạ (một quan chức SS điển hình: nét mặt tàn nhẫn
nhưng không phải là không trí tuệ, đeo kính một mắt); gậy chỉ huy trong tay, hắn
đứng giữa các viên chức khác. Cây gậy của hắn liên tục chuyển động,
khi qua phải, khi về trái.
Tôi ở trước mặt hắn:
“Con bao nhiêu tuổi?” hắn hỏi, cố làm ra vẻ giọng một người
cha.
“Mười tám.” Tiếng tôi run run.
“Sức khoẻ con tốt không?”
“Tốt.”
“Con làm nghề gì?”
Tôi có nên nói mình là học sinh không?
“Làm nông,” tôi nghe giọng mình nói.
Cuộc trò chuyện không dài hơn vài giây nhưng đối với tôi dường
như vô tận.
Gậy đưa về bên trái. Tôi rướn người lên nửa bước. Tôi
muốn trước hết thấy họ đưa cha tôi về bên nào. Nếu ông qua phía bên
phải, tôi sẽ đi theo ông.
Gậy lại cũng chỉ ông về bên trái. Tim tôi thấy nhẹ
nhỏm.
Chúng tôi chưa biết phải trái bên nào tốt hơn; bên nào dẫn tới
nhà tù và bên nào đưa vô lò thiêu. Nhưng tạm thời tôi sung sướng; được
ở gần cha. Đám diễu hành của chúng tôi chầm chậm tiến về đằng trước.
Một tù nhân tới với chúng tôi:
“Vừa bụng chớ?”
“Vâng,” ai đó trả lời.
“Ôi những tên khốn khổ, các ngươi sắp vô lò thiêu.”
Người ấy có vẻ đang nói thật. Cách chúng tôi không
xa, từ đường mương đang bốc lên lửa ngọn, các ngọn lửa to tướng. Người
ta đang thiêu cái gì đó. Có chiếc xe tải đổ lại nhà trạm và nhả xuống
cái nó chở: trẻ con. Trẻ con! Vâng, tôi thấy, tận mắt
mình thấy... những đứa trẻ ấy trong lửa. (Thật ngạc nhiên là sau đó
tôi lại có thể ngủ được? Giấc ngủ đã không bỏ con mắt mình mà đi).
Như thế, đó là nơi chúng tôi đang đi tới. Xa hơn
chút có một đường mương khác và rộng hơn dành cho người lớn.
Tôi véo mặt mình. Tôi còn sống
không? Tôi có tỉnh ngủ không? Chẳng thể nào tin nổi. Làm
sao họ có thể thiêu người ta, thiêu trẻ con, mà thế giới lại có thể chẳng lên
tiếng gì cả? Không, việc này không có chút nào thật cả. Chỉ
là ác mộng... Chẳng bao lâu tôi giật mình tỉnh lại, tim đập mạnh, thấy
mình ở trong phòng ngủ thời thơ ấu, giữa các cuốn sách của mình.
Tiếng cha tôi lôi tôi ra khỏi ý nghĩ:
“Thiệt là tủi... tủi là con đã không thể đi với mẹ
con... Cha thấy nhiều cậu bé cùng tuổi con đi với mẹ chúng...”
Giọng ông buồn kinh khủng. Tôi nhận ra là ông
không muốn thấy điều người ta sắp đối xử với tôi. Ông không muốn thấy
đứa con trai độc nhất của mình bị thiêu chết.
Trán tôi đẫm mồ hôi lạnh. Nhưng tôi nói với ông là
tôi không tin rằng người ta có thể thiêu những đứa trẻ lứa tuổi tôi, rằng loài
người sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho việc đó...
“Loài người? Loài người chẳng quan tâm tới chúng
ta đâu. Ngày nay, người ta để cho xảy ra mọi sự. Bất cứ
cái gì cũng đều có thể, kể cả các lò thiêu này...”
Tiếng ông nghẹn lại.
“Cha ơi,” tôi nói, “nếu thế thì con chẳng muốn ở đây chờ. Con
sẽ chạy tới hàng rào kẽm gai có gài điện kia. Thà làm vậy còn tốt
hơn đau đớn chầm chậm trong lò thiêu.”
Ông không trả lời. Ông đang ứa nước mắt. Người
ông run rẩy co giật. Có ai đó bắt đầu đọc kinh Kaddish, lời cầu hồn
cho kẻ chết. Tôi không biết trước đây trong lịch sử lâu dài của người
Do thái có bao giờ xảy ra việc người ta tự mình đọc lời kinh cầu hồn kẻ chết
cho chính mình chưa.
“Yityadal veyikadach shmé raba... Nguyện Danh Ngài
đầy ơn phước và đáng tán tụng...” cha tôi thì thầm.
Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy lòng mình bùng lên nổi loạn. Tại
sao tôi phải cầu khẩn danh Ngài? Đấng Hằng cửu, Chúa tể Càn khôn, Đấng
Toàn năng và Đáng Kinh sợ đang im lặng. Tôi cảm tạ Ngài
vì cái gì đây?
Chúng tôi tiếp tục đám rước của chính mình. Từ từ
chúng tôi tới gần đường mương hơn, từ nơi đó bốc lên hơi nóng thiêu đốt. Vẫn
phải đi thêm hai mươi bước nữa. Nếu tôi muốn cái chết xảy tới cho bản
thân thì đúng là lúc này đây. Lúc này, hàng người chúng
tôi chỉ còn cách đường mương mười lăm bước. Tôi cắn môi để cha tôi
không nghe tiếng răng tôi đánh lập cập vào nhau. Còn mười bước. Tám. Bảy. Chúng
tôi chầm chậm bước tiếp, như thể đang bước theo chiếc xe tang ma của chính
mình. Bốn bước nữa. Ba bước. Lúc này nó đó,
ngay trước mặt chúng tôi, nhà trạm và các ngọn lửa của nó. Tôi tập
trung hết sức hơi còn lại của mình để có thể tách mình ra khỏi hàng, gieo mình
vào hàng rào kẽm gai. Trong tận cùng con tim, tôi chào vĩnh biệt cha
tôi; và cả chính tôi, những lời tự chúng hình thành và thoát ra thành tiếng thì
thầm trên môi tôi: Yityadal veyikadach shmé raba... Nguyện Danh Ngài đầy ơn phước
và đáng tán tụng... Tim tôi vỡ tung. Phút giây đã tới. Tôi
sắp mặt đối mặt với Thần chết.
Không. Cách nhà trạm hai bước, chúng tôi được lệnh
quay sang phải, đi tới một ba-rắc.
Tôi bóp tay cha tôi. Ông nói:
“Con có nhớ bà Schachter, trên chuyến tàu?”
Sẽ không bao giờ tôi quên được đêm đó, đêm đầu tiên ở trại,
đêm xoay chuyển đời tôi thành một đêm trường, bảy lần bị nguyền rủa và bảy lần
bị đóng dấu. Sẽ không bao giờ tôi quên được làn khói
đó. Sẽ không bao giờ tôi quên được khuôn mặt nhỏ nhắn của những đứa
trẻ, mà da thịt chúng biến thành các luồng khói cuồn cuộn dưới bầu trời xanh thẳm
lặng câm.
Sẽ không bao giờ tôi quên được những ngọn lửa đã thiêu rụi
mãi mãi Đức tin của tôi.
Sẽ không bao giờ tôi quên được sự yên lặng hoài cảm đó đã tước
đoạt đến tận cùng thiên thu nỗi khát khao được sống của tôi. Sẽ
không bao giờ tôi quên được những khoảnh khắc lúc đó Thượng đế của tôi, linh hồn
của tôi bị giết chết và biến những giấc mơ của tôi thành tro than. Sẽ
không bao giờ tôi quên được những điều đó cho dù tôi có bị kết án sống lâu như
chính Bản thân Thượng đế. Không bao giờ.
Ba-rắc chúng tôi được lệnh đi vào có chiều dọc rất
dài. Trên mái có các cửa sổ màu xanh nhạt. Phòng chờ của
Hoả ngục chắc giống thế này. Để quá nhiều người lên cơn điên, quá
nhiều người than khóc, quá nhiều tàn bạo đầy thú tính.
Hàng chục tù nhân tiếp đón chúng tôi, tay cầm dùi cui, vung
lên đập túi bụi vào bất cứ chỗ nào, bất cứ người nào, bất cứ lý do
gì. Lệnh:
“Cởi áo quần! Lẹ lên! Chỉ được cầm dây nịt và giày
trên tay...”
Chúng tôi phải liệng quần áo mình vào một đầu ba-rắc. Ở
đó đã sẵn một đống. Áo vét mới lẫn cũ, áo khoác rách, giẻ. Đối
với chúng tôi, việc thật sự bình đẳng là: trần truồng. Run
lẩy bẩy trong gió buốt giá.
Vài viên chức SS đi quanh ba-rắc, tìm coi ai khoẻ mạnh. Nếu
chúng ưa sức vóc thì có lẽ mình cứ thử tự nhận là người khoẻ mạnh xem
sao. Cha tôi nghĩ ngược lại. Tốt nhất là đừng để mình bị
chú ý. Lúc đó số phận của mình sẽ giống như số phận của những người
khác. (Về sau, chúng tôi thấy là ông có lý. Những người
được chọn ra hôm đó bị đưa vào danh sách Sonder-Kommando, toán lao động ở lò
thiêu. Bela Katz - con của một thương gia lớn chung thành phố với
chúng tôi - tới Birkenau trong chuyến chuyên chở đầu, trước chúng tôi một tuần. Nghe
chúng tôi tới, anh cố chuyển lời nhắn chúng tôi rằng, vì được chọn theo sức vóc
của mình, anh đã chính tay mình đưa thân xác cha mình vô lò thiêu.)
Các cú dùi cui tiếp tục giộng tới tấp như mưa.
“Đi hớt tóc.”
Tay cầm dây nịt và giày, tôi lê mình tới thợ hớt
tóc. Họ hớt trọc đầu tôi bằng tông-đơ và cạo sạch sành sanh lông tóc
toàn thân chúng tôi. Lúc nào trong óc tôi cũng chỉ lùng bùng một ý
nghĩ - đừng để bị tách ra khỏi cha mình.
Thoát bàn tay thợ hớt tóc, chúng tôi bắt đầu lang thang vào
đám đông, gặp bạn bè và làm quen nhau. Những cuộc gặp gỡ này làm
chúng tôi hoan hỉ tràn trề - vâng, hoan hỉ - “Tạ ơn Thượng đế! Ngài
vẫn sống!”
Nhưng những người khác đang khóc lóc. Họ dùng hết
hơi sức còn lại mà than khóc. Tại sao lại để cho mình bị mang tới
đây? Tại sao không thể chết trên giường của mình? Tiếng nức
nở làm uất nghẹn giọng nói của họ.
Đột nhiên có người vòng tay ôm cổ tôi: Yechiel, em trai của
thầy cả ở Sighet. Anh khóc tấm tức. Tôi nghĩ là anh thổn
thức với niềm vui còn được sống.
“Yechiel, đừng khóc,” tôi nói. “Đừng phí nước mắt...”
“Không khóc ư? Chúng ta đang trên ngưỡng cửa sự chết. Chẳng
bao lâu nữa chúng ta sẽ bước qua... Cậu không hiểu à? Làm sao mà tôi
không khóc được?”
Qua các cửa sổ màu xanh nhạt, tôi có thể thấy bóng đêm dần dần
nhạt nhòa. Tôi không còn cảm thấy sợ. Và rồi tôi mất tự
chủ vì sự yếu đuối hoang sơ của mình.
Những người vắng mặt chẳng còn chạm tới tôi dù chỉ ở bề mặt của
ký ức. Chúng tôi vẫn nói tới họ - “Ai biết được nay họ ra thế
nào?” Có điều chúng tôi ít quan tâm tới số phận của họ. Chúng
tôi chẳng còn suy nghĩ được chút nào về bất cứ điều gì. Giác quan của
chúng tôi cùn lụt; mọi sự mờ mịt như trong sương mù. Không còn nắm bắt
được điều gì cả. Những bản năng như tự bảo toàn, tự vệ, kiêu hãnh, tất
cả đều đã bỏ chúng tôi mà đi. Trong phút giây sáng suốt sau cùng
này, đối với tôi dường như chúng tôi là những linh hồn bị nguyền rủa, đang lang
thang nơi lưng chừng dương thế, những linh hồn bị kết án phiêu linh qua không
gian cho tới lúc tận cùng của mọi thời đại, những linh hồn tìm kiếm sự cứu vớt
của chính mình, tìm kiếm sự lãng quên - nhưng chẳng chút mảy may hy vọng nào
tìm thấy được.
Khoảng năm giờ sáng, chúng tôi bị xua ra ngoài ba-rắc. Các
Kapo lại đập chúng tôi nhưng tôi không còn cảm thấy đau với các cú đánh của họ. Gió
buốt lạnh vây bọc chúng tôi. Chúng tôi trần truồng, dây nịt và giày
trong tay. Lệnh truyền “Chạy!” Và chúng tôi chạy. Sau
vài phút chạy, tới một ba-rắc mới.
Ở lối vào có một bể xăng. Tẩy uế. Mọi
người nhúng mình vô đó. Rồi tắm nước nóng. Tắm cho lẹ. Khi
ra khỏi nước, chúng tôi bị xua ra ngoài. Lại chạy. Một
ba-rắc khác, nhà kho. Những chiếc bàn rất dài. Hàng núi
quần áo tù. Tiếp tục chạy, khi chạy ngang mỗi bàn, chúng tôi được liệng
cho quần, áo khoác, sơ mi và vớ.
Trong khoảnh khắc, chúng tôi chẳng giống con giáp
nào. Nếu hoàn cảnh không thê thảm có lẽ chúng tôi đã rống lên cười. Không
vừa vặn chút nào! Meir Katz, một người to con, có chiếc quần con
nít; và Stern, nhỏ thó gầy ốm, lại có chiếc áo khoác trùm được cả người. Chúng
tôi lập tức bắt đầu đổi quần áo cho nhau.
Tôi liếc mắt nhìn cha mình. Ông thay đổi biết
bao! Mắt ông mờ dần. Tôi muốn nói với ông mà chẳng biết
nói gì.
Đêm tàn. Sao mai đang lung linh trên bầu trời. Tôi
cũng đã thành một người hoàn toàn khác. Cậu bé học sách Talmud, đứa
trẻ tôi ngày trước đã bị đốt cháy trong lửa. Cái còn lại là một hình
dáng giống tôi. Một ngọn lửa tối tăm đã nhập vào linh hồn tôi và
thiêu rụi linh hồn tôi.
Chỉ trong vài giờ đã xảy ra quá nhiều chuyện khiến tôi hoàn
toàn mất cảm giác thời gian. Lúc nào chúng tôi rời nhà
mình? Vào biệt khu? Và chuyến tàu? Có phải chỉ
mới một tuần? Một đêm- chỉ vỏn vẹn một đêm thôi ?
Chúng tôi đã đứng như thế bao lâu trong gió buốt
giá? Hay một giờ? Chỉ một giờ thôi? Sáu mươi
phút?
Chắc chắn đây chỉ là một giấc mơ.
Cách chúng tôi không xa có một số tù nhân đang làm việc. Vài
người đào hố, vài người khác chở cát. Không ai trong họ để mắt tới
chúng tôi. Chúng tôi là cây héo khô trong tâm điểm của sa mạc. Đằng
sau tôi, có ai đó đang chuyện trò. Tôi không chút nào thèm muốn nghe
họ đang nói gì, thèm biết ai đang trò chuyện hoặc đang bàn tán
gì. Không ai dám lớn tiếng dù gần chúng tôi chẳng có lính canh
nào. Người ta thì thầm. Có lẽ vì làn khói dày dặc kia
đang làm ô nhiễm không khí và túm lấy cuống họng người ta...
Chúng tôi được lệnh tới một ba-rắc mới, trong “trại người
gyp-sy”. Dãy số năm.
“Và bây giờ, tụi bây ở lại đó!”
Nhà không nền. Chỉ có mái và bốn bức
vách. Chân chúng tôi ngập trong bùn.
Chờ bắt đầu một giai đoạn khác. Tôi lịm thiếp, ngủ
đứng. Tôi mơ thấy chiếc giường, thấy được mẹ tôi vuốt
ve. Và tôi tỉnh giấc: tôi đang đứng, chân lún trong
bùn. Một số người gục xuống, nằm tại chỗ. Vài người khác
la lên:
“Các ngươi có khùng không? Người ta đã bảo phải đứng
mà. Bộ muốn đem rắc rối tới cho hết thảy chúng ta à?”
Như thể mọi rắc rối trên thế gian chưa tuôn xuống đầu chúng
tôi! Dần dà, hết thảy chúng tôi cùng ngồi bệt xuống trong
bùn. Nhưng hễ mỗi lần có tên Kapo nào vào tìm xem có ai mang giày mới
không là chúng tôi phải liên tiếp nhau nhảy đựng lên. Nếu ai có, phải
cho hắn. Kháng cự vô ích: những cú đánh sẽ tuôn xuống như mưa, và kết
cục sau cùng là thế nào cũng mất đôi giày của mình.
Chính tôi cũng đang mang đôi giày mới. Nó bị phủ một
lớp bùn dày nên không ai để ý. Bằng lời cầu nguyện ứng khẩu, tôi cảm
tạ Thượng đế đã tạo ra bùn trong vũ trụ bao la và kỳ diệu của Ngài.
Thình lình, thinh lặng trở thành ngột ngạt. Một
viên chức SS đi vào, cùng với hắn là mùi của Thần chết. Mắt chúng
tôi dán chặt vào môi mép trần tục của hắn. Đứng giữa ba-rắc hắn lên
giọng dạy dỗ chúng tôi:
“Tụi bây đang ở trong trại tập trung, tại Auschwitz...”
Ngừng một chút. Hắn quan sát tác động câu nói hắn
vừa phun ra. Bộ mặt hắn ở mãi trong trí nhớ tôi cho tới hôm
nay. Một con người cao, chừng ba mươi tuổi, với sự độc dữ ghi hằn
trên lông mày và trong tròng mắt hắn. Hắn nhìn bao quát chúng tôi
như thể ngó lũ chó ghẽ đang cố níu lấy sự sống của mình.
“Nhớ như thế,” hắn tiếp tục. “Vĩnh viễn nhớ như thế. Khắc
vô tâm trí tụi bây như thế. Tụi bây đang ở Auschwitz. Và
Auschwitz không phải là viện điều dưỡng. Đây là trại tập
trung. Tại đây, tụi bây phải lao động. Nếu không, tụi bây
phải đi thẳng vô lò lửa. Tới lò thiêu. Lao động hoặc lò
thiêu - do tay tụi bây chọn lấy.”
Trong đêm đó, chúng tôi đã sống qua quá nhiều, chúng tôi tưởng
không gì còn có thể làm mình sợ nữa. Nhưng những lời bặm trợn đó làm
chúng tôi run lẩy bẩy. Tiếng “lò lửa” ở đây không là một tiếng mang
ý nghĩa trống rỗng: nó bồng bềnh trong không khí, trộn lẫn với
khói. Tại đây, có lẽ nó là tiếng độc nhất mang bất cứ ý nghĩa
nào. Hắn rời ba-rắc. Những tên Kapo xuất hiện, gào lên:
“Tất cả thợ lành nghề - thợ ổ khoá, thợ điện, thợ đồng hồ -
bước tới một bước!”
Những người còn lại trong chúng tôi được lệnh tới một ba-rắc
khác, lần này là một nhà nền đá. Chúng tôi được phép ngồi. Phụ
trách chúng tôi là một người gyp-sy bị trục xuất.
Thình lình cha tôi thấy đau bụng. Ông đứng lên, đi
tới người gyp-sy, lễ phép hỏi bằng tiếng Đức:
“Xin lỗi, xin ông vui lòng chỉ cho nhà cầu ở đâu?”
Người gyp-sy chầm chậm nhìn ông, từ trên xuống dưới, từ đầu tới
chân. Tựa như anh ta muốn tự thuyết phục mình rằng người đàn ông này
thiệt sự là một tạo vật bằng xương bằng thịt, một con người đang sống với một
thân thể và một cái bụng. Rồi, như thể thình lình bị đánh thức khỏi
giấc ngủ nặng nề, hắn giáng cho cha tôi một bạt tai mạnh tới độ ông ngã lăn ra
đất, bò hai chân hai tay về lại chỗ của mình.
Tôi không nhúc nhích. Chuyện gì xảy tới cho tôi vậy?
Cha tôi vừa bị đập, ngay trước mắt tôi, và tôi không động đậy mi mắt. Tôi
ngồi yên nhìn và không nói tiếng nào. Nếu là hôm qua, chắc tôi đã
cào nát da thịt tên hung đồ ấy. Thế có phải tôi đã đổi thay quá nhiều? Quá
nhanh? Lúc này, hối hận bắt đầu gặm nhấm tôi. Tôi chỉ
nghĩ tới một điều: Mình sẽ không bao giờ tha thứ cho mình chuyện
đó. Cha tôi hẳn đoán ra cảm giác của tôi. Ông thì thầm
vào tai tôi, “Cha không sao cả.” Má ông còn hằn đỏ dấu bàn tay của
gã ấy.
“Tất cả ra ngoài.”
Mười người gyp-sy đến nhập đoàn giám thị chúng
tôi. Roi da và dùi cui quật túi bụi chung quanh tôi. Người
tôi không biết là chân mình đang chạy. Tôi cố núp sau những người
khác, tránh các cú đập. Trời nắng mùa xuân.
“Xếp hàng năm .”
Các tù nhân tôi để ý hồi sáng, đang làm việc ở bên cạnh. Gần
họ không có lính gác, chỉ có bóng của ống khói... Sửng sờ vì nắng
chói chang và đang mơ màng, tôi cảm thấy có người giật tay áo
mình. Cha tôi. “Lẹ lên, con.”
Chúng tôi tiếp tục bước. Các cánh cửa mở ra rồi
đóng lại. Chúng tôi đi giữa các hàng rào kẽm gai có điện. Cách
mỗi bước có một tấm bảng vẽ hình đầu lâu nhìn thẳng mặt chúng tôi. Lời
ghi: “Coi chừng. Nguy hiểm tính mạng.” Khôi hài: có phải đây là nơi
duy nhất chúng tôi không ở trong hoàn cảnh nguy hiểm đến tính mạng?
Các gyp-sy dừng lại gần một ba-rắc khác. SS thay
thế họ, bọc quanh chúng tôi. Súng lục, súng liên thanh, quân khuyển.
Cuộc diễu hành kéo dài nửa giờ. Nhìn quanh, tôi để
ý thấy dây kẽm gai ở đằng sau mình. Chúng tôi đã rời trại.
Đó là một ngày tháng Tư đẹp trời. Trong không khí
có hương mùa xuân. Mặt trời đang ở hướng tây.
Chúng tôi chỉ đi được ít lâu thì thấy hàng rào kẽm gai của một
trại khác. Trên cửa sắt của trại ấy khắc hàng chữ:
“Lao Động Là Tự Do”
Auschwitz.
Ấn tượng đầu tiên: nơi này khá hơn Birkenau. Thay
vì ba-rắc gỗ thì có các dãy nhà hai tầng kiên cố. Có các vườn nhỏ. Chúng
tôi được dẫn tới một dãy trong khu tù nhân. Ngồi trệt ở lối vào,
chúng tôi bắt đầu buổi chờ đợi khác. Thỉnh thoảng từng lượt người được
lệnh đi vào. Vào phòng tắm, một hình thức bắt buộc ở lối vào tất cả
các trại. Dù chỉ chuyển từ trại này qua trại khác nhiều lần trong một
ngày, hễ cứ mỗi lần chuyển trại là một lần tắm.
Sau khi ra khỏi nước nóng, chúng tôi lại run lẩy bẩy trong trời
đêm lạnh buốt. Quần áo bị bỏ lại trong một dãy khác và chúng tôi được
hứa cho quần áo khác.
Tới nửa đêm, chúng tôi được lệnh chạy.
“Chạy lẹ nữa lên,” lính gác gào lớn. “Tụi bây chạy
càng nhanh càng được vô giường sớm.”
Sau vài phút cùng nhau chạy như điên, chúng tôi tới trước một
dãy khác. Người tù phụ trách đang chờ. Anh ta là một
thanh niên Ba lan, cười chào chúng tôi. Anh bắt đầu nói với
chúng tôi, dù mệt lã người chúng tôi vẫn nhẫn nại lắng nghe:
“Các bạn cùng tâm chí, các bạn đang ở trại tập
trung Auschwitz. Trước mặt là một con đường dài đau khổ. Nhưng
đừng mất can đảm. Các bạn đã thoát được sự nguy hiểm trầm trọng nhất:
là tuyển lựa. Vậy lúc này hãy tập trung sức mạnh và chớ đánh mất nhiệt
tâm của mình. Hết thảy chúng ta sẽ thấy ngày giải
phóng. Hãy có niềm tin vào cuộc sống. Trên tất cả những
thứ khác, hãy có niềm tin. Hãy quét sạch tuyệt vọng, hãy xua đuổi tử
thần ra khỏi bản thân mình. Không phải mãi mãi là địa ngục
đâu. Và lúc này, tôi có lời năn nỉ các bạn - hoặc đúng hơn, một chút
lời khuyên: hãy sống đồng lòng với nhau. Chúng ta hết thảy đều là
anh em, và chúng ta đều chịu chung số phận. Chung một luồng khói
đang lềnh bềnh trên đầu tất cả chúng ta kia. Hãy giúp đỡ
nhau. Đó là cách duy nhất để sống sót. Tôi đã
nói đủ. Các bạn mệt rồi. Nghe
đây. Các bạn ở trong Dãy 17. Tôi chịu trách nhiệm giữ trật
tự ở đây. Ai có điều gì khiếu nại về người khác thì có thể tới gặp
tôi. Thế thôi. Các bạn có thể đi ngủ. Hai người
một sạp giường tầng. Chúc các bạn ngủ ngon.” Những lời
nói đầu tiên mang tính người.
Vừa mới leo lên sạp là chúng tôi ngủ như chết.
Sáng hôm sau, những tù nhân “lão làng” đối xử với chúng tôi
không chút gì tàn bạo. Chúng tôi được tới chỗ rửa người. Chúng
tôi được cho quần áo mới. Chúng tôi được có cà phê đen.
Chừng mười giờ, chúng tôi ra khỏi dãy để người ta vào làm vệ
sinh. Tinh thần rất phấn chấn, chúng tôi cảm thấy cái lợi lộc của giấc
ngủ đêm qua. Bạn bè gặp nhau, chuyện trò đôi câu. Chúng
tôi nói tới mọi việc trừ việc nhắc tới những người đã biến mất. Ý kiến
chung là chiến tranh sắp chấm dứt.
Khoảng trưa người ta mang tới cho chúng tôi xúp: mỗi người một
dĩa xúp khá đầy. Tôi không chịu chạm vào nó dù đang bị cơn đói hành
hạ. Tôi vẫn là chú bé ưa làm nũng như trước đây. Cha tôi
ăn suất xúp của tôi.
Chúng tôi ngủ trưa dưới bóng mát của các dãy
nhà. Tên viên chức SS trong ba-rắc bùn đêm trước chắc là nói dối. Auschwitz thực
tế là một nhà nghỉ ngơi...
Buổi chiều chúng tôi được lệnh xếp hàng. Ba tù
nhân mang tới một cái bàn và vài dụng cụ y khoa. Từng người một,
chúng tôi xăn tay áo trái, đi ngang chiếc bàn ấy. Ba tù nhân “lão
làng” tay cầm kim, xâm số lên cánh tay trái chúng
tôi. Tôi thành A-7713. Từ lúc đó, tôi không có tên gọi
nào khác nữa.
Xế chiều, điểm diện. Các toán lao động trở về. Gần
cửa, ban nhạc chơi các bản quân hành. Mười ngàn tù nhân đứng thành
hàng trong khi các viên chức SS kiểm tra số tù.
Sau điểm diện, tù nhân tản ra mọi dãy nhà tìm bạn bè, thân
nhân và láng giềng đã tới đây trong những chuyến chuyên chở trước.
Ngày qua ngày. Sáng, cà phê đen. Trưa,
xúp. (Tới ngày thứ ba, tôi nuốt ngấu nghiến bất cứ thứ xúp
nào.) Sáu giờ chiều, điểm diện. Rồi bánh mì và thứ gì
đó. Chín giờ, đi ngủ.
Chúng tôi đã ở tám ngày tại Auschwitz. Trong
một lần điểm diện chúng tôi đang không trông mong gì hơn ngoài tiếng chuông báo
xong điểm diện. Bỗng nhiên tôi nghe ai đó đang đi qua các hàng, hỏi: “Ai
là Wiesel ở Sighet?”
Kẻ đang tìm chúng tôi là một người nhỏ thó đeo kính, bộ mặt
nhăn nheo khô choắt. Cha tôi trả lời người ấy:
“Tôi Wiesel ở Sighet đây.”
Người nhỏ thó ấy nhìn ông một lúc lâu, mắt nheo lại.
“Chú không nhận ra cháu - chú không nhận ra
cháu. Cháu bà con với chú. Chú quên cháu rồi
à? Stein đây! Stein ở Antwerp. Chồng của
Reizel. Vợ của chú là cô của Riezel. Cô ấy thường viết
thư cho chúng cháu... viết nhiều thư lắm!”
Cha tôi không nhận ra người ấy. Chắc là không biết
được người ấy vì cha tôi lúc nào cũng bù đầu với công chuyện của cộng đồng Do
thái và không nắm rõ lắm chuyện gia đình. Trí óc ông không ở chỗ này
thì cũng ở chỗ nọ, chìm lỉm trong các ý nghĩ. (Có lần, một người chị
họ đến thăm chúng tôi tại Sighet. Chị ở với chúng tôi và ăn chung suốt
hai tuần, sau đó cha tôi mới bắt đầu để ý tới sự có mặt của chị.) Không,
ông không thể nào nhớ ra Stein. Về phần tôi, tôi nhận ra anh ấy
ngay. Tôi khá thân với Reizel vợ anh ấy trước khi chị dọn
đi Belgium.
Anh ấy nói, “Cháu bị trục xuất năm 1942. Cháu nghe
có chuyến chở người từ xứ chú đến nên tới tìm chú. Cháu nghĩ có lẽ
chú có tin tức Reizel và lũ con trai nhỏ của cháu. Mẹ con chúng bị rớt
lại đằng sau ở Antwerp...”
Tôi không biết chút gì về họ. Từ năm 1940, mẹ tôi
không còn nhận được lá thư nào của họ. Nhưng tôi nói dối:
“Vâng, mẹ em có nhận được tin của gia đình
anh. Riezel mạnh khoẻ lắm. Các cháu cũng mạnh...”
Anh khóc vui mừng. Anh muốn ở lại lâu hơn, nghe
thêm chi tiết, hớp say sưa tin vui ấy, nhưng một tên SS đã tới, anh phải đi, và
nói lớn với chúng tôi là mai anh trở lại.
Tiếng chuông báo hiệu giải tán. Chúng tôi đi nhận
bữa ăn chiều gồm bánh mì và bơ loảng. Tôi đói kinh khủng, nuốt hết tại
chỗ suất ăn của mình.
Cha tôi nói, “Con đừng ăn hết cả suất một lần. Biết
đâu chừng ngày mai đổi khác...”
Thấy lời khuyên mình nói ra đã quá trễ và suất ăn của tôi chẳng
còn lại gì, ông không chịu bắt đầu suất ăn của ông.
“Phần cha, cha không thấy đói,” ông nói.
Chúng tôi ở Auschwitz đã ba tuần. Không
có việc gì làm. Buổi chiều và buổi tối chúng tôi tha hồ ngủ.
Chỉ có mỗi một điều lo lắng là tránh đừng để mình bị đưa đi
nơi khác, ở lại đây càng lâu càng tốt. Điều ấy không khó; chỉ có việc
đơn giản là đừng bao giờ để bị gán cho là thợ lành nghề. Người lao động
không tay nghề được giữ lại tới cùng.
Vào lúc bắt đầu tuần thứ ba thì tù nhân phụ trách dãy của
chúng tôi bị cách chức, bị coi là quá nhân đạo. Trưởng dãy mới của
chúng tôi là một tên man rợ và những người phụ tá của hắn là những quái vật thật
sự. Qua rồi những ngày tốt lành. Chúng tôi tự hỏi biết
đâu tốt hơn là để cho mình được chọn lựa trong chuyến chuyên chở sắp tới.
Stein, người bà con chúng tôi ở Antwerp, tiếp tục tới
thăm chúng tôi, thỉnh thoảng anh mang tới nửa suất bánh mì.
“Đây, cái này cho em, Eliezer.”
Hễ anh đến là nước mắt anh chảy ràn rụa đầy má, đông lại và
đóng băng trên mặt. Anh thường nói với cha tôi:
“Xin chú hãy chăm sóc con trai của chú. Em nó quá
yếu, khô người. Chú hãy chăm sóc nó kỹ lưỡng, đừng để nó bị tuyển lựa. Hãy
ăn! Ăn gì và ăn lúc nào không thành vấn đề. Ăn bất cứ thứ gì ăn được. Người
yếu không thể quanh quẩn ở đây lâu...”
Chính người anh cũng quá gầy, quá khô cằn, quá yếu...
“Điều duy nhất giữ cho cháu còn sống,” anh thường nói, “là
Riezel và các con của cháu vẫn còn sống. Nếu không vì mẹ con chúng,
cháu không thể kéo dài được...”
Một tối, anh tới phía chúng tôi, mặt rạng rỡ:
“Có chuyến vận chuyển mới tới từ Antwerp. Cháu
sắp gặp họ ngày mai! Chắc chắn người ta có tin tức.”
Anh đi ra.
Chúng tôi không gặp lại anh nữa. Anh đã có tin tức. Tin
tức thật.
Buổi tối, nằm trên giường, chúng tôi rán hát vài bài ca Do
thái giáo; và Akiba Drumer làm tan nát tâm hồn chúng tôi bằng giọng ca sâu lắng
và trang trọng của anh.
Vài người nói tới Thượng đế, tới những cách thế bí nhiệm của
Ngài, về tội lỗi của dân tộc Do thái và về cuộc giải thoát của họ trong tương
lai. Nhưng tôi đã thôi cầu nguyện. Làm sao tôi thiện cảm
được với Gióp! Tôi không phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế nhưng
tôi nghi ngờ công lý tuyệt đối của Ngài.
Akiba Drumer nói: “Thượng đế thử thách chúng
ta. Ngài muốn xem liệu chúng ta có chế ngự được các bản năng căn bản
và giết được quỉ Satan ở bên trong con người chúng ta không. Chúng
ta không được quyền thất vọng. Và nếu Ngài trừng phạt chúng ta không
chút xót thương thì đó cũng là dấu chỉ rằng Ngài rất yêu thương hết thảy chúng
ta.”
Hersch Genud, thông thạo về huyền nghĩa, nói tới tận thế và sự
giáng lâm của Đấng Cứu thế.
Chỉ một lần tình cờ trong các cuộc trò chuyện đó, trong tôi bất
chợt xuất hiện ý nghĩ: “Lúc này mẹ mình ở đâu? Và Tzipora...”
“Mẹ con là một phụ nữ còn trẻ,” cha tôi nói vào dịp
đó. “Chắc chắn bà ấy đang ở một trại lao động nào đó. Và
lúc này Tzipora là thiếu nữ đã lớn bộn, phải không? Chắc chắn nó
cũng đang ở một trại lao động nào đó.”
Chúng tôi muốn tin như thế biết chừng nào. Chúng
tôi giả bộ, vì nếu tin vào cái khác thì để làm gì chớ?
Tất cả các thợ lành nghề đều đã bị đưa tới các trại
khác. Chỉ còn lại khoảng một trăm chúng tôi, những người lao động
không tay nghề.
“Hôm nay tới lượt các ngươi,” người thư ký dãy
nói. “Các ngươi sẽ đi trong chuyến vận chuyển sắp tới.”
Lúc mười giờ, chúng tôi được phát suất bánh mì hằng
ngày. Chừng mười tên SS vây quanh chúng tôi. Tấm biển
trên cửa: “Lao Động Là Tự Do“. Đếm người. Và rồi, chúng
tôi bị xua ra ngoài. Ở đồng quê giữa con đường chan hòa nắng. Trên
bầu trời có vài đám mây bạc nhỏ.
Chúng tôi đi chầm chậm. Lính gác không vội
vàng. Chúng tôi vui vì việc đó. Khi chúng tôi đi ngang
các làng mạc, người Đức nhìn chúng tôi không chút ngạc nhiên. Có lẽ
họ đã quá quen những cuộc diễu hành như thế này.
Trên đường, chúng tôi gặp vài thiếu nữ Đức. Lính
gác trêu ghẹo các cô. Các cô thích thú, cười khúc
khích. Để cho lính hôn hít, sờ soạng và phá lên cười. Đôi
bên đều cười, đùa giỡn, lớn tiếng tán tỉnh nhau suốt con đường
dài. Trong thời gian này, ít ra là chúng tôi không phải chịu tiếng
chưởi rủa và những cú nện bằng báng súng tiểu liên.
Sau bốn giờ đi, chúng tôi tới một trại mới:
Buna. Cổng sắt đóng lại đằng sau chúng tôi.
Chương 4
4.
Trại như thể vừa trải qua một nạn dịch: vắng tênh và chết
chóc. Chỉ vài người tù mang áo gió ngang thắt lưng đi quanh quẩn giữa
các ba-rắc.
Dĩ nhiên, trước hết chúng tôi phải đi tắm. Ở đó,
viên chỉ huy trại đến thăm ngó chúng tôi. Hắn tráng kiện, vạm vỡ,
vai rộng: cổ như cổ bò, môi dày, tóc xoăn. Hắn có vẻ thân thiện. Thỉnh
thoảng trong mắt xanh xám của hắn loé lên một nụ cười chúm
chím. Trong đoàn mới chuyển tới của chúng tôi có vài trẻ em mười và
mười hai tuổi.
Sau khi được phát áo quần mới, chúng tôi bị đưa vào hai chiếc
lều. Chờ lập xong danh sách các đơn vị lao động chúng tôi mới có thể
chuyển vào các ba-rắc.
Tối đó, các đơn vị lao động từ bãi lao động trở về. Điểm
diện. Chúng tôi khởi sự tìm mặt người quen, kiếm tin tức, hỏi các tù
nhân lão làng đơn vị lao động nào tốt nhất, ba-rắc nào nên cố tìm cách vào ở. Các
tù nhân đều chung ý kiến, nói, “Buna là trại rất tốt. Các người có
thể chịu đựng nổi nó. Điều quan trọng là chớ để bị đưa vào đơn vị
xây cất...”
Làm như thể việc chọn lựa nằm trong bàn tay mình!
Trưởng lều của chúng tôi là một người Đức. Một bộ
mặt sát thủ, môi nung núc, bàn tay như chân chó sói. Hắn mập tới độ
gần như không đi đứng nổi. Giống viên chỉ huy trại, hắn thương trẻ
em. Khi chúng tôi vừa vô tới, hắn mang đến cho trẻ em bánh mì, xúp
và bơ loảng. (Thật ra đó không phải là lòng từ bi vô vị lợi: về sau
tôi nghe nói ở đây những tên đồng tính luyến ái đổi chác nhau rất có giá các trẻ
em.)
Một trong các phụ tá của hắn - một cậu bé mặt lúc nào cũng
cau có, mắt du côn - đến gặp tôi:
“Mày có muốn ở đơn vị tốt không?”
“Muốn chớ. Nhưng với điều kiện: tôi được ở chung một
chỗ với cha tôi.”
“Được,” hắn nói. “Tao lo liệu được việc
đó. Với một đền đáp nhỏ: đôi giày của mày. Tao sẽ cho mày
mấy đôi khác.”
Tôi không chịu cho nó đôi giày của mình. Chúng là
tất cả những gì tôi còn lại.
“Tao sẽ cho mày suất phụ trội bánh mì và bơ.”
Nó rất mê đôi giày của tôi; nhưng tôi không cho nó đôi
giày. (Về sau họ tước lấy đôi giày của tôi. Nhưng lần đó
tôi không đổi chác được gì cả.)
Khám bệnh ngoài trời vào những giờ tảng sáng, trước ba bác sĩ
cùng ngồi trên một băng ghế.
Người đầu tiên rõ ràng là chẳng khám chút nào. Ông
chỉ thoải mái hỏi:
“Mày sức khoẻ tốt chứ?”
Ai dám nói ngược lại?
Trái lại, nha sĩ dường như rất có lương tâm: hắn ra lệnh
chúng tôi hoác rộng miệng ra. Thật ra hắn không tìm răng sâu mà tìm
răng vàng. Ai miệng có răng vàng đều được ghi số tù vào một danh
sách phụ. Tôi có một chiếc răng bịt vàng.
Ba ngày đầu qua nhanh. Vào ngày thứ tư, mới rạng
sáng, chúng tôi đang đứng trước lều thì có các tên Kapo xuất hiện. Rồi
mỗi tên bắt đầu lựa người thích hợp với hắn.
“Mày...mày...mày và mày...” chúng chỉ tay, như thể lựa súc vật
hoặc hàng hoá.
Chúng tôi đi theo tên Kapo của mình, một thanh
niên. Hắn ra lệnh chúng tôi đứng lại ngay lối vào của ba-rắc đầu
tiên gần cổng trại. Dãy nhà đó của ban nhạc. “Vào đi,” hắn
ra lệnh. Chúng tôi ngạc nhiên. Mình có dính líu gì tới âm
nhạc đâu.
Ban nhạc đang chơi bản quân hành, lúc nào cũng chỉ một bản
đó. Hàng tá đơn vị đi ra các bãi lao động, đều bước. Lũ
Kapo hô nhịp: “Một, hai, một, hai.”
Vài tên SS tay cầm viết và giấy, đếm người khi tù đi
ra. Ban nhạc tiếp tục chơi, cũng vẫn bản quân hành ấy, cho tới khi
đơn vị chót đi qua. Lúc đó, chiếc gậy nhạc trưởng thả lịm xuống. Ban
nhạc ngưng hẳn và lũ Kapo gào lên:
“Xếp hàng năm!”
Chúng tôi ra khỏi trại không có tiếng nhạc, nhưng đều bước:
nhạc quân hành còn dội trong tai mình.
“Một, hai! Một, hai!”
Chúng tôi bắt đầu chuyện vản với các nhạc sĩ bên mình.
Chung với các nhạc sĩ, chúng tôi làm thành hàng
năm. Gần như họ đều là người gốc Do thái: Juliek, dân xứ Ba lan đeo
kính với nụ cười chán đời trên bộ mặt xanh xao; Louis, một tay vĩ cầm xuất sắc
đến từ Hà lan - ông phàn nàn là họ không để cho ông chơi nhạc Beethoven: người
Do thái không được phép chơi nhạc Đức; Hans, một thanh niên Berlin linh hoạt. Viên
cai là người Ba lan, Franek, cựu sinh viên đến từ Warsaw.
Juliek giải thích cho tôi: “Chúng ta lao động
trong nhà kho vật liệu điện, cách đây không xa. Công việc không tới
nổi khó khăn nguy hiểm. Nhưng Idek, tên Kapo, thỉnh thoảng nổi cơn
điên, lúc ấy tốt nhất là tránh mặt nó...”
“Mày hên lắm nhỏ ạ,” Hans cười. “Mày được ở đơn vị
tốt...”
Mười phút sau, chúng tôi đã ở trước nhà kho. Một
nhân viên người Đức, công chức, ngài Meister, tới gặp chúng tôi. Hắn
chăm bẳm ngó chúng tôi như một khách mua hàng vừa được người ta giao cho một đống
giẽ cũ.
Các bạn lao động chung với tôi có lý; công việc không mấy khó
khăn. Ngồi bệt xuống đất, chúng tôi phải đếm các chóa đèn, bóng đèn
và các linh kiện điện nhỏ. Tên Kapo dài dòng cắt nghĩa cho chúng tôi
tầm quan trọng vô cùng của công việc chúng tôi, cảnh cáo rằng ai lao động tơ lơ
mơ sẽ bị hắn thanh toán. Các bạn lao động chung trấn an tôi:
“Không việc gì phải sợ. Hắn phải nói thế là vì
ngài Meister thôi.”
Có một số thường dân Ba lan ở đây, và một ít phụ nữ Pháp thường
đưa mắt thiện cảm nhìn các nhạc sĩ.
Franek, người cai, cho tôi ngồi trong một góc. “Đừng
tự giết mình; chẳng có gì gấp. Coi chừng chớ để tụi SS để ý.”
“Em xin anh... Em muốn ở bên cha em.”
“Được. Cha em làm việc ở đây, sát bên em.”
Chúng tôi hên thật.
Có hai cậu trai vào nhóm chúng tôi: Yosi và Tibi, hai anh em
ruột. Cả hai người Do thái Tiệp khắc, cha mẹ bị tàn sát tại
Birkenau. Hai anh em sống cho nhau, cả thân xác lẫn linh hồn.
Chúng và tôi chẳng bao lâu thành bạn. Từng thuộc về
tổ chức thanh niên phục quốc Do thái, chúng biết vô số bài hát tiếng Do thái cổ. Vì
thế chúng tôi thường ậm ừ ngâm nga trong cổ họng những giai điệu khua động mặt
nước tĩnh lặng của dòng sông Giordan và chốn thiêng liêng tráng lệ
Gierusalem. Và chúng tôi thường nói về Palestine. Cha
mẹ chúng, cũng giống như cha mẹ tôi, đã thiếu can đảm thanh toán công việc làm
ăn và di cư lúc còn kịp thời. Chúng tôi cùng quyết định rằng, nếu giữ
được mạng mình cho tới lúc giải phóng, chúng tôi sẽ không ở châu Âu thêm một
ngày nào nữa. Chúng tôi sẽ lên chuyến tàu đầu tiên
đi Haifa về đất Do thái.
Vẫn lạc loài trong các giấc mơ huyền học của mình, Akiba
Drumer phát hiện một câu trong Kinh Thánh, diễn giải theo khoa số lượng học,
khiến ông tiên đoán ngày giải phóng sẽ xảy đến nội trong vài tuần lễ tới.
Chúng tôi đã rời lều vào ở ba-rắc của các nhạc
sĩ. Mỗi người được phát một cái mền, một cái thau và một cục xà
phòng. Trưởng ba-rắc là một người Đức gốc Do thái.
Thật tốt khi ở dưới quyền một người Do thái. Anh ấy
gọi là Alphonse. Một thanh niên mặt già trước tuổi một cách lạ lùng,
anh hoàn toàn hiến thân cho công việc của ba-rắc “của mình”. Hể lúc
nào có thể được là anh lo liệu nồi xúp cho những người trẻ, người yếu, tất cả
những ai mơ màng một dĩa xúp đầy hơn là ngày giải phóng.
Ngày nọ, khi vừa từ nhà kho về, tôi bị viên thư ký ba-rắc gọi:
“A-7713?”
“Có mặt.”
“Sau khi ăn, mày tới nha sĩ.”
“Nhưng em không đau răng.”
“Sau khi ăn. Không được quên.”
Tôi tới dãy nhà bệnh viện. Khoảng hai mươi người
tù đang nối đuôi nhau chờ trước cửa. Chẳng mất nhiều thì giờ mới biết
lý do chúng tôi bị triệu tới: để nhổ răng vàng của mình.
Nha sĩ, một người Do thái đến từ Tiệp khắc, có bộ mặt như chiếc
mặt nạ chết. Khi hắn há miệng, người ta có thể thấy các răng sâu,
vàng khè, ngó thiệt hãi hùng. Tôi ngồi vô ghế, khúm núm hỏi hắn: “Xin
vui lòng nói cho cháu biết, ông sắp làm gì vậy?”
“Đơn giản thôi, nhổ cái răng bịt vàng của mày,” hắn trả lời,
hững hờ.
Tôi có ý nghĩ là giả bộ bệnh.
“Thưa nha sĩ, ông chờ vài ngày có được không? Cháu
cảm thấy trong người không khoẻ. Cháu bị sốt...”
Hắn nhíu mày, suy nghĩ một chút, và bắt mạch tôi.
“Được con ạ. Hễ mày cảm thấy khá hơn thì trở lại gặp
ta. Nhưng đừng chờ tới khi ta gọi.”
Tuần sau tôi đến gặp hắn. Cũng lời bào chữa đó:
Cháu vẫn cảm thấy không khá hơn. Hắn dường như chẳng ngạc nhiên tí
nào, tôi cũng chẳng biết hắn tin hay không. Có lẽ hắn vui khi thấy
tôi tự mình trở lại như đã hứa. Hắn hoản cho tôi thêm lần nữa.
Ít ngày sau chuyến trở lại của tôi, phòng nhổ răng bị đóng cửa
và hắn bị ném vô tù. Hắn sắp bị treo cổ. Người ta cho là
hắn đã thực hiện việc đổi chác răng vàng của tù nhân để kiếm lợi
riêng. Tôi không cảm thấy thương xót hắn. Tôi cũng không
thích thú về việc xảy ra đó. Tôi giữ được chiếc răng bịt vàng của
mình. Ngày nào đó nó có thể hữu ích cho tôi để mua cái gì đó - bánh
mì hay sự sống. Lúc này, ngoài dĩa xúp hằng ngày và vụn bánh mì cũ,
tôi ít quan tâm tới cái gì khác. Bánh mì, xúp - những thứ đó là toàn
bộ cuộc đời tôi. Tôi là một thân xác. Có lẽ còn ít hơn thế
nữa: một bao tử đói. Chỉ riêng có bao tử là nhận biết sự trôi qua của
thời gian.
Tại nhà kho, tôi thường lao động bên cạnh một thiếu nữ
Pháp. Chúng tôi không chuyện vãn với nhau vì chị không biết tiếng Đức
và tôi chẳng hiểu tiếng Pháp.
Với tôi, chị hoàn toàn là một phụ nữ Do thái, dù chị được
chuyển tới đây như một người Aryan. Chị là kẻ bị trục xuất và bị cưỡng
bách lao động.
Ngày nọ, trong khi Idek nổi cơn điên, tôi lại ở ngay trên lối
đi của hắn. Như con thú hoang, hắn nhảy xổ vô người tôi, tay đấm
chân đạp vô ngực tôi vô đầu tôi, ném tôi xuống đất, rồi xách tôi lên, các cú đấm
của hắn càng lúc càng ác liệt, cho tới khi khắp người tôi đầy
máu. Khi đó, tôi cắn môi ngăn không để mình thét lên đau đớn. Chắc hắn
coi sự im lặng của tôi là khinh bỉ nên hắn tiếp tục dộng tôi mạnh hơn.
Thình lình hắn hạ hỏa. Làm như không có gì xảy ra,
hắn trả tôi về lại chỗ lao động. Như thể chúng tôi vừa cùng chơi một
trò chơi ai cũng có phần phải đóng của người đó.
Tôi lết người vô góc xó của mình. Đau nhức khắp
mình mẩy. Tôi cảm thấy có một bàn tay êm mát đang lau chiếc trán bê
bết máu của tôi. Chính người thiếu nữ Pháp ấy. Chị cười với
tôi, nụ cười thê lương, và ấn vào tay tôi một mẩu bánh mì. Chị nhìn
vào mắt tôi. Tôi cảm thấy chị muốn nói điều gì đó nhưng nghẹn lại vì
sợ. Trong một lúc lâu, chị giữ yên như thế, rồi nét mặt chị sáng dần
lên, chị nói với tôi bằng một thứ tiếng Đức gần như hoàn hảo:
“Cắn môi lại, cậu em... Đừng khóc. Hãy giữ cơn giận
và hận thù của cậu cho một ngày kia, cho về sau. Ngày ấy sẽ tới,
nhưng không phải bây giờ... Hãy chờ. Nghiến răng lại mà chờ...”
Nhiều năm sau, tại Paris, tôi đang ngồi đọc báo trong một
chuyến xe điện ngầm. Trước mặt tôi là một phụ nữ tuyệt đẹp, tóc đen
và mắt mơ huyền. Tôi đã thấy đâu đó trước đây đôi mắt
này. Chính là chị.
“Chị không nhận ra em à?”
“Tôi không quen ông.”
“Năm 1944, chị ở Đức, tại Buna, phải không?”
“Vâng...”
“Chị thường lao động trong nhà kho đồ điện...”
“Vâng,” chị nói, có điều gì bối rối. Và rồi, sau một
khoảnh khắc im lặng: “Chờ chút...Tôi nhớ ra rồi...”
“Idek, tên Kapo... thằng bé Do thái...những lời tử tế của chị...”
Chúng tôi rời xe điện ngầm và cùng ngồi trên sân thượng một
tiệm cà phê. Chúng tôi trải qua hết buổi tối đó hoài niệm.
Trước lúc chia tay, tôi hỏi chị: “Em hỏi chị một câu được
không?”
“Tôi biết đó là câu gì rồi - hỏi đi.”
“Cái gì?”
“Rằng, tôi có phải là người Do thái
không...? Đúng, tôi là người Do thái. Xuất thân từ một
gia đình ngoan đạo. Thời chiếm đóng tôi dùng giấy tờ giả, mạo nhận
mình là người Aryan. Vì thế tôi bị ghi tên vào đoàn lao động cưỡng
bách và bị trục xuất về Đức, tôi trốn khỏi trại tập trung. Tại nhà
kho, không ai biết tôi nói được tiếng Đức, biết thì chỉ sinh ra nghi ngờ. Nói
vài lời ấy với cậu là liều mạng: có điều tôi biết cậu sẽ không để lộ tôi ra.”
Một lần khác, chúng tôi chất máy Diesel lên xe lửa, có lính Đức
giám thị. Thần kinh Idek đang hồi nổi quạu. Hắn khó khăn
ghê gớm mới có thể tự chế. Thình lình, cơn điên của hắn vỡ
bùng. Nạn nhân là cha tôi.
“Mày lão già lười biếng đồ khốn nạn!” Idek bắt đầu gào
lên. “Mày gọi thế này là lao động hả?”
Và hắn bắt đầu nện ông bằng cây sắt. Ban đầu, cha
tôi chúi người dưới các cú đập, rồi ông gãy gập thành hai, như cây khô bị sét
đánh, gục xuống.
Tôi chăm chú nhìn từ đầu tới cuối hoạt cảnh ấy, không chút
nhúc nhích. Tôi giữ bình tĩnh. Thực tế tôi đang nghĩ cách
làm sao kéo cha tôi ra mà mình không bị đánh lây. Điều tệ hơn nữa
là, bất cứ căm giận nào mà tôi cảm thấy lúc đó đều qui hướng, không
phải tới tên Kapo ấy, mà là tới cha tôi. Tôi giận ông đã không biết
cách tránh né cơn bùng nổ của Idek. Cuộc sống trại tập trung đã biến
tôi thành ra như thế đó.
Franek, người cai, ngày nọ để ý chiếc răng bịt vàng của tôi.
“Nhỏ, cho tao cái răng bịt vàng của mày.”
Tôi nói với anh là không thể được, không có nó tôi không ăn
được.
“Mày có gì nhiều nhặn để ăn đâu mà kể?”
Tôi tìm ra câu trả lời khác; chiếc răng bịt vàng này đã được
lên danh sách sau lần kiểm tra sức khoẻ. Việc này có thể gây rắc rối
cho cả anh lẫn tôi.
“Nếu không cho tao cái răng bịt vàng của mày, mày sẽ trả giá
nhiều hơn nữa.”
Người thanh niên thông minh, thiện cảm ấy bỗng chốc không còn
là con người trước đây. Mắt anh loé lên tia lập loè thèm
khát. Tôi nói với anh là tôi phải hỏi ý kiến cha tôi.
“Nhỏ, hỏi cha mày đi. Nhưng tao muốn mày phải trả
lời ngay ngày mai.”
Khi tôi kể việc đó với cha tôi, ông tái mặt, im lặng một lúc
lâu rồi nói:
“Không, con, con đừng làm chuyện đó.”
“Anh ta sẽ đè mình ra mà lấy.”
“Hắn không dám đâu.”
Nhưng hỡi ơi, Franek biết chỗ nào làm tôi xúc động; anh ta biết
nhược điểm của tôi. Cha tôi chưa bao giờ đi lính và ông không bao giờ
đi đều bước được. Tại đây, hể mỗi lần theo đội hình di chuyển từ chỗ
này tới chỗ khác thì chúng tôi phải nghiêm chỉnh bước theo nhịp quân
hành. Đó là cơ hội cho Franek hành hạ cha tôi, và đánh đập dã man
ông hằng ngày: Một, hai: đấm. Một hai: tát.
Tôi quyết định hướng dẫn cha tôi tập, dạy ông bước đổi chân,
giữ đúng nhịp. Chúng tôi bắt đầu thực tập trước ba-rắc của
mình. Tôi hô lệnh: “Một, hai!” và cha tôi thực hành. Vài
tù nhân khởi sự cười nhạo chúng tôi:
“Coi kìa, tên sĩ quan nhóc tì dạy lão già bước..., Ê đại tướng,
lão già trả công mày mấy suất bánh mì thế?”
Nhưng cha tôi không tiến bộ được bao nhiêu, và các cú đấm tiếp
tục rơi xuống người ông như mưa.
“Lão già lười biếng khốn nạn, mày vẫn không bước đúng nhịp được
à?”
Suốt hai tuần lặp đi lặp lại hoạt cảnh ấy. Chúng
tôi hết chịu đựng nổi. Phải cho thôi. Khi ngày ấy đến,
Franek rú lên cười hoang dại:
“Tao biết mà; tao hoàn toàn biết chắc tao sẽ thắng. Thà
trễ còn hơn không. Nhưng vì mày làm tao chờ nên mày phải chi ra một
suất bánh mì. Một suất bánh mì cho bạn tao, một nha sĩ trứ danh đến
từ Warsaw để nó có thể nhổ chiếc răng bịt vàng của mày.”
“Cái gì? Suất bánh mì của tôi để anh lấy răng bịt vàng của
tôi ?”
Franek nhe răng cười:
“Thế mày muốn gì? Muốn tao đấm cho văng răng mày ra à?”
Ngay tối đó, trong cầu tiêu, người nha sĩ từ Warsaw nhổ
chiếc răng bịt vàng của tôi ra, với đồ nghề là một cái muổng gỉ sét.
Franek dần dà thân thiện hơn. Thỉnh thoảng anh ta
còn cho tôi thêm xúp. Nhưng việc đó không lâu. Hai tuần
sau, tất cả những người Ba lan bị chuyển qua trại khác. Tôi mất chiếc
răng bịt vàng của mình mà không được gì cả.
Vài ngày trước khi người Ba lan rời đi, tôi có một kinh nghiệm
mới.
Sáng đó Chúa nhật. Hàng tuần, vào ngày đó, đơn vị
chúng tôi không phải đi lao động. Nhưng lần này Idek không muốn nghe
tới việc chúng tôi ở lại trại. Chúng tôi phải ra nhà
kho. Nhiệt tình lao động đột xuất này làm chúng tôi choáng váng.
Tại nhà kho, giao chúng tôi cho Franek, Idek nói, “Cứ lao động
theo ý mày. Nhưng phải kiếm việc gì đó mà làm. Không làm
thì biết tay tao...”
Và hắn biến mất.
Chúng tôi chẳng biết làm gì. Mỏi người vì ngồi chồm
hổm, chúng tôi thay phiên nhau đi quanh nhà kho, tìm vài mẩu bánh mì mà nhân
viên dân sự nào đó có thể vứt lại.
Khi tới phía sau nhà kho, tôi nghe có tiếng động phát ra từ
phòng nhỏ ở cửa kế bên. Tôi đi lên, thấy Idek đang với một cô gái Ba
lan ở trần, nằm trên nệm. Lúc ấy tôi hiểu ra lý do Idek không chịu để
chúng tôi lại trong trại. Đưa cả trăm người ra đây cho hắn có dịp nằm
với một cô gái! Việc đó làm tôi tức cười tới độ bật ra thành tiếng.
Idek nhảy đựng, dòm quanh và thấy tôi, trong khi đó cô gái cố
che ngực mình. Tôi muốn vùng chạy nhưng cả hai bàn chân dính chặt mặt
đất như bị keo dán. Idek túm cổ tôi.
Hắn thấp giọng nói, “Nhóc, mày chờ coi...Mày thấy liền là mày
phải trả giá như thế nào việc mày bỏ đi không lao động... Mày trả giá liền việc
đó mà... Bây giờ, về chỗ ngay.”
Nửa giờ trước giờ thường lệ chấm dứt lao động, tên Kapo ấy tập
họp toàn đơn vị. Điểm diện. Chẳng ai hiểu việc gì xảy
ra. Điểm diện vào giờ này trong ngày? Tại
đây? Nhưng tôi hiểu. Tên Kapo diễn thuyết gọn lỏn:
“Một tù nhân bình thường thì không có quyền xía vô công chuyện
của người khác. Có người trong tụi bây hình như không biết như thế. Vì
vậy, tao buộc lòng phải làm cho nó hiểu rõ điều đó, một lần để đời.”
Tôi cảm thấy mồ hôi chạy dọc sống lưng.
“A-7713!”
Tôi bước ra.
“Một cái thùng!” hắn ra lệnh.
Người ta mang ra cho hắn một cái thùng.
“Nằm lên trên thùng! Nằm sấp xuống!”
Tôi tuân lệnh.
Rồi tôi không còn biết gì nữa ngoài những cú roi quật xuống.
“Một...hai...,” hắn đếm.
Giữa mỗi cú quất, hắn lấy hơi. Chỉ những cú đầu
làm tôi đau thật sự. Tôi nghe ra tiếng hắn đếm:
“Mười...mười một...”
Giọng hắn tỉnh bơ, chạm người tôi như va vào một bức vách
dày.
Hai mươi ba...”
Hai roi nữa, tôi nghĩ, nửa mê nửa tỉnh. Tên Kapo
chờ.
“Hai mươi bốn... hai mươi lăm!”
Xong. Nhưng tôi chẳng còn biết gì vì đã ngất xỉu. Tôi
cảm thấy mình tỉnh lại khi có gàu nước lạnh dội lên người. Tôi vẫn
còn nằm trên thùng. Tôi chỉ lờ mờ nhận ra đất ướt chung quanh
mình. Rồi tôi nghe ai đó hét lên. Chắc là tên
Kapo. Tôi bắt đầu phân biệt được những tiếng hắn đang la.
“Đứng lên.”
Hẳn là tôi có nhúc nhích rướn người mình lên vì tôi cảm thấy
thân xác mình rớt trở lại mặt thùng. Tôi thèm đứng lên biết mấy!
“Đứng lên!” hắn gào to hơn.
Giá như ít ra tôi có thể trả lời hắn; giá như tôi có thể bảo
hắn là tôi không cục cựa nổi. Nhưng tôi chẳng thể nào làm cho môi
mình mở ra được.
Theo lệnh của Idek, hai người tù xách tôi lên, lôi tới trước
mặt hắn,
“Nhìn thẳng vô mắt tao!”
Tôi ngó hắn mà không thấy hắn. Tôi đang nghĩ tới
cha tôi. Chắc ông còn đau khổ gấp mấy tôi nữa.
“Nghe tao đây, đồ khốn kiếp!” Idek nói, lạnh
lùng. “Đó là vì mày tọc mạch. Mày sẽ bị gấp năm lần thế
này nữa nếu mày dám hé cho ai nghe mày thấy cái gì! Hiểu chưa?”
Tôi gật gật đầu, một lần, mười lần, tôi gật đầu không ngừng,
như thể đầu tôi đã quyết định nói vâng không bao giờ ngừng.
Vào một ngày Chúa nhật, một nửa chúng tôi - gồm có cha tôi -
đi lao động; nửa còn lại - gồm có tôi - ở lại ba-rắc, lợi dụng cơ hội nằm rán
trên sạp giường buổi sáng.
Lúc khoảng mười giờ, tiếng còi hụ phòng không rú lên vang rền. Báo
động. Các trưởng ba-rắc chạy vào gom chúng tôi lại bên trong, cùng
lúc đó SS núp trong các hầm trú ẩn. Vì khi có báo động thì tương đối
dễ trốn trại - lính gác rời chòi canh, cúp điện hàng rào kẽm gai - nên SS hạ lệnh
giết bất cứ người nào bị bắt gặp bên ngoài ba-rắc.
Trong ít phút, trại như thể một con tàu bị bỏ
rơi. Không một linh hồn sống động nào trên các lối
đi. Sát bên nhà bếp, hai nồi xúp nóng đang bốc khói bị bỏ lại, còn
lưng chừng nồi. Hai nồi xúp, nằm ngay giữa lối đi, không ai canh chừng
chúng! Một đại tiệc của bậc vua chúa đang bị bỏ rơi, cám dỗ cực kỳ! Hàng
trăm con mắt nhìn hai cái nồi, long lanh thèm khát. Hai con cừu, với
một trăm con sói đang nằm chờ chúng. Hai con cừu không người canh giữ
- một món quà. Nhưng ai dám.
Sợ hãi mạnh hơn cái đói. Thình lình, chúng tôi thấy
cửa Ba-rắc 37 hé ra. Một người xuất hiện, bò loằng ngoằng như con
giun về hướng hai cái nồi.
Hàng trăm con mắt dõi theo cử động của anh
ta. Hàng trăm con người đang bò với anh ta, lê đầu gối mình theo đầu
gối của anh ta trên sỏi. Mọi con tim đều run rẩy, nhưng trên tất cả,
là ghét. Anh ta đã có gan!
Anh ta tới nồi thứ nhất. Các quả tim chạy đua: anh
ta đã thành công. Cơn ganh tị thiêu chúng tôi cháy rụi, đốt chúng
tôi bùng lên như rơm. Khoảnh khắc ấy, chúng tôi không nghĩ tới việc
ngưỡng mộ anh ta. Vị anh hùng khốn khổ, liều mình tử tiết vì một suất
xúp. Bằng ý nghĩ của mình, chúng tôi đang mưu sát anh ta.
Duỗi người bên một cái nồi, anh ta lúc này cố rướn người lên
mép nồi. Không biết vì yếu sức hay sợ hãi, anh ta trụ lại đó, rõ
ràng là đang rán gom hết tàn lực sau chót của mình. Cuối cùng, anh
ta thành công, nhấc được người mình lên tới mép nồi. Phút giây ấy,
anh ta có vẻ như thấy chính mình, tìm kiếm bóng mình phản chiếu lờ mờ trong nồi
xúp. Rồi, không biết vì lý do gì, anh ta hét lên một tiếng khủng khiếp,
kêu ục ục nghe như thể trước đây tôi chưa từng nghe, và anh ta há miệng ra, đút
đầu mình vô nồi chất lỏng đang bốc khói. Chúng tôi nhảy nhổm nổ bùng
cơn thịnh nộ. Rớt trở lại mặt đất, mặt anh ta lem luốc đầy xúp, anh
ta quằn quại trong vài giây ở chân nồi, rồi chẳng nhúc nhích cục cựa gì nữa.
Kế đó chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy bay. Gần
như lập tức, các ba-rắc bắt đầu rung rinh.
“Họ đang bỏ bom Buna!” ai đó la lên.
Tôi nghĩ đến cha tôi. Dù sao tôi cũng thấy sung sướng. Nhìn
toàn bộ các công trình nổ tung trong lửa - thật là đã hận! Chúng tôi
đã nghe nhiều lời bàn tán về sự thất thủ của lính Đức trên nhiều mặt trận khác
nhau nhưng chẳng biết tin tưởng được bao nhiêu. Chuyện đó, hôm nay,
quả là có thật!
Chúng tôi không sợ. Và tuy vậy, nếu một trái bom rớt
trúng các ba-rắc thì chỉ mình nó thôi cũng đủ lấy mạng tại chỗ hàng trăm nạn
nhân. Nhưng chúng tôi không còn sợ chết; bất cứ giá nào cũng không sợ
chết kiểu đó. Từng trái bom nổ làm lòng chúng tôi tràn ngập hân hoan
và cho chúng tôi niềm tin vào cuộc sống.
Còi hụ kéo suốt hơn một giờ. Giá như nó có thể kéo
dài chục lần mười giờ!... Rồi lại rơi vào im lặng. Âm thanh sau cùng
của chiếc máy bay Mỹ mất tiêu trong gió, và chúng tôi lần nữa lại thấy mình ở
trong lò thiêu. Một luồng khói đen khổng lồ bốc lên đằng chân trời. Tiếng
còi hụ vang rền lần nữa. Chấm dứt báo động.
Tất cả ra khỏi ba-rắc. Chúng tôi hít lửa đầy phổi
- và không khí ám khói, mắt chúng tôi long lanh hy vọng. Một trái
bom rơi xuống chính giữa trại, gần nơi tập họp, nhưng tịt
ngòi, Chúng tôi phải khiêng nó ra ngoài trại.
Viên chỉ huy trại, đi kèm theo có người phụ tá, đánh một vòng
xem xét dọc các lối đi. Cuộc oanh tạc để lại trên mặt hắn những dấu
vết kinh hoàng.
Ngay chính giữa trại nằm thân thể kẻ tử tiết với khuôn mặt lấm
lem xúp, nạn nhân độc nhất. Hai cái nồi được đưa vào lại nhà bếp.
Lính SS về lại chòi canh, đằng sau các khẩu súng máy của
chúng. Tiết mục chuyển tiếp đã xong.
Một giờ sau, chúng tôi thấy các đơn vị trở về, đều bước, như
thường lệ. Tôi mừng thấy cha tôi hiện ra trong tầm mắt.
“Có mấy toà nhà bị san bằng,” ông nói, “nhưng nhà kho chẳng hề
hấn gì.”
Buổi chiều chúng tôi vui vẻ đi dọn dẹp tro tàn.
Một tuần sau, trên đường đi lao động về, chúng tôi để ý thấy
chính giữa trại, ngay nơi tập họp, có một giá treo cổ màu đen.
Chúng tôi được bảo cho biết là sẽ không phát xúp cho tới khi
điểm diện xong toàn trại. Lần này lâu hơn thường lệ. Lệnh
truyền ra, giọng sắc lạnh hơn mọi ngày, và ở ngoài trời, tiếng người ta hoá ra
nhỏ lạ lùng.
“Lột mũ ra!” viên chỉ huy trại bất thần gào lên.
Mười ngàn cái mũ đồng loạt cất khỏi đầu.
“Đội mũ vào!”
Mười ngàn cái mũ quay về trên sọ của chúng, lẹ như chớp.
Cổng trại mở. Một đơn vị SS xuất hiện, vây chúng
tôi: cách mỗi ba bước có một tên SS. Trên các tháp canh, súng máy chỉa
vào nơi tập họp.
Hai tên SS đi về phía xà lim. Rồi chúng ra lại, kẹp
giữa chúng người bị kết án. Anh ta là một thanh niên đến từ Warsaw. Anh
đã trải ba năm sống trại tập trung. Anh mạnh khoẻ, vạm vỡ, so với
tôi, anh là người khổng lồ.
Sau lưng anh là giá treo cổ, mặt anh hướng về kẻ xét xử mình,
viên chỉ huy trại; mặt anh tái xanh, nhưng có vẻ xúc động hơn là sợ
hãi. Hai tay bị cùm của anh không run rẩy. Mắt anh lạnh
lùng nhìn hàng trăm lính gác, hàng ngàn tù nhân chung quanh.
Viên chỉ huy trại bắt đầu đọc bản án, gằn mạnh từng tiếng:
“Nhân danh Himmler...tù nhân số...trong lúc báo động đã ăn cắp...
Theo luật...điều khoản...tù nhân số...bị kết án tử hình. Mong rằng
việc này cảnh cáo và làm gương cho hết thảy các tù nhân.”
Không ai nhúc nhích.
Tôi nghe tim mình đập dồn dập. Hàng trăm người chết
mỗi ngày ở Auschwitz và ở Birkenau trong các lò thiêu không còn khiến
tôi bị rúng động nữa. Nhưng người này, kẻ đang dựa lưng vào giá treo
cổ chính mình - anh ta làm tôi choáng váng.
“Mày có nghĩ là nghi thức sẽ kết thúc liền
không? Tao đói bụng...” Juliek thầm thì.
Viên chỉ huy trại ra hiệu, tên Lagerkapo bước tới phía người
bị kết án. Hai tù nhân giúp hắn làm công tác hành quyết này - vì hai
dĩa xúp.
Tên Kapo muốn bịt mắt nạn nhân nhưng anh từ chối.
Sau một lúc lâu chờ đợi, người xử giảo quàng sợi thừng quanh
cổ anh ta. Hắn vừa vẫy tay, phụ tá của hắn liền rút chiếc ghế khỏi
chân người tù, lúc ấy, người tù thét lớn, bằng giọng trầm tĩnh, dũng mãnh:
“Tự do muôn năm! Tai hoạ giáng xuống nước Đức! Tai
hoạ...! Tai...”
Những tên hành quyết đã làm tròn công tác.
Lệnh chẻ không khí như một nhát gươm.
“Lột mũ ra!”
Mười ngàn tù nhân ngã mũ kính chào vĩnh biệt.
“Đội mũ vào.”
Rồi toàn trại, dãy này kế tiếp dãy kia, phải theo đội hình đi
ngang người bị treo cổ, nhìn vào đôi mắt đục lờ, chiếc lưỡi thè
ra. Lũ Kapo và các trưởng ba-rắc buộc mọi người phải nhìn cho thật kỷ
bộ mặt người đó.
Sau cuộc diễu hành, chúng tôi được phép quay về ba-rắc của
mình để ăn.
Tôi nhớ lại là tôi cảm thấy xúp tối đó thật tuyệt vời...
Tôi còn chứng kiến những cuộc treo cổ khác. Tôi
không bao giờ thấy có nạn nhân nào than khóc. Trong một thời gian
dài, những thể xác khô kiệt ấy đã quên mùi vị cay đắng của nước mắt.
Trừ một lần. Oberkapo của đơn vị dây cáp năm mươi
hai là một người Hà lan, khổng lồ, cao gần hai thước. Dưới quyền anh
có bảy trăm tù nhân lao động, và ai cũng thương anh như anh
em. Tay anh chưa hề đấm người tù nào và miệng anh chưa hề thóa
mạ ai.
Dưới quyền anh ta có một cậu bé, một tiểu đồng, như người ta
thường gọi - cậu bé ấy có bộ mặt thanh tú và tuyệt đẹp, đẹp chưa từng
có trong trại này.
(Tại Buna, lũ tiểu đồng bị khinh miệt, chúng thường tàn nhẫn
hơn cả người lớn. Tôi từng thấy một thằng bé mười ba tuổi đánh cha
nó vì người cha không làm giường đúng theo ý nó. Ông lão khóc thổn
thức trong lúc thằng bé la lớn: “Nếu ông không nín ngay, tôi sẽ
không đem bánh mì về cho ông nữa. Ông hiểu chưa?õ Nhưng cậu
cần vụ nhỏ bé của anh Hà lan này ai cũng thương. Cậu bé có nét mặt của
một thiên thần u sầu.)
Ngày nọ, nhà máy điện ở Buna nổ tung. Gestapo được
triệu đến tại chỗ, nghi ngờ có phá hoại. Chúng dò theo dấu vết. Cuối
cùng, dấu vết dẫn tới người Oberkapo Hà lan ấy. Tại đó, sau khi lùng
kiếm, chúng tìm thấy một kho vũ khí quan trọng.
Người Oberkapo bị bắt ngay. Liên tiếp mấy tuần lễ,
chúng tra tấn anh nhưng vô ích. Anh không hé ra tên
ai. Anh bị chuyển sang trại Auschwitz. Chúng tôi
không bao giờ nghe tin anh nữa.
Nhưng cậu cần vụ nhỏ bé của anh bị bỏ lại trong
tù. Cũng bị tra tấn và cậu cũng không khai. Sau đó, SS kết
án tử hình cậu cùng hai tù nhân khác bị phát hiện có vũ khí.
Vào một ngày khi đi lao động về, chúng tôi thấy ba giá treo cổ
lù lù ở nơi tập họp, ba con quạ đen. Điểm diện. SS bọc
quanh chúng tôi, súng máy chỉa vào: nghi thức truyền thống. Ba nạn
nhân đeo xiềng - và một trong ba người là cậu cần vụ nhỏ bé, thiên thần u sầu.
SS dường như lo lắng và bối rối hơn thường lệ. Treo
cổ một cậu bé trước hàng ngàn khán giả không phải là việc nhẹ
nhàng. Viên chỉ huy trại đọc bản án. Mọi con mắt dồn về cậu
bé. Cậu xanh xao tái nhợt, gần như trầm lặng, cắn môi. Những
chiếc giá treo cổ phủ bóng lên người cậu.
Lần này tên Lagerkapo không chịu làm người hành quyết. Ba
tên SS thế chỗ hắn.
Ba nạn nhân cùng leo lên ghế một lượt.
Ba chiếc cổ cùng một lượt đút vô thòng lọng.
“Tự do muôn năm!” Hai người lớn hô vang.
Nhưng cậu bé thì im lặng.
“Thượng đế đâu rồi? Ngài ở đâu?” ai đó sau lưng tôi thắc mắc.
Viên chỉ huy ra hiệu, ba chiếc ghế bị rút đi.
Khắp trại hoàn toàn yên lặng. Mặt trời đang lặn cuối
chân trời.
“Lột mũ ra!” viên chỉ huy trại gào lên. Giọng hắn
khàn đục. Chúng tôi đang thổn thức.
“Đội mũ vào!”
Rồi chúng tôi bắt đầu theo đội hình đi ngang
qua. Hai người lớn thì đã chết. Lưỡi thè ra, sưng phồng,
xanh lè. Nhưng sợi dây thứ ba còn động đậy: vì thân mình quá nhẹ, cậu
bé vẫn còn sống.
Trong hơn nửa giờ, cậu ở đó, vật lộn giữa cái sống và cái chết,
chầm chậm, hấp hối, đau đớn, dưới mắt chúng tôi. Và chúng tôi phải
nhìn cho kỷ nét mặt đó. Cậu vẫn còn sống khi tôi đi ngang trước mặt
cậu. Lưỡi cậu vẫn đỏ, mắt cậu chưa đờ đẩn.
Đằng sau tôi, tôi nghe cũng vẫn giọng người ấy hỏi:
“Lúc này Thượng đế ở đâu?”
Và tôi nghe bên trong tôi có tiếng trả lời:
“Ở đâu ư? Ngài ở đây - Ngài đang bị treo cổ ở đây,
trên giá treo cổ này...”
Đêm đó xúp có mùi xác chết.
Chương 5
5.
Mùa hè đang hết. Năm Do thái gần qua.
Trong lễ Rosh Hashanah, ngày cuối của cái năm đáng nguyền rủa
này, toàn trại sôi nổi với tâm hồn tràn đầy căng thẳng của chúng
tôi. Dù sao đi nữa, ngày ấy vẫn không giống bất cứ ngày nào
khác. Ngày cuối năm. Tiếng “cuối” ngân vang lạ
lùng. Nếu đây thật sự là ngày cuối thì sao?
Bữa ăn tối đó người ta cho chúng tôi nhiều xúp nhưng chẳng ai
chạm tay vào dĩa. Chúng tôi muốn chờ cho tới khi cầu nguyện
xong. Tại nơi tập họp, bốn phía là hàng rào kẽm gai có truyền điện,
hàng ngàn người Do thái im lặng tụ tập, nét mặt xúc động.
Đêm xuống. Từ các ba-rắc, tù nhân nối tiếp nhau lũ
lượt kéo tới, người ta bỗng dưng làm chủ được cả thời gian lẫn không gian, và
trịnh trọng đưa chúng vào lời ước nguyện của mình.
“Hỡi Thượng đế, Ngài là cái gì?” tôi suy nghĩ một cách giận dữ, “so
với đám đông khốn khổ này, những kẻ đang bày tỏ với Ngài đức tin của họ, cơn thịnh
nộ của họ, sự nổi loạn của họ? Hỡi Chúa Tể Càn khôn, sự tối thượng của
Ngài có nghĩa lý gì trước toàn bộ yếu đuối, phân hủy và thối rữa
này? Tại sao Ngài tiếp tục gây khủng hoảng cho những tâm trí thương
tật của họ, cho những hình hài què quặt của họ?”
Mười ngàn người tới dự lễ phụng vụ trọng thể, các trưởng ba-rắc,
các Kapo, những chức việc của Thần chết.
“Nguyện xin Đấng Hằng cửu...”
Tiếng vị chủ tế chỉ vừa đủ nghe. Ban đầu tôi tưởng
tiếng gió.
“Nguyện Danh Ngài Đấng Muôn Đời!”
Hàng ngàn tiếng nói lặp lại lời kinh ấy, hàng ngàn người sấp
mặt rạp mình xuống đất như cỏ cây trước bão tố.
“Nguyện Danh Ngài Đấng Muôn Đời!”
Tại sao? Tại sao tôi nên cầu khẩn danh
Ngài! Tôi nổi loạn trong từng đường gân sớ thịt. Vì Ngài
đã có hàng ngàn trẻ em bị thiêu trong các nhà trạm của Ngài ư? Vì
Ngài giữ cho sáu lò thiêu hoạt động suốt ngày suốt đêm, luôn cả Chúa
nhật và các ngày lễ? Vì bằng sức mạnh của mình, Ngài đã tạo
ra Auschwitz, Birkenau, Buna và rất nhiều nhà máy tử thần
khác? Làm sao tôi có thể nói với Ngài: “Nguyện xin Ngài,
Đấng Muôn đời, Chúa Tể Càn khôn, Đấng đã chọn chúng tôi giữa các chủng tộc, để
chúng tôi bị hành hạ suốt ngày suốt đêm, để chúng tôi thấy cha mình, mẹ mình,
anh chị em mình chấm hết cuộc đời trong các lò thiêu? Tán tụng Danh
Cực Thánh của Ngài, Đấng đã chọn chúng tôi để chúng tôi bị tàn sát trên đàn tế
lễ Ngài?”
Tôi nghe giọng vị chủ tế cất cao đầy uy lực đồng thời cũng
không kém phần tức tưởi, giữa những giọt nước mắt, những tiếng thổn thức và những
hơi thở dài của toàn thể cộng đoàn:
“Tất cả quả đất và vũ trụ là của Thượng đế!”
Ông ngưng giọng từng chặp, như thể chẳng còn chút hơi sức nào
để tìm cho ra ý nghĩa nằm bên trong những lời đó. Giai điệu nghẹn lại
trong cổ họng ông.
Và tôi, bí nhiệm về cái tôi đang là, tôi nghĩ:
“Vâng, con người quá đổi mạnh mẽ và lớn lao hơn Thượng đế. Khi
bị A-đam và E-va đánh lừa, Ngài đuổi họ ra khỏi Địa đàng. Khi thế hệ
No-e làm mất lòng Ngài, Ngài giáng xuống Cơn Hồng thủy. Khi thành
Sô-đôm không còn vừa mắt yêu mến của Ngài, Ngài khiến bầu trời mưa xuống lửa và
diêm sinh. Những người này đây, những người đang bị Ngài phản bội,
những người Ngài để cho bị tra tấn, tàn sát, chết ngạt, chết thiêu, họ đã và
đang làm gì? Họ cầu nguyện trước Ngài! Họ tán tụng danh Ngài!”
“Mọi tạo vật đều làm chứng sự Vĩ đại của Thượng đế!”
Đã một thời Ngày Đầu Năm từng chế ngự tôi. Tôi đã
có thời từng biết rằng tội lỗi mình làm Đấng Hằng cửu sầu khổ; tôi đã từng kêu
van Ngài tha thứ. Tôi đã từng tin tưởng sâu xa rằng công cuộc cứu độ
thế gian treo lơ lửng trên hành vi đơn độc của tôi, trên lời nguyện cầu đơn độc
của tôi.
Hôm nay tôi không còn nài xin. Tôi không còn khả
năng than khóc. Trái lại, tôi cảm thấy mình mạnh mẽ. Tôi
là người lên án, Thượng đế là kẻ bị kết án. Mắt tôi mở ra và tôi cô
đơn - cô đơn kinh khủng trong một thế giới không Thượng đế và không con người. Không
tình yêu không ân sủng. Tôi thôi không còn là gì ngoài tro than, tuy
thế tôi cảm thấy mình mạnh mẽ hơn Đấng Toàn năng, kẻ mà đời tôi đã bị ràng buộc
vào trong một thời gian quá dài. Tôi đứng giữa cộng đoàn đang cầu
nguyện, quan sát nó như thể mình là người lạ.
Buổi phụng vụ chấm dứt với kinh cầu hồn Kaddish. Mọi
người đọc kinh Kaddish cho cha mẹ mình, cho con cái mình, cho anh chị em mình,
và cho chính bản thân mình.
Trong một lúc lâu, chúng tôi đứng lại ở nơi tập họp. Không
người nào dám lết mình ra khỏi ảo vọng này. Lúc đó, đã tới giờ đi ngủ,
các tù nhân chầm chậm men theo lối đi về ba-rắc mình. Tôi nghe người
ta chúc nhau Năm Mới Hạnh Phúc!
Tôi chạy một mạch tìm cha tôi. Đồng thời, tôi sợ
nói lời chúc ông Năm Mới Hạnh Phúc trong khi tôi chẳng còn tin tưởng vào lời ấy.
Ông đang đứng bên bức tường, lưng còng xuống, vai lệch hẳn
như thể dưới một gánh nặng. Tôi đi tới bên ông, cầm tay ông lên mà
hôn. Một giọt nước mắt rơi xuống bàn tay ông. Nước mắt
này của ai? Của tôi? Của ông? Tôi không nói gì. Ông cũng không nói
gì. Chưa bao giờ chúng tôi hiểu nhau tận tường như thế.
Tiếng chuông reo khiến chúng tôi giật mình về với thực tại. Chúng
tôi phải đi ngủ. Từ chốn xa xăm chúng tôi trở về. Tôi ngước
mắt nhìn lên khuôn mặt cha tôi đang ngó xuống tôi, cố tìm thấy một nụ cười hay
điều gì giông giống như thế trên nét mặt khô cằn tuổi tác đó. Không
gợn chút cảm xúc nào. Nãn thật.
Ngày Yom Kipur. Ngày Đền Tội.
Chúng tôi nên ăn chay không? Vấn đề ấy gây tranh
luận sôi nổi. Ăn chay có nghĩa là chết chắc hơn, chết lẹ
hơn. Ở đây chúng tôi đang hoàn toàn ăn chay quanh năm. Suốt
năm là ngày Yom Kipur. Những người khác nói rằng nên ăn chay tàm tạm
thôi vì ăn chay rốt ráo thì rất nguy hiểm. Chúng ta nên biểu lộ với
Thượng đế rằng ngay cả ở đây, trong địa ngục có hàng rào vây quanh này, chúng
ta vẫn có khả năng hát lời tán tụng Ngài.
Tôi không ăn chay, chủ yếu là làm vui lòng cha tôi vì ông cấm
tôi ăn chay. Thêm nữa, chẳng còn lý do nào để tôi ăn
chay. Tôi không còn chấp nhận sự im lặng của Thượng đế. Khi
húp chén xúp của mình, tôi thấy trong cử chỉ đó hành động nổi loạn và chống đối
Ngài.
Và tôi gặm vụn bánh mì của mình.
Tận đáy sâu tâm hồn mình, tôi cảm thấy vô cùng trống rỗng
SS tặng một món quà hay ho cho chúng tôi dịp đầu năm mới.
Chúng tôi vừa lao động trở về. Mới bước vào cổng
trại, chúng tôi đã cảm giác trong không khí có điều gì khác lạ. Điểm
diện như thường lệ. Xúp tối đó được phát rất nhanh và nuốt lập tức,
một cách khổ sở.
Tôi không còn được ở chung ba-rắc với cha tôi. Tôi
bị chuyển qua đơn vị khác, đơn vị xây cất, ở đó lao động mười hai giờ mỗi ngày,
phải kéo lê các khối đá nặng nề. Trưởng ba-rắc mới của tôi là một
người Do thái Đức, vóc người nhỏ thó, đôi mắt xoi mói. Tối đó anh
nói sau bữa xúp chiều không ai được ra ngoài. Rồi chẳng bao lâu, lan
truyền một tiếng khủng khiếp: tuyển lựa.
Chúng tôi hiểu rõ tiếng đó có ý nghĩa gì. Một quan
chức SS sẽ xem xét chúng tôi. Hễ lúc nào hắn thấy có ai quá yếu - kẻ
bị loại trừ, như chúng tôi gọi họ, hắn ghi số của người ấy: thích hợp cho lò
thiêu.
Sau bữa xúp, chúng tôi tụ tập quanh các sạp giường. Những
tù nhân lão làng nói:
“Các người hên vì bị đưa vào đây rất trễ. Ngày
nay, trại này là địa đàng so với hai năm trước. Thuở ấy Buna là địa
ngục thật sự. Không nước, không mền, ít xúp và bánh
mì. Ban đêm chúng tôi ngủ gần như trần truồng và trời dưới không độ. Ngày
nào cũng lượm hàng trăm xác chết. Lao động nặng nhọc. Ngày
nay trại này là một địa đàng nhỏ. Thuở đó, lũ Kapo được lệnh mỗi
ngày giết một số lượng tù nhân nhất định. Và tuần nào cũng có tuyển
lựa. Tuyển lựa không chút xót thương... Vâng, các người hên lắm.”
“Ngưng lại! Im đi!” tôi năn nỉ. “Để chuyện các bác lại tới
ngày mai hay ngày khác hãy kể.”
Họ phá lên cười. Không phải tự nhiên mà họ lên lão
làng.
“Mày sợ à? Tụi tao cũng từng sợ như vậy. Và
thuở đó có nhiều thứ cho mình sợ.”
Những người lớn tuổi ở yên trong xó của mình, ngớ ngẩn, bất động,
bị săn đuổi. Vài người đang đọc kinh.
Được hoản lại thêm một giờ. Trong một giờ nữa,
chúng tôi sẽ biết phán quyết: chết hoặc tạm ngưng án tử hình.
Và cha tôi? Tôi chợt nhớ tới ông. Làm sao ông vượt
qua được cuộc tuyển lựa? Ông đã có tuổi...
Trưởng ba-rắc của chúng tôi từ năm 1933 tới nay chưa từng ở
ngoài các trại tập trung. Anh đã qua tất cả các lò sát sinh, tất cả
các nhà máy tử thần. Khoảng chín giờ, anh đứng lên, giữ vị trí mình ở
giữa chúng tôi:
“Im lặng!”
Im lặng lập tức.
“Nghe kỹ điều tôi nói đây,” (lần đầu tiên tôi thấy giọng anh
run run). “Chhút nữa thôi sẽ bắt đầu cuộc tuyển lựa. Các
người phải cởi hết quần áo. Lúc đó từng người một tới trước các bác
sĩ SS. Tôi hy vọng hết thảy các người đều qua trót lọt. Nhưng
ai cũng phải nắm lấy cơ hội của mình. Trước khi vào phòng kế bên,
các người phải cử động sao đó cho hồng người lên một tí. Đừng đi chậm.
Chạy! Chạy như ma đuổi! Chớ ngó tên SS, cứ chạy một mạch
tới phía trước mình!”
Anh bỗng ngưng lại một chút, rồi thêm:
“Và điều cốt yếu là: không sợ!”
Đây là chút lời khuyên mà chúng tôi rất muốn mình theo cho bằng
được.
Tôi cởi quần áo, để quần áo mình trên chỗ nằm. Tối
nay chẳng còn lo có ai ăn cắp.
Tibi và Yossi, bị chuyển đơn vị cùng lượt với tôi, tới chỗ
tôi đứng, nói:
“Mình ở sát nhau nghe. Mình sẽ mạnh bạo hơn.”
Yossi lầm bầm điều gì đó trong kẽ răng. Nó hẳn
đang cầu nguyện. Tôi chưa bao giờ thấy Yossi là người có đức
tin. Thậm chí lúc nào tôi cũng nghĩ ngược lại. Tibi im lặng,
xanh lè. Tất cả tù nhân trong ba-rắc đứng trần truồng dọc dãy sạp nằm. Đây
chắc là cách người ta đứng trong ngày phán xét tận thế.
“Họ đang tới!”
Có ba viên chức SS đứng bao quanh Tiến sĩ Mengele quí tộc, kẻ
tiếp nhận chúng tôi tại Birkenau. Trưởng ba-rắc cố vén môi cười, hỏi
chúng tôi:
“Sẵn sàng chưa?”
Vâng, chúng tôi đã sẵn sàng. Các bác sĩ SS cũng thế. Tiến
sĩ Mengele cầm trên tay một danh sách: các con số của chúng tôi. Hắn
ra hiệu cho trưởng ba-rắc: “Chúng ta bắt đầu được rồi!” Làm
như đây là một trò chơi!
Đầu tiên đi ngang là các “chức sắc” của ba-rắc:
Stubenaelteste, các Kapo, các người cai, đương nhiên là tất cả đều tình trạng sức
khoẻ dồi dào! Rồi tới lượt tù nhân thường chúng tôi. Tiến
sĩ Mengele để ý họ từ đầu tới chân. Thỉnh thoảng hắn ghi xuống một
con số. Ý nghĩ duy nhất choán hết tâm trí tôi là: đừng để con số
mình bị ghi; đừng cho hắn thấy cánh tay trái xâm số của mình.
Chỉ còn Tibi và Yossi đứng đằng trước tôi. Hai anh
em qua rồi. Tôi kịp để ý là Mengele không ghi số của
chúng. Ai đó thúc tôi. Tới lượt tôi. Tôi cắm đầu
chạy. Đầu tôi nổ lùng bùng: mày gầy quá, mầy yếu quá, mày thích hợp
với lò thiêu... Cuộc chạy đua dường như vô tận. Tôi nghĩ
mình đang chạy suốt nhiều năm trường... Mầy gầy quá, mày yếu quá... Cuối cùng
tôi tới đích, hết hơi. Khi lấy lại được hơi thở, tôi hỏi Yossi và
Tibi:
“Tao có bị ghi số không?”
“Không,” Yossi nói. Nó thêm, cười chúm chím: “Dù
có muốn thì hắn cũng chẳng kịp ghi số của mày, mày vọt lẹ quá...”
Tôi bắt đầu cười. Tôi mừng. Lúc đó, việc
của người khác thì quan trọng gì tới tôi chớ! Tôi không bị ghi số!
Những người bị ghi số đứng qua một bên, bị toàn thể thế gian
bỏ rơi. Vài người thầm lặng khóc. Các sĩ quan SS bỏ
đi. Trưởng ba-rắc xuất hiện, nét mặt anh phản chiếu sự mệt mỏi của mọi
người.
“Mọi sự kết thúc ổn thoả. Đừng
lo. Không người nào bị gì cả. Không ai cả.”
Anh lại rán mỉm cười. Có một người Do thái khốn khổ,
hốc hác, khô đét, đau đáu hỏi anh với giọng run rẩy:
“Nhưng...nhưng, thưa trưởng ba-rắc, họ ghi số tôi!”
Trưởng ba-rắc không kềm được cơn giận đang bùng lên của
mình. Cái gì! Có người không tin anh à!
“Thế thì đã sao nào! Thế có nghĩa tao đang nói dối
à! Tao nói cho tụi bây biết, một lần rồi thôi, không chuyện gì xảy tới
cho tụi bây cả! Cho bất cứ ai cả! Tụi bây tuyệt vọng lút đầu lút cổ, đồ điên!”
Chuông reng, dấu hiệu rằng khắp trại đã hoàn tất cuộc tuyển lựa.
Với hết sức lực, tôi co giò chạy tới Ba-rắc
36. Trên đường, tôi gặp cha tôi. Ông chụp lấy tôi:
“Sao? Con qua được chứ?”
“Được. Còn cha?”
“Cha cũng vậy.”
Lúc này chúng tôi thở trở lại, khoẻ khoắn biết mấy! Cha
tôi đem theo cho tôi một món quà - nửa suất bánh mì có được nhờ miếng cao su
ông tìm thấy trong nhà kho, đổi đủ đóng đế một đôi giày.
Chuông reng. Chúng tôi lại phải chia tay nhau, đi
ngủ. Mọi sự qui định theo tiếng chuông. Chuông báo lệnh
cho tôi và tôi tự động tuân lệnh. Tôi thù nó. Hễ lúc nào
nằm mơ thấy một thế giới khá hơn thì tôi tưởng tượng ra thế giới đó không có
cái chuông nào.
Vài ngày trôi qua. Chúng tôi không còn nghĩ tới cuộc
tuyển lựa. Đi lao động như thường lệ, chất các tảng đá nặng lên các
toa chạy theo đường ray. Suất ăn bắt đầu sơ sài hơn: đó là thay đổi
duy nhất.
Như mọi ngày, chúng tôi chỗi dậy khi trời chưa rạng
sáng. Chúng tôi nhận cà phê đen, suất bánh mì. Chúng tôi
sắp lên đường ra bãi lao động như thường lệ. Trưởng ba-rắc chạy tới.
“Im lặng một chút. Tôi có danh sách
đây. Tôi đọc cho các người nghe. Ai có số tôi gọi sẽ
không đi lao động sáng nay, ở lại trại.”
Và, với giọng yếu ớt, anh đọc lên chừng mười số. Chúng
tôi đã hiểu. Những số đó được chọn trong cuộc tuyển lựa. Tiến
sĩ Mengele không quên chút nào.
Trưởng ba-rắc về phòng mình. Mười tù nhân vây anh
lại, níu áo:
“Cứu chúng tôi với! Anh đã hứa mà...! Chúng tôi muốn
đi bãi lao động. Chúng tôi đủ sức lao động mà. Chúng tôi
là người lao động tốt. Chúng tôi có thể... chúng tôi sẽ...”
Trưởng ba-rắc cố trấn an họ, đảm bảo với họ về số phận của họ,
cắt nghĩa cho họ là ở lại ba-rắc thì đã sao, không phải có ý nghĩa là thê thảm.
“Nói cho cùng tôi đây ngày nào cũng ở lại ba-rắc mà,” anh
thêm.
Dù nói gì đi nữa thì đó cũng chỉ là lời biện giải yếu ớt. Anh
nhận ra điều đó, không nói thêm tiếng nào, bỏ đi vô phòng khóa cửa lại.
Chuông vừa reng.
“Sắp hàng!”
Lúc này, lao động chắc là không nặng nhọc chút
nào. Cốt yếu là được ở xa, xa hết sức xa khỏi ba-rắc, khỏi nơi chết
chóc, khỏi trung tâm của địa ngục.
Tôi thấy cha tôi chạy về phía tôi. Khắp người tôi
đột nhiên run lẩy bẩy.
“Chuyện gì vậy cha?”
Thở chẳng ra hơi, ông nói hầu như không mở miệng nổi:
“Cha, cũng vậy...cha, cũng vậy! Họ bảo cha ở lại trại.”
Họ đã ghi số ông mà ông không nhìn thấy.
“Rồi sẽ ra sao đây cha?” tôi đau đớn hỏi.
Nhưng chính ông là người trấn an tôi.
“Chưa có gì chắc chắn. Vẫn còn cơ hội
thoát. Hôm nay tuyển lựa nữa... tuyển lựa có tính cách quyết định.”
Tôi im lặng.
Ông cảm thấy thời giờ của mình ngắn ngủi. Ông nói
nhanh. Chắc hẳn ông muốn nói rất nhiều điều. Lời ông càng
lúc càng hoang mang. Ông hiểu trong chốc lát thôi tôi phải
đi. Ông sẽ phải ở lại cô độc, quá đổi cô độc.
“Coi, con cầm con dao này,” ông bảo tôi. “Cha chẳng cần nó nữa. Nó
có thể ích lợi cho con. Với lại, con cầm cái muỗng này. Đừng
bán chúng. Lẹ lên! Tiếp tục nghe. Con cầm lấy những thứ
cha cho con đây!”
Của thừa kế.
“Cha, đừng nói như thế.” (Tôi cảm thấy mình sắp oà
khóc.) “Con không muốn cha nói như vậy. Cha cứ giữ muỗng
và dao. Cha cũng cần chúng như con vậy. Cha con mình sẽ lại
gặp nhau tối nay sau lao động mà.”
Ông nhìn tôi bằng đôi mắt mỏi mệt, đầy ắp tuyệt vọng. Ông
tiếp tục:
“Cha xin con việc này... Con cầm lấy chúng. Hãy
làm điều cha yêu cầu này. Chúng ta không có thì giờ... Hãy làm theo
lời cha của con yêu cầu.”
Tên Kapo của tôi đã gào lên, chúng tôi phải đi.
Đơn vị lên đường ra phía cổng trại. Một,
hai! Tôi cắn môi. Cha tôi ở lại, đứng bên một ba-rắc,
lưng dựa vào vách. Lúc ấy ông lại bắt đầu chạy, bắt cho kịp chúng
tôi. Có lẽ ông quên điều gì đó mà ông muốn nói với tôi... Nhưng
chúng tôi đang bước quá nhanh... Một, hai!
Chúng tôi tới cổng rồi. Họ đếm chúng tôi, theo tiếng
nhạc quân hành inh ỏi. Chúng tôi đã ra ngoài.
Suốt ngày đó tôi lang thang thơ thẩn như mộng
du. Thỉnh thoảng Tibi và Yossi ném cho tôi một lời đầy tình anh
em. Tên Kapo cũng thế, ra sức trấn an tôi. Hôm nay, hắn
giao tôi công tác dễ làm hơn. Tôi thấy tim mình đau nhức. Người
ta đối xử tôi tốt lành biết mấy! Như trẻ mồ côi! Tôi
nghĩ: cho đến tận lúc này, cha tôi vẫn còn phù hộ tôi.
Chính tôi cũng chẳng biết mình muốn gì - muốn hôm nay trôi
qua thật lẹ hay không. Tôi sợ đêm nay tôi thấy mình cô độc. Thật
tốt lành biết mấy nếu được chết ngay lúc này!
Cuối cùng đã tới lúc bắt đầu chuyến về trại. Tôi
thèm nghe lệnh chạy biết mấy!
Nhạc quân hành. Chiếc cổng. Trại.
Tôi chạy tới ba-rắc 36.
Trần gian chốn này vẫn có phép lạ sao? Ông còn sống. Ông
đã thoát cuộc tuyển lựa thứ hai. Ông đã chứng tỏ được mình vẫn còn
dùng được... Tôi đưa lại ông dao và muỗng.
Akiba Drumer đã bỏ chúng tôi mà đi, làm nạn nhân của cuộc tuyển
lựa. Mới đây, ông đi lang thang giữa chúng tôi, mắt đờ đẩn, kể cho
chúng tôi về sự suy nhược của ông: “Tôi không tiếp tục nổi...Xong hết
rồi...” Không nâng được tinh thần ông lên. Ông không chịu
nghe những gì chúng tôi nói với ông. Ông chỉ lặp đi lặp lại rằng với
ông tất cả xong hết rồi, rằng ông không còn có thể theo đuổi cuộc chiến đấu, rằng
ông chẳng còn chút hơi sức lẫn đức tin nào. Thình lình, đôi mắt ông
lạc thần, không còn gì nữa ngoài hai vết thương há miệng, hai hốc mắt kinh hãi.
Trong những ngày tuyển lựa ấy, ông không phải là người duy nhất
mất đức tin. Tôi quen một thầy cả đến từ một thành phố nhỏ ở Ba lan,
một ông lão lưng còng, môi lúc nào cũng run run. Ông cầu
nguyện mọi nơi mọi lúc, trong ba-rắc, ở bãi lao động, khi xếp
hàng. Ông có thể đọc thuộc lòng từ đầu đến cuối hàng hàng trang sách
Talmud, tranh luận với chính mình, đặt câu hỏi cho mình. Và ngày nọ,
ông nói với tôi: “Chấm hết rồi. Thượng đế chẳng còn ở với
chúng ta nữa.”
Và như thể hối hận vì những lời quá đổi phạm thượng, quá đổi
lạnh lùng đó, ông nói thêm với giọng yếu ớt:
“Ta biết. Con người không có quyền nói những điều
như thế. Ta biết. Loài người quá nhỏ nhoi, quá hèn mọn và
không đáng kể gì trong cuộc mưu tìm am hiểu những cách thức bí nhiệm của Thượng
đế. Nhưng ta làm được gì? Ta không phải là một hiền giả,
kẻ được chọn, cũng không là một vị thánh. Ta chỉ là một tạo phẩm
bình thường bằng xương bằng thịt. Ta cũng có mắt và ta có thể thấy
những gì người ta đang làm ở đây. Đấng Ân sủng thiêng liêng đâu rồi? Thượng
đế đâu rồi? Làm sao ta có thể tin, làm sao ai khác có thể tin vào
Thượng đế đầy ân sủng?”
Akiba Drumer khốn khổ, nếu ông có thể tiếp tục tin vào Thượng
đế, nếu ông có thể thấy được bằng chứng của Thượng đế tại đồi khổ nạn Núi Sọ
này, thì ông đã không bị cuộc tuyển lựa túm lấy. Nhưng ngay khi ông
cảm thấy trong đức tin của mình có những nứt rạn đầu tiên thành vết thì đó là
lúc ông đã đánh mất lý do chiến đấu và ông bắt đầu tử nạn.
Trước khi xảy ra cuộc tuyển lựa là ông đã tự kết án mình rồi,
vươn cổ mình ra cho tên đao phủ. Tất cả những gì lúc ấy ông yêu cầu
chúng tôi là:
“Trong vòng ba ngày nữa tôi sẽ chẳng còn ở đây... Xin đọc
kinh cầu hồn Kaddish cho tôi...”
Chúng tôi hứa với ông. Suốt thời gian ba ngày ấy,
hễ thấy khói bốc lên từ ống khói là chúng tôi sẽ nghĩ tới ông. Chúng
tôi sẽ tụ tập đủ mười người để cử hành một lễ đặc biệt. Tất cả bạn hữu
của ông sẽ cùng nhau đọc kinh Kaddish cho ông.
Kế đó, ông đi thẳng về phía bệnh xá, bước chân vững chải hơn,
chẳng ngoái nhìn lui. Xe cứu thương đang chờ chở ông tới Birkenau.
Những ngày đó thật kinh hoàng. Chúng tôi nhận được
các cú đánh nhiều hơn đồ ăn; chúng tôi bị lao động nghiền nát. Và ba
ngày sau khi ông đi, chúng tôi quên đọc kinh Kaddish.
Đông đến. Ngày ngắn. Đêm trở lạnh gần
như không chịu nổi. Trong những giờ sáng tinh sương, gió buốt quất
chúng tôi như roi. Chúng tôi được phát quần áo mùa đông - những chiếc
sơ-mi mong manh, dày hơn. Việc ấy cho những người lão làng thêm tư
liệu đùa cợt.
“Lúc này các người mới thiệt sự nếm mùi trại!”
Chúng tôi đi lao động như thường lệ, cơ thể đông đặc. Các
khối đá lạnh lẻo tới độ có vẻ nếu chạm tới thì tay chúng tôi bị dán chặt vào
chúng. Nhưng dù gì rồi cũng quen dần.
Ngày lễ Giáng sinh và đầu năm Dương lịch, không lao động.
Chúng tôi được cho xúp nhiều hơn, tuy loảng hơn.
Khoảng giữa Tháng Giêng, bàn chân phải của tôi bắt đầu sưng
húp vì lạnh. Tôi không đặt bàn chân đó xuống đất được. Tôi
đi khám. Bác sĩ, một bác sĩ cao quí người Do thái, tù nhân như chúng
tôi, hoàn toàn dứt khoát: tôi phải mổ. Nếu còn chờ thì các ngón chân
- và có thể cả cái chân - sẽ bị cưa.
Việc ấy là cái rơm rác sau cùng! Nhưng tôi không
chọn lựa được. Bác sĩ đã quyết định mổ, và không có chuyện nói tới
nói lui gì cả. Tôi còn mừng rằng chính ông ấy là người đưa quyết định.
Người ta đặt tôi vô giường có khăn trải giường trắng. Tôi
đã quên là người ta nằm ngủ có khăn trải giường.
Bệnh xá không tệ chút nào. Chúng tôi được phát
bánh mì ngon và nhiều xúp hơn. Không còn tiếng chuông
reng. Không còn điểm diện. Không còn lao động. Thỉnh
thoảng tôi có thể gởi cho cha tôi một miếng bánh mì.
Nằm gần tôi là một người Do thái Hungary, bị ngã quị vì
kiết lỵ - da bọc xương, đôi mắt lạc thần. Tôi chỉ có thể nghe giọng
nói của ông; đó là dấu hiệu duy nhất ông còn sống. Không biết ông lấy
đâu ra hơi sức mà nói?
“Thằng nhóc, mày chớ vội mừng. Ở đây cũng có tuyển
lựa. Thường xuyên hơn ở ngoài. Nước Đức không cần những
tên Do thái đau ốm. Nước Đức không cần tôi. Đến lần vận
chuyển sắp tới, mày sẽ có láng giềng mới. Vậy hãy nghe lời ta, và nhớ
lời ta khuyên: ra khỏi bệnh viện trước khi có cuộc tuyển lựa sắp tới!”
Những lời đó như phát ra từ lòng đất, từ một dáng người không
mặt, làm tôi chới với hãi hùng. Thật đúng là bệnh xá quá nhỏ và rằng
nếu trong vài ngày tới nhiều người bệnh vào thì phải tìm ra chỗ cho họ.
Nhưng có thể ông láng giềng không mặt của tôi sợ mình sẽ ở
trong số nạn nhân đầu tiên nên đơn giản là chỉ muốn tống cổ tôi đi, cho giường
tôi trống chỗ để ông có cơ hội sống sót. Có thể ông ta chỉ dọa
thôi. Tuy vậy, nếu ông nói đúng sự thật thì sao? Tôi quyết
định chờ các biến cố.
Bác sĩ tới nói với tôi mai là ngày mổ.
“Đừng sợ,” ông thêm. “Mọi sự sẽ êm xuôi.”
Lúc mười giờ sáng, người ta đem tôi vô phòng giải phẫu. Bác
sĩ “của tôi” đã ở đó. Điều ấy làm tôi an tâm. Tôi cảm thấy
hễ khi nào còn có ông ở đó thì chẳng có gì trầm trọng xảy ra. Trong
mỗi lời ông nói đều có niềm an ủi và trong mỗi ánh mắt ông nhìn đều chuyển cho
tôi lời nhắn nhủ chứa chan hy vọng.
“Con của ta, nó làm con đau lắm đấy,” ông nói, “nhưng rồi sẽ
qua thôi. Cắn răng con lại.”
Cuộc giải phẩu kéo dài một giờ. Họ không chịu đánh
thuốc mê. Tôi gắn chặt mắt vào ông bác sĩ của tôi. Rồi
tôi cảm thấy mình lịm đi...
Khi tỉnh lại, mở mắt ra, đầu tiên tôi chẳng thấy gì ngoài màu
trắng mênh mông, màu chiếc khăn trải giường tôi. Kế đến tôi để ý tới
khuôn mặt bác sĩ, cúi xuống người tôi.
“Mọi sự xong xuôi tốt đẹp. Con trai của ta, con thật
can đảm. Nay con ở lại đây an toàn nghỉ ngơi thoải mái, và sẽ
lành. Con sẽ ăn ngon miệng, thư giản cơ thể và thần kinh của con.”
Tôi chỉ có thể dõi theo những cử động của người
ông. Tôi không hiểu hết những gì ông nói nhưng tiếng thì thầm của
ông làm tôi thấy người mình khoẻ ra. Thình lình, trán tôi toát mồ
hôi lạnh. Tôi không cảm giác gì cái chân của mình! Có phải
người ta đã cưa nó?
“Bác sĩ,” tôi lắp bắp. “Bác sĩ...!”
“Gì thế, con?”
Tôi không đủ can đảm hỏi ông việc đó.
“Bác sĩ, con khát...”
Ông mang cho tôi nước. Ông mỉm cười. Ông
sắp sửa bước đi, thăm các bệnh nhân khác.
“Bác sĩ?”
“Gì?”
“Con có dùng được chân của mình nữa không?”
“Con ạ, con không tin ta sao?”
“Con tin tuyệt đối, thưa bác sĩ.”
“Thế thì, nghe lời ta đây. Nửa tháng nữa con sẽ
hoàn toàn bình phục. Con sẽ đi đứng như bất cứ ai. Gan
bàn chân con đầy mủ. Ta phải xẻ chỗ sưng. Con không bị
cưa chân. Con sẽ thấy mà. Sau thời gian nửa tháng, con sẽ
đi lui đi tới như mọi người khác.”
Tôi chỉ phải chờ nửa tháng.
Hai ngày sau cuộc giải phẩu của tôi, có lời đồn lan trong trại
rằng mặt trận đã đột nhiên kéo tới gần. Người ta nói Hồng Quân đang
tiến về Buna, lúc này chỉ còn vấn đề bao nhiêu giờ nữa.
Chúng tôi đã quá quen với lời đồn loại đó. Đây
không phải lần đầu có tiên tri giả báo trước cho chúng tôi về “hoà bình dưới thế”,
“đàm phán với hồng quân để thả chúng tôi ra”, hoặc những lời đồn nhảm khác...
Và thường thì chúng tôi tin chúng. Chúng như liều thuốc tiêm
móc-phin.
Nhưng lần này các lời tiên tri đó có vẻ có cơ sở
hơn. Trong mấy đêm vừa qua, chúng tôi nghe có tiếng súng xa xa.
Láng giềng của tôi, người không mặt, nói:
“Chớ để chính mày bị phỉnh gạt vì các ảo
giác. Hitler đã làm rõ ra rằng hắn sẽ thủ tiêu tất cả những người Do
thái trước khi chuông đồng hồ điểm mười hai giờ, trước khi chúng ta có thể nghe
tiếng gõ chót hết.”
Tôi lớn tiếng:
“Việc ấy liên can gì tới ông chớ? Bộ chúng ta phải coi Hitler là một
nhà tiên tri à?”
Đôi mắt đờ đẩn, lờ mờ của ông nhìn tôi. Cuối cùng ông nói giọng mệt
mỏi:
“Ta có đức tin vào Hitler hơn vào bất cứ ai khác. Hắn là kẻ duy nhất
giữ lời hứa, tất cả những lời hứa của mình, đối với dân Do thái.”
Lúc bốn giờ chiều cùng ngày, như thường lệ, chuông reng triệu tập tất cả trưởng
ba-rắc đi báo cáo.
Họ trở về, tan tác. Họ chỉ mở được môi vừa đủ để thốt ra một tiếng:
di tản. Trại sẽ để trống, chúng tôi được chuyển về phía sau, xa
hơn. Tới đâu? Tới chỗ nào đó sâu trong nước Đức, tới các
trại khác, thiếu gì trại.
“Chừng nào?”
“Tối mai.”
“Có lẽ người Nga sẽ tới đây trước đó.”
“Có lẽ.”
Chúng tôi hoàn toàn biết rõ họ sẽ không tới như thế.
Trại thành tổ ong. Người ta chạy quanh oang oang nói với
nhau. Trong ba-rắc nào cũng diễn ra việc sửa soạn cho chuyến đi tới. Tôi
quên bàn chân thê thảm của mình. Một bác sĩ vào phòng, tuyên bố:
“Mai, ngay lúc chạng vạng, trại sẽ lên đường. Lần lượt theo từng
dãy. Bệnh nhân ở lại bệnh xá, không di tản.”
Tin mới này làm chúng tôi suy nghĩ. Liệu tụi SS có để lại hàng trăm
bệnh nhân đi khệnh khạng trong các ba-rắc bệnh xá, chờ người giải phóng mình đến? Liệu
chúng có để người Do thái nghe chuông đồng hồ gõ tiếng thứ mười
hai? Rõ ràng là không.
“Tất cả những ai mất năng lực sẽ bị giết sạch,” người không mặt
nói. “Và đưa tới lò thiêu làm mẻ cuối cùng.”
Về phần tôi, tôi không nghĩ tới cái chết, nhưng tôi không muốn bị tách rời khỏi
cha tôi. Chúng tôi đã cùng nhau chịu đựng quá nhiều, cùng nhau đau
khổ quá nhiều; đây chẳng phải lúc chia lìa nhau.
Tôi chạy ra ngoài tìm ông. Tuyết dày và các cửa sổ ba-rắc phủ đầy
băng giá. Tay cầm một chiếc giày vì bàn chân phải của tôi không
xỏ vô được, tôi chạy, chẳng cảm thấy đau hoặc lạnh.
“Chúng ta làm sao đây?”
Cha tôi không trả lời.
“Chúng ta tính sao đây, cha?”
Ông đắm mình suy nghĩ. Sự chọn lựa trong bàn tay chúng
tôi. Lần này chúng tôi có thể quyết định số mạng của
mình. Cả hai chúng tôi có thể ở lại bệnh xá là nơi, nhờ ơn vị bác sĩ
của tôi, tôi có thể đưa cha tôi vô như một bệnh nhân hoặc y tá. Hoặc
ngược lại, chúng tôi có thể đi theo những người khác.
“Chúng ta sẽ làm sao đây, cha?”
Ông im lặng.
“Hay là cứ để mình bị di tản theo với những người khác,” tôi nói với ông.
Ông không đáp. Ông nhìn bàn chân tôi.
“Con có nghĩ con đi bộ được?”
“Vâng, con nghĩ là được.”
“Cứ hy vọng là mình sẽ không hối hận về việc này, Eliezer.”
Sau chiến tranh, tôi biết được số phận những người ở lại bệnh
xá. Đơn giản là hai ngày sau cuộc di tản, họ hết thảy được
người Nga giải thoát. Tôi không quay lại bệnh xá. Tôi về
ba-rắc mình. Vết thương của tôi há miệng, chảy máu; tuyết nơi tôi dẫm
chân đỏ ửng lên.
Trưởng ba-rắc phát gấp đôi suất bánh mì và bơ, cho cuộc hành
trình. Chúng tôi có thể tự do vô nhà kho lấy nhiều sơ-mi và quần áo
khác.
Trời lạnh. Chúng tôi đi ngủ.
Đêm chót ở Buna. Lại một đêm chót khác. Đêm chót ở nhà,
đêm chót ở biệt khu, đêm chót trên tàu, và bây giờ, đêm chót ở
Buna. Bao lâu nữa chúng tôi còn kéo lê đời mình hết “đêm chót” này
sang “đêm chót” khác?
Tôi không ngủ chút nào. Qua ô cửa kính đầy băng tuyết có thể thấy chớp
sáng đỏ loé lên. Tiếng đại bác xé màn đêm yên lặng. Người
Nga đang ở gần biết mấy! Có tiếng thì thầm từ sạp này qua sạp khác:
hên lắm thì người Nga sẽ có mặt ở đây trước cuộc di tản.
Có người la lớn:
“Rán mà ngủ. Gom sức cho chuyến đi.”
Tiếng la ấy làm tôi nhớ lại những lời khuyên cuối cùng của mẹ tôi ở biệt khu.
Nhưng tôi không ngủ nổi. Tôi cảm thấy chân mình đang rực cháy.
Sáng hôm sau, bộ mặt trại thay đổi. Các tù nhân xuất hiện ăn mang lạ
lùng: như một vũ hội hóa trang. Ai cũng mặc nhiều quần áo, cái này
tròng lên cái kia, giữ cho mình khỏi lạnh. Những kẻ lang thang bụi đời,
bề ngang dài hơn bề cao, có vẻ chết hơn là sống; những tên hề khốn khổ, mặt mũi
như bóng ma của họ thò ra trong đống quần áo tù! Ôi, những tên hề!
Tôi cố tìm một chiếc giày thật rộng. Uổng công. Tôi xé một
cái mền, quấn bàn chân bị thương của mình lại. Rồi tôi đi lang thang
khắp trại, tìm ít miếng bánh mì nữa hoặc vài củ khoai.
Vài người nói chúng tôi sẽ bị đưa tới Tiệp khắc. Không, tới
Gros-Rozen. Không, tới Gleiwitz. Không, tới...
Hai giờ chiều. Tuyết vẫn rơi rất dày.
Lúc này thời giờ trôi qua lẹ làng. Hoàng hôn xuống. Ngày
đang biến mất trong trời xám xịt một màu.
Trưởng ba-rắc chợt nhớ mình quên làm vệ sinh ba-rắc. Anh ra lệnh bốn
tù nhân trở vô lau sàn gỗ... Lau vào lúc một giờ trước khi rời trại! Tại sao?
Cho ai?
“Cho quân đội giải phóng,” anh la lên. “Để họ biết rằng ở đây con
người ta sống chứ không phải con lợn.”
Lúc này chúng tôi là người sao? Ba-rắc được làm vệ sinh từ trên xuống
dưới, rửa sạch mọi xó.
Lúc sáu giờ chuông reng. Thần chết đang cúi xuống. Mai
táng. Đám rước sắp cất bước chân đầu tiên của nó.
“Sắp hàng! Lẹ lên!”
Trong khoảnh khắc ngắn, tất cả chúng tôi xếp hàng, theo từng ba-rắc. Đêm
xuống. Mọi sự trong tầm kiểm soát, đúng y như kế hoạch dự liệu.
Đèn pha tới. Hằng trăm lính SS nhô người ra khỏi bóng tối, có lũ chó
chăn cừu đi kèm. Tuyết rơi không ngừng.
Cổng trại mở. Dường như phía bên kia, đêm còn đen đặc hơn đang chờ
chúng tôi.
Ba-rắc thứ nhất bắt đầu bước. Chúng tôi chờ. Chúng tôi phải
chờ năm mươi sáu ba-rắc lên đường trước chúng tôi. Trời lạnh
quá. Trong túi tôi có hai miếng bánh mì. Giá lúc này được
ăn thì sướng biết mấy. Nhưng tôi không được quyền
ăn. Chưa.
Tới lượt chúng tôi: Ba-rắc 53... Ba-rắc 55...
Ba-rắc 57, đằng trước bước!
Trời không ngừng tuyết.
Chương 6
6.
Gió lạnh buốt thổi vun vút từng cơn. Nhưng chúng tôi không chùn bước.
SS ra lệnh chúng tôi bước soãi. “Lẹ lên nữa, đồ lợn, đồ chó đẻ bẫn
thỉu!” Tại sao đi chậm chớ! Mỗi lần cử động là thân thể
chúng tôi ấm lên một tí. Máu chảy dễ dàng hơn trong huyết quản. Chúng
tôi cảm thấy người hồi sinh.
“Lẹ lên nữa, đồ chó đẻ bẫn thỉu!” Chúng tôi không đi nữa, chúng tôi
chạy. Tự động như máy. SS cũng chạy, vũ khí trong
tay. Ngó như thể chúng tôi đang chạy trốn và chúng rượt theo.
Đêm đen như dầu hắc. Cứ thỉnh thoảng lại có tiếng nổ xé màn
đêm. SS được lệnh bắn bất cứ ai rớt lại. Ngón tay đặt sẵn
trên cò, chúng không bỏ được thú giải trí đó. Nếu ai trong chúng tôi
ngừng lại một giây thì tên chó đẻ bẫn thỉu ấy bị kết liễu bằng một phát súng sắc
và khô.
Tôi vọt chân tới trước một cách máy móc. Tôi lê hình hài trơ xương của
mình, sao mà nặng quá. Giá như tôi vứt được nó! Cho dú
đang rán không nghĩ tới nó, tôi vẫn cảm giác mình thành hai thực thể - thể xác
tôi và tôi. Tôi thù thể xác tôi.
Tôi dặn lui dặn tới mình: “Đừng suy nghĩ. Đừng ngừng lại. Chạy.”
Gần tôi nhiều người ngã xuống trong tuyết dơ bẫn. Bắn.
Chạy bên tôi là một thanh niên Ba lan tên Zalman. Anh lao động trong
nhà kho đồ điện ở Buna. Người ta cười nhạo anh vì anh lúc nào cũng cầu
nguyện hoặc chiêm nghiệm một vấn đề nào đó trong sách Talmud. Đó là
cách anh trốn chạy thực tế, không cảm giác các cú đánh...
Thình lình anh nổi cơn co thắt bao tử. “Dạ dày tôi đau quá,” anh thì
thào với tôi. Anh không thể tiếp tục. Anh phải ngừng lại
một chút. Tôi van nài anh:
“Chờ chút xíu thôi, Zalman. Mọi người sẽ ngừng ngay
mà. Chúng ta không chạy miết như thế này tới tận cùng thế giới đâu.”
Nhưng trong khi chạy, anh bắt đầu mở nút quần áo, thét lên:
“Tôi không tiếp tục nổi nữa. Bao tử tôi nổ tung đây này...”
“Rán lên, Zalman...Rán...”
“Chịu thôi...” anh rên rỉ.
Quần anh tuột xuống, anh buông rơi mình.
Đó là hình ảnh cuối cùng tôi có về anh. Tôi không nghĩ SS sẽ kết liễu
anh vì không ai để ý cả. Anh hẳn bị xéo lên mà chết, dưới bàn chân của
hàng ngàn người chạy sau chúng tôi.
Tôi quên anh thật lẹ. Tôi lại bắt đầu nghĩ tới mình. Vì
bàn chân đau thấu xương, người tôi rùng rùng theo từng bước. “Ít bước
nữa thôi,” tôi nghĩ. “Ít bước nữa là tới nơi rồi. Mình
không gục đâu. Lửa đang toé lên đó. Đang bắn
đó.” Cái chết vây bọc chung quanh tôi chờ lúc tôi khuỵu
chân. Cái chết đeo dính tôi. Tôi cảm thấy mình sờ được
nó. Ý tưởng về chung cuộc, về việc không còn sống nữa, bắt đầu mê hoặc
tôi. Không còn tồn tại nữa. Không cảm thấy đau nhức khủng
khiếp trong bàn chân mình nữa. Không cảm thấy gì nữa, kể cả đuối sức,
rét mướt, không gì nữa cả. Tách ra khỏi hàng, để mình ngã người xuống
vệ đường.
Sự có mặt của cha tôi là cái duy nhất ngăn tôi lại... Ông đang chạy bên tôi, hết
hơi, tận cùng sức người của ông, tận cùng trí lực của ông. Tôi không
có quyền để mình chết. Nếu không có tôi ông rồi sẽ ra
sao? Tôi là sức đỡ duy nhất của ông.
Nhưng ý nghĩ ấy loé lên trong khoảnh khắc nhanh như chớp trong khi tôi tiếp tục
chạy không cảm giác về bàn chân buốt nhói của mình, không nhận ra là mình đang
chạy, không ý thức rằng mình đang là chủ nhân cái thể xác đang phi nước đại
trên đường, giữa hàng ngàn người cùng chạy.
Khi tỉnh táo lại, tôi cố chậm bước. Nhưng chẳng cách nào được. Một
luồng thủy triều lớn con người ta đang cuốn tới và sẽ nghiền nát tôi như con kiến.
Tôi chạy chỉ bằng cơn mê thiếp của mình. Tôi khép mắt, chạy như đang
ngủ. Thỉnh thoảng có người đằng sau thô bạo lấn tới và tôi tỉnh giấc. Ai
đó la lớn: “Chạy lẹ nữa lên. Nếu mày không muốn chạy tiếp
thì để cho người ta vượt qua chớ.” Tất cả những gì tôi phải làm là
nhắm mắt mình lại trong khoảnh khắc đó để khỏi nhìn thế giới đang lướt qua và để
mơ một cuộc sống trọn vẹn.
Con đường vô tận. Để mình bị đám đông thúc tới; để mình bị kéo lê lết
bởi định mệnh mù loà. Khi SS thấm mệt, chúng đổi
phiên. Nhưng chẳng có ai đổi phiên cho chúng tôi. Chân
tay chúng tôi tê cóng vì lạnh dù đang chạy, càng chạy tiếp, cổ họng chúng tôi
càng khô rang, đói lã, cùng kiệt.
Chúng tôi là những con người làm chủ vạn vật, những con người làm chủ thế giới. Chúng
tôi đã quên mọi sự - chết chóc, mệt nhọc, những nhu cầu tự nhiên. Mạnh
hơn cái lạnh và cái đói, mạnh hơn những phát súng và cơn thèm khát, bị kết án
và lang thang, đơn thuần là những con số, chúng tôi là những con người độc đáo
nhất dương gian.
Cuối cùng, sao mai hiện lên trên bầu trời xám. Đằng chân trời xuất
hiện vệt sáng lờ mờ. Chúng tôi lã người. Chúng tôi không
sức lực, không ảo giác.
Viên chỉ huy trại tuyên bố từ lúc rời trại tới đây, chúng tôi đã vượt được gần
bảy mươi cây số. Chúng tôi vượt qua bên kia giới hạn của sự mệt nhọc,
từ lâu lắm rồi. Vài người chuồn khỏi hàng, cố tìm cách vào trú trong
một ngôi nhà hoang nào đó.
Chúng tôi còn phải đi thêm một giờ nữa, và sau cùng, có lệnh nghỉ.
Chúng tôi ngã vật xuống, chìm người trong tuyết. Cha tôi day day
tôi:
“Đừng nằm đây... Đứng lên... Xa đằng kia một chút...Có cái lều kia kìa...lẹ
lên.”
Tôi chẳng muốn gì hết, cũng chẳng còn hơi sức đứng dậy. Tuy vậy tôi
vâng lời. Đó không phải cái lều mà là một lò gạch, mái sụp, cửa sổ bể
nát, tường bẫn thỉu đầy bồ hóng. Không dễ vào trong. Hàng
trăm tù nhân đang chen lấn nơi cửa.
Cuối cùng chúng tôi cũng vô được bên trong. Ở đây tuyết cũng
dày. Tôi thả người ngã xuống. Chỉ lúc ấy tôi mới thật sự
cảm thấy mình kiệt sức. Tuyết như một tấm thảm, mịn màng, ấm
áp. Tôi rơi vào giấc ngủ.
Tôi không biết mình ngủ được bao lâu. Chỉ chốc lát thôi hoặc một giờ. Khi
tôi tỉnh giấc, cảm thấy một bàn tay lạnh ngắt đang vỗ má mình. Tôi
rán nhướng mắt lên. Đó là cha tôi.
Kể từ tối qua, ông già đi biết mấy! Cả thân xác ông nhăn nhúm, khô
kiệt. Mắt ông hóa đá, môi ông héo úa, rệu rã. Mọi sự
trong và trên con người ông làm chứng cho một tình trạng kiệt sức cực độ. Giọng
ông đẫm nước mắt và tuyết:
“Eliezer, con đừng để mình bị cơn buồn ngủ đánh gục. Thật nguy hiểm
khi ngủ gục trong tuyết. Con có thể ngủ mãi mãi. Lẹ lên,
lẹ lên. Đứng dậy.”
Đứng dậy? Tôi đứng lên thế nào nổi? Làm sao tôi nhắc được
mình ra khỏi chỗ nằm mịn màng này? Tôi có thể nghe rõ những gì cha
tôi nói nhưng các lời ấy có vẻ chẳng mang ý nghĩa gì cả, như thể bảo tôi dùng
tay mình mà nâng lên toàn bộ một toà nhà...
“Lẹ lên, con, lẹ lên...”
Tôi cắn răng, đứng lên. Ông đưa tay đỡ tôi, dìu tôi ra
ngoài. Chẳng dễ gì. Ra ngoài cũng khó không kém vào
trong. Dưới chân chúng tôi, nhiều người đang hấp hối vì bị chân người
khác đạp lên trên, dẫm bẹp. Chẳng ai để ý tới.
Chúng tôi đã ở ngoài. Gió buốt giá chích mặt tôi đau
nhói. Tôi liên tục cắn môi, ngăn không để chúng đông cứng. Vạn
vật chung quanh tôi đang múa vũ điệu tử thần làm đầu tôi quay cuồng. Tôi
đang bước đi trong một lò thiêu, giữa các xác chết cứng đơ, như khúc củi. Không
tiếng khóc đau đớn, không lời rên rỉ, không gì cả ngoài nỗi thống khổ tập thể,
trong im lặng. Chẳng ai cầu cứu ai. Mày chết vì mày phải
chết, thế thôi, đừng om sòm rối rít.
Tôi thấy tôi trong mỗi xác chết cứng đơ đó. Và rồi chẳng bao lâu nữa
tôi sẽ không thấy chúng; tôi sẽ là một trong các xác chết đó - chỉ là vấn đề
bao nhiêu giờ nữa.
“Lẹ lên, cha ơi, mình vô lều lại...”
Ông không trả lời. Ông không nhìn vào cái chết.
“Lẹ lên, cha, đằng kia tốt hơn. Chúng ta có thể nằm một chút, chia
phiên nhau nằm. Con trông chừng cha, rồi cha trông chừng
con. Chúng ta không để cho ai ngủ gục. Cha con mình canh
nhau.”
Ông đồng ý. Đạp lên những người đang sống và các xác chết, chúng tôi
rán sức vô lại lò gạch. Chúng tôi thả mình nằm xuống đó.
“Con đừng sợ. Ngủ đi - con ngủ được rồi đó. Cha canh
cho.”
“Không cha ơi, cha ngủ trước đi. Cha nằm ngủ đi.”
Ông không chịu. Tôi nằm xuống, cố ép mình ngủ, ngủ lơ mơ một chút,
nhưng vô ích. Chỉ có trời mới biết điều gì sẽ xảy tới cho tôi trong
khoảnh khắc tôi ngủ. Nhưng sâu bên trong mình, tôi cảm thấy rằng ngủ
hẳn có nghĩa là chết. Và bên trong tôi có cái gì đó nổi loạn chống lại
cái chết kiểu đó. Bốn bề quanh tôi, cái chết đang tiến vào, một cách
im lặng, chẳng chút hung hản. Nó sẽ túm người nào đó đang ngủ, nhập
vào người đó, từ từ làm cho người đó tàn rụi. Kế bên tôi có người
đang ra sức đánh thức người bên cạnh, em ông ta, hoặc có thể là một người bạn. Vô
ích. Càng rán càng nản, tới lượt ông ta nằm xuống, sát bên xác chết,
và rồi cũng ngủ. Ai đánh thức ông ta đây? Tôi vói tay chạm
vô người ông:
“Dậy đi. Đừng ngủ ở đây...”
Ông nhướng mắt.
“Đừng khuyên tôi,” ông nói giọng yếu ớt. “Tôi mệt quá. Để
tôi yên. Để tôi yên...”
Cha tôi dìu dịu lơ mơ ngủ. Tôi chẳng thấy mắt ông
đâu. Chiếc mũ đã sụp xuống mặt ông.
“Dậy đi cha,” tôi thì thầm vô tai ông.
Ông giật mình. Ông ngồi dậy, nhìn quanh, hoang mang, ngây người ra -
nhìn chằm chằm như kẻ mất trí. Ông đăm đăm ngó quanh một vòng như thể
ông bỗng dưng quyết định dừng cuộc phiêu du vũ trụ của mình lại, để khám phá
cho rõ ra là mình đang ở đâu, tại chỗ nào, và vì lý do gì. Rồi ông mỉm
cười.
Tôi nhớ mãi nụ cười đó. Nó đến từ thế giới nào?
Tuyết tiếp tục rơi trên các xác chết, từng lớp dày.
Cửa lều mở. Một ông lão xuất hiện, râu mép đóng đầy băng
giá. Môi thâm tím vì lạnh. Đó là Thầy Cả Eliahou, thầy cả
của cộng đoàn nhỏ Ba lan. Ông là người tốt lành, rất được mọi người
trong trại yêu quí, kể cả những tên Kapo và các trưởng ba-rắc. Mặc
dù gian nan và thiếu thốn, nét mặt ông lúc nào cũng sáng chiếu sự tinh khiết
trong lòng. Tại Buna, ông là thầy cả độc nhất lúc nào cũng được gọi
là “Thầy Cả”. Ông như một ngôn sứ thời xa xưa, lúc nào cũng ở giữa
dân tộc mình để vỗ về họ. Và lạ thay, lời vỗ về của ông không bao giờ
khích động sự nổi loạn, chúng thật sự mang lại bình an.
Ông vào lều, mắt ông sáng hơn bao giờ, có vẻ đang tìm ai đó:
“Có ai thấy con trai tôi đâu không?”
Ông lạc con trai mình trong đám đông. Ông đã tìm trong số những người
hấp hối mà không thấy. Kế đó, ông cũng đã bới tuyết tìm xác
con. Không kết quả.
Suốt ba năm trời hai cha con dính chặt nhau. Bao giờ cũng ở bên
nhau, lúc đau khổ, lúc bị đánh đập, khi cầu nguyện, khi lãnh suất bánh
mì. Ba năm, từ trại này qua trại khác, hết cuộc tuyển lựa này tới cuộc
tuyển lựa khác. Và lúc này - khi hình như sắp kết thúc - thì số phận
lại chia lìa họ. Trong khi tìm sát bên tôi, Thầy Cả Eliahou thì thầm:
“Chuyện xảy ra dọc đường. Trong chuyến đi này chúng tôi lạc
nhau. Tôi ngừng lại một chút bên rìa đội hình. Tôi không
còn hơi sức chạy. Và con tôi không để ý. Tôi chỉ biết thế
thôi. Nó biến mất đằng nào rồi? Tôi tìm nó chỗ nào
đây? Cậu có thấy nó đâu đó không?”
“Không, thưa Thầy Cả, con không thấy anh ấy.”
Rồi ông bỏ đi như khi ông tới: tựa chiếc bóng trong trời lộng gió.
Ông vừa ra khỏi cửa đột nhiên tôi nhớ là mình có thấy con trai ông chạy bên
tôi. Tôi quên lửng việc đó, tôi đã không kể với Thầy Cả Eliahou!
Rồi tôi nhớ ra điều gì khác: con trai ông có thấy cha mình tụt hậu, đi khập khểnh,
loạng choạng lùi lại bên rìa đội hình. Hắn có thấy
ông. Và hắn tiếp tục chạy lên phía trước, để cho khoảng cách giữa
hai cha con càng lúc càng xa.
Một ý nghĩ kinh hoàng lờ mờ xuất hiện trong tâm trí tôi: hắn muốn bỏ rơi cha
mình! Hắn cảm thấy cha mình đang đuối dần, hắn tin rằng cha hắn đã tới
hồi kết cuộc và mưu tính cuộc chia lìa này nhằm trút bỏ một gánh nặng, giải
thoát hắn khỏi sự phiền toái đang làm giảm bớt cơ hội sống sót của hắn.
Tôi quên lửng việc đó. Và tôi vui sướng thấy thà để Thầy Cả Eliahou
tiếp tục đi tìm đứa con trai yêu dấu của ông.
Và cả tôi nữa, từ tâm hồn tôi xuất hiện lời cầu nguyện Thượng đế, cầu nguyện kẻ
tôi chẳng còn tin.
Lạy Thượng đế, Chúa Tể Càn khôn, xin cho con sức mạnh để không bao giờ làm điều
mà con trai Thầy Cả Eliahou đã làm.
Ngoài sân vang tiếng la hét, bóng tối đã phủ xuống. SS ra lệnh sắp
hàng.
Bắt đầu đi nữa. Người chết ở lại trên bãi, dưới tuyết, như những kẻ
canh gác trung thành bị ám sát, không chôn cất. Không ai đọc kinh cầu
hồn cho những kẻ vừa qua đời. Những đứa con trai bỏ rơi thi thể cha
mình, không một giọt nước mắt.
Trên đường đi, trời đổ tuyết, tuyết rơi bất tận. Chúng tôi đi chậm
hơn. Cả lính gác cũng dường như thấm mệt. Bàn chân bị
thương không còn làm tôi đau. Nó chắc đã bị đông cứng. Với
tôi, bàn chân ấy đã mất. Nó đã tách khỏi thể xác tôi như bánh một
chiếc xe. Tệ thật. Lý ra tôi phải tự mình buông bỏ nó;
tôi có thể sống với một chân thôi. Chủ yếu là chớ nghĩ tới
nó. Đúng hơn, lúc này đừng suy nghĩ. Hãy để đó, suy nghĩ
sau.
Cuộc hành trình của chúng tôi có vẻ hoàn toàn mất kỷ luật. Chúng tôi
bước khi nào muốn bước, khi nào có thể bước. Không còn nghe tiếng
súng nổ. Hẳn lính gác đang mệt.
Nhưng chắc chắn thần chết không cần lính gác giúp đỡ chút nào. Cái lạnh
vẫn tận tụy làm việc. Mỗi bước đi là có người ngã xuống và không còn
đau khổ nữa.
Thỉnh thoảng, các viên chức SS ngồi xe gắn máy chạy xuống, theo chiều dọc của đội
hình, ra sức lay chúng tôi ra khỏi tình trạng thờ ơ đang càng lúc càng gia
tăng:
“Tiếp tục! Chúng ta tới rồi đó!”
“Can đảm lên! Ít giờ nữa thôi!”
“Chúng ta đang tới Gleiwitz.”
Dù phát ra từ miệng những tên tàn sát chúng tôi, các lời đó cũng có tác dụng động
viên rất tốt. Không ai muốn đầu hàng lúc này, ngay trước khi kết
thúc, đã quá gần mục tiêu. Mắt chúng tôi tìm đằng chân trời dây kẽm
gai của Gleiwitz. Khát khao độc nhất của chúng tôi là tới được chỗ
đó, hết sức nhanh có thể được.
Lúc này đã vào đêm. Tuyết ngừng rơi. Chúng tôi đi bộ thêm
vài giờ trước khi tới nơi.
Chúng tôi không để ý tới trại cho đến lúc chúng tôi ở ngay trước cổng.
Một số Kapo lẹ làng xếp chúng tôi vào các ba-rắc. Chúng tôi xô đẩy,
chen lấn nhau như thể nơi đó là chốn trú ẩn tối thượng, chiếc cổng của sự sống. Chúng
tôi bước qua các thân xác đang đau đớn quằn quại. Chúng tôi đạp lên
trên các bộ mặt bị thương. Không một tiếng la. Có vài tiếng
rên rỉ. Cha tôi và tôi bị cơn thủy triều đang trào tới này ném xuống
đất. Phía dưới chúng tôi có ai đó đang kêu lên nghe lục cục:
“Đè chết tôi rồi...thương tôi với!”
Giọng nói đó không xa lạ gì với tôi:
“Đè chết tôi rồi...thương tôi với! thương tôi với!”
Cũng giọng nói yếu ớt đó, cũng tiếng lục cục đó, từng nghe đâu đó trước
đây. Giọng nói đó ngày nào đã nói với tôi. Ở đâu? Khi
nào? Hàng năm trước? Không, chỉ có thể ở trại thôi.
“Thương tôi với!”
Tôi cảm thấy mình đang đè dẹp hắn. Tôi đang làm hắn hết thở. Tôi
muốn đứng lên. Tôi vật lộn để thoát mình ra, cho hắn có thể thở. Nhưng
bản thân tôi cũng đang bị bẹp dí dưới sức nặng của các thân xác
khác. Tôi gần như không thở được. Tôi thọc móng tay mình
vô các khuôn mặt không quen. Tôi cắn khắp nơi chung quanh mình, để
kiếm chút không khí. Chẳng ai la.
Đột nhiên tôi nhớ ra. Juliek! Gã trai từ Warsaw chơi vĩ cầm trong
ban nhạc ở Buna...
“Juliek, phải anh không?”
“Eliezer...Hai mươi lăm roi. Vâng...tao nhớ ra rồi.”
Anh im lặng. Một lúc lâu trôi qua.
“Juliek! Có nghe tôi không, Juliek?”
“Có...,” anh nói, giọng thều thào. “Mày muốn gì?”
Anh chưa chết.
“Anh thấy sao, Juliek?” tôi hỏi, để nghe anh nói, để biết anh còn sống hơn là để
biết câu trả lời.
“Không sao, Eliezer...tao không sao cả...ngộp quá...thở không được...chân tao
sưng. Được cái nằm nghỉ, nhưng cây vĩ cầm của tao...”
Tôi nghĩ là anh mất trí rồi. Cây vĩ cầm thì việc gì ở đây chớ?
“Cái gì, cây vĩ cầm của anh?”
“Tao sợ...Tao sợ...họ làm bể cây vĩ cầm của tao...tao mang nó theo bên mình.”
Tôi không trả lời anh được. Ai đó đang đè cả người lên tôi, lấp hết
mặt tôi. Tôi không thở được, dù bằng miệng hay bằng
mũi. Mồ hôi giọt lấm tấm trán tôi, chạy xuống xương sống. Thế
là hết - cùng đường rồi. Chết câm nín. Không cách gì la,
không cách gì kêu cứu.
Tôi ra sức xô tên sát nhân tối thui của tôi qua một bên. Tất cả ý
chí muốn sống của tôi tập trung trong móng tay. Tôi
cào. Tôi chiến đấu cho một ngụm không khí. Tôi xé cho tan
cái bị thịt suy nhược không phản ứng ấy. Tôi không thể thoát người
ra khỏi khối thịt đang đè nặng lên ngực tôi. Có phải mình đang vật lộn
với một xác chết? Ai mà biết được?
Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được. Chỉ có thể nói là tôi thắng. Tôi
thành công trong việc khoét được một lỗ trống xuyên qua bức tường người chết
này, một lỗ nhỏ qua đó tôi có thể hớp được một lượng không khí tí tẹo.
“Cha ơi! Cha sao rồi?” tôi hỏi, ngay lúc có thể nói thành tiếng.
Tôi biết ông không ở xa tôi.
“Cha không sao!” có tiếng trả lời xa xa, như thể đến từ một thế giới
khác. “Cha đang rán ngủ.”
Ông đang rán ngủ. Ông đúng hay sai? Người ta có thể ngủ ở
đây à? Bộ không nguy hiểm sao khi ông để mình mất cảnh giác, dù chỉ
một giây, vào lúc thần chết có thể chụp lấy ta bất cứ chớp mắt nào?
Đang nghĩ tới điều ấy thì tôi nghe có tiếng vĩ cầm. Âm thanh vĩ cầm,
trong cái ba-rắc tối thui này, nơi kẻ chết nằm đè lên người sống. Gã
khùng nào có thể chơi vĩ cầm ở đây, ngay mép huyệt của mình? Hay đây
thật ra chỉ là ảo giác.
Chắc phải là Juliek. Anh đang chơi trích đoạn một tấu khúc của
Beethoven. Tôi chưa từng nghe âm thanh nào tinh khiết như thế. Trong
tĩnh lặng như thế.
Làm sao anh thoát người ra được? Kéo được thân anh đang nằm dưới tôi
ra mà tôi không hay?
Trời tối thui như mực đen. Tôi chỉ nghe có tiếng vĩ cầm, và như thể
linh hồn Juliek ở trên chiếc cung kéo đàn. Anh đang chơi cuộc đời
mình. Toàn bộ cuộc đời anh lướt trên dây đàn - những hy vọng đã mất,
quá khứ thành tro than, tương lại tàn lụi. Anh đàn như thể anh chẳng
bao giờ đàn nữa.
Tôi không bao giờ quên được Juliek. Làm sao tôi quên được buổi dạo
nhạc ấy, cống hiến cho cử tọa gồm kẻ chết và người sống. Cho tới hôm
nay, hễ khi nào nghe tấu nhạc Beethoven là mắt tôi nhắm lại, và từ trong bóng tối
đó hiện lên bộ mặt xanh xao buồn bã của người bạn Ba lan của tôi, khi bằng cách
đàn vĩ cầm, anh chào vĩnh biệt các cử tọa gồm toàn những người hấp hối.
Tôi không biết anh đàn trong bao lâu. Tôi bị giấc ngủ cuốn
đi. Khi tỉnh dậy, trong ánh sáng ban ngày, tôi thấy ra Juliek, đối mặt
tôi, rủ người xuống, chết. Nằm bên anh là cây vĩ cầm, tan từng mảnh,
bị dẫm nát, một thi hài nhỏ nhoi nổi bật lạ lùng.
Chúng tôi ở lại Gleiwitz ba ngày. Ba ngày không thức ăn không nước uống. Chúng
tôi không được phép ra khỏi ba-rắc. Lính SS gác cửa.
Tôi đói, khát. Xét theo hình thù của người khác thì tôi chắc là rất
dơ dáy và cùng kiệt. Bánh mì chúng tôi mang theo từ Buna đã bị ăn ngấu
nghiến từ lâu. Và ai mà biết trước khi nào phát suất khác.
Mặt trận đang đi theo chúng tôi. Chúng tôi lại có thể nghe tiếng
súng mới. Nhưng chúng tôi không có sức lực lẫn can đảm để tin rằng
lính Quốc xã sẽ không có thì giờ di tản chúng tôi, và rằng chẳng bao lâu nữa
người Nga sẽ tới đây.
Chúng tôi nghe là mình sắp bị trục xuất vào trung tâm nước Đức.
Vào ngày thứ ba, lúc rạng sáng, chúng tôi bị lùa ra khỏi ba-rắc. Hết
thảy chúng tôi mền khoác vai, như quàng khăn choàng khi cầu nguyện. Chúng
tôi đi tới chiếc cổng chia trại thành hai. Ở đó đứng một nhóm các
viên chức SS. Tiếng đồn lan khắp hàng của chúng tôi: -tuyển lựa.
Các sĩ quan SS thực hiện việc tuyển lựa. Ai yếu về bên trái; ai có
thể đi vững về bên phải.
Cha tôi bị đưa về bên trái. Tôi chạy theo ông. Một viên
chức SS quát lên sau lưng tôi:
“Quay lại!”
Tôi chuồn vào giữa những người khác. Mấy tên SS rượt theo cố túm tôi
lại, tạo ra cảnh hỗn loạn khiến nhiều người ở phía bên trái chạy trở lại được
phía bên phải - trong số đó có cha tôi và tôi. Tuy thế, có vài phát
súng nổ, vài người chết.
Hết thảy chúng tôi được lệnh rời trại. Sau nửa giờ đi, chúng tôi tới
giữa một cánh đồng có đường xe lửa băng ngang. Chúng tôi phải chờ
tàu tới.
Tuyết rơi thật dày. Chúng tôi bị cấm ngồi, cấm luôn cả nhúc nhích.
Tuyết bắt đầu làm thành một lớp dày trên mền của chúng tôi. Người ta
mang đến cho chúng tôi bánh mì - suất thường lệ. Chúng tôi trơ mắt
ngó. Khát quá không ăn nổi. Ai đó có sáng kiến làm dịu
cơn khát bằng cách ăn tuyết. Chẳng bao lâu mọi người bắt chước ông
ta. Vì không được phép cúi người xuống, chúng tôi rút muổng ra, xúc
tuyết trên lưng người bên cạnh mà ăn. Một miệng bánh mì, một muổng
tuyết. Lính SS ngó hoạt cảnh đó mà cười.
Hàng giờ trôi qua. Mắt chúng tôi dần dần mỏi mệt vì sục tìm con tàu
giải thoát cuối chân trời. Mãi tới lúc xế chiều nó mới tới. Con
tàu dài vô tận, gồm các toa dùng để chở súc vật, không mui. SS đẩy
chúng tôi vào, mỗi toa một trăm người, chúng tôi gầy quá mà! Việc
lên tàu hoàn tất, tàu lăn bánh.
Chương 7
7.
Rán hết sức ép sát vào nhau cho khỏi lạnh, cùng lúc đó, đầu trống rỗng nặng nề,
óc não quay cuồng các ký ức thối rữa. Sự dửng dưng làm u mê thần
trí. Ở nơi này hoặc ở nơi kia - khác nhau gì chớ? Chết
hôm nay hay ngày mai hoặc sau này? Đêm dài và không bao giờ tận.
Cuối cùng, khi ánh sáng xám xuất hiện le lói đằng chân trời, để lộ ra một đống
hổ lốn các hình hài con người, đầu rụt vô vai, khom lưng, người này chồm lên
người kia, như một cánh đồng mộ bia phủ đầy bụi trong ánh sáng sớm
mai. Tôi cố phân biệt người đang sống với kẻ đã chết. Nhưng
chẳng có gì khác nhau. Cái nhìn của tôi bị giữ chặt lại thật lâu bởi
một người đang nằm, mắt mở lớn, ngó vô khoảng không trống rổng. Mặt
ông tím ngắt phủ một lớp giá băng và tuyết.
Cha tôi cuộn mình bên tôi, người quấn trong mền, vai ông phủ đầy tuyết. Và
ông cũng chết rồi ư? Tôi gọi ông. Tôi la hết sức có thể
la được. Ông không nhúc nhích.
Tâm trí tôi bỗng dưng bị choán ngập bởi một nhận thức rõ nét - không còn lý do
gì mà sống, không còn hy vọng gì mà chiến đấu.
Tàu dừng lại giữa đồng không mông quạnh. Cú hãm lại thình lình ấy
đánh thức vài người trong số những kẻ đang ngủ. Họ bật thẳng người
lên, giật mình giáo dác nhìn quanh.
Bên ngoài, một viên chức SS đi ngang, la lên:
“Liệng hết người chết ra ngoài! Tất cả xác chết ra ngoài!”
Người sống vui mừng. Có thêm chỗ. Những người thiện nguyện
bắt tay vô việc. Họ rờ tới cả những ai còn cuộn mình lại.
“Đây một tên! Lôi hắn ra!”
Họ cởi quần áo kẻ ấy, những người sống tham lam chia nhau quần áo của hắn, rồi
hai “đô tùy” túm lấy hắn, kẻ đằng đầu, kẻ đằng chân, liệng hắn ra khỏi toa như
vứt một bao gạo.
Bốn phía có tiếng la:
“Lẹ lên! Đây một tên! Tên này sát bên tôi! Hắn không cục
cựa.”
Tôi tỉnh người, ra khỏi cơn dửng dưng đúng lúc có hai người đi tới bên cha
tôi. Tôi nhảy chồm lên người ông. Ông lạnh ngắt. Tôi
tát ông, la lên:
“Cha! Cha! Dậy. Người ta sắp vứt cha xuống tàu kìa...”
Người ông vẫn trơ trơ.
Hai đô tùy túm cổ áo tôi.
“Để yên hắn! Mày không thấy hắn chết rồi sao!”
“Không!” tôi la lên. “Ông không chết! Chưa chết!”
Tôi bắt đầu tát ông hết sức mạnh. Sau một lúc, mi mắt cha tôi hơi động
đậy để hé ra tí ánh mắt. Ông thở rất yếu.
“Đó, thấy chưa,” tôi la lên.
Hai người ấy bỏ đi.
Mười hai hình nhân bị liệng khỏi toa chúng tôi. Rồi con tàu tiếp tục
cuộc hành trình, bỏ lại đằng sau vài trăm người chết trần truồng, không được
chôn cất, vùi thân trong tuyết, giữa một cánh đồng Ba lan. Suốt những
ngày những đêm ấy, chúng tôi cuộn người lại, kẻ này chồm trên lưng kẻ kia, chẳng
ai nói một lời. Chúng tôi không hơn gì những hình nhân đông cứng. Mắt
nhắm lại, chúng tôi chỉ chờ lần tàu dừng sắp tới, để có thể liệng xác chết xuống.
Mười ngày mười đêm đi. Thỉnh thoảng tàu chạy ngang một huyện lị nước
Đức. Thường thường là vào sáng tinh mơ. Thợ thuyền đang
đi làm. Họ dừng bước, nhìn theo chúng tôi, không tỏ chút ngạc nhiên
nào.
Ngày nọ, khi tàu ngưng lại, một người lao động móc trong bị ra một mẩu bánh mì,
ném vào trong một toa nào đó. Thật là tan tác. Hàng chục
người đang chết đói đánh nhau chí chết vì mấy vụn bánh. Những thợ
thuyền Đức lấy làm thú vị trước hoạt cảnh sống động này.
Vài năm sau, tôi chứng kiến một loại hoạt cảnh giống như thế tại
Aden. Khách du trên tàu chúng tôi tiêu khiển bằng cách ném bạc cắc
cho “dân bản xứ” để họ lặn xuống mò chúng. Trò chơi này đem lại
thích thú đặc biệt cho một phụ nữ Paris quí tộc, hấp dẫn. Đột nhiên
tôi để ý có hai đứa trẻ đang nhào vào nhau vật lộn quyết tử, ra sức bóp cổ
nhau. Tôi quay qua vị phu nhân ấy:
“Xin bà,” tôi năn nỉ, “bà đừng ném thêm tiền nữa.”
“Tại sao không?” bà ta nói. “Tôi thích bố thí...”
Trong toa tàu có bánh mì rơi xuống ấy đã thật sự nổ ra một cuộc chiến. Người
ta nhảy chồm lên đầu nhau, xéo nhau, xé nhau, cắn nhau... Những con mồi hoang dại
với hận thù mang tính thú vật trong mắt, sức sống dị thường túm lấy họ, mài bén
răng và móng tay của họ.
Một đám đông thợ thuyền và khán giả tọc mạch tụ tập dọc con tàu. Có
lẽ họ chưa bao giờ thấy một chuyến tàu chở loại hàng hoá như thế
này. Chẳng bao lâu, gần như dọc suốt thân tàu, những mẩu bánh mì được
thả vào các toa. Khán giả nhìn những bộ xương người, đấu đá nhau tới
chết vì một miếng vào miệng.
Một mẩu rơi vào toa chúng tôi. Tôi quyết định mình sẽ không nhúc
nhích. Dù sao tôi cũng biết mình chẳng có sức đấu đá với cả tá người
hoang dại! Tôi để ý thấy không xa mình lắm một ông lão đang bò lê bò
lết. Ông rán sức thoát thân khỏi cuộc vật lộn. Ông giữ một
tay trên chỗ tim mình. Ban đầu tôi nghĩ là ông vừa bị một cú đấm vào
ngực. Rồi tôi hiểu ra: ông có tí bánh đang dấu trong
áo. Lẹ như chớp, ông rút nó ra, nhét vô miệng. Mắt ông
phát ánh lập loè; một nụ cười, tựa như nhăn nhó, làm rạng rỡ bộ mặt chết chóc của
ông. Và lập tức bị dập tắt ngay. Một cái bóng hiện ra lờ
mờ sát bên ông. Bóng đó chồm lên ông. Té xuống đất,
choáng váng với các cú đấm, ông lão la lên:
“Meir, Meir, con ơi! Mày không nhận ra tao à? Tao cha mày
đây...đau quá...Mày đang giết cha mày! Tao lượm có tí bánh...cho mày
nữa mà...cho mày nữa...”
Ông lão gục xuống. Nắm tay ông còn túm chặt miếng bánh nhỏ. Ông
cố sức đưa nó lên miệng. Nhưng người khác đã chồm lên ông, vồ lấy. Ông
lão lại thì thầm điều gì đó, từ trong họng thoát ra tiếng kêu lục cục, và chết
giữa sự thờ ơ của mọi người. Đứa con trai lục lọi người ông, lấy miếng bánh mì,
bắt đầu ngấu nghiến nó. Hắn không ăn được lâu. Có hai người
thấy và chồm lên trên hắn. Những người khác nhập cuộc. Khi
họ rút lui, cạnh tôi có hai xác chết, nằm bên nhau, cha và con.
Tôi đã mười lăm tuổi.
Trong toa tàu của chúng tôi có một người bạn của cha tôi tên là Meir
Kalz. Ông lao động làm vườn ở Buna, thỉnh thoảng thường mang cho
chúng tôi ít rau xanh. Nhờ dinh dưỡng khá hơn những người khác nên
ông chịu đựng được nhà tù hơn. Vì ông tương đối mạnh khoẻ so với
chúng tôi, ông được đặt phụ trách toa tàu.
Vào đêm thứ ba trong chuyến đi, tôi bất chợt thức giấc, cảm thấy có hai bàn tay
trên cổ họng mình đang rán sức bóp cổ tôi. Tôi chỉ kịp hét lên: “Cha
ơi cha!”
Tôi chỉ la được có thế. Tôi cảm thấy nghẹt thở. Nhưng cha
tôi đã thức giấc, túm lấy kẻ tấn công tôi. Quá yếu không kềm chế nổi
hắn, ông nảy ra ý kêu cứu Meir Kalz.
“Meir! Tới đây mau! Tới đây lẹ lên! Có người bóp cổ con tôi!”
Chút sau tôi được giải thoát. Tôi vẫn không biết tại sao có ai đó muốn
bóp cổ tôi.
Ít ngày sau, Meir Kalz nói với cha tôi:
“Chlomo ạ, người tôi yếu rồi. Tôi đang đuối sức. Tôi
không theo nổi nữa...”
“Đừng để mình đầu hàng,” cha tôi nói, ra sức khích lệ ông. “Anh phải
chống lại. Đừng mất đức tin vào chính mình.”
Nhưng Meir Kalz vừa trả lời vừa than van thảm thiết:
“Tôi không tiếp tục được chút nào nữa, Chlomo ạ! Tôi phải làm gì
đây? Tôi không tiếp tục nổi...”
Cha tôi nắm cánh tay ông. Và Meir Kalz, người mạnh mẽ, người tráng
kiện nhất trong hết thảy chúng tôi, oà khóc nức nở. Con trai ông đã
bị tách khỏi ông lúc có cuộc tuyển lựa đầu tiên nhưng tới lúc này ông mới than
khóc. Chính lúc này ông mới kiệt quệ. Ông xong rồi, sức
cùng lực kiệt rồi.
Vào ngày chót của cuộc hành trình, gió lộng khủng khiếp; trời đổ tuyết không ngừng. Chúng
tôi cảm thấy chung cuộc đã gần kề - một kết liễu thật sự. Chúng tôi
chưa bao giờ phải chịu đựng từng ngọn gió cực buốt như thế này, từng cơn gió giật
này.
Ai đó đứng dậy la lớn:
“Chúng ta không được ngồi mãi như thế này. Sẽ đông cứng mà chết! Ai
nấy hãy đứng lên, cử động một tí...”
Hết thảy chúng tôi đứng lên. Chúng tôi siết chiếc mền ẩm ướt quấn chặt
hơn vô người. Và chúng tôi cố rán sức nhúc nhích ít bước, xoay qua
xoay về tại chỗ mình đang đứng.
Đột nhiên trong toa vang lên tiếng thét, tiếng thét của một con vật bị
thương. Có ai vừa chết.
Những người khác cũng cảm thấy mình sắp chết, bắt chước tiếng thét của ai
đó. Và các tiếng thét của họ nghe như vang vọng lại từ bên kia huyệt
mộ. Chẳng bao lâu mọi người đều thét vang. Tiếng rên rỉ,
than van, la thét thảm sầu lao theo gió và tuyết.
Tình trạng truyền nhiễm đó lan tới các toa khác. Hàng trăm tiếng la
thét đồng loạt vang lên. Không biết chống đối ai mà chúng tôi la
hét. Không biết tại sao. Trong tiếng kêu răng rắc xình xịch
của toàn thân con tàu, ai cũng cảm thấy chung cuộc đang lơ lửng trên các toa
tàu. Hết thảy chúng tôi đều sắp chết ở đây. Đã vượt qua mọi
giới hạn. Không còn chút hơi sức nào nữa. Và đêm sẽ lại
hun hút.
Meir rên rĩ:
“Tại sao họ không bắn chúng ta ngay?”
Tối đó, chúng tôi tới điểm đến.
Đêm đã khuya. Lính gác tới lùa chúng tôi xuống. Người chết
bị bỏ lại trên tàu. Chỉ những ai còn có thể đứng vững mới lê chân nổi.
Meir Kalz ở lại tàu. Ngày cuối là ngày tàn sát nhất. Một
trăm người chúng tôi lên tàu trước kia. Nay chỉ còn mười hai người
bước xuống - trong đó có cha tôi và tôi.
Chúng tôi đã tới Buchenwald.
Chương 8
8.
Các viên chức SS chờ sẵn ở cổng trại. Chúng đếm chúng
tôi. Kế đó, chúng tôi bị áp tải thẳng tới chỗ tập họp. Lệnh
ra cho chúng tôi qua loa phóng thanh.
“Xếp hàng năm!” “Thành từng nhóm một trăm người!” “Bước tới đằng trước
năm bước!”
Tôi nắm tay cha tôi - nỗi sợ đã cũ và quen thuộc: chớ để mình mất ông.
Sát bên chúng tôi nhô lên ống khói cao của lò thiêu. Nó không còn
gây cho chúng tôi chút ấn tượng nào nữa. Nó cũng hầu như không còn
thu hút chúng tôi nữa.
Một tù nhân đã quen thuộc Buchenwald bảo chúng tôi nên đi tắm rồi có thể vô
ba-rắc. Ý tưởng được tắm nước nóng làm tôi mê mẩn. Cha
tôi im lặng. Bên tôi, ông thở nặng nhọc.
“Cha ơi!” tôi nói. “Chỉ chút nữa thôi. Chẳng bao lâu mình
có thể ngã lưng - ngã lưng trên giường. Cha có thể nghỉ ngơi...”
Ông không trả lời. Bản thân tôi quá kiệt quệ, tôi thờ ơ trước sự im
lặng của ông. Mơ ước duy nhất của tôi là tắm càng sớm càng tốt và nằm
xuống trong một chiếc giường.
Nhưng không dễ tới được vòi tắm. Hàng trăm tù nhân bu quanh
đó. Lính gác không giữ nổi trật tự. Chúng vung tay đấm loạn
xạ nhưng rõ ràng không kết quả. Những người khác, không còn sức chen
lấn hoặc đứng không vững, ngồi bệt xuống tuyết. Cha tôi cũng muốn ngồi
xuống. Ông rên rĩ:
“Cha không tiếp tục được nữa... Hết rồi...Cha sắp chết ở đây...”
Ông lôi tôi tới một cồn tuyết đang lố nhố những hình dáng con người và những miếng
giẻ mền te tưa.
“Để cha yên,” ông nói với tôi. “Cha không tiếp tục nổi...Thương cha
với...Cha ở đây chờ tới khi chúng ta vô được chỗ tắm...Con có thể quay lại đây
tìm cha.”
Tôi nổi xung khóc lên được. Đã sống qua nhiều thứ, đã chịu khổ quá
nhiều, làm sao lúc này tôi có thể để cha tôi chết? Lúc này, khi
chúng tôi có thể tắm nước nóng cho khoẻ người rồi ngã lưng?
“Cha!” tôi hét lớn. “Cha! Đứng dậy, đi khỏi chỗ này
ngay! Ngay lập tức! Cha đang giết cha đó...”
Tôi túm cánh tay ông. Ông tiếp tục than thở:
“Đừng la, con... Thương cha già của con một tí... Hãy để cha nghỉ ở đây... Chút
thôi mà, cha mệt quá rồi, sức cùng lực kiệt rồi...”
Ông như biến thành một đứa con nít, yếu ớt, nhút nhát, dễ thương tổn
“Cha,” tôi nói. “Cha không ở đây được.”
Tôi chỉ cho ông xác chết la liệt khắp chung quanh; họ cũng đã muốn nghỉ như thế
ở đây.
“Cha thấy họ mà, con... Cha thấy họ không sao mà. Cứ để họ
ngủ. Lâu lắm rồi họ mới được nhắm mắt... Họ mệt lắm...mệt lắm...”
Giọng ông dịu dàng.
Tôi gào lên át tiếng gió.
“Họ không bao giờ thức dậy nữa! Không bao giờ! Cha hiểu chớ?”
Cuộc cải vã tiếp tục một hồi lâu. Tôi cảm thấy mình không cãi vã với
ông mà là với chính thần chết, với cái chết mà ông đã chọn.
Còi hụ lên. Báo động. Đèn phụt tắt. Lính gác
lùa chúng tôi vô ba-rắc. Phút chốc chẳng còn ai ở chỗ tập họp. Chúng
tôi hết sức mừng rỡ chỉ vì không còn phải ở ngoài trời, trong gió buốt. Chúng
tôi thả người xuống các tấm ván. Giường sạp nhiều tầng. Những
nồi xúp ở lối vào chẳng hấp dẫn được ai. Ngủ, đó mới là vấn đề hơn cả.
Tôi thức dậy thì đã ban ngày. Và rồi tôi nhớ ra là mình có một người
cha. Từ lúc còi báo động, tôi đi theo đám đông, không lo lắng băn
khoăn gì tới ông. Đã biết là ông đang tới hồi kết cuộc, bên mép cái
chết, vậy mà tôi bỏ rơi ông!
Tôi đi tìm ông.
Nhưng cùng lúc đó ý tưởng này hình thành trong tôi: “Mình chớ nên đi
tìm ông nữa! Giá như mình có thể buông bỏ gánh nặng chết chóc ấy, để
mình có thể dùng toàn bộ sức lực mà chiến đấu cho sự sống sót của chính mình,
và chỉ lo lắng cho riêng mình thôi.” Lập tức, tôi thấy xấu hổ cho
mình, xấu hổ mãi mãi.
Tôi đi hết giờ này sang giờ khác mà không tìm thấy ông. Rồi tôi tới
ba-rắc nơi người ta đang phát “cà phê” đen. Tù nhân đang xếp hàng và
đánh nhau.
Một giọng nói thảm sầu, van vỉ, làm tôi lạnh xương sống:
“Eliezer...con...lấy cho cha...giọt cà phê...”
Tôi chạy tới ông.
“Cha! Con tìm cha lâu lắm rồi...Cha ở đâu vậy? Cha ngủ à?...Cha thấy
trong người ra sao?”
Ông sốt như lửa đốt. Như con thú hoang, tôi hùng hổ mở đường cho
mình lấn tới nồi cà phê. Cố hết sức, tôi bưng về một tách đầy. Tôi
nhắp một hớp. Còn lại để cho ông. Tôi không quên được ánh
cám ơn trong mắt ông khi ông uống một hơi tới cạn - lòng biết ơn của một con
thú. Có lẽ với vài ngụm nước nóng ấy, tôi làm ông mãn nguyện còn hơn
tất cả những gì tôi đã làm suốt thời thơ ấu.
Ông nằm trên tấm ván, tái mét, môi xanh xao khô rang, rùng mình run lẩy bẩy. Tôi
không ở được bên ông lâu. Lệnh truyền phải ra ngoài hết để người ta
làm vệ sinh ba-rắc. Chỉ có người bệnh mới được ở lại.
Chúng tôi ở ngoài trời suốt năm tiếng đồng hồ. Phát
xúp. Ngay khi được cho vô lại ba-rắc, tôi chạy tới cha tôi.
“Cha ăn gì chưa?”
“Có gì đâu mà ăn.”
“Tại sao không có?”
“Họ không cho người bệnh cái gì cả... Họ nói là đã bệnh thì trước sau gì cũng
chết, phí phạm thực phẩm là đáng tiếc. Cha không tiếp tục nổi tí nào
nữa...”
Tôi đưa ông chút xúp còn lại của tôi. Nhưng lòng chẳng đặng đừng. Tôi
cảm thấy tôi cho ông mà bụng mình miễn cưỡng. Chẳng tốt lành gì hơn
con trai của Thầy Cả Eliahou, tôi chịu đựng cuộc thử thách.
Càng ngày ông càng yếu hơn, ánh mắt ông mờ dần, mặt ông có màu lá
khô. Vào ngày thứ ba tính từ khi chúng tôi tới Buchenwald, mọi người
phải đi tắm. Kể cả người bệnh, sau cùng cũng phải tắm.
Trên đường từ chỗ tắm về, chúng tôi phải chờ ngoài trời trong một lúc
lâu. Người ta làm vệ sinh ba-rắc chưa xong.
Thấy cha tôi từ xa xa, tôi chạy tới gặp ông. Ông bước lẹ qua tôi như
một bóng ma, lướt ngang tôi mà không dừng lại, không nhìn tôi. Tôi gọi
ông. Ông không quay lại. Tôi đuổi theo ông.
“Cha, cha chạy đi đâu đó?”
Ông nhìn tôi chốc lát, ánh mắt ông xa xăm, hư ảo; mặt ông nay là của ai
khác. Chỉ một chút thôi rồi ông tiếp tục chạy.
Cha tôi bị bệnh lỵ đánh gục, ông liệt giường, cùng với ông có năm người tàn phế
khác. Tôi ngồi bên ông, canh chừng ông, không dám tin là ông có thể
lại thoát chết. Tuy thế, tôi làm tất cả những gì mình làm được để ông
còn hy vọng.
Ông chợt rướn người lên trên sạp, kề đôi môi sốt nóng hổi vô tai tôi:
“Eliezer...Cha phải nói cho con biết chỗ nào tìm vàng và tiền cha chôn...trong
hầm nhà...Con biết...”
Ông bắt đầu nói mỗi lúc một nhanh hơn, như thể ông sợ không kịp kể hết cho tôi.
Tôi cố cắt nghĩa với ông rằng đây không phải là chấm hết rồi, rằng cha con mình
sẽ về nhà mình, nhưng ông không muốn nghe. Ông không còn nghe
tôi. Một tia nước bọt, trộn lẫn máu, đang vọt ra trên môi
ông. Ông nhắm mắt. Hơi thở hổn hển.
Bằng một suất bánh mì, tôi sắp xếp đổi chỗ với một người tù bên lô giường tầng
của cha tôi. Chiều đó bác sĩ đến. Tôi tới gặp bác sĩ và
nói rằng cha tôi đang đau nặng.
“Đem hắn tới đây!”
Tôi giải thích là cha tôi không đứng lên nổi. Nhưng bác sĩ không chịu
nghe gì cả. Dù thế nào tôi cũng phải mang cha tôi tới chỗ của hắn. Hắn
nhìn cha tôi rồi hỏi ông bằng giọng xấc láo:
“Mày muốn gì?”
“Bệnh của cha tôi,” tôi trả lời thay ông. “Bệnh lỵ”.
“Bệnh lỵ? Chẳng phải việc của tao. Tao là bác sĩ giải phẩu. Đi
đi! Để chỗ cho người khác.”
Chống cự là không tốt.
“Con ơi, cha không tiếp tục nổi...Đem cha về sạp...”
Tôi mang ông về lại, đỡ ông nằm xuống. Ông rùng mình.
“Rán ngủ chút đi, cha. Rán ngủ đi...”
Hơi thở ông chậm chạp, mong manh. Ông nhắm nghiền mắt. Tuy
vậy tôi tin rằng ông thấy hết mọi sự, lúc này ông có thể thấy sự thật trong hết
thảy mọi điều.
Một bác sĩ khác đến ba-rắc. Nhưng cha tôi không đứng dậy. Ông
biết rằng có đứng lên cũng vô ích.
Hơn nữa, bác sĩ này chỉ đến để kết liễu người bệnh. Tôi có thể nghe
hắn đang la hét họ đừng làm biếng, chỉ muốn nằm trong giường. Tôi cảm
thấy muốn nhảy xổ tới túm lấy cuống họng hắn, bóp cổ hắn. Nhưng tôi
chẳng còn can đảm lẫn sức mạnh. Tôi bị dán mình vào sạp giường cha
tôi đang nằm hấp hối. Bàn tay tôi đau, tôi bóp chúng quá chặt. Ôi,
để bóp cổ tên bác sĩ và những đứa khác. Để thiêu rụi tất cả thế giới! Những
tên giết cha tôi! Nhưng tiếng la ứ lại trong họng tôi.
Khi tôi về lại sau giờ phát bánh mì, tôi thấy cha tôi đang khóc như một đứa trẻ.
“Con ơi, tụi nó tiếp tục đánh cha!”
“Ai?”
Tôi nghĩ là ông đang mê sảng.
“Hắn, tên Pháp...và tên Ba lan...tụi nó đánh cha.”
Một vết thương khác thấu tim, một hận thù khác, một lý do khác để mất sức sống.
“Eliezer...Eliezer...con nói chúng đừng đánh cha...Cha có làm gì đâu...Tại sao
tụi nó còn đánh cha nữa?”
Tôi bắt đầu chửi rủa những láng giềng của ông. Họ cười nhạo
tôi. Tôi hứa cho họ bánh mì, xúp. Họ cười. Rồi
họ nổi giận; họ hết chịu đựng nổi cha tôi; họ nói, vì ông lúc này không chịu lết
mình ra ngoài để tự làm cho mình khuây khoả.
Ngày kế, ông than là họ lấy mất suất bánh mì của ông.
“Trong khi cha ngủ à?”
“Không. Cha không ngủ. Chúng chồm lên người
cha. Chúng vồ bánh mì của cha...Rồi chúng đánh cha nữa... Cha hết chịu
nổi rồi...cho cha tí nước...”
Tôi biết là ông không được uống. Nhưng ông van nài lâu tới nổi tôi
phải cho. Nước là thứ thuốc độc ác liệt nhất nếu lúc này ông uống
vào, nhưng tôi làm được gì cho ông đây? Với nước hoặc không với nước
thì dù sao chẳng bao lâu nữa mọi sự cũng sẽ kết liễu...
“Con, ít nhất, con cũng đã ra ơn cho cha...”
Ra ơn cho ông! Tôi, đứa con trai độc nhất của ông!
Một tuần trôi qua như thế.
“Phải cha mày đây không?” trưởng ba-rắc hỏi.
“Vâng.”
“Ông bệnh rất nặng.”
“Bác sĩ chẳng làm gì cho ông cả.”
“Lúc này, bác sĩ không thể làm gì cho ông. Cả mày nữa
cũng chẳng làm được gì.”
Hắn đặt bàn tay đầy lông lên vai tôi và thêm:
“Nghe tao đây, nhỏ. Chớ quên là mày đang ở trại tập
trung. Ở đây, ai cũng phải chiến đấu cho bản thân mình và đừng nghĩ
tới kẻ khác. Ở đây, không cha, không anh em, không bè bạn. Mỗi
người sống và chết riêng mình nó. Tao cho mày tí lời khuyên - đừng
đưa suất bánh mì và xúp của mày cho người cha già cả của mày. Mày
không thể làm gì cho ông ấy. Và mày đang tự giết
mày. Thay vào đó, mày phải lấy suất ăn của cha mày.”
Tôi lắng nghe hắn từ đầu tới cuối. Hắn có lý, tôi nghĩ thầm trong chốn
sâu kín nhất của tâm hồn mình, nhưng tôi không dám thừa nhận. Việc cứu
người cha già nua của mình đã trễ quá rồi, tôi tự nhủ. Mày phải có
hai suất bánh mì, hai suất xúp...
Trong ánh chớp của một giây, tôi cảm thấy mình có tội. Tôi chạy tìm
ít xúp cho cha tôi. Nhưng ông không muốn xúp. Ông chỉ muốn
nước thôi.
“Cha đừng uống nước...ăn xúp đi...”
“Cha nóng ran cả người...sao con quá ác với cha vậy, con của cha? Một
giọt nước thôi...”
Tôi mang cho ông chút nước. Rồi tôi rời ba-rắc đi điểm diện. Nhưng
đang đi tôi lộn vòng trở lại. Tôi leo lên nằm tầng trên cùng của sạp
giường. Người tàn phế được ở lại trong ba-rắc. Vậy tôi sẽ
tự làm người tàn phế. Tôi sẽ không rời cha tôi nữa.
Lúc này bốn bề chung quanh im ắng, chỉ trổi lên tiếng than van. Trước
ba-rắc, SS đang ra lệnh. Một tên sĩ quan đi ngang các sạp. Cha
tôi năn nỉ tôi:
“Con ơi, cho cha tí nuớc...Cha nóng trong người quá...Bao tử cha...”
“Im đi, đằng kia!” tên sĩ quan gào lên.
“Eliezer,” cha tôi tiếp tục, “cho cha giọt nước...”
Tên sĩ quan bước tới ông, quát ông im đi. Nhưng cha tôi không nghe hắn. Ông
tiếp tục gọi tôi. Tên sĩ quan quật một cú dùi cui khủng khiếp vô đầu
ông.
Tôi không nhúc nhích. Tôi sợ. Thể xác tôi sợ hãi nó cũng
sẽ lãnh một cú như thế.
Rồi từ trong họng cha tôi thoát ra tiếng lục cục, tiếng đó là tên tôi: Eliezer.
Tôi có thể cảm thấy là ông còn thở - lúc được lúc không.
Tôi không nhúc nhích.
Khi xong điểm diện, tôi leo xuống, tôi thấy môi ông run run đang thì thầm điều
gì đó. Cúi xuống ông, tôi đăm đăm nhìn ông trong hơn một giờ, ghi khắc
vào mình hình ảnh bộ mặt đầm đìa máu của ông, chiếc sọ tan tác của
ông. Rồi tôi phải leo trở lại chỗ nằm, phía trên cha tôi, ông vẫn
còn sống. Hôm đó ngày 28 tháng Giêng, 1945.
Tôi thức giấc rạng sáng 29 tháng Giêng. Tại chỗ cha tôi đã có một
người tàn phế khác nằm. Họ hẳn đã đem cha tôi đi ngay trước
khi trời sáng, mang ông vô lò thiêu. Lúc ấy, có thể ông vẫn còn thở.
Không có lời cầu nguyện bên mồ ông. Không có nến thắp lên để tưởng
niệm ông. Lời cuối cùng của ông là tên tôi. Một lời kêu gọi
mà tôi không đáp lại.
Tôi không khóc, nó làm tôi đau đớn tới độ không khóc được. Vả lại,
tôi chẳng còn nước mắt. Và trong chốn sâu thẳm của con người tôi,
trong những nơi thầm kín của lương tâm yếu nhụt của tôi, liệu tôi có thể đã tìm
ra nó, và có lẽ tôi có thể tìm ra cái gì đó tương tự - giải thoát sau cùng!
Chương 9
9.
Tôi còn phải ở lại Buchenwald cho tới ngày 11 tháng Tư. Cuộc đời tôi
trong giai đoạn ấy chẳng có gì để nói. Nó không thành vấn đề nữa. Sau
cái chết của cha tôi, không gì còn có thể làm tôi xúc động nữa.
Tôi bị chuyển sang ba-rắc trẻ em, nơi đó có sáu trăm đứa chúng tôi.
Mặt trận đang kéo tới càng lúc càng gần.
Ngày qua ngày, tôi ở trong tình trạng ăn không ngồi rồi. Tôi chỉ có
một thèm khát duy nhất - ăn. Tôi không còn nghĩ tới cha hoặc mẹ
mình.
Hết lúc này qua lúc khác, tôi mơ tưởng một giọt xúp, một suất xúp phụ trội.
Ngày 5 tháng Tư, bánh xe lịch sử xoay chiều.
Lúc ấy xế chiều. Chúng tôi đang đứng trong ba-rắc, chờ viên chức SS
tới đếm chúng tôi. Hắn tới trễ. Cho tới lúc đó, trong lịch
sử của Buchenwald, chưa từng biết đến một sự trễ nải như thế. Hẳn phải
xảy ra chuyện gì đó.
Hai giờ sau, các loa phóng thanh báo lệnh của viên chỉ huy trại: hết
thảy người Do thái phải tới chỗ tập trung.
Đến đây là hết rồi! Hitler sắp giữ lời hứa của hắn.
Trẻ con ba-rắc chúng tôi đi tới chỗ đó. Chúng tôi không thể làm gì
khác. Gustav, trưởng ba-rắc của chúng tôi đã làm rõ điều ấy bằng dùi
cui. Nhưng trên đường đi, chúng tôi gặp vài tù nhân, họ thì thầm với
chúng tôi:
“Về lại ba-rắc chúng mày đi. Tụi Đức sắp bắn chúng mày. Về
ba-rắc ngay, đừng đi đâu cả.”
Chúng tôi về lại ba-rắc mình. Trên đường đi, chúng tôi nghe rằng tổ
chức kháng chiến trong trại đã quyết định không bỏ rơi người Do thái và sẽ ngăn
chận việc chúng tôi bị thanh toán.
Khi ấy ngày đã quá trễ, với lại có biến động lớn và đột ngột - vô số người Do
thái đã tự mạo nhận là người không phải Do thái - viên chỉ huy trại quyết định
rằng ngày mai sẽ có cuộc điểm diện toàn trại. Toàn trại
phải có mặt.
Cuộc điểm diện diễn ra. Viên chỉ huy trại tuyên bố sẽ thanh toán
Buchenwald. Mỗi ngày sẽ di tản mười ba-rắc người bị trục xuất. Từ
lúc này, sẽ không phát bánh mì và xúp nữa. Và cuộc di tản bắt đầu. Mỗi
ngày, vài ngàn tù nhân đi qua cổng trại, không bao giờ trở lại.
Ngày 10 tháng Tư, vẫn còn chừng hai mươi ngàn chúng tôi ở trong trại, trong đó
có mấy trăm trẻ em. SS quyết định lập tức di tản hết chúng tôi, làm
liền một mạch cho tới tối. Sau đó, sẽ cho nổ tung trại.
Như vậy chúng tôi tập trung tại quảng trường tập họp khổng lồ, chờ nhìn cổng trại
mở ra. Thình lình còi hụ bắt đầu rú lên. Báo động! Chúng
tôi về lại ba-rắc. Tối rồi, không còn kịp di tản. Phải hoản
tới ngày mai.
Chúng tôi bị cơn đói hành hạ. Suốt sáu ngày qua, chúng tôi chẳng ăn
gì, trừ một ít cỏ và một ít vỏ khoai tìm được gần các nhà bếp.
Tới mười giờ sáng, SS tản ra khắp trại, dồn các nạn nhân sau chót tới địa điểm
tập họp.
Lúc ấy, phong trào kháng chiến quyết định hành động. Khắp nơi xuất
hiện người có vũ trang. Tiếng súng bùng lên. Lựu đạn nổ. Trẻ
con chúng tôi nằm rạp người xuống đất trong ba-rắc.
Trận chiến không kéo dài. Khoảng trưa mọi sự yên lặng trở lại. SS
bỏ chạy và kháng chiến quân phụ trách điều hành trại.
Khoảng sáu giờ tối, chiếc xe tăng đầu tiên của Mỹ đậu trước cổng Buchenwald.
Hành động đầu tiên của chúng tôi, những người được giải phóng, là lao vào kho
lương thực. Chúng tôi chỉ nghĩ tới việc ấy thôi, chẳng nghĩ gì tới
trả thù, tới gia đình mình. Không gì cả, chỉ bánh mì thôi.
Và cả khi không còn đói nữa, cũng chẳng ai nghĩ tới việc trả
thù. Vào ngày kế đó, một số thanh niên tới Weimar để lấy khoai và quần
áo - và để ngủ với gái. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào về việc trả thù.
Ba ngày sau cuộc giải phóng Buchenwald, tôi ngã bệnh nặng vì trúng độc thức
ăn. Tôi được chuyển tới bệnh viện và trải qua hai tuần giữa cái sống
và cái chết.
Ngày nọ, tôi đứng lên được sau khi tập trung hết sức lực. Tôi muốn
nhìn mình trong chiếc gương treo trên tường trước mặt. Tôi đã không
nhìn mình kể từ lúc ở biệt khu.
Từ chốn sâu thẳm trong gương, một xác người nhìn lại tôi.
Cái nhìn trong đôi mắt xác người đó, khi đôi mắt ấy nhìn tôi, sẽ chẳng bao giờ
rời tôi.
22/9/2010
Elie Wiesel
Nguyễn Ước dịch
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Elie Wiesel
Nguyễn Ước dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét