Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025

Cảm xúc trữ tình trong tập thơ "Đợi tri âm" của nhà thơ Võ Văn Hân

Cảm xúc trữ tình trong tập thơ
"Đợi tri âm" của nhà thơ Võ Văn Hân

“Đợi tri âm” là tập thơ có nhiều bài thơ hay, nhiều câu thơ hay. Đọc văn chương là tháo gỡ mã các ký hiệu văn chương trong văn bản, tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua cấu trúc của văn bản.
1. Dẫu biết “tri âm khó kiếm, tri kỉ khó tìm”, nhưng nhà thơ Võ Văn Hân vẫn “Đợi tri âm” vì trong anh là niềm khao khát, mong mỏi “mỗi người đọc là một nhà thơ khác, mỗi bài thơ là một bài thơ khác” – mong tìm được mối giao cảm, giao hòa với độc giả: “Lục khắp mười phương/ ta tìm em/ như từ quy/ giữa đại ngàn đêm thâu gọi bạn/ ta khát em/ như cánh đồng khô hạn/ đợi chờ/ hạt cỏ nảy mầm… Ta bốn mùa/ vời vợi chờ mong/ gọi em về câu thơ tròn ý/ gởi vào trời/ tình thơ bình dị/ trải lòng/ ngóng đợi… tri âm” (Đợi tri âm).
Cảm xúc trữ tình chân thật, cầu thị trong bài thơ “Đợi tri âm” cũng là lời nhắn gửi tha thiết đến độc giả tình cảm chân thành của thi nhân. Bởi vì, thơ gắn với chiều sâu thế giới nội tâm sâu kín của con người, với chiều sâu tâm hồn; nên không dễ khơi nguồn, nắm bắt. Vẻ đẹp của thơ khi mềm mại, khi triết lí, suy tưởng… tâm hồn thi nhân càng đẹp, tứ thơ càng bay bổng. Tập thơ có nhiều bài hay. Tôi thích cái tôi thi sĩ lãng đãng, tiêu sái trong bài thơ “Rượu hồng đào”: “Hồng đào mong đợi đã lâu/ Mời em nâng chén tiêu sầu cùng tôi/ Chiếu trăng gió trải ta ngồi/ Chút duyên tao ngộ giữa đời bao la”. Bài thơ gợi nhớ về những câu thơ của Thi tiên Lý Bạch: “Hoa gian nhất hồ tửu/ Độc chước vô tương thân/ Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân” – (Nguyệt hạ độc chước kỳ 1, Lý Bạch – Có rượu không có bạn/ Một mình chuốc dưới hoa/ Cất chén mời trăng sáng/ Mình với bóng là ba – Bản dịch Nam Trân).
Trong không gian tĩnh lặng, đối ẩm cùng trăng, nhà thơ Võ Văn Hân đối diện lòng mình rồi tự vấn: “Gót mòn phiêu bạt trời xa/ Xoay vần con tạo đâu là cố nhân?”. Bước qua độ tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh”, đến khoảng thời gian “Lục thập nhi nhĩ thuận” – đạt đến độ hoàn hảo về tri thức và kinh nghiệm cuộc đời, thì câu hỏi: “Xoay vần con tạo đâu là cố nhân?” là nghĩ suy có chiều sâu trong thi tứ và cũng là cuộc đời. Bài thơ hay bởi trong cái thinh không tĩnh lặng, những nghĩ suy, những giải bày về thế thái nhân tình qua thể thơ lục bát nhuần nhị, luyến láy đã mang giá trị thẩm mĩ của thơ ca. Đó là giá trị cốt lõi của thơ ca. Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua liên tưởng và những tưởng tựơng phong phú…
Đề tài trong tập thơ “Đợi tri âm” với 50 bài khá đa dạng: về nơi “chôn rau cắt rốn”, về “nơi đất lành chim đậu”, về núi về biển, về những kỉ niệm thân thương và những địa danh – nơi nhà thơ có dịp dừng chân.
2. Quê hương đau đáu trong tâm thức nhà thơ khi anh lập nghiệp xa quê, xa cha mẹ. “Hương đồng thơm ngát giấc mơ/ Lấm lem bùn đất tuổi thơ trên đồng/ Chiêm bao nơi chốn bụi hồng/ Về nơi cố quận hương đồng mênh mang”… “Chiêm bao giữa chốn bụi hồng/ Sà vào lòng Mạ chua nồng mồ hôi/ canh gà thôi giấc mơ rồi/ Bần thần nhớ Mạ… bồi hồi hương quê” (Hương đồng). Tứ thơ “hương đồng” quấn quýt thân thương về kỉ niệm tuổi thơ “lấm lem bùn đất” và mùi của mạ – “chua nồng mồ hôi” đã gợi hình dung về chân dung thi sĩ “chân quê” từ trong kí ức, hoài niệm. Thèm cái “chân quê” trong thơ anh bởi nơi đó biết bao gần gũi, thân thương, biết bao nỗi nhớ, nỗi nhớ là sợi dây níu giữ tình yêu với quê nhà, dù có đi đâu vẫn vọng về quê hương.
Tôi từng viết trong tập thơ “Đồng vọng”: “Anh viết về mạ – da diết, đau đáu một nỗi nhớ thương, “người mẹ quê” trong thơ anh mang vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam: tảo tần, chịu thương chịu khó, một lòng vì chồng, vì con”, đến tập thơ này vẫn là giọng thơ thương nhớ da diết đó. Chưa về đến quê trong anh đã là hình bóng mạ với cánh đồng mùa đông, cái nhìn của thi nhân chăm chăm về nơi ấy: “Nhớ ngày về xa ngái/ Quang gánh chất mùa đông/ Mẹ gánh rét ra đồng/ Chắn gió mùa đông bắc/ Nay mẹ không còn nữa/ bếp chẳng có lửa hồng/ không người gánh mùa đông/ Lạnh tràn nhà tê tái” (Quê nhà mùa đông).
Câu thơ “Mẹ gánh rét ra đồng” quá hay, hình tượng thơ thật đa nghĩa, người mẹ suốt đời lam lũ, tảo tần với đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, gánh vác bao lo toan nhọc nhằn mưu sinh cho gia đình. Hình ảnh đó hiện về trong tâm thức nhà thơ, để rồi trở về với thực tại, nỗi buồn càng trĩu nặng: “Nay mẹ không còn nữa/ bếp chẳng có lửa hồng/ không người gánh mùa đông/ Lạnh tràn nhà tê tái”. Người mẹ và bếp lửa là nơi sưởi ấm lòng con nơi xa ngái, nay không còn nữa, hụt hẩng chơi vơi đến nhường nào.
“Tìm về chốn xưa” nỗi buồn man mác “Dặm trường mỗi bước thiên di/ Mưa về lối cũ thương thì… thanh xuân”. Chốn xưa trong “Hoa gạo đợi chờ” với thi ảnh vấn vương, thương nhớ, kí ức và hiện tại hòa quyện trong cái nhìn tâm tưởng của nhà thơ: “Ngày về làng cũ bên sông/ Xoan thủ thỉ rung rung hoa tím/ rét nàng bân chiều quê ngọt lịm/ Gạo trổ hoa thắp lửa ấm nồng”. Bài thơ gợi nhớ về chiến dịch K8 thời chiến tranh, lúc đó chắc anh chỉ là cậu bé mới 7, 8 tuổi, xa nhà đến Nam Định – quê hương thứ hai, và ở cùng thầy bu – bố mẹ thứ hai. Dù sau này, trở về với gia đình, quê hương thì nơi đó mãi mãi thân thương, da diết, kí ức tuổi thơ được kể bằng thơ chắt lọc, lắng đọng: “Miền cổ tích ngày về thăm lại/ Gạo tủi hờn… thẹn đỏ mặt sông”.
Hình ảnh nhân hóa “Gạo tủi hờn…” quá hay, câu chuyện “thằng Nhà, con Gạo” trong truyện cổ tích xưa chợt hiện về trong thi ảnh hoa gạo “thẹn đỏ mặt sông” – hình tượng vừa nhân hóa, vừa ẩn dụ chứa chan bao nỗi niềm của cậu bé K8 năm xưa nhớ nhà, nhớ mạ; rồi nay trở về chốn cũ “Bến đò xưa vẫn còn cây gạo/ Cầu sang sông… sao nỡ quên đò?… Mộc miên ơi em nồng nàn rực rỡ/ Ấm áp bên sông thương nhớ đợi ta về”. Từ một loài hoa giản dị ở đồng quê mà mê hoặc lòng người đến lạ thường và từ lâu đã trở thành biểu tượng cũng như món quà ấm áp của tháng ba, nhà thơ Võ Văn Hân đã đưa vào thi tứ, làm điểm tựa cho việc bộc lộ cảm xúc nhớ thương da diết về nơi chốn cưu mang mình trong những năm tháng chiến tranh.
Người con ở “Sông Hiền Lương” – “Hai mươi năm cách trở/ Bến nối nhịp chèo qua/ Cho mình lại gặp ta/ Ngọt lịm tình thống nhất”, lập thân ở Đắk Nông, gắn bó cả thanh xuân của mình vào mảnh đất có nhiều địa danh du lịch nổi tiếng, có hồ Tà Đùng được ví như một Hạ Long thứ hai của Việt Nam, nhà thơ không thể không viết về nơi đây. Những bài thơ viết về văn hóa, lễ hội, phong tục, địa danh… là cảm xúc thơ sâu lắng, ân tình: “Âm vang từ lòng đất”; “Hòa vàng chờ mong”; “Chuyện tình hồ Lắk”; “Cổ tích Liêng Nung”; “Mắc nợ tiếng chim từ quy”; “Mưa rừng”; “Mênh mông tình Buôn Chóah Nâm Nung”…
Từ những cổ tích, huyền thoại, từ câu chuyện tình đêm khuya bên bếp lửa nhà dài, nhà thơ đã kể lại “Chuyện tình hồ Lắk” bằng thơ cô đọng, súc tích, dạt dào cảm xúc. Cái nhìn của thi nhân vừa trở về lịch sử xa xưa, vừa lắng đọng ở hiện tại và những thi ảnh như khơi, như gợi, như tâm sự, như nhắn gửi. Hình ảnh thơ sinh động, lung linh trong vần điệu, câu chữ, bài thơ mang sắc màu cao nguyên độc đáo: “Bóng trăng hồ Lắk trinh nguyên/ chiêng ngân ánh vàng lay động/ khèn đinh năm bồng bềnh con sóng/ tiếng đàn goong hồn lúa theo về/ hương rượu cần ngất ngây đê mê/ lúng liếng nồng nàn sơn nữ/ lịm hồn kẻ bồng phiêu lữ thứ/ say chuyện tình hồ Lắk/ say…em”. Những câu thơ thật hay trong bài thơ “Hoa vàng chờ mong”: “Cánh phượng rơi… nhớ thời nhẫn cỏ/ cà phê chín tím thương ngọn gió/ nhớ em thổn thức hoa vàng/ có khi nào em nghĩ về phương anh?” – cũng là hỏi người, hỏi ta, bởi nơi “Gia Nghĩa chờ mong” – “chờ em lỡ độ hoa vàng mùa thu”… đó cũng là cái cớ gợi lên cảm xúc thơ trong trạng thái chơi vơi “bung biêng bảng lảng la đà”…
Sắc màu lễ hội cao nguyên trong bài thơ “Cổ tích Liêng Nung” với thể thơ tự do, những dòng thơ ngắn như nhịp chân nhún nhảy, như thanh âm của đại ngàn “mênh mang màu cổ tích” cùng “thảo nguyên Châu Mạ”:   “Ta say trong tình rừng/ Mênh mang/ màu cổ tích/ lung linh sợi nắng/ thác tuôn trào/ bung biêng sương nắng/ bảy sắc cầu vồng nối nhịp tình yêu”– “Goong lú của giàng/ treo vách lá Liêng Nung/ dâng tấu khúc tình ca/ nơi thảo nguyên Châu Mạ/ thang âm thánh thần thon thả/ tiếng nhạc rừng…/ từ thuở hồng hoang”. Thi ảnh thơ linh hoạt, phóng khoáng chuyển động cùng thi tứ và ngôn từ uyển chuyển hòa điệu cùng sắc màu riêng của con người và thiên nhiên nơi đây.
Người ở cao nguyên khi về với biển, cảm xúc dạt dào. “Về Lý Sơn”; “Đảo Ngọc Phú Quốc”; “Ngàn năm sau có còn không/ Thu về với biển phiêu phong tung trào” (Thu về với biển). Hình tượng ẩn dụ “biển – bờ” không mới trong thơ ca, nhưng trong bài thơ “Biển hát” nhà thơ Võ Văn Hân đã làm mới bằng thể thơ tự do, câu chữ, ý tứ hòa quyện trong một dòng ý tưởng: “Biển…/ Ngàn năm thủy chung bờ cát”. Tứ bài thơ liên kết trong 3 khổ thơ, khổ 1, 2 kết bằng câu thơ 1 chữ: “Sóng…”; “Biển…” – kết khổ thứ nhất, mở ra khổ thứ 2, nên dường như không nhận ra khổ thơ, chỉ nhận biết ý thơ trong 3 mạch thơ; và hai chữ “Biển hát…” là chủ đề của cả bài thơ cũng là điểm nhấn, khắc khoải một tình yêu với biển: “Đêm ảo điệu/ Phú yên biển hát/ Bản tình ca của biển và bờ/ Từ ngàn xưa cho đến bây giờ/ Biển vẫn mãi yêu bờ tha thiết/ Sóng…”.
“Ai ngậm ngãi tìm trầm/ ai ao ước kỳ hương?/ lắng tai nghe…/ người đàn bà năm lăm tự hát” (Lời ru trầm hương). “Người đàn bà tuổi năm lăm” vượt ngưỡng thuở xuân thì, vậy mà trong mắt thi sĩ, cái đẹp ở độ tuổi này lại tròn đầy, đằm thắm “cất lời ru trầm hương” – qua thời gian tinh chất được tích tụ “vi diệu giọt trầm” trong thi tứ nhà thơ. Bài thơ hay không bởi từ thi tứ, từ đối tượng trữ tình mà từ lối cảm nhận sâu sắc về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng về một loại gỗ quý hiếm với hình tượng “Người đàn bà tuổi năm lăm”.
Dù ở đâu, đi đâu, với nhà thơ Võ Văn Hân, Huế mãi là “cố nhân”, thi tứ thơ anh viết về Huế “ảo điệu” trong câu chữ, ý tứ và vần điệu. Thể thơ tự do không giới hạn bởi những câu thơ xuống dòng trong bài thơ “Giao tình” thật mới. Ba khổ thơ trong bài là ba mạch thơ rời, kết với nhau bằng tứ thơ “giao tình”. Nếu khổ một các thi ảnh chuyển động màu sắc từ tím biếc đến xanh, rồi trở vàng; cái nhìn chuyển động từ sen Tịnh Tâm đến sông Hương và đọng lại trên “giọt nắng bâng khuâng”. Thì khổ thơ thứ hai, “thu” đã ngỡ ngàng từ “Vĩ Dạ đò sang”, đến Cồn Hến… Các địa danh dịch chuyển trong tâm thức nhà thơ như những thước phim quay chậm, thi ảnh có định danh, định tính nhưng có vẻ như đã cảm từ tâm thức rồi viết ra trong vô thức. Đến khổ thơ thứ ba, tác giả như chợt bừng tỉnh bởi “khúc giao tình Thu – Hạ” vấn vương: “Thu buồn xao xuyến ngẩn ngơ/ Mưa nguồn chớp bể ngóng chờ Hạ thương”. Vì cái vô thức lấn át, mà bất chấp quy luật thời gian: “xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàng”, để đảo ngược thời gian, đảo ngược mùa: Thu – Hạ.
Đi qua mỗi mùa ngâu, con người lại có thêm chút hoài niệm, nên ở bài thơ “Mưa Ngâu” của nhà thơ Võ Văn Hân ý tứ tròn đầy, câu chuyện tình “Ngưu Lang – Chức Nữ” được kể bằng thơ súc tích, lắng đọng, da diết bởi ngôn từ lấp lánh chất thơ: “Sông Ngân Ô thước bắc cầu/ Nối bờ thương nhớ nàng Ngâu gặp chồng/ Nỗi niềm biền biệt chờ mong/ Lửa hương tình ái mặn nồng trúc mai/ hạt thương thầm ướt bờ vai/ Châu sa thánh thót vắn dài thành mưa/ Ngưu lang Chức Nữ chuyện xưa/ Tình Ngâu tháng bảy… mưa lưa đến chừ” (Mưa Ngâu).
3/ Đặc biệt, trong nhiều bài thơ nhà thơ sử dụng tứ thơ độc đáo: “Thương quê”; “Về miền quan họ”; “Mê luyến”: “Đêm trở gió/ đông về trước ngõ/ thu đã đi về biển xa vời/ dìu dặt mưa rơi/ khoan nhặt bên đồi/ đêm sâu thẳm/ cung đàn trời thánh thót”; “Sen – Làng sen”: “Lối quê/ thơm ngát sen hồng/ tím hương ngày hạ ao đồng/ làng Sen… Hương sen/ ảo điệu thần tiên/ hương sen minh triết… trinh nguyên… khí trời”… Ngoài những bài thơ thành công với thể thơ tự do cùng nhịp điệu linh hoạt, vần điệu luyến láy; nhà thơ còn sử dụng thể lục bát biến thể với nhịp điệu biến thiên (2/4, 4/2, 3/5, 6/2, 4/4) với các bài “Cù lao ông Hồ”; “Cụ Nguyễn Công Trứ”; thuần thục với thể ngũ ngôn ở các bài thơ: “Sa vĩ – Trà cổ”; “Về Lý Sơn”; “Sông Hiền Lương”; “Khúc giao mùa”; “Quê nhà mùa đông”; “Đảo Ngọc Phú Quốc”. Nhịp thơ 5 chữ như vó ngựa trên đường núi gập ghềnh trong bài thơ “Đá Đồng văn”. Bài thơ được viết trong cảm thức “du miên” về đá, núi, những em gái người Mông và phiên chợ vùng cao nhộn nhịp từ điệu múa, tiếng khèn môi, náo nức từ bước chân trai bản và lòng thi nhân cũng “Say tình đá Đồng Văn”. Đây là bài thơ hay về ngôn từ, ý tứ.
Con người dẫu đi đâu, hay làm gì thì đến khoảng lặng cuộc đời sẽ ngoái đầu nhìn lại. Nhà thơ Võ Văn Hân cũng vậy, nỗi nhớ như là cái cớ để thi nhân bộc bạch, giải bày: “Tứ tuyệt cuộc đời” gồm 6 bài: “Tứ tuyệt được vần vui độc ẩm/ Chẳng hổ thẹn lòng với cỏ hoa” (Tự vui). Khi ngoái nhìn lại, nhà thơ tự tình với “cố nhân”: “Thiên thai lãng đãng sương mù/ Tìm về Vọng Cảnh dấu xưa phai mờ” (Không tên số 2). Nhà thơ “tự tri giả minh” – tự biết về mình… “Khi mình về chốn thiên thu/ ta đi cùng mảnh trăng lu cuối rừng/ ba thu duyên khởi tương phùng/ Chuyện ngày xưa cũ ta cùng bỏ buông” (Không tên cuối).
Có lẽ sự “tự tri”, “bỏ buông” đã chắp cánh cho hồn thơ anh bay bổng, tứ thơ hay, giọng thơ ngọt ngào và lắng đọng. “Đợi tri âm” là tập thơ có nhiều bài thơ hay, nhiều câu thơ hay. Đọc văn chương là tháo gỡ mã các ký hiệu văn chương trong văn bản, tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua cấu trúc của văn bản. Tác giả sáng tạo ra hình tượng, hình tượng văn học lại tồn tại như một khách thể tinh thần đặc thù, người đọc tiếp nhận một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mình; tiếp nhận tác phẩm “Đợi tri âm” là phát hiện lại tác phẩm, thêm nhập vào chiều sâu có thể là bất ngờ đối với tác giả, cũng là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác – giao tế của nhà thơ Võ Văn Hân.
21/10/2024
Hoàng Thị Thu Thủy
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cô bé trên mái nhà sàn

Cô bé trên mái nhà sàn Cô bé Lò Thị Chăng đã sống ở chỗ cao nhất trên mái nhà sàn của một gia đình Thái đen gồm 5 người suốt ba ngày đêm. ...