Hương vườn cũ 11
61.
NHƯỢNG TỐNG, tên Hoàng Phạm Trân, là một yếu nhân trong hàng lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng, thời Nguyễn Thái Học. Nhưng sự nghiệp cách mạng của ông không rực rỡ bằng sự nghiệp văn chương. |
Ông đã dịch nhiều bộ sách có giá trị của Trung Hoa: Nam Hoa Kinh, Tây Sương ký, Thơ Đỗ Phủ, Lý Tao… và đã sáng tác tập NGUYỄN THÁI HỌC cùng nhiều thơ Xuất Ngôn.
Những bộ sách dịch và tập Nguyễn Thái Học đã được xuất bản. Còn thơ thì chỉ thấy đăng rải rác ở các sách báo, và tôi chỉ nhớ được ít bài:
CẢM ĐỀ LỊCH SỬ
Ba xứ non sông một giải liền
Máu đào xương trắng điểm tô nên
Cơ trời dù đổi trò tang hải
Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ tiên
Có nước có dân đừng rẻ rún
Muốn còn muốn sống phải đua chen
Giựt mình nhớ chuyện nghìn năm cũ
Chiêm Lạp xưa kia vốn chẳng hèn.
Tôi liên tưởng đến bài ĐỌC SỬ của Nguyễn Đỉnh Ngọc triều Tự Đức:
Giải bể ngàn đông bụi tít mù
Trải qua chớp mắt mấy nghìn thu
Thành Loa vừa thấy vây vua Thục
Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô
Giấc mộng chẳng lâu mà chẳng chóng
Cuộc cờ khi được lại khi thua
Còn non còn nước còn thư thả
Chén rượu Trung Sơn hãy gật gù.
Bài của cụ Nguyễn lời thơ già giặn khí những thơ mạnh mẽ hơn bài của cụ họ Hoàng. Nhưng cụ Nguyễn xem sử với con mắt khách quan với tấm lòng của con người đứng ra ngoài thế sự. Còn họ Hoàng lại nhìn cuộc thịnh suy của giống nòi qua lịch sử và trải niềm ưu ái lên nét chữ vần thơ. Cho nên đọc cụ Nguyễn Đỉnh Ngọc chúng ta thấy thơ thới trong lòng. Còn đọc Nhượng Tống thì tâm hồn chúng ta không khỏi rung cảm, không sao giữ được yên tĩnh. Mỗi bên có một ý riêng, hơn kém tùy quan niệm.
Cuối năm 1929, Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng quyết định cử phái bộ ngoại giao sang Trung Hoa và Nhật Bổn. Nguyễn Thái Học và Nhượng Tống được ủy nhiệm vào Huế yêu cầu cụ Phan Sào Nam viết thư giới thiệu cùng các nhà cách mạng hải ngoại. Đến lúc khởi hành lại xảy ra vụ ám sát tên thực dân ác ôn Bazin (17/2/1929). Nguyễn Thái Học phải ở lại Hà Nội, một mình Nhượng Thống vào Huế. Đến Huế nhằm lúc cụ Phan đi vắng. Không tiện ở lại chờ, Nhượng Thống viết một bứt thư gởi cho người nhà cụ Phan và hẹn trở lại.
Bức thư ấy là một bài thơ thất ngôn bát cú bằng Hán văn và bài thơ dịch ra Quốc âm. Tôi nhớ được bài dịch:
Tất tả đường trường dám kể công
Thành xưa ngoảnh lại giục đau lòng
Sống say chết mộng người bao kiếp
Bể đổi dâu thay đất mấy vòng
Nhục rửa sạch đâu sông lộn sóng
Uất còn chứa mãi gió gào thông
Cuối trời đâu tá coi người đẹp?
Thổn thức ngàn lau ánh nguyệt lồng.
Cụ Phan về thấy thơ vừa cảm động vừa vui mừng. Nhưng đợi mãi không thấy khách trở lại. Sau đó mới hay rằng Nhượng Tống đã bị bắt giải về Hà Nội. Cụ khóc:
- Con người có tâm huyết và tài bộ như thế này mà lọt vào nanh vút sài lang thì còn gì là tuổi trẻ!
Nhượng Tống bị đưa ra trước Hội Đồng Đế Hình và bị kết án 10 năm cấm cố đày ra Côn Lôn.
Ở Côn Lôn được tin cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại và Nguyễn Thái Học tuẫn quốc (17/6/30) cùng mười hai liệt sĩ, Nhượng Tống làm thơ khóc:
Nhục mấy trùng cao ách mấy trùng
Thương đời không lẽ đứng mà trông
Quyết quăng nghiên bút xoáy gươm súng
Đâu chịu râu mày thẹn núi sông
Người dẫu chết đi lòng vẫn sống
Việc dù hỏng nữa tội là công.
Nhớ lời di huấn cơn lâm biệt [1]
Cười khóc canh khua chén rượu nồng [2]
Lời di huấn đây là lời Đảng Trưởng dặn riêng tác giả lúc vào Huế yết kiến cụ Sào Nam năm 1929, mà cũng có thể là lời Đảng Trưởng trối cùng những người Việt Nam có tâm huyết đêm mười sáu tháng sáu năm 1930, lúc từ giã ngục thất Hỏa Lò lên xe đi Yên Bái cùng mười hai liệt sĩ:
- Chúng tôi đi trả nợ nước đây. Các anh em còn sống cứ công vào việc ấy nhé. Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu. Hoa tự do phải tưới bằng máu. Tổ Quốc còn cần đến sự hy sinh của con dân nhiều nữa, nhiều nữa. Rồi thế nào cách mạng cũng thành công. Thôi kính chào anh em ở lại.
Lời của Đảng Trưởng rỏ ràng từng câu từng chữ. Tất cả người bị giam trong các trại, thường phạm cũng như cánh trị phạm, kẻ khóc người reo hô, lời kêu gọi của Đảng Trưởng, tiếng đáp ứng của những tấm lòng thành thực, trong cơn lâm biệt nảo nùng, vang rộng khắp khu hỏa lò và vang vọng mãi trong tâm hồn người Việt Nam Yêu giống nòi yêu đất nước.
Nhượng Tống ở Côn Lôn chưa mãn hạn mười năm thì được ân xá. Đó là thủ đoạn ban ơn của Mặt Trận Bình Dân Pháp khi lên cầm quyền quốc gia (1936). Cùng với Nhượng Tống gần có trăm đảng viên Việt Quốc được phóng thích. Tất cả đều đưa về nguyên quán quản thúc thay vì phải biệt xứ năm năm. Đến năm 1941 sau khi hết hạn quản thúc, Nhượng Tống cùng các đồng chí Việt Quốc hoạt động trở lại và năm 1948 được mời ra cố vấn chánh trị cho Tổng Trấn Bắc Hà Nghiêm Xuân Thiện. Được ít lâu thì bị ám sát (20/8/1949). Thọ 45 tuổi.
Ngoài những tác phẩm đã xuất bản thượng dẫn, Nhượng Tống còn để lại một số sách dịch nữa: Đạo Đức Kinh, Sử Ký Tư Mã Thiên, Hồng Lâu Mộng… [3]
Về thơ, ngoài những bài trên đây, không thấy đăng trên sách báo, tôi được một vị lão nho đọc cho nghe ba bài HOÀI HỰU:
I.
Dứt tiếng ly ca ném chén vàng
Bồi hồi từ giã đất Tuyên Quang.
Biết tìm đâu thấy người trong mộng
Khéo não lòng thay cảnh dọc đường
Cây cỏ ba đông trời cô quốc
Nước non nghìn dặm bóng tà dương.
Xanh xanh sông nọ bao nhiêu khúc
Một khúc xa nhau một đoạn trường.
II.
Ta một phương trời bạn một phương
Đôi lòng ai dắt sợi tơ vương?
Không quen thuộc dễ thành dan díu
Có biệt ly đành phải nhớ thương
Ơn nặng chưa đền cho non nước
Tình riêng tạm gởi với văn chương
Thăm nhau muốn mượn đường trong mộng
Núi Tản sông Lô mấy dặm trường.
III.
Người bén sông Lô kẻ chợ Bờ
Nhìn nhau chẳng thấy ruột vò tơ
Chiếc thân đất khách ta buồn lắm
Giấc mộng canh trường bạn tỉnh chưa?
Lần trước đã đành ra thế ấy
Đường xa sớm liệu tự bây giờ
Mênh mông bốn mặt ai tri kỷ?!
Canh vắng đèn tàn tiếng gió mưa…
Văn chương êm đẹp, biểu thị một mối tình chân thật, thiết tha của một Kinh Kha, một Tiêu Sơn Tráng sĩ.
Không biết người trong nhớ là ai? Vì lão nho đọc cho nghe ba bài này bảo rằng đó là Nguyễn Thái Học và tác giả đã làm trong lúc vào Huế gặp cụ Sào Nam. Tôi không dám tin chắc, vì nỗi lòng buồn thương trong thơ không hợp với hoàn cảnh và con người ra đi với niềm hi vọng chứa chan, thời Đảng đang hoạt động mạnh. Có lẽ Nhượng Tống làm vào khoảng thời gian bị quản thúc hoặc khoảng thời gian hoạt động cách mạng trở lại. Và người trong nhớ ngờ rằng là một nữ đồng chí thân yêu. Vì tình của giai nhân thường làm cho văn chương thêm dịu dàng đằm thắm; ba bài này so với những bài trên thật trội hơn về mặt văn chương và sức truyền cảm.
Chú thích:
[1] Trong sách “Việt Nam Quốc Dân Đảng” của ông Hoàng Văn Đào chép: “Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt”. Trong quyển hồn thơ Đất Việt thế kỷ XX của Lam Giang chép “nhớ lời di huấn cơn lâm biệt”. Có lẽ đúng nguyên tắc nên theo.
[2] Bài này tôi chắc Nhượng Tống làm trong lúc viết quyển Nguyễn Thái Học, tức sau khi ở Côn Lôn về, chớ không phải lúc còn ở Lôn Côn như lời truyền. Vì ở Côn Lôn làm gì có rượu nồng.
[3] Dường như Nhượng Tống giao hết cho Tân Việt.
62.
Thơ và Cách Mạng đồng chủng mà không đồng tộc, đồng tánh mà không đồng tướng. |
Nói một cách khác: Nhà cách mạng là một nhà thơ, mà nhà thơ là một nhà cách mạng. Và nhà cách mạng làm thơ bằng hành động bằng thiết huyết, còn nhà thơ làm cách mạng bằng bút mặc, bằng văn chương.
Bởi vậy trong con người nhà cách mạng chân chính có sẵn chất thơ, và trong con người nhà thơ chân chính có sẵn chất cách mạng.
Cho nên khi nhà thơ ra làm cách mạng, không đến nỗi cầm kiếm bằng tay trái, và khi nhà cách mạng hứng làm thơ, không đến nỗi cầm bút bằng tay trái. Không phải luôn luôn thành công, nhưng vẫn có điểm xuất chúng.
Sào Nam và Nhượng Tống là hai nhân vật điển hình.
Còn nhiều nhân vật khác nữa, như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế, Nguyễn Khoa Huân, Mai Xuân Thưởng, Trần Cao Vân, Tiểu La Nguyễn Thành… vân vân…
Nhưng các nhà Cách mạng này đã nổi tiếng về thơ trước khi ra làm cách mạng. Có nhiều nhà bình sinh không hề ngâm vịnh mà những khi không dùng gươm súng được, phải mượn đến văn chương để giải tỏa nỗi u uất trong lòng, vẫn có nhiều câu giai tác. Như một số yếu nhân trong Việt Quốc: Phạm Tuấn Tài, Thẩm Chi, Nguyễn Thị Giang…
Lúc bị giam trong ngục thất Hỏa Lò (1929), Phạm Tuấn Tài có bài hát nói:
MƯỠU
Trông người lại gẫm đến ta
Nín đi đứt ruột nói ra nghẹn lời
Than ôi! Cũng một kiếp người
Tủi thân trâu ngựa thiệt đời thông minh!
NÓI
Trâu cày ngựa cỡi
Nghĩ thân mình thêm tủi lại thêm thương
Cũng thông minh tai mắt một phường
Người mắc ách kẻ giong cương, kỳ quái chửa?!
Thà rằng thể phách như trâu ngựa
Khổ nỗi tâm hồn khác cỏ cây!
Nhìn giang san khi quắc mắt lúc cau mày
Tưởng nông nổi đắng cay lòng tráng sỹ
Nước đời cay đắng bao nhiêu vị
Giống ương hèn càng nghĩ lại càng thương
Bảo nhau ta phải tự cường.
Và Thẩm Chi có bài Sà Lim Oán theo thể song thất Lục Bát:
Đầy ám ngục hơi sầu ảm đạm
Nát tâm bào lửa hận cháy gan
Một mình lăn lóc trên sàn
Đắng cay nước mất nhà tan thân tù!
Trong cửa kín sớm khuya chẳng biết
Ngoài đồng bào sống chết không hay
Than ôi, nông nỗi nước này
Đòi phen hồn mất máu say vì thù
Lòng héo hắt cơm bơ nước gáo
Thân võ vàng xiêm áo tả tơi
Nghiến răng muốn đập tan trời
Tủi thân nô lệ căm loài dã man
Giận cho kẻ tham vàng phụ nghĩa
Đem anh em bán rẻ cho người
Bạc đen chi mấy thói đời?!
Nước non đành để cho người chủ trương
Cơ thành bại nát gan tráng sĩ
Cuộc hưng vong ráo lệ anh hùng
Thương thay con cháu Lạc Hồng
Vì đâu cá chậu chim lồng xót xa!
Hồn tinh vệ bao giờ lấp bể?
Công dã tràng thương kẻ đồng tâm
Giọt sầu lã chã khôn cầm
Dao oan nghiệt cắt ruột tằm đòi cơn
Ngoài song sắt mưa buồn gió thảm
Bên tường nghe tiếng bạn thở than
Vì đâu nên cuộc dở dang?!
Vì đâu sẩy nghé tan đàn thảm thương!
Lòng rầu rĩ canh trường khó nhắp
Đêm năm canh thổn thức đòi cơn
Hỡi ai dạ sắt gan vàng
Cùng nhau trong hội đoạn tràng là đây.
Phạm Tuấn Tài bị cấm cố và đày ra Côn Lôn, không chịu nổi gian khổ, nên mắc bệnh lao phổi. Năm 1936 được phóng thích. Về quê được ít lâu thì tạ thế.
Còn Thẩm Chi là biệt hiệu của vị nào chưa được rõ, chỉ biết là một đảng viên trọng yếu của Việt Quốc bị bọn phản đảng tố giác:
Giận cho kẻ tham vàng phụ nghĩa
Đem anh em bán rẻ cho người
Bạc đen chi mấy thói đời
Nước non đành để cho người chủ trương!
Thi phẩm của Nguyễn Thị Giang là bức thư tuyệt mệnh.
Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị thất bại, Đảng trưởng và hầu hết các yếu nhân trong Đảng bị bắt. Nguyễn Thị Giang tránh khỏi nanh vút Thực Dân. Ngày 17 tháng 6 năm 1930, bà cùng hai đồng chí cải trang thành nông phu địa phương, lặng lẽ đến pháp trường Yên Bái, mưu phá pháp trường cứu Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ. Nhưng trước sức mạnh của thực dân, mục đích không thể đạt nổi, bà đành bấm bụng đứng nhìn cảnh thảm thương! Rồi về nhà trọ viết hai bức thư tuyệt mệnh để lại cho cha mẹ và các đồng chí còn sống sót. Sáng hôm sau đến làng Thổ Lang thăm ông cụ bà cụ Nguyễn Thái Học. Đoạn đến dưới gốc cây đề Thổ Lang chừng một cây số dùng súng lục mà quyên sinh! Hưởng dương hai mươi hai tuổi!
Bức thư tuyệt mệnh viết bằng văn xuôi. Bức thứ hai viết bằng thơ Lục Bát.
BỨC THỨ NHẤT
Thưa thầy mẹ,
Con chết là vì hoàn cảnh bó buộc con. Không báo được thù nhà rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm thân trinh bạch dân cho chồng con ở đền Hùng.
Giờ con tìm về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con.
Đứa con dâu bất hiếu kính lạy
Nguyễn Thị Giang
BỨC THỨ HAI
Anh đã là người yêu nước,
Không làm tròn được nghĩa vụ cứu quốc,
Anh giữ lấy tâm linh hồn cao cả để về chiêu binh rèn lính ở dưới suối vàng!
Phải chịu đựng nhục nhã mới mong có ngày vẻ vang. Các bạn đồng chí phải sống lại sau anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ.
Thân không giúp ích cho đời
Thù không trả được cho người tình chung
Dẫu rằng đương độ trẻ trung
Quyết vì dân chúng để lòng hy sinh
Con đường tiến bộ mông mênh
Éo le hoàn cảnh buộc mình biết bao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!!
Dẫu rằng chút phận thơ ngây
Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên…
Chết đi dạ những buồn phiền
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình
Đảng kỳ phấp phới trên thành
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
Cực lòng lỡ bước sa cơ
Chết sầu chết thảm có thừa xót xa!
Thế ru?! Đời thế ru mà!
Đời mà ai biết! Người mà ai hay!
Đây không phải là văn chương của tay hàn mặc, mà cũng như hai bài của Phạm Tuấn Tài và Thẩm Chi, là tấc lòng gởi vào thiên cổ, tấc lòng viết bằng nước mắt và máu đào, não nùng nhưng khẳng khái. Trong gió mưa sùi sụt có tiếng sắt tiếng vàng rít lên từng cơn!
Khi được tin NGUYỄN THÁI HỌC cùng mười hai liệt sĩ tuẫn quốc và NGUYỄN THỊ GIANG hy sinh theo chồng, cụ Sào Nam có những lời ký thác tâm sự: [2]
CÔ KHÓC CẬU
Thình lình một tiếng sét ngang lưng
Nuốt nghẹn tình tơ xiết nói năng
Mây mịt mù xanh trời vẫn hắc
Giọt chan chứa đỏ bể khôn bằng!
Thân vàng đành cậu liều theo cát
Dạ tuyết thôi em gởi với trăng.
May nữa duyên sau còn gặp gỡ,
Suối vàng cười nụ có ngày chăng. [3]
HỒN CẬU TRẢ LỜI
I.
Gặp mình mình lại thẹn cùng mình
Ai khiến em mà vội gặp anh?
Vẫn nghĩ hữu chung vì hữu thủy
Thôi thì đồng tử chẳng đồng sanh.
Trăm năm một bụi dâu hay bể…
Một tấm lòng son sắt với đinh.
Gió dữ mưa cuồn thây kệ nó
Dắt nhau ta tới tận thiên đình.
II.
Dắt nhau ta tới tận thiên đình
Quyết dẹp cho yên sóng bất bình .
Mặt nước em còn hồng giọt máu,
Nợ đời anh chửa trắng tay tanh.
Trăm năm thề với trời riêng đội
Bảy thước âu là mẹ chẳng sanh.
Mình hỡi mình đừng buồn bã quá
Hồn còn mạnh khỏe phách còn linh.
CHỊ KHÓC EM [4]
I.
Em ơi! Em vậy chị thì sao?!
Ghê gớm mà cùng tiếc biết bao!
Chung nợ cha sanh và mẹ dưỡng,
Rẽ đường vực thẳm với bờ cao!
Ngại ngùng gió yếu mây trơ mực,
Tức tối trời say máu úa đào!
Hồn có thiêng liêng giùm tính nhé
Mẹ già em bé nghĩ thương nao!
II.
Mẹ già em bé nghĩ thương nao!
Và nợ chồng con nặng biết bao!
Nổ đất thình lình tay vỗ kép
Nhuộm trời ghê gớm máu phun đào
Giữa trường tân khổ no cay đắng
Trước trận phong ba nổi gió trào
Chị có ngờ đâu em đặng thế
Biển ngần ấy rộng núi ngần cao.
Phan Sào Nam mượn lời người để nói lòng mình trước cái chết vừa bi vừa hùng của đôi uyên ương hào kiệt. Văn chương hoành phóng! Và nỗi căm phẩn đối với thời thế tràn ngập ra bên ngoài, nhận chìm vào bên trong niềm đau thương đối vời cảnh từ biệt. Rõ là “Hoành trung tứ ngoại”.[5]
Đó là tình riêng của Nguyễn Anh hùng và Nguyễn Nữ kiệt. Còn nghĩa chung đối với cuộc khởi nghĩa và chư liệt sĩ Việt Quốc thì cụ gởi vào những bài văn tế làm giùm cho các đoàn thể quốc gia đọc trong những buổi lễ truy điệu bí mật. Có nhiều câu hùng tráng nhưng thống thiết:
Nhân dân chí sĩ sát thân vào luật dã man;
Nữ kiệt anh hùng thất thế đang hồi đen rủi.
Trường tuyên án chị chị anh anh cười tủm tỉm, tức nỗi xuất sự vị thiệp, vai bể non gánh nặng hãy trìu trìu;
Đoạn đầu đài sau sau trước trước bước thung dung, gớm gan thị tử như qui, mặt cây cỏ máu tươi thêm chói chói
Tuy kim cổ hữu tình hình thì hữu hoại, sóng Bạc Đằng mây Tam Đảo, hơi sầu cuồn cuộn, bóng rồng thiên đành ông Học xa xôi;
Như sơn còn phách ắt còn linh, voi bà Triệu ngựa bà Trưng, khí mạnh nhơn nhơn, hình hạc gió hay cô Giang theo đuổi… Vân vân…
Thời Pháp thuộc, những văn thơ thấm đượm tinh thần dân tộc, mang nặng niềm ưu ái của các nhà chiến sỹ, các nhà cánh mạng, như những bài trích dẫn trên đây, điều bị cường quyền cấm phổ biến và tàng trữ. Cho nên bị thất lạc dần… Kế Pháp ra khỏi Việt Nam, phần đông khách làng văn làng thơ chạy theo cái hay cái mới ở nước ngoài, không lưu tâm đến di sản tinh thần của ông cha để lại, mặc cho mất mất còn còn!
Không lẽ đứng nhìn cây văn học nghìn xưa của dân tộc Việt Nam bị phong trào hướng ngoại làm úa lá khô cành rồi đi đến cảnh trốc gốc, một số người thiện tâm thiện chí đã ra công vun vén chăm nom..
Thái Bạch vừa cho ra đời tập THI VĂN QUỐC CẤM.
Lam Giang, trong tập hồn Thơ Đất Việt Thế Kỷ XX, nhiệt tình cổ xúy cho loại thơ có khuynh hướng Quốc dân Cách mạng, hầu mong khôi phục chính đáng của ngày xưa.
Công việc làm của hai ông bạn thân đáng kinh phục.
Rất tiếc không gây được ảnh hưởng sâu rộng, đó là do hoàn cảnh xã hội một phần, một phần nữa là do vì không được làng văn thơ hưởng ứng và làng báo chí ủng hộ!
Nhưng không hề gì. Mầm đã gieo rồi thì chẳng kịp thời chầy thế nào cũng đâm chồi nảy lộc. Vì tinh thần dân tộc đã ăn sâu vào cốt tủy người Việt Nam, dù cho nắng lửa mưa băng cũng không dễ gì tiêu diệt nổi. Nghìn năm đô hộ của Tàu, tám mươi năm đô hộ của Pháp, là những bằng chứng hùng hồn.
Xin mượn bài CÔ ĐẢO TRUNG của cụ Dương Đình Thưởng, một chiến sĩ cách mạng đất Quảng Nam bị đày ra Côn Lôn vì việc khất sưu năm Mậu Thân (1908), để kết luận:
Nhất trịch diêu diêu cô đảo trung
Khả liên nam bắc bệnh tương đồng
Viêm Bang văn hiến khan do tạc
Âu hóa phong triều vị tấn công
Thủy quốc đào thanh tao mộng điệp
Cố sơn vân ý luyến chinh hồng
Tạo gian mạc sái Tân đình lệ
Đa khủng Côn Lôn hải nhiễm hồng.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Hòn đảo mồ côi giữa cõi cùng
Đày ra Nam Bắc kiếp tù chung
Nước nhà văn hiến còn in cũ
Âu hóa phong trào chửa trót công.
Tiếng sóng góc trời rầy giấc điệp
Luồng mây núi cũ mến chim hồng
Thôi đừng rưới lệ Tân Đình nữa
E nhuộm Côn Lôn nước biển hồng.
Lam Giang dịch:
Trùng dương hải đảo bơ vơ
Thương nhau Nam Bắc bây giờ gặp nhau
Gốc nền văn hiến còn sâu
Duy tân hội mới buổi đầu vô công
Trong mơ sóng dội não lòng
Non côi mây quyến cánh hồng bay xa
Tân Đình giọt lệ đường sa
Chỉ e Côn Đảo phong ba nhuốm hồng.
Chú thích:
[1] Trong bài phú Chiêu Hồn, Tống Ngọc tả giai nhân rất kiều diễm và rất tỉ mỉ. Tuyệt thế giai nhân tượng trưng cho cái Đẹp hoàn toàn (Perfection).
[2] Muốn rõ những sự kiện lịch sử về V.N.Q.D.Đ., những tiểu sử của các anh hùng liệt nữ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái chống thực dân Pháp năm 1930, xin xem V.N.Q.D.Đ. Của Việt Dân Hoàng Văn Đào là người ở trong cuộc sống còn sót.
[3] Cô và Cậu đây là trở Nguyễn Thị Giang và Nguyễn Thái Học.
[4] Chị đây là Cô Bắc và em là Cô Giang.
[5] Trích trong bài cụ soạn cho anh em thanh niên Huế. Cụ còn nhiều hoài văn tế mà các nhà sách đã sao lục: văn tế cô Giang, văn tế đồng bào Bắc Việt bị liên can vào việc dung túng các nhà anh hùng của Việt quốc…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét