Hương vườn cũ 12
60.
Ông bạn họ trần ở Quảng Ngãi tản cư vào Nha Trang, những khi có điều buồn bã thường uống rượu, vỗ vế ngâm bài HỒ TRƯỜNG của Nguyễn Bá Trác: |
Đại trượng phu đã không hay xé gan bẻ cật [1] phò cương thường,
Sao lại tiêu giao bốn bể luân lạc tha phương?
Trời nam nghìn dặm thẳm,
Mây nước một màu sương!
Công chưa thành danh chưa đạt [2]
Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc!
Trăm năm thân thế bóng tà dương!
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi:
Trời đất mang mang ai người tri kỷ?
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót vào đâu?
Rót về Đông phương?
Nước biển Đông chảy xiết sanh cuồn lan! [3]
Rót về Tây phương?
Mưa Tây Sơn từng trận chứa chan!
Rót về Bắc phương?
Ngọn bắc phong vi vút đá chạy cát tuông! [4]
Rót về Nam phương?
Trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồn!
Nào ai tỉnh? Nào ai say?
Chí ta ta biết, lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ,
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây!
Một giáo sư hưu trí đến chơi, nghe ông bạn ngâm, hỏi tác giả là ai. Đáp là của Nguyễn Bá Trác. Nhà giáo phừng phừng nổi giận:
- Anh đọc làm gì văn chương của tên lừa thầy phản bạn? Sĩ phu tỉnh Quảng Nam tôi đến cái tên của hắn cũng không muốn nhắc. Nhắc dơ miệng.
- Người xưa dạy “Không nên vì người dở mà bỏ lời nói hay”. Lời nói hay còn không nỡ bỏ huống hồ bài thơ hay.
Nhà giáo đứng dậy:
- Anh nói thế, tôi xin cáo.
Rồi giận dỗi bỏ đi.
Đó là cái giận nghĩa khí.
Bởi vì:
NGUYỄN BÁ TRÁC, người Quảng Nam, đậu cử nhân, trước kia theo cụ Sào Nam xuất ngoại. Sau trở về đầu thú, được thực dân Pháp miễn tội, cùng Phạm Quỳnh chủ trương tờ Nam Phong. Được ít lâu nhờ tố giác một số đồng chí cũ, (trong đó có Đặng Văn Phương tức Đặng Đình Thanh ở Cần Thơ, người đã từng du học ở Đông Kinh) Trác được bổ đi làm quan Nam Triều.
Lúc ngồi Bố Chánh Bình Định có người gởi tặng câu đối:
“Sóng Âu hải tràn ngang, tràn Hương Cảng, tràn Hoành Tân, tràn Mã Lịp Nhĩ Sơn, coi như tuồn dạ sắt gan đồng, một mực giữ gìn dân với nước;
Gió Nam phong thổi ngược, thổi Hường lô, thổi Binh bộ, thổi Bàn Thành cụ Bố, quen những thói vào luồn ra cúi, đôi đường chen chúc lợi và danh”.
Rồi được thăng Tuần Vũ Quãng Ngãi. Một hôm gặp một người quen cũ là Phan Đình Long bị giam vì tình nghi âm mưu xúi dân làm loạn, Trác cho mời lên tư dinh. Sau một vài câu chuyện đầu môi, hỏi:
- Nằm buồn chắc anh Long làm nhiều thơ lắm? Có bài nào hay đọc cho nghe với.
- Bẩm cụ lớn, cũng có làm được một ít, song sợ làm rầy tai cụ lớn.
- Đừng khách sáo. Đọc đi.
- Dạ, xin đọc bài “Bà Vãi Vào Lầu Xanh”, tôi ngắm được hơn hết.
Rồi không đợi Trác giục liền đọc:
Cửa thiền tiêu mỏ chán rồi a?
Trông đám bình khang thẳng bước ra
Vất chuỗi bồ đề nương bóng nguyệt
Soi gương trí tuệ điểm màu hoa.
Vuông tròn quả phúc tu chưa chín
Chay mặn duyên trần kiếp lộn ba!
Cho biết mùi đời hay cám dỗ
Khôn ngoan khi trẻ dại khi già.
Phan Đình Long là một nho sĩ có tinh thần cách mạng quốc gia, bị Chánh quyền địa phương theo dõi. Họ Phan bỏ vào Nam. Sống yên ổn được sáu năm, đến năm 1930, trong Nam có rải truyền đơn hô hào chống Pháp, họ Phan bị tình nghi là thủ phạm. Tòa Sài Gòn kêu án sáu tháng, mãn hạn bị giao hồi nguyên quán. Về Quảng Ngãi được hai tháng, thì ở Quảng Ngãi có rải truyền đơn, họ Phan bị tình nghi nên chánh quyền địa phương bắt giải tỉnh. Nguyễn Bá Trác xét thấy không có bằng cớ để buộc tội, nên có ý ban ơn. Nhưng bị bài thơ chỉ trích, bèn làm án đến hai năm tù để rửa hận!! Họ Phan thản nhiên ngâm:
Cách xứ sáu năm tù sáu tháng
Về nhà hai tháng án hai năm.
Ở Quảng Ngãi nhờ đàn áp Cách Mạng mà được thăng Tổng Đốc Thanh Hóa. Đến Thanh Hóa mở tiệc đãi các nhà tai mặt tại tư dinh, một vị phó bản tặng cho mấy câu kiểu lẩy:
Kể từ lạc bước bước ra
Một là đắc hiếu hai là đắc trung
Giang hồ quen thú vẫy vùng
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa!
Nếu thiên lương chưa bị mất hẳn thì chắc Nguyễn Bá Trác phải hổ thẹn và sợ hãi khi nghĩ đến hành vi gian ác của mình mà những văn thơ ghi chép lại cho hậu thế.
NGUYỄN BÁ TRÁC vốn là người có văn học văn tài. Những bài viết đăng ở Nam Phong Tạp Chí phần nhiều được hàn thức giả để ý và có một số được trích vào sách giáo khoa.
Bài Hồ Trường trước kia cũng rất được nhiều người yêu thơ tán thưởng, vì văn chương lâm ly bi tráng, diễn tả nỗi buồn mênh mông của những người đeo chí lớn, nơi tha phương trông về cố quốc, ưu tư vò xé phải mượn rượu làm khuây.
Nhưng từ khi tác giả khuất tấc sự thù thì không ai thèm đọc đến nữa. Cho nên khúc ngâm mặc dù có giá trị mà hơn nữa thế kỷ nay, bặt tăm bặt tiếng trên đàn thơ.
Gần đây chẳng những một mình ông bạn họ trần đem ra ngâm ngợi, mà nhiều người bất mãn về thời cuộc cũng thường mượn làm tiếng lòng những khi đốc chước. Và đã một vài quyển sách lục đăng, như CHƠI CHỮ của Lãng Nhân và HỒN THƠ ĐẤT VIỆT của Lam Giang.
Như thế là công bình. Vì tác giả có tội cùng nhân dân Tổ Quốc chớ văn chương có tội tình gì?
Có người nói:
- Văn chương là tấc lòng thiên cổ. Nhưng văn ở đây và người kia trái ngược nhau như trắng với đen. Lối văn không đau mà rên, giá trị gì mà truyền tụng?
Xin thưa:
- Sông có khúc người có lúc. Nguyễn Bá Trác lúc theo cụ Sào Nam ở Hải Ngoại và Nguyễn Bá Trác ra làm quan cùng thực dân Pháp, là hai khúc sông trong đục khác hẳn nhau. Mà bài Hồ Trường là nỗi lòng khi chưa ngấm mùi danh lợi. Bởi lòng có thể dối được với nhân thế mà không thể dối được với văn chương. Vì sao vậy vì văn chương phản chiếu tâm sự. Trừ khi tấm gương phản phúc tức văn chương không thành văn chương, thì tâm sự mới bị lệch lạc. Mà bài Hồ Trường văn chương chân thực, không có chút giả tạo, nên đáng tin rằng lòng của Nguyễn Bá Trác lúc còn ở Hải Ngoại chưa bị bùn danh lợi làm vẩn nhơ. Ít ra lúc làm bài Hồ Trường, lòng Nguyễn Bá Trác lắng hết bùn danh lợi xuống dưới đáy sâu, nên văn chương mới được thanh tao thế ấy. Đó là mảnh gương phản chiếu khúc sông trong của khoảng đời tha phương của Nguyễn Bá Trác.
Bạch Cư Dị có bài thơ luận về và Vương Mãn:
Châu Công khủng cụ lưu ngôn nhật [5]
Vương Mãn khiêm cung hạ sĩ thì [6]
Nhược sử đương thời thân tảo tử
Lương nhân chân ngụy hữu thùy tri.
Đại ý nói rằng: Nếu trong những ngày ông Châu Công rung sợ vì dèm pha, trong những lúc Vương Mãn hạ mình chiều chuộng kẻ sĩ, trong thời buổi ấy mà cả hai chết đi, thì người đời sau ai biết được người nào là chân kẻ nào là ngụy.
Vậy, ví phỏng Nguyễn Bá Trác chết sớm nơi tha phương, hoặc không có dịp về đầu thú, thì khi nhà viết sử viết về phong trào Đông Du làm thế nào lại không điểm một điểm soi nho nhỏ nơi tên tuổi.
Và nếu Nguyễn Bá Trác không có bài Hồ Trường để lại hậu thế, thì những hành vi xấu xa kia ngày một ngày hai sẽ được thời gian chôn sâu vào lãng quên như bao ngàn kẻ phản dân phản nước vô danh tiểu tốt khác. Bài Hồ Trường lưu thế, hễ đọc đến thì làm sao khỏi nhớ đến kẻ đã làm ra. Mà nhớ đến kẻ đã làm ra thì sao quên được những thành tích bất hảo.
Cho nên bai Hồ Trường được ghi chép được nhắc nhở, thì có lợi cho văn chương mà lại có hại cho tác giả.
Nhưng ở đời không lưu phương thì lưu xú, mà Nguyễn Bá Trác lưu cả hai thì thật là lời to vậy.
Chú thích:
[1] Trong sách CHƠI CHỮ của Lãng Nhân chép là “bẻ cột” và dùng điển Chu Vân, một trung thần đời Hán Thành Đế, mà giải thích. Trong sách HỒN THƠ ĐẤT VIỆT CỦA Lam Giang chép là “bẻ cật” như lời nghe truyền ở Trung Việt.
[2] Lãng nhân chép “Học không thành công không lập”. Lãm Giang chép “chí thành danh chưa đạt”.
[3] Lãng nhân chép “Cuồn lạn”. L.G. chép “cuồng loạn” . Cuồng lan: sóng cuồng vần với “chứa chan” ở câu dưới.
[4] Lam Giang chép “Cát bay”, không ăn với vần “Cuồng” ở câu tiếp. Lãng Nhân chép “cát dương”. Tuông = tung. Bài Hồ Trường trên đây là bản dịch (tác giả tự dịch bài chữ Hán dịch nguyên điệu)
Vì bài thơ truyền miệng nên có nhiều chỗ sai thù.
[5] Châu Công là vua chúa Thành Vương. Vua Thành Vương lên ngôi còn nhỏ tuổi. Quản Thúc Tiên và Thài Thúc Đạt nói dèm sự hiện diện của Châu Công bất lợi cho vua trẻ. Châu Công nghe nói rất lo sợ vì không một ai biết rõ can tràn.
[6] Vương Mãn có ý muốn chiếm ngôi nhà Hán. Lo chiêu hiền đãi sỹ, không ai ngờ Vương Mãn có dã tâm.
Nếu hai người ấy chết trong lúc chưa thi thố được tài năng chưa để lộ chân tướng, thì ai biết được ngụy chân.
63.Đất Cựu Thần Kinh Huế là trung tâm điểm của nền văn học miền Trung. Xưa nay sản xuất nhiều thi sỹ tài ba bên quốc âm cũng như bên Hán tự. |
Ngoài những vị đã nổi tiếng khắp Bắc Nam, như Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương, Tương An Quận Vương, Lại Đức Công Chúa, Ưng Bình Thúc Giạ Thị…, còn Mộng Phật Tôn Thất Diệm, Tam Xuyên Tôn Thất Mỹ…, mà một số giai tác đã được truyền xa, và nhiều vị khác thì tài cao thi học rộng, nhưng chỉ nổi danh ở Huế và trong năm ba tỉnh miền Trung. Như:
- Vân Bình Tôn Thất Lương,
- Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn, [1]
- Đạm Phương Công Nữ Đồng Canh,
- Thảo Am Nguyễn Khoa Vi,
- Mộng Si Nguyễn Thuyết… vân vân….
Lại có nhiều thi nhân di cư vào Nam từ thời Duy Tân Thành Thái, văn chương thân thế được người Miền Nam biết nhiều hơn người miền trung, như:
- Huỳnh Quỳnh Viên,
- Thượng Tân Thị… vân vân...
Trong các chương trước tôi đã giới thiệu một ít thi phẩm cả các danh sĩ Hương Bình, ở đây tôi xin tiếp tục:
A- Vân Bình TÔN THẤT LƯƠNG, một lớp tuổi cùng Tản Đà. Giỏi Văn Hán, thông Tây Học. Đã cùng cộng tác cùng tạp chí Nam Phong, Trung Bắc Tân Văn, Lục Tỉnh Tân Văn và nhiều tạp chí văn học khác. Và đã từng dạy trường Uyên Bác tức trường Hậu bổ của Nam triều trước kia, trường Quốc Học và Nữ Trung Học Đồng Khánh Huế trong khoảng mấy năm trước Hiệp Định Genève. Tiên sinh mất năm 1951, thọ 65 tuổi.
Tiên sinh là một thi sỹ tài ba. Làm thơ rất nhanh. Trong những cuộc xướng thù, tiên sinh thường áp đảo thi hữu. Nhưng làm rồi là rồi, không mấy khi ghi chép lại. Năm 1930 tôi được gần gũi Tiên Sinh, nên còn nhớ một ít: [2]
- Con én chít chiu lầu tía lạnh
Ngàn dương tha thước bóng vàng xiêu.
- Cung quế xa treo gương vằn vặc,
Tranh tình khéo vẽ nét chi chi?
- Trăng lồng vẻ ngọc đêm mười sáu
Trà đượm mùi hương nước thứ hai.
- Cơm mắm mà ngon vì đói bạn,
Thơ rơm cũng hứng bởi ngây tình.
- Góc biển trông trăng mờ mặt sóng,
Lưng trời lắng nhạn quạnh hơi thu.
Tôi không thuộc được toàn thiên là vì thơ của Tiên sinh phần nhiều là thơ thù tạc, tôi không thích. Còn những bài thật thơ, văn chương lại không đều, cạnh những câu hay thường chen những câu làm cho đủ vai vế. Khuyết điểm ấy có lại thêm những khách xướng họa cùng Tiên sinh đều mắc phải bệnh ưa khen ghét chê. Cho nên Tiên sinh chỉ thấy ưu mà không thấy khuyết. [3]
Nhưng đó là về thơ Đường luật.
Đối với thơ Cổ phong, Tiên sinh lại rất thận trọng. Không bao giờ Tiên sinh nắm bút viết, mở miệng đọc, một cách dễ dải hay khinh xuất như thường khi làm thơ Luật, mà luôn luôn lập ý, bố cục, dụng tự, tu từ, một cách công phu.
Xuất sắc nhất là bài Hương Giang Hành, và bốn bài về Lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, mà Tiên sinh hợp lại thành tập nhan đề là CUNG CHIÊM TÔN LĂNG.
Tập này, năm 1942 cụ định cho xuất bản. Phạm Quỳnh viết tựa cho tập, không tiếc lời tán dương:
“… Tôi đọc kỹ bốn bài thi trường thiên cổ thể, vẫn thấy lời lẽ thanh tao, cốt cách phong nhã như thi văn hồi trước, mà cái hồn thơ cố hữu thời lại dường như dạt dào lai láng hơn xưa nhiều.
Âu cũng là hoàn cảnh khiến nên như thế chăng?
Tả cảnh đã khéo mà tả tình lại hay.
Tả cảnh thời như:
Bông sen nghiêng ngửa dặm trì đường
Khóm trúc bơ sờ bóng tịch dương.
Hay là:
Dân hương đầu bạc bốn năm cô
Quét lá áo xanh ba bốn chú.
Rõ ra cái cảnh hiu quạnh chốn Tôn Lăng ngày nay.
Nhưng tả tình lại còn cảm động hơn nhiều.
Như đứng trước Hiếu Lăng, mượn lời thiếu nữ trong mộng thuật chuyện tang thương mà nói rằng:
Em buồn em kể chuyện tang thương
Bao nỗi tang thương bấy đoạn trường
Chín khúc héo hon biết ai tỏ?
Dường quyên gào nguyệt dế ngâm sương.
Thời ai đọc mà cầm lòng cho đặng.
Còn cái cảm giác của khách cung chiêm mà tóm tắt lại hai câu như sau:
Gẫm thân quỳ hoặc chiều xuân muộn
Theo bóng tà dương luống ngậm ngùi
Thật là vô cùng cảm khái!…
Tác giả thật không phụ tiếng phong nhã tài hoa mà vẫn giốc lòng tôn thân ưu ái vậy”.
Không chút quá lời. Song Phạm Quỳnh chỉ khen phớt qua đôi nét, chớ không nói đến cái hay cái khéo của từng bài, cũng không nói rõ chỗ sở trường của tác giả.
Bốn bài Cung Chiêm Tôn Lăng, mỗi bài một thể văn khác hẳn nhau tuy cùng một thể trường thiên cổ phong. Và mỗi bài có một cốt cách riêng, một sắc thái riêng và một khí vị riêng. Từ xưa đến nay, trong làng thơ Quốc âm, tôi chưa gặp bài cổ phong nào có thể sánh với những bài trong Cung Chiêm Tôn Lăng.
Rất tiếc tập thơ còn nằm mãi trong bản thảo, vì không đủ khả năng tài chánh nên ý định xuất bản của Vân Bình Tiên sinh không thể thực hành [4]! Đọc thơ cổ phong trường thiên cũng như nghe nhạc hợp tấu. Không thể đọc từng liên như đọc thơ Đường Luật. Phải đọc toàn thiên hoặc ít ra cũng từng đoạn kia, câu này ăn nhịp với câu nọ, ý trên dòm xuống ý dưới, ý dưới níu lấy ý trên, hô ứng phục khởi liền nhau, cắt ra thì phải dứt mạch lạc. Cũng như trong bản nhạc hợp tấu mà nghe trống riêng, nghe kèn riêng, nghe đàn sáo riêng…, thì, tài mỗi nhạc công dù cao đến đâu, cũng không thích thú bằng nghe tấu chung một lượt.
Nhưng hai liên tả cảnh Hiếu Lăng mà Phạm Quỳnh trích dẫn nơi bài tựa, đọc riêng từng liên đâu có ý vị bằng đọc chung cả đoạn:...
Sân chầu, đình bia, tấm điện giữa,
Một hồ bán nguyệt vòng bao quanh.
Hồ thông với nước Hương Giang mát,
Nước hồ thấm mát cảnh thêm xinh:
Nơi nơi bồn hoa sen chậu cảnh,
Mày liễu má đào chen ghen khóe hạnh.
Giữa cảnh sum nghiêm có thấy ai!
Thấy mình hoa thắm thắm rồi phai…,
Mấy chòm mây trắng tan rồi tụ…
Thấy đứng quanh hồ chòm liễu rũ,
Dân hương đầu bạc bốn năm cô,
Quét lá áo xanh ba bốn chú!
Mấy cô đầu bạc đó là các cung phi mỹ nữ của tiên triều còn sống sót, mấy chú áo xanh đó là phạm nhân đến quét dọn mỗi ngày. Đặt những người này bên cảnh đẹp đẽ kia, đó là một cách minh ám đối chiếu (contraste d’ombre et de lumière) làm nổi bật không khí đìu hiu lạnh lẽo, làm đậm nét cái cảnh tượng không hoang phế nhưng bẽ bàng.
Nếu nhìn cảnh riêng người riêng, thì người không đến nỗi cô đơn quạnh quẽ, vì bốn năm cô ba bốn chú dù không thân nhau nhưng vẫn có nhau. Còn cảnh thì hồ luôn luôn trong mát, đào hạnh luôn luôn thắm tươi, liễu có vì sương móc mà tủi sầu cũng không nên võ vàng ủ rũ, nếu không có áo xanh đầu bạc đem phong trần vào làm hoen ố sắc hương.
Nhưng nếu không có áo xanh đầu bạc thì lấy ai để nói giùm nỗi lòng của tác giả trước cảnh buồn bả của Hiếu Lăng? Đó là mượn cảnh để tả tình, mà cảnh là khung và tranh biểu tình là nhân vật.
Phạm Quỳnh trích hai câu “đầu bạc… áo xanh” ra để khen, như thế là đã nhìn thấy đôi mắt u buồn của Bao Tự mỹ nhân. Nhưng vì đôi mắt bị đem ra khỏi khuôn mặt mỹ miều, nên nét u buồn kém vẻ sâu xa thấm thía. Nếu không đưa về vị trí cũ, thì người ngoài có thể ngờ chỉ là đôi mắt của một thôn nữ có duyên.
Tiếp theo đoạn trên là đoạn có hai câu “… Trì đường… Tịch dương”:
Kể chi cảnh quạnh lắm dông dài
Thấm ướt khăng hồng lệ láng lai.
Hãy kể muôn dân thấm Văn đức,
Thảo Muội xưa từng phục võ oai.
Võ oai văn đức xưa lừng lẫy,
Kính thiên pháp tổ nay còn thấy:
Còn tòa Thế Miếu vẻ nguy nga,
Còn pho Nhất Thống Đại Nam ta,
Lễ, văn, chế độ thành qui củ,
Nối nghiệp Trung Hưng của nước nhà.
Nước nhà còn đây lăng tẩm đó
Còn sen nghiêng ngửa dặm trì đường,
Tùng trúc bơ sờ bóng tịch dương,
Rừng gấm chiều về chim điểm phấn,
Gành là sớm lẫn cá tìm hương.
Đoạn trên tả phong cảnh Hiếu lăng, đoạn này kể những đức sáng tạo từ và lễ văn chế độ đời vua Minh Mạng, đồng thời nói rõ mối cảm tình ràng buộc trong lòng tác giả tự lâu nay.
Trong đoạn trên tác giả gián tiếp tỏ tình mình, tình đối với cảnh và núp trong lòng cảnh. Trong đoạn này tác giả trực tiếp tỏ tình mình, tình đối với người và lan tràn trên cảnh khiến cảnh nhuộm đầy sắc thái của tâm.
Đoạn trên là tình trong cảnh. Đoạn dưới là cảnh trong tình. Cắt rời hai câu “Áo xanh đầu bạc” là cắt rời đôi mắt. Cắt rời hai câu “Trì đường Tịch dương” là cắt rời đôi môi. Mắt cắt rời còn sáng. Môi cắt rời hết tươi; chẳng những hết tươi mà đôi môi còn bị biến dạng, dù có sửa lại tý đỉnh cho cân, thoa chút ít son cho thắm [5] cũng không thể làm nghiêng nước nghiêng thành khách tình si.
Đó là chỗ sơ xuất của người trích thơ. Sơ xuất hay không nhận thức rõ mạch lạc của đoạn văn bạt tụy.
Xin trích dẫn đôi đoạn:
Cỏ thơm có giống thạch xương bồ
Sanh ở hai nguồn Tả Hữu trạch.
Hương thơm dầm nước nước trong veo
Hợp thành sông hẹp vài muôn sải,
Thấm mát ruộng vườn gành với bãi.
Êm dằm theo dọc tỉnh Thừa Thiên,
Chạy về Thuận An ra Đông Hải...
Nhìn quanh lại thấy am Gia Hội,
Bến cũ cây đa còn một cội.
Hai cồn Khinh Thành và Dã Viên
Xa gần điểm chuyết cảnh thiên nhiên.
Dọc bờ lâu đài xen hoa cỏ,
Mặt nước đình tạ lẫn ghe thuyền.
Kỳ quan một bức khen ai nhĩ!
Ngờ đảo Bồng Lai vùng Nhược Thủy.
Phải chăng tiên cảnh ở nhân hoàn?
Đoái cảnh sao mình luống thở than!
Thử trải tình này trên mặt nước
Sông dài đăng đẵng tứ mang mang…
Phong lưu mới mẻ ngày thúc giục,
Náo nhiệt phiền ba lần tiếp tục,
Bụi hồng mờ mịt bóng dương quang
Phủ đầy mặt nước nước lờ dục.
Bụi hồng nước đục suốt đêm ngày,
Mà lòng chẳng nhiễm có ai hay!
Tiêu dao riêng giữ mình trong sạch,
Văn chương cổ nhã. Bài thơ chia làm nhiều đoạn, mỗi đoạn là một khúc sông, chia mà nối, nối mà chia, phân minh nhưng liên tục.
Làm thơ Trường thiên Cổ thể rất khó. Khó ở điểm chuyển mạch, dọn ý, sửa lời. Lời phải cho gọn, ý phải cho tròn, mạch phải cho liền, thì bài thơ mới cùng với tứ thơ lời thơ gây được sức lôi cuốn lòng người đọc vui thích đọc trọn bài thơ, để rối nghiền rồi ngẫm ngõ hầu tìm cho thấy chân diện mục của người thơ.
Những bài cổ phong của Vân Bình tiên sinh mà tôi được hân hạnh đọc, đều gồm đủ những yếu tố cần thiết đó. Dựa trên những bài đó (bốn bài Cung Chiêm Tôn Lăng và một bài Hương Giang Hành) tôi mạnh dạn nói rằng tiên sinh đã thành công về thể trường thiên cổ phong vậy.
B- Năm Ất dậu (1954) Nhật lật đổ Pháp và giao quyền bính trong nước lại cho người Việt Nam.
Ở Huế các sĩ phu tổ chức lễ truy điệu các nghĩa sĩ cách mệnh, các chí sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc và các chiến sĩ trận vong trong cuộc vận động giành độc lập 1945. Ban Tổ Chức buổi lễ đến nhờ Vân Bình tiên sinh soạn giùm một bài văn tế. Tiên sinh nói:
- Đủ sức làm chỉ có Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn.
Rồi thân hành đi tìm Hoài tiên sinh.
Tôi nhắc lại việc này để bạn đọc biết qua thái độ của những nhà thơ thuộc phái cổ: Biết mình biết người, tự trọng chớ không tự phụ tự đại. Và cũng để giới thiệu học lực và tài năng của Hoài Nam tiên sinh trước khi nói đến văn chương sự nghiệp của tiên sinh.
HOÀI NAM nhỏ tuổi thua VÂN BÌNH trên một giáp và mất trước Vân Bình bốn năm (1900 - 1847) thọ 48 tuổi.
Tiên sinh học rộng, khí hùng, tánh lại ngang tàng khẳng khái. Sống nơi Cựu Thần Kinh là nơi lắm quan, mà tiên sinh lại khinh thị giới quan trường, cho nên suốt đời sống trong cảnh nghèo túng. Lắm lúc thiếu cơm thiếu áo, song nhất thiết không ngã lòng theo bọn giàu sang. Trong một xã hội, ai nấy đều bôn xu danh lợi, Tiên sinh trở thành một quái tượng. Kẻ thì gọi Tiên sinh là cuồng, người gọi tiên sinh là ngông. Nhưng Tiên sinh chẳng giới ý. Không có ai làm bạn, Tiên sinh vui với văn chương.
Tiên sinh sáng tác rất nhiều, và xuất bản tập thơ TIẾNG CUỐC CANH KHUYA (1937), có nhiều bài mang nặng tình đất nước, nhiều bài phản ảnh tình trạng xã hội lúc bấy giờ.
Tập TIẾNG CUỐC CANH KHUYA ra đời nhằm lúc phong trào thơ mới lên, nên bị chìm trong tiếng sóng gió ồ ạt. Thêm nữa văn chương của Tiên sinh cũng như các cụ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Huỳnh Thúc Kháng…, có phần khô khan, nên ít người thích. Ví dụ:
TỰ TRÀO
Có bệnh chi mà tớ muốn điên
Chẳng ham quan tước chẳng ham tiền
Trăm khôn e mắc trăm đường mệt
Một dại là xong một chuyện phiền
Rắn rít gớm ghê lòng độc địa
Rồng mây trối kệ chuyện huyên thuyên
Người đời cười tớ là điên thật
Tớ lại cười ai giả thánh hiền.
E khi tớ thật là điên
Chẳng điên sao lại không tiền không quan
Nực cười cho khách trần gian
Có tiền, tiền mọi, có quan, quan lòn.
HẢI VÂN QUAN
Trăm năm hai sông núi vẫn còn đây
Đệ nhất Hùng quan chính chỗ này
Ngựa bể đua chen dàn trận sóng
Cờ non phất phới kéo hàng mây
Lũy thành đã mỏi quay đầu Bắc
Hoa cỏ dường như ngã bóng Tây
Dâu bể dạ tràng nào có biết
Hoài công xe cát bấy nhiêu ngày!
CẢM TÁC
Sấm thét mưa dồn cát bụi bay
Thanh bình riêng một cõi Nam này
Non sông đất cũ vừng trăng mới
Hoa cỏ trời xuân ngọn gió tây.
Hớn hở chim lồng ganh cá chậu
Nghênh ngang ngựa cỡi nhạo trâu cày
Bực mình muốn đánh tan cơn mộng
Một tỉnh mà mười vẫn cứ say.
Lời thơ già dặn, luật thơ nghiêm chỉnh, nhưng thiếu sắc thiếu thanh, nên có ý mà không có vị, có cách mà không có thú. Do đó không cảm được lòng người, không thấm sâu vào lòng người, khiến đọc rồi lại không còn nhớ.
Hầu hết thơ của tiên sinh đều thế cả. Cho nên không được truyền tụng, chẳng những vì thời thượng mà còn vì không đủ sức hấp dẫn lòng khách yêu thơ.
Tiên sinh làm thơ nhiều mà dịch thơ cũng nhiều. Vì dịch cũng như làm, tiên sinh không dùng nhiều công sức. Được nhiều người biết là bài Tiên sinh dịch bài Thăng Long Thành Hoài Cổ của vua Thành Thái:
Kỷ độ tang thương kỷ độ kinh
Nhất phiên hồi thủ nhất phiên tình
Ngưu hồ dĩ biến tam triều cuộc
Nùng lĩnh phù vân kim cổ sắc
Nhĩ hà lưu thủy khốc ca thanh
Cầm Hồ đoạt sáo nhân hà tại
Ứng vị giang san tẩy bất bình.
Dịch:
Biển dâu dời đổi trải bao nhiêu
Ngoảnh lại càng đau ruột chín chiều
Bến cũ ba chiều trâu mập lấm
Lũy xưa trăm trận cọp nằm queo
Bức tranh mới cũ mây Nùng chấm
Khúc nhạc vui buồn nước Nhị reo
Hàm Tử Chương Dương còn đó đó
Non sông nở để bụi trần đeo!
Bài dịch lột đước ý nghĩa của bài nguyên. Song đọc bài nguyên lòng rung cảm hơn bài dịch. Đó là do bài nguyên thanh vân trường, còn bài dịch âm hưởng đoản. Bài nguyên là tiếng trúc tiếng tơ, bài dịch là tiếng săn tiếng đá. Tức là văn chương bài dịch, nhất là về âm điệu, kém thua bài nguyên cho nên sức truyền cảm cũng sút kém, sức quyến rũ không được dồi dào.
Thơ dịch ngoài sự tôn trọng nội dung của nguyên văn, giá trị nằm trọn nơi hình thức. Hình ảnh và âm hưởng của tư liệu, nhịp nhàng uyển chuyển của tiết tấu là điều kiện quyết định của thành công.
Người dịch thơ chỉ khỏe hơn người làm thơ ở điểm khỏi lập ngôn khỏi cấu ý, khỏi bố cục. Nhưng khổ hơn ở điểm phải ép mình theo nội dung của nguyên văn, ngọn bút không được tự do vùng vẩy. Như thế là huề về mặc tình ý. Còn về mặt kỹ thuật thì sáng tác hay phiên dịch đều không khác chi nhau.
VERLAINE, một trong những nhà thơ Tượng trưng Pháp, chủ trương “âm nhạc trước hết” (De la musique avant toute chose), VƯƠNG SĨ TRINH đời Thanh chủ trương “thần vận”, đều là những thi hào đứng đầu những trường phái lớn Á Âu.
Xem đó đủ thấy thơ thiếu âm nhạc là thiếu rất nhiều. Và cổ nhân gọi thơ thiếu âm nhạc là “hữu thanh vô vận”, là “ngõa phẩu” [12].
Thanh, Sắc, Vị là ba yếu tố cần thiết của Thơ. Phải đủ cả ba mới gọi là thơ hay. Nếu rủi phải thiếu một thì nên thiếu Sắc.
Thơ Hoài Nam phần nhiều thiếu thanh. Sắc nhiều khi cũng không được diễm lệ. Do đó mà bị khô khan. Khô khan chớ không phải là thanh đạm [13].
Không phải tại thi tài kém, mà chính tại tánh tình. Tiên sinh sống về lý trí nhiều hơn về tình cảm. Tánh Tiên sinh lại trực bức chớ không uyển chuyển. Mà thơ là người. Cho nên thơ Tiên sinh trực chớ không khúc, táo chớ không nùng.
Trường hợp của Hoài Nam Tiên sinh cho chúng ta thấy rằng tánh tình có ảnh hưởng chẳng những nơi nội dung của thơ mà cả trên hình thức. Cho nên người làm thơ muốn thơ mình được như thế này hay thế kia thì trước hết phải lo tu dưỡng tâm tánh.
C- Đạm Phương Nữ sĩ lớn hơn Hoài Nam tiên sinh gần một giáp và mất trước một năm (1946). Thọ 67 tuổi.
Thơ Đạm Phương đồng một tánh chất với thơ Hoài Nam. Lời trực, vị khô. Nhưng về mặt kỹ thuật, thơ Đạm Phương không lão luyện bằng thơ Hoài Nam.
Xin trích một bài làm mẫu:
VỊNH MỴ Ê
Ơn vua nợ nước trả cho xong
Dám tiếc làm chi mảnh má hồng
Sau trước vẫn cam thề sống thác
Mất còn nỡ để thẹn non sông
Mây sầu lớp lớp bay về Bắc
Sóng thảm rùng rùng cuộn xuống đông
Đợi phải chiếu rồng ban triệu đến
Đã đành trọn tiết với Vương Công.
Thơ nữ sử thường đăng ở các báo chí Trung, Nam, Bắc. Song người đời biết nữ sử về xã hội, chánh trị hơn văn chương. nhưng thời Pháp thuộc ở Trung Việt phía nữ giới chỉ có Đạm Phương nữ sử nổi danh trong làng thơ, quốc âm. Cho nên nói đến thơ thời Pháp thuộc ở Thần Kinh mà không đề cập đến nữ sử là phiến diện.
D- Thảo Am Nguyễn Khoa VI lớn tuổi hơn Vân Bình Tôn Thất Lương và cũng như Vân Bình thông được hai thứ chữ Hán và Pháp.
Thơ Tình, Thơ Cảnh, Vịnh Sử, Vịnh Vật, tiên sinh đều có, song không suất sắc bằng lối chơi chữ:
ĐỜI NGƯỜI
Vân cẩu tranh treo đó đó tề
Đời người gẫm thật chóng già ghê!
Khi nào chơi được vui khi nấy
Bữa nọ ăn rồi đến bữa tê.
Sự nghiệp chỉ vài ba bát gạo
Công danh chưa chín một nồi kê.
Ai giàu của có trăm ngàn vạn
Cũng chẳng mang theo lúc trở về.
Những bài khác đại khái cũng xuôi xuôi như thế cả. Sắc lợt vị lợt, không đủ sức cầm giữ lòng người khi đọc xong.
Thơ Thảo Am và Thơ Hoài Nam cách điệu hơi giống nhau, nhưng tính chất khác hẳn nhau.
Hoài Nam là con người có hoài bão lớn, nhưng không gặp thời, không gặp tri kỷ, nên trở thành bất đắc chí. Những điều uẩn khúc không đem thi hành được ở đời, trở lại dày vò phế phủ. Để vơi bớt nổi lòng, Tiên sinh phải phát tiết những ưu tư cảm phẩm ra lời oán hận phúng thích. Tuy văn chương không được uyển chuyển du dương, nhưng có khí vị thời đại vẫn mang sắc thái tâm hồn của tác giả.
Còn Thảo Am vốn là một công chức. Sau khi về hưu trí thì lấy cảnh nhàn hạ làm vui:
Họ giữ đống vàng hay sợ mất,
Kho bạc còn để đến lãnh hưu bổng. Hưu bổng không nhiều nhưng vẫn đủ tiêu pha cùng ngày tháng.
Không bận kế sanh nhai. Tiên sinh lấy thơ là món gia vị cho đời phong lưu an lạc. Vì coi thơ là món tiêu khiển, nên văn lý miễn cho thông, từ điệu miễn cho ổn là được, chớ không cần chạm lòng nhả mật để nói lên những gì uẩn trong cảnh vật trong tâm hồn. Những khi cao hứng thì đem xảo kỷ ra thêu gió dệt trăng để làm vui mắt vui lòng cho các thân bằng cố hữu. Nên thơ Thảo Am hầu hết là Thơ Chơi.
Thơ Đạm Phương đứng giữa thơ Hoài Nam và thơ Thảo Am. Nghĩa là có phảng phất ít nhiều tình ý quốc gia dân tộc, ít nhiều khí vị phong lưu.
Các nhà phê bình thơ, các nhà viết văn học sử, viết sách thi tuyển… thời Pháp thuộc, đều coi thơ của Hoài Nam, Đạm Phương, Thảo Am cũng như thơ của cụ Huỳnh Thúc Kháng và nhiều nhà chí sĩ khác, là những vận ngữ chớ không phải Thơ, nên không dành cho quý vị chỗ ngồi trên thi đàn của Đất Nước.
Nhưng tôi nghĩ rằng: thơ là hoa của người, hoa là thơ của đất. Mà không nhiều thì ít, chớ nhận kỹ hoa nào lại không sắc không hương:
Hoa nào hoa lại không hương sắc
Một cánh hoa tươi một mảnh tình.
Cho nên không dám phụ rẫy. Nhưng văn hoành công khí, nên có lời khen mà cũng có lời chê. Và khen hay chê cũng đều phát xuất nơi đáy lòng thành kính.
Xin nói thêm về Thảo Am Nguyễn Khoa Vi:
Ngoài thơ ra, Thảo Am Tiên sinh còn sở trường về ca khúc và văn tế.
Bài văn tế sống cụ Thúc Giạ mùa xuân Tân Mão (1951) là một giai phẩm những tay sành văn tế đều công nhận là tài tình. Nhưng tác giả nói: [16]
- Không thể sánh với bài văn truy điệu các nghĩa sĩ Cách mệnh và Chiến sĩ trận vong của Hoài Nam. Bài của Hoài Nam là một cây cổ thọ, bài của tôi chỉ là cây kiểng trong bồn hoa.
Đó là lời nói chân thành của một nhà nghề tri kỷ tri bỉ.
Còn về ca khúc thì những câu hò Mái Đẩy rất phổ biến ở Sông Hương. Nhưng khác với những câu hò của cụ Thúc Giạ tình cảm dồi dào, những câu hò của Thảo Am thường thường nghiêng về việc chơi chữ, thiêng về phúng thích:
Nước sông Hương cá mươn là thổ sản
Lội từng bầy ăn cạn dọc bờ sông.
Ai về nhắn với ngư ông
Chớ đem ra mà bán, nửa đồng họ chẳng mua.
- Tiếng đồn anh hay chữ
Cắt nghĩa thử cho thông
Thánh hiền xưa đặt chữ CÔNG
Sao có cái quéo
Ở trong lòng làm chi?
Người ta thấy chữ CÔNG
Trong lòng có cái quéo,
Đó là nơi lắc léo
Khôn khéo của thánh hiền.
Em ơi em phải chịu phiền
Học cho nhiều kinh nghiệm thì hiểu liền chữ Công.
Cụ Phan Sào Nam lúc bị an trí nơi Bến Ngự thường ngày ở dưới đò. Có người đặt một câu hò trêu cụ:
Thái Bình dương gió thổi
Chiếc thuyền em trôi nổi
Chi khác nỗi thân bèo.
Sao không giúp chống đỡ chèo
Anh hùng đâu lại nằm queo trong thuyền?
Có nhiều văn nhân cao hứng đáp lại. Nhưng vua Khải Định nghe được chê là đáp không hay, bèn cho triệu Thảo Am vào cung. Tiên sinh vâng lệnh, đáp:
Chí anh hùng xưa nay dù khẳng khái,
Sức một chèo chi lại với phong ba.
Em ơi, sao không suy nghĩ gần xa,
Trẻ trung em không hề đếm xỉa,
Cứ trách lẫn ông già hoài cũng oan.
Đem so câu hò của Tiên sinh cùng câu hò của cụ Thúc Giạ, thì hai bên đã khác nhau về tính chất, một bên nặng về lý, một bên nặng về tình, mà giọng văn cũng khác nhau hẳn. Văn Thúc Giạ mềm mại dịu dàng, văn Thảo Am cứng cỏi và có nhiều điểm lắt léo để bông đùa cười cợt hoặc châm chích mỉa mai.
Cho nên đọc câu hò của Tiên sinh thích mà không cảm như đọc câu hò của Thúc Giạ.
Cụ Thúc Giạ và Thảo Tiên Sinh là chỗ thân tình. Nhà ở gần nhau, sở thích gần nhau, sở thích gần giống nhau, nên không có cuộc xướng thù nào thiếu mặt. Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn ở tại Huế cách Vĩ Dạ không mấy xa, song cả cụ Thúc Giạ lẫn Thảo Am Tiên sinh vẫn ít khi lai vãng, và cũng ít khi nhắc nhở đến nhau.
Thảo Am Tiên sinh mất năm 1969. Thọ trên 80 tuổi. Sau khi tắt nghỉ một chặp lâu, thình lình tiên sinh mở mắt, đọc hai câu thơ:
Sống chẳng danh thơm mà để lại,
Chết thời xác thúi kịp chôn đi.
Rồi nhắm mắt lại đi luôn.
Tác phẩm để lại:
- Hồng Nhan Mộng (xuất bản năm 1924)
- Hò Mái Đẩy (xuất bản năm 1960)
- Tục Ngữ Ca Dao (chưa xuất bản)
- Ngạn Văn tứ tự đối (chưa xuất bản)
- Thảo Am Thi Tập (chưa xuất bản)
Đ- Các thi ông có danh chốn cựu Thần Kinh, sống thời Pháp Thuộc, như Thúc Giạ, Vân Bình, Thảo Am, Hoài Nam, mặc dù tôi là kẻ hậu sinh, đối với tôi đều có tình bằng hữu, quên tuổi tác. Tôi tiếc chưa được gặp Mộng Si Tiên sinh.
MỘNG SI NGUYỄN THUYẾT, theo lời Vân Bình Tiên Sinh, là một túi nho, một lớp tuổi cùng cụ Thúc Giạ.
Khi còn đi học tôi được đọc bài THÚY VÂN KHÚC đăng ở Thần Kinh Tạp Chí. Đó là một bài thơ song thất lục bát tả cảnh đi chơi Thúy Vân, thỉnh thoảng chen thơ Thất Ngôn Bát Cú. Tôi chỉ nhớ được ít bài Thất Ngôn:
TRÊN SÔNG HƯƠNG
I.
Trăm hai sông núi vẫn trơ trơ
Chiếc lá dòng Tương luống hững hờ
Chài buông tiếng sáo giúp nên thơ
Giang hồ cũng đội chung trời đất
Thị tứ nào ham lợi sớm trưa
Mắt bể con con mòi lặng phắt
Thuyền đưa ti tí khách năm ba.
II.
Bến liễu thuyền xuôi nửa buổi chiều
Buồm no gặp lúc gió hiu hiu
Lục lìa sông ngấm màu đầu vịt
Xanh ngắt lùng giơ bãi lưỡi mèo
Dấu ngựa buông cương đường cái thẳng
Con thuyền nối lái khúc sông eo
Non rùa ngoái cổ dường nghe kệ
Hương phật xa thơm chửa mốc meo.
CẢNH THÚY VÂN
I.
Từng mắn Tư Dung có cảnh chùa
Giang san ai khéo vẽ nên đồ
Trăng dầm bể trẻ tròn đôi bóng
Hoa nở tầng non ngát bốn mùa.
Xấp xới tàn tùng che tháp nhạn
Dịu dàng quạt gió phảy non Rùa
Một chèo nghiêng ngửa quanh trời đất
Nhân trí là đây lọ ở mô.
II.
Rêu dệt dường hoa ốc cuốn tròn
Lên cao trông xuống bể con con
Sóng nhào muôn ngựa đua trên nước
Đá mọc trăm voi nép xó non
Cõi phật trang nghiêm lòng dễ mến
Bia thần chói rọi nét chưa mòn
Tiếng sanh Tử Tấn còn mường tượng
Nhớ lối năm xưa giục giã buồn…
Văn chương có lực. Ý cảnh và tưởng tượng khá phong phú. Cách điệu phảng phất Đường thi.
Nhưng để cho các bạn chưa đến Thúy Vân dễ nhận thức cái hay cái đẹp trong thơ, tưởng nên nói qua đến phong cảnh trên thực tế.
Thúy Vân là một trong hai mươi phong cảnh được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thắng cảnh đất Thần Kinh. Núi nằm phía đông huyện Hương Thủy, trong đầm Hà Trung, song song cùng núi Linh Thái. Cổ thi có câu:
Linh Thái qui triều triều Bắc hải
Túy Vân phụng vũ vũ Nam Hà.
Nghĩa là:
Linh Thái rùa chầu chầu biển Bắc,
Túy Vân phụng múa múa sông Nam.
Đó là hình dáng và vị trí của hòn Linh Thái tục gọi là Hòn Rùa, và hòn Túy Vân tục gọi là Hòn Phụng.
Trên núi có chùa thờ Phật tên là Chỉ Kiến do chúa Nguyễn Phúc Chu lập. Vua Minh Mạng trùng tu và đổi tên là Thánh Duyên. Bên chùa có gác Đại Từ thờ Quán Thế Âm. Trên đỉnh núi có tháp Điều Ngự và có đình Tiến Sản. Đứng trên đình trông ra bốn mặt thì mây nước thương mang. Nhìn phía đông bắc thấy cửa Thuận An. Quang cảnh vô cùng ngoạn mục.
Vua Thiệu Trị có soạn một bài luật thi nhan là Vân Sơn Thắng Tích khắc vào bia dựng ở chân núi:
Tích túy toàn ngoan bất kế xuân
Đẩu long ẩn phục liệt lân tuân
Huệ phong chung độ u lâm hưởng
Không cốc hương la pháp hải tân
Thọ luyến từ vân phù bích lạc
Kỉnh xuyên tăng kịch tạp hồng trần
Thánh Duyên phổ tế hàm quy thuận
Phật tích tăng quang tự hữu nhân.
Tạm dịch:
Biếc đọng nghìn xuân dáng chập chồng
Thẳm sâu ẩn náu đẩu cùng long
Chuông theo gió huệ rừng thiêng vẳng
Hoa ngát hang sâu biển pháp lồng
Xấp xới mây từ cây nổi lục
Thẩn thơ guốc sãi lối vương hồng
Nhờ ơn phổ tế lòng qui thiện
Quả được quang vinh gốc vốn trồng.
Đã biết qua cảnh trí rồi, xin trở lại với thơ.
Hai bài TRÊN SÔNG HƯƠNG bài một tả cảnh lúc đi tới Túy Vân, bài hai tả cảnh lúc trở về. Hai bài CẢNH TÚY VÂN, bài một tả cảnh ở dưới nước trông lên, và trông cả Túy Vân và Linh Thái. Bài II tả cảnh trên non ngó xuống.
Câu “Tiếng sanh Tử Tấn còn mườn tượng, nhớ lối năm xưa giục giã buồn” tác giả ngụ ý than cho cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân: sau khi thất bại nhà vua cùng Trần Cao Vân phải lẩn tránh đến Hà Trung rồi chạy lên núi Ngự. Nên địa phương có câu “Cơm nếp Hà Trung, cháo gà núi Ngự…”.
Bốn bài thơ Mộng Si thật thoát sáo. Tuy không vẽ ra trước mắt người đọc hình thể của núi sông, cũng không nêu lên những đặc điểm của phong cảnh, nhưng vẫn làm nổi bật nhiều chi tiết nên thơ:
- Xấp xới tàn tùng che tháp nhạn
Dịu dàng quạt gió phảy non Rùa.
- Sóng nhào muôn ngựa đua trên nước
Đá mọc trăm voi nép xó non.
- Lục lìa sông ngấm màu đầu vịt
Xanh ngắt lùng giơ bãi lưỡi mèo
- Cá móng trộn say đường khuyến rượu
Chài buông tiếng sáo giúp nên thơ.
Đó không phải là những câu thơ tả thực. Bởi tác giả không đặt nước non vào trong khung cảnh vỹ đại của thiên nhiên để nhìn thấy những đường nét rộng lớn, rồi diễn tả với thái độ khách quan. Mà chỉ thu nhặt với hình hẹp theo sở thích và trùm lên trên sắc thái của tâm hồn.
Tác giả là một nhà thơ cổ điển
Nhà thơ tả chân lo trình bày vẻ đẹp của cảnh vật và để người đọc tự tìm lấy cái thú trong văn thơ.
Nhà thơ cổ điển lo giải tỏ cái thú tìm thấy trong cảnh vật chớ không chú trọng đến những hình thức đích thực của thiên nhiên, vì nghĩ rằng tất cả những hiện tượng ở trước mắt đều do tâm tạo. Đều là giả tượng. Và những cái thú tìm thấy, tác giả chỉ gợi ra chớ không nói rõ.
Cho nên để nhận thức hết cái thú trong thơ Mộng Si, chúng ta nên đọc bằng lòng nhiều hơn bằng trí.
Nếu đem so sánh hai bài Túy Vân với bài Vân Sơn Thắng Tích thì chúng ta thấy thơ Mộng Si nhiều thi vị hơn thơ Thiệu Trị. Cảnh vật trong thơ Thiệu Trị đã bị những danh từ về đạo Phật làm mờ nhạt, màu xanh cả cây rừng, màu biếc của nước biển bị chìm dưới bóng của áo cà sa của nhà tu!
Đọc thơ của Mộng Si tôi có cảm giác xem tranh thủy mặc.
Đọc thơ của vua Thiệu Trị tôi tưởng như vừa đến chân núi Túy Vân bỗng gặp một nhà Nho giảng đạo Phật. Chỉ nghe một mớ chữ rút trong kinh, chớ không thấy ít nhiều hương vị của Chánh Pháp. Thế là đã không nghe được đạo mầu mà còn không được ngắm cảnh đẹp!
Nói tóm lại là: Thơ của vua Thiệu Trị là sản phẩm của một người hay chữ và sính thơ. Còn thơ của Mộng Si là giai phẩm của một nhà thơ chân chính.
Rất tiếc thơ của Mộng Si tôi biết không được nhiều để đem ra cùng bạn yêu thơ thưởng thức.
TRÊN SÔNG ĐỒNG NAI
Sài Gòn nghe dậy tiếng Đồng Nai
Khách Huế ham vui lửa dặm dài
Cúi ngửa lòng kiêng trời thước tấc
Đục trong duyên gởi bến mười hai
Đá xây nghĩa nặng non chồng chất
Sóng lượn tình sâu biển láng lai
Cái nợ nam nhi chưa trả hết
Nặng nề nông nổi cũng vì ai!
Tác giả mượn cảnh để nói lòng, một nỗi lòng nói ra thì e ngại, nín mãi thì xốn xang!
Nặng nề nông nỗi cũng vì ai.
Ai đây là ai? Có phải vua Hàm Nghi? Vua Thành Thái? Vua Duy Tân? Câu này là chìa khóa mở cửa các câu trạng luận để nhìn những tình ý ẩn tàng dưới nét bút linh động và thanh tao.
Để thấy rõ tâm sự của tác giả chúng ta hãy đọc tiếp:
HỮU SỞ TƯ
Kìa non kìa nước nọ lâu dài
Kìa khách trông thu cảnh với người
Sông đợi người xa lòng xoắn tít
Cây che làng cũ mắt chơi vơi
Đời ve dắng dỏi hòa cung nguyệt
Chữ nhạn lăng quăng viết giấy trời
Mượn chén khuây khoa trăng với gió
Nào ai có biết nỗi xa xôi!
CẢM HOÀI
Mưa rồi tạnh hạ rồi thâu
Trong máy tuần hoàn dễ biết đâu.
Nước giận đều chi cau có mặt?
Trời đất còn e xáo bể dâu.
Sông Hà trong lại hỏi mau lâu? 4
Cũng như bài TRÊN SÔNG ĐỒNG NAI, hai bài Hữu Sở Tư và Cảm Hoài đều mượn cảnh vật để tả tâm tình. Nỗi niềm tâm sự của tác giả nhận kỹ không ngoài mối lo buồn về quốc gia về thời thế và thân thế. Ba chữ HỮU SỞ TƯ dùng làm đầu đề là một chứng cứ.
Ba chữ ấy mượn trong câu thơ của Đỗ Phủ:
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh
Cố quốc bình cư hữu sở tư.
Nghĩa là:
Cá rồng vắng vẻ sông thu lạnh
Nước cũ lòng thêm nỗi nhớ nhung.
Câu này là câu kết của một trong tám bài Thu Hứng mà Đỗ Phủ đã làm trong lúc chạy đến Quỳ Châu để tránh loạn. Huỳnh Quỳnh Viên mượn dùng là vì tình cảnh họ Huỳnh lúc vào Nam chẳng khác tình cảnh họ Đỗ lúc đến Quỳ Châu và thời bấy giờ (từ khi Kinh thành Huế thất thủ vua Hàm Nghi xuất bôn trở về sau) cũng tương tợ hoàn cảnh Trung Hoa lúc An Lộc Sơn cướp ngôi nhà Đường, Đường Minh Hoàng chạy lên Ba Thục…
Cứ theo đề tài mà suy thì “Người xa” trong bài Hữu Sở Tư, cùng “Ai” trong bài Trên Sông Đồng Nai và trong bài Hoài Cảm, chỉ là một người, một người trong ba ông vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân bị đày đi xa vì yêu nước, hoặc một người yêu nước nào khác đương ôm mộng lớn nơi tha phương.
Cả ba bài, sức bút và lòng người đều dồn nơi câu luận:
- Đá xây nghĩa nặng non chồng chất
Sóng lượn tình sâu biển láng lai
Thật và tinh xảo. Tình và cảnh hợp một, vật là người người là vật, vì người đã gởi lòng vào vật đã ôm ấp lấy lòng người, không còn ai phân tách được.
- Đời ve dắng dỏi hòa cung nguyệt
Chữ nhạn lăng nhăng viết giấy trời.
Vế trên nói về mình, về những người cùng hội cùng thuyền, vế dưới nói về tình trạng của đất nước: Tiếng than thở của lòng kẻ ưu thời mẫn thế nhưng tác giả là một, chỉ có trời xa biết được, chẳng khác tiếng ve dắng dỏi và cung nguyệt xa xôi. Những sắc lệnh luật lệ ban bố xuống muôn dân do bọn chim muông soạn thảo, rõ là giấy trời do bọn chim nhạn viết lăng nhăng.
- Gió trăng chưa dễ xây bờ cõi
Trời đất còn e xáo bể dâu.
Vế trên cũng nói về đám nhân vật hữu tâm, vế dưới cũng nói về thời cuộc: Mình và những người như mình dù lòng có trong như gió đức có sáng như trăng, cũng không thể nào xây riêng bờ cõi để sống xa cách cái xã hội đảo điên ô trọc, cũng không đủ sức đắp lại bờ cõi đã bị xâm lăng dày xéo, tóm thâu. Và chưa phải vật đổi sao dời chừng đó là dứt, còn e, với tình trạng xã hội này, Tổ Quốc phải gặp nhiều nỗi tang thương trầm trọng.
Rõ là nỗi lòng của kẻ cô trung! Thương nước thương đời, nhưng tự thấy bất lực trước thời cuộc, đành ôm bụng mong cho “Hoàng Hà thanh, thánh nhân sanh” để cứu lấy dân, cứu lấy nước.
Không khỏi có người bảo:
- Chưa chắc tác giả đã nghĩ như thế.
Xin thưa:
- Sao chắc tác giả không nghĩ như thế? Và nếu tác giả không nghĩ như thế thì nghĩ như thế nào? Những bài thơ trên không phải loại “du hí văn chương” mà là “thốn tâm thiên cổ”. Đọc thơ chúng ta nên trải lòng ta để đón lấy lòng tác giả, thì dù cho kẻ sau người trước, hồn thơ củng giao cảm dễ dàng.
Mưa tan khói tạnh cỏ cây tươi
Một bức thiên nhiên vẻ vẹn mười
Sóng khỏa trăng trôi lòa mặt nước
Mây xua núi chạy tận chân trời
Chào người chim lạ xôn xao nói
Mừng khách bông quen chúm chím cười.
Cao hẩm tuy nhờ công tạo hóa
Điểm trang khi phải mượn tay người.
Kể cũng đã khéo tay! Song thú khô, vị lợt, không có sức truyền cảm mạnh mẽ cũng không có sức trì hứng lâu bền. Giá trị không sánh nổi với ba bài trên kia. Đó là do ba bài trên nhân cảm khái mà ký hứng. Còn bài này chỉ để tiêu khiển mà tác văn.
Sóng lượn bờ Nam ác liệng Tây
Thợ trời khéo vẽ cảnh chiều này
Bể lo đất thiếu bù thêm nước
Núi sợ trời nghiêng đỡ lấy mây
Tiều quảy gió xuân vài gánh nặng
Ngư chài bóng xế một thuyền đầy
Bên đường bước khách nôn qua lại
Chim núi đi về hãy lựa cây.
Gặp trạng tác giả mượn câu thơ của Tuy Lý Vương:
Sông e biển cạn bù thêm nước
Non sợ trời nghiêng đỡ lấy mây. [25]
Huỳnh Quỳnh Viên đối với Tuy Lý Vương là kẻ hậu sinh. Kẻ hậu sinh mượn thơ tiền bối là sự thường, như lý Thái Bạch đã từng mượn thơ Tạ Khương Nhạc, Đỗ Phủ tập thơ Dũ Tử Sơn, Âu Dương Tú tập thơ Hàn Dũ. 3
Hai câu của Tuy Lý đứng một mình, mượn đem vào đây được có đôi lứa, mà lứa đôi lại xứng kép xứng đào. Như thế đối với thơ có lời chớ không có lỗ.
Còn tả tình mà không mượn cảnh, họ Huỳnh còn để lại một bài:
Sài Gòn vang vọng tiếng Đào Châu
Mới gặp hôm nay, nghe đã lâu.
Thi phú cao gần chàng Lý Bạch
Tính tình hào quá bác Trang Chu
Yên ba chí thích thơ đôi vận
Tùng cúc lòng say rượu một bầu
Tri ngộ vài hàng đưa lạo thạo
Còn nhiều ân ái vẫn về sau.
Lời sáo ý sáo. Rõ là một bài vận ngữ tầm thường. Sánh với những bài thơ trên thật cách xa trăm dặm.
- Như vậy chép lại để làm gì?
- Để chứng tỏ rằng thơ thù tạc phần nhiều không có giá trị, dù là thơ của các bậc đại danh.
- Tại sao vậy?
- Tại vì thơ thù tạc thiếu chân thật. Thường thường là bìm bịp vẽ thành phụng hoàng, đôi khi gỗ mục sơn son thiếp vàng thành cột sân rồng, biển cửa thánh. Dù khéo đến đâu cũng không che nổi mắt của kẻ thức giả.
Nói cho rõ thêm:
Thơ gốc ở Tình. Tình động ở bên trong thì hình hiện nơi ngôn ngữ. Tức tình sanh văn, văn sanh vận. Mà làm thơ thù tạc nào phải vì nhu cầu của tâm hồn mà làm, nào phải vì cảm xúc mà làm. Làm là vì do ý muốn làm vui lòng một vài cá nhân nào đó để mưu cầu một vài việc gì đó về vật chất hay tinh thần. Cá nhân ấy không ra gì, hoặc không có gì để ca tụng, mà cũng cố gắng vẽ vời cho thành tám câu năm vần, thì dù tài vận đến đâu cũng khó làm nên giai phẩm, thực sự.
Bạch Cư Dị nói:
- Thi giả, căn tình, miêu ngôn, hoa thanh, thực nghĩa.
Ý nói: Thơ gốc nơi tình cảm, thân nơi ngôn ngữ, hoa nơi thanh âm, trái nơi nghĩa lý.
Tức là một bài thơ cũng như một bụi cây trước hết phải có gốc rễ tức phải có tình. Tình sanh ra thơ có sinh khí sinh lực như bụi cây phải có gốc có rễ để hút nhựa đất nuôi thân cây cho có hoa thơm trái ngọt.
Những bài thơ thượng dẫn của Huỳnh Quỳnh Viên là bằng chứng cụ thể: ba bài trên có tình nên rất hay; hai bài giữa ít tình nên kém hay; bài sau kém tình nên trở thành một bài vận văn giá trị không hơn một chung trà đãi khách.
Đọc thơ người trước là để học, tức là để bắt chước những sở trường và cố tránh những sở đoản. Bởi tất cả các nhà thơ đông tây kim cổ, người nào cũng có sở đoản sở trường. Có biết rõ đâu là đoản đâu là trường thì đọc thơ mới có lợi và mới thấy hứng thú. Cho nên nói chuyện thơ không ngại nói đến cái dở.
THƯỢNG TÂN THỊ là biệt hiệu của Phan Quốc Quang Tiên sinh.
Tiên sinh nổi tiếng do mười bài liên hoàn thác lời bà Vương phi vợ vua Thành Thái thở than cảnh đau xót của chồng con nơi chân trời góc biển: Hai vua Thành Thái, Duy Tân. Nhan đề của mười bài liên hoàn là KHUÊ PHỤ THÁN.
Đề tài đã hấp dẫn, văn chương lại thanh lệ nên mười bài Khuê Phụ Thán ra đời liền được truyền tụng khắp Nam Trung Bắc. Ban đầu ai cũng tưởng là tác phẩm của Vương phi. Mãi sau này mới biết tác giả là Thượng Tân Thị.
Ngoài mười bài Khuê Phụ Thán, Thượng Tân Tiên sinh còn nhiều giai phẩm đăng ở báo chí, nhiều nhất là ở Phụ Nữ Tân Văn. Nhưng những tác phẩm này bị mười bài Khuê Phụ Thán làm lu mờ. Cho nên nói đến Thượng Tân Thị, hầu hết khách làng thơ chỉ nhớ đến Khuê Phụ Thán, nhất là những câu:
- Mộng điệp khiến vì ai lẽo đẽo
Hồn quyên luống để thiếp chon von.
- Nghĩa gá ấp yêu đành lở dở
Công cho bú mớm cũng thôi rồi.
- Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
- Trăng khuya nương bóng chênh chênh một
Gương bể soi hình tẻ tẻ hai.
- Sương sa lác đác trên tàu lá
Gió thổi hiu hiu dưới bức mành.
- Non nước chia hai trời lộng lộng
Lời thơ dịu, đẹp, rung cảm lòng người vừa mạnh vừa sâu. Những câu khác cũng tương tợ như thế.
Huỳnh Quỳnh Viên nhân cảnh điên đảo trong nước mà sanh lòng hoài niệm viễn nhân. Thượng Tân Thị mượn nỗi cay đắng chốn khuê môn để gởi niềm cảm khái trước thời cuộc nan cứu vãn. Thơ của hai nhà đều thuộc loại cảm khái ký hứng. Nhưng mỗi nhà có một phong cách riêng ý thú riêng.
Thơ Huỳnh Quỳnh Viên tình nằm trong cảnh.
Thơ Thượng Tân Thị cảnh vướng theo tình.
Văn chương của hai nhà đều công xảo. Nhưng thơ họ Huỳnh khắc ý điêu trác. Còn thơ họ Phan dường như nhất chú hồn thành.
Tức là nghệ thuật của Thượng Tân Thị có phần cao hơn.
Chỉ tiếc trong thập thủ liên hoàn, từng chương thì hoàn hảo, nhưng toàn thiên thì ý bị trùng điệp nhiều nơi. Ví dụ:
- Ở chương 1 đã nói đến “Mộng điệp hồn quyên” mà ở chương 8 còn có câu:
Chiêm bao lẩn quẩn theo chân bướm
Tin tức bơ vơ lạc cánh hồng.
Và ở chương 10 có câu:
Khói mây giọng cuốc nghe hơi mỏi
Sương tuyết mình ve ngắm đã mòn.
- Ở chương 4 đã nói đến “Giọt lệ”, mà ở chương 9 còn có câu:
Mối sầu kia gỡ khoanh chưa dứt
Giọt thảm này tuôn bửng khó khăn. vân vân…
Có nhiều câu lời tuy khác mà ý vẫn như nhau:
- Tấm lòng bức rức suốt canh thâu
Gan ruột như dầu sục sục sôi
- Con ơi ruột mẹ ngấu như tương
Đắng cay như ngậm trái bồ hòn [28] vân vân…
Dường như tác giả viết theo trào cảm hứng, chớ không lập ý bố cục trước.
Có người cho đó là ưu điểm của thập thủ liên hoàn: biểu thị một cách tự nhiên niềm cảm xúc của tác giả, cũng như người đàn bà thương nhớ chồng con, hễ tình động bên trong thì lời phát ra ngoài, chớ không cần sửa sang sắp đặt.
Đó là vì quá yêu mà lấy khuyết làm ưu. Chớ làm thơ phải theo thi pháp. Đã biết rằng không nên bó mình theo thi pháp, phải áp dụng thi pháp một cách linh động. Song áp dụng một cách linh động đâu phải bất chấp những nguyên tắc căn bản, những nguyên tắc chẳng những không làm hại đến ý thơ mà còn giúp cho người làm thơ đi đến chỗ toàn mỹ. Nguyên tắc “không nên lặp đi lặp lại một ý trong toàn thiên cũng như trong từng chương”, là nguyên tắc căn bản mà cũng là nguyên tắc sơ đẳng. Trong một bài luận ở học đường, học sinh còn cố tránh sự trùng điệp, huống hồ trong tác phẩm của một danh nhân.
Thượng Tân Thị sáng tác theo trào lưu cảm xúc nên không cần để ý đến khuyết điểm.
Đó là quyền của tác giả.
Nhưng khi chúng ta đọc thấy khuyết thì cứ nói là khuyết chớ không nên vì kính nể tác giả hay vì quá yêu văn chương, mà ra công bênh vực.
Trùng điệp có nhiều khi do chỗ dụng ý của tác giả. Ví dụ trong Kinh Thi, thơ Thử Ly,
Chương I:
Bỉ thử ly ly
Bỉ tắc chi miêu
Hành mại mỹ mỹ
Trung tâm diêu diêu.
Tri ngã giả
Vị ngã tâm ưu
Bất tri ngã giả
Vị ngã hà cầu.
Du du thương thiên
Thử hà nhân tai.
Chương II:
Bỉ thử ly ly
Bỉ tắc chi toại
Hành mại mỹ mỹ
Trung tâm như túy.
Tri ngã giả
Vị ngã tâm ưu
Bất tri ngã giả
Vị ngã hà cầu.
Du du thương thiên,
Thử hà nhân tai.
Chương III:
Bỉ thử ly ly
Bỉ tắc chi thật
Hành mại mỹ mỹ
Trung tâm như ất (yết).
Tri ngã giả
Vị ngã tâm ưu
Bất tri ngã giả
Vị ngã hà cầu.
Du du thương thiên,
Thử hà nhân tai!
Tạm dịch:
I.
Nếp kìa trĩu trĩu
Lúa kìa mới lên.
Đường đi chậm chậm
Lòng ta không yên.
Người biết lòng ta
Bảo ta lo phiền.
Người không biết ta
Bảo ta đương tìm
Vật gì đâu đây.
Hỡi trời cao thẳm!
Ai xui nỗi này?
II.
Nếp kìa trĩu trĩu
Lúa đơm bông dày.
Đường đi chậm chậm
Lòng ta như say.
Người biết lòng ta
Bảo ta lo phiền.
Người không biết ta
Bảo ta đương tìm
Vật gì đâu đây.
Hỡi trời cao thẳm!
Ai xui nỗi này?!
III.
Nếp kìa trĩu trĩu
Lúa cũng quằn quằn.
Đường đi chậm chậm
Lòng ta băn khoăn.
Người biết lòng ta
Bảo ta lo phiền.
Người không biết ta
Bảo ta đương tìm
Vật gì đâu đây.
Hỡi trời cao thẳm!
Ai xui nỗi này?
Đây là lời than của một quan Đại phu thời Đông Châu.
Nhà Châu dời về phía Đông. Quan Đại phu đi qua ngang đất Tông Chu là kinh đô nhà Châu thời Vũ Vương, thấy nơi tông miếu và cung thất ngày xưa đều mọc đầy lúa nếp, lòng thương xót cho nhà Châu bị suy yếu mà thở than.
Người đi qua lại chỗ ấy không phải một lần. Lần thứ nhất thấy lúa lên mạ. Lần thứ nhì thấy lúa trỗ bông. Lần thứ ba thấy lúa đã kết hột. Mỗi lần đối cảnh thì lòng bị xúc động, chân không thể bước nhanh, trí sanh ra nghĩ ngợi. Phàm con người thường, gặp việc buồn hay vui lòng đều có biến động. Song nếu gặp lần thứ nhì thì lòng biến động kém bớt, đến lần thứ ba thì lòng như thường, không còn biến động nữa. Lòng trung hậu của người quân tử thì không thế. Tình cảm chẳng những trước sau như một mà mỗi lần lại còn mỗi thêm sâu sắc hơn. Đó là tâm tình người làm ra thơ này.
Sự lặp ý trong thiên THỬ LY là một kỹ thuật dùng để biểu đạt tình cảm. Tất cả đều dồn nơi chữ TÂM. Lần thứ nhất thì “Trung tâm diêu diêu”. Lần thứ hai thì “Trung tâm như túy”. Lần thứ ba thì “Trung tâm như ất”. Ngoài ý nghĩa mỗi lần mỗi nặng thêm, còn âm hưởng của thanh điệu của câu làm cho người đọc cảm thấy lúc đầu lòng tác giả buồn bã xa xôi, sau đìu hiu thấm thía, sau nữa gấp rút bồn chồn.
Sự trùng điệp trong Thập Thủ Liên Hoàn của Thượng Tân Thị không thuộc vào trường hợp này. Đó là khuyết điểm, cần phải tránh.
Nhưng những khuyết điểm kia chỉ là những tiểu tỳ, không đến nổi làm giảm giá tác phẩm cho lắm. Vạch ra không có ý gì khác hơn là mong cho những bạn trẻ tập làm thơ liên hoàn đạt đến mức toàn bích.
Và để bạn nào không có mười bài Khuê Phụ Thán trước mắt muốn thưởng thức thêm văn tài của Thượng Tân Tiên sinh, xin lục thêm một số giai cú:
- Quyết gìn giữ dạ tròn sau trước
Biết cậy nhờ ai tỏ khúc nôi.
- Quê người đành gởi thân trăm tuổi
Cuộc thế mong gì nợ bốn phương.
- Để bụng chỉ e tằm đứt ruột
Hở môi lại sợ vách nghiêng tai.
- Sớm tối cho tròn luôn một tiết
Trước sau chẳng hẹn với ba tùng.
- Quê nhà có kẻ lo săn sóc
Đất khách nương nhau khỏi lạnh lùng.
- Nỗi niềm ai biết ai thương nhớ
Chồng hỡi chồng, con ơi hỡi con!
Chú thích:
[1] Hoài Nam vốn người Quảng Bình, nhưng vào Huế ở từ năm 1918 cho đến năm 1947 bị tử nạn trong một cuộc hành quân của Pháp tại Thừa Thiên, tuổi chưa đầy 50.
[2] Lúc ấy Tiên sinh làm phán sự Tòa khâm sứ. Tôi làm việc chung phòng cùng Tiên Sinh và ký túc nơi nhà mấy tháng.
[3] Tôi còn nhớ một hôm Tiên sinh có đưa cho một vị xem bài thơ có câu:
Cụm hồng gió động nghi người đến
Làn biếc sen lay ngỡ dáng đi.
Câu ấy mang nhiều cổ sáo. Thế mà vị kia khen là tân kỳ. Lúc bấy giờ tôi mới hai mươi mốt tuổi, đối với quí cụ vào hàng con cháu, nên tuy không phục mà không dám phát biểu ý kiến.
[4] Những di cảo của Vân Bình Tiên Sinh, có lẽ ông Tôn Thất Cảnh còn giữ được đầy đủ, ít nhất cũng còn giữ được tập Cung Chiêm Tôn Lăng, vì tập này đã đánh máy thành nhiều bản.
Những thơ cổ phong của Tiên sinh bài nào cũng dài trên dưới 100 câu. Nên không thể thuộc được.
[5] Để cho câu thơ đứng một mình được vững vàng, Phạm Quỳnh đổi “Còn sen… Tùng trước” ra “Bông sen… khóm trúc”
[6] Lăng vua nhà Nguyễn có khóm: Lăng Gia Long gọi là Thọ Lăng, lăng Minh Mạng gọi là Hiếu Lăng, lăng Thiệu Trị gọi là Xương Lăng, Lăng Tự Đức gọi là Khiêm Lăng, Lăng Đồng Khánh gọi là Tự Lăng, Lăng Khải định gọi la Ứng Lăng.
[7] Bài Hương Giang Hành và bài Cung Chiêm Hiếu Lăng, trong Hương Bình Thi Phẩm có trích đăng.
[8] Bài Hương Giang Hành dài đến 114 câu.
Bài Cung Chiêm Hiếu Lăng dài 104 câu. Các bài khác cũng dài trên dưới trăm câu.
[9] Trong tập Hương Bình Thi Phẩm có lục đăng. Vì bài văn dài quá không tiện chép còn chép đôi câu đôi đoạn, không đủ làm cho bạn đọc thấy cái hay cả toàn bài.
[10] Trong Hồn Thơ Đất Việt của Lam Giang chép đôi chỗ khác: Câu thứ hai: Kim triêu hồi thủ bất thang bình. Câu thứ ba chép là “Long Đỗ như lưu”. Câu tám chép là “Thùy vị…”.
- Hồ đỗ là bụng cọp trỏ hòn Phục Hổ trong dãy Vạn Bảo, là nơi có những dấu thành trì cung điện chùa miếu của Lý, Trần, Lê.
- Ngưu hồ = Hồ Tây (tích kim ngưu phá đất thành vực)
[11] Cổ nhân có câu: Đường thi Tấn tự Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm. (Thơ đời Đường, chữ đời Tấn, văn chương đời Hán là những nghệ phẩm tuyệt diệu trên thế gian)
[12] Thần Vận: Từ điệu phải cao nhã thanh tân.
Hữu thanh vô vận: có tiếng mà không có nhạc.
Ngõa phẫu: phẫu sành, gõ nghe cạch cạch.
[13] Về sự khác biệt giữa Khô và Đạm đã nói rõ trong tập Trong Vườn Hoa Thơ.
[14] Xem chương 55 nói về lối chơi chữ.
[15] Cặp trạng của bài khai Bút năm 56 tuổi của Thảo Am.
[16] Tôi là bạn Nguyễn Khoa Hiền con trai cụ, nhưng cụ đối với tôi như một người bạn vong niên. Những khi gặp gỡ, thường đem những câu chuyện riêng ra nói cho biết.
[17] Thuật theo lởi cụ Thảo Gia
[18] Trộ say: Cây mọc cắm dưới nước để giữa sáo đăng cho khỏi ngã. Tục có câu: say sưa sáo ngã.
[19] Trong sách “Phép Làm Thơ” của Diên Hương chép là Quỳ Viên.
Trong sách “Thi sĩ Nam Trung” của Vũ Ngọc Phan chép là Quỳnh Viên người Thừa Thiên, đậu Tiến Sĩ.
Cụ Vân Bình Tôn Thất Lương cũng bảo là Quỳnh Viên. Tuy người Thừa Thiên nhưng ở Huế ít người biết, vì di cư vào nam từ lâu. Di cư khoảng Thành Thái Duy Tân, nhưng không rõ sau khi T.T. bị đày hay sau cuộc khởi nghĩa Duy Tân thất bại.
[20] Trong sách của Vũ Ngọc Phan và của Diên Hương đều chép: “…sông cáu mặt,… đá ngong đầu”. Lại có người bảo là “… cau riết mặt”.
[21] Vũ ngọc Phan Chép: “xây bờ bãi”. Diên Hương chép là: “Gió trăng chưa dễ xây trời đất, Bờ bãi bao giờ xáo bể dâu” .
[22] và 4 Sông Hoàng Hà nước luôn luôn đục vì nhiều phù sa. Truyền rằng cứ năm trăm năm thì nước sông trong một lần và một lần trong như vậy là có bậc thánh nhân sanh (Hoàng Hà thanh thánh nhân sanh). Chừ quá bốn, là tính từ khi Lê Lợi đánh đuổi quân xâm lăng Tàu ra khỏi nước và dựng nghiệp đế (1428) cho đến ngày tác giả làm bài Hoài Cảm.
[23] Cảnh trông thấy trong một chiều tà đi thuyền trên sông. đây là thơ cảnh chớ không phải là thơ tả cảnh. Thơ tả cảnh là thơ vịnh cảnh theo chủ quan của tác giả.
[24] Ngắm cảnh chiều trên bến tàu (biển).
[25] và 3 Đã nói rõ ở chương 17 và 18.
[26] Chưa rõ là vị nào.
[27] Mười bài này đã nhiều sách chép rồi nên ở đây chỉ trích dẫn những câu xuất sắc nhất.
[28] Trong Chương Dân Thi Thoại của Phan Khôi nói rất kỹ về điểm trùng ý trong mười bài liên hoàn này. Ở đây tôi chỉ nhắc lại và thêm đôi chi tiết.
64.
Năm Ất Tỵ (1905), ba nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng cùng nhau nam du. Lúc đi ngang qua Bình Định, gặp một kỳ khảo hạch do quan tỉnh tổ chức, ba nhà rủ nhau nạp quyển dự thí, với mục đích lợi dụng cuộc khảo hạch để đánh một tiếng chuông cảnh tỉnh đám sĩ phu mê muội. |
Đề bài thi là “Chí thành thông thánh”.
Đề bài phú là “Danh sơn lương ngọc”.
Lấy vận: Cầm hương ngọc tất sanh sơn.
Phan Châu Trinh làm bài thi.
Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài phú.
Thi và Phú đều ký tên là Đào Mộng Giác.
Bài thi chỉ trích nền học vấn ngu dân và thái độ si mê của các sĩ phu chỉ lo miệt mài trong giấc mộng từ chương, không biết gì đến cái nhục mất nước phải đem thân làm nô lệ cho người.
Bài phú chia làm bốn đoạn:
Nói khái quát về tình hình Á châu.
Thuật lại những trang lịch sử oai hùng của Việt Nam.
Nêu những mối hại của sự học từ chương, những thủ đoạn thống trị độc ác của thực dân Pháp, và cái nhục của bọn cam tâm làm thống trị cho người.
Hô hào sự quyết tâm cứu nước quốc của sĩ phu.
Bài thi và bài phú gây chấn động trong giới nho sinh. Và không bao lâu khắp tỉnh Bình Định đều biết chuyện. Quan tỉnh cho dọ thám để tìm tác giả. Nhưng tuyệt nhiên không ai biết ai. Vì khi hai bài văn lọt vào kẻ cầm quyền thì ba nhà chí sĩ đã rời khỏi Bình Định.
Vào Khánh Hòa, ba cụ ghé vào nhà ông ấm NGUYỄN TƯ TRỰC ở gần chợ Đầm Nha Trang [1] nghỉ chân.
Ông ấm là con một vị đốc học hưu trí, đối với ba cụ là chỗ quen thân. Cho nên ba cụ mới kể câu chuyện vừa xảy ra ở Bình Định và đọc hai bài CHÍ THÀNH THÔNG THÁNH và DANH SƠN LƯƠNG NGỌC cho nghe. Trong lòng cao hứng cụ Huỳnh diễn nôm cả hai bài. Ông ấm có chép cả hai bài chữ hai bài Nôm. Nhưng năm Mâu Thân (1908) cụ Trần bị bọn Cường Quyền khép án “Mạc tu hữu”, ông ấm bị liên lụy, gia đình hoảng sợ, đốt cả những sách vở trong nhà, bốn giai phẩm bị thiêu hủy!
Năm Đinh Sửu (1937), gặp tôi, ông Ấm kể lại câu chuyện ba nhà chí sĩ và đọc cho tôi nghe bài thơ chữ Hán và bài dịch mà ông còn nhớ được trọn vẹn: [2]
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không
Giang san vô lệ khấp anh hùng
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương túy mộng trung
Trường thử bách niên cam thóa mạ
Bất tri hà nhật xuất lao lung
Chư quân vị tất vô tâm huyết
Thí bả tư văn khán nhất thông.
Dịch:
Việc thế quày đầu chẳng chút lưa
Non sông không lệ khóc người xưa
Muôn dân tôi tớ thằng quyền mạnh
Tám vế văn chương giấc ngủ mơ
Dày mặt mỉa mai cam chịu mãi
Thoát thân dàm buộc biết bao giờ
Các người há chẳng không tâm huyết
Đọc suốt thơ này đã thấm chưa?
Bài chữ Hán, văn chương lâm ly bi tráng. Bài dịch lột hết tinh thần của nguyên văn, và lời thơ cũng rất thiết tha thấm thía. Cả hai đều có sức kích động tinh thần mạnh mẽ. Một khi đọc đến, những người chưa mất hẳn lương tâm không thể nào không xót xa buồn tủi cho thân phận trâu ngựa buộc dàm, không thể nào không mơ tưởng đến việc bứt cương tháo chuồng để dành lại tự do độc lập.
Văn chương cảm người được như thế là nhờ người làm thơ đã chứa sẵn lòng phân phương phỉ trắc, đến khi cầm bút nỗi lòng theo mực thấm vào văn chương. Nhưng lòng có mà nghệ thuật không có thì cũng khó mà truyền cảm xúc sang lòng người đọc. Cho nên muốn cho thơ có sức hấp dẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ thì tâm linh và nghệ thuật phải tương ỷ tương y. Bài thơ chữ Hán của cụ Phan và bài thơ dịch của cụ Huỳnh đều gồm đủ tâm và nghệ.
Riêng nói về văn chương, bài dịch không thua bài nguyên tác. Nhưng có người bảo rằng câu thứ nhì, ba chữ “khấp anh hùng” mà dịch là “khóc người xưa” thì nghĩa không đúng mà ý cũng không sát.
Tôi xin thưa:
- Nghĩa không đúng, nhưng ý không sai tuy không thật sát. Dịch một bài thơ mà ý nghĩa thật sát không phải là khó. Khó ở điểm: giữ sao cho đừng sai nguyên ý và cố làm sao lột cho được tinh thần, chuyển cho được thi cảm trong nguyên tác sang dịch văn. Dịch giả không nên chấp ý mà làm hại thần và cảm. Dịch một bài thơ thật sát ý nghĩa, mà thần không có cảm cũng không, thì chẳng khác nắn một con trâu bằng đất có đủ đầu đuôi lưng vế để đổi lấy con trâu bằng xương bàng da. Câu “khóc người xưa”, chính dịch giả đã bỏ ý nghĩa để giữ cả thần lẫn ý.
Chúng ta thử xét kỹ câu “Giang san vô lệ khấp anh hùng”, xem “giang san” là chủ hay “anh hùng” là chủ, tức là tác giả nặng về anh hùng hay giang san? Chắc ai nấy đều công nhận rằng tác giả nặng về giang san. Vì câu thơ diễn tả nỗi bi thương vô hạn của Đất Nước Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Để đánh đuổi xâm lăng dành lại độc lập cho non sông, bao nhiêu anh hùng liệt sĩ đã tốn hao xương máu. Đứng trước cảnh hy sinh cả bầy con yêu nước, non sông không cần gió thảm mưa sầu! và hết khóc lớp này đến lớp khác! khóc mãi đến nỗi máu cạn lệ khô, bây giờ không còn máu lệ để khóc nữa!
Mà non sông khóc là khóc những người chết theo nạn nước, tức là những người có tâm huyết với non sông. chớ những phường túi cơm giá áo sống chẳng ích chi cho xã hội cho quốc gia, thì chết đi càng hay chớ việc chi mà phải khóc. Bởi vậy “người Xưa” mà non sông khóc đó, không nói ra ai cũng ngầm hiểu đó là những trang hào kiệt anh hùng, những người đã chết vì chính nghĩa. Cho nên trong câu “Non sông không lệ khóc người xưa”, không nói đến chữ “anh hùng” mà vẫn không thiếu ý anh hùng vậy.
Tuy vậy ý câu dịch vẫn sút câu nguyên văn. Bởi vì trong ba chữ “khấp anh hùng” ngậm ý quá khứ hiện tại và tương lai. Còn ba chữ “khóc người xưa” chỉ nói đến những người đã thành nhân, những người đã được đền nợ nước.
Song mặc dù ý sút, mà thần và cảm giữ trọn. Như thế là thành công, tuy không trọn vẹn, nhưng cũng đã quá nhiều rồi không nên cầu toàn trách bị.
Bài thơ dịch thường nghe truyền có đôi câu đôi chữ khác bài thượng dẫn. Sách “TRẦN QUÝ CÁP và TƯ TRÀO CÁCH MẠNG” của Lam Giang chép:
Việc thế quay đầu luống ngẩn ngơ
Khóc người sông núi lệ đà khô.
Muôn dân tôi tớ người quyền mạnh
Tám vế văn chương giấc ngủ mơ
Dày mặt mỉa mai đành chịu mãi
Thoát thân trói buộc biết bao giờ.
Người ta ai cũng tâm can ấy
Đọc suốt thơ này đã thấm chưa?
Tôi tin bài của ông ấm Nguyễn Tư Trực đọc cho tôi nghe, gần, nếu không hoàn toàn đúng, với nguyên bản hơn. Vì ông ấm là nhân chứng, và bài của ông thuộc, văn chương lão luyện hơn bài của Lam Giang sưu tầm.
Bài CHÍ THÀNH THÔNG THÁNH có nhiều người dịch. Trong Giai Thoại Làng Nho của Lãng Nhân có chép. Tôi nhận thấy tất cả đều không hơn bài dịch của cụ Huỳnh, nên tôi không trích đem vào đây.
Còn bài phú DANH SƠN LƯƠNG NGỌC có phần dài, mà ở đây lại chỉ nói về thơ, nên bạn nào muốn thưởng thức thì xin xem Giai Thoại Làng Nho và Trần Quý Cáp nhất là Trần Quý Cáp vì có nhiều bản dịch và Lam Giang giải rất tinh tường. Các bạn sẽ thấy hùng tâm hùng khí của các nhà chí sĩ tiền bối nung sôi trong văn chương như thế nào.
Bài CHÍ THÀNH THÔNG THÁNH, vì khuôn khổ chật hẹp, chưa cho người đọc thấy rõ những luồng sóng lớn nổi dậy trong dòng nhiệt huyết của ba nhà ái quốc Phan Trần Huỳnh, bằng bài DANH SƠN LƯƠNG NGỌC.
Và đọc Danh Sơn Lương Ngọc, lại càng thấy rõ tánh chất cô đọng của Chí Thành Thông Thánh.
Chú thích:
[1] Tức là người đã nhượng lại ngôi nhà số 21 Đường Bến Chợ Nha Trang cho tôi hiện nay. Nhà ông ở bên cạnh.
[2] Trong quyển Trần Quí Cáp của Lam Giang có chép đủ cả hai bài thì phú với những lời dẫn giải tinh tường.
65.
Gân gà ăn không ngon nhưng bỏ đi thì tiếc, vì tuy không có mùi mà có vị.
Tào Tháo đem quân đi đánh Quan Trung lâu ngày mà không lấy được, muốn rút quân song còn do dự, mới lấy gân gà làm mật hiệu cho ba quân, tức là ví Quan Trung như gân gà.
Trong số thơ của người trước còn truyền thế, lắm bài mang tánh chất gân gà của họ Tào, khiến khách yêu thơ mãi gắp lên rồi bỏ xuống, bỏ xuống rồi lại gắp lên. Như bài GÀ QUÈ của Thuần Phu Trần Khắc Thành ở Nha Trang là một:
Thôi rồi! Ai ném hoặc ai quăng!
Lẽ có gà sanh cẳng rứa răng?
Năm đức đã đành trời sở phú [1]
Hai chân còn giận đất không bằng.
Coi giò tấp tểnh anh thầy bói [2]
Vuốt tóc chàng ràng lũ gái măng [3].
Thường có cái may trong cái rủi
Sức dù sung sức bớt hung hăng.
Thuần Phu tiên sinh gốc người Quảng Nam vào Nha Trang từ lúc nhỏ và nhập tịch Khánh Hòa. Tiên sinh là một danh sĩ ở địa phương. Học giỏi mà thi mãi không đậu. Mới mất năm 1954, thọ trên bảy mươi.
Tiên sinh làm thơ rất nhanh, thơ Hán Văn cũng như thơ Quốc Âm. Bài GÀ QUÈ là một bài ứng khẩu làm bỡn một người bạn thân ỷ mạnh mà bị mang tật.
Lời thơ tuy không được óng chuốt du dương, nhưng già dặn cứng cáp. Tứ tốt. Vịnh gà què như thế thật đã giỏi. Cho nên chất thơ tuy kém, song đọc vẫn thấy vui. Sánh cùng món ăn thì đó là gân gà. Sánh cùng hoa thì đó là nở ngày, hoa tứ quí.
Lớp trước Thần Phu tiên sinh, có Phan Tú Đơn ở Phan Rang cũng nổi tiếng hay chữ và giỏi thơ.
TẶNG BIỆT NGƯỜI DỊCH THỪA
Thi ngâm từng vận tứ từng hồi
Một khắc ngàn vàng tưởng chẳng thôi
Luồng gió đi qua con ngựa lại
Vừng mây lướt tới bóng trăng lui
Đèn soi bốn bạn tim dài ngọn [4]
Sóng giục năm canh trống nặng dùi
Lẩn thẩn đêm xuân trời rạng mặt
Đưa về dịch sứ một nhành mai [5]
Ý không giàu không lạ, nhưng lời văn êm dịu đọc nghe có tình, nên nghe qua, không cố ý thuộc mà vẫn nhớ.
Phan tiền bối chắc còn nhiều giai tác, song rất tiếc không biết rõ địa chỉ để tìm thêm.
Ở Khánh Hòa và Ninh Thuận, từ thời Pháp Thuộc trở về trước, văn học không được thạnh bằng từ Bình Định trở ra. Cho nên thi nhân cũng như thi phẩm sản xuất không được nhiều. Sản phẩm đã ít mà lại không có người gìn giữ, nên ngày nay muốn tìm thì thật là khó khăn!
Lúc còn ở trường, tôi được chí sĩ Đồng Sĩ Bình đọc cho nghe bài thơ dùng vần “ôi thôi rồi nồi sôi”:
Cha kiếp người Nam dại lắm ôi
Làm tôi quân mọn cũng nên thôi
Giữ giùm sự nghiệp cho ai đó
Ngó lại giang san đã mất rồi
Cứng cựa gà cồ bươi tắt bếp
To răng chó đói gặm hư nồi
Cớ sao ngoảnh mặt làm thinh mãi
Ngọng miệng vì chưng ních phải xôi.
Bài này ám chỉ bọn quan lại thời Pháp Thuộc, vì miếng ăn mà quên hết cả giống nòi.
Không ai biết tác giả là ai. Thấy khoái khẩu thì đọc thì truyền. Bọn có tật thì giật mình, muốn tìm cách ngăn cấm song không có kết quả.
Trước kia nhiều người ngờ là của chí sĩ họ Đồng. Nhưng gần đây ông bạn họ Trần Thúc Lâm cho biết chắc chắn là của cụ cử LÊ ĐÌNH CẨN.
Cụ cử người xã Nghĩa Phước, quận Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Đậu cử nhân triều Thành Thái. Tánh cương trực khẳng khái. Rất ghét thực dân Pháp. Có một lần gặp viên công sứ Daudet ở dọc đường, trông thấy thái độ hống hách, không dằn lòng được, liền lướt tới tát tai. Bị bắt bỏ tù. Mãn hạn, cùng các chí sỹ Nam Ngãi mưu việc diệt thù cứu quốc. Năm Mậu Thân (1908) can vào vụ khất sưu, bị bắt đày ra Lao Bảo và mãn phần ở đó.
Bài thơ thượng dẫn, tuy không phải là khúc Dương Xuân Bạch Tuyết, song vẫn nói lên được phần nào tâm chí của tác giả, vẫn cho chúng ta thấy rằng trong thời buổi mà phần đông những người đỗ đạt đều cam lòng khuất tất sự thù, còn có một số người, ngoài các nhà cách mạng trứ danh Phan Sào Nam, Phan Tây Hồ, Trần Thai Sơn, Huỳnh Minh Viên..., suốt đời hướng tâm vào việc giải phóng dân tộc, Cho nên đáng bảo tồn vậy.
Uy Viễn NGUYỄN CÔNG TRỨ có bài thơ VỊNH CÂY VÔNG:
Uổng sanh trong thế mấy thu đông
Cao lớn làm chi vông hỡi vông
Tuổi tác càng già già khúc mắt
Ruột gan không có có gai chông.
Rường xoi cột xỉa không nên mặt
Dậu lỏng rào thưa phải cậy lòng
Mới biết cây nào hoa quả nấy
Xuân sang bớn tớn cũng đơm bông. [6]
Bài này Nguyễn Uy Viễn tướng công làm để nhạo quan Lại Bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820 - 1840), Trong bữa tiệc họ Hà mừng con thi đậu.
Đây là lối thơ châm phúng. So với những bài vịnh vật trích dẫn ở các chương trước, bài Vịnh Cây Vông không thua. Song không hiểu sao tôi lại không thích! Không thích mà lại thuộc lòng! Lắm khi không nghĩ đến mà cứ lởn vởn trong tâm trí!
Cũng một trường hợp ấy là bài VỊNH HÁT BỘI của ông Tú Quỳ ở Quảng Nam:
Nhỏ mà không học lớn mà sang
Trống đánh ba hồi đã thấy quan
Ra rạp ngồi trên ba đứa hiệu
Vô buồng luồn dưới mấy ông làng [7]
Mượn màu son phấn ông kia nọ
Cổi lốt xiêm đai lũ điếm đàng.
Tuy chẳng ra chi nhưng cũng sướng
Đã từng trợn mắt lại phùng mang.
Bài này làm để chỉ trích những nhân vật trong phong trào Cần Vương do Chí sĩ Nguyễn Duy Hiệu lãnh đạo ở Quảng Nam (1885-1886).
Bài thơ lọt đến tai nhà lãnh đạo. Chí sĩ cho bắt Tú Quỳ đến mắng:
- Thấy việc nghĩa, anh đã không làm mà còn đem lời phỉ báng những người liều chết theo quốc nạn! Như thế anh học để làm gì mà cũng khoe rằng mình có học?
Tú Quỳ tưởng chắc chết dưới lưỡi gươm Cần Vương, may đâu có một con dế duỗi chợt bay tới đậu trước chỗ ngồi của Chí sĩ. Chí sĩ chỉ con dế, bảo Tú Quỳ:
- Nghe anh có tài xuất khẩu thành thi. Hãy thử vịnh con dế duỗi xem.
Tú Quỳ phụng mệnh đọc:
Kiến chẳng kiến, voi chẳng voi!
Trời sanh dế duỗi khéo loi choi
Ngắn cánh lên trời bay chẳng thấu
Co tay vạch đất cũng khoe tài
Mưa tuôn nước tụ lên cao ở
Lửa đỏ dầu sôi nhảy tới chơi.
Quân tử có thương xin chớ phụ
Cứ cho bay nhảy để mà coi.
Thương tài mẫn thiệp, Chí Sĩ bèn tha chết cho về.
Hai bài thơ cùa Tú Quỳ đều có giá trị cả văn chương lẫn ý tứ. Nhưng tôi không thích. Vì bài vịnh Hát Bội phạm đến đại nghĩa. Đã biết trong số người ứng nghĩa Cần Vương cũng có lắm người không tốt, thường hay lợi dụng phong trào để làm chuyện bất nhân tâm. Song mía sâu có đốt, cớ sao không phân biệt trắng đen, mà lại vơ đũa cả nắm? Trong bài lại còn kêu cả tên nhà Lãnh Tụ ra “chửi xỏ”:
Ra rạp ngồi trên ba đứa HIỆU.
Như thế chứng tỏ rằng tú Quỳ không tâm huyết, không biết quý trọng anh hùng chí sĩ vì nước quên cả gian nguy. Bởi vậy nên tôi không thích. Không thích người, không thích luôn cả văn chương. Nhưng không thích sao lại thuộc, sao lại thường nhớ đến? Đó là tại vì lời thơ hay. Nhớ là do tâm, không thích là do trí. Trí muốn tròn mà tâm muốn vuông! thật là rắc rối!
Nhưng đối với NGUYỄN CÔNG TRỨ tôi rất kính mộ, trong thơ tôi có câu:
Chùa phật hầu son Nguyễn Uy Viễn
Non xanh rêu biếc Trần Hy Di.
Tại sao tôi lại không thích bài Vịnh Cây Vông? Tôi vốn không có cảm tình cùng người bị châm biếm, tôi tự xét cũng không có gì úy kỵ với những lời trong bài thơ mà tôi công nhận là có giá trị. Thế mà lại không thích! Lắm lúc mình còn không hiểu được mình như thế, huống hồ là người ngoài!
Không thích nhưng không bỏ được, nên tôi gọi hai bài Vịnh Hát Bội và Vịnh Cây Vông là hai “Gân gà Mạnh Đức”.
Chú thích:
[1] Cổ nhân có câu: “Kê hữu ngũ đức” là gà có năm đức. Năm đức đó là: Tín (gáy không sai giờ). Nghĩa (nuôi con hết lòng gặp mồi thường túc con đến ăn - gà mái thì túc con, gà cồ thì túc vợ). Lễ (được dùng để cúng quải). Dũng (có chí đấu tranh). Cần (luôn luôn bươn chải để kiếm ăn).
[2] Bói giò gà - Ở Nha Trang lúc bấy giờ đã có nhiều người làm nghề bói tướng ngồi dọc theo hè phố, sáng mắt có tối mắt có.
[3] Tóc bỏ đuôi gà. Người lớn mới có “tóc bỏ đuôi gà”, nên tác giả dùng chữ “vuốt tóc” để niêm với “gái măng”.
[4] Bốn bạn: Văn phòng tứ hữu (giấy mực bút nghiên).
[5] Mượn ý thơ Đường : Chiếc mai phùng dịch sứ…
[6] Bài này có nhiều sách chép khác:
- Câu 1: Miền Nam giống ấy chẳng ấy chẳng ai trồng.
- Câu 3: Xương thịt không nhiều nhiều khúc mắt
Tài cán không già già khúc mắt
- Câu 5: So tài lương đống không nên mặt
- Câu 6: Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.
- Câu 8: Xuân về hớn hở cũng đâm bông.
[7] Ông làng là ông Só thơ trên trang - nghĩa bóng là các ông hương ông xã.
66.
Người sống trong thế gian làm việc gì, bất kỳ lớn nhỏ, đều có mục đích. |
Vậy mục đích của thơ là gì?
Một học giả trứ danh đời Đường là KHỔNG ĐĨNH ĐẠT định nghĩa:
- Thơ ấy là THỪA vậy, là CHÍ vậy, là TRÌ vậy [1].
THỪA là nói lên những cái thiện cái ác trong xã hội do chánh sách cai trị tạo nên.
CHÍ là tất cả những gì chất chứa trong tâm trí cần biểu lộ ra ngoài.
TRÌ là giữ vững đức hạnh, đừng để sa ngã [2].
Phần đông thi nhân Trung Hoa và Việt Nam thuộc phái Cổ điển đều lấy đó làm quy đích, làm tôn chỉ.
Không cần biện bạch thị phi. Vì ở đây chỉ nói chuyện về mục đích của cổ nhân nêu ra, trong làng thơ Quốc âm qua những số tác phẩm lưu thế, tôi nhận thấy có nhiều người theo. Ngoài ra còn nhiều đích khác nữa.
Bằng vào thực tế, chúng ta có thể chia làm sáu:
- Tiêu khiển,
- Phấn sức tài ba,
- Tải đạo (giáo dục, truyền bá tư tưởng),
- Di dưỡng tánh tình,
- Ký thác tâm sự,
- Giải thoát tâm hồn.
Những người nhắm hai mục đích đầu không mấy tha thiết với thơ. Có càng tốt. Không có cũng không sao.
Những người nhắm hai mục đích giữa rất ân cần đến thơ, song không thơ người không bức rức xốn xang vì thiếu thốn.
Những người nhắm hai mục đích sau, đối với thơ như hình với bóng. Họ lấy thơ làm lẽ sống, rồi sống với thơ, sống cho thơ, để cho thơ với mình nhập một.
Xét mục đích làm thơ của bậc tiền bối đã qua đời lúc mình chưa ra đời, khó hơn xét về các thi nhân mới qua đời trong khoảng thời gian gần đây. Vì đối với cổ nhân, mình chỉ bằng vào tác phẩm, còn đối với “cận nhân”, mình có thêm đời sống thực tế của tác giả để đối chiếu.
Trong các thi nhân mới qua đời từ nửa thế kỷ trở lại, tôi nhận thấy:
- Ưng Bình Thúc Gia Thị và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi dùng thơ để tiêu dao tuế nguyệt và trang sức cho cuộc đời phong lưu tài tử.
- Sào Nam Phan Bội Châu và Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn dùng thơ phụng sự Quốc gia và Cách Mạng.
- Vân Bình Tôn Thất Lương dùng thơ để nuôi dưỡng tánh tình cho khỏi thất trụy. [3]
Đó là quý vị đã nhắm bốn mục đích trên. Đó là các thi nhân mà thơ và người là hai, tức là giữa thơ và người còn có nhân và ngã.
Thơ và người tuy hai nhưng mà một, tôi nhận thấy có bốn nhà:
- Miền Bắc có TẢN ĐÀ,
- Miền Nam có ĐÔNG HỒ,
- Miền trung có BÍCH KHÊ và HÀN MẶC TỬ 2
Đó là bốn người thơ. Cuộc đời của bốn nhà là bốn bài thơ sống vĩ đại mà tác phẩm là những hình ảnh phản chiếu vào văn chương.
Thơ của bốn nhà, khi nói đến khi viết ra, phải bỏ chữ CỦA:
- Thơ Tản Đà,
- Thơ Đông Hồ,
- Thơ Hàn Mặc Tử
- Thơ Bích Khê.
Bởi chữ CỦA là nhịp cầu giữa người và thơ, mà đối với Người Thơ, “con sông Bến Hải” không còn nữa thì dùng nhịp cầu kia mà chi.
Thơ của quí cụ Thúc Giạ, Sào Nam…, Vân Bình đã có nói đến rồi. Còn thơ của bốn Người Thơ đây thì như sau?
Đã có nhiều sách báo nói đến nhiều. Nếu muốn nói đến nữa thì năm mười trang giấy không đủ. Nên xin nhượng cho các nhà phê bình, các nhà khảo cứu, các nhà viết văn sử học… ở đây tôi chỉ bắt chước những người đi củi hú lên một tiếng hú để rủ bạn vào rừng cho vui vậy thôi.
Nhưng để cùng quí bạn mua vui, tôi xin trích một ít thơ của mỗi nhà mà tôi thuộc lòng vì thích và kèm theo đôi ý kiến nho nhỏ làm duyên.
A- Đây thơ Tản Đà:
THƠ THẨN
Phòng văn lặng ngắt bóng trăng mờ
Ngồi nghĩ thơ mà hóa thẩn thơ
Chỉ thắm ai người tơ tưởng mối
Ruột tằm đòi đoạn vấn vương tơ
Bụi lầm mặt trắng da đen sạm
Tuyết nhuộm đầu xanh tóc bạc phơ
Thơ nghĩ chửa ra già đã tới
Buồn chăng ai hỡi bạn làng thơ?
PHÚ ĐẮC: CÁI RUỘT CON TẰM, CHỊ EM ƠI, BỐI RỐI MÀ VÒ TƠ
Cùng nong cùng lá những mong chờ
Cái ruột con tằm bối rối tơ!
Trả nợ cho dâu là sự thế
Thương tình đến bạn cũng buồn như
Bồn chồn chín khúc cơn mưa lạnh
Đòi đoạn năm canh bóng nguyệt mờ
Gớm nỗi không chồng đau đớn lạ
Đố ai đêm vắng dễ mần ngơ.
Thơ Thất Ngôn luật thi của Tản Đà Tiên sinh thoát hẳn lối cử nghiệp. Tiên sinh theo thi chỉ của người xưa: Tình động trong tâm thì hình hiện ra lời thơ (Tình động ư trung nhi hình ư ngôn). Vì tình phát ra tiếng, tiếng thành ra văn, nên âm hưởng tiết tấu hòa hợp với nhau một cách tự nhiên, như rừng dương gió thổi.
Nhưng tình thơ thật đậm đà, tứ thơ thật lai láng, không phải ở nơi luật thi mà ở nơi Lục Bát, Song Thất Lục Bát, Ca Trù…, là những thể hoàn toàn Việt Nam.
Thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát của Tản Đà phần nhiều là thơ trường thiên. Như: Thề Non Nước, Xuân Cảm, Nói Chuyện Với Bóng, Thư Gởi Cho Người Tình Nhân Có Quen Biết, Thư Gởi Cho Người Tình Nhân Không Quen Biết, Nói Chuyện Với Ảnh, vân vân…
Đã đọc qua thơ Tản Đà, thật khó quên những câu như:
- Ngày xuân còn mãi không thôi
Tuổi xuân ai dễ xanh rồi lại xanh.
(Vui Xuân)
- Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước nước mà quên non.
(Thề Non Nước)
- Có khi bút thảo câu thần
Mình ta với bóng xoay vần nệm hoa.
(Nói chuyện với bóng)
- Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn
Cố cung tưởng lại muôn vàn ái ân.
(Dương Quý Phi)
- Rượu đào hòa vị máu tanh
Làm cho đổ quán xiêu thành bởi ai!
(Tây Thi)
- Trăm nghìn gởi lạy Đông quân
Hãy khoan khoan tới hãy lần lần lui.
(Xuân Cảm)
- Chúa Xuân nức nở bên mình:
Văn chương rất mực tài tình hỡi ai.
(Xuân Hứng)
- Lá thu rơi rụng đầu gành
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa…
(Cảm thu tiễn thu)
- Nghĩ mình chẳng phải lầu xanh
Cớ chi tỉnh rượu tàn canh mà sầu.
(Sầu thanh) vân vân…
Thơ Lục Bát của Tản Đà lưu loát thanh tao và có vẻ hồn nhiên như một đúc mà nên chớ không công phu trau chuốt.
Thơ Song Thất của Tiên sinh có phần óng chuốt đẹp đẽ hơn. “Lời văn chuốt đẹp như sao băng, khí văn hùng mạnh như mây chuyển, êm như gió thoảng, tinh như sương, đầm như mưa sa lạnh như tuyết” (Lời Trời phê - Hầu Trời):
- Mưa, mưa mãi, ngày đêm rả rích
Giọt mưa thu dạ khách đầy vơi
Những ai mặt biển chân trời
Nghe mưa ai có nhớ lời nước non.
(Mưa thu đất khách)
- Bước lận đận thẹn cùng sông núi
Mớ văn chương tháng rụi năm tàn
Lụy trần ngày tháng lan man
Nỗi riêng riêng nghĩ muôn vàn càng thêm…
(Đêm đông hoài cảm)
- Cuộc nhân thế câu cười tiếng khóc
Nghề sinh nhai lối dọc đường ngang
Đầu xanh ai điểm hơi sương
Những e cùng thẹn những thương cùng sầu…
(Nói chuyện với ảnh)
- Ngàn sương bạc bay qua tiếng nhạn
Ngọn đèn xanh khơi cạn đĩa dầu
Mình ai chiếc bóng canh thâu
Nỗi riêng riêng một mối sầu vì ai…
(Thư đưa người Tình Nhân Có Quen Biết)
- Ngàn mây biếc long lanh đáy nước
Bóng tà dương ngã gác non đoài
Tranh kia ai vẽ cho trời
Ngoài sơn thủy lại có người đứng trơ
Hồn kiếp trước ngẩn ngơ chưa tỉnh
Mối tình duyên vơ vẩn càng thêm
Tuyệt mù tăm cá hơi chim
Nào người nhớ hỏi thăm tìm là đâu?
Kể từ độ lọt đầu se tóc
Cũng cùng mang tiếng khóc mà ra
Cõi sầu ta lại với ta
Lọ quen biết mới gọi là tương tri…
(Thư đưa người Tình Nhân Không Quen Biết)
- Ứa bốn bể hai hàng lụy ngọc
Gầy ba đông một vóc xương mai
Ơn nhà nợ nước hai vai
Nước nhà ai để riêng ai nặng nề!
Trông mây nước bốn bề lạnh ngắt
Nhìn non sông tám mặt sầu treo
Đường xa gánh nặng bóng chiều
Cơn giông biển lớn mái chèo thuyền nan
Nghĩ thân thế mềm gan lắm lúc
Nhìn non sông bạc tóc như chơi
Trông ai mỏi mắt phương trời
Nhớ ai đi đứng ăn ngồi thẩn thơ…
Người bệnh yếu hơi may lạnh trán
Đêm thu trường tựa án thâu canh
Phố phường rộn rã trần thành
Ngoài song con sẻ trên cành tiếng kêu
(Thư trách người Tình Nhân Không Quen Biết)
Còn nhiều bài hay, nhiều bài có nhiều câu hay, không thể chép hết. Ở đây nhớ đâu chép đó chớ không phải lựa chọn theo một tiêu chuẩn nào.
Ca Trù của Tiên sinh cũng lắm bài tuyệt tác, như Đời Đáng Chán Hay Không Đáng Chán, Cánh Bèo, Hỏi Gió, Trời Mắng, Gặp Xuân… vân vân… Thử đọc một bài:
CÁNH BÈO
Bềnh bồng mặt nước chân mây
Đêm đêm sương tuyết ngày ngày nắng mưa
Ấy ai bến đợi sông chờ
Tình kia sao khéo lững lờ với duyên.
Sinh lai chủng đắc tình căn thiển
Sự trăm năm hò hẹn với ai chi?
Bước giang hồ nay ở lại mai đi
Những ly hợp hợp ly mà chán nhỉ?
Vị tất nhân tình giai bạch thủy
Nhẫn tương tâm sự phó hàn uyên.
Đầu xanh kia trôi nổi đã bao miền
Thôi trước lạ sau quen đừng ái ngại.
Khắp nhân thế là nơi khổ hải
Kiếp phù sinh nghĩ lại cũng như ai
Ai ơi vớt lấy kẻo hoài.
Về Hát Nói trước kia có Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát, sau này có Tản Đà Tiên sinh, phần phẩm cũng như phần lượng, thiết tưởng không ai sánh kịp.
Tiên sinh có lựa một số bài của Tiên sinh sáng tác đem ra giảng thích và xếp thành tập lấy tên là Bình Khang Ca Phả, định in cho chị em xóm Bình Khang học để hát cho đúng ý nghĩa và lột cho hết tinh thần bài ca.
Tại sao tiên sinh lại quan tâm đến chị em đến thế?
Đó là vấn đề mà lâu nay ít nhà biên khảo để ý.
Có đi sâu vào vấn đề thì mới thấy chỗ dụng ý của Tản Đà tiên sinh và mới có thể thông cảm nỗi khổ tâm của tiên sinh về việc gia đình, nỗi khổ tâm gây ra do sự mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí, giữa nhà thơ và nhà nho, nỗi khổ tâm chỉ bộc lộ một cách gián tiếp và kín đáo, gián tiếp và kín đáo cả trên hành động lẫn văn chương!!
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Vấn đề này xin gác lại cho các nhà học giả. Chúng ta trở lại cùng Thơ Tản Đà và đọc thêm đôi bài về các thể khác:
- Hát Xẩm:
ÔM CẦM
(Bên thì trời) Chị em ơi! Lận đận bên thì trời,
Non cao nước chảy ấy ai người tri âm?
Lúc đêm thanh ngồi dậy ôm cầm,
Lòng tơ tơ tưởng âm thầm tiếng tơ.
Khúc đàn này vẫn khúc ngày xưa,
Mà người đoái khúc bây giờ đâu xa?!
Nhớ đầu xanh còn đương độ mười ba,
Cười trăng bóng xế, thương hoa thu tàn!
Thế mà cái phận hồng nhan!
- Từ Khúc:
TỐNG BIỆT
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai!
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn rêu nhạt,
Nước chảy hoa trôi…
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi!
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!!
Bài trên văn chương lâm ly. Bài dưới giọng có vẻ thản nhiên. Nhưng cả hai đều thiết tha thấm thía. Một bên nhỏ lệ mà than. Một bên nuốt lệ làm vui mà tiễn. Đọc rồi, lòng người sanh một nỗi buồn nhè nhẹ vừa thấm sâu vào bên trong vừa lan dần ra ngoài trời mênh mông bát ngát…
Thơ Tản Đà hầu hết đều chứa chan khí vị mùa thu. Lời cũng như tứ trong trẻo nhẹ nhàng, và tiêu sơ chớ không lạnh lùng ảm đạm. Vị thơ thường thường thanh chớ không đậm, nhưng ngấm sâu và thấm lâu. Cho nên có biệt thú và dư vị.
B- ĐÔNG HỒ
Tản Đà là một nhà thơ đứng hẳn về phái cựu, tức là phái THƠ CŨ. ĐÔNG HỒ là một nhà Thơ Cũ nương theo nghĩa tùy thời. Cho nên khi phong trào Thơ Mới nổi dậy, Đông Hồ không bị cảnh phũ phàng của sóng gió như Tản Đà.
Nghĩa tùy thời ấy, Đông Hồ đã bày tỏ một cách kín đáo trong bài MUA ÁO:
- Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi
Em đâu còn áo mặc đi chơi.
Bán thơ, nhân dịp anh ra chợ,
Đành gởi anh mua chiếc mới thôi.
- Hàng bông mai biếc màu em thích,
Màu với hàng em đã dặn rồi.
Còn thước tấc. Quên! Em chửa bảo
Kích tùng bao rộng, vạt bao dài.
- Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Kích thước, anh còn lọ hỏi ai?
Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên vai.
Chiếc áo cũ đã lỗi thời, không còn vừa mắt người chung quanh nữa, Nàng Thơ của Đông Hồ đòi mua chiếc áo mới cho hợp thời trang. Đông Hồ mua cho nàng một chiếc áo thơ thời đại, và tập thơ “Cô Gái Xuân” ra đời (1935), mà bài “Mua Áo” là một bài trong tập.
Thơ trong tập CÔ GÁI XUÂN, cả hình thức lẫn nội dung, quả mới hơn thơ trong tập THƠ ĐÔNG HỒ xuất bản trước ba năm (1932), song vẫn bị lu mờ trước những vẻ mới mẻ của các tập Thơ Mới.
Có lẽ vì không theo kịp thời đại, Đông Hồ trở về với kiểu áo ngày xưa, nhưng châm chước cho ăn nhịp với tấm thân đẹp đẽ của Nàng Thơ đương tuổi hồi xuân. Theo tôi, Đông Hồ đã thành công: Tập BỘI LAN HÀNH, ra đời sau khi tác giả tạ thế, hơn tập THƠ ĐÔNG HỒ về nghệ thuật cũng như tình tứ, và hơn tập CÔ GÁI XUÂN về điểm già dặn và đằm thắm.
Bài MUA ÁO là bài thơ thường được nhắc đến khi nói đến Thơ Mới của Đông Hồ, nên có thể làm “đại biểu” cho CÔ GÁI XUÂN. Còn trong số Thơ Cũ của Đông Hồ, bài KHÓC LINH PHƯỢNG trội nhất:
Chăn gối cùng nhau những ấm êm
Bỗng làm ngọc nát bỗng châu chìm
Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thấm
Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm
Hình dạng mơ màng khi thức ngủ
Tiếng hơi quanh quẩn nếp y xiêm
Bảy năm vui khổ nghìn năm biệt
Sớm gió chiều mưa lắm nỗi niềm.
Bông đùa cùng bạn bè, tôi thường ví:
- Tập THƠ ĐÔNG HỒ là một người đàn bà già trước tuổi.
- Tập CÔ GÁI XUÂN là một người đàn bà đã có bốn năm mặt con rồi mà còn nũng nịu với chồng như thời còn con gái.
- Tập BỘI LAN HÀNH là một người đàn bà đứng tuổi nhưng còn đẹp, một người đàn bà lịch sự và có duyên, dịu dàng nhưng nghiêm chỉnh:
Áo thơ Nàng dệt vần hoa gấm
Nở trắng đài xanh đóa tuyết sương
Quả chín tiên đào mây tụ hội
Sao giăng hồng lạp ánh huy hoàng
Chi lan tiệc thọ đêm man mác
Đào lý vườn xưa mộng vấn vương
Gió lộng non trầm dâng khói hạc
Vương đình trăng dọi chén quỳnh tương.
Đây là một đoạn trong bài TRƯỜNG XUÂN HÀNH dài 56 câu [4]. Thơ trong Bội Lan Hành, phần nhiều là thơ trường thiên. Thể thất ngôn bát cú thường dùng làm thơ liên hoàn, hoặc thi ca liên hành. Đứng riêng từng luật rất ít:
ĐỀ VƯƠNG GIẢ HƯƠNG ĐÌNH
Đâu đây thoang thoảng gió hương ngàn
Hương gió ngàn chăng hương gió lan
Cho mực đượm vào hương sực nức
Cho thơ hòa với gió mơn man
Phương tâm tìm được trong vương giả
U cốc gần nhau giữa thế gian
Dầu chẳng đá rêu dầu chẳng suối
Lòng tiên cõi tục cũng thanh nhàn.
Thơ trong Bội Lan Hành, văn chương đều phong lưu đài các như những vần thượng dẫn. Tập thơ gồm được thái độ nghiêm trang của tập Thơ Đông Hồ và tánh cách trẻ trung của Cô Gái Xuân, lại thêm vào kỹ thuật già dặn của con người lịch duyệt.
Thơ Đông Hồ cũng như thơ Tản Đà phản ảnh trung thực đời sống bên trong và bên ngoài của tác giả.
Con người của Tản Đà là một thế giới đầy mâu thuẫn và nhiều phong ba.
Con người của Đông Hồ là một thế giới thanh lịch và an nhàn. Sóng gió bên ngoài thỉnh thoảng cũng có tạt vào, song chỉ trong giây lát và cũng không mãnh liệt đến nỗi đá lở bụi tung.
Cho nên thơ Tản Đà động, thơ Đông Hồ tịnh.
Có thể ví thơ Tản Đà như hoa, thơ Đông Hồ như trái, thơ Tản Đà như núi sông mây ráng, thơ Đông Hồ như cung điện đình đài. Thơ Tản Đà là thơ của nhiều người, nhiều hạng người. Thơ Đông Hồ là thơ của hàng phú quí, hàng học thức. [5]
Do đó mà thơ Tản Đà phổ biến sâu rộng hơn thơ Đông Hồ.
C- HÀN MẶC TỬ VÀ BÍCH KHÊ
Đông Hồ là một người chê quê hương Thơ của mình cũ kỹ cằn cỗi không đủ nuôi sống tâm hồn, bèn khăn gói lên đường đi tìm đất mới. Nhưng sau khi gây được một ít sự nghiệp nơi quê người, thì đem vốn liếng thu được về quê cũ, ra công tài bồi canh cải làm cho cảnh gia hương trở nên trù phú phong lưu.
Bích Khê và Hàn Mặc Tử cũng là hai nhà thơ cũ bỏ làng đi làm ăn xa. Và nơi đất mới, lập nên sự nghiệp vẻ vang thì nhập tịch luôn ở làng thơ Mới. Thỉnh thoảng mới trở về làng cũ thăm người bạn thân đương sống lẻ loi ở đó, trong giây lát mà thôi.
Vì vậy:
Phần đông các nhà phê bình văn học liệt Đông Hồ vào làng Thơ Cũ.
Còn nói đến Bích Khê, Hàn Mặc Tử, thì chỉ nhắc đến những vần thơ mới:
Đừng nhắc nhở tên anh ngoài lỗ miệng
Vì gió hương nghe được rỉ thầm hoa
Lộ mất rồi tâm sự của đôi ta
Chưa từng nói cho một ai hay biết
Chưa từng dặn ngày mai rồi tiễn biệt
Chưa bao giờ nhắc đến chữ chia ly
Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quì
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu
Não nê lòng viễn khách giữa cơn mơ
Trời từ bi cảm động ứa sương mờ
Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá
Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã
Anh đoán chừng cơn ấy em ngất đi.
Khổ lòng chưa em hỡi mộng tình si
Cuồng dại quá khiến nước mây sường sượng
Nhưng qua rồi những phút giây tơ tưởng
Anh nhìn trăng lỏn lẻn đậu cành cao
Phải giờ này đang lúc em chiêm bao
Vì chính giờ này anh đang yêu thiệt
- Em hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt.
(Hãy Nhập Hồn Em - Hàn Mặc Tử)
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ,
Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi đây?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mặt trời châu rụng ánh sáng nghê thường.
Lệ tích lại sắp tuông hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Vài chút trăng say đọng ở làn môi...
(Tranh Lõa Thể - Bích Khê)
Chớ ít ai nói đến thơ cũ của hai nhà, mặc dù có nhiều bài không nhượng thơ Tản Đà, thơ Đông Hồ:
BUỒN THU
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Cảnh sắp về đông mắt lệ vơi.
(Hàn Mặc Tử)
MỘNG TRONG HƯƠNG
Nửa cánh giang hồ bạc nhớ thương
Đêm nay buồn lắm! gục bên giường…
Ngoài ly Lý Bạch trời như mộng
Trong khói phù dung mộng có hương
Thì mộng: xuân hương nường đã tới
Thưa cô, dáng nguyệt tuyết còn vương.
Tỉnh ra thì thấy mình trong mộng
Nửa mảnh trăng treo một mặt buồn!
(Bích Khê)
Những bài này, Tử và Khê làm khi đã nhập tịch Thơ Mới. Những thi luật làm lúc chưa di cư, văn chương na ná như thơ đăng ở Tiếng Dân, Phụ Nữ Tân Văn…, nghĩa là khô khan bằng phẳng, nhiều chất văn ít chất thơ.
Trường hợp Đông Hồ, Hàn Mặc Tử, Bích Khê cho chúng ta thấy rằng phong trào thơ Mới chẳng những không có hại chi đến thơ Cũ mà còn giúp cho thơ Cũ tìm thấy lại sanh khí cái bản chỉ mà đám thi công đã làm mất.
Và làm thơ mới, Hàn Mặc Tử, Bích Khê thường dùng thể lục bát và song thất là hai thể cũ. Nhưng nhiều khi thay đổi cách điệu để cho thích ứng với trào lòng. Như bài SAY CHẾT ĐÊM NAY:
Trời hàn giang đêm nay không sóng
Lòng cô liêu đồng vọng mà chi
Gió đông đoài gặp tình si
Ôi chao quấn quít nói gì nhớ thương
Trăng cổ độ hết vương cành trúc
Hẹn đoàn viên tình thực chiêm bao
Đêm nay lại giống đêm nào
Nhấp song chung rượu buồn vào tận gan
Say thôi lại muốn nàng nâng đỡ
Nhưng nàng xa từ thuở vu quy
Nhớ thôi lòng những sầu bi
Lệ sa vào rượu hàng mi lờ đờ…
Ta là khách bơ vơ phàm tục
Nhớ cầm trăng cung bực tiêu tao
Không ai trang điểm má đào
Cho ta say chết đêm nào đêm nay!
(Hàn Mặc Tử)
Từ cách dùng chữ đặt câu cho đến cách nghỉ hơi truyền ý đều khác các án danh thi của cổ nhân, như Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Tỳ Bà Hành, Tự Tình Khúc…
Hai câu đầu:
Trời hàn giang đêm nay không sóng
Lòng cô liêu đồng vọng mà chi.
Chúng ta nhận thấy trong mỗi câu chỉ có một tiếng trắc. Âm hưởng của câu thơ khi đọc lên tạo ngay một bầu không khí yên lặng, yên lặng đến nỗi nghe được tiếng đồng vọng của lòng cô liêu.
Hai câu thơ này làm cho tôi liên tưởng đến hai câu mở đầu trong bài Tỳ Bà Hành:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.
Hai tiếng trắc ở đầu và cuối câu thứ nhất và hai tiếng trắc ở đầu và cuối câu thứ hai, gợi hình ảnh hai bờ đất nổi lên đất ở hai bên sông mà những tiếng bằng là dòng nước lặng lẽ chảy ở giữa.
Dùng âm hưởng của tiếng để tạo hình ảnh gây không khí cho thơ như thế là thần tình, là tuyệt diệu.
Có người cho đó là tình cờ mà được. Theo tôi thì không phải tình cờ. Những tình thơ ý thơ vốn đã chất chứa sẵn, un đúc lâu trong tâm hồn người thơ, và kỹ thuật làm thơ đã được rèn luyện thuần thục, rèn luyện thường xuyên liên tục chầy ngày. Rồi một khi hứng đến, đến bất kỳ lúc nào thì tâm và nghệ liền phối hợp chặt chẽ để phụng sự nàng Thơ, một cách năng lực và hữu hiệu. Người không từng sống với thơ, chưa từng thể chứng, mới sanh lòng nghi ngờ, mới cho là sự ngẫu đắc.
Cách điệu được đổi mới trong bài trên có để ý mới thấy.
Đọc bài MUÔN NĂM SẦU THẢM sau đây mới dễ nhận thấy những nét canh tân:
Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan!
Nghe hơi gió ôm ngang lưng gió,
Tưởng chừng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương…
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì!
Nhớ lắm lúc như si như dại
Nhớ làm sao bải hoải tay chân
Nhớ hàm răng nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều
Dẫu đau đớn vì nhiều phụ rẫy
Nhưng mà ta không lấy làm điều
Trăm năm vẫn một lòng yêu
Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi.
(Hàn Mặc Tử)
Thường thường trong thơ cũ ý của câu nằm gọn trong câu chớ ít khi để thòng xuống câu dưới. Nếu có đi nữa thì câu thất truyền cho câu thất, câu lục truyền cho câu bát, chớ chưa từng thấy ý câu thất lại truyền xuống cho câu lục như trong thơ Hàn Mặc Tử:
Nghe hơi gió ôm ngang lưng gió,
Tưởng chừng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương.
Chẳng những truyền ý mà còn truyền cả chữ: “có hương của người mình nhớ mình thương”. Đó là chịu ảnh hưởng của thơ Pháp. Các nhà Thơ Mới thường dùng. Như trong bài Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ có câu:
Trời cao xanh ngắt! Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Trong bài Chiều Xưa của Huy Cận có câu:
Ngàn năm sực tỉnh, lê thê
Trên thành son nhạt. Chiều tê cuối đầu.
Phép “Đem chữ liền nghĩa cả câu trên sang xuống câu dưới” (enjambement) không phải người xưa không bao giờ dùng. NGUYỄN HUY HỔ (1783-1841) trong Mai Đình Mộng Ký có câu:
Duyên tế ngộ hội công danh
Là hai, với nghĩa chung tình là ba.
Phép xưa đã có sẵn, nhưng vì ít người dùng đến thành bị vùi lấp. Hơn một thế kỷ sau mới thấy trở lại trong thơ Mới và qua văn chương ngoại lai.
Còn nhiều trường hợp tương tự như trường hợp “sang hàng” (enjambement) nói trên. Ví dụ:
BÍCH KHÊ có mấy bài thơ dùng toàn tiếng bằng hoặc hầu hết là tiếng bằng chỉ chen một số ít tiếng trắc. Tạo cho thơ một bầu không khí thái bình và gieo trong lòng người đọc một nỗi buồn trầm trầm dịu dịu:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào nguyên cho xa xôi
Đào nguyên trong lòng nàng đấy thôi
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
(Tỳ Bà)
Đó là toàn bình. Có chen một vài tiếng trắc:
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê người say men hương.
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xa cừ hay san hô?...
(Nghê Thường)
Trăng vừa đủ sáng để gây mơ,
Gió nhịp theo đêm không vội vàng;
Khí trời quanh tôi làm bằng tơ.
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ.
Cây cỏ bình yên, khuya tĩnh mịch,
Bỗng đâu lên khúc Lạc ân thiều…
Nhị hồ để bốc niềm cô tịch,
Không khóc nhưng mà buồn hiu hiu.
Điệu ngã sang bài Mạnh Lệ Quân,
Thu gồm xa vắng tự muôn đời.
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời.
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…
Không ai dám quả quyết rằng lối thơ “toàn bình” của Bích Khê phát xuất từ bài NHỊ HỒ của Xuân Diệu, hay Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của Bích Khê, hay chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Nhưng lối thơ này không phải mới có. Người xưa đã từng dùng đến. Như LỤC QUY MÔNG đời Đường có bài HẠ NHẬT NHÀN CÚ, toàn thiên không có một tiếng trắc:
Hoang trì cô bồ thâm
Nhàn giai môi đài bình
Giang biên tòng hoàng đa
Nhân gia liêm lung thanh
Vi thư lăng di biên
Điều huyền khoa tân thanh
Cầu hoan tuy thù đồ
Thâm u liều di tình [6]
Trước đời Đường và sau đời Đường cũng có nhiều người làm, song thường thường những câu “toàn bình” chen vào những câu “phổ thông” như trong bài NHỊ HỒ của Xuân diệu, hoặc trong toàn bài thỉnh thoảng có điểm một ít tiếng trắc. Như trong bài Nghê Thường của Bích Khê. Những trường hợp này chúng ta thường gặp trong Kinh Thi. Trong thơ Tô Đồng Pha đời Tống cũng thường gặp:
Xuân lai cố hương qui vô kỳ
Nhân ngôn thu bi xuân cánh bi [7].
Được nhiều người thuộc là mấy câu trong bài ký của PHẠM TRỌNG YÊM đề nơi Tự đường Nghiêm Tử Lăng:
Sơn thương thương, thủy ương ương…
Tiên sanh chi phong, sơn cao thủy trường.
Nhưng thơ của Cổ nhân và thơ của nhà thơ Mới, phong điệu và cố cách khác hẳn nhau.
Có người bảo rằng:
- Lối thơ toàn bình không phải do Xuân Diệu hay Bích Khê sáng chế. Chính họ đã dùng thể cũ mà biến chế thành thể mới đó thôi.
Không chắc, vì Xuân Diệu cũng như Bích Khê, theo chỗ tôi biết, ít đọc thơ Đường Tống.
Song nói gì thì nói, chúng ta vẫn thấy rõ rằng Xuân Diệu đã đi xa hơn Cổ Nhân và Bích Khê lại đi xa hơn Xuân Diệu. Bích Khê đã cùng với Lục Quy Mộng đưa ra đời một thể thơ hẳn hoi, thể TOÀN BÌNH. Có thể nói Lục Quy Mộng sáng tạo và Bích Khê tái tạo.
Dựa trên trường hợp “ngắt chữ sang hàng” (enjambement) và “dùng nhiều tiếng bằng”, chúng ta nên nhấn mạnh thêm một lần nữa:
- Thơ Mới chẳng những không làm chết thơ Cũ mà còn làm sống dậy nhiều điều mà chính phần đông nhà thơ cũ, vì vô tình hay vô ý thức, đã làm “bất tỉnh” lâu đời.
Và tôi mạnh dạn kết luận rằng:
- Muốn cho thơ Cũ sanh sắc trở lại như buổi thịnh thời, thì hoặc dùng những cái hay cái đẹp trong văn chương Âu Mỹ làm phân bón, hoặc ra công khai thác những cái hay cái đẹp trong nền văn học cổ Trung Hoa và Việt Nam, để làm thuốc bồi bổ, hoặc pha lẫn cả hai để biến chế thành một món ăn tinh thần thích hợp với hồn Dân Tộc.
Chẳng riêng gì thơ cũ.
Thiết tưởng toàn thể thơ Việt Nam đều nên thế, để cho cây thơ Việt Nam khỏi mất gốc và đơm hoa kết quả mỗi ngày mỗi thêm một sum.
Thực hiện được chỉ có những nhà thơ lấy thơ làm lẽ sống và sống chết cùng thơ, nhất là những người Thơ mang nặng dân tộc tánh.
Chú thích:
[1] Thi dã, thừa dã, chí dã, trì dã.
[2] Theo lời giải của Khổng Dĩnh Đạt: thừa quân chính chí thiện ác; thuật kỷ chí nhi tác thi; vi thi sở dĩ trì nhân chi hạnh, sử bất thất trụy.
Chữ TRÍ mà chúng ta thường gặp trong những lời nói của cổ nhân, như “thi ngôn chí”, như “thuật kỷ chí”, không phải chỉ trỏ cái ý chí hay cái chí khí mà thôi. Đó là nói tất cả những gì thuộc về trí và tâm. Cho nên trong bài tự kinh thi có nói rõ: “tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi”. Nghĩa là “còn ở trong tâm gọi là CHÍ; đã phát ra gọi là THI”
[3] và 2 Tôi chỉ đề cập đến những vị tôi biết được rõ ràng vì đã từng giao thiệp.
Và đây chỉ nói đến những thi nhân đã qua đời.
[4] Hành là lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn trường thiên làm theo thể cổ phong.
[5] Phần nhiều là thế chớ không phải tất cả đều thế.
Đông Hồ còn tập thơ TRINH TRẮNG. Nhưng đó là một tuyển tập, chớ không phải một tác phẩm “tự trị” nên không đề cập ở trong bài này.
[6] Nghĩa là: Ao hương lan lách dày - Thêm vắng rong rêu đầy
Bên sông trái tùng nhiều - Nhà người rèm sáo mát
Vì thư đụng đến sách cũ - So dây lựa khúc mới
Mua vui tuy khác đường - Nơi sâu tịnh đều lưu tình.
[7] Nghĩa là: Xuân đã lại mà ngày trở lại cố hương không biết là bao giờ! Người nói rằng mùa thu buồn, nhưng mùa xuân lại càng buồn hơn.
67.
Đời Đường (618-907) là “hoàng kim thời đại” của thi ca. Từ kim ốc đến bồng môn, từ bậc chí tôn đến hàng ca kỹ, ai ai cũng ưa thích cũng quí trọng thi ca. Tao nhân mặc khách đi tới đâu cũng được nhìn với đôi biệt nhãn. Bầu không khí văn chương bao trùm cả nước Trung Hoa rộng lớn. Nhờ vậy mà thi nhân nổi danh có trên vài nghìn, thi phẩm còn lưu thế có đến hàng triệu.
Cho nên nói đến thơ Trung Hoa, từ xưa đến nay, độc giả cũng như phê bình gia đều nói đến thơ Đường trước hết. Cổ nhân lại có câu: “Đường thi Tấn tự Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm”. Nghĩa là: “Thơ đời Đường, chữ đời Tấn, văn chương đời Hán, là những nghệ phẩm tuyệt diệu trong thế gian”.
Thơ Đường có nhiều loại nhiều thể, nhưng thơ Luật chiếm phần lớn. Nên nói đến thơ Đường, thường thường nhắm vào thơ Luật.
Nhưng HỒ ỨNG LÂN đời Minh lại nói:
- Thơ thất ngôn Luật rất khó. Đời Đường làm được hay chẳng qua mươi nhà, và ở mỗi nhà chẳng qua mươi bài. [1]
Thơ Đường mà còn thế huống hồ thơ Việt âm!
Thơ Quốc âm Đường Luật theo nhà Trần nhà Lê mà sanh trưởng và theo nhà Nguyễn mà suy vong. Trải trên 650 năm dầu dãi [2], nắng mưa còn để lại cho nền văn học Việt Nam không tới mười nghìn bài. Nếu chọn lựa một cách khắc khe như Hồ Ứng Lân thì phỏng được bao nhiêu bài tuyệt tác? [3]
Thật đáng buồn!
Mà cũng thật đáng hãnh diện!
Bởi cũng thì một nước văn hiến với người ta, mà văn chương đem so với người cách nhau như ao vuông biển cả! Nghĩ chẳng đáng buồn lắm sao?
Nhưng nghĩ lại: nước ta là một tiểu quốc, chữ Việt thì lại bị coi là chữ phụ thuộc bên cạnh chữ Hán trên bao nhiêu thế kỷ, văn chương quốc âm bị coi là văn chương du hí, thi nhân không được chánh quyền và xã hội nâng đỡ. Như thế mà vẫn sản xuất nhân tài, như Hàn Thuyên…, Nguyễn Trãi, Ôn Như Hầu, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Du…, Bà Huyện Thanh Quan, Tương An Quận Vương, Nguyễn Khuyến, Tôn Thọ Tường, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khắc Hiếu… vân vân… và vẫn sản xuất nhiều giai tác như chúng ta đã thấy phần lớn bằng nửa nước Trung Hoa, văn quốc âm được trọng dụng, thi nhân được biết đãi như thời nhà Đường, thì nhất định thi ca Việt Nam không nhượng thi ca Trung Quốc.
Trong năm châu cũ mới, có nước nào đồng cảnh ngộ với Việt Nam mà thi ca được nảy nở như Việt Nam chăng? Thật chưa từng nghe nói.
Như vậy chúng ta không đáng hãnh diện sao?
Buồn để mà lo. Hãnh diện để mà gắng. Lo xây dựng nền thi ca nước nhà, gắng tiến thủ cho kịp người hơn người.
Tiền đồ của Việt Nam, về mặt văn chương cũng như về mọi mặt khác, hư hay nên là do lớp thanh niên đương vươn mình vào cuộc sống.
Lòng chứa chan hy vọng, vì ông cha ta vốn là giống Rồng Tiên:
Thà không trời đất không chi cả.
Còn có non sông có lẽ nào… [4]
Sửa chữa và sắp xếp xong ngày 14 tháng 4 năm Tân Hợi tức ngày 8 tháng 5 năm 1971.
QUÁCH TẤN
[1] Hồ Ứng Lân là tác giả tập Thi Tẩu. Họ Hồ dựa trên nguyên tắc gắt gao của Đường Luật đã được nhiều đời tinh vi hóa phiền phức hóa mà bình luận. Phần nhiều nhà phê bình đời Minh đều không phục thơ luật đời Đường.
[2] Luật thơ Đường được dùng vào thơ Quốc âm từ đời Trần Nhân Tông (1279-1293), và đời nhà Nguyễn chấm dứt từ ngày Bảo Đại thoái vị (1945). Nên nói trên sáu trăm rưỡi năm.
[3] Một bài thơ tuyệt tác hay toàn bích là một bài thơ mà hình thức của luật Đường phải triệt để tuân thủ và nội dung phải cho phong phú và thanh cao. Bài thơ phải hoàn hảo như một xâu chuỗi ngọc mà mỗi chữ là mỗi hạt minh châu không có vết.
[4] Thơ Sào Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét