Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2021

Mùa cổ điển - Thơ Quách Tấn

Mùa cổ điển - Thơ Quách Tấn

TỰA
Chúng ta thích những gì chúng ta thiếu. Khi, vì liên tài, tôi tìm và gặp được ông QUÁCH TẤN, lòng tôi vui sướng bao nhiêu! Ai ngờ rằng cái thế kỷ hai mươi nhộn nhịp với những thi sĩ dâm loạn, điên cuồng, gian trá, độc ác của nó, lại còn giữ nguyên vẹn, đâu đây, cả một bầu không khí Tống, Đường. Thật thế, QUÁCH TẤN chúng ta có đủ phong vận của một tao ông mặc khách thời buổi đó.
Và bắt buộc tôi phải nói nhiều đến cái tâm hồn diễm lệ của người. Bởi vì chỉ trong chốc nữa, chính nó sẽ soi xuống, vào cái mặt giếng trung thành của những trang thơ.
Tôi nghĩ ngay - lố bịch thay là ý tưởng - đến một chiếc bình lọc nước: chậm chạp mà vững vàng, âm thầm mà mạnh mẽ, nó sẽ thấm chất nước ngọt ngào ở chung quanh vào trong tinh khiết của lòng mình, gạn lọc, chọn lọc. QUÁCH TẤN là như thế đó. Một sự thu nhận rất đỗi thận trọng điều hòa. Cử chỉ ít, lặng, nhưng đầy ý nghĩa. Lời nói sưa, nhỏ, nhưng không thiếu sâu xa. Tóm lại có thể trong mấy chữ: hiểm tuy rằng điềm. Đó là cái tính của hồ, một mặt phẳng im, trên một lòng sâu tối. Đó là cái tính của núi, đơn sơ ba nét, ba chiều cổ điển, nhưng tâm lý chi ly từng ngọn cỏ, nhành gai. Yêu hồ yêu núi dường kia, không trách QUÁCH TẤN không thích bể là phải lắm. Một lần người bảo: "Tôi chỉ yêu nó khi nó là một mặt lặng im thôi". Tôi tưởng như người đã nói rõ quan niệm của người trong câu nói đó. Bởi vì QUÁCH TẤN không phải chỉ là người chôn hoa khóc hoa, tưởng nhớ một lòng sen, cảm thương một thân lá. Cũng không phải ông chỉ là người ưa siêu thoát ra ngoài thế sự, mong lấy cái hư vô làm cái tâm hồn, bởi lẽ tâm hồn đã quá say đắm hư vô. Không! Ông đủ cái phức tạp của chúng ta, lại thêm cái từng trải của một con người tam thập. Nhưng ông đã trót mang cái quan niệm là đàn áp, đàn áp tất cả, để được bình tĩnh mà đón tiếp thi ca. Tưởng là khô khan của Cao đạo, nhưng thật ra trong suốt của Tượng trưng. Cũng không đáng lấy làm lạ, khi người ta bước ra từ địa hạt của thơ Đường, nguồn tượng trưng thuần túy nhất.
Tôi có cảm giác, một khi về với thơ Tàu, là thế giới chia ra hai phần: một, mặt đất, hai, cái tượng trưng của nó bên trên: không khí. Nhà thơ là người hiểu nhất về cái bên trên. Đáng lẽ than khóc cái cành hoa rơi, họ than khóc cái chỗ trống của cành hoa rơi. Đáng lẽ kêu gọi một ngọn gió, họ chỉ kêu gọi cái gì như hình thể của ngọn gió. Họ đi đến với chung quanh, với sự vật không bằng đường đất của con tim, bàn chân của cảm tình, nhưng bằng không gian, bằng cánh bay của trực giác.
Riêng về QUÁCH TẤN, cái quan niệm "tình nhiều nhưng không được lộ, khí mạnh mà phải dằn" như sao ta có thể đọc thấy rõ ràng, trong mấy câu, gọi, đi là tâm sự:
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ,
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ.
Và sự liên tưởng, xui chúng ta không sao không nghĩ đến một đôi nhà thi sĩ Pháp đã đưa cái thuyết: "Người thơ khi đi tìm cái đẹp phải dằn lên những dục vọng tầm thường, phải gạt tro ra cho điếu thuốc được dễ dàng cháy theo với lửa”. Phương Đông, phương Tây, ngửng lên cùng trông thấy trời kia xanh.
Một quan niệm như thế ở một nhà thơ cũ, chẳng xui ta ngạc nhiên mảy may nào hết. Ai đã có thể yêu sự tự ràng buộc của tâm hồn, thì yêu luôn cái ràng buộc tâm hồn bởi ngoại cảnh. Kẻ hoàng vương sợ gì lễ nghi. Bởi vì lễ nghi làm ra kẻ hoàng vương vậy. Con cá đẹp, múa giữa bốn mặt pha lê, mà cũng làm được khoái lạc cho kẻ tài tử - chính vì nó múa giữa bốn mặt pha lê. Cái múa tự do đó, QUÁCH TẤN nuôi mãi trong hy vọng. Ông nguyện ngày kia sẽ trả lại hoàn toàn cho thơ Cũ, cái hoàn toàn của nó - âm điệu, nhịp nhàng, uyển chuyển, đổi thay - mà "làng thơ Việt Nam đã bao lâu đánh mất". Mười năm, hai mươi năm, hay cần đến, cả một đời, điều ấy là một điều chẳng đáng kể với ông.
Tập thơ thứ hai này vượt biết bao nhiêu tập thơ thứ nhất đã làm chúng ta không mãn nguyện. Tập thơ thứ hai này, tuy xinh đẹp dường ấy, yêu kiều dường ấy, ông cũng rụt rè mà cho là thêm một bước tập tành.
Và xin cảm ơn cái tập tành ấy nhé!
Bởi vì, tập MÙA CỔ ĐIỂN bé bỏng nhưng quá đầy đủ, trước hết, đã giải cho ta một mối lầm ác nghiệt là phân chia bờ cõi THƠ bằng hai chữ MỚI,CŨ chẳng có ý nghĩa gì. Và cũng không thể gọi là sau hết, cái việc nó đem lại, - ngoài những ý hay, tứ mới, ngoài những cảnh đẹp tình sâu, - một cái quý báu nhất là HỒN THƠ, mà chưa một ai định nghĩa cho rành mạch. Những người, không vì một lẽ gì rõ ràng, đã thích những câu:
Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng,
Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung.
(Phạm Thái)
Vàng rụng giếng ngô sa lá gió,
Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương.
(Tương An)
Một tòa sen tỏa hơi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
(Thanh Quan)
Xuân đào lý gió đêm hoa nở,
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng.
(Tản Đà)
Họ sẽ hiểu tôi muốn nói gì.
Ấy là tôi muốn nói đến thơ thuần túy.
Phải rồi QUÁCH TẤN, tuy chưa đến được - vì ai mà đến được, vả chăng ông cũng chẳng mong đến được bây giờ - nhưng ông đã đi gần cái thể đọng của thơ thuần túy mà ở cổ nhân, ta chỉ thường thấy trong các bản Cung oán ngâm khúc, Tần Cung nữ oán Bái công văn...
Hỡi những bạn trẻ! Chúng ta vẫn thường say mê cái nguồn thơ phương Đông, sao hôm nay chúng ta không đón rước cái chân tài đương độ nở này; - huống gì đó lại là kẻ đại biểu cuối cùng cho một trường Thơ hôm nay tẻ lạnh.
Tôi phải nói thế nào cho đủ lòng tin của các bạn đây? Một bài tựa không phải là một chỗ ca tụng. Nhưng khi với những bài thơ đầu, TẢN ĐÀ đã không ngần ngại mà đặt QUÁCH TẤN bên Yên Đỗ, Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan, Tôn Thọ Tường..., thì với tập thơ thứ hai này, sao tôi không đủ can đảm để nói rằng: Qua các cổ nhân, đến bây giờ, bạn trẻ chúng ta mới tìm thấy những bài thơ bát cú mà chúng ta yêu được hoàn toàn, một nhà thơ Cổ điển hiến dâng một mùa mà chúng ta đón tiếp với một lòng vui sướng không do dự.
Cái đẹp, người ta bảo nên để nó đi đến một mình. Nhưng hôm nay sự nó đến không có tính cách dĩ nhiên, cái một mình lại thành ra bó buộc, bởi vậy nên xin
CÓ TỰA
Nha Trang, Xuân năm Rắn (1941)
CHẾ LAN VIÊN
Phần I:  Từ 1941 trở về trước 
THƠ VỀ
Giấc mộng nghìn xưa đương mải mê,
Vùng nghe cảm hứng báo THƠ về.
Sóng mài nghiên biển ngòi non chấm,
Gió trải tờ mây chữ nhạn đề.
Vồn vã tiếng dương ngâm lại đọc,
Rỡ ràng sắc rỡn điểm rồi phê.
Tứ tràn ra mãi trong cao rộng...
Thiên nữ bưng hoa rắc xuống tề.
ĐÊM THU NGHE QUẠ KÊU
Từ Ô y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng...
Trời bến Phong kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang...
DƯỚI LIỄU CHỜ XUÂN 
Tin xuân gió rải khắp nơi nơi,
Dưới liễu chờ xuân gắng gượng cười.
Bạn khắp non sông mà vắng vẻ,
Tình trong gang tấc vẫn xa xôi!
Thân gầy với nguyệt bao phân nữa?
Tóc rụng theo sương mấy lớp rồi!
Dòng cũ Ngân hà sâu bến đợi,
Muốn đem sầu gởi nước trôi xuôi...
CẢM THU
Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu,
Đây lòng ta đó một trời thu.
Gió vàng cợt sóng sông châu mặt,
Mây trắng vờn cây núi bạc đầu.
Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đấy,
Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu?
Hỡi người chinh phụ nương rèm liễu
Sùi sụt chi thêm bận vó câu!
TRỜI ĐÔNG
Chuông gióng hàn san bẵng tiếng ngân,
Ngàn xa tiếng địch cũng xa dần.
Lá thương nhánh nặng bay hầu hết,
Trời sợ non côi xích xuống gần.
Ngần ngại gió mưa chim ẩn bóng,
Quây quần mây khói liễu riêng xuân.
Đêm như dài lắm... Người Vân Hớn
Trong giấc thăm nhau được mấy lần?
TRỜI KHUYA
Sương buông màn lượt phủ bao la...
Non nước chìm sâu trong giấc mơ.
Cung quế im lìm mây ấp nguyệt,
Song đào âu yếm gió hôn hoa.
Hương trà pha lẫn hương trầm thoảng,
Tiếng dế hòa ăn tiếng địch xa.
Lẳng lặng thâu đêm người đối cảnh,
Hồn tan theo mộng tứ theo thơ.
GIÓ KHUYA
Ngọn gió muôn xa đưa đẩy vào,
Nửa phòng mây rộng một trăng cao.
Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu,
Hương chập chờn bay khóm trúc đào.
Vàng ngọc nhảy reo câu khiển hứng,
Non sông huyền hoặc sắc chiêm bao.
Lòng chan chứa biết bao cay đắng,
Tan sạch còn lưa chút ngọt ngào.
ĐÊM TÌNH
Giấc thắm tình duyên non gối nước,
Màn sương để lọt ánh sao băng.
Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió,
Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng.
Muôn điệu tơ lòng run se sẽ...
Nửa vời sóng nhạc gợn lâng lâng...
Phòng hương thương kẻ ngồi nương triện,
Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng.
NHỚ THƯƠNG
Hôm nao rừng biếc mới pha sương,
Nay nhánh còn đôi chiếc lá hường.
Núi cũ chim về xa lảng tiếng,
Đường quen ngựa nhóng ngại ngùng cương.
Mây chiều hợp, mãi thêm ngây bóng,
Mộng sớm tan, rồi vẫn đắm hương.
Đêm nọ giở pho tình sử nọ,
Mỗi hàng châu khóc mỗi hàng thương.
MỘT ĐÊM MƯA MÙA THU
Thâu canh tầm tã giọt mưa thu,
Tin tức nàng Trăng những biệt mù!
Chiếc gối lơ làng duyên phấn điệp,
Cung cầm lểnh loảng giọng hà mô.
Thơ dầm mực lạnh thương khôn nén!
Nến xót tình chi lệ chẳng khô?
Nghìn dặm nước mây đêm quạnh quẽ,
Có thuyền ai ghé bến Huỳnh cô?...
MỘNG THẤY HÀN MẶC TỬ
Ơi Lệ Thanh! Ơi Lệ Thanh!
Một giấc trưa nay lại gặp mình.
Nhan sắc châu pha màu phú quý,
Tài ba bút trổ nét tinh anh.
Rượu tàn thu cũ say sưa chuyện,
Hương tạ trời cao bát ngát tình.
Tôi khóc tôi cười vang cả mộng...
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành.
(24/4/1940) 
TÚP LỀU THƠ
Lầu xuân ổ phụng giá xem thường,
Một túp lều tranh ẩn nắng sương.
Lối chẹt lờ mờ rêu thế sự,
Song thưa ngào ngạt gió văn chương.
In màu đạm bạc mây qua chái,
Vẽ nét thanh cao liễu nép tường.
Bên luống cúc già vầy thú cũ,
Ra về sống áo đượm mùi hương.
LẺ ĐIỆU
Lạnh lẽo sông thu tiễn lá ngàn,
Mây thu vờn vẽ khói trần gian.
Có tơ ai nhớ công tằm khổ!
Không mật đành chê kiếp bướm nhàn!
Gió bấc mỉa mai lòng bạch nhạn,
Bóng chiều ngao ngán phận hồng nhan.
Con thuyền bến lách không tri kỷ,
Để lẻ trong sương mấy điệu đàn.
TRƠ TRỌI
Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ!
Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ!
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ,
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ!
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng,
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ...
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại?
Con thước qua song lại ỡm ờ!
HIU QUẠNH
Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi,
Đìu hiu còn đọng ngấn ly bôi!
Mộng về lối cũ tìm khôn gặp,
Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi!
Lá rắc thêm sầu rơi gió một,
Chim dành riêng thú liệng trời đôi.
Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh,
Cúc nỡ nhìn nhau mỉm miệng cười!
ĐÊM MƠ
Thuyền ai neo nguyệt bến Sông Ngân,
Khúc nhạc giao bôi rót xuống trần.
Sương bạc vấn vương lòng quả phụ,
Trúc vàng tha thướt bóng giai nhân.
Hồ im vẻ ngọc mơ duyên lá,
Sân vén rèm hoa đón ý xuân.
Muôn dặm gió về say lảo đảo,
Cành hương chợt tỉnh ngát hương lân.
CHIỀU XUÂN
Chim mang về tổ bóng hoàng hôn,
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn.
Cành gió hương xao hoa tĩ muội,
Đồi sương sóng lượn cỏ vương tôn.
Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng,
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn.
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá!
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.
ĐÊM THU
Vườn thu óng ả nét thùy dương
Đưa nhẹ đêm theo cánh hải đường.
Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt,
Phất phơ tơ nhện tủa ngàn sương.
Chim hồi hộp mộng cơn mưa lá,
Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương.
Say khướt hơi men thời Lý Bạch,
Non xa mây phới nếp Nghê thường.
MỘT BUỔI TRƯA MÙA THU
Gió tự đâu về? Thổi đến mô?
Mấy cành sao rụng bóng hoa nô...
Đây vài giọt nhẹ rơi mưa lá,
Đó một màu im trải nắng hồ.
Tóc vướng hơi hương vườn túy liễu,
Lòng nương tiếng địch bến vi lô.
Trưa Bồng lai khẽ rung rinh biếc,
Nghiêng cả hồn thu xuống lững lờ...
BÊN SÔNG
Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc,
Sông dừa lạnh tới bóng trăng run...
Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?
Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
TÌNH XƯA
Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm
Trông chừng bến cũ biệt mù tăm...!
Cảm thương chiếc lá bay theo gió
Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm.
Phần II:  Từ 1945 đến 1956
CHÚT LÒNG
Từ phen biển mộng khép trăng song,
Nửa mẫu vườn quê tạm náu lòng.
Đi đứng luống thương đường lối hẹp,
Ăn nằm dám phụ nước non chung.
Mười phương tin tức mây hờ hững,
Ba kiếp văn chương bút ngại ngùng!
Bạn tác ví thương tình gặp gỡ,
Đừng đem mây ráng đọ nghi dung.
(Phú Phong - 1950)
QUA XUÂN
Đôi tiếng chim vàng nghe chửa nhuyễn,
Nhìn xuân bóng ngựa đã xa lơ!
Biết bao tươi thắm sai hò hẹn,
Còn chút thơm thanh dám hững hờ.
Cánh phấn ấp iu tằm nhả kén,
Nhụy hồng dan díu nhện trương tơ.
Một mai trăng chở thu về cúc,
Rèm cuốn sương hương tỏa lững lờ. 
ĐÊM TÁI PHÙNG
Đưa nhau nước biếc trổ phù dung,
Rụng mấy mùa hoa bỗng tái phùng.
Muôn dặm bèo mây duyên cũ mới,
Nửa đời dâu bể nỗi riêng chung.
Vườn nương xuân muộn trao đằm thắm,
Chén rót trăng khuya luống ngại ngùng.
Bừng tỉnh giấc say trời chửa sáng,
Địch chiều như đã vẳng bên sông!
THU TRÀNG AN
(Gởi Kiến Đạo ở Phú Yên)
Thân không hò hẹn bước giang hồ,
Để lẻ hoa vàng tiết rụng ngô!
Chăn gối trễ tràng đêm thất tịch,
Gió trăng chờn chợ bến hoàng đô.
Xuân tàn ngọn sáp tâm còn bén,
Thu ấm lò nghê đức chẳng cô.
Đành cũng nước mây niềm cố lý,
Mừng tin sương sóng tạnh đầm Ô.
(Huế - 1946) 
LÁNH CƯ
Khôn tới Đào nguyên tránh loạn ly,
Thân côi nương náu tạm qua thì.
Mây trưa mống xế chung thời tiết,
Rẫy mít vườn thơm ít thị phi.
Phòng vắng ngẩn ngơ hồn Tử Mỹ.
Ngày dài gượng gạo giấc Hy Dy.
Đêm đêm nằm đợi canh gà giục,
Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri.
(Phú Ân - 1947)
VIẾNG MỘ BẠN
Vừa mới hôm nào em với anh,
Mở chồng sách cũ vạc sang canh:
Nghìn thu tâm sự thương người trước,
Một mối văn chương cảm phận mình...
Chừ đã cách xa trời mỗi cõi!
Biết đâu tìm gặp đá ba sinh?
Bên mồ nắm trấu riêng sùi sụt
Nhen bóng hoàng hôn đóm lửa xanh.
ĐÊM RẰM THÁNG NĂM 
Tháng năm năm ngoái dưới trăng tròn,
Vợ dắt đoàn con, chồng cõng con...
Dồn dập gió sương tin khủng khiếp,
Lạ lùng mây nước bước bôn chôn.
Thân ngoài đất lữ năm đà giáp
Mắt ngoảnh trời tây giặc vẫn còn!
Yên ổn đêm nay ngồi với nguyệt,
Trà pha lá vối tạm rằng ngon.
(Phú Ân - 1948)
HỒI CƯ
Sâu núi cao sông trải đã thừa,
Phú Phong rày với Phú Ân xưa:
Đôi chồng sách cũ vui thầy bạn,
Một mái nhà tranh ẩn nắng mưa.
Hoa dại vấn vương tình nẻo quạnh,
Chim rừng len lỏi mộng song trưa.
Khi buồn tựa cửa trông ngàn biếc,
Mây ráng trời thu ngọn gió đưa...
(Phú Phong - 1946) 
NHỚ TẢN ĐÀ 
Đà giang từ độ rụng văn tinh,
Tản lĩnh đìu hiu rọi bóng mình.
Móng đỏ in sâu lòng tuyết trắng,
Tơ vàng mang nặng nợ dâu xanh.
Hàm rồng nấm cỏ chưa tròn mộng,
Khê thượng nguồn thơ luống quặn tình.
Chén rượu đêm nay nồng nã nhớ,
Hồn ai lai láng ánh trăng thanh...
(Phú Phong - 1949) 
VƯỜN QUÊ
Dạy học không xong bị thải hồi,
Nuôi gà thắt gióng kế sinh nhai.
Biết rằng tội ấy rằng công ấy ?
Miễn khỏi cầu ai khỏi lụy ai.
Tình bận nước non canh đỗ vũ,
Đời riêng thơ mộng gác liêu trai.
Mơ màng bốn bể duyên tri ngộ,
Hiu hắt vườn quê một nhánh mai.
(Phú Phong - 1952)
BƯỚC CÙNG
Năm ngoái năm nay gặp bước cùng,
Lỡ bề gánh xách, lỡ bề bưng!
Văn xưa dạy học trường bôn thải,
Sức yếu làm thuê thế chẳng dùng.
Thân thích khó nhờ, sơ khó cậy,
Ruộng nương thì có, lúa thì không!!
Ngày mùa đành vẫn ăn cơm ghé,
Cha nhịn con ăn vợ nhịn chồng.
(Phú phong - 1953)
TRỜI CHIỀU
Năm lụn ngày qua thân mỏi mòn
Buồn trông thoi thóp ráng đầu non...
Ấm no trước đã không cha mẹ,
Thiếu hụt rày thêm khổ vợ con!
Lặng lẽ mây trôi làn viễn vọng,
Ngập ngừng sương ứa giọt hoàng hôn,
Trăng non một mảnh tình lưu luyến...
Người có như trăng khuyết để tròn?
(Phú Phong - 1953)
BÊN SÔNG
Sông chiều đã vắng khách sang ngang,
Năm tới ngày lui bước ngỡ ngàng.
Nguồn biển tấc lòng chung đất nước,
Bến bờ chút nghĩa cách đò giang!
Gió dồn mặt sóng hơi thu quạnh.
Buồm cuốn theo mây ánh nắng vàng.
Thân thế ví không hồ hải đặng,
Hoa đào mong rắc nẻo ngư lang.
(Phú Phong - 1954)
XÍ XÓA
Bóng dâu đã xế mái đầu xanh,
Mà việc chi chi cũng chửa thành!
Tình nghĩa thoảng qua cơn huyễn mộng,
Văn chương rớt lại chút hư danh!
Chừ đây mới biết vàng là quý,
Năm ngoái còn mua sách để dành!
Phải quấy sự đời thôi xí xóa,
Kìa đoàn con trẻ nhịp đồng thanh...
(Phú Phong - 1954)
Quách Tấn
Theo http://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mất việc - Truyện ngắn của Lệ Hằng

Mất việc Truyện ngắn của Lệ Hằng Tôi vừa mất việc. Trên giấy tờ là tôi nộp đơn xin nghỉ việc nhưng tôi thấy mình giống bị sa thải hơn. Dù ...