Hương vườn cũ 3
19.
Ông Nguyễn Hữu Phương là một danh nhân tỉnh Bình Thuận, triều Tự Đức. Học hay chữ nổi tiếng nhưng thi mãi cứ hỏng trường tư. |
CÔ GÁI CỞI XIÊM LỘI SÔNG LƯƠNG
Đò vắng e mưa trễ bước đường
Cởi xiêm thẹn gái lội sông Lương
Khuôn xanh un đúc ba phân bạch
Làn biếc tuôn xao một điểm hường
Che vóc ngọc ngà mây kết nón
Soi màu son phấn nước làm gương
Đục trong đâu cũng mười hai bến
Lỡ lối thuyền quyên cũng khá thương.
Các nhà văn nhà thơ Tây Phương thường thường vì yêu cảnh mà
nói đến cảnh. Còn hầu hết các nhà thơ nhà văn Đông Phương nói đến cảnh chỉ vì
tình. |
Cụ NGUYỄN DU viết ra Truyện Kiều, mục đích chỉ mượn văn
chương để gởi tấm lòng cùng thiên cổ. Nghĩa là viết cho mình, viết vì mình.
Thế mà một khi ra đời Truyện Kiều đã gây ra không biết bao nhiêu chuyện trong
làng văn, ngoài làng văn. Như bói Kiều, tập Kiều, vịnh Kiều, lên án nhân vật
Truyện Kiều (Kiều án); kẻ thì cho Truyện Kiều là “Quốc Hồn Quốc Túy” như Phạm
Quỳnh, người chê là “Dâm thư” như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế…, gây một
phong trào bút chiến sôi nổi trong một thời… |
[1] Câu chuyện xảy ra lúc Từ Đạm làm Tri phủ ở một phủ thuộc
tỉnh Nam Định (1903-1904) lúc ấy cụ Phan cùng cụ Đặng đang đi vận động ở Miền Bắc.
Còn Từ Đạm làm Tuần Vũ Ninh Bình (1908-1920).[2] Bài này trong Giai Thoại Làng Nho, Lãng Nhân chép nhiều chữ khác.
(Xem Giai Thoại Làng Nho trang 510).[3] Sau tác giả đổi chữ “Tổng Đốc” ra “Tôn Hiến” để đối cho chỉnh với
chữ “Tiền Đường”.[4] Có sách chép: Có tiền việc ấy mà xong nhỉ”…[5] Câu này có sách chép là: - Lòng tơ còn vướng chàng Kim TrọngMặt ngọc khôn đành chốn Thủy quan. - Lòng băng chảng thẹn tình Kim TrọngMặt ngọc khôn vùi sóng Thủy Quan.[6] Bài của cụ Phan Văn Trị trước kia, do bài này mà làm ra và làm ra cốt
để chỉ trích ông Tôn giận cá chém thớt nghĩ tội cho Thúy Kiều.23.a
Vịnh Kiều vì “vốn cũng nòi tình, thương người đồng điệu”,
nghĩa là phần lớn vì Kiều, thì chỉ có CHU CÁN THẦN là người nổi danh trong
làng bút mực.
Chu Cán Thần tức là Chu Mạnh Trinh. Cán Thần là Tự, và hiệu
là Trúc Vân. Văn tài lỗi lạc.19 tuổi đậu tú tài, 25 tuổi đậu giải nguyên, 31 tuổi đậu Tiến
sĩ.Làm quan đến Án Sát Sứ. Nhưng sống trong cảnh nước nhà gặp biến,
triều đình Huế bất lực trước sức xâm lăng của người Pháp, sỹ phu cũng không
phương cứu nạn, đành bóp bụng khoanh tay, Cán Thần bèn cáo quan về vui cùng non
xanh nước biếc, chén rượu câu thơ để khuây khỏa ngày tháng. Ông về được hai năm
thì mất. Mất năm Ất Tỵ (1905), thọ được 44 tuổi.Chu Mạnh Trinh còn để lại:- Một bài hát nói “Hương Sơn Phong Cảnh”- Một bài ca “Hương Sơn Nhật Trình”.- Một tập vịnh Kiều nhan là “Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập”.Riêng nói về tập thơ “Thanh Tâm Tài Nhân”.Trước hết xin nói rõ nguyên nhân sáng tác:Nguyên sau khi từ quan về tỉnh nhà, Chu Mạnh Trinh gặp quan
Tuần Vũ Hưng Yên là LÊ HOAN. Đôi bên kết bạn văn chương, lập một Thi Đàn tại tỉnh
lỵ, cùng các danh sĩ đương thời xướng họa làm vuiMột hôm Thi Đàn mở cuộc thi Thơ, lấy Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân làm đề mục.Kim Vân Kiều truyện gồm 20 hồi. Người dự thí phải theo từng hồi
mà đề vịnh. Thể thơ là thể Đường luật, làm bằng chữ Hán, hay chữ Nôm, hoặc lẫn
cả hai thứ. Ngoài 20 bài vịnh từng hồi một, còn phải có một bài tổng vịnh bao
quát ý nghĩa của quyển truyện, và một bài Tựa bằng Hán văn.Chủ trì cuộc thi là hai danh sĩ lão thành: NGUYỄN KHUYẾN và
DƯƠNG LÂM.Dự thí toàn là những danh sĩ đương thời: Chu Thấp Hy, Nguyễn
Kỳ Nam, Nguyễn Tấn Cảnh, Nguyễn Chí Đạo, Đặng Chức Cường, Phan Mạnh Danh, Phan
Thạch Sơ… và Chu Mạnh Trinh.Kết quả cuộc thi, thì Chu Thấp Hy chiếm giải nhất về bên Hán
văn và Chu Mạnh Trinh giật giải quán quân về bên Việt Ngữ.Chung quanh cuộc thi Vịnh Kiều này có xảy ra một câu chuyện
đã trở thành một giai thoại văn chương. Rằng:Khi chấm quyển thi của Chu Mạnh Trinh, đến bài “Kiều mắc lận
Sở Khanh”:Những nghĩ chim lồng chắp cánh bay,Họa khi vận rủi có hồi may.Làng Nho người cũng coi ra vẻ,Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.Hai chữ tin hồng trao gác nguyệt,Một roi vó ký tếch đường mây.Mẫu đơn vùi dập cơn mưa gió,Cái nợ yêu hoa khéo đọa đày.Nguyễn Khuyến phê:Rằng hay thì thật là hay,Nho mà đối xỏ lòng này không ưng.Mặc dù được chấm giải nhất, họ Chu vẫn không thỏa mãn vì lời
phê.Cách đó ít lâu, Chu Mạnh Trinh đến thăm Nguyễn Khuyến và mang
tặng một chậu hoa trà mi.Hoa trà mi là một thứ hoa hữu sắc vô hương.Lúc bấy giờ Nguyễn Khuyến tuổi đã cao, lại bị bệnh nên mắt đã
lòa.Đem tặng người lòa mà tặng hoa chỉ có sắc, họ Chu muốn trả
thù lời phê trước kia và ý bảo rằng cụ Nguyễn “hữu nhãn vô châu” nên mới phê
như thế. Hiểu rõ thâm ý của họ Chu, cụ Nguyễn liền tặng lại một bài thơ rằng:Khách đến cho ta một chậu trà,Mắt mù không biện được màu hoa!Da mồi tóc hạc ta già nhỉ!Áo thụng khăn thâm bác đấy a?Mưa nhỏ những e phường xỏ lá,Gió to lại ngại lũ dơi già!Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi:Đếch thấy hơi hương một tiếng khà!Thật là “ăn miếng trả miếng”. Bốn câu trước thật mỉa mai. Bốn
câu sau, nhất là chuyển kết, thật là đau độc! Câu kết mượn hoa trà “không
hương” để bảo rằng họ Chu “thiếu đức”. Một bên thì bảo “hữu nhãn vô châu”.Một bên thì chê “hữu tài vô hạnh”.Bên “tám lạng, bên nửa cân”. Cho nên xí xóa vậy.Chúng ta hãy trở lại cùng tập thơ Vịnh Kiều tức Thanh Tâm Tài
Nhân thi tập của Chu Mạnh Trinh.Tập này đã được giáo sư BÙI GIÁNG bình luận rất chu đáo trong
tập “Giảng luận về Chu Mạnh Trinh” do nhà Tân Việt Sài Gòn xuất bản năm 1959.Bùi Giáng nhiệt liệt ca tụng tập thơ:- “Nhiều danh sỹ cho rằng thi tập vịnh này không thẹn với văn
chương của Nguyễn Du. Lần giở hai cảo thơm song song dưới đèn để so sánh, có
lúc ta thấy lời thơ Chu hay gần bằng lời thơ Nguyễn, có lúc hay bằng… rất bằng…
hay rất thật bằng…, rồi bất ngờ đột ngột hay hơn.”Sau Nguyễn Du chưa thấy ai thương Thúy Kiều bằng Chu Mạnh
Trinh. Và từ Thanh Tâm Tài Nhân Thi tập ra đời chưa ai thương Chu Mạnh Trinh bằng
Bùi Giáng. Mà có thương mới nói được trọn những điểm đáng yêu đáng thương đáng
quí đáng trọng của con người đã rút ruột thêu văn. Cho nên các bạn muốn biết rõ
tài nghệ và tâm hồn của họ Chu, muốn thấy rõ giá trị của Thanh Tâm Tài Nhân thi
tập thì nên đọc “Chu Mạnh Trinh” của Bùi Giáng. Ở đây để mua vui cùng quýí bạn
trong chốc lát, chỉ xin trích một đôi bài thơ của họ Chu, và thêm đôi lời bình
luận nho nhỏ cho thêm nhộn thêm vui. Văn chương trong Thanh Tâm Tài Nhân thi tập rất thanh lệ,
nghĩa là đẹp một cách thanh nhã, như một giai nhân không vàng trau ngọc chuốt,
gấm trổ thêm hoa, mà chỉ thoa sơ một tí phấn hồng, khoác sơ chiếc áo lụa trắng,
đủ làm cho khách tài tử đắm mắt xiêu lòng. Nói một cách vắn tắt là Thơ Vịnh Kiều
của Chu Mạnh Trinh đẹp đã gần đến mức thiên nhiên. Đây thử đọc bài:KIỀU ĐI THANH MINHMàu xuân ai khéo vẽ nên tranhNô nức đua nhau hội Đạp thanh.Phận bạc ngậm ngùi người chín suối,Duyên may run rủi khách ba sinh.Dưới hoa nép mặt gương lồng bóng,Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình.Man mác vì đâu thêm ngán nỗi!Đường về chiêng đã gác chênh chênh.Lời thơ dung dị mà thật đẹp. Nhất là câu:Dưới hoa nép mặt gương lồng bóngNgàn liễu rung cương sóng gợn tình.Thật là tuyệt diệu từ. Quả như lời Bùi Giáng đã nói: “Lời ít
mà ý nhiều. Vừa nhắc vừa gợi. Vừa gợi vừa bàn”. Thật là hàm súc, thật là điêu
luyện, nhưng vẫn giữ được dáng khinh khoái tự nhiên. Tình nửa kín nửa hở, vừa đằm
thắm vừa chứa chan… Toàn bài thơ là mặt mũi tay chân của giai nhân, mà hai câu
“Dưới hoa… Ngàn liễu” là cặp mắt huyền lóng lánh.Chúng ta hãy đọc thêm một bài nữa, bài:HỘI NGỘ VƯỜN THÚY
Hết nghĩ gần thôi lại nghĩ xa,
Hiu hiu án sách ngọn đèn tà…
Gương loan phảng phất hồn cung quế,
Giấc bướm mơ màng khách trước sa.
Mười vận sầu tuôn đôi giọt ngọc,
Trăm năm duyên bén một cành thoa.
Mái Tây bỏ lúc chờ trăng dựng,
Rày đã vườn xuân tỏ mặt hoa.
Văn chương toàn bích. Câu ba, bốn và năm, nhất là câu năm,
hay cực điểm! Lời thơ một đúc mà nên, không tìm thấy dấu tay người sắp đặt. Và
tứ thơ tạo nên một bầu không khí nửa hư nửa thực, phảng phất, mơ màng… Nếu “danh sĩ giai nhân không cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ”,
nếu không phải nòi tình thương người đồng điệu, thì dù tài ba cho mấy cũng
không thể rút ruột dệt nên lời nồng nàn âu yếm như kia.Những bài khác đại khái cũng như thế. Thì đây đọc thêm một
bài nữa:KIỀU BÁN MÌNH CHUỘC CHAThử đem tình hiếu bắt đồng cân,Trăm thảm nghìn sầu góp một thân.Bèo giạt mây trôi đành với phận,Đào tơ liễu yếu ngán cho xuân.Giọt sương trĩu nặng hoa lìa gốc,Vạ gió gây nên nước đến chân.Nông nổi hợp tan lời gắn bó,Trời già âu cũng mở lòng nhân.Tình của họ Chu đối với Thúy Kiều sâu đậm như thế, văn của
Thanh Tâm Tài Nhân thi tập tươi đẹp như thế, nên bảo “Chu Mạnh Trinh không thẹn
với Nguyễn Du nếu đem hai cảo văn chương ra so sánh” thật không chút ngoa vậy.
Vịnh Kiều vì “vốn cũng nòi tình, thương người đồng điệu”,
nghĩa là phần lớn vì Kiều, thì chỉ có CHU CÁN THẦN là người nổi danh trong
làng bút mực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét