Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2024

Văn Cao, một tiếng thơ "Vang vang cả lòng cả đáy"

Văn Cao, một tiếng thơ
"Vang vang cả lòng cả đáy"

“Tôi là ai? Bản ngã tôi ở đâu? Tôi sống trên đời này để làm gì và tôi có thể làm gì? Tôi còn không, tôi về đâu trong sự trôi chảy của thời gian? v.v và v.v…
Trong số đó, câu hỏi chiếm nhiều suy tư nhất của Văn Cao có lẽ là câu hỏi về giá trị của việc được sống thực, giá trị của tồn tại người trong toàn bộ những giới hạn của nó: giới hạn trước xã hội người đầy đa tạp đa đoan, giới hạn trước cái mênh mông của vũ trụ, giới hạn trước cái thản nhiên bất tuyệt của thời gian”. Đó là câu hỏi mà Văn Cao luôn “tự đặt ra cho mình, với tư cách một con người và tư cách một người nghệ sỹ, một người sáng tạo”. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố nhạc sỹ Văn Cao (1923 – 2023), van.vn trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài viết “Văn Cao, một tiếng thơ ‘vang vang cả lòng đáy” của nhà phê bình Hoài Nam.
Trong lịch sử của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại và đương đại, tính cả hai mươi năm văn nghệ miền Nam khi đất nước bị chia cắt, thật khó có thể tìm ra được một trường hợp tương tự Văn Cao (1923-1995). Bởi ở ông tất cả dường như đều là vượt ngưỡng: sự cường tráng của sức sáng tạo, sự đa dạng về tài năng thiên phú, và tinh thần tiên phong khai mở những lối mòn để rộng đường cho những giấc mơ, những khát vọng tự do tung cánh. Di sản nghệ thuật của ông, mỗi khi được tính sổ, dễ khiến người ta phải choáng ngợp vì vẻ đẹp và sự giàu có của nó. Về nhạc, đã có cây đại thụ Phạm Duy, người bạn cố tri, khẳng định Văn Cao là số một về các ca khúc trữ tình lãng mạn, các hành khúc và trường ca. Về họa, đã có danh họa Tạ Tỵ xác nhận Văn Cao là người rất sớm, có lẽ sớm nhất, và đầy ấn tượng, đưa trường họa lập thể vào hội họa Việt Nam. Về thơ, Văn Cao viết không nhiều – gần sáu mươi bài thơ, trong đó có vài trường ca – nhưng là những thi phẩm vừa in dấu lịch sử chuyển động suốt một đời người, dọc theo thế kỷ, vừa nhấn thật sâu vào tư tưởng và tâm hồn để biến nó thành “Một tiếng vang vang cả lòng cả đáy” (Trường ca Những người trên cửa biển). Ở bài viết này, tôi chỉ xin điểm vài ý về cái di sản thơ rất đặc sắc của Văn Cao. (Tất cả các trích dẫn thơ trong bài đều lấy từ sách “Văn Cao, tác phẩm thơ”, NXB Hội Nhà văn, 2013).
Đường thơ Văn Cao được khởi đi từ giai đoạn cuối mùa của Thơ Mới, với những bài thơ như “Li khách”, “Linh cầm tiến”, “Ai về Kinh Bắc”, “Đêm ngàn”, “Đêm mưa” v.v… ra đời trong quãng thời gian từ 1939 đến 1941. Đó đúng là những thi phẩm mang điệu hồn và âm sắc của Thơ Mới – Thơ Mới lãng mạn chứ không phải Thơ Mới tượng trưng, siêu thực – mà theo như cảm nhận chủ quan của nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân: “Nó đẹp một nỗi buồn xa vắng”. (Thái Bá Vân, bài “Như một viên gạch kỳ cựu nung ở độ lửa già”). Tuy nhiên cũng không có gì thật đặc biệt, những bài thơ ấy dễ bị lẫn vào hàng trăm bài thơ “đèm đẹp” khác mà Thơ Mới đã từng sản sinh trong lịch sử bột phát của mình. Phải chờ đến “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, bài thơ mà Văn Cao viết vào mùa thu năm 1941, thì Văn Cao mới thực sự chiếm lĩnh cái đỉnh điểm của trường thơ lãng mạn. “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” của ông là bài thơ có thể sánh ngang với những tuyệt phẩm Thơ Mới theo motif Đàn – Đêm – Trăng – Nước, như “Nguyệt cầm” của Xuân Diệu hay “Đà giang” của Vũ Hoàng Chương. (Bản thân tôi từng viết một tiểu luận phân tích khá kỹ về chủ đề này, có tên “Những vọng âm từ một bài thơ”, in trên báo Văn nghệ, năm 2022).
Cuối năm 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là viết một hành khúc, sau này sẽ được biết đến với cái tên “Tiến quân ca”, tức Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa kể từ ngày 13 tháng 8 năm 1945. Sự dấn thân này của Văn Cao, cũng như của phần đông các văn nghệ sỹ yêu nước và tiến bộ khác mà ta biết, không chỉ là một hành động chính trị, mà nó còn có ý nghĩa như một sự chuyển dịch nhãn quan thẩm mỹ, một sự thay đổi ý thức sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sỹ trong ông đã không còn tìm kiếm cái đẹp trong buồn, trong cô liêu và thơ mộng, ở những thiên đường diễm ảo như Thiên Thai, Suối mơ, hay trên dòng Tiêu kim thủy (sông Hương) nữa. Mà đẹp, chính là ở cái thực tại này, ở cái cuộc sống đang sôi lên, réo lên tiếng đòi cơm áo của những lớp người cần lao bao đau khổ, tiếng đòi độc lập của một dân tộc đã phải chịu cảnh nô lệ rên xiết suốt gần trăm năm. Hai bài thơ của Văn Cao: “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, viết năm 1945, về nạn đói chết người ở miền Bắc, và bài “Ngoại ô mùa đông năm 1946”, viết năm 1946, về Hà Nội tiêu thổ ngay sau ngày toàn quốc kháng chiến, là minh chứng hiển hiện cho sự chuyển đổi trong thơ Văn Cao thời đầu cách mạng, cách mạng nhưng vẫn rất Văn Cao.
Bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, có thể nói, là một hiện thực huyền ảo, khi chiếc xe chở xác những người chết vì đói đi giữa khu phố ăn chơi mà như đang lăn bánh vào chốn u tỳ địa ngục. Những người nằm trên xe là xác chết, nhưng những người ở hai bên hàng phố – đào nương, kép đàn – trong con mắt kinh sợ và cảm giác mê mụ tê dại của nhà thơ, cũng chỉ là những thây người đang sống. Tất cả mọi hình thể, hoạt động, màu sắc, âm thanh ở tọa độ không gian này đều bị nhúng vào bầu khí tàn rữa, hấp hối, chết chóc, ma quái. Còn bài “Ngoại ô mùa đông năm 1946”, là một hiện thực suy tưởng. Theo họa sỹ Văn Thao, con trai của nhà thơ, thì Văn Cao viết bài thơ này ngay trên chiến lũy Ô Chợ Dừa, khi ông bí mật về Hà Nội công tác sau ngày toàn quốc kháng chiến. Ô Chợ Dừa, Khâm Thiên lúc đó sạch bóng người, chỉ còn ngổn ngang những nhà đổ, tường xiêu, gạch vụn. Nhưng chính trong cái khung khổ không gian, thời gian ấy, Văn Cao đã hồi nhớ và tưởng tượng về sự lột xác của một khu phố ăn chơi xưa, về những con người cần lao đói khổ, những con người trụy lạc rạc rài đã vươn cao trong một cơn biến thiên vĩ đại của lịch sử. Họ đã dũng cảm chiến đấu, đã chấp nhận chết đi để một cuộc sống mới được sinh thành cùng đất nước. Nói về tính suy tưởng và âm hưởng bi tráng lẫm liệt của giọng điệu thơ, có thể khẳng định, bài “Ngoại ô mùa đông năm 1946” của Văn Cao, và một bài thơ cùng chủ đề với nó, bài “Hải Phòng ngày 19 tháng 11 năm 1946” của Trần Huyền Trân, chính là những thi phẩm vào loại xuất sắc nhất của thơ Việt Nam giai đoạn chống Pháp và thơ cách mạng Việt Nam nói chung.
Thế nhưng, phát triển theo hướng này, phải nhận rằng, tác phẩm kết tinh tài năng, tráng chí và ý thức công dân, kiệt tác thực sự của một Văn Cao-thơ, phải là trường ca “Những người trên cửa biển” mà ông viết vào mùa xuân năm 1956, khi thành phố cảng-thợ Hải Phòng đã sạch bóng quân Pháp được hơn nửa năm. Hình ảnh cây mận xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm. Cây mận, ấy chính là chứng nhân cho sự ra đời của một con người trên đất Hải Phòng, chứng nhân cho một tuổi thơ và một tuổi thanh niên đã thấm đẫm trong mình những cảnh huống, những nỗi niềm của một thành phố lầm lụi mà bất khuất, bị bóc lột giày xéo đến kiệt cùng những vẫn kiên cường đấu tranh và vẫn không thôi mơ mộng. Cây mận, ấy cũng chính là chứng nhân cho sự hồi sinh của thành phố biển, một cuộc kiến tạo mới, một khát vọng sống cuồng nộ và bao la như biển. Quy chiếu thời gian nghệ thuật của trường ca vào thời gian của lịch sử xã hội, có thể thấy, “Những người trên cửa biển” là một tự sự biên niên sử Hải Phòng vô cùng mạnh mẽ, song những sự kiện có thể đóng mốc thời gian dường như lại mang rất nhẹ ý nghĩa tự sự, chúng chủ yếu là cái cớ để nhà thơ thăng hoa trong thế giới của tưởng tượng và cảm xúc: một tưởng tượng phong nhiêu và táo bạo, một cảm xúc luôn tràn bờ và không khi nào vơi hụt. Phẩm tính sử thi của trường ca “Những người trên cửa biển”, một phần, nằm ở chính đặc điểm này. Bởi vì viết trường ca, ngoài việc nói về những sự kiện lớn (chứ không phải những chuyện vặt) của cộng đồng (chứ không phải của cá nhân) thì nhà thơ luôn phải tạo được những hình ảnh kỳ vĩ khác lạ, luôn phải giữ được sự liền mạch và cao độ của cảm xúc, nếu không trường ca sẽ chỉ là một bài thơ dài, thiên về kể lể và giãi giề tâm sự mà thôi. Và Văn Cao đã làm được điều đó, với một nghệ thuật thi ca bậc thầy.
Đọc “Những người trên cửa biển” mới thấy Văn Cao yêu và gắn sinh mệnh đời mình với sinh mệnh Hải Phòng – rộng ra, với sinh mệnh đất nước – như thế nào. Không phải ở tuyên ngôn: “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”. Mà ở cái cách ông rách nát với cái rách nát Hải Phòng, đau nỗi đau Hải Phòng, vui niềm vui hồi sinh khi Hải Phòng hồi sinh sau những biến động kinh thiên. Với Văn Cao, Hải Phòng mở ra đại dương, mở ra trí tuệ, mở ra thi ca nhạc họa, mở ra khát vọng tự do vươn đến những chân trời xa rộng. Có cảm nhận được cái khát, khát vọng biển, khát vọng sống, khát vọng sáng tạo của Văn Cao, ta mới hiểu tại sao lại xuất hiện những câu thơ như lạc giọng ở chương IV, “Những ngày báo hiệu mùa xuân”. Một chương lẽ ra chỉ toàn niềm vui phơi phới, bỗng nhiên lại vang lên tiếng nói cảnh báo và luận tội đanh thép. Không thể nói khác, đó chính là con người công dân, con người đại diện cho sự công chính trong Văn Cao đang lên tiếng trước những bất ổn, những vết nứt nguy hiểm bắt đầu hình thành giữa lòng xã hội mới, những biểu hiện suy bại đây đó đang dần loang ra trong hàng ngũ những người cách mạng.
Tiếng nói cảnh báo và luận tội này còn tiếp tục được vang lên trong một bài thơ mà Văn Cao viết cùng năm 1956, và đăng trên “Giai phẩm mùa xuân”, bài “Anh có nghe không”. Khúc ngoặt cay đắng nhất trong cuộc làm người của Văn Cao cũng vì thế mà bắt đầu, từ cái án văn chương Giai phẩm. Suốt quãng thời gian từ cuối những năm 1950 đến đầu những năm 1980, các sáng tác thơ, nhạc của ông, trừ bài “Tiến quân ca”, không được phổ biến tới công chúng; với hội họa, ông chỉ còn có thể vẽ bìa sách và vẽ minh họa cho báo chí để độ nhật mà thôi. Nhưng mặt khác, xét riêng trên phương diện thi ca, thì đây lại là bước rẽ mới trong cuộc sinh tử với nghệ thuật của Văn Cao. Ông vẫn làm thơ, cho mình, và giam thơ trong những cuốn sổ tay be bé, chỉ thỉnh thoảng mới giải phóng chúng bằng cách đọc lên trong các cuộc rượu với một ít anh em văn nghệ thân thiết. Thơ Văn Cao giai đoạn này thường là những bài ngắn, thậm chí rất ngắn, rất ít chữ, nhưng chất chồng những hình ảnh như là sản phẩm của một nghệ thuật thơ in đậm tư duy hội họa. Những hình ảnh tương đồng và tương phản, những hình ảnh nối nhau và đối nhau bất ngờ, những hình ảnh tạo nên dư vang của chữ và chiều sâu của suy tư khi văn bản đã chấm dứt.
Và dĩ nhiên, ở mảng thơ bị giam trong bóng tối ấy sẽ hiện lên một diện mạo tinh thần cá nhân khác hẳn với những diện mạo tinh thần mang tính đồng phục của thứ thơ công khai ngoài ánh sáng. Thơ Văn Cao không có niềm tin tưởng phơi phới, mà đầy nỗi hoảng hốt, nghi hoặc, dằn vặt, day dứt, những tiếng khóc thầm, những dòng lệ dội ngược vào trong tim. Ông sống trong sự vây bủa của những câu hỏi do chính mình tự đặt ra cho mình, với tư cách một con người và tư cách một người nghệ sỹ, một người sáng tạo: Tôi là ai? Bản ngã tôi ở đâu? Tôi sống trên đời này để làm gì và tôi có thể làm gì? Tôi còn không, tôi về đâu trong sự trôi chảy của thời gian? v.v và v.v… Trong số đó, câu hỏi chiếm nhiều suy tư nhất của Văn Cao có lẽ là câu hỏi về giá trị của việc được sống thực, giá trị của tồn tại người trong toàn bộ những giới hạn của nó: giới hạn trước xã hội người đầy đa tạp đa đoan, giới hạn trước cái mênh mông của vũ trụ, giới hạn trước cái thản nhiên bất tuyệt của thời gian.
Văn Cao còn có những bài thơ viết riêng về Hà Nội và Huế, những bài thơ viết như trút gửi tâm sự cùng các bạn bè thân thiết nhất của mình (Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyên Hồng, Dương Tường). Tất cả đều lạ, và hay. Ít nhưng chất, có thể nói ngắn gọn như vậy về thơ trong cái tam vị nghệ thuật thơ, nhạc, họa của Văn Cao. Đặc biệt là ở bước ngoặt thứ hai trong đời nghệ thuật – kể từ cuối năm 1956, đầu năm 1957 – Văn Cao đã có những nỗ lực đáng kể trong việc tiếp tục công cuộc hiện đại hóa thi ca Việt Nam. Về cơ bản, thơ ông vẫn nằm trong khuôn khổ của thơ “dòng ý”, tức là vẫn phải tải nghĩa chứ chưa phá cách vượt ngưỡng như những thơ “dòng chữ” mà Trần Dần, Lê Đạt hoặc Đặng Đình Hưng, Dương Tường theo đuổi. Nhưng thơ “dòng ý” của ông đã khác xa với thơ “dòng ý” truyền thống, chủ yếu bởi sự thâm nhập của tư duy hội họa và âm nhạc. Với thơ, có thể nói, Văn Cao đã có đủ để trả nợ cho tiếng Việt, cho cái định mệnh nghệ sỹ, và đủ để trả nợ cho cuộc đời đầy những ngổn ngang này. “Cuộc đời ôm tôi như trong cái bình/ Một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”.
10/9/2023
Hoài Nam
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Văn Cao, một tiếng thơ "Vang vang cả lòng cả đáy"

Văn Cao, một tiếng thơ "Vang vang cả lòng cả đáy" “Tôi là ai? Bản ngã tôi ở đâu? Tôi sống trên đời này để làm gì và tôi có thể l...