Trong vườn hoa thơ 1Chân dung Quách Tấn năm 1961
Đôi lời về
TRONG VƯỜN HOA THƠ
Vốn là mục thi thoại mở trên nguyệt san LÀNH MẠNH xuất bản tại
cựu thần kinh Huế thời đệ nhất Cộng Hòa, do tôi đóng vai Lão Giữ Vườn.
Khởi đầu từ Xuân Mậu Tuất (1958), ngày Lành Mạnh ăn mừng đệ
nhất chu niên, cho đến thu Kỷ Mão (1963), ngày Lành Mạnh đình bản vì quốc biến.
Lành Mạnh đình bản, tôi thi góp những bài đã đăng tải, dồn lại
thành tập cũng lấy tên TRONG VƯỜN HOA THƠ, để làm kỷ niệm.
TRONG VƯỜN HOA THƠ tuy là mục thường xuyên của Lành Mạnh,
song bài viết không theo một chương trình vạch sẵn, mà viết tùy ngộ tùy duyên:
Hoặc nhân đọc được những vần thơ cổ kim có vị mà nảy tứ, hoặc nghe được những lời
lý thú của bạn bằng mà sanh văn.. Lại thêm viết không liên tục: Có khi một
tháng viết được đến ba bốn bài, có khi đến ba bốn tháng mới viết được một bài,
và khi viết bài sau không hay xem lại những bài trước.
Do đó mỗi bài riêng một cảnh, ít khi liên quan mật thiết với
nhau. Lại nhiều khi, vì lâu ngày thành quên, ý đã nói rồi còn nói nữa, chuyện
đã kể rồi còn kể nữa… Trong khi cho đăng bài lên báo thì không lưu tâm, đến lúc
dồn bài lại thành tập mới chú ý.
Để TRONG VƯỜN HOA THƠ được chỉnh túc lúc ra đời, tôi loại bớt
một số bài xét thấy thừa, sữa chữa lại những bài chưa được ổn, và thêm vào một
số bài mới viết khoảng sau này, bù cho những bài bị loại, để hoa thơ không vì sự
cắt xén mà thưa thớt hơn xưa.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều khuyết hám. Sửa nghiêng lấp thiếu,
mong nhờ lượng bốn phương.
Nghìn thu một mối văn chương
Non xanh nước biếc ai thương tưởng cùng?
Nha Trang, tiết Lập Đông năm Canh Tuất (1970)
QUÁCH
TẤN
1- Chuyện hoa trong ngày xuân
Bốn chàng Thơ họ PHAN, họ LÂM, họ LƯU, họ VŨ cùng một đoàn
thiếu nữ ngồi ngắm xuân trong vườn Bách Hoa.
Lâm lang nói:
- Bao nhiêu vẻ đẹp của
xuân đều dồn cho hoa cả.
Một thiếu nữ tiếp:
- Đúng thế. Nhưng vườn có
trăm hoa, hoa nào đẹp nhất?
Phan lang đáp:
- Hoa huệ, hoa lan, hoa
lài, hoa lý.
Anh yêu hoa nào hoa ấy là xinh.
Các cô đồng thanh hỏi:
- Vậy các anh yêu hoa nào?
Lưu lang bẻ:
- Mỗi hoa một vẻ. Mỗi người
thích mỗi cách, ưa mỗi thứ. Yêu chung thế nào được mà hỏi chung một tiếng “các
anh”?
- Thôi đừng nhiều chuyện.
Riêng anh, anh yêu hoa nào?
- Hoa đào.
- Hẳn vì đã cùng họ Nguyễn
vào Thiên Thai?
- Không phải vì vào Thiên
Thai, mà chính vì ra Hà Nội.
- Vì ra Hà Nội?
- Vâng, ra Hà Nội năm
1941. Lúc ấy đã gần cuối năm. Một ông bạn rủ ra ngoại ô mua hoa đào về chơi Tết.
Trời mưa phùn. Chúng tôi đến một vườn hoa trồng toàn đào. Một thiếu nữ ra tiếp.
Thiếu nữ mặc áo nâu tứ thân, trùm chiếc khăn mỏ quạ, đôi má phúng phính và trắng
hồng, đôi hàng lông mi dài và đen nhánh. Bạn tôi cùng thiếu nữ đi lựa nhánh
đào. Tôi đứng ngắm cảnh vườn hoa.
Vườn rộng độ vài sào. Hoa đào trổ đầy nhánh, búp có, nở có.
Nhiều nơi, hoa rụng hồng cả mặt đất. Xa xa bạn tôi và thiếu nữ thấp thoáng dưới
bóng hoa đào, mưa vây một màn sa trắng nhẹ.
Mua hoa xong, chúng tôi ra về, lòng tôi cảm thấy bâng khuâng…
Về nhà, tôi cắm hoa vào bình để nơi phòng khách. Khách đến xem hoa thì tôi
tránh. Vắng khách thì tôi ngồi ngắm hoa một mình. Mỗi lần ngồi ngắm hoa thì cảnh
vườn hoa dưới mưa phùn hiện ra trước mắt. Ban đầu hình dáng bạn tôi hiện rõ từng
nét. Nhưng mỗi lúc mỗi mờ dần, chỉ còn ảnh người thiếu nữ với đôi má phúng
phính hồng và đôi hàng lông mi đen nhánh. Sau cùng ảnh thiếu nữ cũng mờ hẳn chỉ
còn đôi má và đôi mi ẩn hiện trong sắc hoa đào sau màn mưa sương trắng nhẹ.
Từ ấy tôi đâm ra thích ngắm hoa đào và yêu hoa đào. Về Nha
Trang, cho đến khi chiến tranh bùng nổ, năm nào tôi cũng tìm mua cho được hoa
đào để thưởng xuân.
Một thiếu nữ cười khúc khích:
- Thế là vì thiếu nữ mà
anh yêu hoa đào chớ đâu phải vì hoa.
Vũ lang cãi:
- Thơ là giai nhân, mà
giai nhân là hoa. Thì nhà thơ vì hoa mà yêu hoa hay vì giai nhân mà yêu hoa, đều
cũng thế.
- Thôi đừng ba hoa. Bây giờ,
trừ anh Lưu ra, còn ba anh, mỗi anh phải kể cho chúng em nghe một câu chuyện về
hoa mà trong chuyện phải có cả thơ và giai nhân. Nhưng cấm kể chuyện mình, vì “cái ta là cái đáng ghét”, trừ khi người hỏi đến như trường hợp anh Lưu.
Vũ lang giành kể trước:
“THÔI HỘ là một thi nhân đời Đường. Nhân tiết thanh minh, một
mình ra ngoài Đô thành thưởng xuân. Trời trưa khát nước, ghé vào gõ cửa một
ngôi nhà bên đường. Ngôi nhà cao sang nhưng yên tịnh, trước cửa có khóm đào nở
đầy hoa. Một giai nhân bưng nước ra mời khách, rồi đứng tựa gốc hoa đào nhìn vẩn
vơ. Thôi uống xong từ giã.
Qua năm sau, cũng ngày ấy, Thôi đến chỗ cũ thì khóm hoa đào vẫn
nở, nhưng bóng người vắng cả trước sau. Buồn bã đề vào vách bốn câu thơ, rồi
đi.
Thơ rằng:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào ba tương ảnh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào ba y cựu tiếu đông phong.
Nghĩa là:
Cửa này năm ngoái hôm nay
Hoa đào mặt ngọc hồng lây ánh hồng.
Mặt ngọc đâu? Vắng tăm mòng!
Hoa đào còn với gió đông riêng cười.
Giai nhân về, xem thấy thơ, lòng sanh tưởng nhớ. Rồi trông
mãi không thấy Thôi, tương tư mà chết. Thôi hay tin đến, ôm giai nhân khóc thảm
thiết, nước mắt thấm tận lớp áo trong. Hơn nửa ngày giai nhân sống lại. Cha mẹ
mừng rỡ, bèn đem gả cho Thôi”.
Các thiếu nữ vỗ tay khen:
- Tình nhỉ! Cô ả chắc đẹp
lắm?
Lâm lang nói:
- Có đẹp cũng như các chị
là cùng.
- Đừng tán nhảm. Hãy lo trả
nợ hoa xong.
- Ừ, hãy nghe đây. Sách
Dã sử, Giá Di chép rằng:
“Triệu Sư Hùng đời qua Quảng Châu, đến chân núi La Phù thì
ngày đông vừa lặn bóng ác. Nhìn vào rừng tùng, thấy một nhà trạm và một quán rượu
cao vắng. Trong trạm có một giai nhân trang sức nhã đạm ma nhan sắc thanh
tú.
Sư Hùng lại gần. Giai nhân ra đón vào trạm, cùng nhau chuyện
trò rất tương đắc.
Mặt trăng dần dần lên. Tuyết đêm dần dần xuống. Quanh chỗ ngồi
lươn vươn một mùi hương thanh thanh.
Khí trời mỗi lúc mỗi thêm lạnh. Hai người đưa nhau sang quán
rượu cùng uống. Một đồng tử mặc áo xanh bước ra, vừa ca vừa múa, thánh thót nhịp
nhàng. Sư Hùng cao hứng uống quên cả say. Đoạn gục trên bàn ngủ thiếp…
Một trận gió lạnh thổi đến. Sư Hùng giật mình thức dậy, thì
bóng trăng đã lên cao, ánh tuyết lấp lánh sáng. Nhìn quanh không thấy giai
nhân, không thấy trạm quán, và mình đang nằm dưới gốc mai thân to hoa sum, trên
cành một con chim xanh vừa chuyền vừa hót.
Rồi mà trăng lặn tuyết tan, Sư Hùng ra về, bồi hồi ảo não”.
Phan lang khen:
- Tuyệt! Giai nhân của
Thôi Hộ là nhan sắc bằng thịt bằng xương. Còn giai nhân của Triệu Sư Hùng là
hương là sắc. Cuộc tình duyên của họ Thôi là cuộc tình duyên trăm năm mà thiên
thu. Cuộc tình duyên của họ Triệu là cuộc tình duyên thiên thu trong chốc lát.
Cảnh tình tuy có khác, nhưng cả hai đều thần tiên.
Một thiếu nữ nói:
- Nhưng câu chuyện của Lâm
lang thiếu yếu tố Thơ.
Phan lang đáp:
- Chất thơ đã đầy nhẫy
trong câu chuyện thì cần gì còn phải có lời thơ. Thơ mà đến mức vô ngôn mới thật
là tuyệt diệu. Nhưng chỉ tiếc câu chuyện của Lâm lang cũng như của Vũ lang, thời
gian đã xa xôi, không gian lại xa cách. Tôi sẽ kể cho anh chị em nghe một câu
chuyện vừa xảy ra trên mươi năm nay, và xảy ra ngay trên đất nước Việt Nam yêu
quí, ở một nơi đầy hoa, thơ và giai nhân: Huế. Nhân vật chính trong câu chuyện
lại là một nhà chí sĩ đại danh của dân tộc: Phan Sào Nam tiên sinh.
Phan Sào Nam bị Pháp bắt đem về an trí tại Huế.
Cụ có vườn có nhà ở gần Bến Ngự, nhưng ngày ngày lại ở trong một chiếc thuyền
con thả lơ lửng trên dòng sông Hương.
Năm 1953 hay 36, nhân ngày Tết, ông Bùi Huy Tín đem biếu cụ một
chậu hoa Thủy Tiên. Cụ liền chèo thuyền ra giữa dòng sông mà thưởng xuân. Nhìn
hoa bồi hồi cảm khái, cụ bèn soạn một khúc ca rằng:
Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Tiên trên non mà hiếm có đã đành,
Chân thị thủy trung tiên càng hiếm hiếm.
Muôn tia nghìn hồng thây tục phẩm,
Năm hồ bốn biển nhớ tiền sinh.
Nét điểm trang con Tạo khéo đa tình,
Nhụy kìa vàng hoa kìa bạc lá kìa xanh,
Trên mặt nước long lanh trời với bóng.
Đố ai biết thần tiên biệt chủng.
Mái Hương giang mà tiên động tự nhiên thành.
Vô tình mới thật hữu tình,
Ơn người giới thiệu cho mình gặp tiên.
Cách Bồng Lai Phương Trượng bấy nhiêu tiên,
Mừng tái kiến lại não nùng duyên nợ cũ.
Trên cung Nguyệt Nghê thường khúc múa,
Giữa nhân gian hồ dễ mấy hồi nghe.
Tả tình gọi chút lời quê.
Rồi đối hoa cao ngâm, trên mặt nước long lanh trời với bóng.
Bài Thủy Tiên sau có đăng trên báo Tràng An do ông Bùi Huy
Tín chủ nhiệm. Song vì báo Tràng An không phải sống do độc giả, nên bài Thủy
Tiên một áng văn chương tuyệt diệu bị rơi vào khoảng hư vô!
Một thiếu nữ nói:
- Bài thơ tuyệt hay. Câu
chuyện có ý nghĩa. Nhưng vẫn chưa hoàn hảo, vì còn thiếu giai nhân.
Phan lang sắp trả lời thì Lưu lang đã nói trước:
- Không thiếu. Chỉ vì giai
nhân ẩn bóng trong hoa, nên riêng mắt thi nhân mới trông thấy.
- Vô lý.
- Nếu không có giai nhân
sao lại có câu:
Vô tình mới thật hữu tình,
Ơn người giới thiệu cho mình gặp tiên.
- Nhưng tiên gặp đó biết
là tiên ông hay tiên cô?
Các chị quên rồi sao? Hạ tiên Cô vốn ở Phương Trượng. Còn
Dương Thái Chân sau khi vĩnh biệt Đường Minh Hoàng nơi Mã Ngôi thì thành tiên về
Bồng Lai vui ngày tháng:
Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn,
Cố cung tưởng lại muôn vàn ái ân
(Tản Đà)
Tiên đã từ Bồng Lai Phương Trượng xuống, mà còn nghi ngờ:
Tiên ông? Tiên cô?!
Lâm lang nói:
- Quả giai nhân không thiếu.
Và giai nhân của Sào Nam là giai nhân của Thơ. Giai nhân của Sư Hùng là giai
nhân của Mộng. Còn giai nhân của Thôi Hộ cũng như của Lưu lang là giai nhân của
Thực tế, của Thế gian.
Vũ lang vỗ đùi:
- Hay quá! Chuyện là chuyện
Hoa nên trong chuyện nào Hoa cũng có. Còn giai nhân qua bốn chuyện, thì đi từ
chỗ Có đến chỗ KHÔNG CÓ, nghĩa là từ Sắc đến Không. Giai nhân bên hoa đào là Sắc.
Giai nhân trong Thủy tiên là Không. Giữa Sắc và Không là giai nhân của Hoa Mai
vậy.
Phan lang cười tiếp:
- Còn Sắc mà không, Không
mà Sắc, Mộng trong Thực, Thực trong Mộng, đó là Thơ.
Một thiếu nữ nói:
- Là Sắc là Không, giai
nhân cũng nhờ Hoa mà nên chuyện. Dù Mộng dù Thực, chuyện cũng nhờ Văn chương mà
nghìn thu. Không văn chương, có hoa đó, có giai nhân đó, không đó thế mà có…
Lưu lang đỡ lời:
- Nhưng nếu không Dương
Quý Phi thì hoa mẫu đơn không cao phẩm giá. Và nếu có Dương Quí Phi mà không mẫu
đơn thì không có khúc Thanh Bình của Lý trích tiên. Thế là hoa nhờ giai nhân mà
đẹp, Thơ nhờ hoa và giai nhân mà danh thơm. Đó là tương ỷ tương y. Cho nên có
câu rằng:
Đào yêu với khách yêu đào,
Nghìn thu hương phấn ngạt ngào văn chương.
Nha Trang, đầu Xuân năm Mậu Tuất (1958).
2- Dưới mai bàn thơ
Tặng Kiến Đạo.
Lão vườn đương đứng ngắm vầng trăng hoàng hôn vương trên khóm
mai già nở xuân, thì một ông khách đến, vừa cười vừa ngâm:
Có mai không nguyệt kém tinh thần
Có nguyệt không thi tục lụy nhân.
Lão vườn vội ra đón khách, và ngâm tiếp:
Ngày tối thi thành trời có nguyệt,
Cùng mai đối bóng bội phần xuân. (1)
Hai người cả cười. Đoạn bày bàn kỷ dưới gốc mai, pha trà cùng
ngồi thưởng hoa.
Khách nói:
- Mai là giống hoa cảm thụ
khí dương trước nhất. Cho nên qua tiết đông chí là nảy nụ đâm bông. Cổ nhân có
câu:
Tuyết trung vị luận điều canh sự
Tiên hướng bách ba đầu thượng khai.
Anh thử diễn nôm, và cho biết câu ấy của ai.
Lão vườn:
- Đó là của VƯƠNG HỘI đời
Tống. Vương làm câu này từ lúc bé. Một vị lão thần là LỮ CÔNG xem thấy nói rằng:
“Thằng bé này đã nắm chắc Trạng Nguyên và Tể tướng trong tay”. Sau quả như lời
đoán. Câu này văn cổ kính, không thể dịch theo nguyên điệu được, xin tạm dịch
là:
Việc nên canh khoan bàn trong tuyết,
Đầu trăm hoa điểm xuyết cành cao.
Khách:
- Rằng hay thì cũng hay.
Song không diễn tả được cái vẻ rụi nhẵn của mai. Đọc câu “Tiên hướng bách ba đầu
thượng khai” thì ta cảm thấy ngay cái vẻ cứng rắn khẳng khiu của mai. Tuy thế “Không
phản”, “Không diệt” cổ nhân là được rồi.
Lão vườn nâng chén trà mời khách, và nói:
- Mai biết có xuân trong
lúc tuyết sương đương thạnh; và trong lúc trăm hoa còn đang sợ sương tuyết, mai
đã dám lộ diện chào xuân. Bởi thế Tống nhân kết tội là “tiết lộ xuân quang”, rằng:
Chú thích:
(1) Phỏng theo thơ xưa:
Hữu mai tuyết bất tinh thần
Hữu tuyết vô phi tục lụy nhân
Nhật mộ thi thành thiên hựu tuyết
Dữ mai tính tác thập phần xuân...
Lục dương giải ngữ ưng tương tiếu:
Lậu tiết xuân quang cáp thì thùy?
Tạm dịch:
Dương xanh biết nói ưng cười đấy:
Tiết lộ xuân quang ấy bởi ai?
Khách cười:
- Buộc tội để làm tăng giá
trị cho mai. Đó là lời trách yêu của một tình nhân.
Lão vườn:
- Chính thế. Xem qua văn
chương các thời, tôi nhận thấy hoa mai được mọi người yêu chuộng. Vì tánh chất
thanh đạm, các nhà ẩn dật thân mến đã đành, đến cả những nơi quyền quí cũng lấy
làm bạn. Hầu phu nhân, một cung phi của Tùy Dạng Đế có bài KHÁN MAI rằng:
Xế tuyết tiêu vô nhật!
Quyển liêm thời tự tần.
Đình mai đôi ngã hữu lân ý:
Tiền lộ chi đầu nhất điểm xuân.
Tạm dịch:
Bao giờ thềm rã tuyết?!
Rèm cuốn nét mày nhăn.
Thương thiếp sân mai thầm ngõ ý:
Cành cao nảy trước điểm hương xuân.
Khách:
- Tôi thường nghe nói rằng
thi nhân đời Tùy cũng như Tấn, Tề, Lương, Trần, chủ trương thuyết duy mỹ,
chuyên luyện hình thức mà quên hẳn nội dung, nên văn thơ mất cả sanh khí. Tôi
chưa được xem văn chương đời Tùy, nhưng theo bài KHÁN MAI của HẦU phu nhân, lời
tự nhiên, ý hàm súc, thì đâu thấy cái bệnh “chỉ trang sức bề ngoài”?
Lão vườn:
- Không nên đem một bài mà
xét một thời đại. Lấy đại thể mà bàn thì văn chương đời Tấn, Tề, Lương, Trần,
Tùy quả thật diễm lệ. Nhưng cái đẹp của đời Lục Triều đâu bằng được các đời
sau. Đến như nói “Chuyên luyện hình thức mà quên hẳn nội dung”, thì
tôi không đồng ý. Vì làm một bài thơ cốt để nói một cái gì mình muốn nói, mình
cần phải nói. “Cái gì” đó, nhiều khi nói bằng lời không đủ, phải mượn đến hình ảnh,
đến màu sắc, đến thanh âm…. Nói cách này không thỏa mãn phải tìm cách khác,
dùng chữ này không đủ sức diễn tả, phải tìm chữ khác... Nát ruột vì một chữ, rụng
mày vì một câu, là để diễn tả cho được hết cái ý, nào phải để khoe cái khéo mà
chơi. Ai có tầng khổ tâm với thơ thì mới tin lời tôi nói.
Khách:
- Vậy sao TRẦN TỬ NGANG, một
thi nhân có danh đời Đường lại nói: “Thơ Tề, Lương… lời rất đẹp mà tình ý rỗng
không”?
Lão vườn:
- TRẦN TỬ NGANG là người
trong phái “Phục cổ”, muốn dùng văn chương để chấn hưng đạo Khổng Mạnh mà thời
loạn lạc đã làm suy vi. “Tình ý” đó là những gì giúp ích cho nhân sinh, cho đạo
đức. Thật ra, tôi từng thấy nhiều văn thơ tình ý hay mà lời không lấy gì đẹp,
chớ chưa hề thấy bài nào có lời đẹp mà không có ý hay.
Như bài VỊNH MAI sau đây của KỲ LỆ XUYÊN đời Thanh:
Chi đầu hà xứ nhân khinh ngôn
Sương diệc tinh thần tuyết diệc ôn.
Nhất cảnh hiểu phong tầm cựu mộng,
Bán lâm hàn nguyệt thất cô thôn.
Ngâm tình dục lũ băng vi cú,
Ly hận nan chiều ngọc tác hồn.
Ký ngữ khê kiều kiều thượng khách:
Mạc tùng hương lý ngộ sài môn.
Chữ đúc, lời chuốt, cách điệu cao, ý thâm viễn. Tuy là vô phủ
tạc ngấn, nhưng xem qua cũng biết rằng phải mất nhiều công phu mới làm nên. Vì
lời quá đẹp, ý quá hàm súc, nên tôi đã cố gắng hết sức mà chỉ dịch được có câu
luận nghe hơi thông thông:
Vần băng muốn chạm tình ngâm vịnh,
Hồn ngọc khôn chiêu hận biệt ly.
TÙY VIÊN, một thi hào thiên về tánh tình, phải khen là “Cao đạm
chi hoài”. Như thế việc trau chuốt lời văn có hại chi đến tình ý? Có hại chi đến
sanh khí bài thơ? Làm mất sanh khí bài thơ, làm hại tình ý của thơ,
là những người không có hồn thơ, không có cốt thơ, mà sính làm thơ, những người
có hồn thơ có cốt thơ, mà tài nghệ non kém, chớ nào phải tại đúc chữ luyện lời.
Khách:
- Vậy anh cũng đồng ý rằng
văn chương tự nó có một giá trị riêng, miễn nó đẹp là quý, chứ không cần giúp
cho nhân sinh cho đạo đức.
Lão vườn:
- Theo tôi, hoa là thơ của
đất, thơ là hoa của người. Mà đã là hoa thì không đẹp không ai chuộng. Hoa hải
đường, hoa thược dược… tuy không hương, nhưng vẫn được kẻ yêu hoa chăm sóc và
liệt vào hành danh hoa, vì sắc đẹp. Còn hoa dúi dẻ, hoa cau, dù có hương, vẫn
không thấy ai đem cắm vào độc bình, cài lên mái tóc. Đến như hoa
mai, tiếng là thanh sấu, mà nếu không đẹp thì chúng ta có ngồi dưới gốc để bàn
thơ?
Khách vỗ tay cười lớn:
- Vậy anh này thuộc phái
duy mỹ rồi!
Lão vườn:
- Vâng. Tôi là một trong
những người đi theo cái Đẹp. Song không phải chỉ hoa lệ mới gọi là Đẹp. Có vẻ đẹp
nùng diệm, có vẻ đẹp thanh đạm, có vẻ đẹp tỉ mỉ, có vẻ đẹp đơn sơ; có cái đẹp
nhờ màu sắc, có cái đẹp nhờ cách xếp đặt; có cái đẹp cứng rắn, có cái đẹp dịu
dàng; có khi điêu khắc thành đẹp, có khi tự nhiên mà đẹp… Hoa có muôn hình
nghìn sắc, thì Thơ cũng có muôn nghìn vẻ đẹp như hoa.
Khách:
- Xin cho một ít ví dụ cụ
thể.
Lão vườn:
- Vì ngồi dưới gốc mai nên xin lấy một ít thơ Vịnh mai hoặc
nói đến mai để làm chứng.
Đẹp một cách trang nhã như bài VỊNH MAI của KỲ LỆ XUYÊN trên
đây, và như câu “Chủng mai” của Tạ Uẩn Sơn:
Hương sắc đô không hàn triệt cốt,
Tài bồi yếu hậu ngọc sanh nha
(Nghĩa là hương sắc dường như không có chi cả nhưng lạnh thấu
xương, trồng vun quến chỉ mong sau này ngọc đâm chồi)
Đẹp một cách thanh tao, như bìa PHONG MAI cùa bà NGÔ TRỊNH
KHUÊ:
Mai ba phân nhiễu hộ,
Ngọc sắc lãnh thương đài.
Tà ảnh hàm tình trụy,
Đê chi đái tiếu khai.
Lạc nghi tàn tuyết ẩn,
Võ xúc ám xuân lai.
Bất tận tương tư ý,
Khuy nhân nguyệt kỷ hồi.
(Nghĩa là: hoa mai rối đoanh cửa. Sắc ngọc lạnh rêu xanh.
Bóng xế ngậm tình mà rơi, cành thấy đeo cười mà nở. Khi rụng thì ngờ là tuyết
đã tan rồi mà còn sót lại. Lúc múa khiến mùa xuân len lén mà đến. Chẳng hết được
ý tương tư, nên đòm người đã mấy trăng).
Lại như câu “Lục dương” vừa dẫn trước đây và như bài VỊNH HỒNG
MAI sau đây:
Ngọc cốt đình đình thanh thả u
Trước tha nhan sắc tại chi đầu
Mục đồng thụy khởi mông lung nhãn
Thác nhận đào lâm dục phóng ngưu.
(Nghĩa là: Cốt ngọc làu làu vừa thanh vừa u. Trùm trải sắc đẹp
lên đầu nhánh. Kẻ mục đồng thức dậy đôi mắt còn mơ màng loạn choạng, trông thấy
màu hồng mai ngỡ là rừng đào nên ý muốn thả trâu đến).
Bài Hồng Mai cũng như câu “Lục dương…” lời thanh ý khúc.
Những vẻ đẹp hoa lệ, trang nhã, thanh tao… dễ nhận thấy. Có
nhiều câu cổ kính mà đẹp, như câu của Lâm Bô:
Sơ ảnh hoàng tà thủy thanh thiển,
Am hương phù động nguyệt hoàng hôn.
(Nghĩa là bóng sưa nghiêng ngửa trên dòng nước trong và cạn.
Hương kín đáo nổi chập chờn dưới ánh trăng lúc hoàng hôn).
Kỳ kiện mà đẹp thì như câu của Tiêu Đức Tháo:
Tương Phi nguy lập đống giao bối,
Hải nguyệt lãnh quải san hô chi.
(Nghĩa là: Thấy hoa đã tưởng là tuyết, không ngờ có mùi hương
bay đến). Và câu:
Bất tri cận thủy mai ba phát,
Nghi thị kinh đông tuyết vị tiêu.
(Nghĩa là: Chẳng biết rằng là mai nở bên nước, nên ngờ
là tuyết đã trải mùa đông rồi mà chưa tiêu).
Những câu thơ tự nhiên như thế, ngó thì dễ mà làm không phải
dễ. Mỗi chữ đều có một giá trị riêng, thay đổi là hỏng. Như câu “Chỉ ưng... Bất
ngộ…” của Tô Tử Khanh, và VƯƠNG AN THẠCH sửa lại rằng:
Diêu tri bất thị tuyết,
Vị hữu ám hương lai.
(Nghĩa là: Ở xa cũng biết rằng không phải tuyết, vì có
mùi hương kín đáo bay đến).
TÙY VIÊN phê rằng: sửa như thế là đem sống làm chết, đương
linh động trở thành ngốc trệ (hoạt giả tử hĩ, linh giã ngốc hĩ).
Cho nên Đẹp đã đúng mức thì hễ thay đổi một chút là mất đẹp,
bất kỳ vẻ đẹp nào.
Khách:
- Nghe qua đôi ví dụ, cũng
tạm hiểu được quan niệm Đẹp của phái duy mỹ các anh. Nhưng ước được anh dịch những
câu ấy ra thơ thì tuyệt.
Lão vườn:
- Dịch thì chỉ dịch được ý
nghĩa của câu thơ, của bài thơ, chớ dịch thế nào được vẻ đẹp của văn. Mà đây
trích dẫn để chứng minh các vẻ đẹp về hình thức.
Khách:
- Âu đành vậy! Mà
này anh đã đọc thơ Nhật Bản và Cao Ly là hai nước đồng văn với Trung Hoa và Việt Nam ta
chưa?
Lão vườn:
- Có đọc được một ít, song
đọc qua tiếng Pháp. Về Hán văn thì chỉ biết có một bài về MAI của một người Nhật
đọc cho nghe, rằng:
Cửu châu đệ nhất mai,
Kim nhật vị quân khai
Dục thức hoa chân ngụy:
Tam canh đạp tuyết lai.
Tạm dịch:
Chín châu mai thứ nhất,
Vì chàng đêm nở hoa.
Muốn tường chân với ngụy:
Đạp tuyết lúc canh ba.
Có người bảo là “Tam canh đạp nguyệt lai”. Câu nào cũng đẹp,
có mỗi cảnh đẹp trong mỗi câu.
Khách rung đùi khen:
- Lời thì cạn mà ý thật
thâm, cho nên tiếng dâu dứt mà dư âm mãi còn. Hay!
Đoạn liễm dung trách:
- Ngồi dưới gốc mai vườn
nhà, mà nói toàn thơ mai của ngoại quốc! Thật là “Ngồi gốc sung trông đọt khế”!
Lão cười:
- Thơ hay không có biên giới.
Nhưng xin thú thật thơ nói về mai của nước nhà tôi biết rất ít.
- Ít còn hơn không.
- Tôi đã đọc được chừng
mươi bài. Còn nhớ đủ đầu đủ đuôi được bốn bài. Một bài của MÃN GIÁC Thiền sư đời
Lý, một bài của LÊ CẢNH TUÂN đời Trần, một bài của Lữ Đường THÁI THUẬN đời Lê và một bài của DIỆU LIÊN Công chúa đời Nguyễn.
Khách vỗ vế cười lớn:
- Mỗi triều đại một bài, còn
gì thích bằng! Đáng lẽ phải theo phép ăn mía của cổ nhân, đi lần từ
ngọc tới gốc, tức từ trên xuống dưới, từ xa đến gần. Nhưng vì bài thơ gần với
hoa, hoa gần với giai nhân, nên tôi xin được nghe thơ của giai nhân trước.
- Vâng, tôi xin nói về DIỆU LIÊN Công Chúa:
DIỆU LIÊN là tên tự, tên thật của Công Chúa là LẠI ĐỨC, hiệu
là MAI AM. Con gái vua Minh Mạng. Rất hay chữ và rất giỏi thơ. Tài sánh Tùng,
Tuy.
Công Chúa còn truyền một tập thơ có bài ÚC MAI mà cụ Hà Đình
khen rằng:
Ngâm đáo Úc Mai thanh vận tuyệt
Bất phương biệt hiệu tác Mai Am
Nghĩa là “Ngâm đến bài thơ Úc Mai thì thấy thanh vận cao đến
tuyệt đỉnh. Cho nên lấy hiệu Mai Am chẳng có chi đáng ngại”.
ÚC MAI
Lâm đường tạc dạ sóc phong xuy
Tiểu các thanh hàn độc tọa trì
Địch lý quan san sầu cựu khúc
Thủy biên ly lạc nhận tiền kỳ
Hương nam tuyết bắc vô phương tấn
Nguyệt địa vân giai hữu mộng ti
Dục bã tân từ viễn tương tặng
Mỹ nhân uyển tại thủy chi mi.
Tạm dịch:
NHỚ
MAI
Rừng ao ngọn bấc thoảng canh trường
Gác nhỏ đìu hiu chiếc bóng nương
Nước gợn nguyền xưa rào để nhớ
Đèo vang khúc cũ sáo đưa thương
Nam hương bắc tuyết dường ngăn cách
Sân nguyệt thềm mây mộng vẩn vương
Muôn dặm lòng thơ mong gởi tặng
Bên sông người đẹp thẫn thờ gương.
Bài này được khen do chỗ tài tình “hút trăm hoa tạo thành mật
ngọt”. Nghĩa là hầu hết các câu trong bài đều mượn chữ mượn ý của cổ nhân.
Nhưng thật là một tấm áo cầu do bao nhiêu mảnh da nách hồ ly kết lại mà nguyên liền
như một tấm, trông tìm không hề thấy dấu cắt đường may. Văn chương lại có sức
truyền cảm mạnh mẽ. Cho nên khen là phải.
Bài của Lữ Đường THÁI THUẬN nhan đề là:
MAI ẢNH
Đảo quảy tà xuyên đạm hựu nùng
Dao đài chỉ trướng ám hương thông
Di lai song ngoại phong xuy hậu
Hoàng quá sơn tiền lộ chiếu trung
Đông Các truyền thần thanh họa bút
Tây Hồ tả hứng khổ ngâm ông.
Châu liêm phảng phất hồn vô ngại
Nghi thị chân thân tại tuyết cung.
Tạm dịch:
BÓNG HOA MAI
Ngửa nghiêng ngang dọc đượm pha nồng
Trong Trương giấy Đài Dao rú nẻo thông
Ngan ngát song lưa chiều gió tắt
Là đà núi tỏa ánh sương phong.
Gác chen nét họa thần in bút
Hồ vọng câu ngâm hứng chạm lòng
Phảng phất rèm châu không trở ngại
Chừng nơi cung Tuyết có tiên ông.
Bài của Lữ Đường tự xuất tân ý. Tác giả dụng công khắc hoạch
cho ra cái bóng của một khóm mai đương hoa. Nói là một khóm nhưng là muôn vàn khóm,
trong thực có, trong mộng có, trong họa có, trong thơ có. Có mà như không, vì
không hình mà chỉ có bóng. Muôn vàn mà là một vì chỉ có Mai là chân tướng, còn
bóng kia là do duyên khởi, điệp điệp trùng trùng..
Bài của Diệu Liên thiêng về tâm tình, bài của Lữ Đường nặng về
ý thú. Nhưng cả hai đều chí tình cùng Mai.
Khách nói:
- Câu “Địch lý quan san sầu
cựu khúc” của Diệu Liên, có sức quyến rũ lạ lùng! Không cần hiểu nghĩa như sao,
ý khác sao, đọc lên tự nhiên lòng sanh cảm, chẳng khác nào đọc câu “Nguyệt lạc
ô đề sương mãn thiên” của Trương Kế. Còn câu trạng bài Lữ Đường:
Di lai song ngoại phong xuy hậu
Hoành quá sơn tiền lộ chiếu trung.
Một vế thì tả hương, một vế thì tả sắc, mà hương cũng như sắc
chỉ phảng phất trước giác quan người đọc như có như không. Mùi hương còn sót lại
sau khi gió đã tắt, vẻ đẹp ẩn hiện ở trong ánh sương mờ. Tuyệt thú! Tuyệt đẹp!
Lão tiếp:
- Thưởng thơ cũng như thưởng
hoa, càng đi sâu vào diệu xứ, càng hưởng được nhiều hương vị tân kỳ,
tôi xin nói sang bài thơ của Mãn Giác Thiền sư và của Lê Cảnh Tuân.
Bài của sư MÃN GIÁC nhan đề là CÁO TẬT BẢO CHÚNG, rằng:
Xuân khứ bách ba lạc,
Xuân đáo bách ba khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn ba diệc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Xuân đi hoa rụng hết,
Xuân về lại nở hoa .
Trước mắt thoi đưa việc,
Trên đầu tóc dẫu già.
Chớ bảo xuân tàn hoa cũng tận,
Sân mai một nhánh mới đêm qua.
Và đây là bài của LÊ CẢNH TUÂN, nhan đề là NGUYÊN
NHẬT:
Lữ quán khách nhưng tại,
Khứ niên xuân hựu lai!
Qui kỳ hà nhật thị?!
Lão tận cố viên mai!
Tạm dịch:
Quê người khách mãi còn đây,
Xuân sang năm ngoái năm này lại sang.
Ngày về? Đâu biết mà toan!
Vườn xưa, luống để mai tàn hết xuân!
Bài của đại sư MÃN GIÁC thật siêu nhiên thoát tục, ngậm chứa
lý tưởng cao thâm của nhà Phật. Nhân lúc bệnh đại sư mượn hoa để cụ thể hóa cho
tứ chúng nhận thức được đặc tánh “bất biến tùy duyên” và “tùy duyên bất biến”
của Chân Như Lý thể.
Đại ý nói rằng:
CHƠN NHƯ tùy duyên mà ẩn hiện, cũng như hoa theo xuân đi mà rụng,
theo xuân đến mà nở. Dù ẩn dù hiện, CHƠN NHƯ vẫn ở trước mắt, vẫn ở trên mọi sự
vật. Thấy hiện đừng cho đó là thật có. Thấy ẩn đừng tưởng đó là thật không.
Không có có không đều là biến thái “tùy duyên”, đều là “Bất Thật”. Song ở trên
cái “Bất Thật” phải tìm những gì “Chơn Thật”, bất biến, bất sanh, mà cũng bất
diệt. Có vượt khỏi bao lớp “duyên khởi huyễn tướng”, có ngộ được cái “không hề
sanh, không hề diệt” tức là CHƠN NHƯ, thì mới gọi là biết hưởng cái Xuân Bất diệt
ở giữa cõi đời có diệt rồi lại có sanh. Có thế mới gọi là THẬT BIẾT nhánh mai
CHƠN THẬT nằm trong trăm hoa BẤT THẬT có tàn có nở kia.
Còn bài của LÊ CẢNH TUÂN là một “tiểu thiên tâm sự”. Nếu
không biết qua thân thể của tác giả thì không nhận thức trọn được cái hay của
bài thơ. Vậy tôi xin lược kể:
CẢNH TUÂN tự là Tử Mưu, người làng Mộ Trạch tỉnh Hải Dương.
Khi nhà Trần bị nhà Hồ diệt, CẢNH TUÂN cùng Bùi Bá Kỷ tìm cách khôi phục. Đến
khi quân Minh diệt nhà Hồ đặt nền thống trị ở Việt Nam, dùng Bá Kỷ làm tham nghị,
thì CẢNH TUÂN gởi cho Bá Kỷ một bức VẠN NGÔN THƯ tỏ chí nguyện cùng sống cùng
chết với nhà Trần, khuyên Bá Kỷ yêu cầu nhà Minh lập lại ngôi cho con cháu nhà
Trần, nếu không thì nên thôi quan tước…. Sau đó Bá Kỷ bị tội. Khi tịch biên gia
sản Bá Kỷ, quân Minh tìm thấy bức Vạn Ngôn Thư, bèn cho tìm bắt CẢNH TUÂN. CẢNH
TUÂN trốn tránh được một thời gian, nhưng sau bị bắt đem về Kim Lăng với người
con trai. Hai cha com đều mang bệnh mất ở Trung Quốc.
Bài NGUYÊN NHẬT làm trong lúc đi lánh nạn Minh. Câu “lão tận
cố viên mai” thật chan chứa tình nhớ thương quê kiểng và niềm chua xót cho tấm thân
phải mòn mỏi với chí phục thù bất toại.
Khách:
- Thơ Việt Nam thật
không thua thơ ngoại quốc, hình thức cũng nhưng nội dung. Mà biết được chân giá
trị của một bài thơ, hiểu được cái hay của một bài thơ, tưởng không phải là một
chuyện dễ dàng.
Lão vườn:
- Nhất là đối với những
bài thơ có công phu. “nếu không nhận rõ chỗ dụng công thì không thấy bản sắc của
tác giả”, như lời Tản Đà tiên sinh nói.
Khách:
- Cũng không thấy được bản
sắc của tác giả nếu không biết được quan niệm của tác giả về thơ cũng như về
nhân sinh về vũ trụ.
Lão vườn:
- Đúng thế. Cho nên muốn
phê bình, phải có học. Mà những người học thức rộng, kiến thức cao lại ít hay
phê bình, vì khiêm tốn. Trái lại…!!
Khách cười:
- Đời là thế. Nhưng thôi… Chúng ta hãy trở lại cùng mai
của chúng ta. Để nhấm cạn ấm trà mai, anh hãy cho nghe thêm ít bài thơ về mai bằng
Quốc âm.
Lão vườn:
- Thơ Quốc âm về mai,
trong những giai phẩm cổ nhân để lại tôi chưa được thấy bài nào. Tôi chỉ biết
được một tuyệt của một nhà thơ hiện đại, rằng:
Thu về mai nở gấp,
Trùng cửu nảy chồi xanh.
Tết đến xuân đi trớt!
Đồng quê bát ngát tình…
Khách:
- Tác giả là ai?
Lão vườn:
- Một người có học thức,
có thi tài, nhưng không muốn ai biết danh. Cho nên văn thơ làm ra không khi nào
chép lại, và trừ chỗ chí nhân, không để cho ai đọc. Tôi xin lạm dụng tình thân,
cho anh biết biểu tự; KIẾN ĐẠO.
Khách:
- Nghe qua, tuy chưa nhận
thức được thâm ý của tác giả, song đã thấy “ám hương phù đổng nguyệt hoàng
hôn”. Để thưởng thức cái “chơn vị” của mai, tôi phải “tam canh đạp nguyệt lai”
mới được.
Đoạn đứng lên từ giã.
Trăng đã lên cao, chiếu ánh vàng lên những cánh mai vàng lung
linh phiếu điếu.
Khách vừa đi vừa ngâm:
Bên khóm mai già vầy thú cũ
Ra về sống áo được mùi hương.
3- Hoa và thi nhân
Nhớ vườn hoa nở ngọt ngào
Dưới trăng chung bóng ra vào cùng thơ.
(Tuyết Nga)
Nói đến Hoa là nói đến Đẹp. Thi nhân là khách đi tìm Cái Đẹp
(Le Beau), cho nên không mấy người không yêu hoa.
Yêu hoa, người yêu vì sắc, người yêu vì hương, người yêu thứ
hoa này, người yêu thứ hoa nọ.
Có người yêu tất cả các giống hoa, vì bảo rằng:
Hoa nào hoa lại không hương sắc,
Một cánh hoa tươi một điểm tình.
Có người lại lựa một số hoa để yêu. Như:
TĂNG DOÃN BÁ kết bạn thân cùng10 giống hoa và gọi:
- Hoa Lan là Phương hữu
- Hoa Mai là Thanh hữu
- Hoa Thụy hương là Thú hữu
- Hoa Sen là Tịnh hữu
- Hoa Bồ đào là Thiền hữu
- Hoa Lạp mai là Kỳ hữu
- Hoa Cúc là Giai hữu
- Hoa Quế là Tiên hữu
- Hoa hải đường là Danh hữu
- Hoa Trà My là Vãn hữu
Và TRƯƠNG MẪN THÚC, một thi sĩ kiêm họa sĩ đời Tống, lựa 12
giống hoa vẽ thành 12 bức tranh tuyệt mỹ treo nơi thơ phòng và gọi là 12 người
khách:
- Quý khách là hoa Mẫu đơn
- Cận khách là hoa Thược
dược
- U khách là hoa Lan
- Giã khách là hoa Tường
Vi
- Thọ khách là hoa Cúc
- Tiễn khách là hoa Quế
- Viễn khách là hoa Lài
- Giai khách là hoa Thụy hương
- Thanh khách là hoa Mai
- Nhã khách là hoa Trà Mi
- Tịnh khách là hoa Sen
- Tố khách là hoa Đinh
Hương.
Một số lớn hoa Tăng Doãn Bá yêu thì Trương Mẫn Thúc cũng yêu,
song tùy sự nhận thức của mỗi người mà đặt tên tự cho mỗi thứ. Duy có hoa Mai,
hoa Sen, hoa Quế là được hai nhà nhận thức in nhau. Cả hai đều nhận hoa Mai là
thanh, hoa Sen là tịnh, và đều gọi hoa Quế là Tiên.
TẦN THIẾU DU, chồng nữ sĩ đại danh đời Tống là Tô
Tiểu Muội, vừa yêu thược dược vừa yêu tường vi. Tần có câu:
Đa tình thược dược hàn xuân lệ
Vô lực tường vi ngọa vãn chi
Nghĩa là:
Ngầm ngấm lệ xuân tình thược dược
Mỏi mềm nhánh muộn sức tường vi.
Có người lại chỉ yêu độc nhất một thứ hoa. Như Đào Tiềm là một.
Đào Tiềm hiệu Uyên Minh, là một cao sĩ đời Tấn, riêng yêu hoa
cúc. Cúc trồng đầy vườn và thường ngồi trước dậu tâm tình với cúc. Trong bài Am
Tửu, Đào có câu:
Thái cúc đông ly hạ
Du nhiên kiến Nam San.
Nghĩa là:
Hái cúc dưới rào đông
Nam sơn nhìn thoải mái.
Còn LÂM BÔ tự Hòa Tịnh, một cao sĩ đời Tống, lại yêu Mai. Suốt
đời lấy mai làm vợ hoặc làm con. Một hôm đi chơi trong rừng mai ở Tây Hồ, cao hứng
bị lạc đường giữa mùi hương kỳ ảo. Lâm có nhiều thơ vịnh mai, mà câu:
Sơ ảnh hoàng tà thủy thanh thiển
Am hương phù động nguyệt hoàng hôn
Nghĩa là: “Bóng sưa nghiêng ngửa trên dòng nước trong và
cạn; Mùi hương kín đáo bay chập chờn dưới bóng trăng hoàng hôn”, là một câu thơ
quán tuyệt thiên cổ.
Lâm Hòa Tịnh yêu mai cũng như Đào Uyên Minh yêu cúc, không phải
yêu vì sắc, mà chính yêu vì vẻ điềm đạm của cúc, nét thanh nhã của mai. Và đối
với cúc cùng mai, khách phong tao cũng còn nhiều ngâm vịnh.
Về cúc, Tống nhân có câu:
Mạc hiềm lão phố thu dung đạm
Do hữu hoàng hoa vãn tiết hương.
Nghĩa là:
Mặt lão vườn nét thu dù nhạt,
Có hoa vàng còn ngát lòng hương.
Và Thanh nhân mượn sắc vàng của Cúc điểm vào câu “Sàng đầu
kim tận tráng sĩ vô nhan”, tạo thành câu:
Giã nhân chẩm thử tăng nhan sắc,
Tợ hữu sàng đầu vị tận kim.
Nghĩa là:
Người quê gối đó thêm nhan sắc,
Như thể hoàng kim chửa sạch giường.
Tứ thật mới, và tuy có ý vui đùa song tình vẫn đôn hậu.
Còn vịnh Mai mà tự xuất tân ý và không nhượng cổ nhân, thì có
KỲ LỆ XUYÊN Phương Bá đời Thanh.
Ngâm tình dục lũ băng vi cú,
Ly hận nan chiêu ngọc tác hồn
Nghĩa là:
Vần băng muốn chạm tình ngâm vịnh,
Hồn ngọc không chiêu hận biệt ly.
Vô mộng bất tùy lưu thủy khứ
Hữu hương chỉ tại thử môn trung.
Nghĩa là:
Không mộng nào không theo nước chảy,
Có hương chỉ có tại non này.
Và câu:
Lũng thủ chí kim xuân ý bạc,
Sơn trung tự tích cố nhân hy.
Nghĩa là:
Ý xuân bạc bẽo lòng khe vắng,
Người cũ lơ làng bóng núi sâu.
Tình hoài cao đạm, thật là tri kỷ của mai.
Nhưng đối với Mai, vì vẻ thanh sấu, nên Đường Minh Hoàng phụ
rẫy để say sưa vẻ phì nộn của hải đường. Minh Hoàng sánh hải đường với người
yêu là Dương Quý Phi. Nhìn Quý Phi ngủ, Minh Hoàng cười nói: “Hải đường ba thụy
liễu”, nghĩa là “Hoa hải đường đã ngủ rồi”.
Lý Thái Bạch lại sánh Dương Quý Phi với hoa Mẫu đơn.
Trong khúc Thanh Bình Điệu của Lý soạn để phổ vào nhạc trong
lúc Quý Phi và Minh Hoàng thưởng mẫu đơn tại đình Trầm Hương, có câu:
Danh bạ khuynh quốc lưỡng tương hoan
Nghĩa là:
Thiên hương sánh với khuynh thành,
Sắc đành lẫn sắc, vui đành chung vui.
Hoa mẫu đơn trước kia vì không chịu nở theo mệnh lệnh của Võ
Hậu, nên bị đày lên miền Bắc. Võ Hậu mất ngôi, Mẫu đơn trở lại về Tràng An và
nhờ Dương Quý Phi cùng Lý Thái Bạch mà thêm cao phẩm giá.
Nhưng Thái Bạch ca ngợi Mẫu đơn chỉ vì Dương Quý Phi.
Ca ngợi Mẫu đơn vì Mẫu đơn, thì có TRÌNH NGƯ MÔN đời Thanh là
một. Trình có câu:
Năng giao Bắc địa thành hương giới,
Bất phụ đông phong thị thử ba.
Nghĩa là:
Chúa Đông tình chẳng phụ tình
Đã đem cõi Bắc tạo thành cõi hương.
Người đời Đường cũng có câu:
Quốc sắc triêu cam tửu
Thiên hương dạ nhiễm y.
Nghĩa là:
Rượu sớm say nghiêng màu quốc sắc,
Ao đêm dầm ngát vị thiên hương.
Thật là hay. Song chưa bằng câu:
Nộn húy nhân khan tổn,
Kiều nghi nhật chích tiêu.
Nghĩa là:
Nõn nà luống sợ người xem lấm,
Mềm mịn riêng e nắng sưởi tan.
Đó là một câu truyền thần tuyệt diệu, lột được vẻ kiều nộn của
Mẫu đơn.
Lại có câu:
Ưng vị giá cao nhân bất vấn
Cáp viên hương thậm điệp nan thân.
Nghĩa là:
Giá cao ưng khiến người không hỏi,
Hương ngợp nên xui bướm khó gần.
Riêng có ký thác.
Người đời Nguyên lại chê mẫu đơn là vô dụng:
Táo ba tợ tiểu năng thành thiệt,
Tang diệp tuy thô giải tác tư.
Duy hữu mẫu đơn như đẩu đại
Bất thành nhất sự hựu không chi.
Nghĩa là:
Hoa táo nhỏ mà hay kết quả
Lá dâu thô mà nhả thành tơ.
Mẫu đơn to lớn sởn sơ,
Không nên một việc đành tơ nhánh tàn.
Trong đám danh ba, mẫu đơn sắc đã đẹp hương lại đượm, nên được
trân ái hơn cả, được ca tụng nhiều nhất. Nhưng thân còn có khi bị lụy, danh còn
có khi bị chê. Đến như cúc như mai là giống hoa nhã đạm, người thân yêu chỉ là
những người thanh cao, cho nên phi thị thị phi xưa nay không lụy đến.
Phẩm giá ngang hàng với Mai và Cúc, là giống hoa Lan. Tăng
Doãn Bá gọi là Phương Hữu, Trương Mẫn Thúc gọi là U Khách, Khổng Phu Tử gọi là
Vương Giả Ba. Thi Hào KHUẤT NGUYỄN kết hoa Lan làm đồ trang sức, xem quý như ngọc
châu, và tử đệ nhà họ Vương họ Tạ đã cùng hoa lan mà nổi danh thiên cổ.
Bóng chen sân Tạ càng cao cánh,
Tiếng nổi đình Vương lắm phẩm đề.
Đó là câu Vịnh Lan của cụ tú VÕ KIỂM, người làng Hưng Trị, quận
Phù Cát, một danh sĩ Bình Định, mới qua đời trên ba mươi năm nay.
HÙNG THỨ TUYỀN đời Thanh có câu:
Bạn ngã tam xuân tiêu vĩnh trú
Thùy liêm nhất nguyệt bất thiêu hương.
Nghĩa là:
Ba xuân kết bạn tiêu ngày vắng
Suốt tháng buông rèm chẳng đốt hương.
Tùy Viên khen rằng: “Không nói đến Lan mà chính là Lan” (Tịnh
phi lan ba, đích thị lan ba). Không thấy nói đến, kỳ thật nói đến, đó là tài, một
tài ba lỗi lạc. Tài ấy tình ấy thật xứng cùng phẩm giá hoa lan.
Một loại hoa cùng Lan, có hoa Thủy Tiên, phẩm giá cũng cao
tuyệt. Yêu Thủy Tiên có bà Châu Nguyệt Tôn, đời Thanh. Bà Châu hiệu Ỷ Hương, vịnh
Thủy Tiên có câu rằng:
Anh nghi phù dạ nguyệt,
Hương bất cách liêm lung.
Nghĩa là:
Ảnh ngờ nổi trăng đêm,
Hương không cách rèm xũ.
Đó là vịnh Thủy Tiên mà cũng là tự vịnh.
PHAN SÀO NAM tiên sinh cũng là một tình nhân của Thủy Tiên.
Bài Vịnh Thủy Tiên trích dẫn trong bài “Chuyện Hoa trong Ngày Xuân” là kết quả
của mối tình thơm thắm. (1)
Chẳng những đối với danh hoa thi nhân mới có tình. Thường
hoa, như hoa lang, hoa cà, hoa bưởi… Vẫn được thi nhân lưu ý:
- Chơi hoa cho biết màu hoa
Hoa lang tím tím hoa cà xanh xanh.
- Hoa lài hoa lý hoa ngâu
Không bằng hoa bưởi thơm lâu dịu dàng.
Hoa lang, hoa cà, hoa bưởi dù không sánh kịp các danh hoa,
song vẫn còn có ít nhiều hương sắc. Đến hoa LAU đã không sắc lại không hương mà
thi nhân vẫn không phụ rẫy:
Tri phủ dương ba phiên tiện nhữ:
Nhất sanh tùng bất thức xuân sầu.
Đó là thơ vịnh hoa lau của người đời Thanh là LƯU HÀ THƯỜNG.
Ý nói rằng “Hoa dương sanh về mùa xuân khen hoa lau biết lựa mùa thu mà nở, nên
suốt đời khỏi bị vướng mối sầu xuân”.
Viên Mai xem câu thơ của Hà Thường mà thất sắc. Và hoa lau nhờ
Hà Thường mà nổi danh trong làng thơ.
Ngoài các thi nhân kể trên, còn nhiều nhà yêu hoa khác. Mỗi
người yêu mỗi cách, song đại để đều thấy nơi hoa, mỗi thứ có mỗi tâm hồn, mỗi
tính cách riêng biệt. Và đối với thi nhân, hoa không phải là vật chơi qua thời,
mà là những người bạn tinh thần thân thiết.
Chẳng những thế, thi nhân yêu hoa lại còn yêu với một niềm
chung thủy:
Yêu hoa yêu cả một đời
Khi phong nhụy thắm khi cười gió đông,
Khi trăng xế khi sương lồng,
Khi đà lợt phấn phai hồng càng yêu. (2)
Rủi cuộc yêu đương có ngắn ngủi, yêu rồi vẫn để lại chút
hương vị của yêu đương:
Tình trong giấc mộng vẫn tình
Gối hoa đã tỉnh bên mình còn hương.
Chẳng những thi nhân mới yêu hoa quý hoa. Cả các nhà đạo đức
cũng có tình với hoa:
- Đức Khổng Tử yêu hoa lan, gọi lan là hoa Vương Giả và thường
đeo lan trong mình.
- Chu Thúc Mậu, một vị đại
hiền đời Tống, yêu hoa sen. Mùa sen nở đêm đêm thường cột thuyền giữa đầm mà ngủ,
để mộng mình hòa cùng mộng sen.
Lắm nhà quyền quý cũng rất yêu hoa:
- Vua Đường Minh Hoàng yêu
hoa như yêu cung phi mỹ nữ. Nhà vua đã đặt Dương Quý Phi bên hoa Mẫu đơn khiến
Lý Thái Bạch có khúc Thanh Bình điệu để lại nghìn thu. Nhà vua lại sai đúc những
chiếc chuông nhỏ bằng vàng, đem treo trên cành cây nơi Thượng Uyển để đuổi chim
không cho đến phá hoa. Và những lần xuân đến thường đem nhạc công theo mình
trong lúc đi thưởng hoa, để họa tấu những khúc du dương cho hoa được hoan lạc.
Do đó hễ mỗi lần nhà vua đến thì trăm hoa đua nở theo nhịp trúc ti.
- Những tay phong lưu phú
quí đời Tống cũng như đấng quân vương, thường làm những cung điện bằng ngọc để
chứa hoa. Mỗi giống hoa có một chuyên viên phụ trách việc bón tưới cho cây, tắm
rửa cho lá. Như hoa Mẫu đơn thì giao cho mỹ nhân, và giai nhân phải mặc lễ phục
khi tắm rửa cho hoa. Hàn mai thì phải một vị tăng gầy gò xanh xao chăm sóc.
Yêu hoa quý hoa đến thế là cực điểm.
Nhưng lòng yêu hoa vẫn còn ở trong vòng tình ái.
Chưa bằng tình yêu hoa của người Nhật.
Người Nhật đã nâng cao lòng yêu hoa thành lòng sùng kính. Và
lòng sùng kính của họ đối với hoa, thiêng liêng như một đạo giáo.
Đó là Hoa đạo.
Hoa đạo về hình thức là nghệ thuật cắm hoa. Có nhiều nguyên tắc,
có nhiều trường phái. Mỗi trường phái có một người lãnh đạo và có những nguyên
tắc riêng biệt. Nhưng đại để là thận trọng trong việc hái hoa, cắm hoa, đặt để
lọ hoa ở một nơi xứng đáng.
Dường như họ chỉ chú trọng về mỹ thuật.
Nhưng sự thật họ cố gây trong óc mọi người cái quan niệm nhất
trí về thiên nhiên và nghệ thuật, về nghệ thuật và đời sống con người, hầu tạo
một bầu không khí điều hòa tươi đẹp trong cảnh sinh hoạt hằng ngày.
Đó là một cách tu thiền vậy (3)
Chỉ có nước Nhật mới có Hoa đạo cũng như Trà Đạo.
Ở Trung Hoa có ngày Hoa Chiêu, thường tổ chức vào ngày rằm
tháng hai âm lịch, là thời hoa nở cực thịnh. Muôn nhà từ nhà dân đến nhà quan,
từ nhà nghèo đến nhà giàu, đâu đâu cũng ăn uống, vui chơi như ngày nguyên đán
đêm thượng nguyên. Người ta cúng vị Hoa thần lúc hoa đương thời nở rộ, để cùng
thần thưởng thức vẻ đẹp hoàn toàn của thiên nhiên, mà hoa là đại biểu.
Đến tháng tư âm lịch, hoa rụng hết, chỉ còn có hoa đồ mi (4),
thì lại tổ chức lễ tiễn Hoa thần, gọi là Giao Mang Chủng. Lễ tưng bừng không
kém lễ Hoa Chiêu. Song chỉ có những nhà có vườn hoa, những nơi có công viên, mới
treo đèn kết hoa rực rỡ thay hoa.
Tuy lễ lạc tưng bừng, song người dự cuộc không có lòng thành
kính đối với hoa như người trong Hoa đạo của Nhật Bản.
Lòng yêu quý hoa của ông cha chúng ta ngày xưa tưởng không
kém người Trung Hoa, người Nhật Bản, tuy không nâng lòng yêu hoa thành lòng mộ
đạo như người Nhật, không có những hình thức sang trọng như người Trung Hoa.
Lão từng thấy nhiều vị túc nho, nhiều vị ẩn giả không bao giờ
giơ tay hái một đóa hoa đương nở hay còn búp. Và hễ gặp những cánh hoa rơi thì
lượm để vào những nơi sạch sẽ kín đáo. Không phải lãng mạn như nàng Đại Ngọc
khóc hoa chôn hoa trong Hồng Lâu Mộng. Các cụ nhặt hoa rơi một cách hồn nhiên
và tự nhiên như nhặt những tờ giấy có chữ thánh hiền bị rơi trước mắt.
Lão còn nhớ: Năm 1925, lão đậu bằng Tiểu Học, bè bạn đến mừng.
Một anh bạn thấy nơi hàng rào có bụi hoa hường - gai (rosier sauvage) nở đầy
bông, bèn hái một đóa vừa mới nở. Bạn cầm ngửi một chốc rồi ném nơi sân. Sau
khi các bạn ra về hết, bà thân sinh của lão ra nhặt hoa và hỏi tên anh bạn kia,
rồi nghiêm sắc mặt bảo:
- Hoa mới nở mà hái là bất
nhân. Hái hoa rồi lại ném là bất nghĩa. Con không nên chơi với người ấy.
Những bó hoa cắm trên bàn thờ lúc cúng, những bình hoa để nơi
phòng khách phòng văn, đến khi tàn, không bao giờ bị ông bà cha mẹ chúng ta
quăng vào giỏ rác, hay ném vào nơi không được sạch sẽ. Hiện thời, lên nhà quê
chúng ta còn thấy những bó hoa điệp, hoa vạn thọ khô héo gác trên hàng rào duối,
hàng rào tre. Đó là những bó hoa của các bà nội trợ cúng rằm, cúng mồng một,
cúng Phật hay cúng tổ tiên. Đó là di tích của lòng yêu hoa kính hoa của ngày
xưa còn sót lại.
Di tích tốt đẹp ấy không còn thấy ở thành thị.
Bởi người thành thị đã nhiễm phải thói khinh bạc của hạng người
tự do cho mình là văn minh, tức là người Âu Mỹ.
Người Âu Mỹ trồng hoa nhiều hơn người Việt Nam, và tốn phí
cho hoa cũng gấp trăm nghìn lần. Trong những phòng khách, phòng ăn, phòng làm
việc, trong những buổi lễ, trong những ngày vui…, hoa mua về cắm đầy, đầy cả
hương, đầy cả sắc, nhất là sắc, lộng lẫy huy hoàng. Nhưng cuộc vui tàn, buổi lễ
tan, hoa vừa héo cánh, thì trước kia quí trọng bao nhiêu, lúc này phụ rẫy bấy
nhiêu. Ngàn tia muôn hồng vừa mới ngự nơi cao sang nhất, lại bị dồn chung cùng
những rác rến, những đồ dơ bẩn của nhà bếp của sân…! Mùi hương của hoa lẫn
cùng mùi hôi hám của đồ thừa thãi, sắc thắm của hoa bị những thứ ô uế làm úng rữa,
ố hoen…! Đáng lẽ hoa còn sống còn tươi được một thời gian nữa mới trọn đời hoa,
thì đã phải chết oan chết gấp!
Tinh thần người Tây Phương và người Đông Phương khác nhau xa
quá!! Một bên thì lộ ra ngoài. Một bên thì chìm vào bên trong. Và tình người Á
- Đông, đem cách chơi hoa yêu hoa mà so sánh, thì chúng ta thấy thâm hậu hơn
người Âu Mỹ nghìn lần.
Tình yêu quý hoa của cha ông chúng ta để lại là một trong những
dân tộc tính.
Tưởng chúng ta không nên đánh mất, trái lại còn nên vun vén
trau dồi để được như người Trung Hoa, người Nhật Bản.
Và cách yêu quý hoa của ông cha chúng ta, của người Trung
Hoa, Nhật Bản, là hình ảnh là hành động của những tâm hồn cao đẹp, tức là hồn
Thơ.
Những người yêu quý hoa như các vị thánh hiền, các vị phong
lưu đài các, như các vị túc nho, các bà từ mẫu.. kể trên, là những nhà thơ làm
bằng hành động bằng thái độ thay thế văn chương.
Đó là những người tâm hồn dệt bằng văn chương. Vì văn chương
đâu phải chỉ ở nơi văn tự:
Hảo điểu chi đầu diệc bằng hữu
Lạc ba thủy diện dai văn chương (5)
Cho nên thơ có câu:
Yêu hoa là khách văn chương
Vì hoa bút trổ mùi hương khuynh thành. (6)
Chú thích:
(1) Xem bài “Chuyện hoa trong ngày
xuân" ở trước.
(2) Thơ trong "Một Tấm Lòng"
xuất bản năm 1939.
(3) Viết theo quyển Trà Đạo của
OKAKURA KAKUZO do Gabriel Mourey dịch
ra tiếng Pháp với
nhan đề là Le Liver du The.
(4) Cổ thi: Khai đáo đồ mi ba sự
liễu
(5) Chim tốt trên cành cũng là tình bằng
hữu, hoa rụng trên mặt nước thảy là những
áng văn chương.
(6) Bài này nguyên của đứa con trai
lão là Quách Giao đề là “Ngày xuân nói chuyện hoa”, lão sửa lại và thêm thơ vào
để làm tốt cho Thi Nhân.
4- Học trồng hoa thơ
I.
Thời Tiền Chiến, Sào Nam Tiên sinh mở Mộng Du thi xã, Tản Đà tiên sinh mở Văn
Đàn Giảng luận. Thấy lão lãnh trách nhiệm giữ Vườn Hoa Thơ, có người hỏi:
- Có phải Lão Vườn bắt chước hai vị tiền bối chăng?
Lại có người bảo:
- Lão Vườn muốn nối chí Sào Nam và Tản Đà.
Lão kính cẩn thưa:
- Nói rằng bắt chước thì không sai. Nhưng bảo rằng nối chí thì không đúng, mặc
dù lão tôn kính Phan Tiên sinh cũng như Nguyễn Tiên sinh vào bậc thầy.
- Tại sao?
- Tại vì mục đích khác nhau.
SÀO NAM bị bọn thực dân Pháp an trí nơi Bến Ngự. Bốn bề bị lưới mật thám bủa
giăng. Ngoài vài ba người bạn đồng chí như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Võ Bá Hạp…,
không mấy ai dám tới lui thăm viếng. Mở Mộng Du Thi Xã, Tiên sinh nhắm một mục
đích xa hơn là dạy thơ: Lấy thi xã làm nơi trò chuyện, mượn nguồn thi để gieo
giống cách mạng vào lòng đám thanh niên có học và ham văn chương, dùng lời thơ để
khêu gợi lòng yêu nước yêu nòi của những người chạy theo mồi danh lợi…, để giao
tình cùng bạn đồng chí đồng thanh…
Tức là mục đích chính của Mộng Du chủ nhân là chánh trị, còn thơ là phụ thuộc.
Bọn thực dân dòm biết lo tìm cách cản ngăn.
TẢN ĐÀ mở Văn Đàn Giảng Luận với mục đích thuần túy văn chương. Tiên sinh muốn
đem sở học và kinh nghiệm sáng tác của mình ra truyền cho những người yêu quí
Quốc Văn. Lúc bấy giờ phong trào Thơ Mới đương bành trướng. Uy danh của tiên
sinh bị các nhà thơ lãnh đạo phong trào thơ Mới hè nhau đả phá kịch liệt. Cho
nên ảnh hưởng của Văn Đàn, cũng như của Mộng Du, không được sâu rộng.
Mộng Du Thi Xã bị áp lực của cường quyền mà thất bại.
Văn Đàn Giảng Luận bị thời thượng lôi cuốn hết tri âm.
Không thành công. Nhưng mục đích cao đẹp của Sào Nam và Tản Đà, trong mắt người
hữu tâm, vẫn luôn luôn cao đẹp.
Còn về phần lão, mở Vườn Hoa Thơ, lão chỉ nhắm mục đích mua vui cùng bạn đọc.
Không bao giờ lão có tham vọng bày vẽ, dìu dắt bất kỳ ai, vì tự biết mình non
tài yếu sức.
Nhắm mục đích thấp gần nên lão mới dám nói năng mạnh dạn, bởi:
Nghìn sau chưa dễ lầm ai
Riêng vui ngày tháng không ngoài trăm năm (1)
Chú thích:
(1) Dịch phóng câu thơ của Nguyễn Thượng Hiền: Vị tất ngộ
nhân thiên tải hạ, chỉ năng ngu ngã bách niên trung.
II.
Nghề chơi cũng lắm công phu .
Vườn Hoa Thơ mở ra, tuy mục đích chỉ để mua vui cùng bạn đọc, song lão vườn rất
thận trọng.
Chẳng những dè dặt trong việc khen chê, mà còn cân nhắc trong việc lựa chọn tác
phẩm.
“Chọn thơ cũng như dụng nhân tài, môn hộ nên khoan, thể thủ nên nghiêm (1). Biết
được rõ do đâu có chỗ khác biệt trong các thi phái thì tự nhiên khoan. Biết được
rõ điểm tinh diệu trong mỗi thể cách ở chỗ nào thì tự nhiên nghiêm” .
Đó là lời dạy của cổ nhân.
Tác giả Tùy Viên Thi Thoại lại có câu:
Thanh bằng cung chủy đô tu túy
Vị tẩn toan hàm chỉ yếu tiên
Nghĩa là:
Dù tiếng chủy dù tiếng cung, tiếng miễn giòn là thích
Cả vị chua cả vị mặn vị cho tươi là ngon.
Lão dùng những từ trên đây làm phương châm khi chọn tác phẩm
thu nhập được.
Tuy vậy không thể nào tránh khỏi chủ quan chi phối. Chủ quan đây là sở thích.
Thơ hay có nhiều vẻ. Sở thích người cũng có nhiều khác biệt. Đỗ Phủ không thích
thơ của Đào Tiềm, Âu Dương Tu lại không ưa thơ Đỗ Phủ. Đó là do tánh tình. Thơ
họ Đào thì cam, thơ họ Đỗ là khổ. Thơ họ Âu thì hay nương theo cổ nhân, thơ họ
Đỗ thì độc sáng. (2). Do đó mà không hợp nhau.
Các bậc đại gia văn chương còn thế huống hồ Lão Vườn là kẻ học thiển tài thô.
Cho nên nếu rủi có chỗ không đúng trong việc thủ xả, trong việc phê bình, thì
mong bạn đọc lượng tình mà thể tất.
Chú thích:
(1) Cửa ngõ nên rộng, lượm lấy nên nghiêm.
(2) Đào Tiềm đời Tuấn, Đỗ Phủ đời Đường, Âu Dương đời Tống. Âu Dương Tu học thơ
Hàn Dũ đời Đường, thường lấy thơ họ Hàn sửa làm của mình. Có người chê Âu công
là “ưa ăn cắp”. Lưu Cống Phủ đời Thanh cười đáp: - “Tuy ăn cắp nhưng không hại
đến sự chủ”. (Tùy Viên Thi Thoại).
III.
Có người nhờ lão dạy cho phép làm thơ. Lão từ chối, vì lão rất sợ làm thầy.
Lão sợ có lý do:
Ngày lão còn học cấp Trung Học trường Qui Nhơn, nhân nghỉ hè lão mở lớp dạy tư ở
thôn Trường Định là quê hương của lão. Lão viết một câu đối dán nơi cửa trường,
rằng:
"Chưa phải thầy thử làm thầy, dìu dắt anh em nền tiến bộ;
Đã ra dạy gắng công dạy, lần hồi chúng bạn bước văn minh".
Các bạn của lão trẻ cũng như già đều khen là hay. Nhưng bà thân sinh của lão lại
chê là không đôn hậu, sửa lại là:
"Chưa đáng thầy học làm thầy, chung sức vun xây nền đạo nghĩa.
Đã ra dạy gắng công dạy, khuyên lòng dong ruổi bước văn minh".
Từ khi biết làm thơ, lão được các bạn quen thân khen ngợi, khiến lão sinh lòng
kiêu căng, tự phụ. Bà thân sinh của lão vốn thông Hán học, song không thấy bà
ngâm vịnh, nên lão đinh ninh rằng bà không giỏi văn Nôm. Các bạn đồng hương của
lão cũng nghĩ thế. Khi thấy bà sửa câu đối dán trường, thì ai nấy đều chột dạ.
Tánh huênh hoang ngạo nghễ của lão từ ấy giảm bớt đi nhiều.
Rồi một hôm lão dạy học. Lão giảng một nơi, có một trò lặp lại một ngả. Giận
quá, sẵn cây thước gạch cầm nơi tay, lão gõ lên đầu trò ấy một cái khá mạnh… Buổi
học tan, lão vào nhà trong thì thấy bà thân lão ngồi nghiêm chỉnh trên giường,
dưới đất trải chiếc chiếu chõng. Bà cầm roi chỉ xuống chiếu. Tuy không hiểu
nguyên nhân, lão vẫn ngoan ngoãn phụng mệnh. Bà nhịp roi lên lưng lão:
- Tao nuôi mày từ nhỏ đến lớn, đã có khi nào đánh trên đầu mày chưa? Thế
mà mày mới vừa tập dạy học, đã lấy thước đánh lên đầu học trò như vậy, thì lễ để
đâu? Nghĩa để đâu?
Lão cảm thấy một luồng hơi lạnh chạy từ gót lên đầu, miệng cứng, thân run, đành
sấp mặt chịu tội. Nhận thấy rằng lão biết sợ, bà đánh nhẹ một roi, rồi nói:
- Lần này má tha cho. Con không nên tái phạm.
Mừng quá đỗi mừng, lão vội đứng lên lạy tạ.
Từ ấy mỗi lần bước vào lớp học thì vẻ nghiêm nghị của bà hiện ra trước mắt lão,
lão đâm ra sợ sệt lúng túng…
Do đó lúc đậu bằng Cao Đẳng Tiểu Học rồi, lão xin đi làm phán sự chớ không dám
xin đi dạy học, mặc dù lão đã thạo nghề. Lũ con lớn lên muốn vào trường sư phạm,
lão khuyên:
- Làm thầy cho xứng đáng ông thầy, khó lắm.
Khách yêu Vườn Hoa Thơ nói:
- Ai bảo lên mặt thầy làm gì. Chỉ đem sở học của mình ra dìu dắt đoàn hậu bối
đương dò dẫm đường hướng, tưởng cũng đã góp phần xây dựng tương lai ít nhiều rồi.
- Dìu dắt rủi sai đường lạc lối thì phải chịu trách nhiệm về hậu quả. “Mang tơi
chữa lửa” là việc không nên làm, nhất là lúc tuổi đã “biết mệnh trời”. Nhưng
đã trót nhận nhiệm vụ giữ Vườn Hoa Thơ thì chẳng lẽ lại theo lời Tuân Tử “kẻ
thiện dịch không bói, kẻ thiện thi không nói” (1) như Dương Quán đời đường.
(2). Cho nên thỉnh thoảng lão cũng phải nói, nhưng chỉ nói những gì lão đã học
được của cổ nhân mà thôi.
- Được như vậy cũng đã quý lắm rồi. Từ xưa đến nay chưa có ai không học cổ nhân
mà làm thơ hay được.
- Học cổ nhân, kẻ thiện học thì đặng cá quên nôm (3), kẻ không thiện
học thì khắc thuyền tìm kiếm. Đó là lời luận của Viên Tử Tài. Châu Lịch Viên lại
nói thêm: Học cổ nhân thì nên lấy tinh thần mà hợp mặt ở trong mộng, chớ không
nên khiến cổ nhân hiện hình giữa ban ngày(4).
Đó là những danh ngôn. Kẻ học thơ nên biết để khỏi bị nô lệ cổ nhân. Và để điểm
nhiễm cho lời nói, lão xin đưa ra một vài ví dụ:
Lý Thái bạch trong bài XUÂN TÚ có câu:
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi?
Nghĩa là:
Gió xuân không quen biết
Cớ chi vào rèm là?
Tản Đà nương theo đó mà làm ra câu:
Đêm thu gió lọt song đào
Chồng ai đi vắng gió vào chi đây?
Cổ nhân gọi thế là “Am du kỳ ý nhi hiển dịch kỳ từ”, nghĩa là
“trong lấy trộm ý mà ngoài sửa đổi lời”.
Hàn Mặc Tử cũng nương theo lời họ Lý, nhưng đi xa hơn Tản Đà:
Âm thầm để gió hôn bên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết đặng
Nghi ngờ đến cái tiết trinh em (5)
(Bẽn lẽn)
Thơ xưa có câu NGHĨ CỔ rằng:
Mạc tác giang thượng châu
Mạc tác giang thượng nguyệt
Châu tải nhân biệt ly
Nguyệt chiếu nhân ly biệt
Nghĩa là:
Trên sông chớ làm thuyền
Trên sông chớ làm nguyệt
Thuyền chở người biệt ly
Nguyệt chiếu người ly biệt.
Xuân Diệu nhân đó mà có bài:
Đương lúc hoàng hôn xuống
Là giờ viễn khách đi
Nước nhuộm màu ly biệt
Trời vương hương biệt ly …
Có thể mượn câu thơ của cụ Mộng Si để tán thán mấy câu học cổ
trên:
Vàng có nên mười công bấy lửa
Xanh kia khéo nhuộm hơn chàm.
Chú thích:
(1) Thiện vi dịch giả bất chiêm, thiện vi thi giả bất thuyết.
(2) Một nhà thơ làm quan có tánh tích tốt
(3) Đắc ngư vong thuyền, tức khi đã được ý rồi phải quên lời. Khắc châu cầu kiếm:
khắc dấu trên thuyền đương chạy để mong tìm lại cây kiếm bị rớt xuống nước tức
chỉ thấy gần mà không biết nghĩ xa.
(4) “Học cổ nhân giả, chỉ khả giữ chi mộng trung thần hiệp, bất khả sử kỳ bạch
trú hiện hình”. Ý nói chỉ nên lấy tinh ba trong lời nói chớ không nên bắt chước
từng ý từng lời.
(5) Có người chê chữ “cái” bảo rằng “tiết trinh” đâu phải là
một vật mà gọi là cái? Xin thưa: “Cái tiết trinh” của Hàn Mặc Tử cũng như “cái
hồng nhan” trong câu “trơ cái hồng nhan với nước non” của Hồ Xuân Hương.
IV.
Nhân đọc Tùy Viên Thi Thoại thấy câu: “Thơ do tánh tình của người mà ra (1). Chỉ
lo khai thác nơi bản thân là đủ. Cốt sao cho ngôn động tâm, sắc đoạt mục, vị
thích khẩu, âm duyệt nhĩ, thế là thơ hay”, một ông bạn đến Vườn Hoa Thơ hỏi
lão:
- Theo lời của Viên Tử Tài thì cần chi đọc sách?
Lão đáp:
- Viên Tử Tài là một nhà thơ chú trọng tánh linh. Viên thường nói: “Làm người
thì không nên Hữu Ngã (2). Hữu Ngã thì bệnh tự thị bệnh ích kỷ sanh ra nhiều.
Còn làm thơ lại không nên Vô Ngã. Vô Ngã tất sanh ra tệ tiệu tập (3), tệ phu diễn.
Văn Hàn Xương Lê, sở dĩ cổ kính ấy là nhờ tự nơi mình mà ra”. Đó là Viên khuyên
người làm thơ phải “Tự lực cánh sinh” chớ không nên “cầu ngoại viên”. Song nếu
không cần đọc sách, nghĩa là không học người xưa, học người hơn mình, thì làm
sao biết được nhiều cách khôn khéo do kinh nghiệm mà có, để diễn đạt tình ý cho
thấu đáo, sâu sắc?
Tùy Viên đọc sách rất nhiều, và trong thi thoại thường dẫn những lời nói của
các danh nhân tiền bối và đương thời để khuyến giới đám hậu sinh.
Trong những lời nói của các danh nhân, lời của Lý Ngọc Châu, chúng ta nên dùng
làm câu khẩu hiệu:
“Đọc sách nhiều là việc tối yếu của thi gia. Sở dĩ phải dồn chứa trong bụng
cho được vạn quyển sách là cốt để trợ lực cho thần khí. Thơ mình làm ra có liên
quan đến sách mình đọc hay không liên hệ, kẻ làm thơ không tự biết, người đọc
thơ cũng không biết. Như thế mới gọi là chân thi. Nhược bằng có ý khoe khoang sức
uyên bác của mình thì rớt xuống bậc hạ thừa”. (4)
Đỗ Thiếu Lăng cũng thường nói:
- Độc phá vạn quyển. (5)
Đó cũng là lời dạy phép đọc sách. Đọc mà phải phá.
Đọc để thu hoạch, phá để vỡ nghĩa lý. Phá là “phá kỳ quyển thủ kỳ thần” (6). Độc
phá để nhóm lấy phần tinh thần và vất bỏ phần cạn bã. Cũng như con tằm ăn dâu,
con ong hút mật.
Nói một cách khác: Đọc sách cũng như ăn, phải tiêu hóa mới bổ ích.
Kẻ học làm thơ cũng nên theo phương pháp học làm người của Khổng Tử:
- Bác học, là học cho rộng
- Thẩm vấn, là hỏi cho kỹ
- Thận tư, là nghĩ cho chín
- Minh biện, là bàn cho chẻ.
- Đốc hành, là làm cho được.
Gia công học tập như thế để cho đủ lực lượng tự phú tự cường, tự xuất cơ trử
thành nhất gia phong cốt (7), chớ không chịu nương dưới rào dậu người, như lời
Tổ Oanh đời Thanh thường nói (8)
Ông bạn hỏi vặn:
- Lưu Trọng Lư chỉ đọc có quyển Truyện Kiều của Nguyễn Du, Anh Thơ Nguyễn Bính
học chưa hết chương trình tiểu học (9). Nhưng thơ của ba nhà có thua kém chi
thơ người có thiên kinh vạn quyển trong lòng?
Lão cười:
- Người làm thơ muốn có thơ hay phải gồm đủ ba yếu tố: Thi cốt, thi học, thi
tài.
Thi cốt thi tài là của trời
Thi học là của người
Thi nhân là giống cây có hoa.
Sanh ra hoa là thi tài. Nhưng sanh được hoa là do cây có sẵn chất hoa trong
thân, tức có sẵn thi cốt.
Cây đã có sẵn chất hoa trong thân, đã sẵn khả năng ra hoa, mà gặp được người
vun xới, tưới nước bỏ phân, thì nhất định hoa nở thạnh và giàu hương sắc hơn bị
trồng nơi không người tưới bón. Phân nước là thi học.
Học hỏi thêm thì thơ của họ nhất định phải nhiều hơn và cao thâm hơn.
Thơ người ít học thường cạn.
Thơ người học nhiều thường thâm.
Cho nên người làm thơ không nên lười nếu muốn thơ mình lên đến diệu xứ.
Chú thích:
(1) Thi giả nhân chi tánh tình giả
(2) Hữu Ngã: Nặng về Cái Ta (Le moi).
(3) Tiệu tập: Gom góp của người để bắt chước làm theo.
Phu diễn: Phô bày một cách cạn cợt.
(4) Phàm đa độc thư vi thi gia tối yếu sự. Sở dĩ tất tu hung hữu vạn quyển giã,
dục kỳ trợ ngã thần khí nhĩ, kỳ lệ sự bất lệ sự, tác thi giã bất tự tru, độc
thi giả diệt bất tự tri. Phương khả vị chân thi. Nhược hữu tâm căng uyển uyên
bác tiện lạc hạ thừa.
(5) Đọc và phá vỡ muôn quyển sách (phá vỡ nghĩa lý).
(6) Phá vỡ hình thức để lấy tinh thần của bài văn câu văn mình đọc.
(7) Tự đặt ra thêm máy làm phong vận cốt cách riêng một nhà. Tức tự đặt ra
nguyên tắc để làm thơ.
(8) Nguyên văn: “Văn chương đương tự xuất cơ trử thành nhất gia phong cốt, bất
khả ký nhân ly hạ.”
Âu Dương Tu đời Tống học văn Hàn Xương Lê rồi tự lập thành nhất gia cơ trử,
nhưng học thơ họ Hàn lại bị chi phối nặng nề. Cho nên vượt ra ngoài ảnh hưởng
sách vở không phải việc dễ.
(9) Xem “Thi nhân Việt nam” của Hoài Thanh.
5- Gọt tỉa hoa thơ
1.
Nắng mai trong như lọc. Lão ngồi dưới gốc mận vườn thơ cao
ngâm hai câu tức cảnh vừa nhận được khi hôm:
Gió thoảng rèm hương hoa thức ngủ
Trăng lồng hiên trúc bút thôi xao.
Riêng lấy làm thích, nhìn những giọt sương lóng lánh mà mỉm
cười. Chợt nghe sau lưng có tiếng:
- Bác ra vườn sớm quá!
Lão ngoảnh lại thì thấy hai em học sinh quen thân là Lạc và Hải.
Liền đó ông bạn già Trần Thúc Lâm đến tiếp. Lão hoan hỷ chào:
- Chà! Mới mở hàng đã đắc
khách. Hôm nay chắc vườn hoa phát tài.
Đoạn pha trà cùng khách nhấm thơ. Trần quân nói:
- Câu thơ ngẫu hứng mà dường
như dùng lắm công phu. Rèm Hương mà xuống hoa, Hiên Trúc mà xuống bút: Thiệt
khéo! Một bên giai nhân, một bên tài tử: Thật tình! Bút Thôi Xao: Chữ cũ nhưng
cách dùng mới…
Hải có vẻ mừng rỡ:
- Hai chữ THÔI XAO lâu nay
cháu hiểu chưa được thấu đáo, vì tra từ điển thấy THÔI nghĩa là đẩy, XAO nghĩa
là gõ, mà ở trường thầy giáo lại giảng: THÔI XAO là lựa chữ nuốt lời trong việc
làm thơ. Nghĩa của thầy và nghĩa của sách cách nhau xa quá, nên cháu rất lấy
làm phân vân. Kính xin hai bác chỉ giáo.
Lão đáp:
- Sách giảng đúng, Thầy giảng
đúng. Nhưng sách chỉ nói về gốc, thầy chỉ nói về ngọn. Muốn biết hình dáng một
cây tùng mà chỉ xem khúc gốc và khúc ngọn thì làm sao hình dung được toàn thể của
cây.
Trần quân tiếp:
- Nghĩa là ở giữa lời giảng
của thầy và lời giải của sách có một sự tích về hai chữ THÔI XAO. Phải
biết rõ sự tích này mới hiểu thấu đáo ý nghĩa của hai chữ nọ.
Đoạn kể:
GIẢ ĐẢO là một thi nhân nổi danh đời Đường (618-907). Lúc trẻ
nương cửa Phật. Sau hoàn tục, thi đậu tiến sĩ.
Một hôm, mang sao đi thăm một người bạn ở ẩn, xúc cảnh làm được
hai câu ngũ ngôn:
Điểu túc trì biên thọ
Tăng sao nguyệt hạ môn.
Nghĩa là: Chim ngủ trên cây bên ao, nhà sư gõ cửa dưới trăng.
Rõ là một giai cú. Nhưng lưỡng lự không biết nên hạ chữ XAO
hay chữ THÔI. Suốt đêm trằn trọc. Sáng hôm sau lên đường trở về nhà, lòng không
thôi cân nhắc chữ. Vừa đi vừa lấy hai tay làm điệu bộ xô cửa. Cứ lo gõ rồi xô,
xô rồi gõ, không để ý gì đến chung quanh. Lúc ấy có xe quan Hình Bộ Thị Lang là
HÀN DŨ đi qua, Giả Đảo không thấy cứ đi đâm sầm vào. Hàn sai lính bắt hỏi, biết
rõ duyên do, khuyên nên lấy chữ XAO.
Từ ấy hai bên trở thành đôi bạn văn chương, và hai chữ THÔI
XAO được làng thơ dùng để chỉ việc rèn câu đúc chữ.
LẠC hỏi:
- Thưa Bác, tại sao chữ
XAO lại hơn chữ THÔI?
Trần quân cười:
- Không thấy sách giảng.
Lão góp ý:
- Theo thiển kiến, chữ XAO
hơn là vì:
Trước hết giữ được lễ độ. Phàm đến nhà người, dù thân thiết đến
đâu, khách, theo phép lịch sự, không bao giờ đường đột đẩy cửa bước vào nhà, nhất
là lúc ban đêm. Xưa cũng như nay, thế nào khách cũng phải gõ cửa rồi đứng đợi
chủ nhân lên tiếng mời vào hoặc ra đón.
Sau nữa, nếu đẩy cửa bước vào nhà, thì bóng trăng trên cửa đối
với người, có cũng như không. Chớ gõ cửa rồi đứng đợi, thế nào người thấy ánh
trăng soi sáng cũng ngước mặt lên nhìn trăng. Như vậy người đối với trăng không
đến nỗi vô tình và trăng đối với người không đến nỗi vô dụng.
Chữ XAO để vào câu thơ làm cho ý thơ giàu thập bội, cho nên
giá trị hơn chữ THÔI.
Lạc và Hải đồng thanh:
- Không biết cổ nhân có
nghĩ như thế chăng?
Lão đáp:
- Mình suy luận thấy hợp
lý là được, hà tất phải tìm xem cổ nhân có nghĩ hay không nghĩ như mình, một
khi cổ nhân không để gì lại làm bằng cứ. Người Tây Phương có câu “Lire c’est
creer” nghĩa là “Đọc là sáng tạo”. Nếu cổ nhân không nghĩ như mình, mà những điều
mình nghĩ ra đó giải thích thơ văn được hợp lý, có thú vị, và không hại gì đến
cổ nhân, thì đó là sáng tạo, và đối với cổ nhân cũng như đối với văn chương,
mình có công chớ không có tội.
Trần Thúc Lâm nói:
- Hôm nay đến tìm Lão Vườn
chính vì câu thơ của Giả Đảo, không ngờ lại gặp được một tân từ có chữ THÔI XAO
và hai chú em thắc mắc về hai chữ ấy. Thật có thể gọi là một cuộc tao ngộ kỳ
hy.
Lão cười:
- Như vậy là đã giải quyết
xong.
- Mới xong một vế, còn một vế
nữa: Từ trước đến giờ tôi vẫn nghe và vẫn thấy các sách quốc văn nói về thơ Đường
chép câu thơ của Giả Đảo là:
Điểu túc trì biên thọ
Tăng xao nguyệt hạ môn.
Nhưng vừa rồi tình cờ tôi xem một tờ báo Tự Do cũ, thấy nơi mục
“Cổ Tích bằng Tranh” do nhà văn Hiếu Chân phụ trách, lại chép là “Điểu túc trì
TRUNG thọ”. Tôi không biết địa chỉ của Hiếu Chân, nên không thể viết thư hỏi
xem ông đã trích câu ấy ở sách nào, đành phải đến nhờ Lão Vườn cho biết chữ
BIÊN hay chữ TRUNG là chữ của GIẢ ĐẢO.
- Lão không dám quả quyết vì chưa nghiên cứu kỹ. Nhưng theo
thiển ý thì chữ TRUNG thích đáng hơn chữ BIÊN.
- Vì sao?
- Phàm người sống cùng ngoại cảnh, khi
đi đường thường hay ngó thẳng hoặc ngó lên. Người sống với một nội tâm lúc nào
cũng hay ngó xuống. Lãng Tiên Giả Đảo là một nhà sư sống với nội tâm nhiều hơn
ngoại cảnh. Đi ngang qua ao, thấy bóng cây chiếu xuống nước, đồng thời nghe tiếng
chim ngái ngủ vẳng bên tai, thì tâm hồn rung cảm, tiếng chim bên tai tức thì
giao duyên cùng bóng cây trước mắt tạo thành bức cảnh “điểu túc trì trung thọ”
mang sắc thái tâm hồn của nhà thơ. Cảnh “chim ngủ trên cây bên ao” là cảnh thường,
cai cũng trông thấy. Cảnh “chim ngủ trên bóng cây trong ao” là cảnh phi thường,
phải là những người nhìn cảnh vật bằng mắt lẫn tâm mới trông thấy. Thơ Giả Đảo
có tiếng là “hiểm quái”. Hình ảnh cảnh tượng trong thơ tất nhiên phải là những
hình ảnh cảnh tượng phi thường. Vì vậy tôi tin rằng chữ TRUNG là chữ của nhà
thơ đã được các nhà soạn văn học sử Trung Hoa liệt vào phái Quái Đản với Mạnh
Giao, Lý Hà.
Hải và Lạc lại hỏi lão:
Câu thơ:
Gió thoảng rèm hương hoa thức ngủ
Trăng lồng thiên trúc bút thôi sao.
Vế dưới dùng điển, vế trên không dùng điển. Như thế có trích
đoạn chăng?
Lão đáp:
- Vế “Trăng lồng thiên
trúc bút thôi xao” không phải dụng điển. Bởi chữ THÔI XAO đã trở thành một chữ
thông dụng và khi dùng chỉ dùng với nghĩa “nghĩ thơ làm thơ” chớ không
quan tâm đến, không liên tưởng đến sự tích GIẢ ĐẢO.
Còn vế “Gió thoảng rèm hương hoa thức ngủ” không phải tạc
không. Vì sách chép rằng vua Đường Minh Hoàng thấy Dương Quý Phi ngủ liền phán:
“Hải đường ba thụy liễu”, nghĩa là “Hoa hải đường đã ngủ rồi”(1). Nhưng bảo rằng
dụng điển là sai. Đó chỉ dựa vào lời nói của Vua Đường để khỏi bị bắt bẻ rằng
“hoa gì lại biết thức biết ngủ”. Cũng như Trần Kế Xương dựa vào câu tục ngữ
“bán trời không chứng” (2) để làm câu:
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười thằng bé nó hay chơi…
Nói tóm lại, vế “… hoa thức ngủ” lấy thế câu nói của Đường
Minh Hoàng, vế “… bút thôi xao” mượn chữ trong câu chuyện của Giả Đảo. Hai bên
đều có chỗ dựa, tức là có xuất xứ, nhưng bên nào cũng chỉ dựa hơi hơi mà thôi.
Như thế là cân, là chỉnh.
Trần quân tiếp:
- Và như thế là một cách
“phiên trần xuất tân” tức là: lật cái cũ lên để bày cái mới ra”.
Mặt trời lên cao soi nắng vào chỗ ngồi, mặt khách cũng như mặt
chủ trông vừa sáng vừa tươi… Và nâng cao chung trà khách chủ đồng cất tiếng:
“Dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh, đại khối dã ngã dĩ văn
chương. Hội đào lý chi phương viên, tự thiên luân chi lạc sự...” (3)
Chú thích:
(1) Cũng có sách chép: “Hải đường thụy vị túc đa?” Nghĩa là: “Hoa hải đường ngủ chưa đủ ư”?
(2) “Bán trời không chứng, bán rừng không giấy”.
Cũng có nơi nói “Bán trời không văn tự”, “Bán trời không mời thiên lôi”.
(3) Bài tựa “Xuân dạ yến đào lý viên” của Lý
Bạch: Mùa xuân ấm dùng mây khói mà đón mời ta, trời đất dùng văn chương mà đãi
ta. Hợp trong vườn thơm đào mận, bày tiệc vui giữa bạn bằng…
2.
Làm thơ công phu như Giả Đảo gọi là khổ ngâm.
Cổ nhân có câu:
Khổ ngâm tăng nhập định
Đắc cú tướng thành công.
Nghĩa là: Làm thơ công phu nhiều và khó như nhà sư ngồi thiến
cho đến lúc nhập định, nhưng khi làm được câu đắc ý thì vui sướng không khác
ông tướng lập nên chiến công.
Nỗi khổ và nỗi vui ấy đều thể hiện nơi Giả Đảo.
Trường hợp vui như trường hợp sau đây:
Một hôm Giả Đảo mặc áo cà sa cỡi lừa đi lang thang trên đường
Tràng An. Nhằm lúc mùa thu, gió thổi lá vàng bay đầy mặt đất, Giả Đảo cao hứng
ngâm:
Lạc diệp mãn Tràng An.
Nhưng không nghĩ ra vế thứ hai, cứ cho lừa đi loanh quanh lẩn
quẩn, trí băn khoăn miệng lẩm bẩm. Chợt lừa đi đến bờ sông Vi Thủy. Trông thấy
mặt sông gợn sóng, Giả liền hạ ngay câu:
Thu phong xuy Vi Thủy.
Cảnh thật như vẽ mà đối đáp thật sít sao:
Lá rụng đầy Tràng An
Gió thu thổi Vi Thủy
Dịch ra thơ:
Lá vàng trôi ngập Tràng An
Sóng sông Vi Thủy nhẫy tràn gió thu
Giả Đảo khoái chí, miệng đọc thơ chân thúc lừa. Lừa nhảy tứ
tung, nhảy xô vào xe quan Kinh Triệu Giả bị lính bắt về phủ giam một đêm!
Hai lần vì thơ mà Giả Đảo đụng vào xe quan. Một lần may vì gặp
được vị quan yêu thơ. Một lần rủi vì gặp phải vị quan chỉ biết pháp luật.
Những câu chuyện về các nhà thơ khổ ngâm xưa nay rất nhiều.
Lão xin kể thêm một chuyện nữa:
Lý Tiên Chi đời Thanh vào tá túc nơi một ngôi chùa, nửa đêm
thức dậy mở cửa sổ cho gió mát, làm bầy chim đương ngủ giật mình vừa bay vừa
kêu. Nhà thơ liền ứng khẩu:
Thôi song kinh điểu mộng.
Nhưng rồi nghĩ mãi không đối được. Năm năm sau lên núi cất
nhà ở ẩn. Đêm đến vào giường nằm, nghe dế kêu cao hứng đối ngay được câu trước:
Tựu chẩm thính cùng thanh.
Hai câu ấy nghĩa là: “Đẩy cánh cửa sổ làm kinh giấc mộng của
chim; đến gối nằm thì nghe tiếng dế gọi”.
Câu chuyện trở thành một giai thoại trong làng thơ.
Chắc có bạn tự nghĩ:
- Hai câu này cũng như hai câu của Giả Đảo trên
kia được truyền tụng là do câu chuyện chớ không phải do văn chương.
Lão xin thưa:
- Văn chương cũng như ý tứ
trong những câu này mới xem qua thì không thấy gì đặc sắc. Lời thơ bình dị, cảnh
cũng là cảnh trông thấy thường ngày. Nhưng nếu chịu khó lắng lòng thì chúng ta
nhận thấy vị ngoại vị.
Thật vậy: Tràng An là nơi nổi tiếng phồn hoa đô hội, thế mà
dưới mắt Giả Đảo chỉ có toàn lá rụng và gió thu! Lá rụng ám chỉ hạng người vô dụng
sống chỉ thêm chật đất mà thôi. Gió thu ám chỉ bọn người có quyền thế thường
làm cho người dưới đau buồn phải nhăn mặt như gió thổi mặt sông. (1).
Đó là ẩn ý của hai câu trên.
Còn hai câu dưới ngậm thuyết quả báo của nhà Phật. Mình vô
tình cho con chim mất ngủ, con dế cũng làm cho mình mất ngủ trở lại một cách vô
tình. Tuy vô tình nhưng vẫn không ra ngoài vòng nhân quả.
Lại còn ý này nữa: Chùa là cửa từ bi. Con chim đến nương thân
tưởng đã được sống yên ổn, chẳng ngờ còn bị quấy rầy! Núi non là nơi thanh vắng.
Nhà thơ sợ người đời làm khổ, lên núi ở cho yên thân, ngờ đâu không bị người lại
bị dế phá rối. Người và vật đều là chúng sinh. Hễ nơi nào có chúng sinh thì là
có khổ ở đó. Trên thế gian này, đi đâu cho khỏi nắng trời?
Người làm thơ rút ruột ra để thêu dệt nên câu thơ hoa gấm,
thì người xem thơ cũng phải trải lòng ra để thu nhận những vị thơm chất thắm tiềm
ẩn trong lời thơ. Như thế mới khỏi thiệt thòi cho văn chương.
Chú thích:
(1) Có sách chép rằng Giả Đảo đối được câu:
“Lá rụng đầy Tràng An” trong lúc bị nhốt. Nếu như thế thì ý vế đối Gió thu
thổi Vi Thủy lại càng rõ. Song không thử bằng thấy cảnh mà hứng thơ… và
câu thơ trở thành câu sấm báo trước việc bị kẻ có quyền bắt nhốt.
3.
Một người khách viễn phương ghé vào thăm vườn, nói cùng lão:
- Đúc chữ rèn câu là công
việc của những thi công (Versificateur). Thi sĩ (Poète) chỉ chú trọng phần nội
dung, còn lời thì miễn sao đặt được ý.
Lão đáp:
- Rất đúng. Song từ xưa đến
nay, có bài thơ nào lời không đẹp mà được truyền tụng? Huống nữa người làm thơ
đúc chữ rèn câu làm gì nếu không để diễn đạt cho trọn tình ý muốn phát biểu?
Nghề làm thơ cũng như nghề làm ngà ngọc. Nếu không làm ra
công mài đũa chạm trổ thì ngọc kia ngà kia làm sao trở thành những mỹ phẩm cao
giá. Biện Hòa bị hai lần chặt chân là vì giữ nguyên viên ngọc phác. Cho nên cẩu
thả trong việc làm thơ mới có tội, chớ lao tâm khổ tứ như Giả Đạo, nếu không
khen thời thôi, sao lại nỡ đem ra chê cười?
Nhưng muốn dũa muốn mài muốn chạm muốn trổ, trước hết phải có
ngà có ngọc trong tay. Ngà ngọc đó là thi cốt thi tâm, thi tình thi cảm… Chớ nếu
dùng gỗ mục gỗ tạp mà ra công mài dũa, ra công trạm rồng trổ mây… kết quả chỉ
là những món đồ chơi trong chốc lát. Bởi vậy cổ nhân có câu:
Ngâm thi hảo tợ thành tiên cốt
Cốt lý vô thi mạc lãng ngâm. (1)
Nghĩa là:
Ngâm thơ cốt tựa thành tiên
Không thơ trong cốt chớ phiền ngâm thơ.
Khách lại nói:
- Văn chương của các bậc đại gia hầu hết
đều bình dị và xem đi xem lại vẫn không tìm thấy những ngấn vết dụng công. Như
Bạch Lạc Thiên là một.
- Đúng, nhưng không phải đúng hoàn
toàn. Bởi ngoài Bạch Cư Dị ra còn trăm ngàn đại gia khác. Huống nữa để đi
tới mức dung dị, họ Bạch phải tốn rất nhiều công phu. Ví dụ bài Tỳ Bà Hành, tác
giả phải sửa đi sửa lại không biết bao nhiêu lần. Một ông bạn đến xin bản nháp,
thi nhân kéo ra một cái rương đầy. Ông bạn đem so các bản nháp thì bản đầu và bản
cuối chỉ còn giống nhau đôi đoạn nhỏ mà thôi! Trong thơ Hương Sơn lại có câu:
(2)
Cựu cú thời thời cải
Vô phương duyệt tánh tình
Nghĩa là “câu cũ luôn luôn sửa chữa, nhưng không hại chi đến
tánh tình vui đẹp”.
Như thế chứng tỏ rằng Bạch Cư Dị làm thơ rất công phu. Chớ thấy
văn chương bình dị mà tưởng rằng không nhọc sức thôi xao.
Thơ Mạnh Hạo Nhiên, thơ Vương Duy cũng rất thanh giản, không
có một câu nào khúc mắc khó hiểu. Ai ngờ họ Mạnh khổ ngâm đến lông mày rụng hết,
còn họ Vương lo cấu tứ đến nỗi bước lầm vào vò dấm nơi sân! (3)
Trái lại, Lý Thái Bạch uống một chung rượu viết nghìn câu
thơ, Tô Đông Pha cười cợt giận mắng đều thành văn chương. Thế mà thơ họ Lý câu
nào cũng trác luyện, thơ họ Tô không dễ gì đọc một lần mà hiểu ngay! (4) mà đi
đến chỗ “hạ bút thành thơ, xuất khẩu thành thơ” như vậy đâu phải một mai một
chiều mà được. Phải dày công hàm dưỡng, dày công súc tích. Rồi một khi hứng đến
thì thi tình thi tứ… chứa sẵn trong tiềm thức liền theo hứng mà tuôn ra như nước
nguồn tuôn suối, chớ đâu phải ngẫu nhiên mà có được ý đẹp lời hay.
Lục Phóng Ong nói rằng:
- Văn chương vốn thiên
nhiên, hễ diệu thủ thì là ngẫu đắc (5)
Nói là “ngẫu đắc” (làm được thơ hay một cách tình cờ, một
cách tự nhiên chớ không dùng sức cấu tạo) là vì những tình ý chứa đựng trong
người tác giả lâu ngày mà tác giả không để ý, chợt xuất hiện một cách thình
lình tưởng chừng như khi không mà được.
Chữ “diệu thủ” trong câu nói của họ Lục chứng minh lời của
lão. Bởi làm thơ đến mức diệu thủ thì công uẩn nhưỡng tâm tư, công thôi xao từ
diệu, có phải ít ỏi gì đâu. Chính Lục Phóng Ong tu luyện đã đến mức xuất thần
nhập hóa như Lý Thái Bạch, Tô Đông Pha.
Nhiều người muốn bắt chước Bạch Lạc Thiên mà không hề biết đến
phương pháp làm việc của họ Bạch. Nhiều người muốn làm Lý Thái Bạch, Tô Đông
Pha mà không chịu tìm hiểu sở học, không chịu luyện đời sống nội tâm cho được
phong phú như họ Tô họ Lý. Như thế thì có khác gì cách làm tốt của nàng Đông
Thi.
Khách nói:
- Theo lời bàn luận nãy giờ,
dường như lão vườn không thích thơ tự nhiên bằng thơ khắc hoạch?
- Bất luận loại thơ nào, hễ
hay là lão thích. Nhưng chớ lầm lộn tự nhiên với nông nổi, hời hợt, dễ dãi, cầu
kỳ, dẫn điển mới lạ… là khắc hoạch.
Những bài thơ tự nhiên như bài sau đây của Phan Sào nam tiên
sinh:
CẢM TÁC
Buồn biết bao nhiêu tức biết bao
Trách chung chung phải tính làm sao
Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào…?
Hãy quyết ra tay chèo kéo lại
Để cho khắp mặt ngó trông vào.
Dòng thần con cháu hăm lăm triệu
Cũng mái đầu đen giọt máu đào.
Và những bài thơ khắc hoạch như bài tiên sinh khóc nhà chí sĩ Trương Gia Mô giận việc nước mà nhảy xuống núi tự tử:
Em muốn thăm anh chửa kịp vào
Đi đâu? Anh vội chán đời sao?
Lánh tần may có nguồn đào nữa
Tìm Tống e không mảnh đất nào!
Mây bạc nước non người vắng vẻ
Chim vàng mưa gió bạn lao xao!
Giang nam còn phú ai chăng nhớ?
Tiếng cuốc đầu ghềnh mấy đoạn đâu.
Bài trên tự nhiên mà hàm súc. Bài dưới khắc hoạch nhưng không
hề có ngấn rìu búa trong việc dụng công, không hề có dấu dao kéo trong việc dụng
điển. Thơ như thế là đã lên đến bậc thượng thừa.
Gặp được những bài thơ như hai bài trên thì lão đắm hồn trong
hương vị. Mà một khi hồn đã đắm thì còn phân tách sao được hương vị nào hơn
hương vị nào để có thể sanh lòng khinh trọng, trọng khinh.
Cho nên lực thơ cho Vườn Hoa, lão trải lòng đón tất cả những
phấn hương của các thi hữu vui lòng gởi tới.
Chú thích:
(1) Nhâm thi đây có nghĩa là làm thơ: Khổ ngâm, ngâm khách
(làm thơ khắc khổ, khách làm thơ).
(2) Hương Sơn là biệt hiệu của Bạch Cư Dị
(3) Theo Tùy Viên Thi Thoại.
(4) Trong Tùy Viên Thi Thoại có nói.
(5) Nguyên văn: Văn chương bổn thiên nhiên, diệu thủ ngẫu
đắc chi giã. (Lục Phóng Ong người đời Tống.)
Ngẫu đắc là tình cờ mà làm được câu hay.
4.
Nhờ câu chuyện THÔI XAO mà Giả Đảo được phần đông khách Hàn Mặc
Tử làm đại biểu cho phái ngâm thơ khắc khổ. Chớ trên thực tế còn nhiều người khổ
ngâm tưởng còn hơn Giả Đảo bội phần. Bởi Giả Đảo mới:
Lưỡng cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Nghĩa là:
Ba năm lòng gởi hai câu
Ngâm lên một tiếng lệ châu ướt đầm
Có người đến nỗi:
Ngâm thành ngũ cá tự
Dụng tận bán sanh tâm
Nghĩa là:
Đúc năm chữ thành thơ
Lòng nửa đời dụng trọn!
Hoặc:
Vị cầu nhất tự ổn
Nại đắc bán tiêu hàn
Nghĩa là:
Vì mong một chữ vừa lòng
Mà thân chịu nổi lạnh lùng nửa đêm.
ĐỖ PHỦ cũng là một khổ ngâm ông. Thấy Tử Mỹ (1) làm thơ khắc
khổ, Lý Thái Bạch chế diễu:
Phạn quả sơn đầu phùng Đỗ Phủ
Đầu đái lạp tử nhật trác ngọ
Tá vân nhân hà thái sấu sinh
Chỉ vị tòng lai tác thi khổ.
Nghĩa là:
Cơm đầu núi gặp chàng Đỗ Phủ
Nón lá kè che tủ nắng trưa.
Hỏi sao gầy gọ bơ phờ?
Chỉ vì kham khổ cùng thơ bấy chầy.
VIÊN TỬ TÀI, nhà thơ chú trọng tính linh, ngâm thi cũng rất
khổ khắc.
Trong Tùy Viên Thi Thoại có kể một câu chuyện Tử Tài làm một
bài thơ đi hạ một danh sĩ trùng phó quỳnh lâm (2). Bài thơ chỉ có bốn câu mà phải
thôi xao mất nửa tháng, và phải sửa đi sửa lại mất bảy lần! Người bạn là Tâm Du
xem bản thảo, công nhận rằng bản thứ 7 quả hơn bản thứ 5 thứ 6. Nhân đó Viên Tử
Tài có câu:
Sự trùng tru hối phương trưng hảo
Thi đáo năng trì chuyển thị tài.
Nghĩa là:
Việc biết hối rồi thường hóa tốt
Thơ nhờ xong chậm trở thành hay.
Làm thơ khổ như thế cho nên mới có những thành ngữ: “Điêu
trùng” là chạm trổ sâu bọ, “Âu tâm lũ cốt” là mửa lòng chạm xương, “điêu khắc
tâm tư”, “khắc hoạch tâm tư”… để nói việc làm thơ. Và có một bộ sách nói về
thơ lấy tên là “Văn tâm điêu long” (Lòng văn chạm rồng).
Có người hỏi lão:
- Trong làng thơ Việt Nam có
người nào như các thi nhân Trung Hoa đó chăng?
- Lão chỉ biết được hai
người là SÀO NAM tiên sinh và TẢN ĐÀ tiên sinh.
Phan tiên sinh tuyên bố trên báo Tiếng Dân rằng đã dùng nhiều
công phu nhiều tâm lực để thôi xao những vần thơ quốc âm đăng tải trên báo chí.
Nguyễn tiên sinh tự ví mình như con tằm rút ruột:
... Dâu xanh rút giả sợi tơ vàng
Thân thế con tằm những vấn vương
Tớ nghĩ thân tằm như phận tớ
Tơ tằm đói đoạn mối văn chương…
Bao nhiêu củi nước mới thành văn
Được bán văn ra chết mấy lần...
Năm 1932, Tiên sinh hứa sửa giùm cho lão mấy chữ đối không chỉnh
trong câu trạng bài thơ Tự Thuật được bình giảng trên mục Văn Đàn Giảng Luận của
tờ An Nam Tạp Chí:
Lúc hứng ngửa nghiêng trời đất rộng
Ngồi buồn xáo trộn cổ kim chơi.
Đến năm 1935, Tiên sinh viết thư vào cho biết rằng suốt ba
năm trời, những lúc rảnh thường nghĩ tìm chữ đối, nhưng không sao tìm được chữ
vừa lòng, nên đành giao hoàn nguyên tác.
Tản Đà tiên sinh vốn lấy văn chương làm sự nghiệp, thì phải
khổ cùng văn chương đã đành. Đến như Phan Sào Nam tiên sinh suốt đời
tận tụy cho Cách Mạng, và thường ngâm, từ lúc trẻ, câu thơ của Tùy Viên:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
Nghĩa là:
Ngon miệng bữa thường riêng trúc bạch
Lập thân hèn nhất dụng văn chương (3)
Mà cũng phải khổ vì văn chương, thì biết rằng văn chương có sức
hấp dẫn mãnh liệt đối với những người có tâm hồn, và một khi đã mắc vào thì suốt
đời phải mang lấy nghiệp.
Nhưng:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đành trách lẫn trời gần trời xa.
Chú thích:
(1) Đỗ Phủ tự Tử Mỹ hiệu Thiếu Lăng.
(2) Đậu tấn sĩ lần thứ hai.
(3) Trúc bạch là tre và lụa. Ngày xưa
chép sử vào tre và lụa. Câu của Tùy Viên, đại ý nói: Hàng ngày hễ bưng chén cơm
ăn thì lòng chỉ mong sao lập nên công trạng với nước non để nghìn thu danh được
lưu sử sách; còn như muốn xây sự nghiệp mà dùng văn chương thì đó là dùng một
phương tiện thấp hơn tất cả mọi phương tiện khác.
6- Móc điểm hương, mưa rửa phấn
Đọc câu thơ của Ôn Như hầu:
Gió lọt kẽ mành lưng gió dẹp
Trăng lồng cửa sổ mặt trăng vuông.
Một ông bạn khen là kỳ tứ. Lão đáp:
- Đó là Xảo chớ không phải
kỳ, và Khéo này lại thuộc hàng tiểu xảo. Cũng thuộc hàng tiểu xảo nhưng có phần
tự nhiên hơn là câu:
Ngọn nước chảy xuôi trời lật ngửa
Mảnh gương úp sấp đất nằm nghiêng.
Cả hai câu ấy đều phải nhượng câu này:
Sông e biển cạn bù thêm nước
Non sợ trời nghiêng đỡ lấy mây.
Bởi trong Xảo có hùng, trong sắc có vị.
Hai câu trên thuộc thể phú, tức trực trần, như nước chảy qua
sân, hết mưa hết nước. Câu dưới theo thể tỷ, mượn cảnh tả tình, trong ý gói ý,
nên người đọc mãi thấy dư thú khi đọc xong.
- Hai câu đó của ai?
- Nghe truyền là của Tuy
Lý Vương và Tùng Thiện Vương. Không biết câu nào của vị nào. Hỏi người trong
Hoàng tộc thì họ cũng như bọn tánh chúng ta.
Lại có người bảo rằng câu thơ của Ôn Như Hầu, nguyên tác là:
Gió lách kẽ mành lưng gió dẹp
Trăng dòm cửa sổ mặt trăng vuông.
Không ai dám quả quyết câu nào là nguyên tác. Vì mới ba lần
sao đã mất gốc rồi (tam sao thất bổn), huống hồ từ đời Ôn Như Hầu đến
nay, kẻ sao đi người sao lại biết mấy trăm mấy ngàn lần. Nhưng lão công nhận chữ
LÁCH chữ DÒM hơn hẳn chữ LỌT chữ LỒNG, vì hai chữ ấy giúp cho gió và
trăng được nhân cách hóa và làm cho hai chữ LƯNG và MẶT có cái thế đứng được vững
vàng.
Nhưng lại có người bảo rằng câu ấy vế trên là:
Gió dựa tường ngang lưng gió đẹp.
Chữ TƯỜNG NGANG đối với chữ CỬA SỔ.
Đối thì khéo đó, song lý không vững. Bởi gió không tựa được,
vì gió đi luôn luôn chớ không đứng không ngồi. Đã biết rằng “thi vô lý ngôn”,
song những gì vô lý người làm thơ nên tránh, bởi thơ quí chơn.
Nhân tiện lão xin nói về “Một chữ trong thơ”.
Trong một câu thơ, nhiều khi sửa một chữ làm tăng giá trị câu
thơ đến thập bội, lắm khi sửa một chữ làm cho câu thơ đương hay trở thành hết
hay hoặc kém hay. Trên gọi là điểm thiết thành vàng, dưới gọi là điểm vàng
thành thiết.
Điểm thiết thành vàng như LỒNG LỌT mà sửa là LÁCH DÒM. Và
như:
- Lạnh lẽo lưỡi quyên khi
dưới nguyệt
Thơm tho hồn điệp khoảng trong hoa
- Mưa giỏ sườn non câu kệ
vẳng
Gió hiu mặt nước bóng trăng lồng
Mà sửa là:
- Lạnh lẽo lưỡi quyên kêu
dưới nguyệt
Thơm tho hồn bướm ngủ trăng hoa.
- Mưa giỏ sườn non câu kệ
lẫn
Gió hiu mặt nước bóng trăng chồng (vô danh)
Những chữ KHI chữ KHOẢNG là những tử tự, tức chữ chết, Pháp gọi
là Poids mort. Chữ KÊU gọi là NGỦ, thay vào làm cho câu thơ trở nên linh động.
Những chữ VẲNG chữ LỒNG tả không đúng cảnh tượng lúc gió lúc mưa bằng CHỒNG và
LẪN.
Gặp được người sửa cho những chữ như thế, cổ nhân gọi là “nhất
tự sư” nghĩa là thầy một chữ. Và những chữ tinh diệu như thế, cổ
nhân gọi là “Hồng lô điểm tuyết” nghĩa là giọt tuyết trong lò lửa hồng.
Còn điểm vàng thành thiết, thì có thể dùng câu “Gió dựa tường
ngang…” làm ví dụ. Chỉ vì chữ SỔ mà dùng chữ NGANG để đối
cho thích chớ không nghĩ rằng há chỉ dựa tường ngang lưng gió mới đẹp hay sao?
Đọc cả cặp:
Gió tựa tường ngang lưng gió đẹp
Trăng dòm cửa sổ trăng vuông.
Lão liên tưởng đến câu:
Nguyệt ảnh phân minh tam Lý Bạch
Thủy quang đản dạng bách Đông Pha
Của một thi sĩ đời Thanh, và nghĩa là bóng nguyệt rõ ràng ba Lý
Bạch, sáng nước chói dợn trăm Đông Pha. Tùy Viên Phê là “Lộng xảo nhi phản chuyết”
tức là làm cho khéo quá hóa ra vụng. Có thể mượn câu của Tùy Viên để phê bình
câu của Ôn Như Hầu.
Điểm thiết thành vàng, trên đời rất hiếm. Nhưng điểm vàng
thành thiết là cái bệnh thông thường trên làng thơ xưa nay. Điển hình là vua Tự
Đức với quyển Đoạn Trường Tân Thanh của Tố Như.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, nhiều đoạn nhiều câu bị vua Tự Đức
sửa in như dung mạo của Chiêu Quân bị Diên Thọ sửa trong bức họa đồ dâng lên
Hán Vương.
Ví dụ:
Một mình lặng ngắm bóng nga
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
Nhà Vua sửa là:
Dăm dăm lặng ngắm bóng nga
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
(1)
Không biết tên tác giả.
Đã “dăm dăm” còn “lặng” dùng chữ đã vụng mà còn làm cho âm điệu
câu thơ đương du dương trở thành á trệ. Rõ là biến tiếng kim chung thành ra tiếng
ngõa phẫu!
Cớ sao trằn trọc canh khuya
Màu hoa lê đã dầm dề giọt mưa.
Sửa là:
Cớ sao sầu não ủ ê
Canh khuya dong bóng thức chi đến giờ
Câu nguyên tác đương thanh đổi thành trược mất! Cũng chưa tức
cười bằng chữa lời của Tú Bà dạy Kiều:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Sửa là:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Xem tranh bốn mắt ra về ba chân.
Nhưng rồi thấy tục quá mới đổi lại:
Đủ điều lịch sự mới mê được người.
Trước thì tục sau lại thật thà không ra giọng bà Tú.
Những đoạn lại sửa một vài câu như thế rất nhiều. Có lắm chỗ
sửa cả đoạn. Như đoạn Thúc Sinh được tin chú mất:
Đem tin thúc phụ từ đường
Bơ vơ lữ thẩn tha hương đề huề
Liêu dương cách trở sơn khê
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.
Chữa là:
Mở xem thủ bút nghiêm đường
Nhắn rằng thúc phụ xa đường mệnh chung
Hãy còn ký táng Liêu Đông
Cố hương khơi diễn nghìn trùng sơn khê
Rày đưa linh thẩn về quê
Thế nào con cũng phải về hộ tang.
Chữa như thế rõ ràng, dễ hiểu, song lời lẽ thật thà, đối với
văn chương truyện Kiều thì là áo hàng vá vải, trông không được đẹp mắt thích
lòng.
Không phải ở nước Việt Nam mới có người cậy mình hay chữ và
có quyền, cả gan sửa văn người như thế. Bên Trung Hoa cũng có người giống y vua
Dực Tông. Đó là Vương An Thạch đời Tống. Họ Vương đậu trạng nguyên làm quan đến
tể tướng. Tô Đông Pha khen là đọc hết sách trong thiên hạ. Thi của các danh gia
kim thường bị họ Vương sửa chữa.
Tận độc thiên hạ thư
Tận thức thiên hạ sự.
Lưu Oai đời Đường có câu:
Diêu tri dương liễu thị môn xứ
Tợ cách phù dung vô lộ thông
Nghĩa là: Đứng xa biết cây dương liễu ấy là nơi cửa ngõ,
nhưng vì cách khóm phù dung mà dường như không có nẻo thông.
Vương Kinh Công sửa:
Mạn mạn phù dung nan mích lộ
Tiêu tiêu dương liễu độc tri môn.
Nghĩa là: Mờ mờ cây phù dung khó tìm thấy đường, thẳm thẳm
khóm dương liễu riêng biết là có ngõ.
Lưu Cống Phủ đời Tống có câu:
Minh nhật biến châu thương hải khứ
Khước tùng vân lý vọng Bồng Lai.
Nghĩa là: Sáng ngày dong chiếc thuyền nhỏ đi trên biển xanh,
lại theo khoảng mây giăng mà trông núi Bồng Lai.
Kinh Công cải chữ “vân lý” làm “vân khí”.
Tô Tử Khanh cũng người đời Tống Vịnh Mai:
Chỉ ưng ba thị tuyết
Bất ngộ hữu hương lai
Nghĩa là: Riêng tưởng hoa ấy là tuyết, không ngờ có mùi hương
bay lại.
Kinh Công sửa lại:
Diêu tri bất thị tuyết
Vị hữu ám hương lai.
Nghĩa là: Đứng xa biết rằng không phải tuyết, vì có ám hương
bay đến.
Tác giả Tùy Viên Thi Thoại phê:
- Sửa thi như thế là đương
sống làm cho chết, đương linh làm cho ngốc.
(Hoạt giả tử hỷ, linh giả ngốc hỷ (Trích Tùy Viên Thi Thoại)
Lối “Điểm thiết thành vàng, điểm vàng thành thiết” đó, nói
theo ngôn ngữ kẽ giữ vườn là “Móc điểm hương, mưa rửa phấn”. Cũng như móc, mưa
vốn có ý tốt cùng hoa, ngờ đâu lại làm cho phấn lạt!.
Cho nên nhận được hoa thơ của bốn phương gởi đến, đôi khi thấy
đôi chữ chưa ổn, muốn sửa giùm cho tác giả, song ngần ngại không biết mình là
móc hay là mưa.
Nha Trang, tiết Lập Đông năm Canh Tuất 1970
Quách Tấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét